Hai câu chuyện về cách ứng xử tình người

Hai câu chuyện về cách ứng xử tình người

Câu chuyện 1:

Lúc còn là một thiếu niên, một lần, tôi được cha dẫn đi xem xiếc. Khi nhập vào hàng người đang xếp dài trước quầy vé, tôi chú ý đến một gia đình đứng ngay trước chúng tôi. Họ có đến những 8 đứa trẻ mà đứa lớn nhất có lẽ chưa đến 12 tuổi. Nhìn dáng vẻ những đứa bé ấy có thể đoán được gia đình chúng không giàu có.

Quần áo chúng không phải loại đắt tiền nhưng sạch sẽ và tươm tất. Và đó là những đứa trẻ biết cách cư xử. Cứ nhìn cái cách từng 2 đứa một nắm tay nhau xếp hàng sau bố mẹ chúng thì rõ. Chúng nói huyên thuyên một cách đầy phấn khích về những chú hề, những con voi và những trò xiếc khác mà chúng sẽ được xem tối nay. Rõ ràng chúng chưa từng đến rạp xiếc bao giờ. Buổi tối ngày hôm nay thật sự rất đặc biệt với cả 8 đứa trẻ ấy.

Cha mẹ chúng đang đứng ở đầu hàng với vẻ mặt hãnh diện nhất mà họ có thể. Người phụ nữ nắm lấy tay chồng, nhìn ông một cách dịu dàng. Ngay lúc ấy, người bán vé ngẩng lên và hỏi người đàn ông số vé ông ta cần. Người đàn ông trả lời đầy hứng khởi: “Cho tôi 8 vé trẻ con, 2 vé người lớn để tôi có thể dẫn cả nhà mình vào xem xiếc.”

Nhưng, khi người bán vé báo giá của 10 chiếc vé, bàn tay người vợ đột ngột rời khỏi tay chồng, đầu bà ta gục xuống. Mặt người đàn ông hơi tái đi. Ông ta tiến lại quầy vé gần hơn và hỏi : “Anh nói giá bao nhiêu?”

Người bán vé bình thản lập lại giá của 10 chiếc vé, nhưng người đàn ông không có đủ tiền. Làm sao ông ta có thể quay lại và bảo với 8 đứa con của mình rằng ông ấy không đủ tiền để dẫn chúng vào xem xiếc?

Chứng kiến tất cả những gì xảy ra, cha tôi lặng lẽ lấy từ trong túi ra tờ 20 đô và thả xuống đất. Sau đó, ông cuối xuống nhặt lên và vỗ vai người đàn ông, nói rất tự nhiên: “Xin lỗi, thưa ông, cái này vừa rơi ra từ túi ông”.
Người đàn ông hiểu những gì đang diễn ra. Ông không cầu xin của bố thí nhưng rõ ràng ông có thể đoán đây là sự giúp đỡ trong một tình huống ngặt nghèo. Bối rối trong giây lát rồi ông ấy nhìn thẳng vào mắt cha tôi, chụp lấy tay cha bằng cả hai bàn tay như muốn vắt kiệt tờ 20 đô, một giọt nước mắt rơi lặng lẽ xuống má, đôi môi mấp máy một cách khó khăn: “Cảm ơn, cảm ơn ông rất nhiều. Điều này thật sự ý nghĩa với gia đình tôi lúc này”. Sau khi nhìn cả gia đình người đàn ông khuất sau cánh cổng rạp xiếc, tôi và cha đón xe buýt về nhà, đơn giản bởi vì số tiền còn lại trong túi cha không đủ để mua vé cho hai cha con. Thật sự thì chúng tôi cũng chẳng dư dả gì! Nhưng tôi không hề giận cha. Những gì cha đã làm lúc đó đáng giá hơn cả ngàn buổi xem xiếc.

Câu chuyện 2: 

Theo một truyện cổ, Nasruddin là hiện thân của những người độc thân khó tính. Trong một buổi trà dư tửu hậu, khi được hỏi lý do vì sao ông không lập gia đình, Nasruddin giải thích như sau:

“Suốt thời thanh niên, tôi đã dành trọn thời gian để tìm kiếm người đàn bà hoàn hảo. Tại Cairo, thủ đô của Ai Cập, tôi đã gặp người đàn bà vừa đẹp, vừa thông minh, với đôi mắt đen ngời như hạt ô-liu, nhưng người đàn bà này lại không dịu dàng chút nào. Tôi đành bỏ Cairo để đi Baghdad, thủ đô Iraq, tôi tìm thấy người phụ nữ vừa đẹp, vừa thông minh, vừa dịu dàng, độ lượng song nàng và tôi không bao giờ đồng quan điểm về bất cứ chuyện gì.

Hết người này đến người khác, người được điều này lại thiếu điều kia. Tôi đã từng tưởng mình sẽ không bao giờ tìm được người phụ nữ lý tưởng cho cuộc đời mình. Thế rồi, một hôm, tôi gặp được nàng, người phụ nữ cuối cùng trong cuộc tìm kiếm của tôi. Nàng kết hợp tất cả những đức tính mà tôi hằng mong muốn. Nàng đúng là người hoàn hảo, nhưng cuối cùng tôi đành phải sống độc thân suốt đời vì người phụ nữ ấy cũng đang đi tìm một người đàn ông lý tưởng mà dưới mắt nàng, tôi là người đàn ông còn quá nhiều thiếu sót.”

Lời bàn:
Người đàn ông độc thân trong câu chuyện trên đây đã quên một trong những quy luật cơ bản của cuộc sống là luật thích nghi. Thay vì bắt người khác và cuộc sống phải thích nghi với chúng ta, chính chúng ta phải tìm cách thích nghi với cuộc sống và người khác.

Tâm lý thông thường của con người là đòi hỏi người khác hơn là đòi hỏi chính bản thân mình. Chúng ta đòi hỏi người khác phải thế này, thế kia nhưng chính chúng ta quên rằng chúng ta chưa làm được những điều mà người khác trông chờ nơi chúng ta.

S.T.

TƯ TƯỞNG CỦA MỘT BÁC SĨ TỬ TẾ.

TƯ TƯỞNG CỦA MỘT BÁC SĨ TỬ TẾ.

Bài diễn thuyết sâu sắc của một vị Giáo sư bên Tàu đã nói đúng thực trạng đáng báo động của nền Y khoa hiện nay, khiến cả hội trường với hơn 300 người nghe phải tĩnh lặng.

y khoa, nhân văn, im lặng, hội trường, Hội nghị, diễn thuyết, chữa bệnh, bệnh viện, Bài chọn lọc, bac si,

Giáo sư Viên Chung diễn thuyết tại Hội nghị. (Ảnh: Internet).

Trong “Hội nghị Quốc tế thường niên về Quản lý khoa Lâm sàng”, Giáo sư Viên Chung, Giám đốc nhà xuất bản Đại học Y khoa Dung Hợp TC đã phát biểu chủ đề diễn thuyết mang tên “Bác sĩ làm việc thích ứng với văn hóa”. Ngữ điệu của ông bình thường nhưng lại chỉ ra những sai lầm khắp nơi, rất nhiều ví dụ làm cho người ta phải suy nghĩ sâu sắc; Hội trường với hơn 300 người nghe đều lặng ngắt như tờ. Rốt cục, Giáo sư Viên Chung đã nói đến những điều gì?

Dưới đây là toàn bộ bài diễn thuyết của ông:

Một người tìm anh xem bệnh, họ đem hết những việc riêng tư của mình nói cho anh biết, cởi hết quần áo cho anh kiểm tra, đem hết những thống khổ kể cho anh, đem cả sinh mệnh mà giao cho anh, những người này (Bác sĩ) chỉ đứng thứ hai sau Thần, chứ không còn là một người bình thường nữa .

Bởi vì có thương yêu mới có việc chữa bệnh và bệnh viện, nếu như sự yêu thương này mất đi thì không thể gọi là chữa bệnh, mà nó trở thành giao dịch, một giao dịch sẽ không có sự tôn nghiêm.

Khi đài Truyền hình Trung ương truyền bá những quảng cáo giả dối: “Ngậm ăn đông trùng hạ thảo”, “Cuộc sống số một”…, thì chúng ta có thể nói trắng ra rằng: toàn bộ các nhánh sông đều đã bị ô nhiễm, không có con cá nào có thể thoát khỏi bị ô nhiễm, phương pháp hành xử  ô nhiễm chỉ có thể là bắt đầu từ thượng du.

Thường xuyên có nhiều Sinh viên hỏi tôi tính Nhân văn của Y khoa có chỗ lợi ích nào? Tôi muốn từ hai mặt mà nói:  mặt thứ nhất là giá trị Quan, mặt thứ hai là giá trị Nhân văn. Giá trị Quan là Đạo, giá trị Nhân văn là Thuật.

Sự tôn nghiêm bên trong giá trị Quan:      

Đầu tiên, tôi muốn nói một chút về “Đạo”. Hiện nay đã đến cuối năm rồi, rất nhiều bệnh viện đều sẽ mở Đại hội tổng kết trong tháng này. Tôi có nghe qua một chút khi Viện trưởng bệnh viện bắt đầu Đại hội, ông nói: “Một năm đã qua, trải qua nỗ lực không ngừng của toàn thể công nhân viên chức bệnh viện, bệnh nhân nằm ở viện chúng ta tăng 20%, bệnh nhân ở phòng khám bệnh của chúng ta tăng 30%, thu nhập của chúng ta tăng thêm 10%”.

Thế đấy, những lời này có phải là có vấn đề gì không? Có thể các vị Giám đốc, và các Bác sĩ ngồi đây đều sẽ cảm thấy đây là một việc rất tự nhiên. Kỳ thực, tôi nói cho mọi người biết: những lời này không nên được nói ra từ một Viện trưởng, mà phải là lời của nhà Kinh doanh, Viện trưởng chúng ta nên nói những điều gì? Điều chúng ta nên nói là: “Chúng ta đã chữa khỏi cho bao nhiêu người, chúng ta đã giúp được cho bao nhiêu người” ?.

Chúng ta đã quên mất cái gì gọi là bệnh viện, chẳng phải giá trị Quan đã gặp bất trắc. Cũng có Bác sĩ nói cho tôi biết: bản thân anh ta làm Bác sĩ là để kiếm tiền. Điều này vốn không sai, nhưng tôi muốn nói cho các vị rằng: nếu chỉ muốn kiếm tiền thì đừng bao giờ làm Bác sĩ !. Có nhiều công việc trong xã hội này so với nghề Bác sĩ vẫn kiếm được rất nhiều tiền, buôn bán bất động sản, khai thác mỏ, tài chính, IT… Thế nhưng, chỉ có hai nghề vừa kiếm ra tiền vừa được sự tôn nghiêm, một là Bác sĩ, hai là Giáo viên. Ở Nhật Bản, chỉ có hai nghề có thể được gọi là “Tiên sinh”, đó chính là hai nghề này: Bác sĩ và Giáo viên !.

Tôi có một người bạn, là Trưởng phòng Nghiên cứu Khoa học bệnh viện Hiệp Hòa, Bắc Kinh TC, ông ta là người Tân Cương. Ông ấy từng kể cho tôi một chuyện, người Duy Ngô Nhĩ tin rằng: con người khi chết đi có thể lên trời, nhưng không phải ai cũng có cơ hội lên trên đó, mà phải trải qua thảo luận tập thể. Tham quan, công an xấu, trật tự đô thị xấu … phải bị đọa xuống địa ngục; nhưng chỉ có hai nghề có thể lên trời mà chẳng cần bàn cãi nhiều, đó chính là nghề Bác sĩ và Giáo viên !.

Điều gì gọi là tôn nghiêm? Tôi cũng là một Bác sĩ, tôi cũng có nhận thức về điều này. Một người tìm tôi xem bệnh, đem hết những tâm tư thầm kín kể cho tôi nghe, cởi hết quần áo cho tôi kiểm tra, đem hết những thống khổ nói cho tôi biết, giao cả sinh mệnh cho tôi, loại người này chỉ xếp sau Thần mà thôi, không phải người bình thường. Nếu như Bác sĩ không xem thật kỹ bệnh mà chỉ xem túi tiền của người bệnh, người bệnh sẽ hận các vị đến chết !.

Cơ Đốc Giáo có hai điều rất quan trọng: một là quan niệm Thần thánh, hai là tinh thần Bác ái. Quan niệm Thần thánh cho tôi biết Bác sĩ là tập thể những người ưu tú. Hội trưởng Hiệp hội Bác sĩ TC là Trương Nhạn Linh từng nói với tôi, ông ấy đến Nhật Bản vào thập niên 90. Ở Nhật lúc đó có một người thường xuyên đến thăm hỏi các Bác sĩ, điều này khiến tập thể Bác sĩ TC rất lấy làm lạ, “Chúng tôi không phải đoàn đại biểu chính trị, cũng không phải đoàn đại biểu kinh tế, cũng không phải đoàn đại biểu ngoại giao, chỉ là một nhóm Bác sĩ” !.  Cuối cùng, người kia mới nói một câu: “Tôi cả đời muốn làm Bác sĩ, nhưng thi không đậu, thế nên tôi tôn kính Bác sĩ” !.

Chủ tịch bệnh viện Hòa Mục Gia, Bắc Kinh, Lý Bích Tinh, là người Do Thái, bà từng nói với tôi vì sao người Do Thái nhiều người thành công, thông minh hơn những người khác. Kỳ thực là vì người Do Thái có quan niệm Thần thánh. Người Do Thái tin rằng: họ là con dân của Thượng Đế, cho nên họ so với người khác càng nỗ lực, càng chăm chỉ, cũng càng dễ thành công !.

Bác sĩ nếu có được quan niệm Thần thánh, họ sẽ là những người ưu tú nhất, bất kể là ở phương diện nào, dù cho là thầy thuốc làng, họ cũng sẽ là những người ưu tú nhất nơi đó !. Hai ngày trước, Đài Loan có một Bác sĩ rất ưu tú là Kha Văn Triết, hiện đã thành Thị trưởng thành phố Đài Bắc. Không chỉ là Bác sĩ, ông còn là Lãnh đạo, một Bác sĩ giỏi không chỉ về chuyên môn, mà còn về nhân phẩm, nó giúp ông sự ủng hộ và tán thành của mọi người.

Tuy nhiên, ai ai trong chúng ta cũng biết, mấy năm nay xã hội chúng ta phải đối mặt với rất nhiều vấn đề. Sinh viên Y khoa Đại học Phục, Thượng Hải, đầu độc chết chính bạn học cùng ký túc xá, cậu ta đã nói một câu: “Tôi là ‘cái xác người trống rỗng’, không có giá trị Quan”!.

Tôi không biết mọi người có từng nghĩ tới chưa, tại sao cậu ta là “cái xác người trống rỗng”? Suy nghĩ một chút mấy năm nay, vẫn có một số Sinh viên Đại học giết người, như Mã Gia Tước, Dược Gia Hâm. Những năm nay chúng ta đã sáng tạo ra tài phú vật chất cực lớn, thế nhưng chúng ta đã sáng tạo được tài phú tinh thần chưa? Mọi người có thể để tay lên ngực tự hỏi lòng mình. Quốc gia chúng ta có rất nhiều mỹ đức truyền thống, lòng yêu nước, yêu quê hương, giảng hiếu tận, giảng cần kiệm, giảng lấy đức phục người, giảng thiên hạ công bằng, giảng tiết kiệm phục lễ, khắc kỷ phục lễ (lời của Khổng Tử: ước chế tự thân khôi phục lễ nghĩa), giảng lễ nghĩa nhân trí tín, thế nhưng dường như hiện nay chẳng ai giảng về điều này nữa !.

Sự cứu rỗi của tinh thần Nhân văn:

Thư cục Trung Hoa vừa xuất bản hai cuốn tài liệu giảng dạy cơ sở văn hóa truyền thống Trung Hoa của Đài Loan. Các bạn Đài Loan của tôi đều cho tôi biết, họ từ nhỏ đều đọc “Luận ngữ”, còn chúng ta thì làm gì? Bài học đạo đức phẩm cách tư tưởng của chúng ta ở tập thể là “bịt tai lại mà đi trộm chuông”. Có Giáo sư Bắc Đại nói rằng: chúng ta mấy năm nay đều bồi dưỡng rất nhiều “người tư tưởng ích kỷ một cách tinh xảo”, cái gì gọi là người tư tưởng ích kỷ một cách tinh xảo? “Tinh xảo” là thông minh, “tư lợi” là mọi thứ đều lấy tự ngã làm trung tâm.

Chúng ta nên thật sự phản tỉnh lại, có một lần tôi và Sa Beining nói chuyện tại Vũ Hán, ông ta hỏi tôi: “Ngành nghề chữa bệnh như thế nào?”. Tôi liền đáp lại: “Trước hết đừng nói ngành nghề chữa bệnh như thế nào, khi Đài Truyền hình Trung ương truyền bá những quảng cáo giả dối như “Ngậm ăn đông trùng hạ thảo” “Life No.1”…, đã nói rõ toàn thể dòng sông đã bị ô nhiễm, không có con cá nào thoát khỏi ô nhiễm, cách hành xử  ô nhiễm là khởi từ thượng du. Tổng bí thư trung ương Đảng là họ Tập, hiện đang xử lý thượng du, dòng sông có lẽ rất nhanh sạch sẽ” !.

Điều này kỳ thực là giá trị Quan. Các vị đều là những Chuyên gia lớn nắm giữ kỹ thuật tiên tiến các loại, có đầy người bản lĩnh có thể làm hai chuyện. Một là thấy việc nghĩa hăng hái làm, thấy việc bất bình ra tay tương trợ; hai là chặn đường cướp bóc. Làm tốt làm xấu, bản chất văn hóa trong nội tâm người ấy sẽ quyết định lựa chọn cuối cùng của mình.

Có vị Bác sĩ cho tôi biết: ông ta trong ngày đầu tiên đi làm ở khoa Tiêu hóa, mỗi ngày ít nhất phải hoàn thành chỉ tiêu là chữa bệnh được cho 1 người. Thế nhưng hôm đó ông ta cả ngày 1 bệnh nhân cũng không có, mà giờ tan ca sắp đến. Khi ấy, một nông dân bị bệnh tim mạch, vì bị đeo sai số nhầm Khoa và tìm đến. Do đó, ông đã làm trái lương tâm mà xem bệnh, và kê thuốc cho người nông dân này. Khi bệnh nhân lấy thuốc rồi quay lại hỏi, ông ta cảm thấy nội tâm thật sự áy náy. Ông ta bèn bảo người nông dân này hãy tới lấy số lần nữa để đi khám tim mạch, người nông dân đó đột nhiên khóc ròng nói: “Tôi đã dùng hết tiền rồi !”. Vị Bác sĩ này sau khi đã bộc bạch chuyện của mình với đồng nghiệp, thì cảm giác xấu hổ cứ vây lấy tâm can, từ đó rời bỏ bệnh viện, không làm Bác sĩ nữa.

Khi các Viện trưởng, cán bộ cấp trên chế định chính sách, đừng bao giờ để Bác sĩ chúng ta phải phải hy sinh sự lương thiện để đổi lấy quyền lợi chính đáng lúc đó. Vốn dĩ anh ta nên có tiền lương 1 vạn đồng, nhưng chỉ phát cho anh ta 2.000, còn 8.000 đồng để anh ta tự mình kiếm lời; đây là hành vi gian ác !.

Cái gì là bệnh viện? Trong thời Trung cổ, xã hội của Cơ Đốc giáo có rất nhiều người nghèo là ăn mày lang thang khắp nơi, không ai quản đến. Vì thế, họ đã bố trí một nơi để họ giảm bớt khổ cực, cuối cùng từ từ tạo thành bệnh viện. Cái gì là chữa bệnh? Chữa bệnh khởi nguyên là một tấm lòng đồng cảm, con người quý ở chỗ có tâm đồng cảm, lòng thương xót. Vì chứng kiến thấy người khác bị đau khổ, chịu khổ chịu nạn mà mình cũng cảm thấy  thương xót mà giúp đỡ người ta, đây mới gọi là chữa bệnh.. Bởi vì yêu thương mới có chữa bệnh và bệnh viện, nếu mất đi tinh thần này thì không thể gọi là bệnh viện, mà gọi là giao dịch, nó không có tôn nghiêm.

Chúng ta cơ hồ đem bệnh viện trở thành một cái xí nghiệp, nhóm lãnh đạo của chúng ta cả đám mở hội họp, điều thích nhất nói đến là “Bệnh viện chúng ta 500 triệu, bệnh viện chúng ta 800 triệu, bệnh viện chúng ta 900 triệu, bệnh viện chúng ta 1,2 tỷ, bệnh viện chúng ta 2 tỷ !”. Tại sao Trưởng khoa Phụ sản bệnh viện Hiệp Hòa, Lang Cảnh, và Viện sĩ nói rằng:  nhân viên phòng Y tế mỗi tuần phải đọc một cuốn sách ngoài chuyên môn, chính là vì để mở rộng mặt tri thức. Bác sĩ chúng ta nên học được cách giao tiếp với người, chúng ta không thể chỉ học mỗi cách giao tiếp với bệnh tật thôi !.

“Có khi đi trị liệu, thường xuyên giúp đỡ, lại luôn là an ủi”, luôn là an ủi, thế nhưng chúng ta có năng lực an ủi không? Cái này hoàn toàn là nhân văn Y học phải được bồi đắp. Chỗ khác biệt giữa Bác sĩ TC, và bác sĩ Mỹ Quốc là ở chỗ nào? Bác sĩ TC hiện nay kinh nghiệm lâm sàng vô cùng phong phú, chúng ta đã làm nhiều giải phẫu như thế. Thế nhưng so sánh Bác sĩ TC và Mỹ Quốc một chút, điều khác biệt ở chỗ “thương yêu”. Bác sĩ Mỹ Quốc làm bệnh nhân cảm nhận được tình yêu, bác sĩ TC không làm được !.

Không đủ tin tưởng khoa học kỹ thuật, đây là một bộ phận rất quan trọng của văn hóa truyền thống dân tộc chúng ta. Toàn thế giới đại đa số dân tộc đều tin rằng: con người chết rồi có thể luân hồi, có cuộc đời sau này. Thế nhưng dân tộc chúng ta muốn truy cầu trường sinh bất tử, thế nên chúng ta phát minh ra rất nhiều phương pháp trường sinh bất tử. Chúng ta tuyệt đối là một dân tộc không có sự chuẩn bị cho cái chết. Người TC nào cũng có thể nhẫn chịu, mâu thuẫn gia đình, mâu thuẫn công việc, mâu thuẫn xã hội đều có thể nhẫn, thế nhưng khi đối mặt với cái chết thì không nhẫn chịu được. Chúng ta không có chuẩn bị, đối mặt với cái chết, hành động tâm lý đầu tiên là phẫn nộ và khiếp sợ. Do đó, văn hóa truyền thống của chúng ta quá cần tinh thần Nhân văn Y học !.

Tôi nói một vấn đề cuối cùng, cũng là vấn đề làm thế nào để trở thành một người Bác sĩ tốt. Thứ nhất, tôi không muốn nói mọi người ai cũng phải đi học Lôi Phong, học Bạch Cầu Ân, tôi chỉ cần nói cho các vị Chuyên gia và Lão sư, các vị nhất định phải nghĩ đến khi mình già rồi thì cũng sẽ rơi vào trong tay một Bác sĩ nào đó. Các vị trước hết làm một Bác sĩ tốt, học trò của các vị mới có thể là Bác sĩ tốt, đợi khi các vị già rồi, vị Bác sĩ này sẽ chăm sóc các vị. Hiện nay các vị không làm được một Bác sĩ tốt, đợi khi các vị già rồi, học trò của các vị sẽ chiếu theo phương pháp của các vị mà trừng phạt các vị. Chúng ta không thể khiến học trò học Lôi Phong khi chính mình đang học theo Hòa Thân.

Thứ hai, vì con cái mà làm một người tốt. Rất nhiều việc, người Tàu chỉ có vì con mới làm, vì con mới cải biến. Tôi từng giảng về vấn đề cai thuốc, tuy chúng ta học người nước ngoài trên hộp thuốc lá in hình đầu lâu và phổi đen, nhưng rất nhiều người căn bản sẽ không cai thuốc. Chúng ta dưới tình huống nào mới cai được? Chỉ có khi trên bao thuốc có viết “Hút thuốc sẽ khiến cho con của các bạn biến thành dị dạng”, tôi nghĩ người đọc câu đó nhất định sẽ cai !.

Thứ ba, con người cả đời này vì cái gì mà đến đây? Nếu như có cơ hội đi trong sa mạc Tân Cương để quan sát 1 lần, nếu như có một vũng nước, thì nhất định phải trồng cỏ, có cỏ mới có dê bò, có dê bò mới có người. Giá trị của cỏ là vì để cho dê bò sống tốt, giá trị của dê bò là để cho con người sống tốt, giá trị của con người là khiến cho những sinh vật khác sống tốt. Xã hội này vì có bạn mới có thêm 1 phần tốt đẹp, đừng vì có bạn mà lại thêm lại một phần thống khổ hoặc bất hảo nào khác !.

Tháng 10 Kính Đức Mẹ Mân Côi

 Tháng 10 Kính Đức Mẹ Mân Côi

Tháng 10 được dành để tôn kính Đức Mẹ Mân Côi.  Ngày 7 tháng này được giáo hội mừng kính Đức Mẹ Mân-côi.

Theo miêu tả của tu sĩ Alan de la Roch, Dòng Đa Minh (Dominic) thế kỷ XV, Đức Mẹ đã hiện ra với thánh Đa Minh năm 1206 sau khi thánh nhân cầu nguyện và sám hối vì đã không thành công trong việc chống tà thuyết Albigensianism (*).

Đức Mẹ đã khen ngài về sự chiến đấu anh dũng của ngài chống lại tà thuyết và trao cho ngài Chuỗi Mân Côi làm vũ khí phi thường, đồng thời giải thích cách sử dụng và hiệu quả của Chuỗi Mân Côi.  Đức Mẹ bảo thánh Đa Minh rao truyền Chuỗi Mân Côi cho những người khác.

HOLY ROSARY OF VIRGIN MARY

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Kinh Mân Côi có nguồn gốc từ chính Thiên Chúa, từ Kinh thánh, và từ Giáo hội.  Không lạ gì khi Chuỗi Mân Côi gần gũi với Đức Mẹ và mạnh mẽ đối với Nước Trời.   Rất nhiều lần Đức Mẹ hiện ra đều cho thấy tay Mẹ cầm chuỗi tràng hạt Mân Côi.

Rất nhiều người đã được ơn từ việc lần Chuỗi Mân Côi.

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng thường xuyên lần Chuỗi Mân Côi khi ngài đi bách bộ.  Nếu xem lại lịch sử, chúng ta thấy có nhiều chiến thắng nhờ Chuỗi Mân Côi.  Truyền thống ban đầu đã có chiến thắng tà thuyết Anbi tại trận Muret năm 1213 nhờ Chuỗi Mân Côi.

Dù không muốn chấp nhận truyền thống đó thì cũng phải chân nhận rằng thánh Giáo-hoàng Piô V đã góp phần chiến thắng đội quân Thổ Nhĩ Kỳ vào Chúa Nhật đầu tháng 10 năm 1571.  Ngay thời điểm đó có Hội Mân Côi (Rosary confraternities) tại Rôma và những nơi khác.  Do đó, thánh Giáo-hoàng Piô V đã truyền phải tôn kính Kinh Mân Côi vào chính ngày đó.

Năm 1573, Đức Giáo-hoàng Grêgôriô XIII công bố việc mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi tại các nhà thờ có bàn thờ dâng kính Đức Mẹ Mân Côi.

Năm 1671, Đức Giáo-hoàng Clêmentô X mở rộng lễ này trên toàn cõi nước Tây Ban Nha sau chiến thắng anh dũng lần thứ hai trên người Thổ Nhĩ Kỳ, những người đã có lần (cũng như người Nga) đe dọa phá hủy văn minh Kitô giáo, xảy ra vào ngày 5-8-1716, khi hoàng tử Eugene đánh bại họ tại Peterwardein (Hungary).

Do đó, Đức Giáo-hoàng Clêmentô XI mở rộng lễ Đức Mẹ Mân Côi trong toàn Giáo hội.  Từ ngày ấy đến nay, giáo-hội hoàn vũ đặc biệt kính Đức Mẹ Mân Côi vào tháng 10 và tất cả mọi tín hữu có thói quen đua nhau đọc kinh Mân-Côi trong tháng này.

Lm. William G. Most đã viết trong cuốn “Đức Maria trong Đời sống Chúng ta” (Mary in Our Lives) như sau :

      “Ngày nay, các mối nguy hiểm còn lớn hơn người Thổ Nhĩ Kỳ, không chỉ đe dọa Kitô giáo mà đe dọa cả nền văn minh, Đức Mẹ thúc giục chúng ta trở lại với Chuỗi Mân Côi để được giúp đỡ.  Nếu nhân loại đủ số người làm vậy, đồng thời thực hiện các điều kiện khác mà Đức Mẹ đã đưa ra, chúng ta có lý do chính đáng để tin rằng chúng ta sẽ thoát khỏi mọi mối nguy hiểm”.

Nhưng thiết nghĩ chúng ta cần tích cực lần Chuỗi Mân Côi hàng ngày không những vì mong được lợi cho mình, cho gia đình, cho giáo-hội và cho thế giới…mà trước tiên vì lòng yêu mến Chúa và Mẹ Maria chân thành.

(*) Albigensianism: Anbi giáo, một phong trào Kitô giáo được coi là hậu duệ thời trung cổ của Mani giáo (Manichaeism – xem chú thích bên dưới) ở miền Nam nước Pháp hồi thế kỷ XII và XIII, có đặc tính của thuyết nhị nguyên (đồng hiện hữu của hai quy luật đối nghịch là Thiện và Ác). Thuyết này bị kết án là tà thuyết thời Tòa án Dị giáo (Inquisition).

Manichaeism: Mani giáo, hệ thống tôn giáo nhị nguyên do tiên tri Manes (khoảng 216–276) sáng lập ở Ba Tư hồi thế kỷ III, dựa trên vụ xung đột nguyên thủy giữa ánh sáng và bóng tối, kết hợp với các yếu tố của Kitô giáo ngộ đạo (Gnostic Christianity), Phật giáo (Buddhism), Bái hỏa giáo (Zoroastrianism), và các yếu tố ngoại giáo khác. Thuyết này bị chống đối từ phía Hoàng đế La mã, các triết gia phái tân Platon (Neo-Platonist) và các Kitô hữu chính thống.

Sưu Tầm và Tổng Hợp từ bài của Trầm Thiên Thu

Việt Nam ngả về Mỹ hay Trung Quốc?

Việt Nam ngả về Mỹ hay Trung Quốc?

Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh (phải) bắt tay Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ash Carter trong cuộc gặp tại Hà Nội ngày 1/6/2015.

Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh (phải) bắt tay Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ash Carter trong cuộc gặp tại Hà Nội ngày 1/6/2015.

Trà Mi-VOA

Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam tuyên bố Việt Nam cần cân bằng trong quan hệ với Trung Quốc và Hoa Kỳ, ‘không đi với nước lớn này để chống lại nước lớn khác’.

Truyền thông trong nước dẫn tuyên bố của đại tướng Phùng Quang Thanh tại buổi thảo luận về an ninh quốc phòng chiều 22/10 ở Quốc hội khẳng định Việt Nam theo đường lối đối ngoại tự chủ, không ngả về bên nào hay bị chi phối bởi nước nào.

Ông Thanh nói chỉ cần ‘lệch lạc, đứng về một nước lớn nào quay lưng lại nước lớn khác sẽ gây phức tạp’.

Phát biểu của lãnh đạo ngành quốc phòng Việt Nam được đưa ra giữa bối cảnh quan hệ Việt – Trung tuột dốc xuống mức thấp nhất vì tranh chấp Biển Đông và bang giao Việt – Mỹ ngày càng trở nên nồng ấm.

Washington đang chuyển trọng tâm về Châu Á để kiềm chế Trung Quốc ‘giương oai diễu võ’ trong lúc Hà Nội tìm cách xích lại gần hơn với cường nước cựu thù để đối phó với sự o ép về nhiều mặt của Bắc Kinh.

Từ sau vụ giàn khoan Hải Dương 981 xâm nhập vùng biển Việt Nam hồi tháng 5 năm ngoái, Bắc Kinh không ngừng thách thức chủ quyền của Hà Nội từ các hoạt động tuần tra, gây hấn, tấn công tàu bè, xây đảo nhân tạo, cho tới đặt các cơ sở quân sự-dân sự kể cả phi đạo và hải đăng tại các khu vực đôi bên đang tranh chấp.

“ Để nắm được cơ hội đó, Việt Nam cần phải dứt khoát. Mỹ đã dọn bàn cổ cho Việt Nam, trong đó có TPP. Việt Nam giờ chỉ cần làm sao chuẩn bị để được hưởng những cái lợi đó. Tôi nghĩ Việt Nam bây giờ đã thấy được giữa cái tương lai và sự nguy hiểm cho đất nước như thế nào.

Giáo sư Ngô Vĩnh Long.”

Các hành động khiêu khích và bất chấp luật lệ của Trung Quốc bị quốc tế lên án là đe dọa hòa bình khu vực cũng như an ninh của các nước lân cận, trong đó có Việt Nam, khiến dân Việt ngày càng mất lòng tin vào người láng giềng ‘4 tốt’.

Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam kêu gọi ‘Trong quan hệ với Trung Quốc và Mỹ, Việt Nam cần hữu nghị với cả hai. Có như vậy, chúng ta mới giữ được thế cân bằng, chủ động, và độc lập’.

Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng Hà Nội không thể có được mối quan hệ tốt ‘song hành’ như mong muốn giữa các tham vọng và hiểm họa gia tăng từ Trung Quốc.

Theo giới phân tích, để tương lai nước Việt không bị định đoạt bởi Trung Quốc, Hà Nội cần nhận rõ đâu là bạn tốt, đâu là kẻ trục lợi mà căng thẳng Biển Đông chính là cơ hội giúp Việt Nam thoát khỏi quỹ đạo của Trung Quốc.

Giáo sư Ngô Vĩnh Long từ đại học Maine (Hoa Kỳ) chuyên nghiên cứu lịch sử Đông Nam Á, Đông Á, quan hệ Mỹ – Á nhận định:

“Để nắm được cơ hội đó, Việt Nam cần phải dứt khoát. Mỹ đã dọn bàn cổ cho Việt Nam, trong đó có TPP. Việt Nam giờ chỉ cần làm sao chuẩn bị để được hưởng những cái lợi đó. Tôi nghĩ Việt Nam bây giờ đã thấy được giữa cái tương lai và sự nguy hiểm cho đất nước như thế nào”.

Luật sư Lưu Tường Quang, một người am hiểu tình hình Biển Đông nguyên là một nhà ngoại giao của Việt Nam Cộng Hòa, bày tỏ kỳ vọng:

“Nếu họ chuyển trục, nếu Hiệp định TPP được Quốc hội Mỹ chuẩn y và có hiệu lực, thì cơ hội  Việt Nam chịu uống thuốc đắng để dã tật, để phần nào bớt lệ thuộc vào Trung Quốc có thể xảy ra. Không những xảy ra về phương diện kinh tế mà cả luôn về mặt chính trị. Tôi hy vọng với sự đe dọa rất lớn từ Trung Quốc, đại hội đảng lần thứ 12 năm 2016 sẽ đi tới một quyết định tương tự như đại hội 6 năm 1986. Nếu những điều này trở thành sự thật, đại hội 12 sẽ có tầm vóc chuyển đổi Việt Nam từ chế độ cộng sản độc tài lệ thuộc Trung Quốc thành một nước Việt Nam độc tài nhưng thân Mỹ. Điều đó có lợi cho đất nước chúng ta, theo nghĩa là chúng ta bớt lệ thuộc vào Trung Quốc”.

“ Tôi hy vọng với sự đe dọa rất lớn từ TQ, đại hội đảng lần thứ 12 năm 2016 sẽ đi tới một quyết định tương tự như đại hội 6 năm 1986. Nếu những điều này trở thành sự thật, đại hội 12 sẽ có tầm vóc chuyển đổi VN từ chế độ cộng sản độc tài lệ thuộc TQ thành một nước VN độc tài nhưng thân Mỹ. Điều đó có lợi cho đất nước chúng ta, theo nghĩa là chúng ta bớt lệ thuộc vào TQ.

Luật sư Lưu Tường Quang.”

Trong số các lý do khiến Hà Nội và Washington chưa thể thật sự xích lại gần nhau có vấn đề nhân quyền Việt Nam và bài học lịch sử từ chiến tranh khi Mỹ bỏ rơi đồng minh Việt Nam Cộng Hòa để bắt tay với Trung Quốc.

Các chuyên gia cho rằng để quan hệ Việt – Mỹ ngày nay được thật sự khắng khít, ngoài việc Việt Nam phải cải thiện nhân quyền, Washington cũng cần tạo lòng tin cho Hà Nội.

Luật sư Quang chia sẻ quan điểm:

“Để Việt Nam tin tưởng hơn vào Hoa Kỳ, Mỹ nên tháo gỡ hoàn toàn lệnh cấm vận võ khí sát thương để giúp Việt Nam có được phương tiện quân sự chống trả Trung Quốc trong trường hợp bị Trung Quốc tấn công bằng đường bộ”.

Nhiều người nói trong nội bộ đảng Cộng sản Việt Nam hiện chưa thống nhất được chính sách thân Tây hay thân Tàu. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng không có phe thân Tây hay thân Tàu trong ban lãnh đạo đảng, mà chỉ có một phe quyết giữ cho được độc tài của đảng Cộng sản vì lợi ích nhóm.

MẤT CẮP

MẤT CẮP

 Phạm Đình Trọng

Nhà thơ bị mất cắp một bài thơ thì cả thế giới mạng người Việt xôn xao như cả thế giới người Việt bị mất cắp thơ, dồn dập lên tiếng. Cả hệ thống báo chí lề Dân, lề Đảng vào cuộc vụ mất cắp thơ nhỏ nhặt. Những nhà nọ, nhà kia, học giả, học thật xúm vào vụ mất cắp thơ cỏn con.

Nhân dân bị mất cắp trắng tay thì chỉ có số ít người đau đớn, xót xa lên tiếng trong lẻ loi, đơn độc, giữa trùng trùng bạo lực hung hãn đàn áp.

Nhân dân bị đánh cắp mất quyền làm chủ đất nước, quyền làm chủ giang sơn gấm vóc, quyền làm chủ nhà nước. Quyền lực Nhân dân cũng như Hiến pháp đất nước là những giá trị tối cao của một quốc gia bảo đảm sự lành mạnh, ổn định và bền vững của đất nước thì cả quyền lực Nhân dân và Hiến pháp đất nước đều bị đánh cắp.

Hiến pháp là văn bản pháp luật nền tảng của luật pháp đất nước. Hiến pháp bảo đảm quyền lực của Nhân dân được thực thi trong cuộc sống, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân với đất nước và xã hội thì Hiến pháp đã trở thành Đảng pháp (Đảng quy). Chỉ một Điều 4 trong các bản Hiến pháp của nhà nước Cộng sản Việt Nam đã chuyển giao toàn bộ quyền lực của Nhân dân cho đảng Cộng sản. Hiến Pháp bị đánh tráo. Quyền lực của Nhân dân bị đánh cắp.

Nhân dân mất Hiến pháp, mất quyền lực là mất tất cả. Mất trắng mắt, trắng tay. Mất từ cái riêng đến cái chung. Mất quyền sở hữu mảnh đất hương hỏa của cha ông. Mất những giá trị làm Người. Mất quyền Công dân. Người Dân vẫn cầm lá phiếu đi bầu cử nhưng chỉ là rô bốt, bầu theo ý quyền lực đã định trước. Đến mất cả quyền làm chủ giang sơn, làm chủ vận mệnh đất nước. Người Dân sống trên mảnh đất của cha ông mình để lại, sống trên mảnh đất mồ hôi xương máu của chính mình gây dựng lên mà như sống tạm, sống nhờ, được ngày nào biết ngày đó. Người Dân sống trên quê hương đất nước máu thịt của mình có lịch sử oai hùng do cha ông mình và chính năm tháng cuộc đời mình viết lên mà như kẻ lưu vong nơi đất khách quê người.

Gần ngàn tờ báo các loại. Báo giấy. Báo tiếng. Báo hình. Trong đó có hàng trăm tờ báo sống nhởn nhơ bằng tiền thuế của Dân. Nhân dân bị mất đau như vậy, các tờ báo đều làm ngơ.

Hàng trăm ngàn trí thức được học hành trong nước, ngoài nước nhờ tiền thuế của Dân, nhận lương lậu bổng lộc hậu hĩ từ tiền thuế của Dân. Dân bị mất đau như vậy, trí thức ngậm miệng ăn tiền.

Báo chí làm ngơ, trí thức ngậm miệng trước nỗi đau của Nhân dân, của dân tộc bởi vì chính họ cũng bị mất cắp cái lớn lao, quí giá là quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận. Cái lớn, cái quí của chính mình cũng bị mất cắp mà không kêu được thôi đành la lối những cái mất cắp vặt vãnh mà quên đi cái mất cắp không dám kêu!

P.Đ.T.

99.9% xảy ra động đất lớn vùng Los Angeles trong 3 năm tới

99.9% xảy ra động đất lớn vùng Los Angeles trong 3 năm tới
Nguoi-viet.com

LOS ANGELES, California (AP)Có tới 99.9% là sẽ có trận động đất ở mức 5.0 Richter hay cao hơn trong vòng ba năm tới ở khu vực Los Angeles, nơi một trận động đất tương tự đã gây thiệt hại khoảng hơn $12 triệu hồi năm ngoái, theo một cuộc nghiên cứu của NASA và giới nghiên cứu trong đại học.


Một cuộc diễn tập chống động đất tại California hồi năm 2014. (Hình: Mark Ralston/AFP/Getty Images)

Kết quả cuộc nghiên cứu được công bố hôm Thứ Ba đã dựa trên đo đạc của hệ thống định vị GPS và radar đặt trên phi cơ về sự thay đổi trên vỏ ngoài của trái đất sau trận động đất 5.1 Richter hôm 28 Tháng Ba năm 2014 tại thành phố La Habra, nằm cách trung tâm Los Angeles chừng 20 miles (khoảng 32 km) về phía Ðông Nam. Trận động đất này gây một số thiệt hại, kể cả làm bể đường ống dẫn nước và nứt vỉa hè.

Vào năm 1994, một trận động đất khoảng 6.7 Richter, xảy ra ở thành phố Northridge, nằm về phía Bắc Los Angeles gây thiệt hại trị giá $25 tỉ, với hàng chục người thiệt mạng và khoảng 9,000 người bị thương.

Cuộc nghiên cứu xem xét khu vực bán kính khoảng 62 miles quanh tâm địa chấn ở La Habra. Các nhà nghiên cứu quan sát sự chuyển động của mặt đất, xem xét việc không có các trận động đất xảy ra lâu nay và tính toán sức nén của các đường nứt chưa được xả bớt.

Kết quả nghiên cứu cho thấy một trận động đất vào khoảng 5.0 Richter là điều rất có thể xảy ra từ nay tới ngày 1 Tháng Tư 2018, động đất ở mức 6.0 Richter hay mạnh hơn được cho biết là chỉ vào khoảng 35% và mức độ cao nhất lên tới khoảng 6.3 Richter.

Người đứng đầu cuộc nghiên cứu, nhà vật lý học địa chất Andrea Donnellan tại cơ quan Jet Propulsion Laboratory của NASA, cho hay đây không phải là sự tiên đoán mà là một xác suất của điều có thể xảy ra theo sự tính toán của họ.

Tham dự vào cuộc nghiên cứu của NASA có các khoa học gia từ các trường University of California, Irvine; Indiana University, Bloomington; UC Davis; và University of Nevada, Reno. (V.Giang)

TÔI VẪN LUÔN CHỜ BẠN…

TÔI VẪN LUÔN CHỜ BẠN…

Tri’ch EPHATA 664

CHO BANSáng nay, khi Bạn vừa thức dậy, Tôi nhìn Bạn và chờ đợi Bạn nói với Tôi đôi lời: để cám ơn về những điều tốt lành Bạn đã gặp được ngày hôm qua, hoặc để hỏi xem Tôi có ý kiến gì giúp Bạn cho ngày hôm nay hay khơng… Đôi lời ngắn ngủi thôi cũng được… Nhưng Bạn mải lo mở tủ tìm chọn bộ quần áo vừa ý… Nên Tôi lại phải chờ.

  1. Bạn đã mặc quần áo xong, Bạn còn 15 phút rảnh rỗi. Tôi hy vọng Bạn sẽ lên tiếng chào Tôi. Nhưng không, Bạn lại ngồi xuống chiếc ghế bành, im lặng, thanh thản. Tôi vẫn kiên nhẫn chờ.
  2. Chợt Bạn đứng lên. Tôi tưởng Bạn sẽ lại gần Tôi và nói đôi lời gì đó. Thế nhưng Bạn lại tiến về phía chiếc máy điện thoại để bàn, quay số đến một người Bạn thân, hai người đấu láo với nhau một hồi. Và Tôi vẫn tiếp tục chờ.
  3. Rồi đến giờ Bạn xuống khỏi căn hộ chung cư, dắt chiếc Honda ra và nổ máy… Bạn đến chỗ làm. Và tôi tiếp tục chờ Bạn suốt buổi sáng.
  4. Đã đến giờ ăn trưa. Bạn ngồi vào bàn ở căn-tin, rảo mắt nhìn quanh. Bạn thấy vài người ở những bàn bên cạnh cúi đầu thầm thì nói với Tôi đôi lời trước khi ăn. Tôi tưởng Bạn cũng sẽ làm thế. Nhưng không, Bạn bắt đầu ăn ngay bữa trưa một cách ngon lành ! Và Tôi lại tiếp tục chờ.
  5. Ăn xong, Bạn còn một khoảng thời giờ thảnh thơi. Tôi thầm mong Bạn sắp nói gì đó với Tôi. Nhưng chẳng có một lời nào cả. Tôi vẫn phải chờ…
  6. Buổi chiều, tan sở, Bạn lên xe về nhà. Chắc hẳn có biết bao điều Bạn sẽ kể cho Tôi nghe. Tôi chờ. Nhưng Bạn chạy thẳng một mạch với tới chung cư, đi thang máy, lên tới căn hộ nhỏ của Bạn. Rồi Bạn lao ngay vào phòng tắm… Và Tôi vẫn chờ.
  7. Bạn đã cảm thấy mát mẻ và thoải mái. Nhưng Bạn không thấy Tôi đang chờ. Bạn chỉ nhìn thấy cái TV. Bạn mở máy xem trực tiếp một trận bóng đá giải ngoại hạng Anh, để mặc Tôi tiếp tục đợi chờ.
  8. Rồi Bạn lên giường, suy nghĩ mông lung trong khi chờ giấc ngủ đến. Bạn nhớ lại đủ thứ chuyện, đủ thứ người, chỉ trừ mỗi Tôi là Bạn quên mất. Có lẽ vì Bạn không biết Tôi vẫn luôn ở bên cạnh Bạn. Bạn không thấy Tôi, nhưng Tôi vẫn luôn ở kề bên Bạn, yêu thương Bạn, rất muốn nói chuyện với Bạn, để an ủi, để chia sẻ, để góp ý, để động viên… Bạn không biết, không để ý gì cả. Và Bạn thiếp dần vào giấc ngủ. Tôi vẫn nhẫn nại đợi chờ…
  9. Một ngày mới lại bắt đầu. Bạn vừa thức dậy… Tôi hy vọng hôm nay Bạn sẽ dành ra đôi phút để nói điều gì đó với Tôi. Tôi vẫn chờ Bạn đấy. Chúc Bạn một ngày tốt đẹp…

Biên tập lại từ GÓP NHẶT CÁT ĐÁ

TỚI NGUỒN SỰ SÁNG

TỚI NGUỒN SỰ SÁNG

Tgm. Giuse NGÔ QUANG KIỆT

Tri’ch EPHATA 664

Người mù ngồi ăn xin bên vệ đường. Cảnh tượng này cho ta thấy đời anh bị bao phủ bởi nhiều thứ bóng tối.

Trước hết là bóng tối thể lý. Không có đôi mắt, đời anh chìm trong tăm tối. Không biết thế nào là ánh sáng. Không biết thế nào là cảnh thiên nhiên. Không nhìn được khuôn mặt của những người thân. Không tự mình làm gì được. Không tự mình sinh sống được. Chẳng biết có ánh sáng ban ngày. Đời anh chìm ngập một bóng đêm. Bóng đêm dày đặc không một chút ánh sáng. Bóng đêm triền miên không bao giờ chấm dứt. Tất cả là một màu đen. Thế giới màu đen. Quần áo anh mặc màu đen. Khuôn mặt mọi người đều màu đen. Cơm anh ăn hằng ngày cũng màu đen. Một màu đen muôn thuở.

Kế đến là bóng tối xã hội. Vì tàn tật anh trở thành người dư thừa trong xã hội. Anh bị loại trừ khỏi xã hội. Chỉ còn ngồi bên vệ đường mà ăn xin. Như cây cỏ mọc bên đường thôi. Thậm chí khi Chúa đến, mọi người nô nức đón Chúa. Còn anh chỉ kêu lên thôi cũng đã bị người ta cấm đoán, đe nẹt rồi. Anh không có quyền gì hết. Vì anh chỉ là thân phận sống nhờ ở đậu.

Sau cùng là bóng tối tâm lý. Cuộc đời anh không có lối thoát. Anh bị kết án suốt đời chịu giam cầm trong bóng tối. Làm sao thoát ra được khi anh không thể tự mình làm gì. Khi mọi người kể cả những người thân ruồng bỏ anh. Khi xã hội gạt anh ra bên lề cuộc sống.

Nhưng Đức Kitô đem đến cho anh ánh sáng ngập tràn. Người chiếu vào đời anh ánh sáng hy vọng. Tuy chưa được gặp Chúa, nhưng chỉ nghe những lời Chúa giảng, những việc Chúa làm anh đã tràn trề hy vọng. Chúa có thể giải thoát anh khỏi định mệnh tăm tối vây bọc cuộc đời anh. Người có thể đưa anh tới miền ánh sáng. Tương lai anh sẽ thay đổi. Cuộc đời anh sẽ tươi sáng. Anh tràn ngập niềm hy vọng. Niềm hy vọng trở thành ánh sáng chiếu soi cuộc đời anh.

Người chiếu vào đời anh ánh sáng Đức Tin. Tuy chưa gặp Chúa nhưng anh đã hoàn toàn tin tưởng vào Chúa. Không tin sao được vì chỉ có Chúa là Đấng duy nhất có thể cứu anh khỏi bóng tối. Vì thế thoạt nghe tiếng Chúa anh đã kêu van lớn tiếng xưng tụng Người là Con Vua Đavít nghĩa là Đấng Cứu Thế. Có lẽ những người đi đón Chúa hôm ấy đều có đôi mắt sáng. Nhưng không ai có ánh sáng Đức Tin. Vì không ai tin Chúa là Đấng Cứu Thế. Trừ anh mù. Mắt anh mù nhưng Đức Tin của anh sáng. Nên anh là người duy nhất lớn tiếng tuyên xưng Chúa là Đấng Cứu Thế. Niềm tin của anh thật mãnh liệt. Dù bị mọi người chung quanh ngăn cản, niềm tin ấy không những không bị suy yếu mà còn càng trở nên mạnh mẽ hơn. Bị mọi người đe dọa, cấm cản, niềm tin của anh càng vững vàng không gì có thể lay chuyển được, nên anh càng kêu to hơn.

Người đã chiếu vào đời anh ánh sáng Tình Yêu. Chúa là tình yêu. Chúa không nghe bằng tai nhưng nghe bằng trái tim. Vì thế giữa đám đông hỗn độn của thành Giêrikhô phồn hoa, Chúa vẫn nghe được tiếng kêu van của một người con bé nhỏ ngồi bên vệ đường. Không những Chúa nghe thấy tiếng lòng khốn khổ của anh mà Chúa còn ưu ái gọi anh đến. Thật là một cử chỉ ưu ái quá sức tưởng tượng. Giữa đám đông trong một thành phố phồn hoa, Chúa chẳng gọi ai trừ ra người mù ngồi bên vệ đường. Chúa chẳng chờ đợi ai trừ ra chờ đợi người con nhỏ bé tội nghiệp bị bỏ rơi nhất thành phố đến với Chúa. Đời anh chưa được ai yêu thương như thế. Đời anh chưa được ai quan tâm như thế. Đời anh chưa được ai mời gọi như thế. Đời anh chưa được ai chờ đợi như thế. Và Chúa còn hỏi anh muốn gì. Đời anh chưa được ai âu yếm như thế. Tình yêu Chúa làm cho đời anh bừng sáng. Anh tìm thấy tất cả ý nghĩa cuộc đời khi gặp được Chúa.

Chúa đem ánh sáng đến cho anh. Chúa là tất cả đời anh. Anh không cần gì khác nữa. Anh vất bỏ cả áo choàng là tài sản duy nhất. Vì anh đã khám phá ra kho tàng quý giá nhất đời. Anh đứng phắt dậy mà đến với Chúa vì tuy mắt chưa nhìn thấy mà lòng anh sáng như sao băng. Và nhất là anh đi theo Chúa cho đến cùng vì Chúa chính là ánh sáng cho đời anh. Chúa sẽ dẫn đường anh đi. Đi đến sự thật và đến sự sống.

Đời sống tôi có nhiều bóng tối vì tôi chưa tin vào Chúa. Đời sống tôi bế tắc vì tôi chưa đặt niềm hy vọng vào Chúa. Đời tôi mệt mỏi chán chường vì tôi chưa yêu mến Chúa. Hãy tin tưởng vào Chúa. Ánh sáng Đức Tin sẽ chiếu soi đường đời tôi đi. Hãy hy vọng vào Chúa. Niềm hy vọng là ánh sáng ấm áp cho cuộc đời. Hãy yêu mến Chúa. Tình yêu Chúa là ánh sáng hướng dẫn mọi tư tưởng, lời nói, việc làm của tôi. Hãy noi gương anh mù thành Giêrikhô bỏ tất cả mà theo Chúa. Sống bên Chúa đời tôi sẽ ngập tràn ánh sáng.

Tgm. Giuse NGÔ QUANG KIỆT

ĐÔI MẮT CỦA CHỊ NỮ TU

ĐÔI MẮT CỦA CHỊ NỮ TU

Lm. Giuse NGUYỄN HỮU AN

Tri’ch EPHATA 664

DOI MAT NU TUTrong cuốn sách “Những người lữ hành trên đường hy vọng”, Đức Cố Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận kể câu chuyện “Đôi mắt xanh của chị Nữ Tu” thật cảm động.

Trên khắp các nước, thế chiến đã bùng nổ. Quân Phát-xít chiếm cứ khắp nơi. Một viên tướng Phát-xít đến một Nhà Dòng kia, yêu cầu kêu mẹ Bề Trên cho ông ta gặp… Khi vừa giốc cạn ly nước từ tay Mẹ bề trên, viên tướng Phát xít lập tức vào đề: “Xin bà cho tôi gặp chị Maria…” Bà Bề Trên bấm chuông gọi chị ấy ra. Ông tướng vui vẻ hẳn lên và nói cách sỗ sàng: “Tôi yêu cầu bà trao ngay cho tôi chị này, tôi say mê chị”.

Hai mẹ con nhìn nhau lúng túng. Chị Maria vội đỡ lời: “Tôi là một Nữ Tu tầm thường, nào có gì để ông say mê. Xin ông tìm ở ngoài thế gian, lắm người nhan sắc lộng lẫy…” – “Không ! Không ! Tôi yêu chị vì chị có đôi mắt xanh tuyệt đẹp. Tôi say mê quá !” – “Không ! Xin lỗi ông, không bao giờ tôi chấp nhận điều ấy.” – “Nếu chị không chấp nhận, nội ngày mai, tôi sẽ ra lệnh tiêu diệt cả Nhà Dòng này !”

Một bầu khí thinh lặng ghê rợn ập xuống phòng khách. Ông tướng đứng lên và bảo: “Tôi cho một đêm suy nghĩ, sáng mai tôi sẽ trở lại. Phải trả lời dứt khoát, nếu không tôi sẽ…”

Ngày hôm ấy, cả Nhà Dòng thiết tha cầu nguyệt sốt sắng hơn. Thâu đêm chị không thể nào chợp mắt: “Chẳng lẽ vì mình mà cả nhà phải bị tiêu diệt ? Không, không thể được ! hay tôi phải bỏ Nhà Dòng, bỏ tình yêu Chúa Kitô, bỏ đức trinh khiết ? Không, không bao giờ như thế !”

Sáng hôm sau, khi chị em còn nguyện kinh, ông tướng Phát-xít đã có mặt ở phòng khách, đôi mắt hau háu, nôn nóng, sốt ruột. Từ đầu hành lang, Chị Maria đang tiến lại, nhưng… bên cạnh lại có một người khác dẫn đi, tay chị cầm một cái dĩa. Viên tướng há hốc mồm, trố mắt kinh ngạc. Chị đã bước vào phòng khách, nhưng ông vẫn không ngớt ngẩn ngơ. Chị Maria khuôn mặt đầy máu me, đang sờ soạng đặt cái dĩa trên mặt bàn và nhỏ nhẹ trình bày: “Thưa ông, vì ông say mê cặp mắt của tôi… nên tôi xin sẵn sàng biếu ông cặp mắt ấy… trên dĩa này. Còn thân xác tôi, đời tôi, tôi đã hiến dâng cho Thiên Chúa”.

Viên tướng Phát-xít vừa bàng hoàng kinh ngạc vừa cảm phục. Ông xấu hổ đứng dậy bỏ ra về và không đá động gì đến Nhà Dòng nữa. ( trang 175 – 177 ).

Nữ Tu Maria hy sinh đôi mắt xanh tuyệt đẹp để “dọi ánh sáng vào nơi tối tăm” của cõi lòng viên tướng, nhờ vậy ông ta được sáng đôi mắt và nhìn thấy sự cao quý của một tâm hồn thanh khiết.

Đọc câu chuyện, liên tưởng đến chuyện vua Đavít được Ngôn Sứ Nathan “mở mắt”. Dù đã có nhiều thê thiếp, nhưng vua lại chiếm đoạt bà Bếtsabê là vợ của Uria và sau đó lại mượn tay quân thù giết chết chồng bà để chính thức cưới lấy Bếtsabê làm vợ. Thế là vua đã phạm hai tội ác tày đình: ngoại tình và giết người. Vậy mà vua vẫn ung dung như không có gì xảy ta. Sau đó, Thiên Chúa sai Ngôn Sứ Nathan đến cảnh tỉnh nhà vua.

Ngôn Sứ nói với vua: “Trong thành kia, có một người giàu có đến cả ngàn dê cừu. Trong khi đó, bên cạnh nhà ông ta có một ông lão nghèo khó và cô độc, chỉ có một con chiên nhỏ làm bạn cho vui tuổi già. Ông lão thương con chiên đó như con gái của ông. Ông cho chiên ăn trên tay và cho ở trong nhà. Thế rồi khi người giàu có khách, ông ta không chịu bắt chiên mình làm tiệc, trái lại, cho tôi tớ qua nhà ông lão nghèo khổ bắt con chiên độc nhất của ông nầy làm thịt đãi khách.

Nghe đến đây, vua Đavít bừng bừng nổi giận. Vua muốn trừng trị tức khắc tên bất lương đó. Nhà vua phán: “Nó đáng chết vì tội ác nó đã phạm. Nó phải bồi thường gấp bốn thiệt hại nó đã gây ra.” Bấy giờ Ngôn Sứ Nathan mới tỏ cho vua biết tên bất lương đó chính là nhà vua và Chúa sẽ trừng phạt vua vì tội ác đã gây ra.Vua Đavít bừng sáng mắt ra, thấy rõ tội ác của mình nên đã ăn năn thống thiết. ( 2 Sm 11, 1 – 12, 12 ).

Câu chuyện cũng gợi nhớ về đôi mắt mù của Nguyên Tổ trong sách Sáng Thế: “Rắn đã nói với người đàn bà: chẳng chết chóc gì đâu ! Quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu. Và người đàn bà đã nhìn; quả là cây ăn phải ngon… mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy để được tinh khôn. Và bà đã ăn… Và mắt cả hai người đã mở ra. Và chúng biết là chúng trần truồng” ( St 3, 4 – 7 ).

Đoạn Thánh Kinh nói về lịch sử sa ngã của loài người đã đề cập đến đôi mắt qua tiến trình 3 bước:

–   Rắn hứa là mắt hai ông bà sẽ mở ra.
–   Evà nhìn trái táo và thấy sướng mắt.
–   Mắt hai người mở ra và thấy mình trần truồng.

Rắn hứa là mắt hai người sẽ mở ra để nhìn thấy mọi sự như Thiên Chúa, nhưng mắt Đức Tin đã nhắm lại nên không nhìn thấy điều mình muốn thấy. Họ không thấy mùa hoa nở rộ, những đồi cỏ bình yên, những dãi nắng hiền, những dòng suối êm ả. “Mà nhìn thì đã sướng mắt”, cái nhìn ấy phải là đắm đuối, bằng cái nhìn đam mê đó, tội lỗi, khổ đau và sự chết đã vào trần thế.

Lời hứa của con rắn đã hiệu nghiệm: “Mắt cả hai người đã mở ra”. Không phải mở ra để nhìn thấy vẻ đẹp mà nhìn thấy mình trần truồng. “Mắt hai người đã mở ra”. Câu Thánh kinh thật ngắn ngủi diễn tả cách tinh tế sự đau thương: mở ra cũng là lúc đóng lại. Ađam – Evà đã mở mắt, nhưng họ lẩn trốn không dám nhìn Thiên Chúa. Cả hai đã mở mắt nhưng để tìm lá che thân, không dám nhìn nhau. Khởi đầu lịch sử nhân loại là đôi mắt mù và sự mù loà chảy dọc theo thời gian mang tối tăm vào trong trần thế. ( x. Nước mắt và hạnh phúc, trang 69 – 71, Lm. Nguyễn Tầm Thường ).

Chúa Kitô đã đến chữa lành sự mù loà ấy, hàn gắn lại vết thương thưở sa ngã của Nguyên Tổ. Khi liên kết phép lạ Chúa Giêsu chữa người mù từ thưở mới sinh với sự mù loà của Nguyên Tổ, ta mới thấy ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Con Thiên Chúa đến trong thế gian.

Mù từ thưở mới sinh” là mù từ xa xưa, thuở địa đàng. Chúa Kitô đã mang ánh sáng cho thế gian. Ngài ban cho nhân loại đôi mắt mới: Mắt Đức Tin.

Từ tiến trình đến ánh sáng tự nhiên, người mù có một hành trình tiếp cận ánh sáng Đức Tin. Chúa Giêsu chữa lành đôi mắt thể lý và mắt tâm hồn của người mù. Chúa đã mở mắt Đức Tin để anh ta tin vào Chúa. Anh ta tin vào lời Chúa là đi rửa mắt ở hồ Silôác và đã công khai nói lên sự thật ca ngợi Chúa trước mặt những người Pharisêu đang tra vấn, khủng bố anh: “Chính tôi đây đã được người mà thiên hạ gọi là Giêsu lấy bùn xức mắt tôi và bảo tôi hãy đi rửa ở hồ Silôác. Tôi đã đi, đã rửa và đã trông thấy”.

Lòng bắt đầu rộng mở nên anh ta nhận ra: “Nếu người đó không phải bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì”. Bởi đó, khi gặp lại Chúa Giêsu và được hỏi: “Anh có tin Con Người không ?” thì anh đáp lại ngay: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin ?” Chúa Giêsu tỏ mình ra cho anh: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. Anh liền đáp: “Lạy Thầy, tôi tin.” Bước nhảy của niềm tin được kết tinh nơi thái độ quỳ xuống bái lạy.

Qua việc chữa lành đôi mắt thể lý, Chúa Giêsu trao ban ánh sáng Đức Tin cho đôi mắt tâm hồn. Thoát khỏi bóng tối triền miên của cuộc đời, bát ngát một bầu trời mới khi anh được sáng đôi mắt. Lớn lao hơn nữa là tâm hồn anh thênh thang chứa chan lòng mến, anh đã quỳ bái lạy với tất cả lòng tin.

Phép lạ chữa người mù thưở mới sinh là một dấu chỉ minh chứng: Chúa Giêsu là sự sáng thế gian, đã chữa lành sự mù loà của nhân loại với điều kiện: Tin vào Ngài.

Chúa Giêsu cũng chữa nhiều người mù loà tâm hồn. Ngài mở mắt cho Dakêu thấy được sự nguy hiểm của tiền tài đối với phần rỗi ( Lc 9, 1 – 10 ). Ngài mở mắt cho người đàn bà ngoại tình, giúp chị từ bỏ quá khứ lỗi lầm ( Lc 7, 36 – 50 ). Ngài mở mắt cho người trộm lành giúp nhận ra lòng Chúa xót thương ( Lc 23, 32 – 43 )…

Mỗi người chúng ta có lẽ không hoàn toàn mù tối tâm hồn, nhưng có những điểm tối mà ta thấy được. Chẳng hạn như những đam mê, tham vọng, hận thù, ghen ghét, kiêu căng, có thể làm ta mù tối không nhìn thấy sự tốt lành nơi tha nhân. Có một số người chỉ nhìn thấy điểm tối của người khác, chỉ nhìn thấy những lỗi lầm, những khuyết điểm mà không nhận ra những gì là xinh đẹp, những gì là cao quý, thánh thiện nơi họ. Cứ tiếp tục xét mình, ta sẽ thấy có nhiều điểm tối, sự mù tối của tâm hồn rất nguy hại. Chỉ có ánh sáng của Đức Kitô soi chiếu, chỉ có cái nhìn của Đấng Tình Yêu, mỗi người mới xoá tan những điểm tối đó. Chỉ có sự cầu nguyện và tin tưởng vào Đấng là Ánh Sáng thế gian, chúng ta mới có thể xua đuổi bóng tối ra khỏi tâm hồn và nhìn mọi sự trong ánh sáng Tin Mừng Đức Kitô. Ðôi mắt Đức Tin giúp chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa và yêu mọi người, mọi sự trong Chúa và yêu như Chúa đã yêu. Nhiều Thánh Vịnh giúp chúng ta tập nhìn cuộc đời và con người bằng đôi mắt tin yêu, như Thánh Vịnh 104, các Thánh Vịnh Gióp 38-39.

Đôi mắt là tuyệt tác của thiên nhiên, là cửa ngỏ tâm hồn. Đôi mắt có thị giác và thị lực. Thị giác là khả năng của đôi mắt có thể thấy. Thị lực là mức độ thấy của khả năng ấy. Thấy nhiều hay ít. Thấy xa hay gần. Thấy rõ hay mờ. Người cận thị chỉ thấy được rất gần. Người viễn thị thì thấy xa hơn. Cần có thị giác tốt và thị lực tốt thì đôi mắt mới sáng ngời. Thị lực còn là của trí óc và của con tim. Có người chỉ thấy được cái thế giới chật hẹp và ích kỷ của bản thân mình; có người thấy được hoàn cảnh, tâm tư và nguyện vọng của người khác. Thị lực còn là niềm tin.

Bartimê tuy mù nhưng lại có thị lực tốt. Anh đã thấy được Chúa Giêsu là Ðấng Mêsia “Con Vua Ðavít“. Anh kêu xin: “Rabbuni, xin cho tôi được thấy“, và Chúa Giêsu trả lời: “Hãy đi ! Niềm tin của con đã cứu chữa con“. Bartimê được thấy và anh theo Chúa Giêsu trên con đường của Người; khi thấy được, anh cùng hành hương lên Giêrusalem ( x. Đức Giêsu thành Nazareth phần II, trang 13 ).

Bartimê thấy nhiều cái mà những người sáng mắt không thấy. Anh thấy Chúa là con vua Đavít, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin. Chính vì lòng tin này mà Chúa Giêsu đã thương cứu chữa cho anh sáng mắt. Anh mù, mắt không thấy Chúa, nhưng lòng đã thấy Chúa rồi vì anh có lòng tin. Thị lực lòng tin cho anh tiếp nhận ánh sáng tình yêu đầy tràn hy vọng.

Muốn trong trắng, con phải hy sinh; cành huệ trắng tinh, cành mai thơm tho, cành đào xinh đẹp, vì nó đâm rễ sâu vào lòng đất, vì nó cầm cự với mưa bão, vì nó chịu đựng những bàn tay cắt tỉa” ( ĐHV 431 ).

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con có đôi mắt với thị giác và thị lực tốt; để con nhận ra Chúa nơi anh em với những cái hay cái tốt; để con nhận ra Chúa nơi các kỳ công kiệt tác thiên nhiên; để con biết nhận ra Chúa nơi các vị Đại Diện Chúa.

Và lạy Chúa, Chúa chỉ ban sự trong trắng cho linh hồn khiêm nhường. Con cầu xin hàng ngày với tâm hồn đơn sơ chân thành, thực sự nhìn nhận sự yếu đuối của con” ( ĐHV 427 ); Xin cho con được thấy bản thân con với những yếu đuối và khuyết điểm, biết nhận ra thân phận thụ tạo lệ thuộc Đấng Tạo Hóa; từ đó con biết được ơn phúc là do lòng Chúa yêu thương ban tặng, để con luôn biết dâng lời cảm tạ, tôn thờ, phụng sự và kính mến Chúa với cả tâm tình con thảo. Amen.

Lm. Giuse NGUYỄN HỮU AN

Trả lại anh, câu yêu mà anh đã tặng,

“Trả lại anh, câu yêu mà anh đã tặng,”

Trả lại anh, nhớ nhung mặn nồng cay đắng.

Trả lại anh thư xanh, màu xanh ái ân.

Dĩ vãng buồn, giống nghĩa trang.

Cô đơn, như mộ không tên.”

(Đức Quỳnh – Trả Lại anh)

(1 Phêrô 5: 1-4)

 Trần Ngọc Mười Hai

             Anh hay em, mà lại hát câu ca này, rõ ràng như thể bảo: thôi “anh đường anh, tôi đường tôi; tình nghĩa đôi ta chỉ thế thôi!, cho rồi.” Bởi, có hát những câu hay ho/đẹp đẽ như thế, nay đâu còn hợp thời-trang, tình-tự được nữa đâu, cơ chứ!

Không tin ư? Mời bạn/mời tôi, ta nghe tiếp đôi ba ca-từ đến “phát khiếp” như sau:

 “Trả lại anh câu yêu em, tình yêu bất diệt.

Trả lại anh với câu xây nhà bên suối.

Trả lại anh hoa khô cài bên bướm xanh.

Đây trang nhật ký đôi ta.

Đang ghi sao đành dở dang.

 Khi em yêu anh còn cô gái thơ ngây.

Nay em xin anh trả em lúc ban đầu.

Yêu anh em đâu ngờ duyên kiếp ba sinh.

Van anh quên đi như khi ta chưa hề quen.”

(Đức Quỳnh – bđd)

Quả là, rất đúng. Hôm nay đây, ở thời buổi này, lại vẫn có những sự thể, thật dễ nói câu “van anh quên đi khi ta chưa hề quen”. Bởi, có quen nhau cho lắm, rồi cũng thấy rối-rắm như trang-huống đang xảy ra ở nhà Đạo.

            Trang-huống hôm nay, lại đã có những lời/lẽ rất thương đau như tin tức được loan-truyền trên báo/đài truyền-thông, như sau:

“Đức Tổng Giám-mục Charles Chaput cảnh-giác việc phân-cấp cho các Hộ-đồng Giám-mục có được một số quyền-về kỷ-luật bí-tích, đã phát-biểu:

 Giáo-hội là ‘Công-giáo’ còn gọi là ‘phổ quát’. Đúng là chúng ta cần tôn-trọng sự khác-biệt về tính-cách văn-hoá giữa các tín-hữu. Nhưng, ta đang sống sống trong thời-đại có nhiều đổi-thay trên qui-mô toàn-cầu có những rối-loạn và bất-ổn. Nhu-cầu cấp-thiết của ta là sự đoàn-kết. Và nguy-hiểm lớn nhất của ta là sự phân-cấp.

 Hỡi anh em,

Ta cần phải rất thận-trọng về việc phân-cấp các vấn-đề về kỷ-luật và tín-điều quan-trong cho phép các Hội-đồng Giám-mục ở các quốc-gia và khu-vực, đặc-biệt khí có áp-lực buộc ta theo chiều-hướng đó kèm một tinh-thần tự khẳng-định và đề-kháng…

 500 năm trước, ở vào thời-điểm giống hệt hôm nay, Erasmus của Rotterdam đã viết rằng: sự hiệp-nhất của Hội-thánh là đặc-trưng quan-trọng vào bậc nhất. Ta có thể tranh-luận về những gì Erasmus tin-tưởng thực-sự; và, những gì ông nói trong bài viết của ông. Nhưng, ta không thể tranh-luận về những hậu-quả xảy đến khi sự hiệp-nhất cần-thiết của Giáo-hội bị bỏ qua. Trong những ngày sắp tới đây, xin chúng ta nhớ rằng: tầm quan-trọng của sụ hiệp-nhất và những gì nó đòi hỏi nơi ta, và những gì mất đoàn-kết trong các chuyện nghiêm-trọng như thế có thể mang lại. ” (X. www.Tâmlinhvaodoi.net, Tóm-lược diễn-tiến Thượng Hội-đồng Giám-Mục về Gia-đình, 17/10/15)

Thật ra thì, Thượng Hội Đồng Giám Mục 2015 diễn-tiến cũng không tệ. Chỉ mỗi điều, là: các nghị-phụ nhà mình, nay có quyền phát-biểu/tỏ-bày ý-kiến tư-riêng của các phe/nhóm khác nhau trong Hội-thánh thế giới. Không chia rẽ hoặc phân-biệt mà chỉ mỗi khác nhau về chánh-kiến/lập-trường. Và, khi đã đi vào hiện-thực, thì phe/nhóm nào cũng sẻ-san đường-lối cũng rất chung, thôi.

Đó là điều, mà nhiều đấng bậc lâu nay vẫn tỏ-bày ý-kiến về các khó-khăn của Giáo hội khi tiếp-cận các vấn-đề nhức-nhối về người Đồng-tính luyến-ái.

Giám mục Geoffrey Robinson từng viết nguyên cuốn sách để bàn về vấn-đề này, vào lúc trước khi Thượng Hội Đồng Rôma khai mạc hồi tháng 10/2015 mà Chuyện Phiếm Đạo Đời đã trích-dịch nhiều qua các bài phiếm lai rai, đây đó. Nay, lại xin tiếp tục triển-khai thêm một số lý-chứng từng tạo khó-khăn cho Giáo-hội khi cần thay-đổi giáo-huấn mình vẫn dạy.

Để bà con có thể bàn-bạc chuyện gay-go theo chiều-hướng nhẹ-nhàng, xin mạo muội, đề-nghị bạn và tôi, ta nghe câu chuyện tiếu-lâm chay ở dưới, khi kể về những cái khó trong chung sống:

Lão vốn mang tiếng cả khu chung cư là sợ vợ và đang di căn sang giai đoạn cuối là khiếp vợ, thế mà tối nay thấy tiếng lão quát vợ rung chuyển các tầng. Kính trọng quá đi. Đàn ông là phải thế chứ.

Nhà cháu chạy sang đứng ngoài cửa.

-Choang!Choang! (Tiếng bát vỡ kinh quá)

-Bụp! (Một cú đá chéo góc).

– Im mồm, tôi bảo cô im đi cơ mà…Im để cho tôi nói, cô đã làm nhơ cái mặt tôi ở khu chung cư này rồi, ai cũng bảo là: tôi sợ vợ, ngay cả lão Vinh kia hễ gặp tôi là nói kháy, là đá đểu rằng tôi sợ vợ. Bây giờ thì đừng hòng. Hôm nay tôi phải dạy cô một lần cho biết.


– Choang! Rắc! Ùm! (tiếng bát vỡ, và cả tiếng ly/cốc, chân bàn gãy, nghe kinh khủng quá)
– Tôi đi ra khỏi nhà là cô la, về muộn một tí thì cô chửi, gặp phụ nữ thì cô cho là tôi đã cặp bồ, cái ví của tôi cô xẻo hết từng đồng tiền lẻ, cái máy điện thoại của tôi mang về, là cô kẹp chặt trong nách, cô một vừa hai phải thôi, nhớ rõ chưa? Nhớ chưa? Há miệng ra mà vâng trước mặt tôi ngay, há ngay ra!

– Bốp. Bốp. Bốp. (Rõ ràng có tiếng đánh từ bàn tay phải của lão đập vào má trái người vợ).

– Cô ngó lên tầng 15 mà xem, cái lão dê già ấy đấy, ai không biết là lão sát gái, vợ lão cũng biết mà có dám hó hé gì, đâu? Tôi nói thế có đúng không? Thế mà, mới thấy tôi búng vào má em nào một phát, vỗ lưng, vuốt tóc một cái thì cô lồng lộn lên là thế nào? Cô chửi tôi cứ như đảng và nhà nước chửi bọn phản động, thế nghĩa là thế nào? Từ giờ trở đi, chừa ngay cái thói bắt nạt chồng nghe chưa, chồng thay cha thay mẹ, hễ nói một câu là vợ phải dạ một câu, nghe chưa?

Viu…viu…viu…(Ôi giời đá gió đây, gọi là song phi đấy!)

– Cô đưa con dao cho tôi, đưa đây! Tôi sẽ chặt ngón tay của cô để cô luôn nhớ rằng, cô là vợ, tức là ở dưới cơ chồng, cô hiểu chưa, đưa dao đây!

 Nhà cháu hoảng quá, phải cứu cô ấy chứ, nhà cháu xô cửa lao vào trong. Lão hàng xóm đằng đằng sát khí đứng giữa phòng, bát chén, cốc ly vỡ tung tóe cứ như trung tâm thủ đô Kiev. Nhà cháu ôm ghì lấy lão:

-Ấy… Bình tĩnh đã… Ai lại đánh mắng vợ con như thế hả giời?…

-Nhưng em không thể chịu được, điên lắm rồi, phải dạy vợ cho ra dạy bác ạ.

-Thế cô ấy đâu, cô ấy đâu?

-Cô ấy về quê hôm qua rồi bác ạ.” (trích truyện kể của Nguyễn Quang Vinh)


Kể truyện tiếu-lâm chay như thế, chỉ để nói lên điều này, là: trong đời người, vấn-đề nào cũng có mặt phải/mặt trái của nó, hết. Việc gì đề ra, cũng có người thuận, có người chống lại ý-tưởng của người khác, có khi cả ý-tưởng của chính mình vừa nói xong cũng chống hết.

Để chuyện phiếm hôm nay thêm phần đa-dạng, xin bạn và tôi, ta nghe thêm đôi điều về một nhân-vật lỗi lạc ở trời Tây nuớc Nga, đó là nhà văn Leon Tolstoy cũng có ý-kiến rất “thực” về nền thần-học Hội-thánh rất chung, như sau:

“Cuối thời mình, đặc-biệt là vào lúc ông viết truyện giả-tưởng nổi tiếng hồi thập niên 1860 và 1870, lúc ấy ông cho xuất-bản cuốn “Chiến-tranh và Hoà-bình” cũng như cuốn “Anna Karina”, tác-giả Leon Tolstoy đã bị rung-động bởi cơn khủng-hoảng cá-thể và về tinh-thần, đến độ ông đã phải dừng lại không viết tiểu-thuyết nữa. Khi ấy, tưởng chừng như ông đang rơi vào nỗi rã-rờituyệt-vọng, đến khủng-hoảng, cứ bận-tâm nhiều với chuyện chết choc và tự vẫn. Và khi ấy, ông lại đã trải-nghiệm một hiện-hữu rất đơn-huầnvề một niềm tin vô-vọng, cứ nghĩ mình chỉ là mớ bòng bong, hỗn-tạp, sống không mục-đích. Và khi ấy, ông thấy cuộc đời con người đích-thị là ác-thần/sự dữ, rất không sai. Trong nỗi hốn-cùng sâu lắng về hiện-sinh, Leon Tolstoy đã nhớ về Đạo Chúa mà ông từng sống vào thời thơ-ấu. Và rồi, ông tìm lại được một vài hy-vọng nhỏ trong liên-tưởng đến tín-hữu chân-phương, giản-dị mà ông đã cùng sống cũng như lớn lên với họ, trong quá-khứ.

   Ông nhìn thấy nơi tín-hữu bình-dị ở quê nhà, một gương sáng sống đời người đích-thực, đầy đặn. Và, nỗi nhớ này đã khích-lệ ông khởi-đầu suy-tư/học-hỏi sâu-sắc về giáo-huấn trong Đạo mà ông gặp được ở Tin Mừng. Khủng-hoảng về linh-đạo và hệ-quả nó dẫn đến được ông ghi lại từng chi-tiết trong các tác-phẩm không giả-tưởng chút nào, được ông dùng để làm lực đẩy cho các bài viết cùng các sách về cuộc sống tâm-linh cụ-thể, như: Một lời xưng thú: Những gì tôi tin” và “Vương Quốc Nước Trời, ở bên trong con người quí vị.” (x. Leon Tolstoy, The Life of Jesus The Gospel in Brief, Harper Perennial 2011, Foreword, tr. Vii)

Sau đến, là ý-kiến của Gm Geoffrey Robinson khi ông nói đến khó-khăn trong giải-quyết vấn-nạn/đòi hỏi phải có thay-đổi trong chính-sách đối xử và suy-tư về người đồng tính luyến-ái, lý thừ như sau:

“Lý-do khác khiến ta cần đổi thay giáo-huấn Hội-thánh Công-giáo, là vì giáo-huấn ấy chỉ là những tuyên-ngôn mang tính khẳng-định từ trên hơn là chú-trọng vào bàn-luận, thương-thảo.

 Yếu-tố hiệp-thông và cộng-sinh, là khía-cạnh thiết-yếu làm nền cho hôn-nhân giữa hai người, miễn là họ theo-đuổi những điều sau đây:

– chúng phải là yếu-tố thiết-yếu cho từng cuộc hôn-nhân riêng-rẽ, không cần biết hoàn-cảnh của mỗi cặp có ra thế nào đi nữa, phải thế chứ?

– chúng phải là những yếu-tố thiết-yếu cho mỗi động-tác xác-thịt chứ? Động-tác thực-hiện dựa trên căn-bản nào?

 Như, trường-hợp cặp hôn-nhân đặc-biệt nọ được các chuyên-gia y-tế khuyên can đừng nên có con, nếu không trẻ bé sẽ phải bị bệnh nghiêm-trọng và tật nguyền bảm-sinh/di-truyền, nên họ đi đến quyết-định nuôi con nuôi hơn là có con do mình sinh. Làm thế, họ có chống lại ý Chúa không? Có cặp khác nghĩ rằng mình đã có khá nhiều con rồi, nên không có khả-năng tài-chánh và tâm-lý để có thêm con nữa sợ rằng sẽ nặng gánh gia-đình. Dựa trên căn-bản nào ta khẳng-định rằng họ làm thế là chống lại ý Chúa, đây?

 Rất nhiều trường-hợp khó-khăn khi nhiều người vẫn tuyên-bố là họ biết ý của Chúa, nữa. Vậy thì, nếu ta khẳng-định rằng đó là ý của Chúa và cũng là trật-tự thiên-nhiên, vậy thì cả hai khía-cạnh hiệp-thông và cộng-sinh đều nhất-thiết phải có mặt trong mỗi động-tác ăn-nằm xác thịt như một hành-xử được chứng-thực hoặc là khẳng-định chân-phương, giản-dị chứ? Nếu đó là hành-động được chứng-tực, thì đâu là chứng-cớ? Thế, tại sao tài-liệu của Giáo-hội lại không đưa chứng-cứ nào như thế? (*6) Phải chăng bất kỳ chứng-cứ nào cũng phải bao gồm kinh-nghiệm từng-trải của hàng triệu người trong cố-gắng phối-hợp dục-tình, thương-yêu và việc cộng-tác sản-sinh cuộc sống mới trong bầu khí hỗn-độn của dục-tính con nguời và tính phức-tạp nơi sự sống con người chứ? Phải chăng lý-tưởng bao giờ cũng lẫn lộn với thực-tại?

 Nếu giáo-huấn của Hội-thánh chỉ là khẳng-định từ trên ban xuống, thì có chăng lý-do hỏi rằng tại sao ta lại không được phép áp-dụng nguyên-tắc hợp lý cứ luôn bảo: những gì dễ khẳng-định cũng dễ dành bị bác-bỏ, không? Nếu chuyện ấy không hơn gì một khẳng-định, thì việc thực-sự quan-trọng là: ai là khẳng-định hoặc làm sao mà việc ấy lại được khẳng-định ras61t thường như thế? Đâu là lý-sự có lợi cho sự việc khẳng-định rằng việc ấy sẽ thuyết-phục được một lương-tâm cởi mở và lương-thiên, đây? (Xem thêm Gm Geoffrey Robinson, The 2015 Synod: The Crucial Questions: Divorce and Homosexuality, ARF 2015, tr.15-16)

Nói cho cùng, có bàn-thảo nhiều về vấn-đề sống cùng và sống với những người đồng-tính luyến-ái và/hoặc chuyệnvợ-chồng đã ly-dị rồi tái-giá, có được hiệp-thông rước lễ hay không vẫn là luật lệ có từ một khẳng-định từ trên phán xuống.

Nói cho cùng, thì có đụng chuyện trong chung sống hoặc phải giải-quyết những nố khó-khăn trong sống đời thực-tế hôn-nhân, luyến ái, mới thấy rằng: chuyện đời thật không dễ. Không dễ hiểu, cũng chẳng dễ cảm-thông nếu mình không ở cùng một hoàn-cảnh, với người trong cuộc hoặc bị-động.

Nói cho cùng kỳ lý, thì: tất cả chỉ để bạn và tôi, ta có cơ-hội đểm phiếm ba điều bốn chuyện, không phải của do mình hoặc thiết-thân với chính mình, gia-đình mình.

Nói cho cùng và chon gay, chi bằng ta cứ vào vườn hoa Lời Chúa có những Tin Mừng để đời như tác-giả người Nga ở trên từng trải-nghiệm.

Nói cho cùng, cũng nên nhìn về quá-khứ trong đó mình từng được nghe nhiều và học nhiều, những điều do bậc thánh-hiền vẫn từng bảo:

“Cùng các bậc kỳ mục trong anh em,

tôi xin có mấy lời khuyên nhủ,

vì tôi cũng thuộc hàng kỳ mục,

lại là chứng-nhân những đau khổ của Đức Kitô

và được dự phần vinh quang sắp tỏ hiện trong tương lai.

Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em:

lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng,

nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn,

không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn,

nhưng vì lòng nhiệt thành tận tuỵ.

Đừng lấy quyền mà thống-trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em,

nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên.

Như thế, khi Vị Mục Tử tối cao xuất hiện,

anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát.”

(1 Phêrô 5: 1-4)

 Nói theo nhà Đạo, thì như thế. Như thế, tức làm sao để các bậc kỳ-mục/thủ-lãnh cũng như dân-gian dưới trướng được sống đời thoải-mái trong yêu thương. Chứ không chỉ câu-nệ luật lệ, mà thôi. Dù luật ấy có là giáo-luật. Dù điều ấy có là giáo-huấn rất “khẳng-định” từ trên phán xuống.

         Nói theo kiểu người ngoài luồng, ngoài đời là nói bằng cung-giọng/điệu hát có lời ca rất âm-thầm, nhè nhẹ đầy chất thương yêu như người thường ở huyện, vẫn cứ hát những câu như:

“Trả lại anh câu thơ người em tóc thề

Trả lại anh khóc thương cho phận con gái

Trả lại anh tương tư mà anh đã trao

Bên nhau tình nhớ với thương

Xem như cơn mộng mà thôi

Coi nhau như bạn mà thôi.”

(Đức Quỳnh – bđd)

Hát thế rồi, ta lại tìm đến những truyện kể do bạn-bè/người thân những sưu-tầm để ta viết phiếm. Viết cho đời thêm phấn-chấn. Nghe kể, cho đời mình được nhiều tiếng cười vẫn quẩn quanh đâu đó, những muốn vui, như sau:

“Cô sinh viên nọ, bận tâm về chuyện bồ-bịch và gia-đình, nên đã biên thư hỏi ý mẹ như sau:

-Kính thưa mẹ, mọi việc đang diễn ra tốt đẹp ở trường. Con đã gặp một anh sinh-viên tuyệt-vời nhất từ trước tới nay. Anh ấy học năm thứ ba. Anh ấy chơi bong đá, đang học để chuẩn-bị ra trường làm bác-sĩ, đạt hạng xuất-sắc, dáng người cao ráo, đẹp trai. Con đã hẹn đi chơi với anh ấy 8 bận rồi và đã mặc 8 chiếc áo đầm mà con có. Giờ, thì con cần thêm một chiếc áo nữa, để cho buổi hẹn sắp tới, bởi vì anh ấy đã mời con đi xem hát với anh ấy. Mẹ có vui lòng gửi cho con 25 đôla, để con mua một chiếc áo mới được không, hả mẹ?

Bà mẹ trả lời:

-Đâu cần phải mua áo mới làm chi cho rắc rối thế con. Hãy tìm một bạn trai mới và làm lại từ đầu, thế thôi!” (truyện kể trên mạng, không ghi tên tác-giả)

Truyện kể ở trên mạng, có thể cũng là chuyện đời người rất kinh-nghiệm. Kinh-nghiệm của người mẹ ở trên chưa chắc đã là “giáo-huấn” ở đời, như một khẳng-định từ trên xuống. Cũng có thể, chỉ là chuyện thời xưa thích-hợp cho thế-hệ già nua, tuổi tác, rất khô-cứng. Chí ít, là chuyện luật và lệ ở nhà Đạo, dành cho người đi Đạo, sống đời thực-tế rất lâụt-lệ, mà thôi.

Nói thì nói thế, chứ cũng tùy bạn tùy tôi, ta đứng từ góc độ nào mà nhìn đời, rồi xử-thế.

Nói thì nói thế, nay xin bạn và tôi, ta cứ hiên-ngang bước vào giòng đời dù đổi-thay hay vẫn thế, cũng cứ mặc. Cứ hát lên, câu ca/điệu nhạc dù buồn phiền hay phấn khởi, vẫn cứ hát cho đời lên hương. Để rồi, ta sẽ cùng sống với mọi người, suốt những ngày còn lại trong cõi đời đầy đổi thay, như thế này:

“Trả lại anh câu yêu em, tình yêu bất diệt.

Trả lại anh với câu xây nhà bên suối.

Trả lại anh hoa khô cài bên bướm xanh.

Đây trang nhật ký đôi ta.

Đang ghi sao đành dở dang.

Khi em yêu anh còn cô gái thơ ngây.

Nay em xin anh trả em lúc ban đầu.

Yêu anh em đâu ngờ duyên kiếp ba sinh.

Van anh quên đi như khi ta chưa hề quen.”

(Đức Quỳnh – bđd)

 Trần Ngọc Mười Hai

Cũng đã trải-nghiệm những ngày buồn

Có câu ca, bài hát rất không vui

Như mọi ngày.

“Không-gian ngoảnh mặt làm ngơ,”

“Không-gian ngoảnh mặt làm ngơ,”

Mai Tá lược dịch

Tin Mừng (Mt 5: 1-12a)

Một hôm, thấy đám đông, Đức Giêsu lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên.

Người mở miệng dạy họ rằng:

“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.

Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.

Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.

Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.

Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.

Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.

Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.

Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.

Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa.

Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao

+    +    +    +    +

“Không-gian ngoảnh mặt làm ngơ,”

           Giọt mưa xuân cũng vô tình trêu ai”.

(Dẫn từ thơ Vũ Hoàng Chương)

Ngoảnh mặt làm ngơ, và vô tình trêu ai, còn là tâm-trạng của người nghèo hèn ở trình-thuật.

Trình thuật hôm nay, kể về hai người đàn bà nghèo, góa bụa. Làm thân góa bụa hồi đầu thế kỷ, các bà vốn rất nghèo. Nghèo tiền nghèo của, nghè cả chức phận, lẫn công danh. Ở xã hội Do Thái thuở trước, mồ côi, góa bụa, nghèo nàn, cả ba đều bị liệt vào giai cấp cùng đinh, mạt rệp. Vị thế của họ vẫn cứ hèn và mạt đến độ không ngóc đầu thoát khỏi kiếp vong mạng, nơi bùn đen. Kiếp người của họ luôn trái ngang, gặp cảnh chê bai, miệt thị.

Lối hành xử đầy khinh chê mà các bà gặp phải, hiện diện cả trong giới linh thiêng nhà Đạo, nữa. Trình-thuật kể rằng: Đức Kitô xếp loại các thủ-lĩnh, kinh-sư thời Ngài vào cùng một hạng với những người, ta cần dè-chừng. Dè-chừng, không chỉ vì họ luôn tìm ra phương-cách khai-thác, bóc-lột giai-cấp cùng đinh mạt rệp, mà thôi. Dè-chừng, còn vì các thái-độ khinh-chê, miệt-thị và bóc-lột vẫn hủy-hoại tình người. Thứ tình cần đến cơn mưa yêu thương, lắng đọng.

Với Đức Kitô, thái độ “xúng xính”, “bóc lột” là lối hành-xử giả-hình, không chấp-nhận được và cần đổi-thay. Với Tin Mừng Nhất Lãm, cả ba thánh-sử thỉnh thỏang vẫn kể lại hành-vi kiêu-căng, ngạo mạn của các đấng kinh sư nhà Đạo, lúc bấy giờ. Nghĩa là, hành vi của những người này trái ngược hẳn lối xử-sự của đám nghèo hèn/cùng đinh, như các bà góa. Hành-vi yêu-thương luôn giùm giúp những ai đang cần. Kinh nghiệm chính bản thân mình, Đức Giêsu đã triền-miên chịu-đựng mọi khổ-đau vì người đời. Ngài vẫn không thể chấp-nhận nổi phong-cách “làm bộ đọc kinh nhiều giờ” của đám Kinh sư, Biệt phái.

Là môn-đồ Đức Chúa, dù ở cương-vị nào, chắc hẳn ta cũng không chấp-nhận nổi thái-độ trịch-thượng, dễ gây xa cách ấy. Thật ra, tạo cho mình có được của cải, quyền-bính này khác, tự nó không có gì xấu xa.

Vấn-đề đặt ra, là: khi tiếp-nhận quà tặng từ Trên, dù quà đó có là quyền-thế hay của cải/tiền bạc, ta vẫn có thể sống đúng tư-cách của người công-chính, được như thường. Hệt như phương-châm: hãy nói tôi nghe bạn sử-dụng quà tặng như thế nào, tôi sẽ cho biết bạn là ai. Ở đây nữa, quyền-bính và của cải/tiền bạc vẫn là “bát cơm đong dầy”, ta phải luôn cầu Trời mới mong có.

Trớ trêu thay, mọi quyền-uy con người tạo được, dù ở chính-trường, nơi nhà Đạo hoặc trong gia-đình, ngoài xã-hội, cộng thêm sự giàu sang từ đó có được, vẫn là những thứ hấp-dẫn, khó chối-từ. Càng có nhiều uy-quyền, người người càng tạo nhiều của cải. Càng có nhiều của cải, người người những tưởng: mọi sự đều thuộc về mình.

Không ai có quyền gỡ bỏ hoặc rút đi. Và, một khi có nhiều quyền-hành và tiền của, người ta sẽ dễ trở nên kiêu-căng, thích bóc-lột người khác, những nghèo và hèn hơn mình. Lúc ấy, họ sẽ quên đi lời nhắc nhở dặn dò, rằng: tất cả đều là quà tặng, từ Trên. Và, khi đã quên lời nhắc-nhở từ Trên, người ta có khuynh-hướng quên luôn cả Đấng đã nhắc nhở mình. Để cho mình mọi uy quyền và của cải ấy.

Trình thuật hôm nay, thánh Mác-cô ghi lại lời nhắc nhở ngợi khen phong-thái của người cùng đinh/nghèo hèn, như bà góa. Đức Chúa khen ngợi các bà thuộc giai cấp thấp hèn không phải vì các bà vốn người đốn mạt, nghèo hèn.

Điều mà Đức Kitô ngợi khen, chính là phong-cách độ-lượng, thương-yêu giùm-giúp của các bà, những người chị, người em đang sống cuộc đời nghèo/hèn, tận-tuyệt. Nghèo hèn tận tuyệt, là: biết mình cũng chẳng là gì, chẳng hơn ai. Nhưng, vẫn biết người, biết mình. Luôn khiêm tốn. Vẫn thân thương. Thân-thương trong thái-độ nhớ đến người khác. Nhớ đến những người còn nghèo/hèn tận-tuyệt, hơn mình.

Biết người biết mình, là: lâu nay tuy bị bóc-lột đến cùng cực, rất túng thiếu, nhưng vẫn lẳng-lặng yêu-thương, đùm bọc. Không hợm hĩnh, khoe khoang. Có biết mình và biết người như thế, mới nói được rằng: kẻ cao sang, quyền quý dù biết nhiều học rộng, vẫn cần học và hỏi nhiều nơi người nghèo hèn. Học và hỏi, không phải kiến thức khoa bảng, nở rộ. Học và hỏi về phong cách nhẹ khi thương yêu đùm bọc, cả vào lúc quyên góp.

Nơi cuộc sống Đạo-đời, vẫn là chuyện thường nếu lâu nay các đấng bậc cao-sang quyền-quý vẫn cứ dạy và dỗ đám dân nghèo, thấp hèn. Điều khác lạ nơi Tìn Mừng hôm nay, chính là bài học này: hãy để cho lớp người cùng đinh/thấp hèn có cơ-hội minh-chứng dỗ-dạy các đấng bậc quyền-quý, rất cao sang. Các đấng đang ngự-trị nơi: chính trường, nhà Đạo. Hoặc, tại khắp chốn như: xã hội, gia đình.

Và, đó là điểm sáng Tin Vui rất an bình mà trình thuật thánh Mác-cô muốn gửi đến người đọc. Nơi dân-gian trần-thế, có vài truyện kể cũng mang dáng dấp an vui Tin Mừng, ta vẫn nghe. Như truyện kể hôm nào, về đối chất thần-học giữa vị Hồng y nhà Đạo và tín đồ nghèo Do Thái giáo.

Nhiều năm về trước, giới nhà Đạo ở La Mã có quyết-định: người Do thái phải rời bỏ thủ-đô này, không được sống gần người nhà Đạo. Cộng đồng bạn tỏ ra bất-bình trước quyết-định gay-gắt ấy. Thấy thế, Đấng bậc nhà Đạo bèn giải hoà, bằng đề-nghị: nếu cộng-đồng bạn toàn-thắng cuộc thi-đấu kiến-thức thần-học, họ được ở lại.

Phía nhà Đạo, vị được cử lên thi đấu lại là Hồng y chủ quản; giáo hội bạn, chỉ đề cử tín-đồ nghèo hèn, tên Môsê. Sợ mình không thể đối nhanh đáp lẹ, kẻ hèn Môsê đề-nghị cuộc thi diễn ra trong im lặng. Chỉ giơ tay, ra dấu. Hai bên đồng ý, nhập cuộc.

Bắt đầu, Vị Hồng y đưa tay lên cao, giơ 3 ngón. Tín đồ Môsê chỉ giơ một ngón, rất gọn. Hồng y nhà ta dùng tay vẽ vòng cầu, trên đỉnh đầu. Còn, Môsê lấy tay chỉ xuống đất chỗ mình ngồi, không chậm trễ. Hồng y bèn đem bánh miến rượu nho, một lượng nhỏ, cung-kính lĩnh nhận. Trong khi đó, tín đồ Môsê lại mang trái táo xanh, dự tính ăn. Cuối cùng, vị Hồng y đứng dậy, vội nói: “Tôi xin thua. Người này quá tốt lành, anh ta thắng”.

Thế là, cộng đồng người Do thái được quyền ở lại. Vài giờ sau, các đồng-nhiệm đến hỏi vị Hồng y: sao, lại như thế? Vị Hồng y đáp: trước hết, tôi giơ tay 3 ngón ý nói Đức Chúa Trời có Ba ngôi, thì anh ta chỉ giơ ra có một, ý muốn nhắc nhở tôi: Đạo của chúng ta đều chỉ tin một Chúa. Thế rồi, tôi ra dấu đánh vòng trên đỉnh đầu, ý muốn bảo: Đức Chúa đang hiện-diện quanh ta, thì anh chàng lại chỉ tay xuống đất, ý rằng: đúng đấy thưa ngài, Đức Chúa đang có mặt ở đây, ngay lúc này.

Cuối cùng, tôi đem rượu cùng bánh có ý nhắc: sùng kính Thánh Thể Cha, là việc rất phải. Phần anh, anh lại lấy táo xanh đem ra nhắc tôi: về tội nguyên tổ, ta cần đề cao. Tóm lại, anh ấy có giải-đáp rất nhanh về mọi vấn-đề.

Cùng lúc, bạn bè trong cộng-đồng Do thái rất thân, bèn quây quần bên người thấp-hèn Môsê, mà hỏi: này anh bạn già thấp kém như thế mà sao anh thắng được đấng bậc đạo-mạo bên ấy. Anh thưa: có gì đâu. Lúc đầu, ỗng bảo tôi: cộng đồng mình có 3 ngày để dời đi nơi khác. Tôi thưa ngay: không một người nào trong bọn tôi, sẽ ra đi. Rồi ông thêm: trọn thành này sẽ sạch bóng người Do thái, là các anh đấy. Tôi bèn cho biết: không đâu, bọn tôi đóng trụ trên đất này, chẳng đi đâu cả. Cuối cùng, có người hỏi: Môsê, thế rồi sao? Môsê nói: tôi cũng chẳng biết nữa. Tự nhiên thấy ỗng lấy đồ trưa ra ăn, tôi cũng lấy táo xanh của mình ra, đánh chén thế thôi.

Qua truyện kể, phong-cách hành-xử giải-quyết vấn-đề giữa vị chóp bu nhà Đạo và đạo-hữu thấp hèn Môsê, rất khác-biệt. Khác-biệt, không có nghĩa lọai bỏ, tru diệt lẫn nhau. Khác biệt, là cần thắc-mắc, cần học-hỏi do đâu. Khác-biệt, không phải để so-sánh, phân-tranh ngôi vị. Vì, so sánh phân tranh không là giải đáp tốt, ở nhiều trường-hợp.

Thông thường và thích đáng hơn, vẫn là thái-độ biết học và hỏi. Biết áp-dụng lối xử-sự, phương-cách sống của người khác. Chí ít, của người nghèo hèn, tận tuyệt. Phương cách sống và lối xử sự ấy, không nhất thiết phải như đấng bậc phú quý, ở trn cao. Cách hành động và đối xử thích hợp, vẫn có thể và vẫn nên như cách thế của kẻ nghèo hèn, tận tuyệt.

Tham dự tiệc thánh hôm nay, ta cầu mong cho cộng-đoàn thân thương của ta có được phong-cách hành-xử, rất thư-thái xứng-hợp. Thư-thái, như dân thường ở huyện, chốn dân-gian. Những kẻ thấp hèn luôn mong chờ mưa xuống. Mưa hồng-ân. Mưa cứu-độ vẫn đi kèm theo mỗi quà tặng thông-thường, ta nhận-lĩnh. Một khi có được phong-cách nhẹ-nhàng thoải-mái như kẻ nghèo hèn, cùng đinh, ta sẽ thư-thái ngâm lại lời thơ trên, mà rằng:

Không-gian ngoảnh mặt làm ngơ,

Giọt mưa xuân cũng vô tình trêu ai.

Mưa đầy tóc gió đầy vai,

Sầu treo bốn hướng trôi dài tâm-tư.” (Vũ Hoàng Chương – Bơ Vơ)

Sầu treo bốn hướng/bơ vơ, là tình-trạng người nghèo-khó ở mọi thời vẫn cần mọi người giùm giúp đỡ đần. Và, đỡ đần/giùm giúp, lại là thực-chất lòng đạo không chỉ người Công giáo, hoặc Do thái mới có. Mà là, lòng mọi người ở đời vẫn luôn đùm bọc giùm giúp, hết mọi người.

Lm Richard Leonard sj biên soạn

Mai Tá lược dịch

Hiểm họa ở đồng bằng sông Cửu Long

Hiểm họa ở đồng bằng sông Cửu Long

Nguoi-viet.com

Ngô Nhân Dụng

Trong cuốn sách Cửu Long Cạn Dòng, Biển Ðông Dậy Sóng (nhà xuất bản Giấy Vụn, 2014), nhà nghiên cứu Ngô Thế Vinh đã báo động hai mối họa nước Việt Nam phải đối đầu. Chuyện Biển Ðông dậy sóng ai cũng biết nhờ tin tức thời sự mỗi ngày. Ít người Việt theo dõi mối họa thứ hai là “Cửu Long Cạn Dòng.”

Ký giả Navin Singh Khadka, chuyên trách các vấn đề môi trường sống của BBC mới viết một bài mới, báo động tình trạng đồng bằng sông Cửu Long nước ta đang gặp nạn; tai họa không những gây ra do các đập nước của Trung Quốc ở đầu nguồn sông Mekong mà còn vì hành động của chính người Việt Nam, trong lúc chính quyền hoặc làm ngơ không chú ý, hoặc bất lực không làm gì được.

Khi Cộng Sản Trung Quốc cho xây các đập thủy điện ngăn nước từ đầu nguồn sông Mekong, rồi các nước Lào, Thái Lan, Campuchia cũng đua theo, số lượng nước chảy xuống sông Cửu Long ở nước ta đã giảm bớt. Vì sức nước sông chảy yếu đi, nước biển đã dâng lên, tràn vào trong đất liền.

Hiện nay mỗi năm đồng bằng sông Cửu Long đã bị nước biển liếm mất 500 mẫu tây (năm cây số vuông). Theo Viện Khoa Học Thủy Lợi Miền Nam thì trong năm ngoái số ruộng lúa bị nước biển tràn và thấm vào còn rộng hơn nữa, mất 60 cây số vuông không thể trồng trọt. Theo các nghiên cứu khoa học của Ủy Ban Sông Cửu Long, một tổ chức của bốn nước Việt Nam, Thái Lan, Lào và Campuchia, với tốc độ nước biển xâm nhập hiện nay, tới cuối thế kỷ này vùng đồng bằng sông Cửu Long sẽ mất gần một nửa (40%) đất có thể trồng trọt, vì mực nước biển sẽ lên cao thêm cả thước.

Nhưng không cần phải đợi tới cuối thế kỷ đồng bào ta mới phải chịu tai họa. Ông Lê Anh Tuấn, thuộc Viện Nghiên Cứu Biến Ðổi Khí Hậu tại Ðại Học Cần Thơ, vì nước biển dâng lên, gần một nửa số dân sống trong vùng sông Cửu Long đang thiếu nước ngọt để sử dụng. Nước biển xâm lấn khiến những con đê ngăn nước mặn cũng hư không còn hiệu lực nữa. Tại vùng ven biển, nước mặn đã vào sâu thêm 60 cây số trong đất liền. Một số nhà vườn trồng xoài đã ngưng hoạt động, vì cây xoài chỉ sống được nếu nước mặn mỗi năm lên cao dưới 1.6 mili mét; mà hiện nay mức dâng cao đã gấp ba lần (5 mili mét). Nhiều nhà nông trồng lúa đã phải bỏ, quay sang nghề nuôi tôm. Theo nghiên cứu của Ủy Ban Sông Mekong, hiện nay số đất phù sa bồi đắp lên vùng châu thổ sông Mekong đã giảm bớt 85 triệu tấn so với năm 1992.

Ðầu mối tai họa này là chính sách khai thác điện lực và dẫn thủy nhập điền của chính quyền Cộng Sản Trung Quốc. Sông Mekong, tại Trung Quốc mang tên là Lan Thương (Lancang, 澜沧) chảy qua Tây Tạng và các tỉnh Thanh Hải, Vân Nam, trước khi đổ xuống phía Nam. Theo tạp chí World Rivers Review của cơ quan Sông Quốc Tế (International Rivers, IR), thì vào năm 2014, Trung Cộng đã xây dựng bảy đập thủy điện lớn ở đầu nguồn sông Mekong thuộc nước Tàu, con sông phát nguyên từ Tây Tạng chảy xuống Biển Ðông nước ta. Họ sẽ xây thêm 21 đập ngăn nước lớn khác trong 10 năm tới. Các nước hạ nguồn cũng bắt chước xây các đập nước khác; với dự án xây 11 con đập nữa.

Việc xây đập ảnh hưởng trên đời sống của các dân tộc phía dưới nguồn sông. Vào mùa không mưa, dân chúng hai bên bờ sông ở Lào, Thái Lan, phải dùng nước sông để tưới ruộng vườn, nay số lượng nước bị giảm. Khí hậu hai bên bờ sông cũng thay đổi vì khối lượng nước trong con sông có tác dụng giúp nhiệt độ ôn hòa, ít lên xuống hơn. Vì nhiệt độ thay đổi, đời sống các giống cá trong lòng sông cũng bị ảnh hưởng. Nhưng tai họa lớn nhất là nước biển lấn dần vào đất liền thì chỉ dân Việt ở đồng bằng sông Cửu Long gánh chịu. Ðập Don Sahong đang xây ở Hạ Lào, nhằm cung cấp điện cho Lào và Thái Lan sẽ ảnh hưởng lớn trên đời sống dân Campuchia và miền Nam Việt Nam.

Trong cuốn sách biên khảo viết dưới hình thức vừa tiểu thuyết vừa ký sự, Cửu Long Cạn Dòng, Biển Ðông Dậy Sóng, Bác Sĩ Ngô Thế Vinh đã mô tả hành động của chính quyền Trung Quốc: “Vào Tháng Tư năm 2001, Trung Quốc đã ký một thỏa hiệp về thủy vận trên sông Cửu Long nhưng chỉ với 3 quốc gia Miến Ðiện, Thái và Lào với kế hoạch vét lòng sông, cả dùng cốt mìn chất nổ phá tung những khối đá trên các đoạn ghềnh thác, các đảo nhỏ trên sông để khai thông mở rộng đường sông cho tàu lớn trọng tải từ 500-700 tấn có thể di chuyển từ cảng Tư Mao xuống Chiang Khong Chiang Sean Bắc Thái xuống thẳng tới Vạn Tượng. Trong khi Việt Nam và Campuchia là hai quốc gia cuối nguồn, trực tiếp chịu ảnh hưởng của kế hoạch ấy thì bị gạt ra ngoài.”

Sau các tai nạn do các đập nước gây ra, mối họa thứ hai là các công trường khai thác cát. Mỗi năm hàng triệu mét khối cát được đào đem đi trong vùng hạ nguyên sông Cửu Long; nhiều nhất là ở Campuchia và Việt Nam. Quỹ Thế Giới Bảo Vệ Thiên Nhiên (World Wide Fund for Nature, WWF) cho biết riêng tại đồng bằng sông Cửu Long nước ta có 150 công trường đào lấy cát, trải ra trong 13 tỉnh, tổng cộng rộng 80 cây số vuông. Các công trường cát này đã được nhà nước cấp giấy phép. Trong năm năm nữa, các công trình xây cất sẽ cần đến một tỷ mét khối cát; làm giảm bớt số ruộng đất trồng trọt.

Các tổ chức bảo vệ môi trường đã báo động và cảnh cáo chính quyền Việt Nam về tai hại của việc cho phép các công trường đào cát hoạt động mà không nghiên cứu các ảnh hưởng sâu xa. Chính quyền biết các mối tai hại đó những không làm gì cả. Khi được lệnh từ cấp trên, các địa phương từ chối thi hành vì lý do không thể bồi thường thiệt hại cho các công ty đã cấp giấy phép. Trong vấn đề này chưa có luật lệ nào bảo vệ môi trường sống của mấy chục triệu người dân. Mà khi luật lệ không đầy đủ, không rõ ràng thì người ta càng có thêm cơ hội tham nhũng!

Ngoài nạn lấy cát không có kế hoạch toàn bộ, chính quyền còn đang thực hiện những công trình “vét bùn” nới rộng lòng sông ở các khúc chi lưu nhỏ, thay đổi đời sống dân hai bên bờ. Nhiều con sông phụ sâu dưới 5 mét không cho phép các tàu thủy lớn qua lại. Việc vét bùn sẽ mở rộng đường giao thông nhưng không có kế hoạch củng cố bờ sông cho vững chắc hơn; một hậu quả là sóng lớn xô vào làm bờ sông bị lở và đất ruộng bị thu hẹp.

Hiểm họa của người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long còn tiếp diễn, vì một mặt, chính quyền Việt Nam không dám phản đối Trung Cộng trong việc xây dựng các đập thủy điện bất chấp ảnh hưởng tới các nước phía dưới, mặt khác vì chính quyền tham lam ăn hối lộ không quan tâm nghiên cứu và kiểm soát việc khai thác cát trong vùng sông chảy qua.

Chỉ khi nào Việt Nam có một chính quyền không lệ thuộc Cộng Sản Trung Quốc, nước ta mới có tiếng nói mạnh mẽ để cùng các nước trong vùng sông Mekong ngăn chặn việc Trung Cộng xây đập nước mà không tham khảo ý kiến các nước lân cận.

Chỉ khi nào Việt Nam có một guồng máy nhà nước do người dân bỏ phiếu bầu, biết lo cho dân thay vì chỉ lo tranh giành chức vụ để mưu lợi cho bản thân và gia đình thì đồng bào sống trong vùng đồng bằng sông Cửu Long mới thoát khỏi mối hiểm họa đang đe dọa.