CHÚA CÓ VUI KHÔNG ?

CHÚA CÓ VUI KHÔNG ?

Tri’ch EPHATA 666

Lại một lần nữa Chúa Giêsu cho chúng ta thấy Người “dốt Toán”, theo cách nói của cố Hồng Y F.X. Nguyễn Văn Thuận. Hai đồng xèng trị giá phần tư xu lại nhiều hơn những đồng vàng rủng rẻng ! Cũng may là Chúa Giêsu đã kịp “giải” ngay cho ta “thích” chứ không lại có lắm kẻ bực bội: “Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống mình” ( Mc 12, 44 ). Sao không bực bội cho được khi thấy những đồng vàng sáng loáng của mình bỗng dưng trở nên vô hiệu trước hai đồng xu hoen gỉ ?

Có một lần đi ăn cưới ở xa, sáng vào quán cà-phê, tôi vô tình nghe lóm được câu chuyện ở một giáo xứ nọ qua đối thoại của hai ông bàn bên cạnh:

Vì là sáng Chúa Nhật sau khi tan lễ Nhất nên quán hơi đông. Một ông sơ mi trắng đóng thùng, cà vạt tươm tất bước vào ngó dáo dác tìm bàn trống thì vừa hay có một ông tóc tai bờm xờm, áo quần bụi bặm đứng dậy bắt tay đón chào:

  • Chúc mừng bác, Giáng Sinh năm nay hoành tráng quá !
  • Cám ơn bác, cũng phải đổi mới lên chứ. Ban Hành Giáo mới mà ! Chẳng lẽ cứ “bổn cũ soạn lại” ?
  • Ai cũng khen năm nay đèn màu nhiều nên rực rỡ, hang đá lộng lẫy như cung điện, diễn viên tuồng trang phục rất đẹp !…
  • Bác nói lạ ! Diễn nguyện chứ sao gọi là diễn viên tuồng ?
  • Ừ, thì tôi nghe người ta nói sao tôi thuật lại vậy đó mà !
  • Rõ là miệng thế gian ! Mọi năm cứ mượn vải về vấn lên, trông luộm thuộm quá ! Năm nay tôi mạnh tay chi tiền để thuê trang phục văn nghệ đó !
  • Ra thế ! Giờ tôi mới hiểu sao họ lại gọi là “diễn viên tuồng”, cũng có nguyên cớ cả. À, mà cái dzụ Thiệp Giáng Sinh cũng là ý của bác đó à ?
  • Ừ, mà sao ?
  • Hay ! Độc đáo ! Cái thiệp lãng mạn bỗng gánh thêm “thiên chức” quyên tiền. Nhất cử lưỡng tiện. Không nơi nào trên thế giới có được ! Sang năm, tôi phải xin vài cái để gửi cho vợ con…
  • Ủa, vợ con bác ở cả đây mà gửi thiệp làm gì ?
  • Thì… Giáo Dân cũng ở cả đây và Ban Hành Giáo lẫn Cha Sở có thể mừng Giáng Sinh trực tiếp, nóng hổi đó thôi. Nhưng tôi khoái nhất là cái câu… phụ đề ghi trong thiệp: “Sự quảng đại của quý vị là niềm vinh hạnh cho chúng tôi”. Hy vọng bà xã tôi cũng bắt chước mấy bà góa trong giáo khu mạnh tay chi cho tôi chút đỉnh vui chơi Giáng Sinh !
  • Mấy bà góa nào ?
  • Thì… mấy bà bó chổi, chằm nón… ngày kiếm vài ba chục. Mấy năm trước chỉ bỏ năm, mười ngàn vô thùng tiền Giáng Sinh, tự nhiên năm nay thấy cái thiệp Giáng Sinh ghi đích danh mình nên phát hoảng. Chạy sang nhà tôi vay một trăm để bỏ vô cho “dễ coi”. Tôi mới cho hai bà vay là… đứt chớn ! Mấy bà sau tôi chỉ qua nhà Tám thợ mộc.
  • Góp nhiều thì công đức nhiều chứ có ai ăn của mấy bả đâu ! Danh sách thu lẫn các khoản chi đều được thông báo công khai hết mà !
  • Ừa, thì chính cái dzụ “công khai” đó mà mấy bả mới… tái mặt !
  • Chúng tôi làm vì Giáo Xứ chứ có phải làm cho chúng tôi đâu ?
  • Ừ, thì làm cho Giáo Xứ ! Nhưng có bao giờ Giáo Xứ khen các bà góa như Chúa Giêsu đã làm, hay chỉ khen các bác giỏi vận động quyên góp, có óc tổ chức, thanh liêm, chính trực… Trước khi làm việc gì, các bác có khi nào tự hỏi thầm rằng: “Chúa có vui không ?”

Đoạn đối thoại đến đây là chấm dứt vì ông “cà-vạt” đã vội đứng lên trả tiền sau khi uống ly cà-phê… không đường. Ly cà-phê sữa ông gọi vẫn còn nguyên trên bàn !

Ngay từ thuở bình minh của Giáo Hội Công Giáo, các tín hữu đã theo gương Chúa mà luôn chăm sóc cho các góa phụ: “Thời đó, khi số môn đệ thêm đông, thì các tín hữu Do Thái theo văn hoá Hy Lạp kêu trách những tín hữu Do Thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên” ( Cv 6, 1 ). Tôi cứ tưởng ngày nay trong Giáo Hội chẳng còn chuyện “nuốt tài sản của các bà góa” vì chẳng ai nỡ “ăn” đồng tiền đó. Không, tôi đã lầm ! Không ai “ăn” nhưng người ta dùng tiền của các bà góa để làm vinh danh mình. Bà góa hôm nay còn “thê thảm” hơn bà góa ngày xưa vì bà không chỉ bỏ tất cả những gì mình có mà còn cả những thứ phải đi vay mượn ! Chúa có vui không ?

Có lúc chính tôi cũng đâm ganh tỵ với các bà góa vì các bà được Thiên Chúa quan tâm, ưu ái ngay từ trong Cựu Ước:

  • Anh ( em ) không được làm thiệt hại đến quyền lợi của ngoại kiều và cô nhi, không được giữ áo của người goá bụa làm đồ cầm ( Đnl 24, 17 ).
  • Khi anh ( em ) gặt lúa trong ruộng mình, mà bỏ sót một bó lúa trong ruộng, thì không được quay lại mà lấy; bó lúa ấy dành cho ngoại kiều và cô nhi quả phụ; như vậy, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh ( em ), sẽ chúc phúc cho anh ( em ) trong mọi việc tay anh (em) làm. ( Đnl 24, 19 ).

Nhiều khi tôi cũng đóng góp chút đỉnh nhưng cứ mặc cảm đó chỉ là của dư thừa… trước mặt Chúa ! Làm sao đây ?

Cho đến một hôm, tôi được rong ruổi đường trường cùng “ông thầy kinh điển” trên chiếc Honda cub màu da trâu 90 phân khối. Hai thầy trò ghé vào một quán ăn bên đường. Một bà lão chìa tay ra. Ông thầy kín đáo nhét vào đó 500 đồng ( có lẽ tương đương với 10 ngàn hiện nay ). Cơm nước xong, tôi móc gói thuốc ra mời thầy ( dạo đó thầy vẫn còn hút thuốc ). Thầy xua tay lắc đầu. “Lạ à nghen, mới hồi sáng hai thầy trò ngồi uống cà-phê còn ‘chơi’ hai điếu mà bây giờ cai rồi !” Biết tôi thắc mắc, ông thầy mới từ tốn: “Đã cho bà già 500 rồi còn hút thuốc nữa hả ? Vậy là cho của dư thừa rồi. Từ giờ tới tối mình còn phải nhịn ba điếu nữa mới đủ !”

Thì ra thế, tôi cho đi mà tôi chưa hy sinh. Tôi đóng góp mà tôi chưa từ bỏ. Chúa có vui không ?

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết quan tâm chia sẻ với tha nhân và từ bỏ mình trong từng công việc, trong từng giây phút sống của đời mình. Nhờ đó, chúng con không bị lên án như những luật sĩ mà ngày càng trở nên giống bà góa được Chúa vinh danh. Amen.

Pio X LÊ HỒNG BẢO

RỒI SẼ CÓ MỘT NGÀY…

RỒI SẼ CÓ MỘT NGÀY…

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

Tri’ch EPHATA 666

Có một sự trùng hợp hữu lý, ngày giỗ của cụ Gioan Baotixita Ngô Đình Diệm, cố Tổng Thống Việt Nam Công Hòa, cùng với bào đệ là cụ Giacôbê Ngô Đình Nhu vào đúng ngày 2 tháng 11 hàng năm. Đây là ngày Giáo Hội Công Giáo dành riêng một cách đặc biệt để kính nhớ và cầu nguyện cho những người đã khuất. Trong những ngày này ( kể từ trưa ngày 1.11 đến hết ngày 8.11 ), Giáo Hội khuyên các tín hữu đến viếng các nghĩa trang, hay nhà đặt hài cốt các tín hữu đã qua đời, để cầu nguyện cho những người đã ra đi trước mình, đặc biệt là những người thân yêu, trong đó cha mẹ, ông bà, tổ tiên… là thành phần ưu tiên số một. Giáo Hôi cũng dành riêng tháng 11 để cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, và khuyên con cái mình thực hành việc hiếu thảo cụ thể đối với cha mẹ, ông bà, đã khuất bằng lời cầu nguyện và sốt sắng tham dự Thánh Lễ.

PresidentNgoDinhDiemMột sự trùng hợp thuận lợi, vì trong những năm tháng khó khăn, những người mến mộ cụ Ngô đã không thể công khai kính nhớ cụ, nhưng đã nương theo kỳ đại lễ này để tưởng niệm và cầu nguyện cho cụ. Trong những năm gần đây, ngay ở trong nước, nhiều người đã bày tỏ lòng kính mến cụ công khai qua việc viếng mộ cụ trong kỳ đại lễ, thậm chí còn tổ chức Thánh Lễ cầu nguyện cho cụ và tưởng niệm cụ ngay tại “nghĩa trang nổi” ( nhà Hài Cốt ) của Giáo Xứ mình. 52 năm, tưởng như các sự thật về cuộc đời và sự nghiệp của một con người đã không còn góc khuất, biến cố lịch sử 1.11.1963 đã phơi bày ra cho moi người nhận biết, và lịch sử đã bắt đầu có những đánh giá trung thực về con người và biến cố.

52 năm qua rồi nhưng những gì xảy ra đối với tôi và hẳn với nhiều người có mặt trong biến cố lịch sử này thật khó phai nhạt. Ngày ấy, cha tôi chỉ là một viên công chức quèn, nhưng nhận nhiệm vụ gác gian ( gardien ) cho một cư xá công chức cao cấp nên được phân cho một ngôi nhà trong cư xá ấy, nhà số 384/50 đường Công Lý. Ở đây tôi được chứng kiến, một ngày cảnh sát dẫn về một tử tù để quay phim dựng lại hiện trường vụ gài bom dự định đánh sập cầu Công Lý, người tử tù này sống ở khu nhà sàn ven kênh Nhiêu Lộc, cũng ở đây tôi chứng kiến những cái gầu xúc bùn ầm ầm chạy cả ngày để xúc bùn dọn mặt bằng xây chùa Vĩnh Nghiêm, ở đây tôi được dạy dỗ giáo lý bởi các sư huynh Dòng Kitô Vua sáng lập trường Sao Mai bên chân cầu Công Lý, ngôi trường này đã dạy dỗ tôi những năm cuối bậc tiểu học với bao nhiêu là tình cảm thân yêu…

Vì sống trong khu cư xá có rất nhiều vị công chức cao cấp, từ ông bộ trưởng bộ Thông Tin Phan Văn Toại đến ông chủ nhiệm tờ báo Dân Chúng ( ngôi nhà đối diện nhà tôi qua một công viên nhỏ, cách đây một năm bị nổ do chứa chất nổ tạo cảnh cho phim ), cha tôi dễ dàng tìm được việc làm cho nhiều người đồng hương lúc chân ướt chân ráo di cư vào Nam. Khi cuộc đảo chánh nổ ra, rồi tin báo cụ Ngô và ông cố vấn bị giết chết, nhóm người “con ăn đầy tớ” này tụ họp ở nhà tôi. Tôi còn nhớ gương mặt ướt đầm đìa nước mắt của dì Hai, một người đàn bà ở Giáo Xứ Tân Việt, gần nhà dì tôi, được cha tôi lo cho đi làm, gương mặt thẫn thờ của chú Cỏn, người cảnh sát có nhiệm vụ giữ an ninh trật tự cho cư xá, cái hình ảnh ray rứt đứng ngồi không yên của bà Ba, người Sa Đéc mà chúng tôi nhận là bà ngoại trong những ngày tháng đến miền Nam không người thân thích. Họ xầm xì to nhỏ với nhau rồi bảo nhau nguyện kinh cầu cho cụ Ngô, tiếng cầu kinh râm ran khe khẽ như sợ lọt ra ngoài sẽ có hậu quả xấu. Mẹ tôi cứ khóc nức nở mãi nhiều ngày sau vẫn chưa nguôi.

Mấy hôm sau tôi đi học, vào lớp đã thấy khung hình của cụ treo ở giữa lớp phía trên bảng đen bị hạ xuống, người ta xé tan nát hình cụ rồi vứt vào sọt rác. Chú bé ngây thơ trong tôi ngày ấy nhìn quanh rồi nhặt vội mảnh hình con mắt của cụ đem về cất mãi trong ngăn học của mình. Từ ngày đó, mỗi thứ hai chào cờ, chúng tôi chỉ hát Quốc Ca, không hát bài suy tôn Ngô Tổng Thống nữa, tôi cảm thấy hụt hẫng và chán nản. Không biết mãi sau này, tôi đã quen với cái cảm giác thiếu thiếu đó từ bao giờ.

Cha tôi có ba người bạn thân từ thời còn ở Hà Nội: bác Sâm, bác Phụng và bác Bất, họ gặp nhau lại ở giữa Sàigòn sau cuộc di cư 54. Ngày gặp bác Sâm ở công trường Hòa Bình ( công trường Nhà Thờ Đức Bà ), hai người ôm lấy nhau khóc. Bác Sâm làm ở Tòa Phá Án ở đường Hồng Thập Tự ( bây giờ khu đất ấy là nhà hàng cà phê ngay trước nhà Văn Hóa Thanh Niên đường Nguyễn Thị Minh Khai ) nên được phân cho căn nhà phía sau Tòa Phá Án. Bác Phụng thì làm cho Tòa Đại Sứ Pháp ( bây giờ là ngôi nhà của Tòa Lãnh Sự Pháp ở Sàigòn ), mỗi lần đi thăm bác thì nhiêu khê lắm vì phải qua cửa an ninh. Còn bác Bất thì ra Nhà Trang mở tiệm phở ở chợ Đầm.

Cha tôi cũng có hai người bạn thân trong quân ngũ, ông thượng sĩ Duyệt nhà ở Hòa Hưng, trước cửa nhà có cái giếng, bọn trẻ chúng tôi thường ra đó chơi vì nó rất mát dưới tàn cây lớn, và ông thượng sĩ Trê nhà ở Giáo Xứ An Lạc, trước cửa nhà có cây vú sữa xum xuê. Tất cả những người này đều không phải Công Giáo, trừ gia đình ông Trê. Tôi dài dòng như vậy để muốn chia sẻ rằng không chỉ những người Công Giáo mới mến mộ cụ Ngô. Ngày ấy, mỗi chiều thứ bảy hoặc Chúa Nhật, cha tôi dẫn chúng tôi đi chơi thăm nhà bạn bè, câu chuyện về cụ Ngô được người lớn ôn lại với nhau trong nghẹn ngào nước mắt, bọn con trẻ chúng tôi lẳng lặng im nghe.

Sau này qua một số tài liệu, người ta nói rằng các tướng lãnh đảo chánh đã đánh lừa binh sĩ dưới quyền, họ nói với binh sĩ rằng về thủ đô để giải vây cho Ngô Tổng thống, họ sợ nói là đảo chánh thì binh sĩ sẽ bất tuân lệnh, may cho họ là cuộc đảo chánh gần như không có tiếng súng, vì Ngô Tổng Thống đã lặng lẽ ra đi ẩn mình ở Nhà Thờ Cha Tam trong Chợ Lớn, rồi ngày hôm sau, vừa dự Thánh Lễ sáng xong, đã gọi điện thoại nộp mình chịu chết, nếu cụ quyết tâm phản ứng thì chưa biết cục diện sẽ ra sao vì rất đông binh sĩ yêu mến và biết ơn cụ.

Cũng qua tài liệu đã tiết lộ, nhóm đảo chánh rất hèn, cái hèn giết người khi người ta đã đầu hàng, giết những người bị trói thúc ké hai tay bằng những nhát dao độc ác rồi kết thúc bằng những viên đạn súng lục, cái hèn của sự trả thù khi đạt được chiến thắng, tất cả nhân viên guồng máy hành chánh và quân sự của cụ đều bị trả thù, tài liệu đã kể nhiều lắm nhưng tôi chỉ xin kể những trường hợp rất cụ thể mà tôi biết.

Có hai người họ hàng nhà tôi là hai người trong nhóm cận vệ của cụ, sau ngày đảo chánh, hai ông bị chuyển ngay ra đơn vị tác chiến, vài tháng sau cả hai đều tử trận, cái chết bí hiểm để lại nỗi đau nhức nhối cho hai gia đình. Ông Rong nhà ở đường xe lửa cổng số 6, Giáo Xứ Bùi Phát, và ông Thảo nhà ở cư xá Kiến Thiết, đường Huỳnh Quang Tiên, nay là đường Đặng Văn Ngữ, Giáo Xứ Đa Minh, Ba Chuông. Đến như cha tôi, một viên tùy phái quèn kiêm gác gian cư xá, chỉ nửa năm sau ngày đảo chánh 1.11, chúng tôi bị đuổi nhà, anh em chúng tôi bồng bế nhau về đường Nguyễn Huỳnh Đức, nay là Huỳnh Văn Bánh, mua một mảnh đất sình lầy bên dòng kênh Nhiêu Lộc. Tôi không bao giờ quên ngày theo các anh đi nhận đất, miếng đất sình người ta còn đang trồng giàn mướp nở hoa vàng rực dưới nắng sớm. Tôi lớn lên bên dòng kinh ấy rồi chứng kiến bao đổi thay của đất nước và thành phố này những năm 70 cho đến hôm nay.

Các “hèn tướng” sau khi giết được cụ Ngô, chia chác gia sản mà cụ và những người cộng tác đã khổ công gầy dựng suốt 9 năm nền Đệ Nhất Cộng Hòa, họ chỉ lo bôi nhọ cụ và chế độ cũ, lo xóa dấu vết của cụ đã xây dựng, lo chứng minh rằng cụ sai, họ không đủ đức độ và tài năng để hy sinh như cụ, họ chỉ biết thỏa mãn cơn khát khao quyền lực, tiền bạc và địa vị, họ tìm cách hưởng thụ, không làm nên cơm cháo gì mà còn xé nát tất cả, từ một “Việt Nam minh châu trời Đông”, hôm nay, sau 52 năm thành một đất nước tụt hậu, kém xa cả những nước chậm phát triển nhất trên thế giới.

Có người nói với tôi, cụ Ngô là người đạo đức tốt lành nhưng cụ không có tài, cụ không xây dựng được cho mình một lực lượng khả dĩ đủ để bảo vệ mình, tôi nghĩ nhận xét đó không đúng lắm. Chỉ trong vòng 9 năm mà cụ bình định được đất nước, thu phục được các giáo phái, các lực lượng vũ trang, dẹp yên được giặc Bình Xuyên, xây dựng đất nước đi lên, thì chẳng thể nào là người không có tài mà chỉ có đức. Có lẽ phải nói, cụ là người có tài có đức nhưng không một chút gian ác và xảo quyệt, thiếu mưu mẹo và lưu manh, cuối cùng cụ chết vì tất cả nữa thứ xảo quyết lưu manh ấy. Còn đám đông, y hệt như đám đông thời Chúa Giêsu, hôm nay tung hô, ngày mai hạ bệ, và đó là định mệnh của những ai chọn con đường theo chân Chúa.

Rất nhiều nơi trên thế giới này đã tổ chức ngày lễ tưởng niệm cụ như một ngày lễ của người anh hùng vị quốc vong thân. Tôi nghĩ cũng chính đáng thôi, đất nước quê hương này phải có một ngày như vậy, rồi sẽ có một ngày như vậy…

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

đầu tháng 11.2015

Lời trăn trối của Steve Jobs khiến ai cũng phải suy ngẫm

Lời trăn trối của Steve Jobs khiến ai cũng phải suy ngẫm

Huyền Bùi

Sự giàu có, tôi đã giành chiến thắng trong cuộc sống của tôi, tôi không thể mang theo khi xuống mồ. Những gì tôi có thể mang chỉ là kỉ niệm đọng lại bởi tình yêu. Đó là sự giàu có thật sự mà sẽ theo bạn, đi cùng bạn, cho bạn sức mạnh và ánh sáng để đi vào” – Steve Jobs.

Steve Jobs đã qua đời vào sáng 5/10/2011, khiến cả thế giới sửng sốt và tiếc nuối. Ông là một trong những tên tuổi huyền thoại của ngành công nghiệp máy tính. Steve là người kín tiếng, gần như không bao giờ nói về đời tư, nhưng ông luôn có nhiều phát ngôn khiến mọi người suy ngẫm. Những câu nói của ông luôn là nguồn động lực cổ vũ tinh thần cho các bạn trẻ vượt qua khó khăn trong cuộc sống, để họ trân trọng sự sáng tạo và phấn đấu không ngừng nghỉ.
“Hãy cứ khát khao. Hãy cứ dại khờ” – Steve Jobs. (Nguồn: Internet)

Thế nhưng, nỗ lực để đạt đến thành công bao giờ cũng đi kèm với sự đánh đổi về tuổi trẻ. Và lời trăn trối của Steve Jobs đã một lần nữa “cảnh tỉnh” giới trẻ, khi họ quá chú tâm vào mục đích cuối cùng nhưng lại quên đi những giá trị vĩnh hằng của sức khỏe, của tình cảm yêu thương con người:

STEVE JOBS

“Tôi đạt đến đỉnh cao của sự thành công trong thế giới kinh doanh.

Trong mắt của người khác, cuộc sống của tôi là một mẫu mực của sự thành công.

Tuy nhiên, ngoài công việc, tôi có rất ít niềm vui. Cuối cùng, sự giàu có chỉ là một thực tế của cuộc sống mà tôi phải làm quen với nó.

Tại thời điểm này, nằm trên giường bệnh và nhớ lại toàn bộ cuộc sống của tôi, tôi nhận ra rằng tất cả các công nhận và sự giàu có mà tôi mất rất nhiều năm tháng tuổi trẻ để có niềm tự hào đó, đã dần trở nên vô nghĩa khi đối mặt với cái chết sắp xảy ra.

Trong bóng tối, tôi nhìn vào ánh sáng màu xanh lá cây từ các máy hỗ trợ cuộc sống và nghe những âm thanh ồn ào cơ khí, tôi có thể cảm thấy hơi thở của thần chết về gần hơn…

STEVE JOBS 2
Tôi mất rất nhiều năm tháng tuổi trẻ để có niềm tự hào đó, đã dần trở nên vô nghĩa khi đối mặt với cái chết sắp xảy ra”. (Nguồn: Internet)

Bây giờ tôi biết, khi chúng ta đã tích lũy đủ giàu có để kéo dài thời gian sống, chúng ta nên theo đuổi những vấn đề khác mà không liên quan đến sự giàu có

Nên là cái gì đó quan trọng hơn:

Có lẽ mối quan hệ, có lẽ nghệ thuật, có lẽ là một ước mơ từ ngày còn trẻ…

Không ngừng theo đuổi sự giàu có sẽ biến cuộc đời bạn thành 1 vòng xoáy hỗn độn, giống như tôi.

Chúa đã cho chúng ta các giác quan để chúng ta cảm nhận được tình yêu trong trái tim của tất cả mọi người, không phải là ảo tưởng mang lại bởi sự giàu có.

Sự giàu có, tôi đã giành chiến thắng trong cuộc sống của tôi, tôi không thể mang theo khi xuống mồ.

Những gì tôi có thể mang lại chỉ là những kỉ niệm đọng lại bởi tình yêu. Đó là sự giàu có thật sự mà sẽ theo bạn, đi cùng bạn, cho bạn sức mạnh và ánh sáng để đi vào.

Tình yêu có thể đi một ngàn dặm. Cuộc sống không có giới hạn. Đi nơi bạn muốn đi. Đạt chiều cao mà bạn muốn tiếp cận. Đó là tất cả trong trái tim và trong tay của bạn.

Giường đắt nhất trên thế giới là gì? – Đó là ‘giường bệnh’ …

Bạn có thể sử dụng một người lái xe cho bạn, kiếm tiền cho bạn, nhưng bạn không thể có một người nào đó phải chịu bệnh tật cho bạn.

Vật chất bị mất có thể được tìm thấy. Nhưng có một điều mà không bao giờ có thể được tìm thấy khi nó bị mất – ‘Cuộc đời bạn’.

Khi một người đi vào phòng mổ, anh sẽ nhận ra rằng có một cuốn sách mà anh ta vẫn chưa hoàn thành việc đọc – ‘Cuốn sách sức khỏe của cuộc sống đã ban’.

Những gì tôi có thể mang lại chỉ là những kỉ niệm đọng lại bởi tình yêu” . (Nguồn: Internet)

Cho dù giai đoạn trong cuộc đời chúng ta đang ở có huy hoàng tới mức nào, với sự tàn phá của thời gian, chúng ta sẽ phải đối mặt với những ngày đi xuống.

Hãy trân trọng tình yêu cho gia đình bạn, tình yêu dành cho người bạn đời của bạn, tình yêu cho bạn bè… Hãy đối xử với mình tốt. Trân trọng những người khác”.

Được biết đây là bản dịch được tác giả Nguyễn Hoàng Hải – hiện đang làm việc tại công ty quảng cáo truyền thông ở Hà Nội chuyển ngữ lại từ trang cá nhân của một nhà báo Thái Lan. Anh cũng chia sẻ thêm vì cảm thấy được tính triết lí, cảm động trong từng câu chữ nên đã dịch lại và đăng lên trang cá nhân. Dù sau đó, đoạn chia sẻ của nhà báo Thái Lan đã được xóa đi. Do vậy, tính xác thực từ những lời trăn trối của Steve Jobs mà anh đã dịch ra cũng chưa hoàn toàn được xác minh.

Nhiều người còn cho rằng hình ảnh Steve Jobs hiện lên qua từng câu chữ trong bản dịch của Hoàng Hải có vẻ yếu đuối hơn những gì mà ông đã phát ngôn trong suốt hành trình tạo nên tên tuổi của mình. Theo tờ The Guardian, những lời trăn trối của Steve chỉ vỏn vẹn 3 từ “Oh wow. Oh wow. Oh wow” nhưng vẫn chưa có ai hiểu được chính xác ý nghĩa thực sự của nó. Thế nhưng, dù thế nào đi nữa, lời trăn trối của Steve Jobs vẫn luôn tồn tại những giá trị cốt lõi tốt đẹp. Đó là sự trân trọng tình yêu thương của bạn bè, gia đình. Hãy quý trọng nó ngay khi còn có thể, chứ đừng đợi đến cuối đời mới thấy được những giá trị thiêng liêng mà nó vẫn luôn mang lại.

Thương tiếc Bác Chín

  Thương tiếc Bác Chín

       (1920 – 2012)

 Đoàn Thanh Liêm

*     *     *

Bác Chín là tên gọi thân thiết riêng tư trong nhóm bạn hữu chúng tôi ở Sài gòn sau năm 1975 để gọi Bác Chín Tân (Chân Tín) – nhằm tránh sự theo dõi của mấy người công an mật vụ vốn thường bám sát những “đối tượng khả nghi”. Còn thông thường, thì mọi người đều gọi ông là Cha Chân Tín – nguời Mỹ thì gọi ông là Father Chân Tín.

Ở vào tuổi 92 (1920 – 2012), theo đúng với quy luật “Sinh Lão Bệnh Tử”, thì sự ra đi của ông vào ngày 1 tháng 12 năm 2012 tại Saigon là điều không mấy ai ngạc nhiên. Mặc dầu vậy, tôi cũng đã nhận được điện thư của mấy người bạn – họ bày tỏ “sự bàng hòang” (anh Nguyễn Xuân Sơn ở New York, bào đệ của họa sĩ Thái Tuấn) hay : “đó là sự mất mát lớn cho Việt nam” (chị Sophie Quinn-Judge ở Philadelphia).

Là người có duyên được quen biết gần gũi với ông từ trên 45 năm nay, tôi xin được ghi lại một số kỷ niệm thân thương với ông qua một số bạn hữu và một số chuyện ngộ nghĩnh khác – đặc biệt là sau năm 1975.

1 – Trước hết là nhóm người cùng bị bắt với Bác Chín vào tháng 4 & 5 năm 1990.

Trong đó có những người đã ra người thiên cổ như Tạ Bá Tòng, Nguyễn Hộ, Nguyễn Ngọc Lan, Đỗ Trung Hiếu, Nguyễn Văn Tấn và Roxanna Brown v.v…

Còn anh Đỗ Ngọc Long, Lê Văn Trinh, Nguyễn Trọng Liêm và tôi, thì hiện đang sinh sống trên đất Mỹ. Mike Morrow hiện còn làm ăn ở Hongkong. Nhóm chúng tôi bị bắt giữ trong đợt này là do chính ông Mai Chí Thọ Bộ trưởng Nội vụ hồi đó là người đứng ra chỉ đạo chiến dịch mẻ lưới lớn “bắt giữ để phòng ngừa” (preventive arrests).

2 – Kỷ niệm với Mục sư Tullio Vinay (1909 – 1996) ở Italia.

Vào năm 1989, mục sư TullioVinay ở thành phố Turin Italia đã chuyển tòan bộ số hiện kim của giải thưởng ông nhận được từ bên nước Đức cho cha Chân Tín – số tiền lên đến trên 11,000 US dollar. Và dĩ nhiên là cha đã chia hết số tiền này cho những dự án xã hội và giáo dục ở Saigon và ở Cần Giờ. Bây giờ, thì ông cha có thể đi gặp lại người bạn mục sư Tin Lành rất mực thân thương và tốt bụng đó rồi.

3 – Chuyến viếng thăm của Nghị sĩ George McGovern năm 1972.

Thượng Nghị sĩ McGovern là ứng cử viên đại diện đảng Dân chủ trong cuộc bàu cử Tổng thống ở Mỹ năm 1972. Trong chuyến viếng thăm Sài gòn vào giữa năm đó, ông dành thời gian để đến thăm Linh mục Chân Tín. Nhưng ông lại bị lực lượng an ninh tìm cách cản trở, nên cuộc thăm viếng đã không thể thực hiện được. Sự kiện này đã gây sôi nổi trong công luận ở Mỹ lúc đó. Vài tháng trước đây, thì Nghị sĩ McGovern cũng vừa mới qua đời cũng trong năm 2012 – như thế thì hai nhân vật danh tiếng lần này sẽ dễ dàng gặp lại nhau, khỏi bị ai đó làm phiền hà ngăn cản nữa.

4 – Câu chuyện xung quanh vụ Phong Thánh Tử Đạo năm 1988.

Suốt trong hai năm 1987 – 88, Nhà nước cộng sản mở chiến dịch chống phá việc Giáo hội Công giáo tổ chức Phong Thánh Tử Đạo cho những vị bị sát hại trong thời cấm đạo ở Việt nam thời trước. Trong hàng ngũ tu sĩ và giáo dân có can đảm đứng ra bênh vực lập trường của Giáo hội, thì có Linh mục Chân Tín và Giáo sư Nguyễn Ngọc Lan là hai vị viết những bài có sức thuyết phục cao đối với quần chúng giáo dân, nên được phổ biến cùng khắp cả nước – khiến gây e ngại cho giới cầm quyền, vì họ sợ chuyện “già néo bứt giây”.

Vì thế, mà trong dân gian bà con đã ví von gọi hai ông là “cặp kiện tướng Gullitt/Van Basten” của đội bóng tròn Hòà Lan là vô địch Âu châu năm 1988.

5 – Cuộc thẩm vấn của Đại tá Quang Minh tại trại giam B34 ở Saigon.

Trong suốt 3 tháng 5,6 và 7 năm 1990, tôi bị Đại tá Quang Minh Ngô Văn Dần thẩm vấn liên tục. Ông này là thủ trưởng của bộ phận Phản gián ở miền Nam. Ông tra hỏi tôi rất kỹ về mối liên hệ giữa tôi với linh mục Chân Tín và ông Tám Cần Tạ Bá Tòng. Ông còn nói với tôi : Ông Chân Tín là “người bạn lớn” của ông mà ! (Ông Minh hay chêm tiếng Pháp trong khi nói chuyện với tôi – cụ thể nguyên văn tiếng Pháp : “votre grand ami”). Trong thời gian thẩm vấn dài ngày đó, cũng ông Quang Minh này đã tặng cho tôi một danh hiệu dữ dằn khác nữa, đó là : “ kẻ sát nhân ngọai hạng “ (nguyên văn: “assassin de génie”).

6 – Tôi còn rất nhiều kỷ niệm vui buồn khác nữa với Bác Chín. Xin lần lượt ghi ngắn gọn mấy vụ điển hình như sau:

A – Đại khái như lúc bác rưng rưng nước mắt xác nhân với anh em chúng tôi là cháu Thiên Hương ái nữ của nhà văn Duyên Anh và chồng là David người quốc tịch Anh đều đã tử nạn máy bay ở Bangkok năm 1988.

B – Từ cuối thập niên 1980, Ông Tám Cần Tạ Bá Tòng và Linh mục Chân Tín là hai vị Cố vấn mà thường đến tham dự các buổi họp với chúng tôi trong Xí nghiệp Ứng dụng Khoa học Kỹ thuật có trụ sở đặt tại Bến Chương Dương Sài gòn. Cả hai vị đều được anh em trong Xí nghiệp chúng tôi rất quý mến yêu chuộng. Và sau này cả hai đều bị bắt giữ, bị quản chế vào năm 1990 như đã ghi ở trên.

C – Vào cuối năm 1974, nhân dịp đến thăm các tù nhân chính trị từ Côn Đảo mới được trả tự do và đang tá túc tại chùa Ấn Quang trong thời gian chờ đợi tìm phương tiện chuyên chở để về lại nguyên quán tại miền Trung, thì tôi còn dẫn Bác Chín đến thăm Thày Trí Quang tại đây nữa. Đây có thể là lần duy nhất mà Bác Chín trực tiếp chuyện trò trao đổi với Thày Trí Quang. Hai vị chuyện trò với nhau thật thân tình cởi mở, biểu lộ sự thông cảm và tương kính giữa những bậc tu hành với nhau.

D – Và vào năm 1989, một số anh chị em giáo dân chúng tôi cũng đã rủ nhau đến hội họp tại văn phòng của Bác Chín để cùng nhau bàn luận về việc sọan thảo Búc Thư Ngỏ gửi đến Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và cả đến Tổng Giám Mục Sài gòn Nguyễn Văn Bình nữa.

Những chuyện vui buồn giữa Bác Chín và anh chị em chúng tôi ngộ nghĩnh đại lọai như vậy, thì rất là nhiều. Nhưng vì khuôn khổ của bài báo có giới hạn, nên tôi xin tạm ngưng bài viết này tại đây vậy.

Nay thì Bác Chín đã lìa xa cõi tạm này để đi gặp lại, quây quần xum họp với bao nhiêu người thân thiết yêu thương của Bác.

Xin vĩnh biệt Bác Chín với lòng quý mến muôn vàn

Và xin cầu chúc Bác luôn thanh thản nơi cõi Vĩnh Hằng.

Bài viết lần đầu tại Westminster California, tháng 12 năm 2012

Và được bổ túc cũng tại California vào tháng 11 năm 2015 – nhân dịp chuẩn bị Lễ Giỗ Đoạn Tang Ba Năm của Bác Chín (2012 – 2015)

Đoàn Thanh Liêm

QUẢNG ĐẠI VÀ TỰ DO

QUẢNG ĐẠI VÀ TỰ DO  

 LM Giuse Phạm Thanh Liêm

Người nghèo thường quảng đại và sẵn sàng quên mình để giúp đỡ người khác.  Họ tự do với bạc tiền danh lợi, nên có thể tin vào con người và sẵn sàng yêu thương phục vụ hơn.

Hãy coi chừng

Chúa Yêsu nói với mọi người: “hãy coi chừng” những ông kinh sư, họ thích mặc áo thụng xúng xính khác người, thích được chào hỏi, thích ngồi chỗ nhất, nhưng lại “nuốt” hết tài sản của các bà góa, lại còn giả bộ đọc kinh lâu giờ.

Không phải chỉ những ông kinh sư thời Đức Yêsu thích rồi làm như vậy, mà con người ngày nay cũng vậy nữa: cũng tham của người, ham danh hám lợi, và hay giả bộ “đạo đức”.  Nếu đạo đức thật, mà người ta thấy thì cũng tốt vì làm gương sáng; còn nếu không đạo đức mà lại làm như thể đạo đức, là giả hình.  Hãy coi chừng.

Nếu ai thích khen, người đó có thể bị điều khiển bằng lời khen; nếu ai tham của, người đó có thể bị mua chuộc bằng tiền của.  Người đó đang bị nô lệ, bị sai khiến bởi tiền bạc danh vọng chức quyền.  Người đó tưởng họ đang tự do, nhưng thực sự họ đang nô lệ và bị điều khiển mà họ không biết.  Hãy coi chừng.

Nếu bạn không nô lệ những điều đó, thì hạnh phúc biết bao!

QUANG DAINgười nghèo quảng đại

Tiên tri Elia trên đường lánh nạn đã được Chúa truyền đến sống nhờ một bà goá nghèo.  Cũng có thể nói bà goá nghèo và con bà sống nhờ tiên tri, vì chính nhờ tiên tri mà hũ bột không cạn và hũ dầu không vơi.   Đúng hơn Thiên Chúa thương cả tiên tri lẫn bà goá nghèo nên đã nuôi sống tất cả.

Bà goá chỉ còn một nhúm bột và một chút dầu, lượm củi làm cái bánh cuối cùng để “ăn rồi chết”, thế mà bà vẫn tin lời tiên tri, làm cho ông một cái bánh trước khi làm cho con bà và chính bà.  Cách hành xử của bà goá này rất đẹp.  Tôi có đơn sơ tin người và sẵn sàng giúp người như bà goá nghèo này không?  Thiên Chúa quá tuyệt.

Bà goá trong Tin Mừng được Đức Yêsu khen là quảng đại, dám dâng cúng tất cả những gì mình có.  Có người nói rằng: “vì bà goá chỉ có mấy xu nên dễ dàng để dâng cúng tất cả, còn nếu bà goá này thật giầu thì chắc bà chẳng dám bỏ tất cả đâu”!  Cũng có thể như vậy, nhưng “những người quảng đại” thường nghèo; có lẽ họ “hay cho” nên mới không giầu.  Bà goá đó không giầu được vì bà luôn cho tất cả, dù khi bà có hai xu hay có nhiều hơn hai xu, có lẽ chưa khi nào bà giữ cho mình được mười đồng vì bà vẫn cho những gì bà có.  Thiên Chúa cũng cho con người tất cả, ngay cả điều qúy nhất là Chúa Con và Thánh Thần.

Những người “ham tiền” thường ky cóp và không bỏ ra ngay cả một xu!

Người nghèo dễ tự do để chọn theo Thiên Chúa hơn

Có mấy người hiểu được hạnh phúc của người nghèo?  Có mấy người hiểu được người nghèo tự do đến mức nào?  Trong cuộc sống, bao nhiêu quyết định bị chi phối bởi sợ người này hay không dám làm mất lòng người kia, sợ người khác hiểu lầm mình, sợ người khác không còn đánh giá mình cao nữa, sợ người khác biết sự thật về mình.  Vì sợ nên không được tự do.

Xin Chúa cho con nghèo, để con không còn gì để phải sợ, để con chỉ còn biết sống theo Chúa theo sự thật, để chỉ bị tình yêu thương chi phối mà thôi.

 LM Giuse Phạm Thanh Liêm

Mất đảng có mất nước?

Mất đảng có mất nước?

Blog VOA

Nguyễn Hưng Quốc

H1Theo báo chí trong nước, chiều ngày 22 tháng 10 vừa qua, trong một phiên họp tại Quốc hội, Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, có bài nói chuyện về tình hình quốc phòng và an ninh của đất nước, trong đó, ông liệt kê những thắng lợi của Việt Nam trong nỗ lực bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ cũng như biện hộ cho vai trò lãnh đạo của đảng trong sự nghiệp giữ nước. Ông nhấn mạnh: “Nếu mà mất Đảng, mất chế độ thì biển đảo cũng mất”.

Để khẳng định như vậy, ông Phùng Quang Thanh đưa ra hai lập luận chính:

Thứ nhất, sự lãnh đạo độc tôn của đảng sẽ mang lại ổn định trong xã hội và sự độc lập của đất nước. Ông lập luận: “Nếu mà trong nội bộ đất nước để xảy ra bạo loạn, biểu tình, ly khai, xảy ra tổ chức đối lập, để xảy ra lực lượng vũ trang đối lập (như một số nước đã có), mà lại phải dùng lực lượng chức năng trấn áp, để xảy ra thương vong, đổ máu thì bên ngoài sẽ lấy cớ vi phạm dân chủ, nhân quyền, dùng biện pháp này, biện pháp khác để bao vây, cấm vận, cô lập chính trị, chia rẽ nội bộ, thừa cơ đó lật đổ chế độ.”

Thứ hai, ông cho chính nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của đảng Cộng sản nên cho đến nay, Việt Nam mới vừa giữ được chủ quyền trên Biển Đông vừa duy trì được hoà bình cho đất nước. Ông cho biết trong mấy chục ngày Trung Quốc mang giàn khoan HD-981 đến thềm lục địa Việt Nam, Bộ Chính trị đã có 12 phiên họp để bàn về kế sách đối phó. Kết quả là, sau đó, Trung Quốc cho kéo giàn khoan về nước và Biển Đông đã lặng sóng. Ông cũng nói thêm là các hòn đảo ở Trường Sa do bộ đội Việt Nam trấn giữ vẫn thuộc Việt Nam; các giếng khoan dầu ngoài khơi vẫn tiếp tục hoạt động và ngư dân vẫn tiếp tục đánh cá an toàn.

Những lập luận ấy, thật ra, hoàn toàn nguỵ biện.

Thứ nhất, liệu dân chủ hoá có dẫn đến hỗn loạn, từ đó, sự can thiệp của nước ngoài hay không? Câu trả lời rất rõ: Không. Cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, tất cả các chế độ cộng sản tại Nga và Đông Âu sụp đổ, không có nước nào lâm vào cảnh bạo loạn cả. Trừ Nga, tất cả các nước khác đều ngày một trở thành dân chủ hơn, và cùng với dân chủ, thịnh vượng hơn. Trong hai năm 2011 và 2012, các chế độ độc tài ở một số quốc gia Trung Đông và Bắc Phi lần lượt sụp đổ và dù gặp rất nhiều gập ghềnh và khúc khuỷu, con đường dân chủ hoá cũng càng lúc càng mạnh mẽ. Sự hỗn loạn chỉ có ở Syria và Libya nhưng ở cả hai nước này, sự hỗn loạn đến từ những nguyên nhân khác: sự phân hoá về chủng tộc và, đặc biệt, tôn giáo với sự tham gia của các lực lượng Hồi giáo cực đoan. Ngay ở Á châu, từ mấy năm nay, Miến Điện cũng dần dần dân chủ hoá nhưng không gây nên bất cứ sự bất ổn nào. Bởi vậy, không có lý do gì để sợ khi chế độ Cộng sản sụp đổ, Việt Nam sẽ lâm vào khủng hoảng. Hơn nữa, khi sự thay đổi ấy xuất phát từ chính đảng Cộng sản với một lộ trình dân chủ hoá mạnh mẽ và rõ ràng, nguy cơ khủng hoảng càng giảm thiểu.

Thứ hai, liệu không còn đảng Cộng sản, biển đảo Việt Nam có bị mất? Câu trả lời cũng không.

Có hai lý do chính.

Một là, sự thật lịch sử trong mấy chục năm vừa qua chứng minh một điều ngược lại: chính chế độ cộng sản tại Việt Nam mới làm cho Việt Nam mất biển đảo vào tay Trung Quốc. Ai cũng biết công hàm Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Chu Ân Lai năm 1958, trong đó, thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc trên cả Hoàng Sa lẫn Trường Sa (Trung Quốc gọi là Nam Sa). Ai cũng biết năm 1974, khi Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, chính những người lính Việt Nam Cộng Hoà ở miền Nam đã liều mình để bảo vệ đảo trong khi đó, ở miền Bắc, chính quyền do đảng Cộng sản lãnh đạo thì hoàn toàn im lặng. Ai cũng biết năm 1988, khi Trung Quốc đánh chiếm mấy bãi đá thuộc quần đảo Trường Sa, chính quyền Việt Nam chỉ phản ứng lấy lệ và cuối cùng, các bãi đá ấy đều lọt vào tay Trung Quốc. Ai cũng biết từ mấy năm nay, trước các hành động lấn chiếm ngang ngược của Trung Quốc trên Biển Đông, kể cả việc bắt bớ, thậm chí giết hại ngư dân Việt Nam trên Biển Đông, Việt Nam cũng chỉ phản ứng một cách rất “ngoại giao”. Phản ứng cho có để dân chúng khỏi lên án, vậy thôi. Nói chung, trước dã tâm xâm lấn biển đảo của Trung Quốc, chính quyền Việt Nam chưa hề chứng tỏ có một chiến lược đối phó nào cho thật rõ ràng trừ sự nhường nhịn. Hơn nữa, với những khẩu hiệu “4 tốt” và “16 chữ vàng”, dường như họ cũng không thấy hết nguy cơ đến từ Trung Quốc.

Hai là, tuyệt đối không có bằng chứng nào cho thấy một chế độ dân chủ sẽ trở thành yếu ớt hơn trong việc bảo vệ độc lập và chủ quyền của đất nước. Nếu không muốn nói, ngược lại. Chế độ dân chủ có hai mặt mạnh mà một chế độ độc tài không có: Thứ nhất là dễ có liên minh rộng rãi và vững chắc với các nước khác trên thế giới; và thứ hai là dễ nhận được sự hậu thuẫn mạnh mẽ của dân chúng.

Nói tóm lại, lập luận “mất đảng, mất chế độ thì mất biển đảo” chỉ là một sự nguỵ biện. Nó không đúng. Nó chỉ biện hộ cho việc duy trì chế độ độc tài tại Việt Nam mà thôi.

No U No XI

No U No XI
Nguoi-viet.com

Ngô Nhân Dụng

Cuộc biểu tình chống Trung Cộng tại Hà Nội sáng ngày 3 tháng 11 năm 2015 diễn ra được là điều thật bất ngờ. Vì lực lượng an ninh Cộng Sản đã có kế hoạch đàn áp từ nhiều ngày trước, khi 21 tổ chức cùng ký tên kêu gọi đồng bào tập họp phản đối chuyến đi của Tập Cận Bình. Ngoài những biểu ngữ quen thuộc như: Ðả đảo Trung Quốc xâm lược, hoặc Hoàng Sa-Việt Nam, Trường Sa-Việt Nam, bà con còn trương lên một khẩu hiệu mới: “Phản đối lệ thuộc Trung Cộng.” Bốn chữ “Lệ thuộc Trung Cộng” có thể coi như một danh từ, gọi đích danh thủ phạm, tên của một đảng và một chính quyền!

Những người dự cuộc biểu tình đều mang nét mặt đăm chiêu cương nghị chứ không tươi cười như mọi lần trước, bởi vì họ biết công an đang chụp hình, sẽ theo dõi, và sẽ bắt bớ, giam cầm, hành hạ. Nhưng họ vẫn bất chấp mọi thử thách, hiên ngang tiến bước, vì quyết tâm bảo vệ tổ quốc. Nhiều người, nam, nữ, người lớn tuổi và thanh thiếu niên, mặc áo thung chữ T với khẩu hiệu NO U và NO XI!

Hai chữ NO XI, viết tiếng Anh cho cả thế giới hiểu, nghĩa là không đồng ý đón tiếp Tập Cận Bình (tên là Xi Jin Ping, phiên âm lối Bắc Kinh). NO U nghĩa là không chấp nhận vùng biển hình chữ U của Cộng Sản Trung Quốc bao gồm tất cả các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa coi là lãnh hải Trung Hoa, người Việt còn gọi là “đường lưỡi bò,” Trung Cộng gọi là “Cửu Ðoạn Tuyến.” Ngực áo NO U có vẽ bản đồ biển Ðông Nam Á, tô đậm vùng chữ U này với hai nét gạch chéo xóa bỏ.

Phong trào NO U mới tổ chức cuộc họp mặt kỷ niệm bốn năm kể từ ngày phát động phong trào. Từ mấy tuần qua trên Facebook khắp thế giới cũng được coi hình ảnh bốn người Việt yêu nước đeo tấm bảng NO XI trên ngực, đứng giữa đường với những khuôn mặt tự tin rạng rỡ. Họ đã biểu tình trên mạng trước khi thực hiện trên đường phố Hà Nội.

Những người dự cuộc biểu tình ngày hôm qua biết chắc sẽ bị đàn áp, vì trong tuần trước cuộc họp mặt kỷ niệm bốn năm hoạt động của anh chị em NO U đã bị công an trấn áp từ trước khi bắt đầu. Khi các thành viên NO U mới tề tựu, đã có mấy người vào trong quán, chiếc xe của họ bị chụp hình cho thấy cái mũ sĩ quan công an. Anh chị em NO U đang họp mặt thì đèn trong quán tắt ngúm, trong cả khu vực chỉ có một nhà hàng này bị cúp điện. Sau đó, một nhóm côn đồ chạy vào quán phá phách, đánh đập nhiều người rồi biến đi rất nhanh. Trong lúc điện tắt, mấy tay công an ngồi nhậu từ trước cũng biến luôn, cũng không trả tiền thức ăn và tiền rượu! Công an Cộng Sản không bỏ được thói ăn quỵt trong lúc làm nhiệm vụ trấn áp người Việt yêu nước!

Trước khi Hà Nội trải thảm đó đón rước Tập Cận Bình, báo chí quốc tế đã nghe nhiều người Việt lên tiếng và đăng lại. Ông Lã Việt Dũng nói với đài Tiếng Nói Hoa Kỳ VOA rằng khi nào Trung Quốc vẫn còn tiếp tục chính sách bành trướng ở Biển Ðông thì dân Việt không muốn tiếp ông Tập Cận Bình. Blogger Lê Anh Hùng nhận xét rằng nhân dân Việt Nam lo cho chủ quyền đất nước hơn là giới lãnh đạo chính quyền. Ông yêu cầu họ phải lắng nghe tiếng nói của người dân.

Chính quyền Cộng Sản không nghe mà còn đàn áp không cho dân Việt được phát biểu ý kiến. Họ cấm các báo, các đài không được cho những người dân khác nghe những ý kiến chống Trung Cộng. Chắc phải rất hài lòng về hiệu quả đàn áp dân của đám đàn em, cho nên trước khi Tập Cận Bình qua nước ta tờ Hoàn Cầu Thời báo ở Bắc Kinh đã khen ngợi, viết rằng: “…vấn đề Biển Ðông trong năm nay có xu hướng hạ nhiệt rõ rệt trong dư luận Việt Nam!”

Tại sao họ có thể nói phong trào phản kháng của dân Việt “hạ nhiệt rõ rệt?” Ký giả tờ Hoàn Cầu Thời Báo, một cơ quan chính thức của Cộng Sản Trung Quốc, viết rằng: “Mở một trang báo Việt Nam bằng tiếng Anh hôm 29 tháng 10, chỉ thấy tin tức về các vấn đề kinh tế, dân sinh (mà không thấy tin dân chúng biểu tình chống Trung Cộng). Nhưng ngay người dân Trung Hoa cũng hiểu lý do: Cộng Sản Trung Quốc vẫn kiểm soát tất cả các cơ quan truyền thông. Ðám tay sai của chúng ở Việt Nam không bao giờ dám loan tin dân phản đối Trung Cộng!

Cũng vì bộ máy tuyên truyền ở nước ta phải làm tay sai cho cả Cộng Sản Trung Quốc, cho nên không một báo, một đài nào loan tin về bản tuyên bố của các nhà trí thức Việt Nam, trong và ngoài nước, phản đối cuộc công du sang Hà Nội của Tập Cận Bình. Nhưng bản tuyên bố này, được đưa lên mạng lấy chữ ký, đã trình bày những ý kiến thâm sâu, tha thiết của tất cả mọi người Việt, trước cảnh đất nước bị ngoại bang xâm lấn và đè nén.

Bản tuyên bố mở đầu với những lời khẳng định dân Việt Nam không thù nghịch mà biết xem trọng mối quan hệ hữu nghị láng giềng giữa nhân dân hai nước. Nhưng những người ký tên phải nêu lên những yêu cầu đối với giới lãnh đạo đảng Cộng Sản và nhà nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Những lời yêu cầu tóm tắt như sau:

Thứ nhất, Cộng Sản Trung Quốc chấm dứt ngay những hành động đe dọa tính mạng, tài sản và quyền tự do đánh bắt hải sản của ngư dân Việt Nam trên vùng biển thuộc chủ quyền của dân Việt, cụ thể là ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Thứ nhì, bản tuyên bố “khẳng định Hoàng Sa là lãnh thổ và lãnh hải của Việt Nam mà nhà nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đã dùng vũ lực cưỡng chiếm năm 1974.” Vì vậy, cũng cảnh cáo: “Quyết tâm và nguyện vọng của toàn thể dân tộc Việt Nam chúng tôi trong lịch sử ngàn năm chống xâm lược” là “không bao giờ quên mục tiêu giành lại từng tấc đất của tổ quốc!”

Bản tuyên bố nhấn mạnh thêm: “Chúng tôi cực lực phản đối việc nhà nước và đảng Cộng Sản Trung Quốc chiếm đóng bất hợp pháp một số đảo và bãi đá thuộc chủ quyền Việt Nam trong quần đảo Trường Sa và đang bồi đắp thành những cứ điểm quân sự ngăn chặn tự do hàng hải trên Biển Ðông.” Sau đó còn khẳng định: “Mọi âm mưu kìm hãm sự phát triển của đất nước chúng tôi để buộc đất nước này mãi mãi ở thế chư hầu là bất xứng với trí tuệ loài người, sẽ bị lịch sử nguyền rủa, và chắc chắn sẽ thảm bại!”

Sau những ý kiến nhắn cho ông Tập Cận Bình và Cộng Sản Trung Quốc, hai điểm còn lại của bản tuyên bố vạch rõ, dù không gọi đích danh, thái độ nhu nhược, hèn yếu của chính quyền Việt Nam hiện tại đóng vai trò tay sai nước ngoài.

Trước hết, bản tuyên bố minh định rằng “tình hữu nghị với bất cứ quốc gia nào” chỉ bền vững nếu hai bên tôn trọng lẫn nhau, khi một nước “luôn ở thế yếu hèn, không xứng tầm với đối tác” thì không thể nào kéo dài được.

Tiếp theo, những nhà soạn thảo bản tuyên bố nhắc đến giai đoạn “nước Trung Hoa bị đế quốc Nhật đô hộ từ năm 1937 đến năm 1945” để nhớ lại rằng “đã có một chính phủ tay sai Nhật được thành lập năm 1940 tại Nam Kinh” trong thời gian bốn năm (mà người Trung Hoa vẫn gọi là bọn Hán gian). Dùng thí dụ đó bản tuyên bố nói thẳng rằng hiện nay “chúng tôi chắc chắn rằng một số người Việt Nam cam tâm làm tay sai cho bọn bành trướng bá quyền, mà trong lịch sử chúng tôi đã có những Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc,…” Những người đó “sớm muộn sẽ bị nhân dân Việt Nam chúng tôi vạch mặt.”

Cuối cùng, bản tuyên bố xác nhận, “Tình hữu nghị thật sự giữa nhân dân Trung Hoa và Việt Nam không thể dựa trên những phần tử phản bội dân tộc” và khẳng định rằng “nhân dân và đất nước chúng tôi chắc chắn sẽ loại bỏ trong tương lai” bọn phản bội này.

Từ khi phong trào phản kháng Trung Cộng cướp chiếm Hoàng Sa, Trường Sa và bắn giết ngư dân Việt Nam, những người Việt viết kiến nghị hoặc đi biểu tình chưa hề công khai lên án những người Việt có trách nhiệm làm cho dân Việt thành nạn nhân của kế hoạch bành trướng của Cộng Sản Trung Quốc. Ngay trong các lễ tưởng niệm và các cuộc biểu tình nhân ngày giỗ các tử sĩ khi Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974 và đảo Gạc Ma năm 1988, ban tổ chức cũng tránh không nói thẳng đến thái độ nhu nhược của đảng Cộng Sản Việt Nam về những biến cố này.

Cho nên bản tuyên bố phản đối chuyến công du của Tập Cận Bình, và cuộc biểu tình nêu đích danh bọn người “lệ thuộc Trung Cộng” cho thấy phong trào chống bành trướng đang thay đổi. Lịch sử sẽ ghi nhận biến chuyển này: Lần đầu tiên người dân đã công khai lên án “những người Việt Nam cam tâm làm tay sai cho bọn bành trướng bá quyền” và gọi đích danh đó là “những phần tử phản bội dân tộc,” là bọn “lệ thuộc Trung Cộng”

Chính “những phần tử lệ thuộc và phản bội” này đã âm mưu phá đám cuộc họp mặt của nhóm phát động phong trào NO U trong tuần trước. Ðó là một âm mưu được bí mật hoạch định và dàn dựng từ lâu, vì chúng đã ngăn cản cả những người biết rằng sẽ tham dự buổi họp này. Trong buổi chiều ngày 30 tháng 10, cô Ðoan Trang đã bị bắt vào công an phường Cát Linh trên đường đi tham gia kỷ niệm sinh nhật NO U. Nhà báo Gió Lang Thang (Nguyễn Anh Tuấn) bị 10 tên cảnh sát, an ninh và côn đồ canh giữ trước nhà. Khi Tuấn vẫn quyết tâm ra khỏi nhà thì bị chúng tấn công, phải quay vào.

Nhóm NO U nhận định: “Những kẻ tấn công NO U phải có lòng căm ghét chủ quyền của Việt Nam lắm, phải căm thù những người chống Trung Cộng lắm.” Và họ đặt câu hỏi: “Những kẻ này là ai? Ít nhất, chúng đã một lần lộ mặt khi phá đám lễ tưởng niệm các liệt sĩ hy sinh ở Gạc Ma ngày 14 tháng 3 năm nay mà báo chí trong nước cũng loan tin. Tiến Sĩ Nguyễn Quang lên án: “Những kẻ nào phá NO U là chống lại tổ quốc, chống lại nhân dân Việt Nam!”

Nhưng chúng ta có thể tin tưởng rằng trong một tương lai không xa, “nhân dân và đất nước chúng tôi chắc chắn sẽ loại bỏ” những kẻ phản bội này. Bản tuyên bố gửi cho Tập Cận Bình cũng như cuộc biểu tình ngày hôm qua phát xuất từ Hà Nội, đánh dấu một chuyển hướng. Người Việt Nam đã nhận thức rõ ràng là muốn thoát khỏi âm mưu bành trướng của Trung Cộng thì Việt Nam phải thay đổi những người lãnh đạo đất nước. Không thể nào “Thoát Trung” nếu chưa “Thoát Cộng!” Không U, Không XI cũng có nghĩa là Không Cộng Sản!

Họ đã sai lầm khi tấn công bạo lực và cướp tài sản của hai vị luật sư.

Họ đã sai lầm khi tấn công bạo lực và cướp tài sản của hai vị luật sư.

Hà Nội, ngày 3 tháng 11 năm 2015.

Luật sư Nguyễn Văn Đài

(Luật Lê Luân và Trần Thu Nam sau khi bị đánh và bị cướp)

Luật sư Trần Thu Nam và luật sư Lê Luân là hai trong số 5 luật sư nhận bào chữa miễn phí cho gia đình em Đỗ Đăng Dư.

Trong nhiều năm qua, luật sư Trần Thu Nam là một trong rất ít các luật sư của Việt Nam nhận bào chữa trong các vụ án của những người hoạt động nhân quyền và dân chủ.

Những nỗ lực của luật sư Nam trong những năm qua đã được đền đáp khi gần đây đã có thêm rất nhiều luật sư bắt đầu hợp tác với nhau để bảo vệ cho các nạn nhân bị vi phạm nhân quyền. Trong số đó, luật sư Lê Luân đã tham gia rất tích cực.

Có lẽ điều này đã làm cho những yêu độc tài tức giận và dẫn đến vụ tấn công bạo lực ngày hôm nay.

Phần thứ hai, có thể là lúc này mọi sự chú ý trên cộng đồng mạng đều tập chung vào chuyến thăm VN của Tập Cận Bình. Những kẻ thân TQ muốn chia sẻ bớt sự chú ý của cộng đồng mạng.

Do vậy, một vụ tấn công nhằm nhiều mục đích: thỏa mãn sự bức xúc của những kẻ yêu độc tài; dằn mặt những luật sư mới tham gia bảo vệ công lý; kéo bớt sự chú ý của cộng mạng ra khỏi chuyến thăm của Tập Cận Bình.

Họ có thể thỏa mãn.

Nhưng họ đã nhầm!

Nhưng tôi tin là cả hai luật sư bị đánh, bị cướp sẽ không bỏ cuộc. Các luật sư khác cũng sẽ không bỏ cuộc. Đồng thời còn thu hút sự quan tâm ủng hộ lớn lao hơn của cả giới luật sư và dư luận. Chắc chắn Đoàn luật sư Hà Nội và Liên đoàn Luật sư Việt Nam sẽ không bỏ qua vụ này. Những kẻ tấn công bạo lực và cướp tài sản sẽ phải bị điều tra và đưa ra xét xử.

Cho dù có thêm những chuyện gì xảy ra thêm nữa thì Nhân dân Việt nam vẫn sẽ tiếp tục phản đối mạnh mẽ chuyến thăm của Tập Cận Bình.

Dư luận quốc tế và cộng đồng mạng sẽ lên án mạnh mẽ vụ tấn công bạo lực và cướp tài sản nhằm vào các luật sư.

Chính phủ các nước và các tổ chức quốc tế, Liên hiệp quốc chắc chắn không bỏ qua vụ này.

Rất rõ ràng, họ đã sai lầm khi tổ chức tấn công bạo lực và cướp tài sản nhằm vào các luật sư.

Tại sao giới luật sư bị tấn công?

Tại sao giới luật sư bị tấn công?

Luật sư Trần Thu Nam (phải) và luật sư Luân Lê bị hành hung khi rời khỏi nhà cháu Đỗ Đăng Dư

Luật sư Trần Thu Nam (phải) và luật sư Luân Lê bị hành hung khi rời khỏi nhà cháu Đỗ Đăng Dư

Ảnh Facebook
 Ngày 3/11 Luật sư Trần Thu Nam của đoàn luật sư Hà nội đã bị tấn công gây thương tích, khi đến gia đình Đỗ Đăng Dư, một thiếu niên bị đánh chết trong trại tạm giam của công an. Luật sư Nam là người đại diện cho gia đình Đỗ Đăng Dư trong vụ án này. Sau đây là ghi nhận của Kính Hòa ý kiến của một số luật sư, trí thức Việt nam về chuyện luật sư Việt nam liên tục bị hành hung trong nhiều năm nay.

Đài Á châu tự do liên lạc được với Luật sư Trần Thu Nam vào buổi chiều ngày 3 tháng 11 khi ông đang chuẩn bị vào bệnh viện để chữa trị vết thương. Ông nêu lên giả thuyết của ông về nguyên nhân tại sao ông bị đánh:

Tôi đang khiếu nại công an Hà nội là không cấp giấy chứng nhận người bảo vệ quyền lợi người bị hại cho tôi. Tôi đang khiếu nại họ lên Viện kiểm sát và Liên đoàn luật sư, và Liên đoàn luật sư đã lên tiếng. Tôi không biết chắc chắn là tại sao họ lại đánh tôi vì tôi không có thù oán với ai cả. Nhưng trong quá trình bảo vệ vụ Đỗ Đăng Dư, tôi có khiếu nại công an thành phố Hà nội về việc gây khó khăn cho luật sư, và tôi đang làm một báo cáo gửi lên Ủy ban nhân quyền Liên hiệp quốc.”

Quyền lực của bộ máy công an

Trong nhiều năm qua, những luật sư đứng ra đại diện cho các tù nhân chính trị thường hay bị tấn công gây thương tích, thậm chí bị tù đày như các luật sư Lê Công Định, Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Đài,… Nhưng vụ án Đỗ Đăng Dư hoàn toàn không mang tính chính trị, vì nạn nhân phạm tội trộm cắp và bị đánh chết trong tù. Luật sư Võ An Đôn ở Tuy Hòa, người đưa tin rất sớm về vụ hành hung luật sư Nam nói với chúng tôi rằng:

Nguyên nhân theo tôi nghĩ là có thể người ta trả thù cái việc mà luật sư Trần Thu Nam bảo vệ cho gia đình bị hại (Đỗ Đăng Dư). Những vụ án không liên quan đến chính trị nhưng lại liên quan đến ngành công an, công an thì liên quan đến chính quyền, người ta cầm bộ máy hành pháp, lực lượng rất là đông, và người ta trả thù.”

Luật sư Đôn cũng từng bị các viên chức cao cấp ở tỉnh Tuy Hòa đe dọa xóa tên ông ra khỏi luật sư đoàn của tỉnh. Các vụ án mà luật sư Đôn tranh biện ở tòa cho đến nay cũng không dính dáng đến chính trị.

Một luật sư từng bị tù vì có liên quan đến các vụ án chính trị là Luật sư Nguyễn Văn Đài ở Hà nội còn nêu một lý do khác đằng sau vụ hành hung luật sư Nam là ý muốn đánh lạc hướng của nhà cầm quyền. Ông cũng nói là hiện nay có nhiều luật sư đứng ra nhận lãnh những vụ án liên quan đến sự lạm dụng quyền lực của cơ quan công quyền.

Gần đây có vụ án Đỗ Đăng Dư đã xuất hiện nhiều luật sư cảm mến tinh thần dấn thân của luật sư Nam mà tham gia cùng luật sư Nam trong các vụ án như vậy. Thì có thể đây là một điều làm cho chính quyền họ tức tối, và có thể dẫn đến vụ hành hung này. Lý do thứ hai mà tôi dự đoán là trên dư luận mạng người ta đang chú ý đến chuyến thăm của Tập Cận Bình vào ngày mùng năm mùng sáu tới đây. Thành ra vụ tấn công này là để làm giảm sự chú ý của mọi người trên cộng đồng mạng về Tập Cận Bình. Lý do thứ nhất thì có lý hơn nhưng tôi cũng nghĩ đến lý do thứ hai.

Chính trị hay không chính trị? Đảng trị hay pháp trị?

Một trí thức đối lập nổi tiếng của Việt nam là Tiến sĩ Hà Sĩ Phu, hiện sống ở Đà Lạt, khi được hỏi tại sao vụ án mà luật sư Nam đang làm đại diện không có tính chính trị nhưng ông cũng bị quấy nhiễu, Tiến sĩ Hà Sĩ Phu không đồng ý:

Chuyện đó cũng là chính trị đấy anh ạ, vì công an hiện nay lộng hành như là một đội kiêu binh của đảng. Cho nên chạm vào nó cũng là chính trị đấy. Nó giết người như không đấy, chửi nó thì cũng như là chửi đảng vậy, mặc dù nạn nhân (vụ án) không liên quan đến chính trị.”

Sau khi Việt nam quyết định cải cách kinh tế vào năm 1986, qui chế luật sư đoàn cũng được thành lập thay cho chế độ bồi thẩm đoàn nhân dân do nhà nước chỉ định trong các phiên xử án trước kia. Tiếng nói của các luật sư đã ít nhiều mang tính độc lập, các phiên tòa đã có sự tranh luận với sự hiện diện của các luật sư.

Đồng thời các luật sư lại thường hay bị bắt bỏ tù hay bị hành hung.

Ông Hà Sĩ Phu nhắc lại rằng trong nguyên tắc cầm quyền của các đảng cộng sản, thì lực lượng công an dùng để trấn áp là vô cùng quan trọng, hơn nữa các chế độ này lại không xem trọng luật pháp.

Anh có nhớ ngày xưa ông Phạm Văn Đồng có nói gì đấy không? Ông ấy nói rằng làm luật để nó trói tay mình à! Độc tài họ ghét luật lắm, vì luật là để bảo vệ dân quyền mà. Có hai giới mà họ ghét lắm, đó là giới luật sư và giới nhà báo.”

Tính đối kháng giữa đảng cầm quyền và giới luật sư thể hiện rõ nhất trong vụ luật sư Nguyễn Đăng Trừng bị khai trừ khỏi đảng cộng sản vào tháng chín năm 2014, với lý do được báo chí nhà nước Việt nam nêu rõ là cản trở sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Điều thú vị là luật sư Trừng cũng là một người tham gia đảng cộng sản và góp phần làm cho cuộc cách mạng cộng sản thành công ở Việt nam.

Xã hội dân sự và công lý

Theo dòng diễn biến chính trị xã hội gần đây, nhiều người hy vọng là một xã hội dân sự ở Việt nam sẽ được cho phép hình thành. Và trong xã hội dân sự đó vai trò của giới luật sư sẽ ngày càng quan trọng hơn.

Tuy nhiên Tiến sĩ Hà Sĩ Phu không chia sẻ cái nhìn này. Ông liên hệ vụ hành hung luật sư Nam và vụ quấy nhiễu, hành hùng blogger Nguyễn Lân Thắng trong thời gian gần đây.

Họ sẽ dùng cái xã hội dân sự láo của họ. Cái kiểu Trần Nhật Quang đấy. Kiểu dùng côn đồ không liên quan đến chính quyền. Đây là bọn côn đồ nhân danh quần chúng. Thế thì muốn cái đội ngũ đó công khai thì họ phải làm ra vẻ chấp nhận xã hội dân sự. Để cho xã hội dân sự láo của họ ra đời, chứ không phải xã hội dân sự thực sự tử tế và dân chủ! Cũng còn khó khăn lắm chứ không nên tưởng là họ cho ra là được đâu.

Ông Trần Nhật Quang là nhân vật đứng đầu nhóm người đến quấy nhiễu gia đình blogger Nguyễn Lân Thắng.

Luật sư Trần Thu Nam vốn được nhiều đồng nghiệp nhận xét là một người thận trọng. Trong một lần trao đổi với chúng tôi ông có nói rằng nghề luật sư của ông là một nghề nhiều rủi ro. Luật sư Võ An Đôn cũng chia sẻ lo ngại này của luật sư Nam, và ông cho rằng muốn chấm dứt tình trạng này thì không có cách gì khác là phải để cho nền tư pháp của quốc gia được độc lập.

Sau khi vụ hành hung luật sư Nam xảy ra, luật sư Lê Công Định, người từng bị ở tù vì bảo vệ các bị cáo trong những vụ án chính trị, viết trên trang FB của ông rằng công tố và luật sư là hai trụ cột của nền công lý, việc tấn công luật sư sẽ đánh đổ một trong hai trụ cột đó, khiến cho nền công lý bị què quặt. Cũng qua FB, ông trao đổi với chúng tôi rằng Liên đoàn Luật Sư Việt Nam phải phản ứng mạnh mẽ, không đơn thuần vì hai đồng nghiệp bị đánh, mà còn vì nền công lý của Việt Nam.

NAY ANH MAI TÔI

NAY ANH MAI TÔI

LỄ CÁC LINH HỒN

Kn 3, 1-9; Rm 5, 5-11; Ga 6, 37-40

Tác giả:  Huệ Minh

Ngôi thánh đường nhỏ bé của giáo xứ tôi nằm cạnh nghĩa trang bé nhỏ của giáo xứ. Đứng bên đây thánh đường ngó bên kia thánh đường là những người thân thương trong giáo xứ đã ra đi trước chúng tôi. Không chỉ có nghĩa trang nhỏ bé này nhưng đâu đó ở các nghĩa trang và thậm chí đâu đó và tro cốt của ông bà cha mẹ của chúng ta vì có thể có những người xưa đã khuất nhưng không tìm thấy dấu vết bởi chiến chinh.

Nhìn những nấm mộ đó, nơi những người thân của ta nằm đó, ta lại nhớ đến phận người. Phận người vẫn không thể nào thoát khỏi cái định mệnh của kiếp người : sinh – lão – bệnh – tử. Phận người là thế đó như theo kiểu cách nói của cố nhạc sĩ họ Trịnh :

Con chim ở đậu cành tre,

Con cá ở trọ trong khe nước nguồn.

Tôi nay ở trọ trần gian

Trăm năm về trốn xa xăm cuối trời

Sương kia ở đậu miền xa

Con sáo ở trọ bao la đất trời

Nhân gian về trọ nhiều nơi

Bâng khuâng vì những đôi môi rất hồng

Mây kia ở đậu từng không

Mưa nắng ở trọ bên trong mắt người

Tim em người trọ là tôi

Mai kia về trốn xa xôi cũng…gần

Mây kia ở đậu từng không

Mưa nắng ở trọ bên trong mắt người

Môi xinh nở đậu người xinh

Đi đứng ở trọ đôi chân Thúy Kiều

Xin cho về trọ gần nhau

Mai kia dù có ra sao cũng đành

Trăm năm ở đậu ngàn năm

Đêm tối ở trọ chung quanh nỗi buồn

Ơ hay là một vòng sinh

Tôi như người bỗng lênh đênh giữa đời

Phận người là thế, ở trọ để rồi cuộc đời khép lại sau cái chết.

Sau cái chết, tùy niềm tin của tôn giáo và gần hơn nữa là niềm tin của mỗi người khác nhau. Với niềm tin Kitô giáo thì cái chết chỉ là khép lại cuộc sống trần gian để bước vào vương quốc vĩnh cửu.

Với Trịnh Công Sơn thì : “Người chết nối linh thiêng vào đời”.

Không biết rõ tác giả định nói gì ? Chắc chắn phải có một ý nghĩa thâm sâu . Tuy không hiểu hết ý nghĩa của nó, nhưng nó giúp ta suy nghĩ : người chết nối linh thiêng vào đời vì thực tại cái chết là một thực tế đặt con người đứng trước một cái gì huyền bí, đáng sợ, và khi đứng trước thi hài người chết, ai ai cũng phải đối diện với cái ý nghĩ này : nay người, mai ta.  Và: nay tôi, mai anh.  Tôi chết, anh còn sống, nhưng còn sống đối với anh chỉ là “chưa chết”. Anh chỉ được “triển hạn”, chứ không bao giờ được “miễn trừ”.

Với những ý nghĩ như vậy mà chúng ta thường im lặng, trầm mặc đứng trước người chết, nhất là đứng trước thi hài một người thân yêu của mình.  Chúng ta im lặng, trầm mặc và buồn sầu, không chỉ vì người thân yêu không còn nữa, mà còn vì nghĩ đến cái chết  sẽ xẩy ra cho mình.  Người chết như mang theo phần nào chính chúng ta.  Trong người chết, nhất là những người ruột thịt máu mủ của chúng ta, một phần ruột thịt máu mủ của chúng ta đã ra đi.

“Người chết nối linh thiêng vào đời” là như vậy. Nghĩa là người chết đặt chúng ta đối diện với một thực tại khác, một thế giới của sự im lặng, huyền bí, một thế giới của sự tôn nghiêm, đáng kính, đáng sợ…  Vì sợ người chết,  sợ sự chết, nên người ta dù muốn hay không cũng phải nghĩ đến cái chết của mình, phải chuẩn bị cho cái chết không thể tránh được.

Có câu ngạn ngữ :”Cái chết ở trước mặt người già và sau lưng người trẻ”.  Đây là tâm lý chung cho mọi người vì người già dễ cảm thấy mình gần đất xa trời hơn người trẻ.

Tuy thế, nhiều khi người già cũng như người trẻ đều “tham sinh úy tử” nên ít khi nghĩ đến cái chết, nhưng khi thần chết đến thì người ta cảm thấy đã quá muộn. Vì thế, ông Henri Bordeaux nói : “Phần đông người ta chỉ mở mắt một lần, mà lần ấy lại là chính lúc tắt thở, nhưng người ta vội bóp mắt lại ngay”.

Đồng quan điểm với ông  Henri Bordeaux, ông John C. Collins nói : “Người chết mở mắt cho người sống”,  cũng có nghĩa là người sống bóp mắt người chết.

Ông Stephen Leacock nói : “Lạ lùng thay cái chuỗi đời người : còn nhỏ thì ước được lớn lên. Lớn lên rồi, ước đến tuổi trưởng thành. Đến tuổi trưởng thành rồi, ước được một tổ ấm.  Được tổ ấm rồi, ước làm ông nội nghỉ ngơi.  Được nghỉ ngơi rồi lại nuối tiếc  quãng đời quá khứ và cảm thấy một luồng gió lạnh đang rì rầm thổi tới.  Nhưng khi ý thức được rằng đời sống chính là ở hiện tại, ở trong ngày hôm nay, thì đã quá muộn rồi”.

Khi ta nhìn thấy những nấm mồ ở nghĩa trang như muốn nhắc nhở ta : hôm nay phiên tôi, ngày mai đến phiên anh.  “Hôm nay” là một ngày nhất định, rõ ràng, tại đây và lúc này, ai cũng phải công nhận rằng người thân yêu của chúng ta đã ra đi về đời sau, và lát nữa sẽ được chôn vùi trong lòng đất.

Nhưng còn chữ “Ngày mai” là một ngày bất định, mông lung, mờ mịt không biết bao giờ mới đến như người ta nói : “Sinh hữu hạn, tử bất kỳ” (Tục ngữ).  Đây là điều bắt buộc chúng ta phải động não vì nó liên quan đến số phận đời đời của chúng ta.

Theo tâm lý chung, người đời ai cũng “tham sinh úy tử” (ham sống sợ chết).  Người ta cũng nhận xét rằng : các cụ già thường sợ chết hơn các thanh thiếu niên.  Nhưng có một điều thực tế : không bao giờ người ta thấy mình sống lâu cả.  Dẫu đã tóc bạc da đồi mồi, đi không vững, đứng không ngay, cũng còn thấy  như mới bước chân vào đời ngày hôm qua vậy :

Nhớ từ năm trước vẫn thơ ngây,

Thoát chốc mà già đã tới ngay

(Nguyễn Khuyến)

Dù cuộc sống cứ mãi trôi nhưng rồi thi thoảng ta phải  dừng lại lại để bình tĩnh đứng ra ngoài cuộc đời bề bộn, ra ngoài cái Tôi chủ quan, mà quan sát và ý thức  nhận định một cách khách quan :

Tại sao tôi sống ?

Sống để làm gì ?

Chết rồi, ra sao ?

Phải tìm ra ý nghĩa của cuộc sống. Có người không biết tại sao mình sống, rồi sẽ ra sao !  Cho nên họ có cái nhìn bi quan về cuộc sống bởi vì họ không tìm ra được lẽ sống.

Lẽ sống của người Ki tô hữu ngày hôm nay được làm rõ trong tất cả các bài đọc. Với tất cả lẽ sống đó, niềm tin đó ta lại hân hoan sống trong trần gian này với niềm vui, với niềm tin và hy vọng một ngày kia ta cũng sẽ đoàn tụ với cha ông chúng ta trên thiên đàng nơi mà Chúa đã dọn sẵn cho những ai mà Thiên Chúa Cha trao cho Chúa Giêsu.

Cuộc đời này rất ngắn và rất vội, Giáo Hội dành ra tháng 11 này cách đặc biệt để ta có dịp báo hiếu, cầu nguyện cho ông bà cha mẹ, những người đã khuất trước chúng ta. Và, cũng nhắc nhớ phận người của mỗi người chúng ta. Ngày nào đó, ta cũng phải trở về với tro bụi trong quy luật hạn hữu của con người nhưng chuyện cần thiết và quan trọng nhất là sống làm sao để mai ngày được ơn cứu độ.

Sống ở đời, giàu hay nghèo, sang hay hèn, đại gia hay tiểu gia không phải là vấn đề. Không phải là vấn đề bởi lẽ ta thấy dù giàu hay nghèo, sang hay hèn đó khi nhắm mắt lìa đời chỉ có vài mét đất như nhau mà thôi. Vì thế, chuyện cần và đủ cho cuộc đời của mỗi người đó là sau khi chết ta có được một chỗ trong cung lòng Thiên Chúa hay không ?

Với phận con người mỏng dòn và yếu đuối để rồi ta lại cứ tiếp tục cầu nguyện. Cầu nguyện cho những người đã khuất và cầu nguyện cho chính bản thân chúng ta để ngày mỗi ngày ta biết trút bỏ những gì không là cần thiết, những gì làm vướng víu không để ta thanh thoát về với Chúa. Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để chúng ta tiếp tục tin tưởng, cầu nguyện và tín thác những người thân của ta trong tay Chúa cũng như cuộc đời của ta trong tay Chúa vậy.

Tác giả:  Huệ Minh

Phản ứng của người dân trước chuyến thăm của ông Tập Cận Bình

Phản ứng của người dân trước chuyến thăm của ông Tập Cận Bình

RFA

Gia Minh, PGĐ Ban Việt ngữ

Phản đối chuyến thăm sắp tới của Chủ Tịch Trung Quốc Tập Tận Bình. Photo: FB Nguyen Lan Thang

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sẽ thăm chính thức Việt Nam vào hai ngày 5 và 6 tháng 11 tới đây. Một số nhân sĩ, trí thức và người dân quan tâm, trong cũng như ngoài nước, lên tiếng phản đối chuyến công du này. Lý do vì sao và tình thế nào đối với mối quan hệ Việt- Trung lúc này?

Tuyên bố để bày tỏ thái độ

Sau khi tin về chuyến công du Việt Nam của chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình được chính thức xác nhận, vào ngày 15 tháng 10 có hơn 120 người trong nước công khai Bản Lên Tiếng về việc không hoan nghênh ông Tập Cận Bình đến Việt Nam vào thời điểm này.

Sang ngày 2 tháng 11, tám tổ chức xã hội dân sự độc lập tại Việt Nam cùng hơn 130 người cả trong và ngoài nước công khai Tuyên bố về Chuyến Thăm Việt Nam của ông Tập Cận Bình.

Tuyên bố gồm 5 điểm nêu rõ lập trường của những tổ chức và cá nhân ký tên về mối quan hệ Việt- Trung, những hành động xâm chiếm lãnh thổ- lãnh hải của Việt Nam do Bắc Kinh tiến hành lâu nay, việc hành xử bạo lực đối với ngư dân Việt đánh bắt hải sản tại khu vực ngư trường Hoàng Sa, Trường Sa …

Nhà văn quân đội Phạm Đình Trọng, một trong những người ký tên vào bản Tuyên bố cho biết lý do ông tham gia cùng bảy tỏ chính kiến với nhiều người quan tâm khác:

“Tuyên bố đó để nói rõ thái độ của nhân dân Việt Nam. Lãnh đạo có thể lấy lòng, khúm núm, cầu cạnh như thế nào; đó là một nhóm lãnh đạo chứ còn tiếng nói của chúng tôi là tiếng nói của người dân nhằm bộc lộ thái độ, ý chí của chúng tôi đối với Trung Quốc.

Chúng tôi nghĩ rằng trong (lúc) bị đàn áp, o ép thì chỉ có thể lên tiếng thế thôi; chứ còn biểu tình chắc không làm được, khó. Đáng lẽ một nước có dân chủ thì vào dịp này người ra rất cần có biểu hiện thái độ, ý chí bằng tập hợp lực lượng. Nhưng việc tập hợp lực lượng như thế chắc không được, không làm được nên chúng tôi phải làm là ra tuyên bố đó thôi.”

Giáo sư- tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng thuộc nhóm chủ trương trang Bauxite Việt Nam cũng là một trong những người ký tên cho biết quan điểm của ông khi tham gia hoạt động này:

“Cũng nhân chuyến thăm của ông Tập Cận Bình, nhưng trí thức, những người dân yêu nước Việt Nam cần bày tỏ cho ông chủ tịch Tập Cận Bình thấy những việc làm sai trái của họ đối với Việt Nam, những nguyện vọng, ước muốn của nhân dân Việt Nam cụ thể về vấn đề Biển Đông.”

Đường lối của Hà Nội

Thông tin cho biết chuyến thăm của chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đến Việt Nam trong tuần đầu tháng 11 này là do lời mời của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và chủ tịch nước Trương Tấn Sang.

H1Ông Nguyễn Thiện Chí, giảng viên cao cấp Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh, cho rằng hoạt động ngoại giao như thế là đường lối lâu nay của Hà Nội:

“Châm ngôn của Bộ Ngoại giao, của đảng chúng tôi là đa phương hóa, đa dạng hóa. Tiếp đến là muốn gần gũi, trao đổi, tiếp cận. Hoan nghênh cả thôi. Nhà nước tiếp cận làm sao có lợi, cho tốt thôi. Dẫu sao họ nghe tiếng nói của bên này, của nhân dân Việt Nam thì họ sẽ có một thái độ nào đó đúng mực. Còn hõ khôn nghe thì nhân dân thế giới phê phán thôi!

Chúng tôi muốn thân thiện, hết sức thân thiện, muốn hòa bình, muốn hữu nghị. Nhưng hữu nghị thì phải cả hai bên, chứ một bên không được. Tối thiểu phải lịch sự, văn minh; bên kia quay lưng làm sao được?!”

Theo nhà văn quân đội Phạm Đình Trọng thì phía Trung Quốc sang Việt Nam lần này cũng tương tự như vào những dịp đảng cộng sản Việt Nam tiến hành đại hội 5 năm đưa ra đường lối, chính sách và đội ngũ nhân sự lãnh đạo đảng và nhà nước. Ông nói:

“Dịp này là dịp mà Trung Quốc rất cần, họ muốn có mặt, có ảnh hưởng tại Việt Nam. Lý do vì sắp tới đại hội đảng sắp đặt ‘ghế ngồi’, nhân sự cho lãnh đạo Việt Nam trong thời gian tới. Trung Quốc họ rất cần có mặt lúc này để làm áp lực, sắp đặt theo ý muốn của họ về nhân sự. Chuyến đi của ông Tập Cận Bình sang Việt Nam lúc này là như thế và cũng để hỗ trợ cho những người, những tư tưởng ngóng vọng sang Trung Quốc và muốn tồn tại thế lực của Trung Quốc. Tập Cận Bình sang cũng để làm hậu thuẫn cho những con người đó, những tư tưởng ấy.”

Chính sách của Trung Quốc

Ông Nguyễn Thiện Chí còn là thành viên thuộc Ủy ban Thường Vụ Hội Hữu nghị Việt- Trung và trưởng ban liên lạc cựu lưu học sinh, thực tập sinh Trung Quốc, thừa nhận lâu nay Trung Quốc nói và làm không đi đôi với nhau. Nay toàn thế giới đã nhận thấy điều đó. Ông Nguyễn Thiện Chí nói rõ:

“Giữa lời nói và việc làm của Trung Quốc không đi đôi với nhau. Điều này thế giới thấy cả rồi. Như Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam được thế giới công nhận và họ nói nhiều lắm. Có những nước không nói ra nhưng trong bụng vẫn cho đó là của Việt Nam.

Trong phạm vi vi mô của bản thân, một người dân trong nước và là sĩ phu, chỉ mong muốn thế này thôi: Trung Quốc bình tĩnh, thật cầu thị lắng nghe tiếng nói của nhân dân thế giới để hành xử cho đúng. Vì họ là nước lớn, nước lớn mạnh lắm; còn chúng tôi nước nhỏ đấu tranh thì còn chờ các nước láng giềng, chờ các nước trong Liên Hiệp Quốc, chờ những người dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới họ quan tâm theo dõi, họ giúp đỡ chúng tôi trong vấn đề này. Nước nhỏ chống lại nước lớn khó lắm, phải có thời gian. Nếu nước lớn biết cầu thị, muốn sống trong hòa bình, đừng xâm lược, đừng tham lam (tham lam không được) thì phước quá. Nhưng thời gian sẽ ủng hộ chúng tôi.”

Nhà văn Phạm Đình Trọng đánh giá thực tế diễn tiến như hiện nay là một cơ hội mà chính quyền Hà Nội cần phải nắm bắt chứ không thể bỏ qua như nhiều lần khác:

“Tình trạng rất có lợi cho Việt Nam và cũng mở mắt cho Việt Nam về dã tâm của Trung Quốc ‘hai năm rõ mười’ rồi, không còn nghi ngờ gì nữa. Và xu thế của thế giới đối với Trung Quốc cũng đã rất rõ: Philippines như thế, rồi Mỹ như thế; nhưng mà thái độ của Việt Nam vẫn lập lờ.

Lực lượng Mỹ vào Biển Đông để hạn chế sự bành trướng của Trung Quốc tại Biển Đông đều được từ úc, Châu Âu ủng hộ nhưng Việt Nam vẫn có thái độ im lặng, lập lờ, không rõ ràng. Điều đó thể hiện là áp lực của Trung Quốc đối với những người lãnh đạo Việt Nam rất lớn. Áp lực đó, sức ép đó đang còn duy trì và ảnh hưởng rất nặng nề đếnViệt Nam, cho nên một cơ hội, thời cơ thuận lợi sẽ lại qua đi thôi!”

Đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội trong trả lời phỏng vấn Tân Hoa Xã nhân chuyến thăm của ông Tập Cận Bình đến Việt Nam lần này nói rõ mục đích nhằm vạch ra đường hướng cho mối quan hệ Việt- Trung trong thời gian tới.

Những người quan tâm tại Việt Nam bày tỏ hy vọng lãnh đạo Hà Nội sẽ sáng suốt nghe theo tiếng nói của người dân và thế giới tiến bộ; không còn răm rắp tuân thủ chính sách do tầng lớp lãnh đạo Trung Quốc vạch ra.

ĐỜI NGƯỜI CHIẾC LÁ

ĐỜI NGƯỜI CHIẾC LÁ

  LM Giuse Nguyễn Hữu An

Những ngày cuối tháng 10, Đất Thánh các Giáo xứ đông người đi tảo mộ.  Bên người thân yêu đang an nghỉ, con cháu, thân nhân thành kính đốt nến thắp nhang, hiệp thông cầu nguyện.

Mỗi chiều, tôi ra Đất Thánh của Giáo xứ cùng mọi người dọn dẹp cỏ rác, phát quang bụi rậm, sữa sang lễ đài, chuẩn bị cho ngày lễ các đẳng linh hồn.

Nhìn những chiếc lá vàng rơi rụng khắp Nghĩa Trang, tôi nghĩ về mùa thu, nghĩ về đời người và chiếc lá.

Nhớ bài thơ của thi sĩ Lưu Trọng Lư:

Em nghe không mùa thu.

Lá thu rơi xào xạc.

Con nai vàng ngơ ngác.

Đạp trên lá vàng khô.

(Tiếng thu)

Màu vàng của lá, màu úa của cỏ, nắng nhạt gió chiều là hình ảnh đặc trưng của mùa thu.  Mùa “chịu tang” của những chiếc lá vàng.  Ngồi nhìn lá rơi, mỗi chiếc lá chọn cho mình một cách “chia tay.”  Có những chiếc lá ra đi trong sự quằn quại khổ đau, dùng dằng bịn rịn như thể không muốn lìa cành; có những chiếc lá “hấp hối” loạng choạng buông mình cách nặng nề nghiêng ngả trên mặt đất.  Lại có những chiếc lá ra đi cách nhẹ nhàng trong dáng điệu thướt tha buông mình theo gió.  Những chiếc lá khác không bàng hoàng hối hả mà chậm rãi, thanh thản, an nhiên rơi mình trên thảm cỏ xanh như thể một bông hoa say trong giấc ngủ yên lành.  Một đời lá mong manh, chóng tàn phai rụng xuống.  Mới đó, lá còn xanh tươi, mà nay đã úa vàng lìa cành.

Đời người có khác chi một chiếc lá cuối thu.  Có những người ra đi trong bấn loạn, hối tiếc, khổ đau, nặng nhọc.  Lại có người ra đi về với cội nguồn một cách thanh thản nhẹ nhàng thanh thản.  “Lá rụng về cội.”  Lá rơi bên gốc cây.  Lá chờ đợi một quá trình sinh học để trở thành dinh dưỡng nuôi cây.  Lá góp thân xác tàn úa để trả ơn cho cây.  Đời lá ngắn ngủi mà đầy ý nghĩa nhân sinh.

Nhìn lá vàng rơi, ta nhớ lời Thánh Kinh: “Có thời sinh ra, có thời chết đi” (Gv 3,2).  Mỗi loài thụ tạo đều có thời hạn của nó.  Đời người như chiếc lá mỏng manh, ngắn ngủi.  Chỗ dựa trần gian chẳng an toàn vững chắc. Tiền bạc vật chất, bằng cấp, kiến thức, chức quyền đều chóng tàn phai.  Sức khoẻ, sắc đẹp hao mòn rồi rệu rã theo tuổi đời năm tháng.

Nhìn lá vàng rơi, ta nhận ra sự thật cay đắng nhất của đời người là sự chết.  Nó chẳng từ ai, chẳng thương tiếc ai.  Nó đến bất ngờ làm ta bang hoàng.  Phải bỏ lại tất cả mọi thứ ta gắn bó và gom góp suốt đời để ra đi với hai bàn tay trắng.  Cái chết của mỗi người là một chuyến đi cuối cùng.  Một chuyến đi quyết định và quan trọng.  Một chuyến đi vĩnh viễn không bao giờ trở lại.  Một chuyến đi một vài tuần về thăm quê nhà, một chuyến đi nghỉ hè đôi ba ngày… tôi đã phải sắp xếp chuẩn bị nhiều ngày, có khi nhiều tuần ….  Nhưng tôi đã chuẩn bị được những gì cho chuyến đi cuối cùng và thật quan trọng của cuộc đời tôi?  Tôi có nỗ lực để xắp xếp chuẩn bị cho chuyến đi vĩnh viễn và không bao giờ trở lại này không?

Nhìn lá vàng rơi, ta nhớ lời Thánh Vịnh: “Đời sống con người giống như cây cỏ, như bông hoa nở trên cánh đồng, một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi, nơi nó mọc không còn mang vết tích” (Tv 102,15-16).  Dù văn minh đến dâu, con người vẫn không thắng nổi cái chết bằng sức mạnh của khoa học kỹ thuật.  Giàu nghèo sang hèn, trí thức hay bình dân, văn minh hay lạc hậu… ai ai rồi cũng phải chết.  Đứng trước cái chết, mọi người đều bình đẳng.  Sống là chuẩn bị cho con người đi về với cái chết.  Suy tư về cái chết là suy tư về sự sống.  Chết là một phần của sự sống bởi lẽ trong sự sống đã có sự chết.  Nó là cánh cửa nối liền hai thế giới như cửa sông đưa giòng nước vào nguồn biển rộng.  Cứ theo định luật tự nhiên, con người được sinh ra, lớn lên, già đi và chết.  Đó là định luật chung của con người.  Không ai có thể sống mãi mà không chết.  Các vua chúa ngày xưa đã cố công đi tìm thuốc trường sinh bất tử nhưng họ cũng chết.  Để sống cách trọn vẹn, phải can đảm chấp nhận sự sống lẫn sự chết.  Đời người ngắn ngủi như chiếc lá như lời Thánh Vịnh:

Đời con là một kiếp phù du,

Loài người Chúa dựng nên thật mỏng manh quá đỗi.

Sống làm người ai không phải chết,

Ai cứu nổi mình thoát quyền lực âm ty?

(Tv 88,48-49)

Con người không có quyền gì trên sự chết và sự sống.  Sống và chết là kỳ công và đều bởi Thiên Chúa.  Sự sống là mong manh, thế mà Thiên Chúa lại phải đánh đổi bằng máu của các tiên tri, bằng mạng sống của Con yêu dấu là Chúa Giêsu.

Nhìn lá vàng rơi ta nghĩ về cuộc đời lữ thứ.  Xin đừng mưu mô tính toán mà làm gì.  Xin đừng chia rẽ và thù ghét làm chi.  Cuộc đời này thật ngắn, tiền bạc trên thế gian này nhiều lắm, bàn tay ta có tham mấy cũng chẳng vơ vét hết được.  Rồi đến lúc bàn tay xuôi xuống, lạnh cóng, cô đơn, chẳng nắm giữ được gì.

Để có được sự ra đi trong thảnh thơi nhẹ nhàng và đong đầy niềm tin hy vọng ngày mai tươi sáng, ta hãy định nghĩa cuộc đời mình bằng sự “hiện hữu”, đừng bao giờ là sự “sở hữu”.  Ta hãy chọn phương châm “sống với” chứ đừng “sống vì”.  Thấu cảm được ý nghĩa về cuộc đời thì ta mới nhẹ nhàng, thanh thản ra đi mà không vướng bận, không ưu phiền.  Như ai đó đã từng nói: “Ngày ta sinh ra đời, mọi người cười ta khóc.  Hãy sống như thế nào để khi ra đi mọi người khóc ta cười”.

 LM Giuse Nguyễn Hữu An