2 tháng 9 – Hãy thôi kèn trống nhộn nhạo ăn mừng!

2 tháng 9 – Hãy thôi kèn trống nhộn nhạo ăn mừng!

Song Chi

RFA

000_Hkg10206358-622.jpg

Nhà cầm quyền VN tưng bừng kỷ niệm 70 năm VN tuyên bố độc lập.

AFP

Vào ngày 9.8.2015 vừa qua Singapore đã long trọng kỷ niệm 50 năm ngày độc lập của đảo quốc này. Thực sự, chính phủ và người dân Singapore hoàn toàn có thể tự hào, vui sướng vì những gì mà họ đã đạt được. Chỉ sau 50 năm đối với một quốc gia nhỏ bé, thuộc địa cũ của Anh quốc, nay Singapore đã phát triển nhanh chóng trở thành một trong những quốc gia giàu có nhất thế giới, với những thành tựu nổi bật về kinh tế, giáo dục, y tế. Và mặc dù vẫn còn bị chỉ trích là một chính phủ độc tài, cũng như sự thiếu vắng về tự do ngôn luận và chính trị, nhưng ít nhất người dân Singapore đã và đang được sống trong một xã hội ấm no, thịnh vượng, thượng tôn pháp luật, chính phủ minh bạch. Đất nước này nhận được sự ngưỡng mộ của các nước, là một trong những biểu tượng hóa rồng nhanh chóng của khu vực và thế giới.

Sắp tới, có lẽ người Đức sẽ kỷ niệm 25 năm thống nhất đất nước (3.10.1990-3.10.2015) và họ cũng hoàn toàn có thể tự hào, hạnh phúc vì đã thống nhất không đổ máu, và vì Tây Đức không bị Đông Đức quyết tâm “giải phóng” bằng mọi giá nên khi cần thiết, người dân cả hai miền có cơ hội để so sánh và lựa chọn một thể chế tốt đẹp hơn. Sau 25 năm, người Đức đã nỗ lực rất nhiều để san bằng khoảng cách giữa hai miền Đông-Tây và nước Đức hiện nay là đầu tàu về kinh tế cũng như trong nhiều lĩnh vực khác ở châu Âu.

Đừng quên, Đức là nước đại bại trong chiến tranh thế giới lần thứ hai.

Một quốc gia khác cũng bị đại bại và phải chịu sự chiếm đóng của nước ngoài là Nhật Bản, nhưng từ sau chiến tranh, Nhật tập trung phát triển kinh tế, và chỉ đến cuối thập niên 60 của thế kỷ XX Nhật Bản đã hoàn thành công cuộc công nghiệp hóa, trở thành một nước tư bản phát triển. Nhắc đến Nhật là nhắc đến những thành tựu về kinh tế, đặc biệt về công nghiệp điện tử, kim khí, máy móc, xe hơi, hàng tiêu dùng… với những thương hiệu hàng đầu thế giới và đảm bảo uy tín về chất lượng; là nhắc đến những giá trị Nhật Bản không chỉ trong kinh tế mà cả về văn hóa, con người.

Kỷ niệm 70 năm chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, và sự thất bại của chủ nghĩa phát xít (9.1945-9.2015), vào thời điểm này, người Nhật có thể nhẹ nhàng, không mặc cảm khi nhìn lại quá khứ, không những thế, họ có quyền tự hào vì đã thay đổi hướng đi và đã từ đống tro tàn vươn mình đứng dậy.

Và còn nữa, những ví dụ khác của thế giới…

Chỉ mình đảng “tự sướng”?

Ngày 2.9 năm nay nhà cầm quyền VN cũng tưng bừng kỷ niệm 70 năm VN tuyên bố độc lập và được lãnh đạo bởi đảng cộng sản. Một chương trình kỷ niệm hoàng tráng và tốn kém đã được chuẩn bị tử trước đó mấy tháng. Tất nhiên, truyền thông nhà nước sẽ được chạy hết công suất để ca ngợi công ơn đảng và nhà nước, để nhắc đến những thành tựu của “thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử, thời đại Hồ Chí Mính” v.v và v.v…

000_Hkg10206480-400.jpg

Nhà cầm quyền VN tưng bừng kỷ niệm 70 năm VN tuyên bố độc lập. AFP PHOTO.

Thế nhưng có thật 90 triệu người dân cảm thấy tự hào, vui sướng hay chỉ mình đảng “tự sướng”?

Có gì đáng để vui mừng cho 70 năm của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa VN nếu nhìn sang những thành tựu của nhiều nước khác, với thời gian ngắn ngủi hơn?

VN hôm nay có thật là một quốc gia độc lập, tự do, hạnh phúc như câu nói luôn luôn xuất hiện trong mọi văn bản, giấy tờ của nhà nước?

Ngay từ đầu, đảng cộng sản đã chọn con đường giành độc lập bằng hình thức bạo lực cách mạng, sau này lại lựa chọn thống nhất đất nước bằng chiến tranh, giữ chính quyền bằng bạo lực và sự cai trị, bất chấp nhân tâm, sự lựa chọn đó đã dẫn đến quá nhiều đau thương, mất mát. Cuộc nội chiến 20 năm với hơn 3 triệu người đã ngã xuống, lẽ ra hoàn toàn có thể tránh được, tiếp đó lại chiến tranh biên giới với Trung Cộng, cuộc chiến với Campuchia…đã tàn phá đất nước, hủy hoại sinh lực của dân tộc VN. Bên cạnh đó là vô số những chính sách sai lầm về kinh tế, quản lý đất nước, sử dụng con người, đẩy đất nước thục lùi hàng chục, hàng trăm năm về nhiều mặt, hàng triệu người bỏ nước ra đi trong đó gần một nửa vĩnh viễn nằm lại dưới biển sâu, tạo nên một trong những cuộc di dân lớn nhất trong lịch sử VN và cả thế giới trong thế kỷ XX.

Cho đến tận hôm nay, VN vẫn bị kìm hãm không thể phát triển vì những cải cách nửa vời không triệt để, vì tầm nhìn hạn hẹp, vị kỷ, chỉ muốn bám chặt lấy quyền lực bằng mọi giá của đảng và nhà nước cộng sản.

Hậu quả VN ngày nay đứng ở đâu trên thế giới, đã đạt được những thành tựu gì, đóng góp được gì cho nhân loại, vị thế của VN và ngay cả của người Việt trong mắt bạn bè thế giới như thế nào… Đó là những câu hỏi không khó để trả lời.

Nhà nước cộng sản VN đã tự sướng, đã ngất ngây với những thành tích chiến thắng quá đủ và quá lâu rồi. Giờ là lúc hãy nhìn thẳng vào sự thật, để biết đau biết nhục vì sự thua kém về nhiều mặt của đất nước so với các nước khác, vì người dân mình đa số vẫn còn nghèo quá, khổ quá, vẫn còn phải chạy vạy kiếm ăn từng bữa và hàng triệu người khác đang tha hương tứ xứ đi làm thuê khắp thế giới trong lúc hàng chục, hàng trăm ngàn người khác nữa vẫn đang tiếp tục tìm mọi cách bỏ nước ra đi…

Dù ở thế kỷ XXI, những khái niệm về tự do, dân chủ, những quyền con người căn bản vẫn còn là xa xỉ với người Việt.

Cần sám hối thay vì dửng dưng trước thời cuộc

Chưa bao giờ nhà nước này biết sám hối, biết nói một câu hay có một hành động tỏ sự hối tiếc, ân hận cho những sai lầm, những tội ác mà họ đã gây ra cho đất nước này, dân tộc này.

Và không chỉ riêng đảng và nhà nước cộng sản VN phải sám hối.

Tất cả chúng ta, hơn 90 triệu người VN trong và ngoài nước cũng cần cảm thấy nhục, đau thay vì vui mừng, cần sám hối thay vì dửng dưng trước thời cuộc.

Tất cả những người dân miền Bắc thuộc thế hệ U90 cho tới U50 đã từng tin vào những lởi đảng cộng sản nói, đã từng góp phần vào xây dựng nên chế độ này, hãy sám hối, như những người đã nhận ra sự thật. Như tướng Trần Độ, nhà báo Bùi Tín, nhà văn Vũ Thư Hiên, nhà văn Dương Thu Hương, cựu lãnh sự VN tại Geneva Đặng Xương Hùng, nhà báo Lê Hiếu Đằng và nhiều, rất nhiều những người khác, như những lời tâm sự chân thành của hai anh em đảng viên đảng cộng sản Huỳnh Nhật Hải, Huỳnh Nhật Tấn trong bài “Phỏng vấn Huỳnh Nhật Hải, Huỳnh Nhật Tấn-Làm cách mạng không phải để dựng nên một nhà nước độc tài”, do tác giả Phạm Hồng Sơn thực hiện, đăng trên Talawas từ tháng 4.2012:

“…Phạm Hồng Sơn: Nếu được sống lại thời tuổi trẻ một lần nữa, các ông có tiếp tục ủng hộ và đi theo Việt Minh, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam hay ĐCSVN?

Huỳnh Nhật Hải: Không, không bao giờ.

Huỳnh Nhật Tấn: Tôi sẽ phải bình tĩnh hơn, tìm hiểu xem họ có ủng hộ và có tư tưởng dân chủ thực sự không, chứ không thể chỉ căn cứ vào lời nói và tuyên truyền của họ. Theo tôi, vấn đề dân chủ phải được đặt cao hơn vấn đề dân tộc vì chỉ có dân chủ mới giúp cho dân tộc được tự do đúng nghĩa và khi đó đất nước mới có nền độc lập bền vững.

….

Phạm Hồng Sơn: Nếu bây giờ vô tình hai ông gặp lại một người là cựu viên chức cũ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa và người đó chính là “kẻ thù” của ông trước 1975, điều trước tiên hai ông muốn nói là gì?

Huỳnh Nhật Tấn: Tôi có lỗi với dân tộc. Chính cái hăng hái, nhiệt huyết của tôi đã góp phần dựng nên chế độ độc tài hiện nay, đã vô tình đem lại sự đau khổ hiện nay. Và nếu xét về những căn bản để bảo đảm tự do cho nhân dân và độc lập cho dân tộc thì tôi cũng đã vô tình góp công sức đưa những người mang danh là “cách mạng” nhưng thực chất là vì quyền lực tới phá bỏ một chế độ đã được xây dựng trên những căn bản về tự do, dân chủ và nhân bản tại miền Nam Việt Nam.

Huỳnh Nhật Hải: Bây giờ nhìn lại, con đường chúng tôi đã đi trước 1975 là một con đường sai lầm. Sự nhiệt huyết lúc đó của chúng tôi đã đem lại bất hạnh hơn là hạnh phúc cho dân tộc.”

Không chỉ những thế hệ trước, tất cả những ai còn đang hưởng lợi lộc từ chế độ này nên quyết tâm bảo vệ chế độ đến cùng bất chấp lợi ích của đất nước, nhân dân. Những ai đến giờ này vẫn lợi dụng những kẻ hở của chế độ để đục khoét, vơ vét tài sản của đất nước, tiền thuế của nhân dân, làm giàu từ tham nhũng, từ những cung cách làm ăn bất chính, bất chấp những hậu quả thiệt hại nặng nề mà họ gây ra. Những ai cho đến giờ này vẫn ra sức bảo vệ, bưng bô chế độ, tiếp tục nói dối để lừa mị nhân dân.

Từ những công an viên, cánh tay đắc lực bảo vệ đảng, dựa vào đảng, vào nhà cầm quyền để tác yêu tác quái, xách nhiễu, hành hạ dân chúng, thậm chí bạo hành dân đến chết trong trại tạm giam, những dư luận viên ngày đêm ném đá, bôi nhọ, vu khống những người dám nói lên sự thật cho tới những “bồi bút”, “văn nô” ngày đêm sơn phết, tụng ca chế độ bất chấp lương tâm và lòng xấu hổ, những trí thức mũ ni che tai, trùm chăn với thời cuộc, tự cho mình là khôn ngoan, hoặc còn đang mải mê kiếm thêm danh lợi…

Vả phía bên thua cuộc, không chỉ những người tham gia vào cuộc chiến hay lớn lên ở miền Nam trước 1975 cần sám hối vì đã không thể giữ được miền Nam, dù biết rằng do những điều kiện khách quan, do bàn cờ thế cuộc được sắp xếp giữa các nước lớn, nhưng giá như hồi đó người miền Nam tỉnh táo hơn, quyết liệt hơn, thậm chí thủ đoạn hơn, cộng sản có lẽ đã không thể thắng. Và những con người vì ngây thơ chính trị hay vì nhẹ dạ, từng “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”, góp phần dẫn đến sư sụp đổ của VNCH…

Không chỉ họ, thế hệ hôm nay trong và ngoài nước, trong đó có tôi, có chúng ta, cần phải sám hối bởi vì dựng nên chế độ là trách nhiệm của các thế hệ trước, nhưng giúp cho chế độ tồn tại là trách nhiệm của thế hệ hôm nay. Chúng ta đã quá giỏi chịu đựng nên chế độ này mới tồn tại lâu đến thế.

Sám hối để quặn lòng đau cho đất nước, để xót thương cho dân mình, cũng là thương chính mình và con cháu mình.

VN còn là một “quốc gia khó phát triển, không chịu phát triển” cho đến bao giờ?

Song Chi

Tại sao Kitô Giáo phát triển nhanh tại Trung Hoa Cộng Sản?

Tại sao Kitô Giáo phát triển nhanh tại Trung Hoa Cộng Sản?

Vũ Văn An

(Viết theo “A Star in the East: The Rise of Christianity in China”)

Kitô giáo đang phát triển rất nhanh tại Trung Hoa Cộng Sản. Nguyên nhân rất có thể là vì đức tin phù hợp với kỹ thuật khoa học hiện đại.

Theo nhà xã hội học Rodney Stark, con số Kitô hữu tại Trung Hoa đang gia tăng ở mức 7% mỗi năm.

Rodney Stark và Xiuhua Wang là tác giả một cuốn sách xuất bản năm 2915 tựa là “A Star in the East: The Rise of Christianity in China” (Ngôi Sao Phương Đông: Sự Gia Tăng Kitô Giáo tại Trung Hoa). Stark tự coi mình là nhà sử học xã hội và hiện là đồng giám đốc của Viện Nghiên Cứu Tôn Giáo tại ĐH Baylor.

Hai tác giả trên ước tính rằng năm 1980, tại Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, chỉ có 10 triệu Kitô hữu, nhưng đến năm 2007, con số ấy là 60 triệu người, nghĩa là tính trung bình, mỗi năm sự gia tăng lên tới 7%. Như thế có nghĩa năm 2014, tổng số Kitô hữu tại Cộng Hòa này lên tới 100 triệu người.

Họ cho rằng sự gia tăng đáng kể trên do sự trở lại của những người được học hành nhiều hơn. Đây là lớp người đang cảm nghiệm một thứ bất tương hợp nào đó giữa nền văn hóa Á Châu cổ truyền và tính hiện đại trong lãnh vực khoa học kỹ thuật, một bất tương hợp đang tạo ra lỗ hổng tâm linh mà chỉ có Kitô Giáo mới lấp đầy.

Stark nói với hãng tin CNA ngày 14 tháng Tám vừa qua rằng các nhà trí thức Trung Hoa xác tín cao độ rằng họ phải hướng về Tây Phương mới có thể hiểu được thế giới họ đang sống… và họ xác tín rằng các tôn giáo Đông Phương không tương hợp với thế giới hiện đại, do đó họ cần hướng về Tây Phương để tìm triết lý và tôn giáo.

Theo Stark, các tôn giáo Đông Phương như Lão Giáo, Khổng Giáo và cả Phật Giáo nữa, đều phản tiến bộ; tất cả đều cho rằng thế giới đang đi xuống so với dĩ vãng vàng son, nên ta phải nhìn lại đàng sau, chứ không nhìn về đàng trước. Không tôn giáo nào trong số này thừa nhận rằng ta có khả năng hiểu được bất cứ điều gì đó về vũ trụ: vũ trụ này là một điều để ta chiêm niệm, chứ không phải là một điều để chúng ta thử nghiệm và lên lý thuyết về, vốn là việc thông thường của các nhà vật lý và hóa học. Quan điểm ấy không phù hợp với thế giới mà Trung Hoa hiện đại đang cảm nghiệm.

Stark tin rằng xã hội kỹ nghệ không có chỗ đứng thích hợp trong các quan điểm tôn giáo như trên. Và đây là động lực chính của việc Kitô giáo hóa Trung Hoa. Nó giải thích tại sao những người Trung Hoa có học nhất đã hăng say nhất trong việc gia nhập tôn giáo này.

Ông cũng cho rằng việc phát triển Kitô Giáo tại Trung Hoa sở dĩ đã diễn ra ngay cả thời kỳ bách hại dữ dằn nhất thời Cách Mạng Văn Hóa của Mao Trạch Đông, là vì “diễn trình trở lại này là một diễn trình vô hình; chính phủ không thể nhìn thấy nó”.

Theo Stark, việc trở lại đạo chủ yếu diễn ra nhờ các mạng lưới xã hội, nên nó vô hình đối với chính phủ. Ông cho rằng người Trung Hoa sống tại các khu vực nông thôn trở lại Kitô Giáo nhiều hơn người thị thành vì các nối kết xã hội của họ mạnh mẽ hơn, và nhờ thế, Kitô Giáo được truyền ở đó dễ dàng hơn.

Những cuộc gặp gỡ theo kiểu dựng lều của phong trào phục hưng (Revivalist tent meetings) không phải là cách ở đây, vì ở đây, người ta tụ tập cách thân mật hơn, âm thầm hơn.

Các nhà truyền giáo Công Giáo đã từng có mặt ở Trung Hoa từ thế kỷ 16, và tới năm 1949, khi Cộng Sản kiểm soát toàn bộ đất liền, số người Công Giáo là gần 3.3 triệu với hơn 5 nghìn nhà truyền giáo ngoại quốc. Nay con số ấy khoảng trên dưới 13 triệu người.

Chính phủ Cộng Sản trục xuất tất cả các nhà truyền giáo ngoại quốc và lập ra Hội Công Giáo Ái Quốc Trung Hoa, một thứ Giáo Hội Công Giáo do chính phủ kiểm soát. Giáo Hội này hiện hữu đối nghịch với Giáo Hội hầm trú hiệp thông với Tòa Thánh. Giáo Hội hầm trú này bị bách hại nặng nề và việc đề cử giám mục thường không được nhà cầm quyền Trung Hoa nhìn nhận.

Tuy nhiên, theo Stark, việc tấn phong giám mục phụ tá Joseph Zhang Yinlin ngày 4 tháng Tám vừa qua là tin quan trọng nhất, theo viễn tượng Công Giáo, phát xuất từ Trung Hoa trong nhiều năm qua.

Đức Cha Zhang được cả chính phủ Trung Hoa lẫn Tòa Thánh công nhận, một việc rất đáng chú ý, vì việc đề cử giám mục từng là phạm vi tranh chấp nổi bật nhất giữa đôi bên trong suốt 60 năm qua.

Stark cho rằng đây là một thỏa thuận rất lớn vì suốt từ năm 1950, nhà cầm quyền Trung Hoa vẫn bác bỏ sự dính líu của bất cứ tôn giáo nào có mối liên kết với ngoại bang. Ông cũng cho rằng người Thệ Phản dễ dàng chấp nhận chính sách này, nhưng người Công Giáo thì không. Đối với họ, không có chuyện bác bỏ Rôma được.

Stark nhắc lại vụ tấn phong giám mục đầy sóng gió cho Đức Cha Thaddeus Ma Daqin năm 2012: ngài vốn thuộc Hội Công Giáo Ái Quốc nhưng khi được tấn phong, đã long trọng tuyên bố từ bỏ Hội này, khiến bị giam tại nhà cho tới nay.

Dựa vào trường hợp trên, Stark cho rằng vì đã có sự thoả thuận giữa Bắc Kinh và Vatican về việc cử nhiệm Đức Cha Zhang, nên không còn lý do gì khiến người Công Giáo cứ tiếp tục hầm trú nữa. Ông cho rằng phần lớn người Công Giáo Trung Hoa, kể cả những người Công Giáo Ái Quốc, đều là những người Công Giáo đích thực, họ chỉ giả vờ “ái quốc” mà thôi.

Sự thay đổi trong ba năm nay, từ ngày tấn phong Đức Cha Ma tới ngày tấn phong Đức Cha Zhang, quả là lớn lao: “Tôi hết sức ngạc nhiên trước sự thay đổi này”.

Stark có phần thái quá khi cho rằng tại nhiều ngôi làng, các lãnh tụ Cộng Sản địa phương công khai tuyên xưng đức tin Kitô Giáo của mình bằng cách đặt Thánh Giá ở cửa ra vào, trên tường nhà. Ông cũng cho hay, tại các thành phố, Kitô hữu kín đáo hơn, nhưng rất đông con cái nam nữ của các viên chức Cộng Sản trở lại Kitô Giáo. Và nếu tới khuôn viên các đại học ưu tú, bạn sẽ hết sức ngạc nhiên trước hiện tượng các Kitô hữu cảm thấy như ở nhà, theo cách mà “bạn không thấy tại các cao đẳng Kitô giáo Hoa Kỳ”.

Thậm chí ông cho rằng có rất nhiều giáo sư Kitô Giáo, và Kitô Giáo mạnh nhất tại các đại học nơi các đảng viên tương lai của Đảng Cộng Sản theo học. Đây có thể là thành phần của điều đang xẩy ra ở hậu trường: càng ngày người ta càng cảm thấy khó chịu khi phải đẩy lui Kitô Giáo.

Tiếp tục triệt hạ thánh giá

Nhiều người nhắc tới sự kiện mới đây: Đài Truyền Hình Trung Hoa, hôm thứ Bẩy, 15 tháng Tám vừa qua, đã dành một chương trình đặc biệt về Đức Phanxicô khi tường thuật lời lẽ hiệp thông của ngài đối với thảm họa nổ hóa chất tại Thiên Tân khiến hơn 100 người chết và rất nhiều người bị thương.

Chương trình truyền hình trên cộng với việc tấn phong Đức Cha Zhang mới đây được nhiều người chào đón như một dấu chỉ tích cực. Tuy nhiên, không ai quên được sự kiện này: Chủ Tịch Trung Hoa, Xi Jinping, tiếp tục chính sách bài Kitô Giáo của ông ta: các lực lượng an ninh nhà nước đục bỏ thánh giá khỏi các tháp cao, vòng cung, mái nhà của gần 4,000 ngôi nhà thờ ở tỉnh Zhejiang.

Thành thử nhà báo John Allen cho rằng cần phải thận trọng trước sự cởi mở của Trung Hoa đối với Đức Phanxicô, không nên giải thích quá lạc quan đối với một câu truyện đã kéo dài cả 60 năm nay. Allen ngầm cho hiểu: đây có thể chỉ là chiến lược “lùi một bước tiến hai bước” cũ mèm của Trung Hoa.

Về việc Đài Truyền Hình Trung Hoa dành chương trình đặc biệt nói về Đức Phanxicô một cách có thiện cảm, theo Allen, chỉ là để phục vụ mục tiêu chính trị ngắn hạn chứ không hẳn để khai quang nẻo đường tiến tới bang giao trọn vẹn.

Mục tiêu ấy là cố gắng của Chủ Tịch Jinping trong việc làm tịt ngòi các chỉ trích nội bộ cho rằng vụ nổ là do luật lệ an toàn kỹ nghệ không thỏa đáng. Trong bối cảnh này, việc làm nổi lời hiệp thông đáng kính của các nhà lãnh đạo thế giới, nhất là của giáo hoàng, sẽ làm dân Trung Hoa tin rằng đây là việc làm của Ông Trời, chứ không hẳn do sơ xuất của con người.

Allen cho biết thêm rằng việc tấn phong Đức Cha Zhang cũng nhằm mục tiêu chính trị ngắn hạn, tức làm dịu sự chống đối của người Công Giáo tại Tỉnh Zhejiang trước việc các lực lượng an ninh chính phủ được huy động triệt hạ các thánh giá khỏi gần 4,000 nhà thờ.

Chứ nếu nới rộng gọng kìm kiểm soát tôn giáo, tại sao họ không trả tự do cho Đức Cha Ma Daqin bị giam đã hơn 3 năm qua?

Cho tới nay, vẫn còn ít nhất 2 vị giám mục Công Giáo khác và 6 vị linh mục đang ngồi tù tại Trung Hoa từ năm 1997. Mới tháng Hai vừa qua, thân nhân của Đức Cha Cosmas Shi Enxiang, 94 tuổi, được nhà cầm quyền thông báo là ngài đã qua đời. Đó là tin tức đầu tiên về vị giám mục này kể từ ngày ngài bị bắt cách nay 14 năm, đúng vào Thứ Sáu Tuần Thánh năm 2001; hết phân nửa thời gian này, ngài phải lao động khổ sai ở tuổi trên 80!

Chính vì thế, các chuyên gia lâu đời về tự do tôn giáo khó có thể vội kết luận rằng các dấu hiệu cởi mở trên có tính quyết định.

Riêng đối với Vatican, phương thức lâu nay vẫn là hướng về hòa giải với Bắc Kinh qua việc nhấn mạnh rằng: người ta có thể vừa là người Công Giáo tốt vừa là một công dân Trung Hoa hết dạ trung thành. Điều này có nghĩa tránh né bất cứ tuyên bố hay cử chỉ công khai nào xem ra khiêu khích và tìm đủ dịp để chứng tỏ thiện chí. Phương thức này có thể được coi như một phán đoán tốt, nhưng cũng có thể bị coi như một thiếu gân cốt, tùy theo quan điểm từng người. Dù sao, theo Allen, không nên vội vã ngả theo một trong hai suy đoán vừa kể.

Stark cũng tường trình về vụ triệt hạ thánh giá tại tỉnh Zhejiang nhưng lại cho rằng thứ bách hại có tính địa phương hóa này có thể vì người đứng đầu tỉnh ấy tỏ ra phẫn nộ trước việc nới lỏng tại các nơi khác.

Vũ Văn An

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

 

Tôn giáo và các Lớp Dậy Nghề Tại các Quận 6, 7, 8 Sài Gòn

Tôn  giáo  và  các  Lớp  Dậy  Nghề Tại  các  Quận  6,  7,  8  Sài  Gòn

Bài 2:

Hồi tưởng của Đoàn Thanh Liêm

*      *     *

Ngòai việc mở thêm 2 trường trung học cộng đồng ở quận 6 và 8, chúng tôi còn tìm cách giúp mở thêm nhiều lớp dậy nghề trong cả 3 quận 6,7 và 8. Các lớp dậy nghề này hầu hết là được tổ chức tại các chùa hay nhà thờ và do các vị tu sĩ và tín đồ chịu trách nhiệm chính yếu. Xin lần lượt ghi ra các địa điểm có tổ chức các lớp dậy nghề đó như sau.

1 – Tại Chùa Huê Lâm ở Khu Bùng Binh Cây Gõ – Quận 6

Ngôi chùa Huê Lâm tọa lạc tại góc đường Lục Tỉnh và đường Minh Phụng là một cơ sở tôn giáo rất nổi tiếng tại vùng Chợ Lớn. Sư Bà Thích Như Thanh là người rất có uy tín, nên được nhiều Phật tử khắp nơi đến theo học với Bà, tôn vinh Bà là vị Thày hướng dẫn cho mình về các mặt tu đức và hành đạo.

Tại đây, còn có ngôi trường Tiểu học lấy tên là Kiều Đàm dành cho con em các gia đình bình dân lao động trong khu vực. Và đặc biệt có những lớp dậy thêu đan dành cho các thiếu nữ. Tất cả các lớp học này đều miễn phí, học viên không phải trả tiền cho nhà trường.

Có vài lần, theo yêu cầu của Sư Cô Như Châu là người trực tiếp phụ trách các cơ sở giáo dục và huấn nghệ này, thì Chương Trình chúng tôi đi gõ cửa nơi cơ quan CARE để xin họ giúp cho lớp học vài máy thêu đan và máy may. Ban Giám đốc cơ quan này gửi người đến tận nơi xem xét và cuối cùng họ đã vui vẻ cấp phát máy móc đúng theo lời yêu cầu của nhà chùa.

Sư Bà Như Thanh đã viên tịch từ lâu. Và hiện tại, theo chỗ tôi biết, thì Sư Cô Như Châu là người kế vị Sư Bà tại ngôi chùa danh tiếng này.

2 – Tại nhà thờ Bình Đông, phường Rạch Cát, Quận 7.

Nhà thờ này tọa lạc trong một khu đất rộng nằm sát cây cầu hình chữ U bác qua Kinh Ngang số 3 từ phường Bình Đông qua phường Rạch Cát. Giáo xứ này chỉ có chừng vài ba trăm gia đình công giáo và do Linh mục Nguyễn Huy Chương phụ trách cai quản.

Tuy sức khỏe yếu kém, nhưng linh mục Chương cũng cố gắng mời được các chuyên viên kỹ sư từ Sài gòn đến giúp dậy về kỹ thuật sửa chữa radio/tv cho các học viên ở địa phương. Và do sự giao tế khôn khéo, ông đã đi xin được nhiều dụng cụ và máy móc cũ để cho các học viên thực tập. Vì thế, mà Chương Trình Phát Triển chúng tôi cũng không phải bận tâm lo lắng gì cho các lớp dậy nghề tại đây.

Sau năm 1975, linh mục Chương bị bắt giam và vào năm 1983 – 84, ông đã chết tại nhà tù có số hiệu là A20 ở Xuân Phước Tuy Hòa. Nhà báo Vũ Ánh cũng bị giam giữ tại đây khá lâu và có tường thuật lại vụ các tù nhân chính trị bỏ xác tại trại giam được gọi là Thung Lũng Tử Thần này.

3 – Tại chùa Đông Phước, Phường Bình Đông, Quận 7.

Chùa Đông Phước tọa lạc ở phía giữa cù lao Bình Đông, là một ngôi chùa lâu đời nhất tại vùng Chợ lớn. Nhìn qua mấy ngôi mộ sát bên hông chùa, ta có thể suy đóan được ngôi chùa này được tạo dựng đã trên 100 năm dưới thời Vua Tự Đức. Vì tình hình lọan lạc, nên rất đông bà con đã tụ tập về nơi đây từ lâu và cất nhà la liệt ngay trong khuôn viên nhà chùa – đến nỗi mà không còn cả cái hàng rào để ngăn cách ngôi chùa với khu nhà của dân chúng lân cận nữa. Thật đúng là chuyện “Cửa chùa rộng mở vậy”.

Vị sư trụ trì hồi thập niên 1960 – 80 là Thượng Tọa Thích Tắc Thành. Thày là người vui vẻ xởi lởi, nên được nhiều Phật tử yêu mến kính trọng, họ thường gọi ông bằng cái tên thân mật là Thày Mười.

Bắt đầu từ năm 1969 – 70, Thày Mười cho mở thêm một phòng phát thuốc và mấy lớp dạy may cắt cho các thiếu nữ tại địa phương. Cả hai cơ sở này đều được Nhóm Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội cung cấp thuốc men và máy móc, cho nên nhà chùa chỉ phải tìm chuyên viên may cắt đến chỉ dẫn cho các học viên mà thôi.

Sau năm 1975, thì tất cả mọi lớp huấn nghệ của các tổ chức tôn giáo như ở đây đều phải ngưng họat động. Và nhà nước cho cán bộ đến chở hết các máy móc thiết bị đi nơi khác.

Vào các năm 1985 – 86 trở đi, tôi hay có dịp đến thăm Thày Mười và lần nào Thày cũng đích thân pha một bình trà ngon ra để đãi tôi. Có lần Thày lại giữ tôi lại dùng cơm chay chung với Thày nữa. Thày nói : “Gần đây tại khu vực Chơ lớn, nhà nước cho mở nhiều nhà máy chuyên may quần áo để xuất khẩu. Nhờ vậy mà các học viên xưa kia theo học may cắt ở đây, thì bây giờ đều kiếm được việc làm tươm tất trong các xí nghiệp may xuất khẩu gần nhà. Thật là điều đáng mừng cho bà con ở xung quanh đây vậy đó…”

4 – Tại nhà thờ Bình An, Quận 8.

Nhà thờ Bình An tọa lạc trên bến Phạm Thế Hiển dọc theo con sông Kinh Đôi, phía bên kia cầu Nhị Thiên Đường. Đây là một giáo xứ với cả ngàn gia đình giáo dân do vị linh mục nổi danh là Hòang Quỳnh đưa dân di cư từ miền Bắc vào hồi 1954.

Vào năm 1969, chúng tôi xin với một cơ quan xã hội quốc tế để cấp cho giáo dân tại đây một dãy nhà tiền chế khung sắt, mái lợp tôle dài đến 30 mét để dùng làm một Trung Tâm Xã Hội. Người phụ trách điều khiển cơ sở này là linh mục Đinh Công Hùynh hồi đó mới có chừng 30 tuổi. Ông là người phụ tá cho linh mục Chánh Xứ Hòang Quỳnh đã ở vào tuổi 70. Sau 1975, cha Quỳnh bị bắt giam và đã chết tại nhà tù Chí Hòa.

Trung tâm này còn có cả một ký nhi viện và rất nhiều lớp dậy nghề. Các lớp dậy nghề ở đây phần lớn là nhằm dậy về cắt may, dậy cắm hoa dành riêng cho các thiếu nữ. Nhưng cũng có vài lớp dậy về đánh máy chữ, dậy tập võ và đặc biệt còn có lớp hướng dẫn dành riêng cho các em “bụi đời” nữa. Nhưng sau 1975, thì Trung Tâm bị đóng cửa.

Vào cuối thập niên 1970, vì lý do gặp nhiều phiền phức với nhà cầm quyền cộng sản, nên linh mục Hùynh đã phải tìm cách xuống tàu vượt biên và hiện đang là cha xứ coi sóc một họ đạo có nhiều giáo dân người Việt tại thành phố Philadelphia.

5 – Các lớp nữ công gia chánh lưu động ở Quận 6 và 8.

Ngòai các lớp dậy nghề tại các chùa, các nhà thờ như đã ghi trên đây, thì chúng tôi còn mở các lớp gia chánh lưu động tại Quận 6 và Quận 8. Các lớp này lại cũng được các giảng viên do Nữ tu Nicole trong tu viện Regina Pacis giới thiệu đến giảng dậy. Vì lớp học được tổ chức vào ban tối tại các trường học ở địa phương, nên chương trình chúng tôi phải kiếm xe lam để đưa đón các cô giáo đến giảng dậy mỗi ngày trong tuần. Thành ra, dù lớp học do chúng tôi tổ chức, thì rút cục vẫn phải nhờ cậy đến vị nữ tu công giáo này mới có thể duy trì lâu dài trong nhiều khóa học được.

Nhân tiện, tôi cũng xin nói qua về vài lớp học chuyên hướng dẫn về kỹ thuật sửa mày thủy động cơ do chúng tôi tổ chức tại Quận 8 vào năm 1966. Các lớp này do kỹ sư người Nhật từ đại lý hãng Kubota gửi đến giúp đỡ chúng tôi – lý do là vì bà con ở địa phương hay dùng các lọai máy chạy tàu, chạy ghe, nhất là máy đuôi tôm, nên đã yêu cầu chương trình phát triển làm sao mở được các lớp đặc biệt như vậy.

6 – Để tóm tắt lại.

Trong mấy năm họat động tại địa phương các quận 6,7 và 8 Sài gòn, chương trình phát triển chúng tôi đã có dịp hợp tác với các tổ chức tôn giáo để góp phần xây dựng cộng đồng về nhiều phương diện. Và đặc biệt trong lãnh vực huấn nghệ để đào tạo những công nhân có tay nghề vững chắc, đủ khả năng đảm nhận một công việc chuyên môn trong các công ty xí nghiệp – thì tại các chùa, các nhà thờ, giới tu sĩ và tín đồ đều tham gia hết sức phấn khởi tận tình trong việc tổ chức và điều hành những lớp học nghề – như đã ghi chi tiết ở trên.

Sự kiện đó chứng tỏ rằng : “Tôn giáo ở nước ta vẫn còn có thể đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc phục vụ xã hội ngay tại các cơ sở hạ tầng (at the grassroots)”.

Rất tiếc rằng, từ khi nắm giữ được chính quyền trong tay, người cộng sản quá khích cuồng tín đã dẹp bỏ tòan thể những cơ sở y tế, xã hội, giáo dục và văn hóa do các tôn giáo tự nguyện hy sinh đảm trách. Quả thật, đó là một sự phí phạm quá lớn lao về tiềm năng chung của dân tộc và cũng là điều thiệt thòi không có gì bù đắp nổi cho các tầng lớp nhân dân sinh sống tại những khu vực nghèo túng nữa vậy./

Costa Mesa California, Tháng Chín 2015

Đoàn Thanh Liêm

Do đâu tiền Đồng liên tục mất giá?

Do đâu tiền Đồng liên tục mất giá?

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2015-09-01

09012015-y-vn-curren-to-be-devalua-forever.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Nhân viên ngân hàng chuẩn bị tiền cho khách hàng

Nhân viên ngân hàng chuẩn bị tiền cho khách hàng

AFP

Đồng tiền Việt Nam mất giá liên tục trong ba thập niên qua và chưa bao giờ lên giá trở lại so với đồng đô la, cũng như các ngoại tệ mạnh khác. Sự mất giá không ngừng này mang ý nghĩa gì và lý giải như thế nào.

Kinh tế chưa ổn định

Trong vòng 7 năm từ 2008 đến nay đồng tiền Việt Nam mất giá 30% so với đồng đô la Mỹ, đó là khoảng thời gian gần đây nhất. Xa hơn trong quá khứ, ngày 15/9/1985 một ngày sau khi Nhà nước thực hiện đổi tiền lần thứ 6, tỷ giá chính thức 1 USD đổi được 15 đồng Việt Nam. Nhưng tiền đồng rớt giá rất nhanh, chỉ một năm sau, năm 1986 tỷ giá tăng 10 lần lên 150 đồng/USD; năm 1987 là 550đ/USD; đến 1990 là 7.500đ/USD.  Nếu tính từ ngày 15/9/1985 đến ngày 31/8/2015 thì trong vòng 30 năm tiền đồng Việt Nam mất giá khủng khiếp, từ mức 15 đồng ăn 1 USD đã tăng lên 22.500 đồng/1 USD.

Thái Lan là nước láng giềng của Việt Nam cũng có đồng Baht có lúc bị mất giá, tuy vậy sau giai đoạn khủng hoảng đồng Baht lại có giá trở lại và ổn định. Thí dụ vào tháng 1/1998 khi cuộc khủng hoảng tài chính lên tới cao độ, 1 USD đổi được 55 baht, nhưng hiện nay đồng Baht Thái xê xích trong khoảng từ 32 tới 35 Baht đổi một USD.

Giải thích về tình trạng đồng tiền Việt Nam cứ liên tục mất giá chứ chưa bao giờ tăng giá trở lại, TS Lê Xuân Nghĩa nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia từ Hà Nội phát biểu:

“Thật ra nếu Việt Nam cũng làm như Thái Lan nghĩa là thả nổi đồng tiền thì chắc là có lúc lên có lúc xuống. Nhưng chúng ta chưa thả nổi tiền tệ và có khuynh hướng là đồng tiền cứ mất giá dần. Thứ hai nữa lạm phát của Thái Lan thấp hơn Việt Nam rất nhiều. Việt Nam thỉnh thoảng lại gặp một cú sốc lạm phát rất là lớn, cuối cùng đồng tiền Việt Nam mất giá rất là xa so với những đồng tiền mạnh khác. Cái này nó phải có một thời kỳ ổn định kinh tế vĩ mô tương đối dài hạn thì mới tránh được chuyện đồng tiền của mình lúc nào cũng giảm giá so với các đồng tiền lớn.”

“ Nguyên nhân xuất phát của nó là tình trạng kinh tế, là vì kinh tế VN chưa ổn định, các nhu cầu đầu tư là rất lớn cho nên thu nhập quốc dân không nhiều. Sau đó là tình hình vay nợ rất cao. Nợ công rất là lớn mà trong tình trạng thu không đủ chi…

Giáo sư Tiến sĩ Vũ Văn Hóa”

Trả lời chúng tôi vào tối 31/8/2015, Giáo sư Tiến sĩ Vũ Văn Hóa phó Hiệu trưởng Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội trình bày cách nhìn của ông đối với việc đồng tiền Việt Nam cứ liên tục đi xuống mãi.

“ Nguyên nhân xuất phát của nó là tình trạng kinh tế, là vì kinh tế Việt Nam chưa ổn định, các nhu cầu đầu tư là rất lớn cho nên thu nhập quốc dân không nhiều. Sau đó là tình hình vay nợ rất cao. Nợ công rất là lớn mà trong tình trạng thu không đủ chi, tình hình Việt Nam trong thời gian vừa qua bấp bênh như vậy cho nên nó thể hiện ra bên ngoài bằng cái giá cả tiền tệ. Về thực chất thì vẫn là thu chi tài chính thôi.”

Ảnh chụp vào ngày 27 Tháng 6 năm 2015 một người nông dân ở một cánh đồng lúa ở Hội An, Quảng Nam một tỉnh miền trung của Việt Nam.

Ảnh chụp vào ngày 27 Tháng 6 năm 2015 một người nông dân ở một cánh đồng lúa ở Hội An, Quảng Nam một tỉnh miền trung của Việt Nam.

Đồng tiền Việt Nam được định giá dựa trên cơ sở nào khi mà thực lực nền kinh tế rất yếu, dự trữ ngoại tệ không bao nhiêu. Giáo sư Tiến sĩ Vũ Văn Hóa tiếp lời:

“ Bất cứ một nước nào thì đồng tiền đều phải được định giá bằng cơ sở kinh tế của nước đó, thu nhập quốc dân của nó là bao nhiêu và cân đối với số lượng tiền phát hành. Thế thì thu nhập quốc dân của Việt Nam trên dưới 100 tỷ đô một năm, rất là thấp trong khi lượng tiền phát hành ra ngày một gia tăng. Cái đó là định giá căn bản về kinh tế, định giá của nó là cơ sở thấp mà khối lượng tiền tệ cao thì giá trị tiền tệ phải giảm. Đó là nguyên lý thông thường…”

Đáp câu hỏi, phải chăng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mang hàm ý không có nền kinh tế thị trường thực chất, chính là một rào cản phát triển đối với Việt Nam mà đồng tiền mất giá liên tục là hệ quả. Giáo sư Tiến sĩ Vũ Văn Hóa nhận định:

“Mặc dù 70% dân số sống trong khu vực nông thôn, nhưng nền nông nghiệp lạc hậu không thể cạnh tranh với các nước như Thái Lan chẳng hạn. Phải có một cuộc cải cách với cái đích, nông nghiệp phát bền vững với năng suất cao và có những sản phẩm độc đáo ở trên thị trường”

“Bây giờ cứ nói định hướng xã hội chủ nghĩa chứ thực ra nó không có cái định hướng nào cả, nó là câu nói cửa miệng quen rồi. Định hướng xã hội chủ nghĩa thì nó phải có cái đích của nó chứ, định hướng như thế nào. Tất cả những vấn đề đó tôi cho rằng cần phải xem xét, cần phải sửa đổi lại.”

Nông nghiệp lạc hậu

Giáo sư Tiến sĩ Vũ Văn Hóa đề cập tới nhu cầu cải cách rất lớn ở Việt Nam, theo lời ông mặc dù 70% dân số sống trong khu vực nông thôn, nhưng nền nông nghiệp lạc hậu không thể cạnh tranh với các nước như Thái Lan chẳng hạn. Phải có một cuộc cải cách với cái đích, nông nghiệp phát bền vững với năng suất cao và có những sản phẩm độc đáo ở trên thị trường.

Đối với ngành công nghiệp dệt may, da giày là những ngành xuất khẩu quan trọng, theo GSTS Vũ Văn Hóa hiện nay đứng trên tổng gía trị hàng hóa xuất khẩu thì là lớn, nhưng tiền lãi trong đó thì không cao và đây là thực tế đáng buồn của Việt Nam. Bởi vì công nghiệp phụ trợ chưa có gì, xuất khẩu rất nhiều nhưng chỉ gia công là chính, từ cây kim sợi chỉ cũng phải nhập của nước ngoài.

Khi nêu ra những nhược điểm của nền kinh tế Việt Nam, GSTS Vũ Văn Hóa đã dẫn chứng tình trạng thực lực nền kinh tế yếu kém, là nguyên nhân chính của việc đồng tiền Việt Nam mất giá từ năm này qua năm khác.

Vũng Lầy Giáo Dục

Vũng Lầy Giáo Dục

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

RFA

Với một nền giáo dục quá thừa phong bì nhưng lại thiếu phong cách, quá thừa nhà quản lý, nhà tiến sĩ nhưng lại thiếu một nhà liêm sỉ. Điều đó quả thực đáng lo ngại đối với bậc làm cha làm mẹ luôn đau đáu về tương lai của con mình.

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam

Lá vẫn còn xanh. Hè vẫn còn nấn ná. Trời vẫn chưa muốn vào thu mà (không dưng) sáng nay California chợt thoáng chút âm u, và lấm tấm vài hạt mưa nho nhỏ. Mưa chưa ướt đất nhưng cũng đủ làm cho tôi hơi thấy ngại ngần khi nghĩ đến chuyện phải ra khỏi nhà chỉ vì một ly cà phê nóng.

Thôi thì bắt chước cổ nhân thắp vài cây nến nhỏ, châm một bình trà, rồi ngồi nhẩn nha đọc lại vài bức thư xưa. Lá thư cũ nhất mà tôi còn giữ được, đề ngày 3 tháng 9 năm 1945, là “Thư Gửi Các Cháu Học Sinh” của Chủ Tịch Hồ Chí Minh:

Ngày hôm nay là ngày khai trường đầu tiên ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bác đã tưởng tượng thấy trước mắt cái cảnh nhộn nhịp tưng bừng của ngày tựu trường ở khắp các nơi. Các cháu hết thảy đều vui vẻ vì sau mấy tháng trời nghỉ học, sau bao nhiêu cuộc chuyển biến khác thường, các cháu lại được gặp thầy gặp bạn. Nhưng sung sướng hơn nữa, từ giờ phút này trở đi các cháu bắt đầu được nhận một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam.

Viễn ảnh về một ngày tựu trường “nhộn nhịp tưng bừng … ở khắp các nơi” và một “nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam” dễ khiến cho nhiều người phấn trấn:

“Chúng tôi thường tự hào đây là một nền giáo dục riêng của người Việt, một nền giáo dục không có dây dưa gì nhiều với nền giáo dục mà thế kỷ trước, người Pháp đã mang lại.” (Vương Trí Nhàn. “Mấy Cảm Nhận Về Sự Khác Biệt Giữa Giáo Dục Miền Nam Và Giáo Dục Miền Bắc”).

Niềm tự hào này, tiếc thay, không kéo dài lâu. Khi có cơ hội so chiếu, tác giả bài viết thượng dẫn đã nhìn ra ngay sự bất toàn:

“Cái mà ta gọi là giáo dục miền Bắc chỉ là sự kéo dài của lối phát triển giáo dục trong chiến tranh… Giáo dục chiến tranh, do dó, luôn luôn là một nền giáo dục dở dang chắp vá, mà lại vẫn phải khoác cho mình cái chức danh lớn lao của một nền giáo dục mới mẻ, cách mạng…

Nói quá lên thì có thể bảo, như một cơ thể, GDMB thuộc loại tiên thiên bất túc, tức sinh ra đã không đủ các bộ phận cần thiết, sinh ra đã bất thành nhân dạng. Phương châm ở đây là làm lấy được, tức là chưa đủ điều kiện, nhưng thấy cần, vẫn cứ làm —  rồi để yên lòng nhau, sẽ viện ra đủ lý lẽ để chống chế, để lấp liếm và xa hơn nữa, sẵn sàng tự ca tụng…”

Hệ quả, tất nhiên, là thảm hoạ – vẫn theo như nhận định của  Vương Trí Nhàn:

“Mươi năm gần đây, tình hình có chút đổi khác, nhưng là chỉ đổi khác trên bề mặt. Cựa quậy mấy thì nền giáo dục này cũng không khác được so với chính mình. Nó đã cạn kiệt năng lực tự cải hóa. Ngay cả những người trong bộ máy quyền lực cũng đều tính chuyện cho con em mình qua nhiểu nước phương Tây, nhất là sang Mỹ để học.

Nhưng họ chỉ lo được cho gia đình riêng của họ thôi. Ở trong nước, những bài bản của miền Bắc cũ được tân trang lại chút ít vẫn ngự trị trong toàn bộ nền giáo dục, và trong thâm tâm, nhiều người đã bắt đầu nghĩ rằng hình như có một bãi lầy đã được tạo ra và chúng ta không bao giờ ra thoát.”

Cậu bé Vũ Thạch Tường Minh – 14 tuổi, học sinh trường Hà Nội –

Amsterdam phát biểu tại buổi ra mắt sách của nhóm Cánh Buồm.

Ảnh và chú thích: RFA

Đối với những thế hệ đến sau (những kẻ sinh trưởng ngay giữa “bãi lầy”) thì vấn đề không còn gì để mà bàn cãi nữa. Vũ Thạch Tường Minh, một học sinh lớp 8, đã khẳng định như vậy:

“Bây giờ giáo dục Việt Nam con thấy là, con không có tính từ nào khác nên con phải dùng tính từ này, là giáo dục Việt Nam bây giờ con thấy là quá ‘thối nát’ rồi. Mà suốt bao năm qua các vị cải đi, cải lại, cải tiến, cải lùi mà nó vẫn không thay đổi được kết quả gì cả.”

Khoảng cách giữa nhà nghiên cứu văn học Vương Trí Nhàn và cháu Vũ Thạch Tường Minh là ba thế hệ người. Tuy vậy, cả hai đều “nhất trí” là nền giáo dục hiện nay của nước CHXHCNVN (đã) hết thuốc chữa rồi!

Để minh chứng, xin xem qua một “trường hợp thú vị” – ở một vùng quê, thuộc tỉnh Rạch Giá – theo như nguyên văn lời của giáo sư Nguyễn Văn Tuấn:

“Một em gốc Khmer học giỏi, thi đậu vào 3 trường đại học (2 đại học ở Sài Gòn và 1 ở ĐH Cần Thơ), nhưng cuối cùng thì giấc mơ đại học cũng đành phải bỏ. Ba má em ấy lí giải rằng: học để làm gì, nhìn quanh số sinh viên tốt nghiệp đại học thất nghiệp tùm lum cả, mà ngay cả xin được việc thì cũng cần đến 500 triệu đồng đút lót thì làm sao nhà có khả năng lo nổi. Tôi kinh ngạc về con số 500 triệu đồng (tức là 25000 đôla), nên phải hỏi lại cho chắc ăn, thì bà con đều khẳng định đó là con số tiêu biểu, có trường hợp thấp hơn nhưng cũng có trường hợp cao hơn. Tình trạng mua chức đâu phải chỉ ở ngoài Bắc, mà đang lan về nông thôn miền Tây rồi đấy.”

Mọi tệ trạng vừa nêu đang được Đảng và Nhà Nước “đối phó” hay “giải quyết” bằng … chỉ thị! Báo Nhân Dân loan tin: Ngày 24-3-2015, Ban Bí Thư T.Ư Ðảng ra Chỉ thị số 42-CT/TW (Tăng Cường Sự Lãnh Đạo Của Ðảng Đối Với Công Tác Giáo Dục Lý Tưởng Cách Mạng, Đạo Đức, Lối Sống Văn Hóa Cho Thế Hệ Trẻ Giai Đoạn 2015 – 2030) với những nhận định và “đề xuất rất cụ thể” như:

“Vai trò, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong chăm lo, giáo dục thế hệ trẻ chưa được như mong muốn, chưa đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn hiện nay. Một bộ phận giới trẻ giảm sút niềm tin, thiếu ý thức chấp hành pháp luật, sống thực dụng, thiếu lý tưởng, xa rời truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Một số ít thanh niên bị các thế lực thù địch lôi kéo, kích động chống sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta. Tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội trong giới trẻ diễn biến phức tạp.

Chỉ thị của Ban Bí thư đưa ra 5 nhiệm vụ và giải pháp, trong đó xác định việc giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức và lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ là nhiệm vụ chiến lược, lâu dài và cần đầu tư thích đáng. Đảng  kêu gọi việc thực hiện học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống trong một bộ phận đảng viên để làm gương cho giới trẻ…”

Sự thực thì thiên hạ không còn ai kỳ vọng hoặc quan tâm gì ráo vào bất cứ lời “kêu gọi” (hay “chỉ thị ”) nào của Đảng tự lâu rồi. Người dân tìm cách tự cứu qua nhiều nỗ lực rất đáng trân trọng, dù gặp không ít khó khăn, ngăn trở và sách nhiễu.

Từ Bangkok, biên tập viên Gia Minh có bài tường thuật (“Nhóm Cánh Buồm Ra Mắt Sách Giáo Khoa Mới”) khá bất ngờ và thú vị. Xin trích dẫn một vài đoạn ngắn:

Nhóm soạn sách giáo khoa Cánh Buồm do nhà giáo Phạm Toàn chủ xướng vào ngày 12 tháng 8 vừa qua giới thiệu bộ sách Văn và Tiếng Việt lớp sáu tại Trung tâm Văn Hóa Pháp ở Hà Nội.

Việc ra mắt sách mới của Nhóm Cánh Buồm không thuộc Bộ Giáo Dục như thế được cho là một dấu chỉ tích cực trong tình hình giáo dục Việt Nam hiện nay….

Một buổi tọa đàm về sách giáo khoa tại Trung tâm Văn hoá Pháp (Hà Nội). Từ trái sang: nhà giáo Phạm Toàn, Thạc sĩ Nguyễn Thị Thanh Hải, nhà giáo Vũ Thế Khôi, điều khiển phần thảo luận và TS Chu Hảo, GĐ NXB Tri thức, nơi xuất bản SGK Cánh Buồm. Ảnh var chú thích: RFA

Một nhà giáo công khai đấu tranh chống những tiêu cực trong ngành giáo dục Việt Nam lâu nay, thầy Đỗ Việt Khoa cũng tỏ rõ sự ủng hộ đối với sách giáo khoa do Nhóm Cánh Buồn soạn thảo:

“Đây là nhóm khá tâm huyết đang soạn bộ sách giáo khoa cho liên cấp từ tiểu học trở lên. Theo quan điểm của tôi làm được một bộ sách giáo khoa như vậy là công sức cực kỳ lớn, rất tốt. Sẽ có những chỗ chưa được, có người sẽ đánh giá khiếm khuyết… nhưng sửa dần không sao cả…”

Ngoài việc biên soạn bộ sách giáo khoa mới để giảng dạy, Nhóm Cánh Buồm còn có chủ trương về một hình thái nhà trường mới như trình bày của nhà giáo Phạm Toàn:

“Tôi muốn sau này mình sẽ phục vụ cho một hệ thống trường của trẻ em Việt Nam mà chúng tôi gọi là ‘trường ba không’: không hộ khẩu- muốn học đâu thì học; không học phí- tức không phải nộp một xu nào ( không như các trường tư phải nộp nhiều tiền lắm, mình phải chịu); thứ ba là không ‘bắt nạt’- tức không thi cử, không kiểm tra, không đánh số, làm các thứ bắt chẹt các em, bởi vì hệ thống của chúng tôi là tìm ra cơ chế tự học cho các em, mà đã là tự học thì tự đánh giá thì suốt tiểu học là tự học và tự đánh giá, lên đến lớp 6 chúng tôi đề xuất hoàn toàn tự học.

Cùng vào thời điểm này, một công dân Việt Nam khác (ông Hoàng Thành , 25 tuổi) đã đến trước cổng trụ sở Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, cầm ảnh của chính mình – với poster in hình con chuột bạch đang bị tiêm thuốc – cùng dòng chữ: “Học sinh, sinh viên không phải là CHUỘT BẠCH.”

Khi được hỏi về “ý nghĩa” của việc làm này, ông cho biết như sau:.

“Bức ảnh của tôi đơn thuần là một hình thức thực hiện quyền biểu đạt ý kiến của mình. Tôi chỉ muốn nhắn tới các bậc cha mẹ và các em học sinh … rằng: Hãy thể hiện quan điểm của mình trước các vấn đề xã hội, thay vì chỉ biết kêu than, vì đó không những là quyền của chúng ta, mà còn là cách chúng ta giúp chính quyền hiểu được nhu cầu của dân chúng và hoàn thiện chính sách sao cho hợp lý nhất…”

Ảnh: Dân Luận

Ở bình diện cá nhân, cũng như tập thể – rõ ràng – đang có những nỗ lực đáng kể của rất nhiều người để vượt ra khỏi cái “vũng lầy giáo dục” hiện nay. Với ý thức và quyết tâm, chắc chắn, chúng ta sẽ “thoát” bất chấp sự ngăn trở (cùng sức ì) của chế độ hiện hành – một chế độ mà mọi người đều biết là sinh mệnh của nó đang được đo đếm từng ngày.

MỘT LỜI CẢNH BÁO ĐÁNG SUY TƯ

MỘT LỜI CẢNH BÁO ĐÁNG SUY TƯ

(Đặng Tự Do)

Trên tờ Records của giáo phận Perth, Australia, có đăng lời tâm sự của một cựu linh mục, một nhà thần học sau gần 20 năm trong thiên chức linh mục, nay đã hoàn tục. Bài tâm sự này là một lời cảnh báo cho tất cả chúng ta không nuôi dưỡng đời sống cầu nguyện hằng ngày.

“Không có gì tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa, trong Đức Kitô. Tôi xác quyết rằng dù sống hay dù chết, dù tù đày, bắt bớ, dù khốn cùng, quẫn bách. Không có gì tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa, trong Đức Kitô”.

Tôi đã nhiều lần gân cổ, mặt đanh lại khi hát những câu hát trên. Cứ tưởng như là chỉ cần gào to lên như vậy thì tôi sẽ đời đời sống trong lòng mến của Thiên Chúa. Thật ra, cũng không hoàn toàn là vô lý. Thật sự, đúng là tù đày, bắt bớ, khốn cùng, quẫn bách đã không tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa. Nhưng, đơn giản là vì những thứ ấy không xảy ra trên đất nước tự do này. Ai dám bỏ tù tôi, ai dám kỳ thị tôi, ngược đãi tôi vì tôi là người Công giáo, tôi kiện họ lên tới Tối Cao Pháp Viện chứ chơi à.

Tuy nhiên, đã có một thứ nhẹ nhàng hơn, êm ái hơn đã không chỉ tách tôi mà thực sự là “bứng” tôi hoàn toàn khỏi lòng mến của Thiên Chúa: một đời sống bận rộn và thiếu sự cầu nguyện.

Năm 1972, sau khi tốt nghiệp tiến sĩ thần học ở Rôma, tôi đã nổi như cồn với tác phẩm đầu tay “Tiếng thở dài”. Cuốn sách trình bày những suy tư thần học về ý nghĩa của sự đau khổ trong kiếp nhân sinh này, đã được bề trên, các linh mục và anh chị em giáo dân đón nhận nhiệt liệt. Có những người viết thư cho tôi cho biết họ tìm lại được đức tin sau khi đọc cuốn sách đó. Họ tìm lại được lòng trông cậy vào Chúa và khen nức nở các ý kiến của tôi. Mỗi khi có chuyện không như ý, theo lời khuyên trong cuốn sách, họ cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, con biết Chúa hằng yêu thương con. Con phó thác mọi sự trong tay Chúa. Nhưng, lạy Chúa, qua chuyện không vui này, Chúa muốn nói với con điều gì?”.

Khốn nạn thân tôi, trong khi khuyên người ta cầu nguyện, tôi càng ngày càng ít dành thời gian cho việc cầu nguyện. Tôi miệt mài trong các thư viện, cố viết hay hơn nữa, nhiều hơn nữa. Tôi tưởng tôi đã gặp được Chúa trong những suy tư thần học, cho nên tôi xao lãng đời sống cầu nguyện, tôi đã không thực hành chính những điều tôi nói và viết hằng ngày trên bục giảng và trong các tác phẩm của tôi. Có lẽ, tôi đã cho rằng cầu nguyện chỉ là hình thức cấp thấp dành cho những người bình dân. Siêu đẳng như tôi thì không cần. Càng ngày tôi cũng càng ít có giờ cho giáo dân và càng ngày tôi càng bướng bỉnh và kiêu căng với các đấng bề trên. Chuyện gì đến cũng đã đến. Tôi không muốn sa vào những phân tích vụn vặt. Điều tôi muốn nói với các bạn sau nhiều năm suy tư, sau những đêm dài không ngủ và trong sự hối tiếc chân thành của tôi là sự thật đơn giản này: Những hiểu biết sâu hơn về Thiên Chúa, nhiều hơn về Thiên Chúa không giúp giữ tôi trong lòng mến của Ngài. Chính đời sống cầu nguyện đơn sơ mà mẹ tôi tập cho tôi từ ngày còn bé mới giữ tôi lại trong tình yêu thương của Thiên Chúa.

Chẳng vậy, mà trong Phúc âm biết bao nhiêu lần chúng ta gặp câu này: “Sau đó, Người lui vào một nơi thanh vắng mà cầu nguyện”. Chính Chúa Con mỗi ngày còn cần đến sự cầu nguyện ở nơi thanh vắng để hiểu được ý Chúa Cha. Chúng ta là ai, tư cách gì, mà đòi có thể biết được ý Chúa qua trí khôn, qua sự xét đoán nông cạn của mình trong cái náo nhiệt, bận rộn của cuộc sống quay cuồng chung quanh.

Chẳng vậy, tất cả các lần Đức Mẹ hiện ra, Mẹ đã không nói gì nhiều hơn là lặp lại tiếng kêu gọi khẩn cấp hãy cầu nguyện đó sao. Chúng ta cũng nhìn thấy điều này nơi các Thánh mà chúng ta hằng tôn kính. Chính sự cầu nguyện đã giúp các Ngài nên Thánh.

Tôi đặc biệt mong muốn lặp lại ở đây những điều Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viết trong cuốn“Bước qua ngưỡng cửa hy vọng” :

“Việc cầu nguyện vừa là tìm tòi Thiên Chúa, vừa là mặc khải Thiên Chúa. Nơi việc cầu nguyện của ta, Thiên Chúa tỏ rỏ Ngài là Đấng Sáng Tạo và là Cha, là Đấng Cứu Chuộc và là Chúa Cứu Thế, là Thần Khí ‘dò thấu mọi sự, cả đến những gì sâu xa nhất của Thiên Chúa’ (1 Cr 2, 10), cũng như dò thấu những gì bí mật của tâm hồn. Trong việc cầu nguyện, trước hết, Thiên Chúa tỏ ra Ngài là tình thương xót, nghĩa là một Tình yêu đi tới gặp con người đau khổ. Tình yêu này nâng đỡ, vực dậy và mời gọi chúng ta hãy tin tưởng”.

Trên tất cả mọi sự, tôi nhận rõ rằng chính việc thiếu một đời sống cầu nguyện đã giết chết ơn gọi Linh mục trong tôi.

Lời bàn:

Những lời cảnh báo này thật đáng suy nghĩ. Bao nhiêu lần tôi đi dự lễ ngày Chúa Nhật mà chỉ mong cha làm cho nhanh nhanh để tôi về còn lo làm chuyện khác. Tôi có chuyện gì đáng lo hơn là phần rỗi linh hồn của tôi.

Tôi có một công việc rồi, còn muốn kiếm thêm một công việc nữa đến nỗi không còn có giờ cầu nguyện nữa. Sống như điên, cày như điên như thế có phải là cuộc sống được chúc phúc không.

Đặng Tự Do

Chương trình Phát triển Quận 8 Sài gòn: Vài câu chuyện đáng nhớ từ những ngày đầu

Chương trình Phát triển Quận 8 Sài gòn:

Vài câu chuyện đáng nhớ từ những ngày đầu

*     *     *

(Bài đầu)

Ở vào tuổi 80, đúng theo với quy luật tự nhiên, thì trí óc của tôi cũng đã bắt đầu suy giảm phai mờ đi ít nhiều rồi. Vì thế mà tôi phải cố gắng rà sóat lại trí nhớ để có thể ghi lại một cách tương đối chính xác những sự việc bản thân mình đã trực tiếp tham dự cùng chung với các bạn – hoặc đã chứng kiến câu chuyện qua việc “tai nghe, mắt thấy”.

Để cho ngắn gọn, tôi xin tường thuật một số chuyện ngộ nghĩnh liên hệ đến Chương Trình Phát Triển Quận 8 vào lúc khởi đầu đại lược như sau.

1 – Những phiên họp vào ban tối tại nhà anh Võ Long Triều.

Vào khỏang tháng 5, tháng 6 năm 1965 sau khi tham gia họat động với các bạn trong Chương Trình Công Tác Hè, thì một số anh em chúng tôi thường hội họp với nhau tại nhà anh Võ Long Triều tại đường Mạc Đĩnh Chi vào các buổi chiều tối. Anh em lúc đó ở vào lứa tuổi 25 – 30.

Tôi còn nhớ có chừng trên dưới 10 người tham dự thường xuyên các phiên họp này, đại khái có các bạn Hồ Văn Minh, Hồ Ngọc Nhuận, Mai Như Mạnh, Võ Long Triều, Đòan Thanh Liêm, Nguyễn Văn Mừng, Võ Trọng Di, Nguyễn Hữu Dõan, Trần Viết Ngạc, Lê Phú Khôi. Và một vài lần, lại có anh Phạm Thanh Thời hồi trước 1963 đã là Quận Trưởng Quận 8. Và chính nhờ anh Thời góp thông tin về tình hình ở Quận 8, mà chúng tôi mới thỏa thuận với nhau để chọn Quận 8 làm thí điểm cho các họat động tập thể của mình.

Kết quả là vào đầu tháng 7, chúng tôi đã sọan thảo xong một bản tài liệu gọi là “Dự Án” gồm chừng 30 trang với nhan đề như sau :

“Phong Trào Xây Đời Mới

Chương Trình Phát Triển Quận 8 Sài Gòn”.

Anh em nhờ anh Võ Long Triều đem bản Dự Án này trực tiếp gửi đến Tướng Nguyễn Cao Kỳ là vị Thủ Tướng – với chức danh là “Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương”.

Và sau đó không lâu, chúng tôi nhận được sự chấp thuận của Thủ Tướng về mặt nguyên tắc. Còn về các chi tiết thực hành, thì chúng tôi phải đến bàn thảo với hai cơ quan bảo trợ là Bộ Thanh Niên và Tòa Đô Chính Sài Gòn.

2 – Chuyện thật khó nói trong phiên họp tại Tòa Đô Chính Sài Gòn.

Một trong những quyết định của nhóm anh em chúng tôi là: Đề nghị với chính quyền chấp thuận bổ nhiệm hai chức vụ này:

a/ Hồ Ngọc Nhuận làm Quận Trưởng

b/ Mai Như Mạnh làm Phụ Tá Quận Trưởng.

Anh Nhuận là người Nam lại có tài tháo vát năng nổ và ăn nói họat bát trước công chúng. Anh Mạnh là người Bắc, tốt nghiệp Quốc Gia Hành Chánh. Vì dân chúng ở quận 8 đại đa số là người Nam, cho nên chúng tôi nghĩ để anh Nhuận làm Quận trưởng thì thuận lợi hơn.

Trong một phiên họp vào cuối tháng 7 tại Tòa Đô Chính có đông đủ giới lãnh đạo của Bộ Thanh Niên và Tòa Đô Chính do Bác sĩ Nguyễn Tấn Hồng, Bộ trưởng và Bác sĩ Văn Văn Của, Đô trưởng đồng chủ tọa, chừng trên 10 anh em chúng tôi đã có dịp trình bày chi tiết hơn về những việc anh em dự định thực hiện ở địa phương quận 8. Và tiếp theo, thì có sự trao đổi đại lược về hai việc như sau:

c/ Bác sĩ Hồng nêu thắc mắc rằng: “Tôi thấy các anh sắp xếp hai chức vụ Quận trưởng cho anh Nhuận và Phụ Tá Quận trưởng cho anh Mạnh, thì không ổn chút nào. Anh Mạnh có kinh nghiệm về hành chánh, thì nên đảm nhiệm chức vụ Quận trưởng, thì thích hợp hơn…”

Thế nhưng, trước số đông người trong phiên họp công khai như vậy, chúng tôi không thể nêu cái li‎ do “Nam/Bắc” ra để trả lời cho Bác sĩ Hồng được. Mà cuối cùng, thì một anh em còn nói cụt ngủn rằng : ”Đây là một sự sắp xếp dứt khóat của tập thể anh em chúng tôi chủ trương, do đó mà không thể nào thay đổi được…” Nghe vậy Bác sĩ Hồng tỏ vẻ miễn cưỡng không vui. Và sau này, có người thuật lại rằng ông than phiền về thái độ quá cứng rắn đó của bọn thanh niên chúng tôi.

d/ Đến lượt Bác sĩ Văn Văn Của là Đô Trưởng, thì cũng tương tự như vậy. Ông nói :” Tôi không thấy ông Quận Trưởng đương nhiệm là Cao Minh Chung có một lỗi lầm nào để mà phải ngưng chức của ông đi. Thật khó nghĩ đấy …”

Trong bụng chúng tôi nghĩ: Đây là thứ chuyện “Cách Mạng”, do đó mà cũng không thể giải thích theo cái lối lí luận thông thường được. Và dĩ nhiên là không một ai trong chúng tôi lại trực tiếp trả lời Bác sĩ Của nữa. Lại thêm “một chuyện khó nói” nữa vậy.

Và sau đó ông Đô Trưởng lại cử ông Cao Minh Chung ở lại làm một “Cố vấn Thanh tra” bên cạnh Tòa Hành Chánh Quận 8 nữa. Sự kiện này cũng gây khó khăn trở ngại cho các anh Nhuận và Mạnh trong vài tháng trước khi ông Chung được đưa về Tòa Đô Chánh.

3 – Chuyện xuất quân đến Quận 8 vào giữa tháng 8 năm 1965.

Với khí thế hăng say của tuổi trẻ, bọn chúng tôi lục tục kéo nhau xuống quận 8 ngay sau Lễ Bàn giao chức vụ Quận trưởng cho anh Hồ Ngọc Nhuận và Mai Như Mạnh. Hai anh lúc đó đều là sĩ quan được biệt phái và đến năm 1966 thì được giải ngũ.

Trong số những anh em nòng cốt mà vẫn hội họp với nhau vài tháng trước, thì có 5 anh em chúng tôi là Nhuận, Mạnh, Minh, Liêm và Mừng là xuống bắt tay vào công việc ở quận 8 với sự tiếp tay của chừng vài chục thiện nguyện viên khác nữa, kể cả nam và nữ. Số thiện nguyện viên này gồm chừng 7 – 8 em học sinh cỡ tuổi 17 – 18 từng họat động trong Phong Trào Học Đường Phục Vụ Xã Hội và một nhóm gồm chừng 10 người lớn tuổi hơn đã từng tham gia sinh họat trong các đòan thể khác. Người đứng đầu nhóm thứ hai này là anh Hòang Quốc Dũng là người do anh Nguyễn Thành Vinh giới thiệu đến với chúng tôi.

Như vậy trong thành phần chừng trên 20 người đầu tiên đến làm việc ở quận 8, thì chỉ có 2 người là anh Nhuận và Mạnh là viên chức giữ nhiệm vụ hành chánh. Còn lại, tất cả đều nằm ngòai guồng máy công quyền và việc tổ chức phân công trong nội bộ riêng của Chương Trình Phát Triển chúng tôi, thì nhà nước không hề can thiệp vào. Có thể nói đây là một Chương Trình Phát Triển Cộng Đồng do sáng kiến của anh chị em chúng tôi chủ động cùng hợp lại chung với nhau – nhằm cộng tác với nhà nước để thực hiện những công tác xây dựng cụ thể thiết thực tại địa phương quận 8. Dĩ nhiên là mọi hoạt động của chúng tôi đều được đặt dưới sự kiểm sóat và bảo trợ của Bộ Thanh Niên và Tòa Đô Chính Sài gòn. Đó là tính chất căn bản của cái “dự án thí điểm” (pilot project) này vậy.

Trong mấy tháng đầu, chúng tôi đều hy sinh dấn thân làm việc miệt mài và hầu hết đều sinh sống ngay tại địa phương – theo phương thức “Tam Cùng” – tức là Cùng Ở, Cùng Ăn, Cùng Làm Việc với đồng bào địa phương. Đòan công tác do anh Dũng điều động, thì phải trú ngụ tại Đình An Phú thuộc Phường Hưng Phú. Nhờ vậy mà dễ gây được mối thiện cảm của giới thân hào nhân sĩ tại chỗ và được họ góp ‎sáng kiến chỉ dẫn cho phải thực hiện lọai công tác nào mà đem lại ích lợi thiết thực nhất cho cộng đồng địa phương.

Cụ thể là chỉ trong vòng 3 tuần lễ sau khi đến quận 8, chúng tôi đã hòan thành ngay được một ngôi trường 5 lớp học tại Phường Hưng Phú – để giúp giải tỏa các “lớp học ban trưa” vì lúc đó các trường tiểu học công lập đều không có đủ phòng ốc dành cho số học sinh quá đông đảo. Công tác đầu tay này đã làm cho các phụ huynh và thầy cô giáo rất hài lòng và từ đó mà họ bắt đầu đặt niềm tin nơi chương trình phát triển.

Và tiếp theo là 2 công trường chỉnh trang khá quy mô tại Liên Khóm 14&15 trong Khu Xóm Đầm thuộc Phường Hưng Phú và Khóm 5A thuộc Phường Chánh Hưng sát với Khu Sở Rác. Hai công trình này phải nhờ đến cả một con tàu hút bùn cát từ lòng sông Kinh Đôi và Rạch Ụ Cây làm việc liên tục ngày đêm trong mấy tháng, thì mới có thể lấp được các hố trũng trong khu vực. Nhờ vậy, mới có đất để làm đường cũng như làm nền nhà cho dân.

Cả hai công trình này đã được Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ giới thiệu với Phó Tổng Thống Mỹ là Hubert Humphrey nhân chuyến viếng thăm vào tháng 2 năm 1966 – sự kiện này đã gây tiếng vang thật sôi nổi trên báo chí Việt nam cũng như quốc tế hồi đó.

4 – Sư tiếp trợ của bạn bè thân hữu vào lúc khởi sự của Chương Trình.

Phải nói chuyện giới trẻ ở Sài gòn mà lặn lộn xuống tận quận 8 thật xa lạ vào thời đó, thì có thể coi như là một cuộc phiêu lưu mạo hiểm. Vì thế, mà chúng tôi được nhiều bậc đàn anh cũng như thân hữu thông cảm, hiểu rõ tinh thần hăng say thiện chí của nhóm anh em chúng tôi và rồi tìm cách khuyến khích nâng đỡ về tinh thần cũng như về vật chất cho chương trình. Xin trưng dẫn một vài nhân vật tiêu biểu sau đây.

a/ Anh chị Nguyễn Văn Tánh & Bạch Nhật.

Anh Tánh làm việc ở Tổng Liên Đòan Lao Công, Dược sĩ Bạch Nhật bà xã của anh là một thanh tra của Bộ Y Tế. Cả hai anh chị đều khuyến khích yểm trợ tinh thần hết mình cho chúng tôi. Chị còn giới thiệu với một vài dược phòng để chúng tôi tới xin thuốc để cấp phát cho bệnh nhân. Anh Trần Hữu Hải lúc đó cũng ở chung với anh chị Tánh, thì giới thiệu chúng tôi với một vài nhà máy để xin vật liệu xây dựng như gỗ, ván dăm bào v.v…

b/ Luật sư Trần Văn Tuyên và Linh mục Bernard Pineau.

Luật sư Tuyên rất chú trọng theo dõi công việc chúng tôi làm ở quận 8. Vào đầu năm 1966, có lần Linh mục Pineau nói với tôi rằng : “Luật sư Tuyên và tôi vừa mới chuyện trò trao đổi với nhau về chuyện các em làm ở quận 8. Cả hai chúng tôi đều coi đó là những “micro-réalisation” (nguyên văn tiếng Pháp) rất đáng khuyến khích. Các em cứ cố gắng làm việc như thế nhé…”

c/ Dược sĩ La Thành Nghệ lúc đó là một Nghị viên Đô Thành Sài gòn.

Ông có thiện cảm với chúng tôi và cũng thường cấp thuốc men cho Đòan Y Tế do anh Bác sĩ Minh phụ trách khám bệnh cho bà con ở địa phương. Ngòai ra, ông cũng còn bênh đỡ chúng tôi trước sự phê bình chỉ trích của một vài nghị viên khác tại Hội Đồng Đô Thành.

d/ Đỗ Ngọc Yến và Chương Trình Công Tác Hè 1965.

Trong thời gian mới xuống Quận 8, chúng tôi thiếu thốn mọi thứ vì mãi mấy tháng sau mới nhận được ngân khỏan của chính phủ cấp phát tài trợ. Cụ thể là trong việc xây dựng ngôi trường đầu tiên vào cuối tháng 8 năm 1965, thì các em trong Phong Trào Học Đường Phục Vụ Xã Hội cung cấp nhân công, nhưng phải nhờ anh Đỗ Ngọc Yến trích quỹ của Chương Trình Hè để mua cho một số gỗ làm cột nhà, đòn tay, cửa v.v… Còn phần thực phẩm, thì chúng tôi cũng phải đi xin từ nhiều nhà hảo tâm khác nữa.

đ/ Giới lãnh đạo của Bộ Thanh Niên và Tòa Đô Chính.

Cả hai Bác sĩ Hồng Bộ Trưởng Thanh Niên và Bác sĩ Của Đô Trưởng Sài gòn đều tận tình khích lệ và yểm trợ anh chị em thiện nguyện trong chương trình của chúng tôi. Đặc biệt là các Phụ tá của Bác sĩ Của như Lê Công Truyền, Bùi Thế Cảnh đều có thiện cảm và lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ cụ thể về mặt khai thông những bế tắc trong thủ tục hành chánh mỗi khi chúng tôi gặp trở ngại gì.

* * Để tóm kết lại.

Đã 50 năm qua, sau bao nhiêu tang thương biến đổi trên đất nước ta, trong số  anh chị em thiện nguyện chúng tôi ở Quận 8 hồi đó, thì nay nhiều người đã ra đi từ giã cõi đời này. Số còn lại thì cũng đều đã ở vào lứa tuổi 70 – 80 với trí óc lẩm cẩm lẫn lộn nhiều rồi.

Những dòng ghi trên đây chỉ nhằm gợi lại một chút kỷ niệm vui buồn của chúng tôi gặp phải trong những ngày đầu lúc mới khởi sự của chương trình phát triển ở khu vực ven đô Sài gòn hồi năm 1965 – giữa lúc cuộc chiến đang bắt đầu leo thang sôi động ác liệt khiến cho nhiều người phải rời bỏ vùng quê mất an ninh để chạy về trú ngụ nơi các thành phố.

Tôi hy vọng sau này, trong lớp con cháu của chính các gia đình cư ngụ tại địa phương quận 8 xưa nay, sẽ có người đi thu thập tài liệu, thống kê v.v… liên hệ đến chương trình phát triển tại cả 3 quận 6,7 và 8 này – để rồi trình bày trong một công trình nghiên cứu lịch sử xã hội của địa phương. Tài liệu nghiên cứu chi tiết như thế sẽ có giá trị khách quan, có sức thuyết phục hơn là do người trong cuộc chủ quan viết ra. Và rồi qua đó mà rút ra được một bài học kinh nghiệm có giá trị đối với thế hệ tương lai của đất nước vậy./

Costa Mesa California, Tháng Chín 2015

Đoàn Thanh Liêm

Tháng Tám 1945, Cách mạng hay Cách … Cái mạng?

Tháng Tám 1945, Cách mạng hay Cách … Cái mạng?

Kính Hòa, phóng viên RFA
2015-08-31

08312015-august-1945-revolut-or-devolution.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Ô. Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập trên Quảng trường Ba Đình ngày 2 tháng 9 năm 1945

Ô. Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập trên Quảng trường Ba Đình ngày 2 tháng 9 năm 1945

File photo

Cách mạng

Theo lịch sử chính thống của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam hiện nay, cách đây 70 năm, vào ngày 19/8, tại Hà Nội Mặt trận Việt minh do đảng cộng sản lãnh đạo giành lấy chính quyền từ tay thực dân Pháp và phát xít Nhật. Ngày 25/8 một biến cố tương tự xảy ra ở Sài gòn. Và cuối cùng là ngày 2/9/1945, ông Hồ Chí Minh, người đứng đầu đảng cộng sản và Mặt trận Việt minh tuyên bố một nước Việt nam độc lập.

Tất cả những sự kiện đó được gọi là cuộc cách mạng tháng Tám, thời điểm khởi đầu cho sự cầm quyền độc tôn của đảng cộng sản trên từng phần và cuối cùng là toàn bộ nước Việt nam ngày nay. Những tuần lễ tháng tám hàng năm đều được nhà nước do đảng cộng sản lãnh đạo cho tổ chức lễ hội rất trọng thể.

Nhà báo, blogger Lê Diễn Đức điểm lại tất cả những sự kiện lịch sử trong thời gian đó cách đây 70 năm, và ông nêu lý do vì sao Mặt trận Việt minh đã chiến thắng trong thời điểm đó:

Mục đích của Việt Minh trong sáng, rõ ràng đã đánh đúng vào lòng yêu nước, tinh thần chống Pháp, Nhật, nên tập hợp được lực lượng quần chúng đông đảo. Khi Pháp trở lại Đông Dương, Việt Minh tiếp tục cuộc vận động, lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc kháng chiến 9 năm và làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ.

Cũng có những nhà phân tích lịch sử cho rằng sự kiến tháng tám năm 1945 không hẳn là một cuộc cách mạng, mà nó chỉ là một chính biến. Chính biến ấy thành công do lợi dụng được khoảng trống quyền lực giữa quyền lực của thực dân Pháp và quân chiếm đóng Nhật bản trong giai đoạn tranh tối tranh sáng cuối cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai.

Trang Bauxite VN bình luận:

Cách mạng đã 70 năm tuổi nhưng không có bất kỳ một công dân Việt Nam nào biết có một hình ảnh nào khác về cách mạng ngoài hình ảnh mà bộ máy tuyên truyền dàn dựng lên. Chắc chắn rất nhiều người ngạc nhiên và không tin khi học giả nước ngoài viết rằng Cách mạng tháng Tám thực chất chỉ là một cuộc chính biến, một cuộc khởi nghĩa, ngay cả các nước láng giềng Việt Nam cũng đã có nước làm cách mạng “na ná”Việt Nam. Tóm lại cái gọi là”cuộc cách mạng long trời lở đất” thực ra cũng chỉ là chuyện thường ngày ở huyện thôi.

Hơn nữa có người còn nói rằng trong cuộc cách mạng này, những người cộng sản đã cướp thành quả của những tổ chức cách mạng khác.

Ông Nguyễn Gia Kiểng, người thành lập tổ chức Tập hợp dân chủ đa nguyên đấu tranh cho dân chủ tại Việt nam không đồng ý với những nhận định này. Ông nói rằng những người cộng sản cho rằng cuộc cách mạng của họ là quan trọng, là long trời lở đất cũng không quá đáng, vì cuộc cách mạng ấy thay hình đổi dạng nước Việt nam cho đến ngày nay.

Ông Nguyễn Gia Kiểng cũng nói rằng những người cộng sản không cướp thành quả của ai cả, mà họ có được những thành quả ấy sau bao nhiêu hy sinh. Ông Kiểng so sánh đảng cộng sản với các tổ chức khác như Quốc Dân Đảng hay Đại Việt, những tổ chức yếu ớt và không đủ lực lượng để tạo nên một biến chuyển gì vào thời điểm quan trọng đó.

Cuộc cách mạng đem lại những gì sau 70 năm?

Ông Nguyễn Gia Kiểng nói tiếp về cuộc cách mạng của những người cộng sản:

Lỗi lớn nhất của Đảng Cộng Sản Việt Nam là đã kéo đất nước Việt Nam vào ngõ cụt, vào thảm kịch, chứ không phải là vì họ tranh giành ngày 19/8. Họ có thể xứng đáng nắm chính quyền vào ngày 19/8. Lẽ ra sau ngày 19/8 Việt Nam phải đi theo một hướng khác, nhưng nó đã bị lôi kéo vào quĩ đạo cộng sản. Kết quả là 30 năm chiến tranh, 6 triệu người chết, bao nhiêu gia đình ly tán, con người hận thù lẫn nhau đến tận ngày hôm nay.

Lỗi lớn nhất của Đảng Cộng Sản Việt Nam là đã kéo đất nước VN vào ngõ cụt, vào thảm kịch, chứ không phải là vì họ tranh giành ngày 19/8. Họ có thể xứng đáng nắm chính quyền vào ngày 19/8. Lẽ ra sau ngày 19/8 Việt Nam phải đi theo một hướng khác, nhưng nó đã bị lôi kéo vào quĩ đạo cộng sản

Ông Nguyễn Gia Kiểng

Theo ông Kiểng, một trong những gia tài mà người cộng sản để lại sau 70 năm cầm quyền là sự thờ ơ của người dân Việt nam, đặc biệt là giới trẻ. Ở trong nước thì thanh niên quan tâm đến những ngày kỷ niệm tháng tám như một cơ hội để vui chơi, mà thanh niên Việt ở nước ngoài thì bị mất gốc rất sớm, Việt nam đối với họ chỉ còn là một kỷ niệm.

Giải thích điều đáng buồn đó ông Kiểng nói:

Sau ngày 19/8 Hồ Chí Minh đã đưa Việt Nam vào quỹ đạo cộng sản

Sau ngày 19/8 Hồ Chí Minh đã đưa Việt Nam vào quỹ đạo cộng sản

Tại sao có sự lãnh đạm đối với đất nước như vậy? Bởi vì chế độ cộng sản không chỉ đã làm cho người ta phẫn nộ, mà còn làm người ta chán nản đối với đất nước. Phải nói là thảm kịch Việt Nam đã rất lớn. Thành tích của Đảng Cộng sản Việt Nam đã rất kinh khủng. Cách Mạng Tháng Tám đáng lẽ ra phải là một cơ hội vinh quang của Việt Nam nhưng đã trở thành một thảm kịch lớn.

Blogger Nguyễn Vũ Bình, người từng làm việc cho cơ quan lý luận của đảng cộng sản mô tả hình ảnh của chế độ mà những người cộng sản thành lập và duy trì cho đến nay trong bài viết mang tên Phác họa chân dung một chế độ. Trong bài này ông Bình cho rằng việc cầm quyền của đảng cộng sản được dựa trên ba nền tảng:

1/Sự gieo rắc sợ hãi trong dân chúng đối với bộ máy của đảng,

2/ Thiết lập sự lệ thuộc của dân chúng vào đảng,

3/ Kiểm soát tư tưởng của dân chúng bằng cách chia rẽ họ và đốc thúc họ tố cáo, kiểm soát lẫn nhau.

Nguyễn Vũ Bình viết tiếp:

Đi sâu vào phân tích cách thức guồng máy chuyên chính vô sản hoạt động nghiền nát tất cả sự phản kháng của người dân mới thấy được nghệ thuật cai trị của cộng sản. Đó cũng chính là nghệ thuật tiêu diệt và đày đọa con người.

Làm cách mạng để xây dựng lên chế độ độc đảng toàn trị, không có tự do, dân chủ và nhân quyền. Đó là một cuộc cách mạng vô nghĩa và thất bại. Bởi chúng ta đã thay thế sự cai trị văn minh của giặc ngoại xâm bằng sự cai trị độc ác, tàn bạo, tham lam của giặc nội xâm

Nhà báo Lê Diễn Đức

Trong một lần trao đổi gần đây với đài Á châu tự do, Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, một cựu tù chính trị cũng có nhấn mạnh đến kinh nghiệm cai trị của đảng cộng sản trong mấy mươi năm qua, và điều đó chính là một trở ngại cho con đường dân chủ hóa Việt nam.

Nhà báo Lê Diễn Đức thì trích lời nhà bất đồng chính kiến Luật sư Nguyễn Văn Đài về bản chất của cuộc cách mạng, hay chính biến tháng 8/1945

Làm cách mạng để xây dựng lên chế độ độc đảng toàn trị, không có tự do, dân chủ và nhân quyền. Đó là một cuộc cách mạng vô nghĩa và thất bại. Bởi chúng ta đã thay thế sự cai trị văn minh của giặc ngoại xâm bằng sự cai trị độc ác, tàn bạo, tham lam của giặc nội xâm

Kết quả của cuộc cách mạng ấy, theo blogger Lê Vũ Bình, sẽ dẫn tới một tương lai không hề sáng sủa, giống như sự sụp đổ của hàng loạt nhà nước cộng sản khác trong thế kỷ 20.

Những nhà nước cộng sản đã không thể xây dựng được một nền kinh tế theo đúng nghĩa tạo ra của cải vật chất. Trong khi, để duy trì một hệ thống khổng lồ bảo đảm sự vận hành và thống trị, nó lại cần một nguồn lực vô tận, điều không bao giờ có được. Chính vì vậy, các chế độ cộng sản, sau khi đã tạo ra được lâu đài thống trị uy nghi, cuối cùng đều tự sụp đổ vì sức nặng của chính nó. Và Việt nam chắc chắn cũng không phải là ngoại lệ.

Một điều cũng đáng ghi nhận trong thời điểm 70 năm sau cách mạng tháng tám 1945, ông Vũ Minh Giang, người được coi là nhà lý luận hàng đầu của những người cộng sản hiện nay nói với báo chí Việt nam điều mà ông nhận ra về sự cần thiết hay không của các cuộc cách mạng:

Tôi từng tham dự một hội nghị quốc tế nhân kỷ niệm 200 năm cách mạng tư sản Pháp. Tại đây giới sử học đưa ra một luận điểm mới và lạ. Họ đánh giá cao những cuộc cải cách trong lịch sử, trong đó cải cách Meiji được phân tích rất nhiều. Thậm chí họ còn cho rằng con đường cải cách là cách đi thông minh và cần tới tầm nhìn của giới lãnh đạo, biết mình lạc hậu để cải đổi. Cách mạng bùng nổ ra khi chính quyền cản trở sự phát triển, không chịu đổi thay nên bị lật đổ.

Điều ông Giang phát hiện ra ở thế kỷ 21 cũng là điều mà nhà văn Lỗ Tấn bên Trung quốc gửi gấm qua lời nói ngô nghê của nhân vật AQ của ông cách đây gần 100 năm Cách mạng là… Cách cái mạng!

Làm gì?

Nhà văn Võ Thị Hảo cho rằng cuộc cách mạng tháng tám 1945 là một cái bẫy đã đưa cả dân tộc Việt nam vào một đại bi kịch ngày nay. Bà kêu gọi hãy chôn cái bẫy đó xuống, điều đó không phải chỉ tốt cho người dân mà còn cho cả những người đang cầm quyền nữa:

Và không chỉ dân đâu, chính những người có quyền lực đang hành ác hiện nay cũng cần thoát khỏi chiếc bẫy đó, vì chẳng quyền lực, địa vị, tiền bạc nào tồn tại được mãi mãi. Họ và con cháu họ cũng cần được trở lại làm người, sống trong tự trọng và bình an.

Chúng ta không nên quy kết buộc tội lẫn nhau. Chúng ta nói lên những trách nhiệm nhưng phải nói Cách Mạng Tháng 8 đã như thế không phải là do trách nhiệm riêng của Đảng Cộng Sản mà là trách nhiệm của cả một thế hệ trí thức VN. Lớp trí thức đó đã bất lực để cho một đảng, có lẽ vì cuồng tín và thiển cận, kéo đất nươc vào thảm kịch

Ông Nguyễn Gia Kiểng

Blogger Song Chi thì đặt câu hỏi Một chế độ tồi tệ đến thế chúng ta vẫn chịu được. Thì là lỗi của chúng ta hay lỗi của nhà cầm quyền?

Và bà nhận định tiếp dường như sự phản kháng của người dân Việt nam cho đến nay chỉ mang ý nghĩa tiêu cực:

Có vẻ như lâu nay lối thoát duy nhất của chúng ta là… chửi. Chúng ta chửi chế độ, chửi bọn quan tham, bọn bán nước, bọn bất tài… Chưa bao giờ trước đây người dân VN từ ông tài xế taxi, bà bán bún ngoài chợ cho tới dân trí thức, các blogger, nhà báo tự do…có thể thoải mái chửi chế độ, chửi nhà cầm quyền đến thế. Nhà cầm quyền có biết không? Thừa biết. Nhưng tại sao họ vẫn để lơ? Thứ nhất là vì người ta chửi nhiều quá, nếu bất cứ ai chửi chế độ cũng bắt bớ, giam cầm thì có mà bắt mà giam hàng chục triệu người. Thứ hai, bởi vì chửi không làm cho chế độ này sụp được, thậm chí chửi nhiều khi còn là một cách xả xú páp, chẳng thà để dân chửi cho hả rồi dân lại lùi lũi lo kiếm ăn còn hơn dân ôm lấy nổi căm giận trong lòng và một ngày xuống đường, đấu tranh lật đổ chế độ.
Chúng ta chửi không làm cho chế độ này sụp đổ được

Cùng tìm câu trả lời là phải làm gì trước hiện trạng hôm nay, Ông Nguyễn Gia Kiểng nhấn mạnh rằng trách nhiệm trước bi kịch của dân tộc ngày nay là không chỉ của riêng những người cộng sản:

Đến giờ phút này chúng ta không nên quy kết buộc tội lẫn nhau. Chúng ta nói lên những trách nhiệm nhưng phải nói Cách Mạng Tháng 8 đã như thế không phải là do trách nhiệm riêng của Đảng Cộng Sản mà là trách nhiệm của cả một thế hệ trí thức Việt Nam. Lớp trí thức đó đã bất lực để cho một đảng, có lẽ vì cuồng tín và thiển cận, kéo đất nươc vào thảm kịch.

70 năm sau, một tia hy vọng được nhóm lên khi một lớp trí thức trẻ, dù còn ít đã dấn thân trên con đường dân chủ hóa Việt nam, không câu nệ quá khứ, mà đòi hỏi nhà cầm quyền hãy làm những gì mà mình đã đặt ra.

Trong bài Giải pháp tránh sự sụp đổ sau 70 năm, người cựu tù chính trị Nguyễn Tiến Trung viết:

Việc vi phạm hiến pháp, pháp luật phải chấm dứt ngay. Đó cũng nhằm tránh sự sụp đổ. Đó cũng chính là giải pháp cho Việt Nam, toàn dân, kể cả các đảng viên cộng sản yêu nước, bắt tay nhau hiện thực hóa “nhân dân làm chủ, pháp luật chuẩn mực”, bắt đầu từ bản hiến pháp của toàn dân.

Tránh sự sụp đổ phải chăng cũng chính là ý tưởng cho một cuộc dân chủ hóa mà Tiến sĩ Nguyễn Quang A nói với chúng tôi rằng ít tốn kém cho dân tộc nhất. Và cũng có thể tránh cái mà nhiều nhà nghiên cứu nhận định rằng các cuộc cách mạng thường hay ăn thịt những đứa con của mình, tránh cái mà AQ của Lỗ Tấn nói Cách mạng là… Cách cái mạng!

VẤN ĐỀ CẦU NGUYỆN

VẤN ĐỀ CẦU NGUYỆN

Cầu nguyện là điều rất cần, vì đó là phương thế giúp chúng ta không bị sa chước cám dỗ (Mc 14:38; Lc 22:40; Lc 22:46).  Cầu nguyện còn làm cho chúng ta được “nâng cao.” Nhà vật lý kiêm toán học André-Marie Ampère (1775-1836) nói: “Chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện.”  Nhà vật lý kiêm toán học Blaise Pascal (1623-1662) nói: “Con người vĩ đại khi họ cầu nguyện.” Họ là phàm nhân mà còn nói được như vậy đấy!

Image result for image of prayer

Các môn đệ không biết cầu nguyện thế nào cho đúng, thế nên họ xin Sư Phụ Giêsu dạy cách cầu nguyện, Ngài bảo “đừng lải nhải” (Mt 6:7), và Ngài dạy cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha (Mt 6:9-13). Nhưng Ngài “láy” thêm câu này:“Nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em.  Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6:14-15).

Ai cũng phạm tội nên ai cũng cần được tha thứ.  Nhưng chúng ta được tha thứ ít hay nhiều là tùy vào mức độ chúng ta tha thứ cho tha nhân.  Đó là “thước đo” chuẩn nhất mà Chúa Giêsu đưa ra.

Thiết nghĩ, thật sai lầm trong cách cầu nguyện khi chúng ta “xin như ý.”  Trong các Thánh Lễ, chúng ta thường thấy linh mục cũng “vô tư” mời gọi mọi người hợp ý cầu nguyện “xin như ý.”  Trong các buổi cầu nguyện (của các hội đoàn, giáo xứ, dòng tu,…) cũng vậy, vẫn thấy nhiều người “xin như ý.”

Có lẽ “quá quen” nên chúng ta coi là bình thường.  Thật ra, “xin như ý” là… nguy hiểm.  Ý chúng ta luôn ích kỷ, muốn gì phải được, thậm chí là phải được ngay lập tức, đồng thời còn những ý xấu đối với người khác, như có người nói: “Chúa nhân từ quá, sao Chúa không cho họ bị nạn nhãn tiền cho họ sáng mắt ra nhỉ?”  Ôi chao, nghe chừng “tốt lành” lắm, thế nhưng lại ngược Ý Chúa, vì Chúa Giêsu bảo: “Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em” (Lc 6:28). Nếu Chúa “hỉ xả” mà chấp nhận lời “xin như ý” của chúng ta thì có phải là rất nguy hiểm không? Thậm chí chúng ta còn lỗi đức ái nữa đấy!

Vả lại, chính Chúa Giêsu không hề cầu xin được như ý, dù Ngài cảm thấy “rợn tóc gáy” khi nghĩ đến những gì sắp xảy đến cho Ngài, nhưng Ngài vẫu cầu nguyện chân thành: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26:39). Chúa Cha im lặng. Chúa Giêsu nhân biết Ý Cha và bằng lòng: “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng Ý Cha” (Mt 26:42).  Và chúng ta cũng nhớ lại lời “xin vâng” của Đức Maria (Lc 1:38).  Đức Mẹ “ngại” lắm, nhưng không muốn “như ý” mình mà chỉ muốn Ý Chúa nên trọn.

Với đức vua chỉ là phàm nhân, thế mà Hoàng hậu Ét-te cũng không hề “xin như ý”, dù đức vua hứa với bà: “Khanh thỉnh cầu gì, ta sẽ ban cho; khanh có muốn xin gì nữa thì cũng sẽ được” (Es 9:12).  Nhưng bà vẫn khiêm nhường thưa: “Nếu đẹp lòng đức vua, xin ban phép cho người Do Thái ở Su-san ngày mai cũng được hành động như sắc chỉ đã cho phép hành động ngày hôm nay; còn mười đứa con của Ha-man thì xin treo cổ chúng lên giá” (Es 9:13).  Và rồi đức vua đã cho bà toại nguyện.

Chúa biết rõ chúng ta hơn chúng ta tự biết chúng ta.  Ngài biết điều gì tốt nhất cho chúng ta thì Ngài ban.  Ngài là Đấng chí thánh, chí minh, chí thiện, Ngài chỉ ban cho chúng ta điều tốt lành nhất.  Cha mẹ là những người đầy sai lầm và có thể có ác ý, thế mà họ còn lo cho con cái mọi điều tốt nhất kia mà.

Còn nữa, chúng ta cũng thường nói rằng chúng ta xin mà chưa được vì “Thiên Chúa thử thách chúng ta.”  Có lẽ “không ổn” đâu! Tác giả Thánh Vịnh nói: “Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi.  Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả.  Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết.  Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước, bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con” (Tv 139:1-5).  Chúng ta không đủ trình độ nên không thể biết tâm địa của nhau, vì thế chúng ta mới phải “thử thách” nhau để biết đâu là vàng hay thau.  Thiên Chúa dựng nên chúng ta, Ngài biết rõ chúng ta thế nào từ ngàn xưa, vậy thì Ngài cần gì thử thách?  Có chăng là Ngài muốn tạo “công trạng” cho chúng ta đó thôi.

Gương điển hình mà người Công giáo nào cũng “rành sáu câu” là Thánh nữ Monica.  Bà kiên trì cầu xin Chúa cho con trai là Augustinô quay về đường ngay nẻo chính.  Chúa không cho ngay, không phải là Ngài thích “đùa dai” hoặc muốn “trêu ngươi”, mà Ngài muốn cho người mẹ lập công phúc, và để người con thấy mẹ đau khổ mà “sáng mắt”, rồi phải quay về chính lộ.  Trạng thái đó giống như “triệt buộc”, nhưng chính “thế bí” đó mới khiến con người chúng ta hết “mù tâm linh.”

Ý Chúa nhiệm mầu, chúng ta không thể hiểu thấu.  Điều mà chúng ta cho là “bất hạnh”, là xui xẻo, vì không “như ý” của chúng ta, nhưng chính điều đó lại có lợi cho chúng ta.  Thiên Chúa đã nói qua miệng ngôn sứ Isaia: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55:8-9).  Vả lại, “như trời xanh trổi cao hơn mặt đất, tình Chúa thương kẻ tôn thờ Người cũng trổi cao” (Tv 103:11).

Thật tuyệt vời với câu nói của Giáo hoàng tiên khởi Phêrô: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6:68).  Lời của tông đồ Phêrô có vẻ như “miễn cưỡng”, nhưng đó là sự “miễn cưỡng” thật thú vị!

Cầu nguyện là “sức mạnh” của con người và là “sự yếu đuối” của Thiên Chúa.  Ngài chấp nhận như vậy và cho phép như vậy, vì Ngài quá đỗi yêu thương chúng ta.  Chúa Giêsu đã nói:“Ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho” (Mt 7:8; Lc 10:11). Và Ngài hứa chắc: “Bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, Thầy sẽ làm” (Ga 14:13).

Lạy Thiên Chúa, xin dạy bảo chúng con về đường lối của Ngài (Tv 25:4), xin chấn chỉnh nếp nghĩ của chúng con để chúng con luôn vui mừng khi tuân phục Thánh Ý Ngài.  Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

Trầm Thiên Thu

Con đường đổi mới, cải cách đi vào ngõ cụt?!

Con đường đổi mới, cải cách đi vào ngõ cụt?!

Viet-studies

Đặng Kiên Trung

Báo Tuổi Trẻ ngày 29/8 có bài viết ngắn “Không đổi mới, VN sẽ tụt hậu” của Mai Công Thành, ghi ý kiến Bộ trưởng Bộ KH-ĐT Bùi Quang Vinh phát biểu trong cuộc hội thảo khoa học ngày 28/8 về cải cách thể chế kinh tế VN để hội nhập và phát triển: “Đã đến lúc VN phải đổi mới mạnh mẽ về thể chế kinh tế… để đất nước phát triển tốt hơn, nhanh hơn…”. Trước đó, ngày 12/8 Phó thủ tướng Vũ Đức Đam phát biểu trong cuộc gặp 40 nhà doanh nghiệp tiêu biểu: “Cần đặt câu hỏi tại sao chúng ta tốt mà vẫn cứ nghèo. Bây giờ phải làm gì?” và nhấn mạnh: “Nhất định phải đổi mới mạnh mẽ hơn…” (Vietnamnet ngày 29/8).

Những từ ngữ “đổi mới”, “cải cách”… các vị lãnh đạo lớn nhỏ ở trung ương phát biểu trên các diễn đàn người dân nghe đến phát chán nhưng chẳng thấy đâu! Con đường đổi mới, cải cách hầu như đi vào ngõ cụt, nền kinh tế đất nước vẫn  lụn bại, hàng triệu người dân vẫn nghèo đói, văn hóa – xã hội vẫn suy đồi, tội ác vẫn lộng hành, mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” Đảng vẽ ra vẫn chỉ là giấc mơ; niềm tin người dân đối với sự lãnh đạo của Đảng không chỉ giãm sút, mà tích tụ thành mâu thuẫn ngày càng gay gắt, tiếng kêu than, nguyền rũa và những hành động chống đối bằng bạo lực của người dân đối với chính quyền diển ra đó đây chưa từng thấy!

Với thể chế chính trị và đường lối kinh tế của Đảng hiện nay như đi trong đường hầm không lối thoát, trong nước nhìn đâu cũng thấy rối ren, trong khi Trung Quốc vẫn hung hăng xâm lấn biển đảo … ! Người dân theo dõi nhất cử nhất động của các vị lãnh đạo cấp cao của Đảng trông đợi một sự thay đổi, bàn ra tán vào với tâm trạng vui buồn, hoài nghi, hy vọng! Như chuyến Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Mỹ, người dân đón nhận những gì diển ra như làn gió mát thổi vào lòng đang bức bối trước vận nước, mong chờ ở ông một sự thay đổi, nhưng khi về nước nghe các ý kiến phát biểu của ông thì vẫn là Nguyễn Phú Trọng thuở nào! Hay với Thủ tướng Nguyễn Tán Dũng, khi nghe thông điệp đầu năm 2014 và ý kiến phát biểu đối với Quân đội, Công an trung thành với Tổ quốc trước trung thành với Đảng… người dân lóe lên niềm hy vọng một sự chuyển biến mới nào đó, nhưng khi thấy quan điểm và cách hành xử những vấn đề chính trị hệ trọng trong nước, hay thái độ đối với Mỹ và Trung  Quốc ông thay đổi như màu da tắc kè không biết đâu mà lần, người dân lại thất vọng!

Hiện tình Đất nước thúc bách “Đã đến lúc VN phải đổi mới mạnh mẽ về thể chế kinh tế…” như ý kiến Bộ trưởng Bùi Quang Vinh. Nhưng về đổi mới chính trị thì sao? Tôi cảm thấy các vị lãnh đạo cấp cao trung ương dường như né tránh vấn đề “nhạy cảm” nầy và các chỉ thị, nghị quyết của Đảng gần như không nghe thấy đề cập có đầu có đũa! Thực tiễn chứng minh cho dù đổi mới thể chế kinh tế với việc tái cấu trúc nền kinh tế và đề ra một số chính sách mới về kinh tế, có thể có tác động thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng chừng mực nào đó, nhưng rồi gặp đủ thứ rào cản, vướng mắc trong thể chế chính trị không vượt qua được, nền kinh tế cũng không phát triển suôn sẻ, bền vững! Bài học đổi mới kinh tế từ Đại hội VI năm 1986 của Đảng còn đó, khi ấy có ý kiến đề xuất với Đảng cần đổi mới chính trị song song với đổi mới kinh tế, nếu không như người què đi một chân làm sao đi nhanh và bền vững?

Những tháng ngày nầy trong dịp kỷ niệm 70 năm Quốc khánh và Đại hội XII của Đảng đến gần, tôi đọc một số bài viết của các vị nhân sĩ, trí thức và các bậc lảo thành đầy tâm huyết đăng trên các trang mạng, cảnh báo thực trạng và tương lai u ám của đất nước, chỉ ra con đường đổi thay…! Tôi chú ý bài viết có tên Có lẽ vì chúng ta chưa đủ đau, đủ nhục của bà Song Chi. Những gì trong bài viết mô tả nhìn từ góc cạnh nào đó chẳng sai, tôi đọc có cảm giác như kim chích vào lòng, muốn thưa với  tác giả đôi điều: Là người trọn đời gắn bó với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất Đất nước, không phải bây giờ, mà nỗi “đau”, nỗi “nhục” của tôi từ khi “non sông liền một dãy” sau năm 1975, khi chứng kiến cảnh đất nước tan thương, lòng dân ly tán, cả triệu người ùn ùn bỏ nước ra đi… do những người nắm quyền sinh sát trong chế độ mới gây ra. Đến nay, nỗi “đau”, nỗi “nhục” của tôi đã lên đỉnh điểm, vì những lý do tôi chưa có thể nói, mà phải cam nén chặt vào lòng, nhưng tôi không vô cảm đối với Đất nước, mà hành xử mối quan hệ đối với Đất nước theo lương tâm của mình mách bảo… Những bạn bè, đồng chí cũ nhiều người cũng như tôi; với cán bộ, đảng viên đương chức cấp thấp hay đông đảo người dân bình thường, họ không phải không biết những gì diễn ra trên Đất nước nầy, nhưng vì chén cơm manh áo họ chịu thúc thủ! Còn với những người cầm quyền cấp cao trung ương, bà nói họ “chưa thấy đủ đau, đủ nhục” ư? Theo tôi, họ quá thấy đi chứ, nhưng vì quyền và lợi họ đang thụ hưởng sợ mất đi nên chấp nhận, không muốn bất kỳ đổi thay nào làm xáo trộn cuộc sống của họ; Tất nhiên không phải không có những người “mũ ni che tai”, chẳng biết “đau”, biết “nhục”, mà còn hãnh tiến trên nỗi “đau”, nỗi “nhục” của đồng loại!

Kết thúc bài viết, tác giả Song Chi mong “… bao giờ thì nỗi đau, nỗi nhục, nỗi giận dữ của chúng ta đủ mạnh để biến thành hành động?” như “Những người dân ở các nước XHCN Đông Âu cũ cho tới các nước Bắc Phi đã phải xuống đường thay đổi chế độ…”. Tôi thấy khả năng đó xa vời lắm bà Song Chi ơi, họa hoằng Việt Nam có một Góc-ba-chốp thì có lẽ…, nhưng hy vọng đó cũng mong manh không kém! Cầu trời điều tôi nói sai lầm!

Tháng Tám – Mùa Thu 2015

Tác giả gởi cho viet-studies ngày 31-8-15

70 năm sau Cách mạng tháng Tám

70 năm sau Cách mạng tháng Tám

Quân đội Nhân dân Việt Nam phất cờ chiến thắng trên nóc hầm chỉ huy của Pháp tại Điện Biên Phủ

Quân đội Nhân dân Việt Nam phất cờ chiến thắng trên nóc hầm chỉ huy của Pháp tại Điện Biên Phủ

Nguyễn Hưng Quốc

Đầu tháng 9 này, chắc chắn giới lãnh đạo và giới truyền thông Việt Nam sẽ làm ầm ĩ về những thành tựu họ đã đạt được trong suốt 70 năm kể từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Nhân dịp này, chúng ta cũng nên nhìn lại vấn đề công và tội của đảng Cộng sản đối với đất nước.

Công lớn nhất và đáng kể nhất của đảng Cộng sản là cuộc kháng chiến chống Pháp, kéo dài 9 năm, kết thúc với trận đánh oanh liệt tại Điện Biên Phủ vào năm 1954, chấm dứt ách đô hộ kéo dài gần một thế kỷ của thực dân Pháp. Dĩ nhiên, người ta có thể cho đó là thành tích của cả dân tộc chứ không hẳn của riêng đảng Cộng sản. Người ta cũng có thể phản biện lại: ngay trong điều gọi là công trạng này đã có mầm mống của tội ác qua việc đảng Cộng sản loại trừ những người yêu nước không phải cộng sản hoặc chống lại cộng sản. Tuy vậy, nhìn chung, chúng ta cũng không thể phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng Cộng sản trong việc mang lại độc lập cho Việt Nam.

Điều đáng tiếc là công trạng vừa nêu cũng là công trạng duy nhất mà đảng Cộng sản đã mang lại cho đất nước. Kể từ trận Điện Biên Phủ trở đi, với tư cách đảng cầm quyền độc tôn ở miền Bắc, và sau đó, kể từ năm 1975, trong cả nước, đảng Cộng sản vấp phải hết sai lầm này đến sai lầm khác, sai lầm nào cũng đẫm máu, và vì tính chất đẫm máu ấy, sai lầm biến thành tội ác.

Trước hết, đảng Cộng sản hoàn toàn sai lầm trong việc gây ra cuộc chiến tranh kéo dài 20 năm ở miền Nam. Đã đành mục tiêu khá chính đáng: thống nhất đất nước. Nhưng, như lịch sử gần đây chứng minh, để thống nhất đất nước, người ta không nhất thiết phải chọn biện pháp chiến tranh. Đông Đức và Tây Đức, sau mấy chục năm phân hoá, đã được thống nhất một cách hoà bình. Nam Hàn và Bắc Hàn không may mắn như vậy, cho đến nay, vẫn còn chia cắt, nhưng sự chia cắt ấy cũng không phải là một bất hạnh bởi vì ít nhất một nửa nước, Nam Hàn, cũng được sống một cách sung sướng và đầy tự hào với nền kinh tế phát triển vượt bực. Đảng Cộng sản Việt Nam, do thiếu kiên nhẫn và phần nào, cũng do hiếu chiến, đã chọn biện pháp bạo lực để thống nhất đất nước, dẫn đến hậu quả là một cuộc chiến tranh kéo dài với khoảng ba triệu người, ở cả hai miền, bị giết chết một cách thảm khốc và những chấn thương trong tâm lý, cho đến bây giờ, bốn mươi năm sau, vẫn còn khiến nhiều người nhức nhối.

Sau năm 1975, khi chiến tranh kết thúc, đảng Cộng sản lại vấp phải một sai lầm nghiêm trọng khác: Thay vì hoà hợp và hoà giải dân tộc, xoá bỏ hận thù, hàn gắn các vết thương do cuộc chiến tranh kéo dài mang lại để mọi người an tâm xây dựng lại đất nước, họ lại lập ra các trại cải tạo để giam nhốt và hành hạ những người thuộc phe thua cuộc, hơn nữa, còn có những chính sách kỳ thị nặng nề đối với dân chúng miền Nam, khiến cho đến nay, bốn mười năm sau, các vết thương chia rẽ vẫn còn sâu hoắm.

Có thể kể thêm vô số các sai lầm khác của đảng Cộng sản, trong đó, nổi bật nhất là các chính sách cải cách ruộng đất làm cả chục ngàn người bị chết, các chính sách chống xét lại đẩy hàng ngàn người vào cảnh tù đày, các chính sách đánh tư sản mại bản và ép dân đi kinh tế mới khiến hàng chục ngàn người lâm vào cảnh khốn cùng. Tuy nhiên, hai sai lầm và cũng là tội ác lớn nhất của đảng Cộng sản là: Một, làm nền kinh tế Việt Nam ngày càng kiệt quệ và hai, làm băng hoại nền văn hoá truyền thống của Việt Nam.

Trước hết, về kinh tế, hầu như ai cũng biết, vào cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, kinh tế Việt Nam, đặc biệt ở miền Nam, khá cao so với các quốc gia trong khu vực. Dạo ấy, Sài Gòn vẫn được xem là “hòn ngọc Viễn Đông”, niềm mơ ước của nhiều quốc gia khác. Vài năm sau 1975, khi chiến tranh kết thúc, Việt Nam trở thành một trong những quốc gia nghèo đói nhất thế giới. Hiện nay, tình trạng khá hơn một chút, nhưng Việt Nam vẫn chỉ thuộc quốc gia có thu nhập vào loại trung bình thấp.

Mới đây, trong cuộc hội thảo về kinh tế do Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam tổ chức vào ngày 28 tháng 8, các chuyên gia đều thừa nhận Việt Nam thua kém hẳn các quốc gia khác ở Châu Á. Với thu nhập bình quân trên đầu người khoảng 2000 Mỹ kim hiện nay, Việt Nam chỉ bằng Philippines năm 2010, Indonesia năm 2008, Thái Lan năm 1993, Malaysia năm 1988 và Hàn Quốc năm 1982. Nói cách khác, “GDP bình quân đầu người của Việt Nam đang thụt lùi so với Hàn Quốc khoảng 30-35 năm, Malaysia khoảng 25 năm, Thái Lan khoảng 20 năm, Indonesia và Philippines khoảng 5-7 năm.” Người ta cũng tiên đoán nếu mức phát triển kinh tế hiện nay không được cải thiện, khoảng cách nêu trên sẽ càng ngày càng lớn. Hơn nữa, Việt Nam còn có nguy cơ bị Campuchia và Lào qua mặt.

Chuyện kinh tế và phát triển rất dễ thấy, tuy nhiên, theo tôi, lầm lẫn – đúng hơn, tội ác – nghiêm trọng nhất của đảng Cộng sản là phá hoại văn hoá Việt Nam, một yếu tố trừu tượng và mơ hồ, khó nhận biết, nhưng có ảnh hưởng sâu sắc đến cách sống cũng như quan hệ giữa người với người. Các cuộc đấu tố trong cải cách ruộng đất vào giữa thập niên 1950 làm phá nát quan hệ hàng xóm vốn là một nét đẹp trong văn hoá truyền thống của dân tộc. Các cuộc phê bình và tự phê bình làm cho không ai còn tin ai được nữa. Các nỗ lực phá hoại sự hình thành của xã hội dân sự làm cho con người càng ngày càng trở thành vô cảm trước những nỗi đau khổ của người khác. Các hành động trấn áp những người yêu nước, đặc biệt trong các phong trào chống Trung Quốc, khiến mọi người đâm ra dửng dưng trước số phận của đất nước. Hậu quả của tất cả của những điều vừa kể là con người càng ngày càng trở nên ích kỷ, và hậu quả của sự ích kỷ này là con người càng ngày càng độc ác hơn. Không phải ngẫu nhiên mà các tội ác trong xã hội càng lúc càng trở thành phổ biến.

Những sự tụt hậu về kinh tế có thể được khắc phục nếu không phải trong vài năm thì cũng vài chục năm, nhưng những sự đổ vỡ trong văn hoá và đặc biệt trong đạo đức và quan hệ giữa người với người thì rất khó hàn gắn và để lại rất nhiều di hại, làm ảnh hưởng đến tiến trình phát triển kinh tế cũng như tiến trình dân chủ hoá của đất nước. Hơn nữa, nó cũng ảnh hưởng cả đến những nỗ lực chống lại các âm mưu bành trướng của Trung Quốc. Đó mới chính là điều đáng lo sợ nhất.

Những câu nói đáng nhớ của cố TBT Lê Duẩn

Những câu nói đáng nhớ của cố TBT Lê Duẩn

FB Lịch sử hiện đại: Chiến tranh và CM

Cố Tổng bí thư Lê Duẩn và những câu nói đáng nhớ:

“Ta đánh Mỹ là đánh cả cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cho cả nhân loại, đánh cho cả bọn xét lại đang đâm vào lưng ta”

“Thưa Bác, chúng ta muốn thắng Mỹ, có một điều rất quan trọng là chúng ta phải không được sợ Mỹ, nhưng cũng không được sợ Trung Quốc và không được sợ Liên Xô.”

Khi Trung Quốc đề nghị viện trợ 500 chiếc xe vào Trường Sơn với điều kiện kèm lái xe của họ, Lê Duẩn không đồng ý nhận bất cứ một chiếc xe nào vì tin rằng Trung Quốc lồng ghép vào đó những toan tính riêng của họ, ông nói: “Chừng nào tôi còn ngồi đây, thì tôi không cho một kẻ nào nghĩ trong đầu rằng có thể cướp được đất nước Việt Nam này”

“Chính trị là nghệ thuật về các khả năng”

Nhân dịp Tết 1976, Tổng bí thư Lê Duẩn tuyên bố: “Trong vòng mười năm nữa, mỗi gia đình ở Việt Nam sẽ có một radio, một TV và một tủ lạnh”.
Khi Lê Duẩn yêu cầu thành ủy Hà Nội bán chịu bàn ghế, giường tủ cho công nhân viên, thanh toán bằng cách trừ lương hàng tháng nhưng không được thi hành, ông tức giận nói:“Tôi hỏi thì nói không có tiền. Kìa, không có thì in ra! In ra! Không sợ lạm phát! Tư bản đế quốc in tiền mới lạm phát chứ ta, chuyên chính vô sản thì sao lại là lạm phát mà sợ?”

Năm 1976, khi về thăm quê ở làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong, Quảng Trị, khi thấy người dân đang luộc khoai mì đón Tết ông nói: “Mồng 1 tết mà tôi đến thăm nhà nào cũng thấy luộc sắn. Bà con ta còn nghèo quá! Trong đời hoạt động cách mạng, tôi đã chịu nghèo khổ, nhưng bây giờ đất nước đã được thống nhất, phải lo làm sao để cho dân giàu lên. Phấn đấu để đồng bào ta, các ông bà già, trẻ con mỗi bữa có một quả trứng, một cốc sữa mà rất khó.”

Năm 1976, Phát biểu của Tổng bí thư Lê Duẩn tại Hội nghị Trung ương 25: “Chế độ ta là chế độ chuyên chính vô sản. Chuyên chính trước hết phải là đường lối của giai cấp vô sản. Cốt tủy của chuyên chính vô sản là ở đó chứ không phải là ở chỗ sử dụng bạo lực. Đường lối đó là sự kết hợp lý luận Mác – Lê Nin với thực tiễn cách mạng của nước mình. Đường lối đó là khoa học nhất, là đúng quy luật, là bắt buộc. Đường lối đó không hề nhân nhượng với ai, chia sẻ với ai và hợp tác với ai cả. Đó là chuyên chính. Đường lối đó là: nhất thiết phải xóa bỏ giai cấp bóc lột, xóa bỏ chế độ sản xuất cá thể, xác lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Nhất thiết phải làm thế, không cho phép ai đi ngược lại. Đó là chuyên chính. Đường lối đó nhất thiết phải là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Không ai được chống lại. Đó là chuyên chính. Đường lối đó là đường lối của giai cấp công nhân, không ai được chống lại. Ai chống lại những cái đó thì bị bắt. Đó là chuyên chính.”

Ngày 13 tháng 3 năm 1977, tại trường Nguyễn Ái Quốc, Tổng Bí thư Lê Duẩn nói: “Loài người cho đến nay đã có ba phát minh vĩ đại có ý nghĩa bước ngoặt của lịch sử. Thứ nhất là tìm ra lửa. Thứ hai là tìm ra cách sử dụng kim khí. Thứ ba là làm chủ tập thể.”

Ảnh: Tổng bí thư Lê Duẩn năm 1969. (Sovfoto/Getty Images).