Skip to content

Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em (Mt 5,44)

  • TRANG CHỦ
  • TIN & LUẬN
  • LỜI CHỨNG
  • VIDEO
  • TỦ SÁCH
  • TÌM HIỂU ĐỨC TIN CÔNG GIÁO
    • GIÁO LÝ DỰ TÒNG
    • VỀ NGUỒN KINH THÁNH
    • GIÁO LÝ CÔNG GIÁO
    • GIÁO HUẤN CỦA GIÁO HỘI
  • GIẢI TRÍ
  • CHỦ TRƯƠNG
  • LIÊN LẠC

Category: BÌNH LUẬN- SỰ KIỆN

Sưu tầm – Bình Luận-Sự Kiện

Posted on 12/23/2015

Qùa Giáng Sinh

Qùa Giáng Sinh

Ở các nước Phương Tây, Giáng Sinh là dịp người ta nghĩ đến quà. Cha mẹ tặng quà cho con cái, con cái tính đến việc biếu quà cho các bậc sinh thành. Những người đang yêu hay đã nên vợ, nên chồng nghĩ đến những món quà cho “một nửa kia của mình”. Bạn bè, đồng nghiệp cũng tính đến quà Giáng Sinh cho những người mình quý mến. Ngay cả những người hảo tâm cũng quan tâm đến những người bất hạnh để an ủi họ bằng những món quà mang ý nghĩa từ thiện.

quà giáng sinh

Cứ đến Giáng Sinh tôi lại nhớ đến truyện ngắn của O. Henry [*], một trong những người viết truyện ngắn nổi tiếng của Hoa Kỳ và cũng là nhà văn lừng danh thế giới. Tôi muốn nói đến truyện “The Gift of the Magi” mà ngày xưa hồi còn ở Trung học đã có dịp được đọc. Có nhiều bản dịch tiếng Việt với các tựa đề mang tên khác nhau như “Món quà Giáng Sinh”, “Món quà của nhà thông thái” hay “Món quà của các đạo sĩ”.

Nhân vật chính trong truyện là một cặp vợ chồng trẻ, James và Della, được O. Henry viết và in lần đầu tiên ngày 10/4/1906. Truyện xảy ra một ngày trước lễ Giáng Sinh và cũng như bao nhiêu người khác, James và Della phải tính đến việc mua quà tặng cho nhau. Có điều cặp vợ chồng này rất nghèo nên phải chắt chiu từng đồng để mua những món quà mà đối với họ có ý nghĩa nhất.

Chỉ một ngày trước lễ Giáng Sinh, Della vét hết trong túi và thấy cô chỉ có vỏn vẹn 1 đô-la và 87 xu nhưng cô  lại ao ước mua một sợi dây cho chiếc đồng hồ bỏ túi quý giá của James. Chiếc đồng hồ vàng này là tài sản duy nhất của gia đình truyền lại nhưng chưa bao giờ James có đủ tiền để mua sợi dây.

Đối với James, mái tóc nâu dài, thướt tha, óng mượt của Della là cả gia tài mà anh hãnh diện. Mái tóc đó lâu nay thiếu một bộ kẹp tóc mà James chắc Della thầm ao ước. James quyết định, với bất cứ giá nào anh sẽ mua tặng Della bộ kẹp tóc trong dịp Giáng Sinh.

The-Gift-of-the-MagiÔ. Henry dẫn người đọc truyện đến những tình tiết éo le, đầy bất ngờ vào đêm Giáng sinh khi James về nhà. Người kể chuyện viết:

“Thế rồi cửa mở, Jim bước vào. Anh ấy trông rất gầy và cần có một cái áo khoác mới. Jim nhìn chằm chằm vào Della. Cô không thể hiểu được anh đang nghĩ gì, cô sợ. Anh ta không giận dữ, cũng chẳng ngạc nhiên. Anh đứng đó, nhìn cô với ánh mắt kỳ lạ. Della chạy đến bên Jim òa khóc: “Đừng nhìn em như thế, anh yêu. Em bán tóc chỉ để mua cho anh một món quà. Tóc sẽ dài ra mà. Em phải bán nó thôi, Jim à. Hãy nói “Giáng sinh Vui vẻ”, em có một món quà rất hay cho anh này!”

“Em đã cắt mất tóc rồi à?” Jim hỏi.

“Đúng thế, em đã cắt và bán rồi, vì vậy mà anh không còn yêu em nữa ư? Em vẫn là em mà!” Della nói.

Thì ra Della đã đến tiệm làm tóc giả để bán tóc của mình với giá 20 đô-la. Cộng thêm 1 đô-la trong túi, Della mua sợi dây cho chiếc đồng hồ bỏ túi cho James và về nhà với 87 xu còn lại.

James sững sờ nhìn vợ với mái tóc ngắn cũn cỡn. Lại một bất ngờ kế tiếp: James vòng tay ôm lấy Della và rút từ túi áo ra một vật gì đấy đặt lên bàn. Anh nói:

“Anh yêu em, Della, dù cho tóc em ngắn hay dài. Hãy mở cái này ra em, sẽ hiểu tại sao khi nãy anh sững sờ đến vậy.”

Della xé bỏ lớp giấy bọc ngoài và kêu lên sung suớng, nhưng liền sau đó những giọt nước mắt hạnh phúc rơi xuống trên má nàng. Quà Giáng Sinh cho Della là một bộ kẹp tóc, những chiếc kẹp dành cho mái tóc dài, óng ả của Della. Cô đã mơ ước có đuợc nó khi trông thấy lần đầu tiên qua cửa kính của một gian hàng. Những cái kẹp rất đẹp và rất đắt tiền. Bây giờ chúng đã thuộc về cô nhưng tóc cô thì không còn đủ dài để kẹp nữa!

Della nâng niu món quà trong tay, mắt tràn đầy hạnh phúc. “Tóc em sẽ chóng dài ra thôi, Jim”, nói xong cô chợt nhớ đến dây đồng hồ vàng tặng Jim và chạy đi lấy. Khi Della đưa chiếc dây đồng hồ cho James. Nàng nói:

“Đẹp không anh? Em đã tìm kiếm khắp nơi đấy, giờ thì anh sẽ phải thích thú nhìn ngắm nó hàng trăm lần mỗi ngày thôi. Nhanh lên, đưa đồng hồ cho em, Jim, hãy nhìn nó với sợi dây mới này.”

Người đọc chuyện đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác khi James không làm theo lời Della. Ngược lại, anh ngồi xuống mỉm cuời nói: “Della, hãy cất những món quà này đi. Chúng thật đáng yêu. Em biết không, anh đã bán chiếc đồng hồ để mua kẹp tóc cho em. Giờ thì chúng ta có thể bắt đầu bữa ăn tối được rồi em yêu”.

Đó là một câu chuyện thật cảm động về tình yêu của hai bạn trẻ đã hết lòng dành cho nhau. Cái cách họ đối phó với những thách thức của việc mua quà tặng Giáng sinh với số tiền ít ỏi mà họ có.

Cốt truyện và tình huống trớ trêu của cuối truyện là một câu chuyện tình cảm động với một bài học về cách tặng quà và trở thành một câu chuyện phổ biến để thích ứng với những tình huống trớ trêu và biểu lộ tình cảm cho nhau trong những dịp đặc biệt, nhất là trong mùa Giáng sinh.

O.Henry tâm sự: “Tôi đã vụng về kể cho bạn nghe một câu chuyện không có hậu về hai cô cậu khờ dại trong một căn hộ nghèo nàn, đã hy sinh những tài sản quý giá của mình một cách không khôn ngoan chút nào. Nhưng lời cuối cùng để nói với những người khôn ngoan thời buổi này là trong những người tặng quà, hai người này là khôn ngoan nhất. Và tất cả những ai trao quà theo cách của họ, kể cả người cho và người nhận, ở bất cứ nơi đâu, đều là khôn ngoan nhất. Họ chính là những nhà thông thái thật sự”.

Posted on 12/23/2015

LỜI NGỎ CỦA TÌNH YÊU –

LỜI NGỎ CỦA TÌNH YÊU – Ga 1, 1-18

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Thánh Gioan Tông Đồ định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu.”  Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu của Ngài bằng nhiều cách dưới nhiều hình thức khác nhau.  Nhưng Thiên Chúa với hình ảnh ta khó thấy được và nhiều khi không nhận ra những công trình tình yêu của Ngài.  Yêu nhiều rồi cũng có lúc phải nói ra. Thiên Chúa quá yêu thương con người nên sau cùng đã gửi Con Một của Ngài xuống trần để tỏ cho ta biết tình yêu Thiên Chúa.  Con Một Thiên Chúa chính là Lời của Chúa ngỏ với nhân loại.  Vì thế ta hãy vào hang đá Bêlem để lắng nghe được Lời Chúa nói với ta.  Chúa Giêsu bé thơ không nói bằng âm thanh vật lý, nhưng Ngài nói bằng âm thanh của trái tim.  Lời của Ngài là lời của tình yêu. Qua bản thân Ngài, qua ánh mắt Ngài, qua khung cảnh hang đá, ta sẽ nghe được tiếng thì thầm của Thiên Chúa. Tiếng thì thầm đó là tiếng nói của tình yêu dưới nhiều sắc mầu khác nhau.

Đó là tiếng nói của tình yêu dâng hiến.  Bêlem theo tiếng Do Thái có nghĩa là nhà bánh.  Chúa Giêsu tự nguyện trở thành tấm bánh nuôi dưỡng chúng ta.  Ngài nằm trong máng cỏ như một lương thực mời gọi đoàn chiên đến để được bổ dưỡng.  Lương thực đó không phải là lương thực vật chất nuôi xác, nhưng là lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng tâm hồn.  Ngày nay, tuy nạn đói cơm bánh đã bớt phần gay gắt, nhưng lại xuất hiện những cơn đói mới: đói văn hóa, đói sự an ủi chia sẻ, và nhất là đói khát đời sống thiêng liêng.  Chúa Giêsu chính là tấm bánh bẻ ra cho thế giới mới, đáp ứng những cơn đói mới của thế giới.

THIEN CHUA

Đó là tiếng nói của tình yêu khiêm nhường.  Tình yêu chân thực là tình yêu khiêm nhường.  Tình yêu hạ mình vì người yêu.  Chúa Giêsu đã hạ mình thẳm sâu.  Từ trời xuống đất.  Từ địa vị Thiên Chúa xuống địa vị làm người.  Khiêm nhường nên nhường hết không gian cho con người.  Những không gian rộng lớn, cao sang thuộc về con người.  Chúa chỉ thu mình trong một góc nhỏ nghèo hèn của chuồng bò.  Nhường không gian cho con người ăn nói.  Còn Chúa chịu im lặng, thu nhỏ trong câm nín.

Đó là tiếng nói của tình yêu đi tìm.  Tình yêu của Thiên Chúa luôn đi những bước trước.  Yêu con người khi con người chưa biết yêu Chúa.  Tha thứ cho con người trước khi con người xin lỗi.  Đi tìm con người trước khi con người quay về.  Cuộc đi tìm thật vất vả.  Chúa phải bỏ trời cao, phải mặc thân phận yếu hèn, phải chịu khổ sở, phải chịu nhục nhã, phải chịu chết mới tìm được con người.

Đó là tiếng nói của tình yêu hy sinh.  Vì yêu nên Chúa chấp nhận hết những thiệt thòi về phần mình.  Chịu đói nghèo, chịu bị xua đuổi, chịu khổ nhục.  Trẻ thơ Giêsu rét mướt nằm trong máng cỏ nói với ta điều gì nếu không phải là tình yêu, yêu đến độ chấp nhận tất cả.

Đó là tiếng nói của tình yêu kết hợp.  Cứ dấu này các ngươi nhận biết Ngài, đó là một em bé sơ sinh nằm trong máng cỏ.  Vâng, kỳ diệu thay tình yêu Thiên Chúa.  Vì yêu nên đã kết hợp trọn vẹn với con người.  Trở nên một với con người.  Chấp nhận hết những gì của con người.  Chấp nhận đói khát, khổ sở, nghèo nàn.  Chấp nhận cả những bấp bênh, bất trắc của kiếp người.

Lời Thiên Chúa đang ngỏ với ta qua Hài Nhi nằm trong máng cỏ.  Hãy đến bên hang đá để nghe được tiếng nói của Thiên Chúa.  Hãy mở rộng trái tim để đón nhận được tình yêu của Thiên Chúa.  Trong bóng tối hận thù, ích kỷ, ghen ghét của thế giới, tình yêu Chúa là ánh sáng xé tan đêm tối.  Hãy để ánh sáng tình yêu Chúa soi chiếu tâm hồn ta.  Hãy đón nhận ánh sáng tình yêu của Chúa, để đến lượt chúng ta, chúng ta đem ánh sáng tình yêu của Chúa chiếu soi vào môi trường chung quanh ta.  Để cho thế giới bớt tối tăm.  Bấy giờ Lời của Chúa, Lời tình yêu sẽ vang dội khắp thế giới.

 ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Posted on 12/23/2015

Những mùa Giáng sinh ở ngôi nhà thờ cổ

 Những mùa Giáng sinh ở ngôi nhà thờ cổ

tuankhanh

RFA

Lại thêm một năm nữa, tiếng chuông đón mừng mùa Giáng sinh ngân vang trên một ngôi nhà thờ nhỏ ở Phố Hiến, Hưng Yên. Không gian cô quạnh khiêm nhường nơi này, lặng lẽ ôm trong lòng nó một ký ức lịch sử độc đáo của người Việt, mà khó nơi nào sánh được.

Nếu dựa trên sự có mặt của ngôi nhà thờ Phố Hiến (1650), có lẽ đây là nhà thờ Công giáo lâu đời nhất trong lịch sử Việt Nam, đến nay đã có trên 300 năm tuổi. Năm 1650, những người Hà Lan đã khởi công xây dựng ngôi nhà thờ này với các chất liệu chủ yếu bằng gỗ, thông qua sự cho phép của chúa Trịnh (Thanh Đô Vương Trịnh Tráng / 1623-1652) để phục vụ cho những người thương buôn ngoại quốc đầu tiên Đàng Ngoài.

Lý do của việc cho phép này, bởi chúa Trịnh lúc đó đang mở rộng thương cảng ở Phố Hiến, cửa ngõ đường sông cách Hà Nội 55 cây số, nhằm đẩy mạnh việc mua bán với thương nhân nước ngoài, cũng như học hỏi các vấn đề về quân sự và vũ khí trong cuộc đối đầu với nhà Nguyễn (lúc đó là Nguyễn Phúc Tần / 1620-1687). Sự có mặt của nhiều người ngoại quốc như Pháp, Anh, Nhật, Ấn Độ, Trung Hoa, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha… đặc biệt là người Hà Lan và đạo Công giáo, đã khiến cho chúa Trịnh mở rộng ứng xử, cho phép xây một nhà thờ của tín ngưỡng bên ngoài, ngay tại đường đê, cho các tàu nước ngoài ghé vào làm lễ, trước và sau chuyến đi biển của họ.

Tuy sách vở ghi rằng chúa Trịnh không mặn mà với thương buôn, người nước ngoài như ở Đàng Trong, nhưng thực tế ở Phố Hiến cho thấy thế kỷ 17-18, nơi này đã có một thời kỳ rực rỡ của ngoại giao, xuất khẩu, nhập khẩu. Nhiều đời Chúa Trịnh là người căn cơ Khổng giáo, nhưng chính thức cho phép việc xây dựng một nhà thờ ngoại giáo ở Việt Nam lúc đó, cũng có thể cho thấy một áp lực từ sự lớn mạnh của thương nhân ngoại quốc ở Phố Hiến và đạo Công giáo như thế nào. Chính vì vậy mà người miền Bắc vẫn có câu “Nhất kinh kỳ, nhì Phố Hiến”

Như vậy, từ năm 1651, người Việt đã chứng kiến một lễ Giáng sinh đầu tiên trong lịch sử, dù lúc đó giáo dân chưa phát triển. Nhà thờ Phố Hiến (hay còn gọi là Nam Hoà) này khởi đầu chỉ được dựng bằng các vật liệu đơn giản như gỗ, tre, lá… (có thể khởi đầu còn dè dặt, vì sợ chúa Trịnh cho là phô trương thanh thế ngoại giáo) nhưng sau một vài lần do hoả hoạn, mưa gió… Nên nhà thờ dần dần được mở rộng và kiên cố hơn. Đến năm 1898, một linh mục Bồ Đào Nha đã mang bản vẽ đến, cùng nhân công người Việt xây dựng hoàn chỉnh đến ngày nay. Đây cũng là ngôi nhà thờ hiếm hoi trên đất nước Việt Nam có phong cách Bồ Đào Nha với vẻ đẹp vừa kiêu kỳ, vừa dịu dàng hết sức quyến rũ.

Bên trong nhà thờ lại là một cảnh quan độc đáo khó tả, khi các kiến trúc sư ngoại quốc tác tạo nên một vẻ đẹp hoàn toàn Á Đông. Sự tinh tế từ chất liệu cho đến các chi tiết ráp nối bằng gỗ khiến người xem phải ngẩn ngơ về khả năng của người xưa – mà ngay cả việc xây dựng thời nay cũng khó mà bắt chước được. Tư duy của người đi trước mới đáng kinh ngạc làm sao. Đến năm 1898 thì giáo dân người Việt và người nước ngoài đã có số lượng khá tương đồng, nên các ghi chú trong và ngoài nhà thờ đã có tiếng Latin lẫn chữ Nho.

Cho đến trước năm 1954, nhà thờ Phố Hiến đã là một nơi quen thuộc của người Công giáo Hưng Yên. Tuy nhiên, khi hiệp định đình chiến Genève 1954 được ký kết, nhiều gia đình Công giáo đã vào Nam chọn một cuộc sống khác, khiến không chỉ Hưng Yên mà toàn miền Bắc trở nên thưa vắng người của nhà thờ. Từ chỗ có hơn 1300 giáo dân, hôm nay, nhà Thờ Phố Hiến chỉ có lại được 187 giáo dân, sau rất nhiều năm vận động (60 năm), nhiều năm đón Giáng sinh lạnh lẽo và hiu quạnh.

Đó là một giai đoạn đầy biến động. Miền Nam đột nhiên đón Giáng Sinh ngày càng lớn do hàng trăm ngàn người Công giáo xuất hiện, mang theo nhiều lễ hội ăn mừng, treo đèn kết hoa… khiến các mùa Giáng sinh ở miền Nam ngày càng nhộn nhịp hơn, thậm chí biến thành ngày vui của cả Lương giáo. Ngược lại, do số giáo dân, linh mục… giảm thiểu mạnh, nên sinh hoạt của các nhà thờ miền Bắc cũng co lại. Theo các tài liệu của các nhà nghiên cứu Ba Lan thì lúc đó, Công giáo miền Bắc mất đi khoảng hơn 450.000 giáo dân và 375 giáo sĩ. Người theo đạo chỉ còn chiếm 2% ở miền Bắc, còn ở miền Nam thì tăng vọt, chiếm đến hơn 9%.

Những năm dài chiến tranh và khó khăn trong việc lo cái ăn, việc sinh hoạt tinh thần với nhà thờ cũng bị ảnh hưởng. Đặc biệt với những giai đoạn mà Công giáo bị chính quyền Cộng sản nghi kỵ, bị kỳ thị là thành phần không đáng tin cậy.

Sinh hoạt Nhà thờ Phố Hiến cũng như nhiều nhà thờ ở miền Bắc yếu đi. Qua các tác phẩm của giới văn bút thân chính quyền trong thời gian này, thành phần Công giáo vẫn bị nhìn với sự gán đặt là thành phần phản động, đáng ghét – tương tự như cách nền thông tin tuyên truyền sau năm 1975 vẫn nguỵ tạo ra hình ảnh tệ hại của các quân nhân VNCH hoặc giới tư sản ở miền Nam Việt Nam.

Vào thập niên 60, có những năm chỉ có một linh mục trong tỉnh, tổ chức sinh hoạt cho cả 16 giáo xứ, thì chính Nhà thờ Phố Hiến cũng không còn đủ sức làm nên những mùa Giáng sinh đẹp như ý muốn. Bên cạnh đó, do dư phòng ốc, lại thiếu cộng đoàn nên khuôn viên nhà thờ, kể cả nơi làm lễ cũng có rất nhiều gia đình kéo nhau vào ở, mang theo cả thỏ, gà… cùng với nơi ở của mình. Tình trạng liên tục thất thoát các cổ vật của ngôi nhà thờ độc đáo này, mục nát các sàn gỗ xưa… khiến không ít người yêu mến lịch sử của Phố Hiến, của Hưng Yên đau lòng, mà không biết làm sao để thay đổi. Những mùa Giáng sinh ở đây, đã từng khe khẽ, từng nhẫn nại để cùng chung sống hoà bình với gần 15 gia đình chia nhau sống khắp ở nhà thờ.

Cho tới hôm nay thì mọi thứ dần dần đã khá hơn. Nhà thờ đang cố gắng gìn giữ những gì còn lại, vì đó không phải là của riêng một giáo xứ, mà vì đó là dấu ấn của một thời đại có một không hai, đầy ngẫu hứng cho các thế hệ sau tìm về. Nhiều gia đình ở trong nhà thờ đã nhận được tiền để tìm chỗ ở mới. Cho đến nay thì chỉ còn một gia đình bộ đội và thường dân còn ở trong khuôn viên nhà thờ. Những giáo dân ít ỏi bắt đầu cùng nhau lau quét và sơn lại ngôi nhà chung đã hơn 3 thế kỷ.

Mùa Giáng sinh năm nay, nhà thờ lại chuẩn bị đón một đêm thánh với những gì đơn sơ nhất của mình có, giữa cái lạnh làm ai ai cũng nao nao, háo hức. Với 187 giáo dân của mình, nhà thờ Phố Hiến là nơi vô cùng giàu có về ký ức, nhưng đầy khó khăn vật chất. Thậm chí tiền lắc giỏ hàng tuần (quyên tiền cho nhà thờ) cũng không đủ trả tiền điện trong tháng

Trong hàng ghế của nhà thờ, có một cụ già im lặng nhìn những thanh niên đang trang trí. Mắt cụ ngời sáng, thăm thẳm những điều không nói hết về một lẽ sống mà ông đã chọn khi đã 83 năm không rời nơi chốn này để đón các mùa Giáng sinh, bất chấp khi đó tối om, bất chấp chỉ có một ngọn nến con hay được trang hoàng tươm tất như hôm nay. Khi hỏi vì sao cụ Dương Hồng Đức, tên đủ của cụ, không theo người chị gái ta đi vào năm 1954, cụ nhìn và nói trong một ánh mắt kiêu hãnh “tôi thấy nhà thờ quạnh quẽ quá, tôi muốn lại. Vì tôi tin Chúa ở khắp mọi nơi”.

Khi hỏi cụ rằng ở lại có gặp nhiều khó khăn không. Cụ Đức run run nói, nhưng cao giọng hơn trong niềm kiêu hãnh ẩn giấu “vâng, tôi biết, và tôi cũng đã sống với rất nhiều điều khó khăn nhưng tôi tin rằng tôi sẽ vượt qua, vì tôi yêu thương”.

“Khó khăn” – nghe chừng như đơn giản qua lời cụ Đức. Nhưng với lịch sử ghi lại bằng tài liệu của cả hai bên, cho thấy mọi thứ đã là máu và nước mắt. Từ năm 1955, lễ Giáng Sinh ở miền Bắc đã bắt đầu co cụm, và khó khăn bởi chính quyền Việt Minh bắt đầu lo ngại về số người ra đi nên tìm cách ngăn cản. Từ tháng 11/1954 đến tháng 1/1955, ở riêng tỉnh Thanh Hoá và Hà Nam đã có gần 50.000 người muốn ra đi nhưng bị lính Việt Minh nổ súng ngăn lại và giải tán. Những năm 60, người Công giáo ở miền Bắc bị coi là công dân hạng hai. Đặc biệt với khu Bùi Chu – Phát Diệm, nơi có hơn 50% giáo dân ra đi, nhà thờ và linh mục có thể bị chụp mũ là gián điệp.

Quá khứ của Phố Hiến ngồn ngộn những câu chuyện truyền kỳ. Từ những chiếc thuyền thương buôn cho đến số phận những con người vô danh đi qua nghịch cảnh, khiến cho tiếng chuông cổ của nhà thờ ngân nga bài hát về nhân thế hôm nay, lại khôn cùng hơn.

Có thể đêm Giáng sinh ở Hà Nội hay Sài Gòn tràn ngập người đi, tràn ngập ánh đèn… nhưng ở ngôi nhà thờ xưa như cổ tích Việt Nam này, tiếng chuông nho nhỏ, dăm ba ánh đèn nhấp nháy và lòng người đầy thương vọng của người giáo dân già, Giáng sinh lại một lần nữa bừng lên ý nghĩa về một mùa lễ không còn là của riêng nhà thờ, của người có đạo hay của riêng bất cứ ai, mà đó là mùa để nhắc về tình yêu và lòng thương khó trên khắp nhân gian, trên đất nước Việt Nam, đã qua muôn trùng khốn khó này.

Posted on 12/23/2015

Một kiểu cầm quyền không giống ai

Một kiểu cầm quyền không giống ai

  • VOA

Chẳng nước nào có cái kiểu cầm quyền kỳ quặc, độc đáo như ở Việt Nam.

Nhiệm vụ đầu tiên của mọi chính quyền chân chính là bảo vệ công dân nước mình đặc biệt là phụ nữ, trẻ em, người già, khỏi những bất công, bệnh tật, tai ương, khỏi những hành động phi pháp. Vậy mà hàng ngày, khắp nơi xảy ra bao chuyện bất công nhưng chính quyền CS vẫn vô cảm, còn đứng về phía đàn áp, hiếp đáp dân lành.

Hằng ngày biết bao vụ xử án xảy ra, tại đó Bộ Chính trị và đảng ủy CS các cấp đã quyết định mức án trước, được xã hội gọi là «bản án tiền chế», không có luật sư, hay có luật sư cũng bằng không vì bị cắt lời, các lý lẽ không được cân nhắc, xem xét. Các luật sư bị công an và ác ôn đánh cho đổ máu chỉ vì bênh vực dân theo đúng luật.

Có nước nào như ở Việt Nam các chiến sỹ dũng cảm, yêu nước xuống đường chống bành trướng, theo đúng chính sách công khai của đảng lại bị ngăn chặn, phá phách, bắt bớ, đánh đập đến bị trọng thuơng, bị tù đày dài dài? Có nước nào hai nhạc sỹ sáng tác bài hát chống xâm lăng, cổ vũ lòng yêu nước bất khuất, lẽ công bằng trong cuộc sống, mà bị tù đến hơn 4 và 6 năm? Chính quyền yếu bóng vía sợ cả những câu hát dân gian lên án bọn bành trướng.

Hai lĩnh vực quan trọng nhất có ý nghĩa đối với vận mệnh quốc gia, phát triển đất nước phồn vinh là lĩnh vực giáo dục và y tế lại bê bối, chậm tiến và bệ rạc đến cùng cực. Ở đó lúc nhúc những giáo sư, phó giáo sư «dỏm», những «tiến sỹ giả» làm nòng cốt, một bộ trưởng giáo dục bất tài, mất gốc đến độ muốn cắt giảm, lược bỏ môn Sử học là môn quyết định nhân cách của công dân. Một nền y tế tồi bại, lẽ ra phải chiếu cố người nghèo bất hạnh, chữa miễn phí cho những bệnh hiểm nghèo như ở mọi nước văn minh, thì trái lại người nghèo, người mắc bệnh nan y lâm vào bế tắc, phải nằm chung 2 người một giường, nhiều khi còn phải trải chiếu nằm dưới gầm giường trong cơn cùng cực.

Trong khi chính quyền mọi nước coi việc thu chi ngân sách là trọng yếu nhất, là huyết mạch quốc gia, thì ở Việt Nam việc thu chi của nhà nước luôn mù mờ, không minh bạch, rò rỉ lớn ở mọi cấp, vì cơ quan thu thuế, hải quan, tài chính, ngân hàng, thanh tra, kiểm sát đều trong tay «đảng cầm quyền» – thực tế là «đảng cầm tiền» – tha hồ chi tiêu, tàn phá nền tài chính đến tận gốc. Ở mọi cấp các cơ quan tài chính kế toán đều có 3,4 loại sổ sách kế toán khác hẳn nhau tuy cùng một nội dung, thu gốc đã bị xà xẻo, rồi báo cáo lên cấp trên một bản kế toán ma thứ nhất, lên quận cấu véo thêm một khoản lớn, làm bản kế toán ma thứ hai, thứ ba, rồi lên tỉnh, lên Bộ Tài chính lại có bản kế toán khác hẳn, ra đến Quốc hội chỉ là con số ma, con số chết. Đã vậy một nền tài chính tong teo lại bị chi tiêu ngông ngênh, bỏ ra hàng nghìn tỷ xây trụ sở tỉnh và tượng đài kỷ niệm; phí tổn xây cầu đường lên đến hàng tỷ mỗi mét; số xe các quan lớn dùng lên đến 40 ngàn chiếc, lương lái xe và chi phí xăng dầu bảo quản hàng năm lên đến hàng tỷ đô la, trong khi trường học nhếch nhác, học sinh đói khổ vượt sông đến trường bằng cách đu dây, lương giáo viên trả chậm đến 3, 4 tháng.

Chính quyền kêu gọi đến khản cổ công nghiệp hóa, kỹ thuật hóa, hiện đại hóa… nhưng thực tế đến nay không làm nổi một chiếc đinh vít tiên tiến để dùng trong xây dựng cầu cống, nhà cửa, cao ốc, nhà máy.

Một bài báo của một cô nhà báo có tâm huyết nhận định rất đúng rằng «Nhà nước này còn nợ nhân dân, dân tộc bài tóan phát triển hiện đại, để Việt Nam không hổ thẹn với láng giềng gần xa, đi trên con đường phồn vinh và hạnh phúc».

Chính quyền hiện tại còn vô cảm, vô trách nhiệm trong việc thực hiện biên chế nhà nước gọn, nhẹ, có năng suất cao, dù luôn «kêu gọi giảm biên chế nhưng sau đó luôn luôn là tăng ghế nhà ăn» đến độ phi lý nhất. Hơn 10 năm trước Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã báo động là biên chế phình quá lớn đến độ dị dạng, riêng số viên chức ăn lương một tỉnh như Thanh Hóa đã bằng biên chế của toàn bộ Phủ Toàn quyền Đông Dương cai trị cả 3 nước Việt Nam, Lào và Campuchia năm 1944.

Báo Đất Việt ngày 13/12 đã báo động là Hoa Kỳ, một nước có diện tích rộng gần gấp 30 lần và dân số đông gần gấp 4 lần so với Việt Nam, vậy mà Hoa Kỳ chỉ có 2,1 triệu viên chức ăn lương (chưa kể quân đội), trong khi đó ở Việt Nam hiện nay có số viên chức ăn lương là 2,8 triệu. Hoa Kỳ có bộ máy cầm quyền thực sự tinh nhạy, trong sạch, có hiệu quả. Nếu Việt Nam cũng đào tạo được những viên chức thành thạo công việc và có tinh thần trách nhiệm như ở Hoa Kỳ, thì Việt Nam chỉ cần có gần 1 triệu viên chức là đủ, có thể giảm biên nhà nước đến 2 triệu người.

Vấn đề quản lý ngân sách, chi thu tài chính công khai, minh bạch ở mọi cấp lẽ ra phải là một trong những nội dung lớn nhất trong dự thảo Nghị quyết của Đại Hội XII sắp đến, nhưng nó bị chìm nghỉm, không thấy tăm hơi đâu cả.

Cầm quyền mà bỏ qua các vấn đề hệ trọng quyết định là tài chính, ngân sách, biên chế, chi cho giáo dục, y tế là ưu tiên, đào tạo công nhân kỹ thuật viên chức theo kịp chuẩn mực quốc tế…thì rõ ràng là không cầm quyền, là bỏ mặc đất nước nổi trôi vô vọng, với biết bao bất công, phi lý xảy ra hàng ngày, khắp nơi, đè nặng lên cuộc sống của mỗi công dân, mỗi gia đình trong xã hội bất hạnh chưa tìm ra lối thoát.

Nguyên nhân cơ bản của tình trạng đảng CS «không cầm quyền», bỏ mặc cho chính quyền bê tha, như tê liệt, chính là do viên chức càng trên cao càng mê mải «cầm tiền» quá nhiều trong một xã hội bất công, quá ư lạc hậu.

Posted on 12/23/201512/23/2015

25-12-1991, ngày cuối cùng của chế độ CS Liên Xô

 25-12-1991, ngày cuối cùng của chế độ CS Liên Xô

Trần Trung Đạo

clip_image001

“Merry Christmas !” Một viên chức trong đoàn tùy tùng của Tổng Bí Thư Mikhail Gorbachev chào Ted Koppel và nhóm phóng viên của hệ thống ABC đang đứng chờ trước bậc thềm điện Kremlin. Ted Koppel chào lại nhưng anh chàng Rick Kaplan, phụ tá của Ted Koppel phản đối  “Với tôi anh phải chúc là Happy Hanukkah mới phải”. Rick Kaplan nói thế chỉ vì anh ta gốc Do Thái. Viên chức Liên Xô không hiểu Hanukkah nghĩa là gì và tưởng là Honecker nên hỏi ngược “Tại sao tôi phải chào Happy Honecker chứ nhỉ?”

Thật ra, thắc mắc của viên chức Liên Xô không phải là không có lý do. Ngày 25 tháng 12 không chỉ là ngày cuối cùng của hệ thống CS Liên Xô mà có thể cũng là ngày cuối của Erich Honecker nữa. Tên lãnh tụ CS Đông Đức này bị truy tố tại Đức và được Gorbachev cho phép tỵ nạn chính trị tại Liên Xô. Erich Honecker sợ bị Boris Yeltsin tống cổ về Đức nên hôm qua đã chạy sang tòa đại sứ Chile ở Moscow xin tỵ nạn. Báo chí loan tin sáng hôm đó Erich Honecker vừa xin tỵ nạn chính trị lần nữa nên viên chức trong đoàn tùy tùng Gorbachev liên tưởng đến y khi nghe “Happy Hanukkah”.

Ngày 25 tháng 12 là ngày nhiều tỉ tín đồ Thiên Chúa Giáo trên thế giới kỷ niệm ngày Chúa Cứu Thế giáng trần nhưng tại Moscow, ngày 25 tháng 12, 1991 là ngày chính thức cáo chung của chế độ Cộng Sản. Thật khó tin nhưng đang diễn ra trước mắt nhân loại. Ngày cuối cùng của chế độ CS Liên Xô được tường thuật theo từng giờ trong tác phẩm Moscow, December 25, 1991, the last day of Soviet Union của Conor Óclery mà người viết tham khảo.

Tối ngày 24

clip_image002

Thời tiết Moscow lạnh xuống gần 0 độ F. Những lớp tuyết dày trên dưới chân tường điện Kremlin dấu vết của cơn bão tuyết ba ngày trước. Nửa đêm 24 tháng 12, một đoàn hành hương đến cầu kinh dưới chân tháp Thánh Nicholas. Từ khi chính sách Glasnost ra đời, việc tiếp xúc tôn giáo có phần cởi mở. Nhiều đoàn hành hương có cơ hội đến thăm viếng các nhà thờ lớn ở Liên Xô. Phần đông người trong đoàn đến từ Mỹ. Dù Giáng Sinh theo lịch Julian do Giáo Hội Chính Thống Giáo Nga dùng là ngày 7 tháng Giêng những người hành hương này muốn đón Giáng Sinh theo lịch Mỹ ở Moscow. Những ngọn đèn cầy được thắp lên trong đêm đông tại quốc gia CS hàng đầu thế giới. Những người hành hương không biết một cách chi tiết những gì sắp xảy ra trên đất nước này trong vài giờ nữa.

Sáng sớm ngày 25

Mikhail Sergeyevich Gorbachev, Tổng Bí Thư đảng CS kiêm Chủ tịch Cộng Hòa Liên Bang Sô Viết thức dậy sớm. Ông ta ý thức ngay rằng, tất cả những gì ông sắp sửa làm từ bữa ăn sáng do đầu bếp Shura phục vụ và cả biệt điện nguy nga mà vợ chồng ông ta nghĩ trước đó sẽ ở cho đến chết đều sẽ là lần cuối. Chiếc xe đặc biệt ZiL-41047 chờ ông. Hai viên đại tá có khuôn mặt lạnh như tiền ngồi trên chiếc Volga theo  sau xe của Gorbachev. Họ không phải là cận vệ nhưng là người mang chiếc cặp trong đó chứa các thông tin tuyệt mật để  phát động chiến tranh nguyên tử. Hai đại tá này biết chiều tối nay họ sẽ chào từ biệt Mikhail Gorbachev để phục vụ lãnh đạo Cộng Hòa Nga Boris Yeltsin.

Mikhail Sergeyevich Gorbachev được thế giới ca ngợi như là người đã thổi vào không khí chính trị Liên Xô làn gió mới và được trao tặng giải Nobel Hòa Bình 1990 nhưng trong nước dân chúng đổ hết công phẫn lên ông ta. Tên Gorbachev đồng nghĩa với suy thoái, thất nghiệp, vật giá leo thang, tem phiếu. Người dân thường dĩ nhiên không biết và cũng không cần biết, Gorbachev là lãnh đạo CS thứ bảy từ Lenin và cũng là người kế thừa một gia sản lạc hậu, ung thối từ trong máu của chế độ.

Nhiều câu chuyện cười ở Moscow về thái độ bất mãn của người dân đối với Gorbachev. Ví dụ, trong một tiệm rượu, một người khách đứng dậy bỏ đi, các bạn anh ta hỏi đi đâu, anh chàng đáp đi giết Gorbachev chứ đi đâu, anh ta mở cửa ra đi thật nhưng trở lại ngay, bạn bè hỏi sao giết Gorbachev mà nhanh thế, anh chàng đáp không giết được vì phải sắp hàng dài quá.

9 giờ sáng ngày 25

Mikhail Gorbachev và đoàn tùy tùng đến dinh chủ tịch ở điện Kremlin hơi trễ hơn thường lệ chút ít. Hãng tin Mỹ ABC gồm Ted Koppel và Rick Kaplan có mặt ngay tại chỗ dừng xe. Họ được Gorbachev  cho phép tường thuật biến cố lịch sử này. Theo lời kể lại của Ted Koppel, Gorbachev rất trầm tỉnh. Nhân viên làm việc trong điện Kremlin vẫn tới đủ nhưng không có việc nào làm khác hơn là dọn dẹp. Thời khóa biểu tiếp khách trước đây được tính từng phút hôm đó trống không. Mặc dù theo thỏa thuận, Gorbachev có đến cuối năm để dời ra khỏi điện nhưng thực tế Yeltsin đã tóm thu hết quyền hành và các phương tiện thông tin. Đơn vị phòng vệ điện Kremlin vẫn túc trực nhưng không đặt dưới quyền chỉ huy của Gorbachev mà trực thuộc thẳng Yeltsin. Chiếc điện thoại màu trắng trên bàn làm việc của Gorbachev còn hoạt động nhưng không ai gọi vào.

10 giờ sáng ngày 25

Trong lúc điện Kremlin chìm trong im lặng, Tòa Nhà Trắng Nga lại sôi nổi với hàng loạt chương trong ngày mới của nền Cộng Hòa. Tòa nhà quốc hội Nga này là biểu tượng của trận chiến chống chế độ toàn trị khi Yeltsin đứng trên xe tăng thách thức đám lãnh đạo CS cực đoan hồi tháng Tám trước đó. Boris Yeltsin lãnh đạo Nga đến văn phòng làm việc. Ông lên văn phòng đặt trên tầng thứ năm bằng cầu thang riêng phía sau. Trên bàn làm việc hàng loạt sắc lịnh chờ ông ký. Một chế độ hình thành bằng máu, dao búa và súng đạn đang được giải thể bằng sắc lịnh. Một trong những sắc lịnh ông phải ký hôm nay là giải tán cơ quan KGB và thay bằng Federalnaya Sluzhba Bezopasnosti gọi tắt là FSB tức Cơ Quan An Ninh Liên Bang Nga. Không chỉ trong ngành an ninh, mật vụ mà cả sắc lịnh về các hí viện, nhạc viện, các viện hàn lâm, trường đại học, viện bảo tàng, v.v. từ nay đều trực thuộc Cộng Hòa Nga.

Các cơ quan ngoại giao quốc tế cũng vậy. Bộ trưởng Ngoại Giao Eduard Shevardnadze nổi tiếng thời Gorbachev bị trục xuất ra khỏi nhiệm sở và thay bằng Bộ trưởng Ngoại Giao Nga Andrey Kozyrev. Tại tất cả nhiệm sở ngoại giao khắp các múi giờ trên toàn thế giới, cờ Liên Xô bị hạ xuống và cờ Cộng Hòa Nga ba màu được kéo lên. Nhiều đại sứ vội vả đánh điện cho Yeltsin tuyên bố trung thành. Tòa đại sứ lớn nhất của Liên Xô là tòa đại sứ tại Washington DC với hơn 300 nhân viên thuộc nhiều sắc tộc. Các nhân viên chia thành nhiều nhóm theo sắc dân và tự tuyên bố họ là đại diện cho cộng hòa của họ tại Mỹ.

Gần 11 giờ sáng Tổng thống Nga Boris Yeltsin qua phòng họp quốc hội Nga ở lầu 1. Tổng cộng 252 đại biểu quốc hội đang tập trung để chứng kiến ngày lịch sử. Nhân dịp này, Boris Yeltsin thông báo tin vui rằng 11 quốc gia cựu Liên Xô trong phiên họp tại Kazakhstan đã đồng ý thành lập Khối Thịnh Vượng chung.

12 giờ trưa ngày 25

Mikhail Gorbachev ăn trưa xong. Phía sau phòng ăn có một phòng nhỏ bỏ trống. Tổng bí thư CS Liên Xô vào, đóng cửa lại và nằm nghỉ. Các phụ tá của ông hớt hải đi tìm. Gorbachev phải có mặt để ký thư từ biệt gởi các lãnh đạo thế giới mà ông có quan hệ tốt. Một danh sách khá dài từ Tổng thống Mỹ George H. W. Bush cho đến Thủ tướng Anh John Major và cả các ông hoàng như Vua Juan Carlos và Nữ Hoàng Sofia của Spain.

Bài bình luận trên báo Nga buổi sáng hôm đó chẳng tốt lành gì cho lãnh tụ CS Mikhail Gorbachev. Tờ Rossiyskaya Gazeta tiết lộ các cam kết mật Yeltsin dành cho Gorbachev khi về hưu bao gồm số phụ cấp bằng với mức lương hiện nay của ông ta có điều chỉnh theo mức lạm phát, hai chiếc xe riêng và một đoàn tùy tùng 20 người kể cả tài xế và an ninh. Đây là thỏa thuận kín giữa Gorbachev và Yeltsin nhưng đã bị cánh Yeltsin tiết lộ cho báo chí biết. Các báo còn cho rằng Gorbachev đòi hỏi một đoàn phục vụ lên đến 200 người. Thật ra, theo Chernyaev, phụ tá của Gorbachev, ông ta chưa bao giờ đòi hỏi một số lượng nhân viên phục vụ đông như thế. Phe Yeltsin chỉ bịa ra để làm nhục Gorbachev.

4 giờ chiều ngày 25

Gorbachev và phụ tá Andrei Grachev xem lại diễn văn mà 4 giờ nữa ông sẽ đọc và quyết định thay chữ “từ chức” bằng chữ “ngưng các hoạt động” trong chức vụ chủ tịch Liên Bang Sô Viết. Diễn văn được sửa tới sửa lui nhiều lần chung quanh các điểm xung khắc giữa Yeltsin và Gorbachev.

Cũng trong buổi chiều cuối cùng này, Gorbachev gọi điện thoại chào từ giã tổng thống Mỹ George H. W. Bush. Buổi điện đàm được truyền hình ABC thu. Gorbachev mở đầu trước bằng gọi một cách thân mật “George thân mến, chúc mừng Giáng Sinh đến anh và Barbara !” và nói tiếp “George, tôi muốn báo anh biết một tin quan trọng. Trước mặt tôi là diễn văn từ nhiệm. Tôi sẽ rời khỏi chức vụ tổng tư lịnh và chuyển giao quyền sử dụng vũ khí nguyên tử sang tổng thống Liên Bang Nga”.  Buổi điện đàm diễn ra trong không khí rất thân mật và tổng thống Mỹ mời Gorbachev viếng thăm Mỹ lần nữa. Cả hai đều tránh nhắc tới tên Yeltsin.

Trời đã về chiều. Gorbachev và hai phụ tá thân cận nhất của ông ngồi quanh nhau bên ly cà phê cuối cùng. Cả ba đồng ý, sau khi đọc diễn văn, Gorbachev sẽ ký quyết định từ nhiệm thay vì ký trước như dự tính.

Trong lúc nhắp cà phê, câu chuyện về số phận Nicolae Ceausescu của Romania được nhắc đến. Mặc dù Gorbachev ví Ceausescu như là Hitler của Romania, cả hai đã duy trì một quan hệ lãnh đạo các quốc gia trong khối CS. Chỉ ba tuần trước khi vợ chồng Nicolae Ceausescu bị xử bắn, Gorbachev đã tiếp y tại điện Kremlin. Trong dịp đó Gorbachev khuyên Ceausescu đừng ngại thực hiện các cải cách dân chủ và tiên đoán “đồng chí sẽ còn sống trong dịp hội nghị các lãnh đạo CS Liên Xô và Đông Âu” tổ chức ngày 9 tháng Giêng. Ngày đó không bao giờ đến và Nicolae Ceausescu cũng đã chết rồi.

7 giờ tối ngày 25

“Kính thưa toàn thể nhân dân”, giọng Mikhail Gorbachev hơi lạc đi vì xúc động, gò má ông rung lên. Trong chốc lát,  ông lấy lại bình tỉnh và đọc tiếp “Số phận đã quyết định rằng, khi tôi trở nên lãnh đạo đất nước, hiển nhiên đã có những sai trái trầm trọng trong quốc gia này. Chúng ta có đầy đủ mọi thứ, đất đai, dầu khí, tài nguyên thiên nhiên và Tạo Hóa đã ban cho chúng ta trí tuệ và tài năng – Tuy nhiên, mức sống của chúng ta tệ hại hơn nhiều so với các quốc gia kỹ nghệ khác và khoảng cách mỗi ngày rộng thêm. Lý do rõ ràng vì xã hội bị bóp ngặt trong tay của một hệ thống quan quyền được tạo ra để phục vụ một ý thức hệ, và phải chịu gánh nặng chạy đua vũ trang, căng thẳng tột cùng. Tất cả cố gắng để thực hiện các cải cách nửa vời đều lần lượt dẫn đến thất bại. Đất nước không còn hy vọng gì nữa.”

Gorbachev tiếp tục nói về các cải cách ông thực thi từ 1985, dù sao, đã là những viên gạch cần thiết lót lên con đường dẫn đến chế độ dân chủ và theo ông “xã hội đã đạt được tự do, tự do về chính trị và tự do về tinh thần”. Gorbachev chấm dứt diễn văn lúc 7:12 phút tối. Ông nhìn lên ống kính truyền hình và thêm vào câu nữa “Chúc quý vị mọi điều tốt đẹp”.

Các lý do làm Liên Xô sụp đổ là nguồn thúc đẩy sự nghiên cứu của nhiều sử gia, nhà nghiên cứu, nhà phân tích và vẫn còn đang được nghiên cứu, phân tích. Tuy nhiên, như nhiều người đông ý, nguyên nhân sâu xa vẫn là (1) những mâu thuẫn có tính triệt tiêu trong bản chất của chế độ CS độc tài toàn trị, (2) sự chuyển hóa không ngừng của xã hội và (3) các nguyên nhân trực tiếp gồm tình trạng tham nhũng thối nát, chạy đua vũ trang và trung ương không giữ được địa phương.

Mâu thuẫn có tính triệt tiêu của chế độ CS

Nếu chỉ nhìn từ bên ngoài, chế độ CS Liên Xô không thể nào sụp đổ. Sau thế chiến thứ hai, Liên Xô có một đạo quân khổng lồ gồm 500 sư đoàn trong đó 50 sư đoàn thiết giáp. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh với Mỹ và Tây phương, Liên Xô duy trì một đạo quân từ 3 triệu người đến 5 triệu người. Khoảng thời gian Liên Xô sụp đổ, Liên Xô có 210 sư đoàn với một phần tư là các sư đoàn thiết giáp. Kho vũ khí hạt nhân Liên Xô có 27 ngàn đầu đạn nguyên tử trong đó 11 ngàn đầu đạn có tầm bắn xa đến tận nước Mỹ. Mỗi đầu đạn nguyên tử có thể tàn phá một thành phố Mỹ.

Bên ngoài hùng mạnh nhưng bên trong, Liên Xô là một cơ chế chính trị chứa đựng các mâu thuẫn nội tại dẫn đến thối rửa. Chủ nghĩa Marx-Lenin đề cao “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” nhưng thật sự từ Cách mạng CS tại Nga, Trung Cộng, Cu Ba, Bắc Hàn, Việt Nam v.v.. đều phát xuất từ một nhóm nhỏ cán bộ CS biết vận dụng các lý do lịch sử và bất đồng nhất thời trong xã hội để phát động chiến tranh và sau đó tiếp tục cai trị nhân dân bằng súng đạn, nhà tù, sân bắn. Người dân không có quyền chọn lựa. Mâu thuẫn đối kháng mang tính triệt tiêu nhau giữa chế độ độc tài toàn trị và quyền sống, quyền tự do chọn lựa của con người vì thế đã bắt đầu ngay khi cách mạng CS thành công và sâu sắc dần theo thời gian.

Sự chuyển hóa tri thức xã hội

Như người viết đã có dịp phân tích bài Trung Cộng không đáng sợ, sự chuyển hóa tri thức của xã hội là nguồn lực chính thúc đẩy cách mạng dân chủ tại các quốc gia CS. Nguồn lực đó nhanh hay chậm tùy theo điều kiện mỗi nước nhưng là một tiến trình không thể bị ngăn chận bởi bất cứ một cơ chế độc tài nào. Những nguồn đối kháng từ bên trong các nước CS đã âm thầm lớn mạnh chỉ chờ cơ hội là bùng vở. Sức sống của đất nước cũng như của xã hội là một dòng chảy không bao giờ ngừng nghỉ, các thế lực cầm quyền độc tài chỉ là những khe đá, có thể làm chậm dòng thác văn minh nhưng không thể ngào ngăn chận được.

Khi nhận thức con người được mở rộng sự sợ hãi sẽ giảm dần. Điều này thể hiện không chỉ ở người dân Liên Xô lúc đó mà cả các cấp lãnh đạo CS Liên Xô cũng không còn sợ các biện pháp chế tài của trung ương đảng. Chưa bao giờ trong lịch sử đảng CS Liên Xô có một ủy viên bộ chính trị từ chức. Không cần phải tìm hiểu cũng biết điều gì sẽ xảy ra cho Boris Yeltsin nếu ông ta từ chức trong thời kỳ Lenin, Stalin.

Yếu tố chính tác động vào sự sụp đổ của Liên Xô, hệ thống CS tại châu Âu và sẽ diễn ra tại Trung Cộng cũng như Việt Nam chính là nội lực phát xuất từ xã hội, kết quả của các phong trào xã hội và sự chuyển hóa không ngừng của xã hội.  Các quốc gia CS còn lại như Trung Cộng, Việt Nam tìm mọi cách để ngăn chận sự phát triển tự nhiên của văn minh con người, cố tình che đậy, bưng bít thông tin nhưng chỉ làm chậm lại tiến tình cách mạng dân chủ một thời gian ngắn mà thôi. Cuộc chiến tranh xoi mòn từng mảnh nhỏ này đang diễn ra từng giờ, từng phút và phần thắng đang nghiêng dần về phía người dân.

Tham nhũng thối nát, chạy đua vũ trang và trung ương không giữ được địa phương

Thập niên 1970 Liên Xô có vẻ trong vị trí ổn định và có ảnh hưởng quốc tế nhất. Vị trí của Liên Xô lên cao tại Phi Châu, Trung Đông và Á Châu. Tuy nhiên sau thượng đỉnh Vladivostok giữa Leonid Brezhnev và Tổng thống Mỹ Gerald Ford tình hình bắt đầu đổi khác.  Nền kinh tế Liên Xô suy sụp dần vì hơn 30%, nhiều phân tích cho rằng hơn một nửa, ngân sách quốc gia phải đổ vào cuộc chạy đua vũ trang với Mỹ. Giống như đòn kinh tế Mỹ đang áp dụng hiện nay đối với Vladimir Putin, thập niên 1980, Mỹ cũng thỏa thuận với Saudi Arabia để giữ giá dầu thấp nhằm đánh vào nền kinh tế sống nhờ xuất cảng dầu khí của Liên Xô.

Gorbachev kế thừa một “sự nghiệp cách mạng” nhưng trong thực tế một gánh nặng của chủ nghĩa độc tài toàn trị kéo dài từ 1917 cho đến tháng 3 năm 1985, thời gian ông được chọn làm tổng bí thư đảng. Cơ chế chính trị trung ương không giữ được các cộng hòa địa phương. Trước Giáng Sinh 1991 vài ngày, 11 nước cộng hòa Sô Viết gồm Ukraine, Liên Bang Nga, Belarus, Armenia, Azerbaijan, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Moldova, Turkmenistan, Tajikistan và Uzbekistan tuyên bố họ không còn là những tiểu quốc trong liên bang Sô Viết. Bốn nước Estonia, Lithuania, Latvia, Georgia chọn nghiêng hẳn về phía Tây thay vì theo Nga.

Không có con đường nào khác dành cho các lãnh đạo CS

Chế độ CS, một chế độ đi ngược dòng phát triển văn minh nhân loại và quyền con người như Mikhail Sergeyevich Gorbachev xác nhận trong diễn văn từ chức “hệ thống toàn trị đã ngăn chận một quốc gia để trở nên giàu có và thịnh vượng, hệ thống đó phải bị giải thể.” Điều đó đã xảy ra tại Nga, Đông Âu, Phi Châu và đương nhiên sẽ xảy ra tại Trung Cộng và Việt Nam. Cách mạng dân chủ là một tiến trình không thể nào đảo ngược. Các lãnh đạo CSVN chỉ có một trong hai chọn lựa, hoặc như Mikhail Gorbachev hoặc như bị lật đổ như Nicolae Ceausescu, Erich Honecker chứ không có chọn lựa thứ ba nào.

  1. T. T.Đ.

Nguồn: FB Trần Trung Đạo

Posted on 12/23/2015

Trước thềm Đại hội 12

Trước thềm Đại hội 12

BVN

Lê Phú Khải – một người ngoài Đảng

23-12-2015

Nhiều người quan tâm đến tình hình đất nước đã hỏi tôi: “Theo ý anh, ai trong Bộ Chính trị hiện nay sẽ làm Tổng bí thư tại Đại hội 12 sắp tới là tốt nhất?”.

Tôi trả lời: “Trong gần bốn triệu đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay, có nhiều người tài giỏi và có đức, yêu nước thực lòng. Nếu để ứng cử tự do và bầu phổ thông đầu phiếu trong toàn Đảng thì sẽ chọn được một Tổng bí thư xứng đáng, dân được nhờ. Nếu chỉ chọn trong Bộ Chính trị, hay Ban Chấp hành Trung ương thì… Bác Hồ sẽ là… người Thanh Hóa!”.

Nhiều người đã rất ngạc nhiên. Nhiều người còn mắng tôi: “Thấy ông là nhà báo mới hỏi, sao lại…?”.

Tôi bèn kể cho họ nghe câu chuyện “Bác Hồ là người Thanh Hóa”. Chuyện như sau: Có bốn anh bộ đội đi chơi với nhau. Một anh quê ở Nghệ An, ba anh kia quê ở Thanh Hóa. Anh quê Nghệ An nói: “Bác Hồ là người quê choa”. Một anh quê Thanh Hóa nói: “Không phải, Bác Hồ là người quê tôi!”.

Thế là cãi nhau. Cuối cùng phải bỏ phiếu. Kết quả: Bác Hồ là người Thanh Hóa, vì ba anh anh Thanh Hóa đều bỏ phiếu Bác là người quê mình. Rõ ràng dân chủ, công khai, minh bạch, thiểu số phục tùng đa số: Bác Hồ vẫn là người Thanh Hóa.

Phương Tây văn minh trải qua những vận động đi lên của lịch sử đã gọi cái đa số trong câu chuyện kể trên là đa số thiểu số (majorité minimal). Nguyên tắc tập trung dân chủ, thực chất là mất dân chủ ngay trong Đảng đã tạo ra cái đa số tối thiểu ấy. Nhiều lần đại hội mất dân chủ, đã dẫn đến nông nỗi này cho Đảng hôm nay… phải họp Trung ương liên tục, họp mãi vẫn chưa tìm được “lãnh tụ” xứng tầm.

Năm 2015, tính ra có đến 6993 cái đại hội trong cả nước. Này nhé, 63 tỉnh thành là 63 cái đại hội tỉnh đảng bộ. Mỗi tỉnh ước tính có 10 huyện thị, vị chi là có 630 cái đại hội huyện đảng bộ, mỗi huyện ước tính có 10 xã. Vậy ước tính cả nước có 6993 cái đại hội. Đó là chưa kể các đại hội của các ngành ở Trung ương. Đại hội nào cũng cờ dong trống mở, chăng đèn kết hoa xanh đỏ tím vàng như sân khấu cải lương chèo tuồng! Cả ăn uống liên hoan nữa. Tất cả đều lấy từ ngân sách nhà nước, từ thuế của dân để chi… Vậy mà vẫn không tìm ra được người tài đức để cứu Đảng cứu nước!

Cái nguyên tắc tập trung dân chủ thật là đáng sợ, thật là đại bi kịch cho đảng cầm quyền. 

L. P. K.

Tác giả gửi BVN.

Posted on 12/22/2015

MỘT TRẺ SƠ SINH BỌC TÃ, NẰM TRONG MÁNG CỎ

MỘT TRẺ SƠ SINH BỌC TÃ, NẰM TRONG MÁNG CỎ

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Ngày nay, nói đến Noel là cả người giáo lẫn lương đều nghĩ ngay tới hang đá, máng cỏ, đèn sao, nghĩ  tới các nhân vật trong hang đá là Chúa Hài Đồng Giêsu, Thánh Giuse, Mẹ Maria, các Thiên thần, các mục đồng và chiên bò lừa.  Hang đá gợi nhớ cảnh giáng sinh nghèo khó của Con Thiên Chúa làm người.  Chính Thiên Thần loan báo cho các mục đồng: ‘‘Anh em cứ dấu này mà nhận ra Đấng Cứu Thế: Anh em sẽ thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2, 12).  Đấng Kitô là Đức Chúa, thật khiêm nhường hạ sinh trong máng cỏ bò lừa ngoài đồng vắng giá rét đêm đông.  Ngài là Thiên Chúa, Đấng duy nhất có quyền kiểm tra dân số (2 Sm 24, 10) nhưng đã cùng với cha mẹ tuân lệnh hoàng đế Augúttô đi khai dân số (Lc 2, 5).  Ngài là Thiên Chúa, không chọn sinh ra trong cung điện cao sang nhưng lại sinh ra “trong máng cỏ”, ngoài đồng vắng “vì hai ông bà không tìm được chỗ trọ” (Lc 2, 7).

Thánh Phanxicô Assisi đã làm máng cỏ đầu tiên vào năm 1223.  Từ Rôma về Assidi để mừng lễ Noel, ngài nói với các thầy: “để thể hiện nỗi cơ cực và khổ đau của Chúa ngay từ lúc còn thơ để cứu chuộc nhân loại, chúng ta hãy làm một hang đá giống như thật với cỏ khô, rồi chúng ta dẫn một con lừa và một con bò vào để cho giống với con bò con lừa đã chầu quanh Chúa Hài Đồng năm xưa.”  Từ đó mỗi dịp Noel về là khắp nơi trên thế giới đều làm hang đá, máng cỏ.

Bên Hang Đá, thinh lặng chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu giang đôi tay chúc lành; Máng Cỏ Bêlem tỏ bày nhiều ý nghĩa.

  1. Máng Cỏ tỏ bày một Thiên Chúa yếu đuối

Hài nhi nằm trong máng cỏ biểu thị sự yếu đuối của Thiên Chúa.  Một sự yếu đuối mà Người đã tự ý chọn lựa.  Thiên Chúa trong hình hài một bé thơ.  Một Thiên Chúa yếu đuối.  Trí khôn con người không thể nào hiểu và chấp nhận nổi.  Mọi lý luận đều bất lực trước nghịch lý thần linh này.  Thiên Chúa Đấng khôn tả của triết học bỗng dưng trở thành diễn tả được. Thiên Chúa Đấng vô hình của tôn giáo đã chọn cho mình một thể thức xuất hiện hữu hình.  Thiên Chúa Đấng cứu độ đã mạc khải qua các ngôn sứ giờ đây ngỏ lời trực tiếp với con người qua Hài Nhi bé bỏng nắm trong Máng Cỏ.  Chúng ta hãy từ bỏ ngôn ngữ của lý tính ở đây và thinh lặng để cho con tim thán phục.  May chi ngôn ngữ tình yêu có thể bập bẹ đuợc điều gì đó chăng?  Quả thực, sự yếu đuối của Thiên Chúa là sự yếu đuối của tình yêu.  Tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ dưới những hình thức khác nhau, như lòng thương xót, lòng trắc ẩn và sự âu yếm.  Một Thiên Chúa uy quyền trong sự yếu đuối của tình thương…Chúa Giêsu, Vua Vũ Trụ lên ngôi trên thập giá.  Thành công cuối cùng của Chúa Cứu Thế là sự phục sinh nằm bên kia cái chết, và con đường dẫn tới đó phải khởi đi từ Máng Cỏ đến Núi Sọ (Lm Nguyễn Hồng Giáo).

Tại miền Nam nước Pháp, có một máng cỏ khá nổi tiếng.  Trong số các nhân vật đứng và quì nơi máng cỏ này, du khách thường chú ý tới một con người nhỏ bé với hai bàn tay trống trơn và mở rộng, nhưng gương mặt lại để lộ một vẻ ngạc nhiên khó mà diễn tả nổi.  Vì thế, người ta đã đặt cho nhân vật này cái tên gọi là Ngạc Nhiên.  Dân địa phương thường giải thích về sự ngạc nhiên của anh bằng một mẩu chuyện như sau.

Hôm đó, tất cả các nhân vật nơi máng cỏ, kể cả mấy chú bò lừa đều tỏ ra khó chịu đối với anh, bởi vì anh không có gì để mang tặng cho Chúa Hài Nhi, ngoài hai bàn tay trống trơn của mình. Và thế là họ bắt đầu xỉ vả anh:

– Mày không biết xấu hổ hay sao?  Mày đến thăm Chúa Hài Nhi mà không mang theo gì cả ư?

Thế nhưng, anh không để lộ một phản ứng nào, ngoài cặp mắt mở to và chăm chú nhìn vào Hài Nhi Giêsu.  Những lời rủa xả vẫn cứ tiếp tục trút xuống trên anh, đến nỗi Mẹ Maria phải lên tiếng bênh vực cho anh.

Quả thực, mặc dù đã đến với Chúa Hài Nhi bằng đôi bàn tay trắng, thế nhưng anh đã mang tới một món quà cao đẹp nhất, đó là sự ngạc nhiên của anh.  Điều này có nghĩa là Tình Yêu bao la của Thiên Chúa đã chiếm trọn tâm tư anh.  Và Mẹ Maria đã kết luận như sau:

– Thế giới này sẽ kỳ diệu biết bao nếu như luôn có những người giống anh, biết ngây ngất và ngạc nhiên trước quyền năng và tình thương vô biên của Thiên Chúa.

Trước Máng Cỏ Bêlem, thật ngạc nhiên, chúng ta sẽ khám phá ra tình thương bao la của Thiên Chúa.  Lời hứa từ thuở ban sơ, hôm nay đã được thực hiện.  Thiên Chúa tỏ bày tình thương bằng cách trao ban chính Con Một của Ngài cho nhân loại.  Thánh Phaolô diễn tả: Thiên Chúa bước xuống phận con người, để con người tiến lên ngôi Thiên Chúa.

  1. Máng Cỏ tỏ bày một Thiên Chúa Tình Yêu

Trong đêm Giáng Sinh, Sứ thần loan báo cho các mục đồng: “Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa” (Lc 2, 11).  Khung cảnh thật đơn sơ, thanh bạch, nghèo hèn: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2, 12).

Mẹ Maria và Thánh Giuse vất vả một hành trình xa xôi từ Nadarét về Bêlem để kê khai nhân hộ khẩu.  Các quán trọ khinh người nghèo hất hủi.  Hài Nhi Giêsu chào đời nơi đồng hoang giá lạnh.  Chẳng có ai thân thích. Chỉ có các mục đồng và bò lừa sưởi ấm.

Chẳng có gì kỳ diệu, không có gì ngoại thường, không có gì huy hoàng được trưng dẫn như một dấu chỉ cho những mục đồng.  Tất cả những gì họ thấy chỉ là một Hài Nhi bọc tã, một hài nhi như bao hài nhi khác, cần sự chăm sóc của người mẹ; một Hài Nhi sinh ra trong chuồng súc vật, và như thế, không nằm trong nôi nhưng là trong máng cỏ.  Dấu chỉ của Thiên Chúa là một hài nhi cần sự trợ giúp và đang sống trong nghèo khó.  Chỉ bằng con tim, những mục đồng mới có thể thấy nơi hài nhi này sự viên mãn lời hứa của tiên tri Isaia: “Một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta.  Người gánh vác quyền bính trên vai” (Is 9, 5).

Dấu chỉ của Thiên Chúa thật là đơn sơ.  Đó là một Hài Nhi mới sinh.  Dấu chỉ của Thiên Chúa là Ngài trở nên bé nhỏ vì chúng ta.  Ngài không đến với quyền lực và một bề ngoài xa hoa.  Ngài đến như một hài nhi cần sự giúp đỡ của chúng ta.  Ngài không muốn choáng ngợp chúng ta với sức mạnh của Ngài.  Vì thế, Ngài đã hóa chính mình thành nhỏ bé.  Ngài không muốn điều gì khác nơi ta ngoại trừ tình yêu, qua đó chúng ta phải học biết cách tiếp cận với cảm giác, tư duy và ý chí của Ngài.  Chúng ta học biết sống với Ngài và thực hành với Ngài sự khiêm hạ từ bỏ mình là điều tinh túy nhất của tình yêu.  Ngài đã hóa thành nhỏ bé để chúng ta có thể hiểu Ngài, chào đón Ngài, và yêu thương Ngài.

  1. Máng Cỏ tỏ bày một Thiên Chúa Cứu Độ

Theo Thánh Kinh, biến cố lớn nhất đánh dấu lịch sử nhân loại là Thiên Chúa làm người vì tình yêu. Hài Nhi Giêsu ra đời trong cảnh nghèo hèn chính là một vị Thiên sai.  Ngài đã cắt đôi dòng lịch sử loài người thành hai phần: trước công nguyên và sau công nguyên.  Em bé ấy không phải là một nhà bác học, không phải là một nhạc sĩ mà chính là Thiên Chúa, là Ngôi Lời vĩnh cửu của Chúa Cha, Đấng cao sang, quyền năng, Đấng sáng tạo vũ trụ, hôm nay đã làm người.  Ngài giáng sinh làm người trong thân phận một em bé yếu ớt nằm trong máng cỏ hang lừa chứ không phải trong một cung điện sang trọng lầu son gác tía.

Thiên Chúa làm người trong thân phận một bé thơ yếu ớt nhưng chất chứa một tình yêu lớn lao.  Một trẻ thơ sinh ra vào một đêm đông giá rét trong hang đá bò lừa ngoài đồng hoang nghèo hèn.  Dưới con mắt người đương thời không những bình thường mà còn tầm thường hơn những trẻ thơ khác.  Nhưng sự chào đời của Hài Nhi Giêsu là một niềm vui cao cả, trọng đại, đặc biệt.  Một niềm vui khởi điểm cho mọi niềm vui và vượt lên trên mọi niềm vui.

Hài Nhi giáng sinh là một sự kiện đặc biệt của lịch sử nhân loại, là sự “hoàn tất” Lời Hứa của Thiên Chúa, là trung tâm của nhiệm cuộc cứu độ của Thiên Chúa, là đỉnh cao và là chủ đích của Thánh Kinh.

Chính nơi Ngôi Lời Nhập Thể, Thiên Chúa đã hoàn toàn tỏ mình và ban chính mình cho nhân loại. Ngôi Lời Nhập Thể là tuyệt đỉnh thời gian viên mãn đối với Ba Ngôi Thiên Chúa.

Hài Nhi Giêsu đã trở nên một sự tái tạo mới.  Tái tạo khởi đi từ tha thứ và yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Cứu Độ làm nên trọng tâm sứ điệp của đức tin Kitô giáo.  Từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, Giáo Hội công bố niềm tin ấy dọc dài thời gian giữa những thách đố của thế giới.  Giáo Hội uỷ thác cho con cái mình như kho tàng quí giá để gìn giữ và chia sẻ cho người khác. Nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng sinh ra tại Bêlem, Thiên Chúa nhận lấy thân phận con người, để chúng ta có thể đến được với Thiên Chúa và để thiết lập giao ước với loài người và con người giao ước liên đới với nhau.

Giáng Sinh trở thành một đại lễ của nhân loại.  Giáng Sinh là ngày hội lớn duy nhất trên trái đất được đón mừng bởi mọi quốc gia, mọi sắc tộc, mọi tầng lớp xã hội.  Từ núi cao, trong rừng sâu, xuống đồng bằng, vào thị tứ giàu sang…. Qua đủ mọi hình thức: nhóm vài cây củi trên rừng, thắp ngọn nến đơn sơ trong ngôi nhà thờ bé nhỏ nghèo nàn vùng quê hẻo lánh, hay trăm ngàn ánh đèn muôn mầu rực rỡ chốn đô hội văn minh tráng lệ, khắp nơi đón mừng và cùng hát lên tâm tình:

“Vinh danh Thiên Chúa trên trời

Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2, 14)

Giáng Sinh, đất trời giao duyên trong hôn phối nhiệm mầu của tình yêu cứu độ. Thiên Chúa làm người, nối nhịp cầu tương giao giữa Thiên Chúa và nhân loại, bắc nhịp cầu nối liền giữa con người với nhau.  Thiên Chúa yêu thương con người và muốn mọi người đáp lại bằng lòng yêu mến Ngài và yêu thương nhau.  Máng Cỏ luôn làm cho con người thổn thức bùi ngùi xúc động, vì đối diện với một Tình Yêu khiêm tốn.  Máng Cỏ mang ý nghĩa của thập giá và hướng về mầu nhiệm Thánh Thể.  Qua Hài Nhi Giêsu trong Máng Cỏ Bêlem, chúng ta hiểu được phần nào tâm tình của Thiên Chúa muốn ngỏ với loài người.  Qua Máng Cỏ Bêlem, Thiên Chúa trở nên thật gần gũi và đáng yêu.  Từ suối nguồn yêu thương của Thiên Chúa “tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1, 16).  Tình yêu thương ấy là ánh sáng soi đường và là ngọn lửa sưởi ấm tâm hồn chúng ta.  Niềm vui giáng sinh không nhất thiết phải đến từ những bữa tiệc thịnh soạn hay khung cảnh huy hoàng lộng lẫy bên ngoài.  Niềm vui giáng sinh đến từ nội tâm khi chiêm ngắm Máng Cỏ Bêlem.  Noel này, bạn hãy dừng lại nơi hang đá máng cỏ, dành thời gian thinh lặng để ngắm nhìn và suy niệm, bạn sẽ khám phá thật nhiều sự kỳ diệu của tình yêu Thiên Chúa nhập thể làm người và ở cùng chúng ta.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Posted on 12/22/2015

Công lý ở Việt Nam và lá thư 127

Công lý ở Việt Nam và lá thư 127

Kính Hòa, phóng viên RFA
2015-12-21

  • RFA

Cái gọi là công lý ở Việt Nam và lá thư 127 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

000_Hkg8587979

Sinh viên Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha tại Tòa án Long An hôm 16/5/2013.

AFP photo

Your browser does not support the audio element.

Pháp luật nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Luật sư Nguyễn Văn Đài bị bắt giữ theo điều luật 88 bộ luật hình sự của Việt Nam, phạt tù những người được cho là tuyên truyền chống phá nhà nước. Vậy là người luật sư vốn nổi tiếng với những vụ án chính trị, bước vào nhà tù lần thứ hai.

Báo chí chính thống của nhà nước đồng loạt đưa tin này.

Luật sư Lê Công Định, người từng là tù nhân chính trị nhận xét:

Trong tất cả bản tin được báo lề phải đưa về vụ bắt giam và khởi tố anh Nguyễn Văn Đài hôm nay, đều có đoạn: “Bản thân Nguyễn Văn Đài đã nhận 60.000 USD của các Tổ chức “Mạng lưới nhân quyền Việt Nam”, “Họp mặt dân chủ”, “Ủy ban cứu trợ thuyền nhân Việt Nam” ở Mỹ.”

Mục đích của lối đưa tin như vậy là nhằm định hướng dư luận (ngây thơ) rằng anh Đài đã câu kết và dùng tiền của “nước ngoài” để chống phá nhà nước.

Về phương diện pháp lý, việc nhận tiền như vậy (nếu có) hoàn toàn không vi phạm pháp luật Việt Nam hiện hành. Hành vi nhận tiền duy nhất bất hợp pháp và bị xem là tội phạm hình sự theo luật định, chính là tham nhũng.

Điều luật 88 của bộ luật hình sự vốn bị nhiều chỉ trích là không rõ ràng nhằm mục đích trấn áp các tiếng nói đối lập, những người bất đồng chính kiến với đảng cộng sản. Điều 88 cùng với nhiều điều luật khác được cho là đặt ra để tạo điều kiện cho sự lạm dụng quyền lực. Bình luận về cụm từ chống phá nhà nước trong điều luật này, blogger Nguyến Đình Ấm viết rằng nhà nước của đảng cộng sản hiện nay vốn chịu nhiều trách nhiệm về sự mất mát lãnh thổ của dân tộc, và làm hại dân, do vậy nếu căn cứ theo chính những lời nói của ông Hồ Chí Minh, người thành lập đảng, rằng dân có quyền đuổi nhà nước, thì việc chống đối lại nhà nước này là một điều chính đáng.

Trên nhiều trang mạng xã hội, các trang blog đã bắt đầu xuất hiện cuộc vận động đòi thả luật sư Đài.

Blogger Nguyễn Lân Thắng viết:

Quyền lực chỉ có giá trị khi có sự đồng ý…
Im lặng là sự đồng ý…
Nếu mỗi người không tự nói lên chính kiến của mình thì tức là bạn đã chấp nhận thứ quyền lực độc tôn, độc tài mà đảng cộng sản Việt Nam đang áp đặt lên đầu chúng ta thông qua nhà tù và còng số 8…
Càng nhiều người phản đối, chúng ta càng mạnh lên, kẻ độc tài sẽ đến lúc phải bỏ chạy…

Phản đối điều luật 88 bộ luật hình sự
Phản đối tất cả những điều luật hòng lấy đi quyền con người của chúng ta
Đảng cộng sản Việt Nam phải trả lại quyền lực cho nhân dân !

Trước khi luật sư Đài bị bắt một vài hôm, một vụ án khác cũng lôi kéo được sự chú ý của các blogger, đó là vụ án Nguyễn Viết Dũng. Anh Dũng tham gia cuộc tuần hành bảo vệ cây xanh tại Hà nội vào tháng tư năm nay, và trong cuộc tuần hành đó anh có đeo trên người huy hiệu của quân lực Việt Nam Cộng hòa. Người ta cho rằng việc đeo huy hiệu đó là lý do chính khiến anh bị bắt và truy tố. Nhưng trớ trêu một nỗi là trong pháp luật Việt Nam lại không có điều luật nào liên quan đến những huy hiệu này, vì thế tại phiên toàn anh bị xử tội gây rối trật tự công cộng.

Tại phiên tòa xử anh Dũng một luật sư của anh bị đuổi ra ngoài vì những yêu cầu trưng bằng chứng, ba luật sư còn lại bỏ ra khỏi tòa để phản đối. Người bị tòa án đuổi ra là luật sư Lê Văn Luân, ông viết rằng:

Phiên tòa không một nhân chứng, không vật chứng. Luật sư cũng không thể bào chữa, bị cáo thì đã báo không đủ sức khỏe tại phần đầu phiên tòa, dù được đo huyết áp ngay tại phiên tòa nhưng bác sỹ lại “báo kín” với chủ tọa mà không ra công khai tình trạng sức khỏe của bị cáo tại phiên tòa cho bị cáo và các luật sư được biết.

“ Não thiếu kiến thức luật pháp, đôi mắt mù loà ánh sáng công lý, chân tay bị trói chặt vào định hướng hoang đường, thì có khác gì con lừa bị kéo lê đi giữa đêm tối?
– Luật sư Lê Công Định “

Luật sư Lê Công Định nhận định về tòa án và các quan tòa Việt Nam hiện nay:

Nghe tường thuật về phiên toà xử Nguyễn Viết Dũng hôm qua và qua kinh nghiệm đã có trong các phiên toà chính trị khác, thấy thật thương cho thân phận con rối của các thẩm phán Việt Nam.

Não thiếu kiến thức luật pháp, đôi mắt mù loà ánh sáng công lý, chân tay bị trói chặt vào định hướng hoang đường, thì có khác gì con lừa bị kéo lê đi giữa đêm tối?

Blogger Nguyễn Tường Thụy viết bài Nền tư pháp Việt Nam tiếp tục nhạo báng công lý. Trong bài viết này ông đặt câu hỏi tại sao anh Dũng đi tuần hành ôn hòa cùng hàng trăm người khác mà chỉ mỗi mình anh bị truy tố! Câu trả lời của ông là nhà nước Việt Nam bỏ tù những người làm cho họ khó chịu chứ không phải vì hành động họ làm. Trong trường hợp anh Nguyễn Viết Dũng, việc đeo phù hiệu Việt Nam cộng hòa đã làm cho nhà cầm quyền khó chịu. Blogger Nguyễn Tường Thụy viết tiếp:

Vâng, nền tư pháp của Việt Nam vốn là như vậy. Truy tố hay không, kết án ở mức nào lại còn tùy thích. Cáo trạng thì gần như sao nguyên kết luận điều tra, bản án lại gần như sao nguyên cáo trạng. Thế mà cũng bày đặt ra công an, kiểm sát, tòa án. Sống trong xã hội Việt Nam đầy những bất an, chẳng biết đằng nào mà lần.

Một vụ án khác không liên quan đến chính trị là vụ tranh cãi nhau giữa một người bán quán và công ty nước giải khác Tân Hiệp Phát. Người bán quán phát hiện thấy chai nước của Tân Hiệp Phát có chứa ruồi, và muốn Tân Hiệp Phát phải mua sự im lặng của ông bằng tiền. Ông bị bắt, và trong phiên tòa người ta thấy ông bị còng tay. Đây là một vụ việc dân sự, nhưng người ta cho rằng cơ quan chấp pháp đã đứng về phía kẻ có tiền là Tân Hiệp Phát để biến người bán quán thành kẻ phạm tội.

Bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, hay blogger Mẹ Nấm nhận xét là vụ án này được đưa ra với mong mỏi báo thù hơn là niềm tin công lý.

Trở lại với điều luật 88, một người tù chính trị từng bị truy tố bởi điều luật này vừa mãn hạn tù, đó là nhạc sĩ Việt Khang. Tác giả Thanh Tôn viết rằng chuyện nhà nước Việt Nam bỏ tù nhạc sĩ Việt Khang là đỉnh cao của sự ô danh và chà đạp nhân quyền ở Việt Nam.

Lá thư 127

Một sự kiện lớn khác gây sự chú ý trên không gian mạng, tuy không được báo chí nhà nước đưa tin, là 127 nhân sĩ trí thức Việt Nam ký tên một bức thư ngỏ yêu cầu đảng cộng sản Việt Nam từ bỏ chủ nghĩa cộng sản.

Nhiều người cho rằng đây là một sự kiện chưa có tiền lệ.

Những người đặt bút ký lá thư nêu rõ nguyên nhân làm họ thảo bức thư đó là:

Văn hóa xuống cấp; đạo đức xã hội bị băng hoại; nhân dân ngày càng mất lòng tin vào thể chế chính trị.

Sự phát triển của đất nước bị kìm hãm chủ yếu là do Đảng Cộng sản Việt Nam từ nhiều năm nay dẫn dắt cả dân tộc đi con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình Xô-viết dựa trên chủ nghĩa Mác – Lênin. Trên con đường đó, trong vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam bám giữ thể chế độc tài toàn trị với bộ máy cầm quyền hết sức nặng nề, thiên về dùng bạo lực và dối trá, vi phạm nhiều quyền tự do dân chủ và lợi ích chính đáng của nhân dân, tạo thuận lợi cho tệ tham nhũng, ức hiếp dân và sự thao túng của các nhóm lợi ích bất chính. Đường lối sai lầm theo ý thức hệ cùng với bộ máy cầm quyền nhiều khuyết tật cũng không dựa vào sức mạnh của toàn dân tộc để có đối sách đúng đắn bảo vệ độc lập, chủ quyền chống mưu đồ và hành vi bành trướng của Trung Quốc.

Trong một bài viết khác, Giáo sư Nguyễn Đình Cống, một trong 127 vị nhân sĩ trí thức, giải thích rõ hơn nguyên nhân cộng sản của sự xuống cấp về đạo đức xã hội ở Việt Nam hiện nay:

Đảng Cộng Sản cũng nói đạo đức, nhưng đó là đạo đức cách mạng dựa trên sự đấu tranh để bảo vệ chế độ, bảo vệ đảng chứ không phải là đạo đức để làm người lương thiện.

“ Đảng Cộng Sản cũng nói đạo đức, nhưng đó là đạo đức cách mạng dựa trên sự đấu tranh để bảo vệ chế độ, bảo vệ đảng chứ không phải là đạo đức để làm người lương thiện.
– Giáo sư Nguyễn Đình Cống”

Sự toàn trị của Đảng Cộng Sản, ngoài việc  tạo ra sự suy đồi đạo đức thì còn tạo ra một hệ thống luật pháp và đội ngũ  thi hành kém hiệu quả. Luật pháp thiếu trong sáng và nghiêm minh, tạo ra nhiều oan sai cho dân lành và tạo  điều kiện cho một số người lợi dụng. Không những thế ĐCS còn đặt mình cao hơn luật pháp, làm cho pháp luật mất tính thiêng liêng.

Không thấy lá thư yêu cầu một thể chế chính trị có nhiều đảng phái cạnh tranh với nhau, nhưng bức thư cũng nêu rõ là việc cải cách thể chế là từng bước, và đảng cộng sản Việt Nam phải xúc tiến ban hành Luật về các đảng phái chính trị và đảng cầm quyền.

Tuy nhiên có nhiều blogger không tin vào sự hữu hiệu của lá thư ngỏ của 127 nhân sĩ trí thức. Nhà văn Phạm Thành, hay blogger Bà Đầm Xòe viết:

Đặt hiện thực nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam qua 70 năm cộng sản cầm quyền  làm nền tảng cho bất kỳ một ý kiến hay một luận thuyết nào cho con đường phát triển của Việt Nam mới là người hiểu, người biết và người hành động. Còn cứ loay hoay với ước muốn mong đảng thay đổi, rồi góp ý chân thành, tâm huyết thì giá trị của những việc làm này còn thua xa với ước nguyện thay đổi của những dân oan ngày ngày bám trụ đòi quyền lợi trên các ngõ đường, góc phố của đất nước.

Một trí thức Việt Nam sống ở nước ngoài là ông Lê Minh Nguyên cũng không tin rằng lá thư có thể đưa đến một kết quả thực tế nào:

Giai tầng trí thức trong nước, nhất là trí thức của thế hệ đi trước, có lòng và có sự cố gắng trong khả năng của sự đối lập trung thành. Tuy nhiên sự thay đổi thực sự và ôn hoà thường bắt đầu từ đường phố như ở Ba Lan hơn là từ bàn phím, nhưng CS đã tìm cách ngăn chận điều này từ trong trứng nước. Người viết vẫn hy vọng lá thư này sẽ mang đến một sự thay đổi nào đó có ý nghĩa cho dân tộc Việt Nam chứ không phải là một câu chuyện tình trong Hồn Bướm Mơ Tiên.

Điều mà ông Lê Minh Nguyên cho rằng phong trào dân chủ tại Việt Nam còn thiếu cũng chính là điều blogger Nguyễn Vũ Bình hiện sống ở Hà nội quan tâm là tổ chức của các nhóm đối lập vẫn thực sự chưa tồn tại.

Hiện vẫn chưa thấy phản hồi gì từ phía nhà nước của đảng cộng sản Việt Nam về lá thư 127, và cũng có thể là đảng cộng sản vẫn sẽ im lặng như những kiến nghị yêu cầu sửa đổi Hiếp pháp trước đây.

Để kết thúc chúng tôi xin trích dẫn ra đây hai nhận định của hai blogger. Một người nói về bộ máy chính quyền, còn người kia nói về không gian xã hội.

Blogger Người Buôn gió quan sát thấy bộ máy cồng kềnh của đảng đã tạo nên những món nợ kinh khủng mà thời gian qua nhiều cơ quan đảng đã hết sạch tiền. Trước cảnh vỡ nợ, Người Buôn Gió nhận xét viễn cảnh bộ máy quyền lực của Việt Nam như sau:

Sớm muộn gì cũng phải đến hạn trả nợ, lúc ấy sẽ là hết Đảng CSVN. Các uỷ viên trung ương Đảng ở hội nghị lần thứ 13 này, tất nhiên hiểu rõ tính chất tương lai là như vậy. Nhiệm kỳ của các trung ương uỷ viên Đảng CSVN trong 5 năm tới đây sẽ chia làm hai loại.  Một loại chú trọng tích luỹ tiền bạc để trở thành những nhà tư bản khi chế độ CNXH sụp đổ. Một loại chú trọng làm việc minh bạch, khách quan, lấy tiếng để trở thành những chính trị gia cho một chế độ tương lai. Sẽ không ngạc nhiên khi thấy ở năm tới đây hàng ngũ cộng sản VN có nhiều kẻ vội vã vơ vét nhưng cũng nhiều kẻ tỏ vẻ thanh bạch, trong sáng, có nhiệt huyết. Một bức tranh nhiều mầu sắc trái ngược nhau sẽ diễn ra trên chính trường Việt Nam sau đại hội đảng lần thứ 12 trở đi.

Blogger thứ hai là Giáo sư Jonathan London cho rằng xã hội Việt Nam đang được tự do nhất kể từ khi đảng cộng sản cầm quyền đến nay, tuy nhiên không vì thế mà bộ máy đàn áp đã biến mất. Sau đây là nhận xét về cái mà ông gọi là phạm vi không gian chính trị công cộng ở Việt Nam:

Thứ nhất, rõ ràng sự nổi lên của Internet đã và đang đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của nó. Thứ hai, không nên phóng đại sự phát triển của phạm vi công cộng chính trị Việt Nam. Bộ máy vẫn đang thống trị hầu như tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Dù công dân ngày càng sẵn sàng chia sẻ chính kiến​ ​thì vẫn có nguy cơ phải gánh chịu áp lực của bộ máy an ninh.

Ông kết luận rằng thực trạng ấy hiện nay phản ánh những căng thẳng xã hội trong một giai đoạn lịch sử quan trọng, và thực trạng ấy sẽ đóng góp như thế nào cho sự phát triển chính trị của đất nước là còn chưa chắc chắn.

Posted on 12/21/2015

Việt Nam có cơ hội thắng không nếu kiện Trung Quốc đòi lại chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa?

Việt Nam có cơ hội thắng không nếu kiện Trung Quốc đòi lại chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa?

Ls Nguyễn Văn Thân

Trong tháng 8 năm 2014, Trung tâm Phân tích Hải quân Hoa Kỳ (Centre for Naval Analyses) đã xuất bản một tập sách dài 132 trang của Raul Pedrozo, một vị giáo sư luật quốc tế tại Naval War College. Mục đích của tập sách này là cung cấp những luận cứ pháp lý của cả hai bên Trung Quốc lẫn Việt Nam về chủ quyền tại Biển Đông cho giới lãnh đạo chính trị và quân sự Hoa Kỳ. Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã nhiều lần bày tỏ lập trường là Hoa Kỳ không đứng về phía nào trong cuộc tranh chấp chủ quyền nhưng kêu gọi các bên giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình và theo luật quốc tế.

Dựa trên những bằng chứng lịch sử và luận cứ mà hai bên nêu ra, Gs Pedrozo kết luận rằng yêu sách chủ quyền của Việt Nam về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có cơ sở vững chắc hơn Trung Quốc. Có thể tóm lược phần kết luận của Giáo Sư Pedrozo như sau: từ thế kỷ 18, Việt Nam đã rõ ràng biểu hiện ý chí thực hiện chủ quyền bằng cách thành lập các công ty và biệt đội dưới sự bảo trợ của nhà nước khai thác tài nguyên tại các quần đảo này. Ý chí này được thể hiện qua sự sáp nhập vào lãnh thổ và qua hình thức biểu tượng thụ đắc chủ quyền trong thế kỷ 19 và được củng cố bởi các hành động chiếm hữu hòa bình, quản trị hữu hiệu và liên tục của các vua nhà Nguyễn cho tới thời kỳ đô hộ Pháp. Sau đó, Pháp đã thay thế Việt Nam quản lý những hòn đảo này và đưa quân chiếm đóng trong thập niên 1930 cho tới khi Pháp rời Đông Dương vào năm 1956. Sau khi Pháp rút quân, Việt Nam Cộng Hòa kế thừa và sau đó là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tiếp tục hành xử chủ quyền ngay cả sau khi Trung Quốc đã chiếm đóng bất hợp pháp một phần các hòn đảo này trong năm 1956 và toàn vẹn Hoàng Sa từ năm 1974.

Trong khi đó, Trung Quốc chỉ bắt đầu để ý tới Hoàng Sa vào năm 1909, 2 thế kỷ sau khi Việt Nam đã thực hiện chủ quyền trên quần đảo này. Sự chiếm đóng của Trung Quốc vào năm 1956 và chiếm đóng bằng vũ lực vào năm 1974 rõ ràng vi phạm Điều 2(4) của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc 1945 và do đó Trung Quốc không thể xác lập chủ quyền hợp pháp với quần đảo Hoàng Sa.

Với Trường Sa, Pháp sáp nhập quần đảo này được xem là lãnh thổ vô chủ trong thập niên 1930. Vào thời điểm này, chiếm đóng bằng vũ lực còn là một phương thức hợp pháp vì Hiến Chương Liên Hiệp Quốc chưa ra đời. Anh Quốc kiểm soát một vài hòn đảo tại Trường Sa trong thập niên 1880 quyết định từ bỏ yêu sách chủ quyền sau khi Pháp sáp nhập và chiếm đóng. Do đó, chủ quyền Trường Sa của Pháp hoàn toàn hợp lệ theo luật quốc tế. Pháp chuyển nhượng chủ quyền sang Việt Nam Cộng Hòa trong thập niên 1950.

Tới năm 1956 thì Trung Hoa Dân Quốc chiếm đóng Đảo Ba Bình bất hợp pháp. Trung Quốc cũng chiếm đóng một vài đảo bất hợp pháp từ năm 1988. Những sự chiếm đóng này vi phạm Điều 2(4) của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và do đó không thể xác lập chủ quyền cho Đài Loan hoặc Trung Quốc. Trung Quốc không xác lập chủ quyền chỉ vì Trung Quốc đã liên tục phản đối chủ quyền của Việt Nam được Pháp chuyển nhượng theo luật quốc tế.

Bài phân tích của Gs Pedrozo có tầm quan trọng đặc biệt vì tính độc lập, khách quan, tổng hợp có hệ thống và tiêu chuẩn hàn lâm của nó. Gs Pedroza đã xem xét các công trình nghiên cứu của các học giả gồm có Ts Marwyn Samuel, Ts Greg Austin và Gs Monique Chemillier-Gendreau. Ts Marwyn Samuel là một học giả người Mỹ và là tác giả của quyển Tranh chấp ở Biển Đông (Contest in the South China Sea) xuất bản năm 1982 mà trong đó ông kết luận yêu sách chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa mạnh hơn của Việt Nam nhưng với Trường Sa thì lại đáng ngờ. Ts Greg Austin là giáo sư tại Viện Đông Tây (EastWest Institute) ở New York xuất bản cuốn Biên giới đại dương của Trung Quốc (China’s Ocean Frontier) năm 1998. Như Ts Samuel, Ts Austin cho rằng yêu sách chủ quyền của Trung Quốc mạnh hơn Việt Nam tại Hoàng Sa nhưng nhiều lắm chỉ bằng với những quốc gia khác đối với Trường Sa.

Bài phân tích của Gs Pedrozo chia sẻ quan điểm của Gs Monique Chemillier-Gendreau, tác giả của quyển Chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa xuất bản năm 2000. Bà là giáo sư danh dự của Đại học Paris Diderot về lãnh vực công pháp quốc tế.

Câu hỏi đặt ra là người dân Việt Nam có nắm vững những bằng chứng lịch sử và luận cứ pháp lý liên quan tới chủ quyền của Hoàng sa và Trường Sa hay không? Nếu không thì làm sao có thể bảo vệ chủ quyền của hai quần đảo này một cách hiệu quả? Quan trọng hơn, nhà cầm quyền Việt Nam đã chuẩn bị sẵn sàng hồ sơ pháp lý để tiến hành kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế đòi lại chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa hay chưa? Bằng không thì tới khi nào sự hiện diện và kiểm soát Hoàng Sa và một số đảo ở Trường Sa của Trung Quốc sẽ trở thành một sự thật không thể thay đổi được mà thế giới phải chấp nhận như chuyện đã rồi?

Các hình thức thụ đắc lãnh thổ

Có năm hình thức một quốc gia có thể thụ đắc lãnh thổ đó là khai hoang (accretion), chuyển nhượng (cession), chinh phục (conquest), tập quán (prescription) và chiếm hữu (occupation). Khai hoang xảy ra khi lãnh thổ được nới rộng qua tiến trình địa lý ví dụ như đảo mới hình thành vào cuối năm 2013 do phun trào núi lửa dưới đáy biển gần chuỗi đảo Ogasawara của Nhật Bản đã lớn nhanh gấp 70 lần trong bốn tháng. Chuyển nhượng là khi một quốc gia kế thừa lãnh thổ được chuyển lại từ một quốc gia có chủ quyền hợp pháp qua một hiệp ước. Quốc gia thu nhận không thể nhận hơn được những gì quốc gia chuyển nhượng có. Chinh phục là sự xâm chiếm lãnh thổ bằng vũ lực. Trong lịch sử thì phương pháp này được công nhận nhưng trở thành bất hợp pháp kể từ tháng 10 năm 1945 khi Hiến Chương Liên Hiệp Quốc bắt đầu có hiệu lực. Tập quán là khi một quốc gia chiếm đóng lãnh thổ của quốc gia khác và hành xử chủ quyền đối với lãnh thổ đó một cách công khai, hòa bình và liên tục qua một khoảng thời gian dài được xem như là không thay đổi được. Chiếm hữu là khi quốc gia chiếm đóng lãnh thổ vô chủ (terra nullius). Khám phá không chưa đủ mà phải thật sự chiếm đóng như phán quyết của tòa xác nhận trong vụ kiện Island of Palmas Case (Netherlands/USA) 1928. Chiếm hữu phải hội đủ hai yếu tố gồm có ý chí chiếm hữu và hành động chiếm hữu thật sự bao gồm các hình thức quản lý và cai trị như Tòa thẩm định trong vụ kiện Clipperton Island Arbitration (Mexico v France) 1931.

Mức độ quản trị có thể khác biệt tùy theo yếu tố địa lý và thiên nhiên. Luật quốc tế ghi nhận trong một vài trường hợp đặc biệt, quốc gia không nhất thiết phải hành xử chủ quyền tại bất cứ nơi nào và ở mọi thời điểm. Có lúc có thể có một sự gián đoạn nào đó đặc biệt là với lãnh thổ xa xôi có môi trường khắc nghiệt.

Luận cứ chủ quyền của Việt Nam

Việt Nam lập luận rằng là Việt Nam đã chiếm hữu và liên tục thực thi chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa từ thế kỷ 17. Việt Nam đưa ra các nguồn tài liệu chính thức của nhà nước Đại Nam gồm có Đại Nam thực lục tiền biên (1600 – 1775), Toàn tập Thiên Nam thống chí lộ đồ thư (1680 – 1705), Phủ biên tạp lục (1776), Đại Nam thực lục chính biên (1848), Đại Nam nhất thống chí (1865 – 1882), Lịch triều hiến chương ngoại chí (1821), Hoàng Việt địa dư chí (1833), Việt sử cương giám khảo luợc (1876), nhiều bản tấu trình, dụ của các vua và hàng loạt bản đồ trong thế kỷ 17, 18 và 19.

Bằng chứng chủ quyền lịch sử của Việt Nam được giới Tây phương xác nhận. Quyển Ghi chú địa lý Nam Kỳ (Note on the Georgraphy of Cochinchina) của nhà truyền giáo Pháp Monseigneur Jean-Louis Taberd xuất bản năm 1837 miêu tả Hoàng Sa như Bãi Cát Vàng và là một bộ phận của Nam Kỳ. Quyển sách thứ hai của tác giả mang tựa đề Lịch sử và khái niệm tôn giáo, phong tục và đạo lý của mọi người” (History and Description of the Religion, Customs and Morals of All Peoples) xuất bản năm 1838 ghi nhận Hoàng Sa đã trực thuộc Nam Kỳ trong suốt 34 năm trước đó.

Jean-Baptiste Chaigneau (1769-1832) là một người lính hải quân Pháp đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử Việt Nam vào thế kỷ 19. Ông theo Linh Mục Pigneau de Behaine phò Nguyễn Phúc Ánh giành lấy ngai vàng. Ông lấy tên Việt là Nguyễn Văn Thắng và làm quan trong triều đại nhà Nguyễn từ 1794 tới 1826, lấy vợ Việt là bà Hồ Thị Huệ và có một đứa con trai tên Nguyễn Văn Đức. Trong quyển hồi ký Memoires sur la Cochinchina, ông ghi lại là Hoàng Đế Gia Long đã chính thức sáp nhập Hoàng Sa vào năm 1816. Nhà truyền giáo Đức Karl Gutzlaff, tác giả của bài viết mang tựa Geography of the Cochinchinese Empire xuất bản năm 1849 xác nhận Hoàng Sa là một phần lãnh thổ của Việt Nam và trong đó có đoạn “Từ ngàn xưa, có nhiều người từ Hải Nam thường xuyên ghé thăm hàng năm rồi sau đó đi xuống tới Borneo. Chính quyền An Nam nhận thấy cần phải thu lệ phí và cho một đơn vị đồn trú thu tiền những người thăm viếng cũng như bảo vệ cho ngư dân Việt“.

Ngoài ra, luận cứ của Việt Nam cũng được một số tác giả Tây phương khác chứng thực như Nhà thám hiểm Pháp Adophe Philibet Dubois de Jancigny, Aldrino Balbi (Ý) tác giả cuốn The Italian Compendium of Georgraphy xuất bản năm 1850 và Khâm Sứ Pháp Le Fol trong lá thư ngày 22/1/1929 gửi Toàn quyền Pháp có ghi rõ là Hoàng đế Gia Long đã chính thức chiếm hữu Hoàng Sa vào năm 1816.

Phát triển kinh tế

Tài liệu sớm nhất mà Việt Nam đưa ra là Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư của Đỗ Bá viết vào thế kỷ 17. Đỗ Bá ghi lại Chúa Nguyễn đã lập Đội Hoàng Sa để khai thác quần đảo từ thế kỷ 17. Mỗi năm vào cuối tháng mùa Đông, Chúa Nguyễn cho một hạm đội gồm 18 thuyền đi ra đảo để thu thập vàng bạc, tiền tệ và súng đạn. Từ cửa Đại Chiêm ra tới đảo mất một ngày rưỡi nhưng nếu đi từ Sa Kỳ thì chỉ mất nửa ngày. Theo Sử gia Võ Long Tê, tuy sách của Đỗ Bá được viết vào năm 1686 nhưng có trích dẫn từ quyển Bản Đồ Hồng Đức. Hồng Đức là tên hiệu của vua Lê Thánh Tông (1460-1497). Có nghĩa là Việt Nam đã bắt đầu hành xử chủ quyền từ thế kỷ 15.

Một tài liệu quan trọng khác là Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn viết năm 1776. Lê Quý Đôn (1726 – 1784) sinh tại làng Diên Hà, tỉnh Thái Bình. Ông dự thi Hương và đỗ đầu giải nguyên lúc 17 tuổi. Ông làm quan thời nhà Lê và cũng là tác giả và biên tập của hàng chục quyển sách. Trong Phủ biên tạp lục, ông viết là “Chúa Nguyễn đã lập ra Đội Hoàng Sa gồm có 70 người. Hàng năm họ thay phiên nhau ra đảo khởi hành từ đầu tháng Giêng. Mỗi người được cấp 6 tháng lương khô. Họ tự do bắt chim, rùa và cá để ăn. Họ tìm thấy nhiều vật quý từ những chiếc tàu bị chìm như kiếm đồng, ngựa đồng, bạc, nhẫn và đồng bạc… Họ trở về trong tháng 8 và ghé Phú Xuân (Huế) để trao lại những vật quý cho vào kho. Sau đó họ được cấp chứng chỉ, thù lao và cho về nhà“.

Thành viên của Đội Hoàng Sa được miễn thuế và nhận tiền thưởng. Nhưng người nào trốn tránh trách nhiệm thì cũng bị trừng phạt nặng nề.

Tới đầu thế kỷ 18 thì các chuyến hải hành của Đội Hoàng Sa bị giảm từ 6 xuống 2 tháng. Lý do là thu nhập ngày càng ít.

Sau đó, triều đại Tây Sơn (1778 – 1802) tiếp tục các chuyến hải hành tới Hoàng Sa. Tây Sơn Thượng Tướng Công ra lệnh cho Chỉ huy Đội Hoàng Sa Hồi Đức Hầu dẫn 4 chiếc tàu đi ra Hoàng Sa để thu thập vàng, đồng, súng, rùa biển và những thứ quý giá khác mang về kinh thành. Những chuyến đi này cũng được nhắc tới trong quyển Hành trình tới Nam Kỳ của John Barrow (Anh) xuất bản năm 1806 ghi lại chuyến đi của Bá tước George Macartney tiếp kiến triều đình nhà Thanh.

Sự khai thác kinh tế một cách có hệ thống tiếp tục khi Bộ Kinh tế cấp bằng khai thác phosphate cho Lê Văn Cang vào năm 1956 tại các đảo Quang Anh, Hoàng Sa và Hữu Nhật cho tới năm 1964. Từ 1957 tới 1962, hơn 24.000 tấn phosphate được lấy từ các đảo này và chuyển đi cho một công ty ở Singapore (Yew Huatt). Tháng 7, 1973, Việt Nam cấp giấy phép cho một công ty Nhật khai thác phosphate tại Hoàng Sa nhưng không thi hành được vì bị Trung Quốc tấn công và chiếm hết quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974.

Quản trị hữu hiệu (effective administration)

Việt Nam từng bước chiếm hữu và hành xử chủ quyền tại Hoàng Sa. Năm 1816, vua Gia Long đã ra lệnh cho Đội Hoàng Sa và hải quân triều đình ra khảo sát, đo thủy lộ, cắm cờ và tiến hành nghi thức thượng kỳ trên đảo chính thức chiếm hữu. Bản đồ đầu tiên của nhà Nguyễn xuất bản năm 1830 bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa trong lãnh thổ Việt Nam. Ba năm sau tức 1833, vua Minh Mạng ra lệnh trồng cây và cột trên đảo để giúp thuyền buôn tránh bị mắc cạn. Năm 1834, vua sai Trương Phúc Sĩ dẫn 29 thủy thủ ra đảo để vẽ bản đồ. Năm 1835, vua hạ chỉ cho Đô Đốc Phạm Văn Nguyên đặt bia đá và xây chùa trên đảo. Năm 1836, vua ra lệnh cho Phạm Hữu Nhật đóng 10 cọc chủ quyền trên quần đảo với hàng chữ “Vua y lời tâu, phái suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật đem binh thuyền đi, chuẩn cho mang theo 10 cái bia gỗ, đến nơi đó dụng làm dấu ghi“. Mặt bài khắc những chữ “Minh Mạng thứ 17, năm Bính Thân, thủy quân Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật vâng mệnh đi Hoàng Sa trong nom đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ“.

Sau đó, thông tin thu thập được dùng để vẽ bản đồ chi tiết năm 1838 ghi rõ Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam. Ngoài ra, Việt Nam cũng trợ cứu chiếc tàu Gootebrok của Hòa Lan bị chìm gần Hoàng Sa năm 1634 và 3 chiếc tàu Hoà Lan khác trên đuờng từ Nhật đến Batavia vào năm 1714. Một chiếc tàu buôn của Pháp vào năm 1830 và tàu buôn Anh năm 1836 được chính quyền địa phương tại Đà Nẵng và Bình Định giúp đỡ cung cấp thức ăn và chỗ ở khi tàu của họ bị đắm.

Thời kỳ đô hộ

Pháp tấn công Việt Nam vào năm 1858. Hải quân Pháp chiếm Đà Nẵng và Gia Định (Sài gòn) vào năm 1858 và 1859. Hai năm sau, Việt Nam nhượng luôn ba tỉnh Biên Hoà, Gia Định và Định Tường cho Pháp cùng với đảo Côn Sơn theo Hòa ước Nhâm Tuất (1862). Nam Kỳ trở thành lãnh thổ của Pháp năm 1864. Một thập niên sau, Pháp tấn công Hà Nội và triều đình Huế ký Hòa ước Quý Mùi (1883) biến toàn bộ Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp.

Là nước bảo hộ, Pháp thừa kế mọi chủ quyền của Việt Nam. Tới 1920, nhân viên hải quan Pháp thường xuyên thanh tra Hoàng Sa để ngăn chận nạn buôn lậu vũ khí và bạch phiến. Công tác này tiếp tục trong thập niên 1930. Năm 1929, phái đoàn Pierre de Rouville đề nghị xây cất bốn hải đăng trên đảo Tri Tôn, đảo Linh Côn, đá Bắc và đá Bông Bay. Năm 1930, chính quyền Pháp ở Đông Dương cử phái đoàn đến treo cờ ở Hoàng Sa. Trung Quốc lên tiếng phản đối và Pháp đề nghị đưa vấn đề ra tòa án quốc tế nhưng Trung Quốc từ chối. Năm 1932, Toàn quyền Đông Dương Pierre Pasquier sáp nhập Hoàng Sa vào tỉnh Thừa Thiên, Huế. Năm 1937, Pháp đưa người ra đảo nghiên cứu việc xây cất trạm kiểm soát hàng hải và không lưu và cất hải đăng trên đảo Hoàng Sa (Pattle Island), một trong những đảo lớn ở quần đảo Hoàng Sa. Năm 1939, Toàn quyền Joseph Jules Brevie chia quần đảo Hoàng Sa thành hai nhóm: nhóm An Vĩnh (Amphramite) ở phía đông bắc và nhóm Lưỡi Liềm (Crescent) ở phía tây nam. Ngoài ra, Pháp và Việt Nam đóng quân cảnh sát thường trực trên đảo Hoàng Sa thuộc nhóm Lưỡi Liềm và đảo Phú Lâm (Woody Island) thuộc nhóm An Vĩnh. Quân Pháp và Việt Nam đóng quân tại Hoàng Sa tới 1946 nhưng có lúc bị gián đoạn vì bị quân Nhật chiếm đóng. Sau khi Nhật đầu hàng, Pháp và Trung Hoa Dân Quốc (Tưởng Giới Thạch) đồng ý là Pháp sẽ thay thế quân Tưởng thi hành nhiệm vụ giải giới quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra (bao gồm cả Hoàng Sa lẫn Trường Sa) trước ngày 31/3/1946. Quân Pháp trở lại Hoàng Sa trong tháng 6, 1946. Nhưng cuộc chiến với Việt Minh buộc quân Pháp rời Hoàng Sa trong tháng 9 năm đó.

Khi biết được quân của Tưởng Giới Thạch vẫn chưa rời Hoàng Sa sau khi giải giới quân Nhật, Pháp chính thức ra thông báo ngoại giao phản đối vào ngày 13/1/1947. Tàu chiến Le Tonkinois cũng được điều đến đảo Phú Lâm nhưng khi thấy quân số ít hơn, quân Pháp – Việt rút quân về đảo Hoàng Sa sửa chữa lại trạm khí tượng và biến nó thành trạm điện tín quốc tế 48860 vào năm 1947. Một lần nữa, Pháp đề nghị đưa tranh chấp ra Tòa án Quốc tế nhưng Trung Quốc từ chối. Lúc đó, Pháp cũng nghĩ tới việc đơn phương kiện Trung Quốc nhưng đình lại vì cho rằng kết quả sẽ tốt hơn khi Việt Nam có một thực thể pháp lý thống nhất. Năm 1953, Pháp đưa tàu do thám Ingenieur en chef Girod vào Hoàng Sa để khảo sát khí tượng, địa lý, địa chất và môi trường sinh thái.

Cùng lúc với các hành động củng cố chủ quyền tại Hoàng Sa, Pháp cũng đưa tàu De Lanessan tới khảo sát ở Trường Sa vào năm 1927. Năm 1930, tàu La Malicieuse đến Trường Sa và làm lễ thượng kỳ Pháp. Đây là hành động chiếm hữu và hành xử chủ quyền đầu tiên tại Trường Sa. Vào ngày 23/9/1930, Pháp gửi điện tín cho các cường quốc thông báo là Pháp đã chiếm hữu Trường Sa vô chủ.

Trong tháng 11, 1928, một công ty phosphate mới ở Bắc Kỳ xin phép khai thác phosphate ở Trường Sa. Sau đó, Pháp gửi các tàu Alerte, Astrobale và De Lanessan tới và thực sự chiếm đóng quần đảo Trường Sa trong tháng 4 năm 1933. Một trụ sở hành chánh được xây cất trên đảo Ba Bình trong tháng 12 và Toàn quyền Pasquier ký Nghị Định 4762-CP ngày 21/12/1933 sáp nhập Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa. Pháp cho xây một đài phát thanh và trạm khí tượng mang mã số quốc tế 48919 trên đảo Thị Tứ vào năm 1938 và quản lý các phương tiện này cho tới năm 1941 khi quân Nhật đổ quân lên chiếm đóng. Pháp cũng có nhiều công trình khảo sát khoa học hữu ích điển hình là Báo cáo thứ 22 của Viện Khí tượng Đông Dương năm 1934. Sau Đệ Nhị Thế Chiến, Pháp đưa tàu chiến Chevreud trở lại Trường Sa trong tháng 10 năm 1946 và dựng bia đá chủ quyền trên đảo Ba Bình. Khi biết quân Tưởng vẫn còn trụ lại trên đảo Ba Bình, Pháp đã gửi công hàm phản đối. Quân Tưởng rút lui nhưng lén lút trở lại chiếm đảo Ba Bình từ ngày 8/6/1956.

Việt Nam dần dần giành lại độc lập sau Đệ Nhị Thế Chiến. Vào ngày 11/3/1945, vua Bảo Đại tuyên bố độc lập nhưng thoái vị năm tháng sau đó vào ngày 19/8/1945, nhường quyền lãnh đạo cho Việt Minh lúc đó kiểm soát Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Ngày 2/9/1945, Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên Ngôn Độc Lập tại Ba Đình và thành lập Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH). Trong tháng 3, 1946, Pháp ký Hiệp ước sơ bộ với Hồ Chí Minh và đồng ý VNDCCH là một quốc gia độc lập trong Liên Bang Đông Dương và Khối Liên Hiệp Pháp. Vào ngày 8/3/1949, Pháp ký Hiệp ước Elysée với Quốc trưởng Bảo Đại công nhận Việt Nam là một nước độc lập nằm trong Liên Hiệp Pháp.

Vào ngày 14/10/1950, Pháp chính thức giao trả Hoàng Sa cho Việt Nam. Lễ bàn giao do Tướng Phan Văn Giáo chủ trì. Tại Hội Nghị San Francisco trong tháng 5, 1951, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần Văn Hữu (chính quyền Bảo Đại) xác nhận chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam trước đại diện 51 quốc gia mà không có ai lên tiếng phản đối.

Quân đội VNCH nhận lãnh trách nhiệm phòng thủ Hoàng Sa và Trường Sa trong tháng 8, 1956. Hải quân VNCH đổ quân lên các đảo Hoàng Sa trong tháng 4 và Hữu Nhật (Robert Island) trong tháng 7, 1956. Cũng trong năm đó thì Bộ Khai thác, Kỹ thuật và Tiểu công tiến hành khảo sát các đảo Hoàng Sa, Quang Ánh, Hữu Nhật và Duy Mộng (Drummond Island). Thủy quân lục chiến nhận nhiệm vụ phòng thủ đối với các đảo này tới 1959 khi trách nhiệm này được chuyển sang cho Quân Khu tỉnh Quảng Nam. Vào tháng 2, 1959, quân đội VNCH đuổi 80 ngư dân Trung Quốc cư ngụ bất hợp pháp trên đảo Quang Hòa (Duncan island) và chiếm đóng đảo này.

Năm 1960, Việt Nam bổ nhiệm Nguyễn Bá Thước làm chỉ huy dân sự đầu tiên đến quản lý Hoàng Sa. Sang năm 1961, quản lý hành chánh Hoàng Sa được chuyển từ Thừa Thiên lại cho Quảng Nam và nâng lên cấp xã. Trong tháng 5, 1971, VNCH tiến hành khảo sát đảo Tri Tôn nhưng Trung Quốc tiếp tục cho quân gây hấn buộc VNCH ra tuyên bố chính thức xác nhận chủ quyền của quần đảo Hoàng Sa. Vào ngày 21/1/1974, Trung Quốc đưa hải quân xâm chiếm Hoàng Sa và đẩy quân VNCH ra khỏi nhóm Lưỡi Liềm và chiếm đóng toàn bộ Hoàng Sa từ thời điểm đó.

Tương tự như ở Hoàng Sa, Việt Nam tiếp nối chủ quyền của Pháp tại Trường Sa và sáp nhập vào tỉnh Phước Tuy trong tháng 10, 1956. Từ 1961 tới 1963, hải quân VNCH từ các chiếc tàu Vạn Kiếp và Vân Đồn tiến hành đóng cọc chủ quyền tại các đảo Thị Tứ, Loại Ta, An Bang, Trường Sa, Song Tử Đông và Song Tử Tây. Sau 30/4/1975, bộ đội Bắc Việt tiếp thu quyền kiểm soát các đảo này từ hải quân VNCH. Trong tháng 3, 1976, CHXHCNVN sáp nhập Trường Sa vào tỉnh Đồng Nai.

Luận cứ của Việt Nam là Pháp Pháp đã chiếm hữu hợp pháp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong thập niên 1930 và sau đó chuyển lại cho VNCH. Sau 1975, lãnh thổ của VNCH chuyển lại cho CHXNCNVN. Do đó, Việt Nam hoàn toàn có chủ quyền hợp pháp đối với hai quần đảo này.

Luận cứ chủ quyền của Trung Quốc

Trong tháng 6, 2000, Bộ Ngoại giao Trung Quốc phổ biến văn bản mang tên Vấn đề Biển Nam Trung Hoa (The Issue of South China Sea) chính thức bày tỏ lập trường của Trung Quốc. Tóm tắt là Trung Quốc đòi hết chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa bao gồm lãnh hải chung quanh các đảo dựa trên một vài yếu tố gồm có bằng chứng lịch sử, khai thác kinh tế, quản trị hữu hiệu và sự công nhận của cộng đồng quốc tế.

Tài liệu mà Trung Quốc đua ra cho là bằng chứng lịch sử gồm có một số tác phẩm như Nam Châu dị vật chí (Những vật lạ ở Phương Nam) của Vạn Chấn thời Tam Quốc (220 – 280) viết dưới thời Hán Vũ Đế, Phù Nam truyện của Khang Thái viết cùng thời, Dị vật chí của Dương Phù thời Đông Hán (25 – 220), Lĩnh ngoại Đại Pháp của Chu Khứ Phi và Chư Phiên Chí của Triệu Nhữ Quát đời Tống (960 – 1279), Đảo di chí lược của Vương Đại Uyên đời Nguyên (1271 – 1368), Đông Tây dương khảo của Trương Nhiếp (1618), Vũ bị chí của Trịnh Hòa của Mao Nguyên Nghi (1628), Hải Lục của Vương Bình Nam (1820), Hải quốc độ chí của Ngụy Nguyên (1848) và Danh hoàn chí lược của Bành Ôn Chương (1848). Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng lập luận rằng các tấm bản đồ từ thời nhà Đường, Tống, Nguyên, Minh đã liệt kê Hoàng Sa và Trường Sa vào lãnh thổ Trung Quốc. Học giả Trung Quốc kết luận rằng ngư dân Trung Quốc là những người đầu tiên khám phá và đặt chân tới hai quần đảo này.

Khai thác kinh tế

Theo Bộ Ngoại giao, ngư dân Trung Quốc đã đánh cá tại Biển Đông từ thời nhà Tấn (265 – 420). Các chuyến hải hành được tổ chức từ thời nhà Minh (1368 – 1644). Ngư dân Trung Quốc sử dụng hải đồ hướng dẫn hải trình từ Hải Nam xuống Hoàng Sa và Trường Sa. Các học giả Trung Quốc cho rằng ngư dân Trung Quốc đã bắt đầu tổ chức các chuyến đi đánh cá hàng năm tại Biển Đông từ khi Trung Quốc Cộng Hòa (Trung Hoa Dân Quốc) ra đời năm 1912. Năm 1918, Okura Unosuke (Nhật) đã viết sách mang tựa Những hòn đảo bão tố (Stormy Islands) diễn tả cảnh ngư dân Trung Quốc sinh sống và trồng trọt trên đảo. Năm 1933, sử gia Ling Chungshen viết bài nhắc đến sự hiện diện của ngư dân Trung Quốc trên một số đảo tại Trường Sa. Mặc dù Bộ Ngoại giao nhìn nhận là sự hiện diện này không được chính quyền Trung Quốc bảo trợ nhưng các hoạt động đánh cá sau đó được nhà nước hỗ trợ. Hơn nữa, ngư dân phải đóng thuế và lệ phí để được quyền khai thác tại Trường Sa.

Năm 1910, triều đình nhà Thanh kêu gọi đấu thầu hợp đồng khai thác các đảo tại Biển Đông và thông lệ này tiếp diễn dưới thời Trung Hoa Dân Quốc (1912 – 1949) nhưng chỉ diễn ra tại Hoàng Sa. Năm 1949, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa của Mao Trạch Đông tiếp tục chính sách khai thác tại Biển Đông và phần lớn là tập trung tại Hoàng Sa. Trung Quốc đã nhiều lần và liên tục phản đối mọi sự khai thác kinh tế từ phía Việt Nam gồm có hợp đồng khai thác dầu khí giữa Việt Nam và Liên Xô vào năm 1980, giữa Petro Vietnam và Conoco một công ty năng lượng của Mỹ vào năm 1996, giữa Petro Vietnam và ONGC của Ấn Độ vào năm 2011 và giữa một nhóm công ty dầu khí Việt Nam và Gasprom của Nga. Tháng 5, 2014, Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng tranh chấp tại Hoàng Sa với sự hộ tống của nhiều tàu nhà nước trong đó có 7 tàu chiến.

Trung Quốc cũng đã sử dụng lực lượng hải quân ngăn cản ngư dân Việt Nam và Phi Luật Tân đánh cá trong vùng biển tranh chấp. Tháng 5, 2011, tàu Trung Quốc ngăn cản và cắt đứt dây cáp tàu Bình Minh của Việt Nam. Hai tuần sau đó, tàu Trung Quốc cố ý đâm vào tàu Viking II. Tháng 11, 2012, tàu Trung Quốc cắt dây cáp của tàu Bình Minh 02.

Quản trị hữu hiệu

Trung Quốc cho rằng họ đã kiểm soát và quản trị các đảo tại Biển Đông từ thế kỷ 13. Ví dụ trong lịch sử thời nhà Nguyên đã có những câu chuyện tuần tra của lính hải quân trên các quần đảo này. Học giả Trung Quốc cho rằng hải quân Trung Quốc đã tuần tra Biển Đông từ thời nhà Hán (206 trước Công Nguyên – 220 sau Công Nguyên). Năm 43, Mã Viện chinh phục Bắc Việt và cho hải quân thám hiểm Trường Sa. Hải quân Trung Quốc tiếp tục tuần tra Biển Đông từ thời nhà Tấn, Tống, Minh, Nguyên, Thanh và Cộng Hòa. Năm 1279, Hoàng Đế nhà Nguyên sai Guo Shoujing đi khảo sát Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa). Năm 1292, một lực lượng viễn chinh của quân Nguyên dẫn đầu bởi Shi Bi đưa tàu đi ngang Hoàng Sa và Trường Sa. Dưới thời nhà Minh, hải quân Hải Nam chịu trách nhiệm tuần tra ở Biển Đông. Bia mộ của Tướng Qian Shicai có khắc hàng chữ “Quảng Đông kề cận Biển Đông và lãnh thổ ngoài biển đều thuộc nhà Minh. Tướng Qian dẫn hơn 10000 lính và 50 tàu lớn tuần tra hàng chục ngàn đảo tại Biển Đông“. Thời nhà Minh, Trịnh Hòa chỉ huy 7 chuyến thám hiểm và khảo sát Ấn Độ Dương cũng như tất cả các đảo lớn tại Biển Đông. Nhà Thanh (1644 – 1911) tiếp tục công tác tuần tra này. Bản đồ nhà Thanh cho thấy lãnh thổ Trung Quốc bao gồm các đảo tại Biển Đông.

Ngoài những tác phẩm, sách vở và bản đồ, học giả Trung Quốc cũng dựa vào những phương tiện khai thác, đánh cá, dự báo thời tiết, chứng chỉ cho phép khai thác để củng cố yêu sách chủ quyền của Trung Quốc. Một số tài liệu cũng ghi chú ý định của nhân viên hải quan dưới thời nhà Thanh xây cất hải đăng trên một số đảo tại Biển Đông.

Sau cuộc Cách Mạng Tân Hợi 1911, chính quyền Quảng Đông đặt Hoàng Sa dưới quyền kiểm soát của Hải Nam. Quyết định này được Chính quyền quân sự miền Nam xác nhận vào năm 1921. Bộ Ngoại giao cho rằng Trung Quốc đã hành xử chủ quyền gồm có cung cấp cờ cho ngư dân đánh cá tại Trường Sa, tổ chức các chuyến du hành và khảo sát và cho phép in bản đồ ghi tên của các đảo tại Trường Sa.

Năm 1928, chính quyền Quảng Đông thành lập một đội quân tiến hành các công tác khảo sát Hoàng Sa. Từ 1932 tới 1935, một Ủy Ban được thành lập duyệt xét các bản đồ và cộng thêm 132 địa danh từ các đảo ở Biển Đông. Năm 1936, Trung Quốc cũng tiến hành xây cất đài phát thanh và trạm khí tượng tại Hoàng Sa.

Sau Đệ Nhị Thế Chiến, quân của Trung Hoa Dân Quốc tiến ra Hoàng Sa và Trường Sa để thi hành các công tác xây cất các phương tiện trên đảo. Tới năm 1950, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) rút hết quân ra khỏi Biển Đông sau khi quân cộng sản lên tới Hải Nam. Nhưng cộng quân không tiến chiếm các đảo Ba Bình và Phú Lâm mà Đài Loan bỏ lại. Đài Loan quay lại chiếm đóng đảo Ba Bình từ 1956. Trung Quốc cũng tiến chiếm đảo Phú Lâm trong thời điểm đó.

Phản đối liên tục

Trung Quốc cho rằng sự phản đối liên tục mọi yêu sách chủ nguyền của nước khác là bằng chứng hành xử chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trường hợp đầu tiên là sự kiện liên quan tới một tàu khảo sát của Đức vào năm 1883. Sau khi triều đình nhà Thanh lên tiếng phản đối, Đức ngưng hoạt động khảo sát trong khu vực. Khi Pháp chiếm hữu Hoàng Sa trong thập niên 1930, Trung Quốc chính thức gửi công hàm phản đối tới Bộ Ngoại giao Pháp vào ngày 27/7/1932. Hai tháng sau, Trung Quốc gửi thư đề ngày 29/9/1932 cho Pháp trong đó có đoạn “chính quyền địa phương tỉnh Quảng Đông đã cấp giấy phép khai thác Hoàng Sa cho công dân Trung Quốc và nghi ngờ về sự hiện diện của người Việt tại đây từ năm 1816 và 1835. Chính quyền Trung Quốc yêu cầu Pháp cung cấp bằng chứng về các bia đá và chùa do Việt Nam xây cất“. Một công hàm khác lập luận rằng Việt Nam không thể sáp nhập Hoàng Sa vào năm 1816 vì Việt Nam lúc đó là một “chư hầu của Trung Quốc“.

Trung Quốc liên tục gửi thư phản đối cho Pháp từ 1938 tới 1947 nhưng từ chối đưa tranh chấp ra tòa.

Từ 1949, Trung Quốc (Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa) tiếp tục thái độ phản đối khi VNCH tiếp nhận đảo Hoàng Sa từ Pháp và phản ứng bằng cách đưa quân chiếm nhóm An Vĩnh ở phía đông. Tháng 5, 1956, Trung Quốc phản đối yêu sách chủ quyền của Phi Luật tân về 7 hòn đảo tại Trường Sa.

Xác nhận chủ quyền

Sau khi VNCH tiếp quản Trường Sa vào năm 1956 và các đảo Hữu Nhật, Hoàng Sa và Quang Ánh năm 1957, Trung Quốc tuyên bố lãnh hải 12 hải lý bao gồm các đảo trong Biển Đông. Ngày 20/1/1974, lực lượng hải quân Trung Quốc đánh đuổi quân VNCH ra khỏi đảo Hoàng Sa. Ngày 14/3/1988, quân Trung Quốc đụng độ với Việt Nam tại Gạc Ma ở Trường Sa. Hậu quả là một số tàu Việt Nam bị đánh chìm và hơn 70 bộ đội hải quân Việt Nam bị giết. Sau đụng độ này, Trung Quốc tiến chiếm các đá Châu Viên, Chữ Thập, Ga Ven, Tư Nghĩa, Vành Khăn và Xu Bi.

Năm 2009, Trung Quốc nộp hồ sơ cho Liên Hiệp Quốc tuyên bố chủ quyền toàn bộ Biển Đông. Năm 2012, Trung Quốc thành lập thành phố Tam Sa quản lý Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 29/11/2013, Trung Quốc ban hành lệnh cấm đánh cá do chính quyền Hải Nam phụ trách. Lệnh này bắt buộc tàu của nước khác phải xin phép trước nếu muốn đánh cá trong khu vực.

Danh nghĩa quốc tế

Học giả Trung Quốc đưa ra một vài dữ kiện cho rằng cộng đồng quốc tế công nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Biển Đông. Thứ nhất, Hiệp ước Pháp – Trung 1887 phân định biên giới giữa Trung Quốc và Bắc Kỳ trong đó có đoạn “các hòn đảo nhỏ từ kinh tuyến 105 hướng Đông của Paris, kinh tuyến 108 hướng Đông của Greenwich, có nghĩa là đường Nam Bắc đi ngang điểm phía Đông của đảo Trà Cổ thuộc về Trung Quốc. Đảo Cô Tô và các đảo khác ở phía Tây thuộc về An Nam“. Do đó, Trung Quốc lập luận ràng Pháp đã đồng ý nhượng Hoàng Sa và Trường Sa cho Việt Nam và Việt Nam không có gì để kế thừa chủ quyền của Pháp.

Một vài học giả Trung Quốc cũng cho rằng Pháp đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa vào năm 1921 khi Thủ tướng Aristide Briand nói rằng “vì Trung Quốc đã thành lập chủ quyền từ 1909, Pháp không thể đặt yêu sách chủ quyền với các đảo này“. Ngoài ra, khi một công ty Nhật có tên Mitsui Bussan Kaisha bày tỏ ý định khai thác phosphate tại Hoàng Sa và hỏi thăm dò ý kiến của Pháp, Thuyền trưởng Remy trả lời trong bức thư đề ngày 24/9/1920 rằng “không có văn kiện gì cho thấy ai làm chủ Hoàng Sa. Tuy nhiên, tôi có thể nói rằng nó không thuộc sở hữu của Pháp nhưng đây chỉ là dựa theo trí nhớ của tôi chớ tôi không có văn kiện nào xác nhận quan điểm này“.

Năm 1909, Jean Joseph Beauvais Lãnh sự Pháp tại Quảng Châu gửi một lá thư cho Bộ Ngoại giao nói rằng “Pháp có chủ quyền hợp pháp tại Hoàng Sa nhưng nếu chính thức lên tiếng có thể khuấy động chủ nghĩa dân tộc gây bất lợi cho Pháp “. Ngoài ra, Trung Quốc cũng cho rằng một số viên chức đề nghị Pháp từ bỏ chủ quyền Hoàng Sa để đối lấy quyền lợi của Pháp tại Trung Quốc.

Sau Đệ Nhị Thế Chiến, Trung Quốc (của Tưởng Giới Thạch) nhận trách nhiệm giải giới quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra. Hai bên đồng ý là Trung Quốc sẽ bàn giao lại cho Pháp trước ngày 31/3/1946. Nhưng khi quân Trung Quốc tiếp tục đóng lại trên các đảo Phú Lâm và Thị Tứ sau ngày 31/3/1946 thì Pháp và Việt Nam không có phản ứng gì. Trung Quốc lập luận rằng điều này cho thấy Pháp đã ngầm công nhận chủ quyền của Trung Quốc. Tương tự nhu vậy, Pháp không phản đối khi Trung Quốc cộng các đảo ở Biển Đông vào Hòa ước Trung Nhật 1952. Hơn nữa, Pháp và Việt Nam không tiến hành chiếm đóng khi Đài Loan rút quân ra khỏi Trường Sa từ 1950 đến 1956. Cho dù Pháp chiếm hữu Trường Sa hợp pháp năm 1933 nhưng đã từ bỏ chủ quyền sau 1945. Do đó, Việt Nam không có gì để tiếp nối.

Học giả Trung Quốc lập luận là Nhật đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và đả kích yêu sách chủ quyền của Pháp vào năm 1938. Điều 2 của Hòa ước Trung Nhật 1952 ghi rằng “Nhật từ bỏ mọi yêu sách chủ quyền đối với Đài Loan, Penghu cũng như Trường Sa và Hoàng Sa“. Riêng đối với lời tuyên bố của Thủ tướng kiêm Ngoại Trưởng Trần Văn Hữu tại Hội Nghị San Francisco năm 1951, Trung Quốc trả lời là họ không tham dự nên không thể phản đối lời tuyên bố này.

Hội nghị Hàng không Dân sự đầu tiên được tổ chức tại Manila năm 1955 với sự tham dự của 15 quốc gia gồm có Đài Loan và Việt Nam. Hội nghị đồng thuận yêu cầu Đài Loan theo dõi và cập nhật tình trạng khí tượng tại Trường Sa 4 lần trong mỗi ngày. Không có ai lên tiếng phản đối đề nghị này.

Công hàm Phạm Văn Đồng

Theo Bộ Ngoại giao Trung Quốc, khi tiếp đại diện lâm thời của Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam Lý Chí Dân ngày 15/6/1956, Thứ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm của Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa nói với ông rằng: “Theo dữ liệu của Việt Nam, quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa về mặt lịch sử là một phần lãnh thổ của Trung Quốc.”

Bên cạnh đó, Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng chỉ ra một tuyên bố khác vào năm 1965 của miền Bắc về quy định khu tác chiến của Mỹ là “Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson đã chỉ định một phần lãnh hải của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trong quần đảo Tây Sa làm vùng chiến sự của lực lượng vũ trang Hoa Kỳ“. Ngoài ra, tài liệu của Bộ Ngoại giao Trung Quốc còn kèm theo một tấm bản đồ thế giới do Cục Đo đạc và Bản đồ thuộc Phủ Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa xuất bản năm 1972 trong đó ghi Tây Sa và Nam Sa theo tên Trung Quốc.

Nhưng có lẽ văn kiện quan trọng nhất mà Trung Quốc dựa vào là Công hàm Phạm Văn Đồng. Ngày 4/9/1958, Thủ tướng Chu Ân Lai của Trung Quốc ra tuyên bố lãnh hải trong đó có nội dung là “Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nay tuyên bố: (1) Bề rộng lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc…“. Tây Sa và Nam Sa là Hoàng Sa và Trường Sa theo cách gọi của Trung Quốc.

Đúng 10 ngày sau đó vào ngày 14/9/1958, Thủ tướng VNHDCH Phạm Văn Đồng gửi công hàm phản hồi cho Chu Ân Lai với nội dung là: “Thưa Đồng chí Tổng lý, Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận 12 hải lý của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.”

Học giả Trung Quốc lập luận rằng rõ ràng VNDCCH đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc trước đây nhưng bây giờ lại muốn nuốt lời. Lập trường này vi phạm nguyên tắc estoppel của luật quốc tế là một quốc gia không được có lập trường bất nhất hoặc tráo trở.

Đánh giá luận cứ của Trung Quốc

Một vài học giả quốc tế đồng ý là có nhiều bằng chứng cho thấy ngư dân Trung Quốc có lẽ đã biết về các đảo tại Biển Đông từ thời ngàn xưa. Tuy nhiên, hiểu biết và khám phá là hai khái niệm khác nhau. Đa số các tài liệu cổ mà Trung Quốc đưa ra cho thấy Trung Quốc có kiến thức tổng quát về các thực thể tại Biển Đông nhưng kiến thức tổng quát này không có gì hữu dụng khi nói đến luận cứ pháp lý. Hơn nữa, ngư dân Trung Quốc là những người đến sau. Hàng ngàn năm về trước, ngư dân Nam Dương, Mã Lai, Phi và Việt đã đặt chân tới các hoang đảo ở Biển Đông. Thủy thủ Mã Lai đã đưa thuyền buồm xuyên qua Ấn Độ Dương cả ngàn năm trước khi Trịnh Hòa thực hành 7 chuyến thám hiểm trong thế kỷ 15. Và Đế quốc Chàm, trước khi bị Việt Nam thôn tính trong thế kỷ 15 là những người đầu tiên xưng bá tại Biển Đông. Lập luận cho rằng ngư dân Trung Quốc khám phá Biển Đông không có gì đáng tin cậy.

Trung Quốc đưa ra một số bản đồ mà họ cho rằng chứng minh chủ quyền của họ tại Biển Đông. Thật ra theo luật quốc tế, bản đồ có giá trị rất thấp khi được sử dụng làm bằng chứng trong các vụ tranh chấp lãnh thổ. Trừ khi bản đồ được đính kèm vào hiệp ước hoặc một văn kiện pháp lý. Không có bản đồ nào mà Trung Quốc đưa ra có thể được xem như là một hiệp ước hoặc văn kiện có tính pháp lý ràng buộc giữa Trung Quốc với Việt Nam hoặc Pháp liên quan tới Biển Đông.

Khám phá và chiếm hữu

Giả sử như Trung Quốc có khám phá các đảo tại Biển Đông, nhưng nếu không có hành động chiếm hữu thì sẽ không có chủ quyền. Trong vụ kiện Island of Palmas (Netherlands/USA) 1928, Tòa Trọng tài Thường trực phán rằng chủ quyền sơ khởi (inchoate title) qua sự khám phá phải được hoàn tất trong một khoảng thời gian hợp lý bằng hành động chiếm hữu lãnh thổ mới vừa khám phá. Chiếm hữu gồm có hai yếu tố: ý chí chiếm hữu và thi hành quyền lực thật sự. Hơn nữa, hành động khám phá không thể lật ngược chủ quyền của một quốc gia khác nếu quốc gia đó đã thực thi quyền lực liên tục và hòa bình sau một khoảng thời gian dài đối với lãnh thổ đó.

Trung Quốc lập luận rằng họ đã chiếm hữu các đảo ở Biển Đông từ thế kỷ 14 nhưng không có bằng chứng gì cụ thể và khả tín. Nhiều lắm là có một số ngư dân Hải Nam đã tạm trú trên một số đảo. Cũng không có bằng chứng gì cho thấy nhà nước Trung Quốc tiến hành tuần tra các đảo, xây cất các phương tiện như hải đăng và trạm khí tượng. Căn bản là không có gì đáng tin cậy cho thấy Trung Quốc đã hành xử chủ quyền hợp pháp, liên tục và qua một thời gian dài mà không có ai phản đối.

Dưới luật quốc tế theo phán quyết của Tòa án Công lý Quốc tế trong vụ Fisheries Case (United Kingdom v Norway) 1951, khi xác định chủ quyền lãnh thổ, sinh hoạt tư nhân không có giá trị trừ khi họ tiến hành khai thác kinh tế dưới giấy phép do nhà nước ban hành. Hành động của một số cá nhân không đồng nghĩa với hành xử chủ quyền của một quốc gia. Không có bằng chứng gì cho thấy là ngư dân Hải Nam hoặc Trung Quốc phải xin giấy phép của nhà nước để đánh cá ở Biển Đông. Do đó, cho dù một số ngư dân Trung Quốc có tạm trú tại các đảo ở Biển Đông không có nghĩa là họ có thể đại diện quốc gia chiếm hữu hoặc hành xử chủ quyền dưới luật quốc tế. Kết luận này được xác nhận bởi một bản báo cáo bí mật của quân đội Trung Quốc vào năm 1933. Theo nhà Địa lý Pháp Francois Xavier-Bonnet, khi Pháp chiếm đóng 9 đảo tại Trường Sa, Trung Quốc lên tiếng phản đối nhưng nhầm lẫn giữa Hoàng Sa và Trường Sa. Một bảo báo cáo mật đề ngày 1/9/1933 do Hội đồng Quân nhân Trung Quốc soạn thảo có đoạn ghi là “Để kết luận, chúng ta chỉ có bằng chứng duy nhất là ngư dân Hải Nam, chúng ta không có làm gì trên các đảo này. Chúng ta cần hạ nhiệt với Pháp nhưng để cho ngư dân tiếp tục đánh cá. Hải quân của chúng ta còn yếu và hiện tại thì 9 hòn đảo này không có hữu dụng gì…“. Sau khi nhận ra Hoàng Sa và Trường Sa là hai quần đảo khác nhau, Trung Quốc ngưng phản đối với Pháp.

Cũng theo Francois Xavier-Bonnet, vào tháng 6, 1937, Tư lệnh Quân khu 9 Huang Qiang được gửi đi Hoàng Sa với hai nhiệm vụ chính. Thứ nhất là điều tra tình báo về hoạt động của quân Nhật và thứ hai là để xác quyết chủ quyền của Trung Quốc tại đó. Theo báo cáo đề ngày 31/7/1937, Huang rời Quảng Đông ngày 19/6/1937 và tới Hoàng Sa ngày 23/6. Huang đặt chân lên bốn đảo thuộc nhóm An Vĩnh gồm có Phú Lâm, Đảo Đá, Linh côn và Đảo Bắc. Huang trở về Hải Nam ngày 24. Bản báo cáo mật này được trao lại cho các sử gia Han Zenhua, Lin Jin Zhi và Hu Feng Bin khi họ xuất bản Sưu tập tài liệu lịch sử các đảo của chúng ta ở Biển Nam Trung Hoa vào năm 1988 nhưng họ lại không phổ biến bản báo cáo này. Nhưng rất may là bản báo cáo mật này lại được phổ biến vào năm 1987 bởi Ủy ban Đặt tên tại Quảng Đông trong quyển Biên tập địa danh các đảo ở Nam Hải.

Trong bản báo cáo mật, Huang viết rằng đã mang theo 30 cọc trên tàu trong đó có 4 cọc đề năm 1902 thời nhà Thanh và số còn lại đề năm từ 1912 đến 1921. Không có cọc nào đề năm 1937 vì chuyến đi này hoàn toàn bí mật. Huang cùng đồng đội chôn 2 cọc 1902 và 4 cọc 1912 trên Đảo Bắc, 1 cọc 1902, 1 cọc 1912 và 1 cọc 1921 trên đảo Linh Côn, 2 cọc 1921 trên đảo Phú Lâm và 1 cọc 1921 trên Đảo Đá. Tóm lại, chuyến hải hành tới Hoàng Sa năm 1902 của Trung Quốc thật sự không có xảy ra trong lịch sử mà đã được ngụy tạo. Hành động này đã lừa gạt luôn cả giới hàn lâm quốc tế trong đó có Gs Marwyn Samuels, tác giả của cuốn Tranh chấp tại Biển Đông xuất bản năm 1982.

Trung Quốc nhìn nhận tiến trình khai thác kinh tế tại Biển Đông mang tính tư nhân nhưng đến thời nhà Thanh thì công tác khai thác này có sự chấp thuận và hỗ trợ của triều đình được đẩy mạnh dưới thời Dân Quốc qua sự thu thuế và cấp giấy phép khai thác. Nhưng không có bằng chứng độc lập nào xác nhận việc này. Mà nếu có thì nó cũng xảy ra 250 năm quá trễ so với những chuyến khai thác có hệ thống của Đội Hoàng Sa do triều đình nhà Nguyễn tổ chức.

Còn về việc tuần tra thì nhiều lắm là nó cho thấy Trung Quốc có kiến thức tổng quát về các đảo ở Biển Đông. Tự nó không phải là bằng chứng chiếm hữu. Các chuyến hải hành của Trịnh Hòa và Shi Bi cũng vậy. Họ căng buồm đi ngang Biển Đông không có nghĩa là đã hành xử chủ quyền tại đó. Tóm lại, bằng chứng lịch sử của Trung Quốc có giá trị rất giới hạn dưới luật quốc tế.

Sự chiếm đóng của Trung Quốc tại đảo Phú Lâm năm 1946 và cả quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974 bằng vũ lực vi phạm Điều 2(4) của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và bất hợp pháp. Với Truờng Sa, lần đầu tiên Trung Quốc có phản ứng xảy ra vào năm 1933 khi Trung Quốc phản đối Pháp chiếm hữu và sáp nhập Trường Sa. Trung Quốc không thể tạo chủ quyền chỉ vì hành động phản đối và việc phản đối không đương nhiên tước mất chủ quyền của Pháp được thành lập hợp lệ theo luật quốc tế vì khi Pháp chiếm hữu Trường Sa vào năm 1933, chinh phục là một phương pháp được luật quốc tế công nhận. Chinh phục chỉ trở thành bất hợp pháp sau tháng 10, 1945 khi Hiến Chương Liên Hiệp Quốcbắt đầu có hiệu lực. Trong khi đó, sự chiếm đóng các đảo Ba Bình vào năm 1946 và 1956 của quân Tưởng Giới Thạch và Trung Cộng với một số đảo tại Trường Sa bằng vũ lực không thể dẫn đến chủ quyền hợp pháp dưới luật quốc tế.

Tóm lại, Trung Quốc không trưng dẫn được bằng chứng đáng tin cậy là họ đã hành xử chủ quyền hòa bình và liên tục tại Hoàng Sa và Trường Sa. Cho dù Trung Quốc có khám phá ra các đảo này, họ đã không nghĩ tới việc thực hiện quyền lực quốc gia trong một khoảng thời gian hợp lý để củng cố chủ quyền của các thực thể đó. Nhưng một số học giả Trung Quốc lập luận rằng đây là một trường hợp ngoại lệ mà luật quốc tế ghi nhận. Đó là hoàn cảnh địa lý của các đảo tại Hoàng Sa và Trường Sa quá xa xôi và có môi trường khắc nghiệt. Dựa vào phán quyết của Tòa Trọng tài trong vụ Clipperton island Arbitration (Mexico v France) 1931, Trung Quốc lập luận rằng họ chỉ cần chứng minh là có hành xử chủ quyền có tính biểu tượng.

Đúng là luật quốc tế có ghi nhận trường hợp ngoại lệ nhưng Trung Quốc không áp dụng được đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Trước hết, vụ Clipperton đòi hỏi quốc gia liên hệ phải có hành xử chủ quyền. Sự tiếp xúc, viếng thăm, tạm trú thỉnh thoảng của ngư dân trong tư cách cá nhân không đồng nghĩa với tầm vóc hành xử chủ quyền của một quốc gia. Không có bằng chứng gì đáng tin cậy là nhà nước Trung Quốc có những hành động cụ thể nào thực thi chủ quyền trên các đảo này – một sự thật mà bản báo cáo mật ngày 1/9/1933 của chính Hội đồng Quân nhân Trung Quốc xác nhận.

Hơn nữa, trong vụ kiện Eastern Greenland (Norway v Denmark) 1933, Tòa án Công lý Quốc tế phán rằng hành xử chủ quyền biểu tượng có thể áp dụng khi không có quốc gia khác chứng minh chủ quyền tốt hơn. Như đã trình bày, lần đầu tiên Trung Quốc có hành xử liên quan tới Hoàng Sa diễn ra vào năm 1909. Nhưng Việt Nam đã chính thức chiếm hữu Hoàng Sa khoảng 100 năm trước đó vào năm 1816.

Thiên triều và chư hầu

Trung Quốc cho rằng vào năm 1816, Việt Nam là một nước chư hầu của Trung Quốc và do đó không thể xâm chiếm lãnh thổ của Trung Quốc tại Hoàng Sa. Lập luận này hoàn toàn không có cơ sở. Dưới Đế chế phong kiến, Hoàng đế Trung Hoa cai trị thiên hạ là con người chớ không phải lãnh thổ. Lãnh thổ và biên giới có thể thay đổi rất nhanh khi các tiểu quốc chư hầu đụng độ xâm chiếm lẫn nhau. Việt Nam trở thành một phần của nhà Hán vào năm 111 trước Công Nguyên và bị Trung Quốc đô hộ trong 1000 năm. Nhưng Việt Nam đã giành lại độc lập vào năm 939 và nhiều lần thành công đánh bại các cuộc xâm lăng của Trung Quốc trong hơn 900 năm cho tới khi bị Pháp đô hộ. Tuy đã giành độc lập nhưng Việt Nam tiếp tục triều cống với Hoàng đế Trung Hoa để giữ hòa khí với nước láng giềng mạnh và lớn hơn cả trăm lần. Khi vua Gia Long chính thức chiếm hữu Hoàng Sa vào năm 1816, quan hệ thiên triều và chư hầu không ngăn cản Việt Nam hành xử chủ quyền gồm có mở mang bờ cõi và biên giới. Theo định nghĩa, quan hệ chư hầu có nghĩa là Trung Quốc nắm quyền kiểm soát bang giao của Việt Nam và các nước khác nhưng Việt Nam vẫn có quyền hành xử chủ quyền nội địa gồm có quyền mở mang hoặc thu nhận lãnh thổ.

Thoả thuận quốc tế

Lập luận của Trung Quốc là Pháp đã đồng ý nhượng các đảo tại Biển Đông cho Trung Quốc gồm có Hoàng Sa và Trường Sa dưới Hiệp ước Pháp – Trung 1887 không có lô-gích. Tiêu đề của Hiệp ước này là phân định biên giới và chia một số đảo giữa Trung Quốc và Bắc Kỳ (Tonkin). Nếu sự diễn giải của Trung Quốc là đúng thì tất cả các đảo ở phía Nam thành phố Huế cũng thuộc chủ quyền của Trung Quốc – một kết luận khá điên rồ. Hơn nữa, Pháp đã trao công hàm ngoại giao đề ngày 16/8/1933 cho Trung Quốc xác nhận là Hiệp ước Pháp -Trung 1887 không áp dụng cho Hoàng Sa. Chính Gs Zou Keyuan của Trung Quốc cũng đồng ý là “đường gạch đỏ trên bản đồ là đường phân chia các đảo trong vịnh Bắc Bộ chớ không phải là biên giới lãnh hải giữa hai nước“. Kết luận này phù hợp với sự việc là Bạch Long Vĩ được Mao Trạch Đông trao trả lại cho Việt Nam để thể hiện “tình đồng chí” giữa hai nước. Kết luận của Gs Zou cũng được áp dụng trong Hiệp ước phân định Biên giới trong Vịnh Bắc Bộ giữa Trung Quốc và Việt Nam được ký kết trong năm 2000.

Các lập luận khác cho rằng Pháp đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc hoàn toàn mâu thuẫn và trái với sự thật vì chính Pháp đã có những hành động chiếm hữu cụ thể tại Hoàng Sa và nhất là Trường Sa. Còn Hòa ước Trung – Nhật 1952 chỉ nhắc tới Đài Loan và Penghu chớ không liên quan tới Hoàng Sa và Trường Sa. Hơn nữa, Trung Quốc đã đồng ý trao Hoàng Sa lại cho Pháp sau khi giải giới quân Nhật. Không thể nuốt lời rồi kết luận là Pháp đã chấp nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa. Về Hội hghị Hàng không Dân sự tại Manila 1955, lý do mà 15 quốc gia đồng ý giao trách nhiệm theo dõi thời tiết cho Đài Loan là vì Đài Loan thích hợp nhất về mặt địa lý. Không thể đồng hóa tiêu đề khí tượng với chủ quyền lãnh thổ.

Công hàm Phạm Văn Đồng và nguyên tắc estoppel

Không có bằng chứng độc lập nào xác nhận câu nói của Thứ trưởng Ung Văn Khiêm với Lý Chí Dân là theo bằng chứng lịch sử thì Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Mà giả sử như là có đi nữa thì lời nói đó cũng không có giá trị pháp lý gì. Nhân nhượng chủ quyền lãnh thổ là một sự kiện vô cùng nghiêm trọng liên quan tới vận mệnh của một quốc gia. Không có bất cứ cá nhân viên chức nào kể cả Thứ trưởng có thể tùy tiện quyết đoán.

Tương tự như vậy, Việt Nam lập luận rằng tuyên bố về khu tác chiến, bản đồ do Cục Đo đạc và Phủ Thủ tướng cùng với công hàm Phạm Văn Đồng phải được hiểu theo bối cảnh chính trị và chiến tranh thời đó. Hoàng Sa và Trường Sa lúc đó thuộc quyển kiểm soát của VNCH. Bắc Việt hầu như hoàn toàn lệ thuộc vào viện trợ của Trung Quốc trong cuộc chiến với VNCH. Tất cả những lời tuyên bố này đều mang màu sắc chính trị và không diễn ra trong một bối cảnh tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam và Trung Quốc. Do đó, công hàm Phạm Văn Đồng không có ý nghĩa là Việt Nam vĩnh viễn từ bỏ chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa.

Tuy nhiên, Trung Quốc lập luận rằng nguyên tắc estoppel ngăn cản Việt Nam đi ngược lại với lập trường bày tỏ trước đây. Tuy estoppel được luật quốc tế công nhận và đã được áp dụng trong một vài vụ kiện liên quan tới tranh chấp chủ quyền, khi phân tích kỹ lưỡng thì nguyên tắc này không ủng hộ quan điểm của Trung Quốc. Trong vụ kiện Temple of Preah Vihear (Cambodia v Thailand) 1962, Tòa án Công lý Quốc tế phán rằng estoppel áp dụng khi (1) quốc gia A qua những lời tuyên bố hoặc cung cách hành xử bày tỏ lập trường rõ ràng và nhất quán với quốc gia B và (2) quốc gia B đã bị thiệt hại hoặc quốc gia A đã hưởng lợi khi quốc gia B dựa vào những lời tuyên bố hoặc cung cách hành xử đó. Trung Quốc không đưa ra đủ bằng chứng để thỏa mãn hai yếu tố này.

Thứ nhất, công hàm Phạm Văn Đồng bày tỏ sự tán thành với lời tuyên bố lãnh hải 12 hải lý của Thủ tướng Chu Ân Lai. Lúc đó, luật quốc tế còn chưa rõ ràng phạm vi lãnh hải là 3 hoặc 12 hải lý. Việt Nam tuyên bố là sẽ tôn trọng lãnh hải 12 hải lý. Do đó, không thể lập luận rằng công hàm Phạm Văn Đồng công nhận chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Trung Quốc một cách “rõ ràng và nhất quán”. Hơn nữa, không có dấu hiệu gì cho thấy Trung Quốc bị thiệt hại vì đã dựa vào lời tuyên bố này. Có thể Trung Quốc sẽ lập luận là vì lời tuyên bố này mà Trung Quốc mới viện trợ cho Việt Nam và do đó Việt Nam đã hưởng lợi. Nhưng cho tới nay, phía Trung Quốc chưa đưa ra bằng chứng nào cho thấy đó là sự thật hoặc là họ sẽ quyết định cắt viện trợ cho Việt Nam nếu không có công hàm Phạm Văn Đồng.

Tương tự như vậy, bản tuyên bố liên quan đến khu vực tác chiến của Hoa Kỳ năm 1965 không hội đủ điều kiện để áp dụng nguyên tắc estoppel. Trong vụ Pedra Branca (Malaysia/Singapore) 2008, Tòa án Công lý Quốc tế phán rằng estoppel không áp dụng được ngay cả khi có một bên đã tuyên bố xác nhận là họ không đòi hỏi chủ quyền của một hòn đá đang bị tranh chấp. Vụ kiện này liên quan tới chủ quyền của Pendra Brabca/Pulau Puteh, Middle Rocks và South Ledge. Ngày 12/6/1953, Thư ký Thuộc địa Singapore viết thư gửi Cố vấn Anh của vua Johor hỏi thăm về tình trạng chủ quyền của hòn đá Pedra Branca cách Singapore khoảng 40 hải lý. Trong thư, Thư ký Singapore viết: “Chúng tôi muốn hiểu rõ tình trạng của Pedra Branca. Tôi rất biết ơn nếu qúy vị cho biết có văn kiện nào chứng minh hợp đồng thuê mướn hoặc trao tặng hoặc có sự chuyển nhượng bởi chính quyền Johore hay không“.

Khoảng ba tháng sau, Xử lý Ngoại Trưởng Johor gửi thư trả lời ngày 21/9/1953 là “về sự thắc mắc nêu ra trong thư ngày 12/6/1953, tôi xin trả lời là chính quyền Johor không đòi hỏi chủ quyền của Pedra Branca“.

Singapore lập luận rằng thư trả lời là bằng chứng từ bỏ chủ quyền hoặc nguyên tắc estoppel áp dụng và là một lời hứa có tính ràng buộc pháp lý. Nhưng Tòa không đồng ý và phán rằng thư của Johor đơn giản là một câu trả lời đáp lại yêu cầu tìm hiểu thông tin của Singapore và sự phủ nhận chủ quyền diễn ra trong hoàn cảnh đó. Tòa sẽ rất khắt khe khi diễn giải văn kiện liên quan tới chủ quyền. Hơn nữa, Singapore không chứng minh được là đã dựa vào thư trả lời đó mà bị thiệt hại.

Chiều hướng nguyên tắc estoppel ngày càng khó áp dụng trong các vụ kiện tranh chấp chủ quyền được tòa xác nhận trong vụ kiện gần đây giữa Bangladesh và Miến Điện mà Tòa Án Quốc tế về Luật Biển ban hành phán quyết vào năm 2012. Trong đó, Tòa bác bỏ luận cứ của Bangladesh là Miến Điện bị ràng buộc bởi nội dung biên bản phiên họp giữa hai phái đoàn khi thương lượng và giải quyết tranh chấp lãnh hải vì trưởng phái đoàn đàm phán không đủ tư cách quyết định chủ quyền của một gia cũng như Bangladesh không chứng minh được thiệt hại thế nào khi dựa vào nội dung của biên bản họp. Tóm lại, nguyên tắc estoppel chỉ được áp dụng một cách giới hạn trong những trường hợp đặc biệt khi lời tuyên bố phủ nhận chủ quyền diễn ra trong bối cảnh thương lượng hoặc tranh chấp chủ quyền giữa hai quốc gia và lời tuyên bố này phải do những người có đầy đủ thẩm quyền quyết định vấn đề chủ quyền của quốc gia đó. Có nghĩa là không có đủ điều kiện để Trung Quốc áp dụng nguyên tắc estoppel với công hàm Phạm Văn Đồng cũng như các lời tuyên bố tương tự.

Kết luận

Dựa trên bằng chứng và luận cứ mà hai quốc gia đưa ra, yêu sách chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa rõ ràng mạnh hơn của Trung Quốc. Chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa có đầy đủ cơ sở về mặt lịch sử và pháp lý. Từ đầu thế kỷ 18, Việt Nam đã bày tỏ ý chí hành xử chủ quyền khi chính quyền nhà Nguyễn thành lập công ty khai thác kinh tế tại Hoàng Sa. Ý chí này được xác nhận bởi hành động và biểu tượng sáp nhập vào lãnh thổ đầu thế kỷ 19 với một hệ thống quản trị hành chánh liên tục và hòa bình của các vua nhà Nguyễn cho tới khi Pháp xuất hiện. Pháp đã kế thừa và tiếp tục cai trị và thật sự chiếm đóng Hoàng Sa trong thập niên 1930. Sau đó, Pháp liên tục khẳng định chủ quyền cho tới khi rời khỏi Đông Dương vào năm 1956. VNCH kế thừa chủ quyền từ Pháp và chưa bao giờ từ bỏ ngay cả sau khi Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa bằng vũ lực vào năm 1974.

Trong khi đó, lần đầu tiên Trung Quốc có hành động đòi hỏi chủ quyền Hoàng Sa diễn ra vào năm 1909 tức 200 năm sau khi Việt Nam đã thành lập chủ quyền hợp pháp tại quần đảo này. Hơn nữa, sự chiếm đóng đảo Phú Lâm năm 1956 và toàn bộ Hoàng Sa bằng vũ lực vào năm 1974 vi phạm Điều 2(4) của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc không thể ban cho Trung Quốc chủ quyền hợp pháp.

Đối với Trường Sa, Pháp đã sáp nhập các đảo này trong thập niên 1930 như là lãnh thổ vô chủ. Vào thời điểm này, chinh phục là một phương pháp hợp lệ được luật quốc tế công nhận. Anh Quốc có kiểm soát một số đảo tại Trường Sa trong thập niên 1880 nhưng quyết định từ bỏ chủ quyền sau khi Pháp sáp nhập và chiếm hữu. Do đó, chủ quyền của Pháp tại Trường Sa hoàn toàn hợp pháp. Chủ quyền này được chuyển nhượng sang VNCH. VNCH (và CHXHCNVN sau đó) tiếp tục quản trị mặc dù Đài Loan chiếm đóng đảo Ba Bình bất hợp pháp vào năm 1956 và Trung Quốc đánh chiếm một số đảo và đá vào năm 1988. Sự chiếm đóng đảo Ba Bình của Trung Hoa Dân Quốc vào năm 1946 và 1956 cùng với sự xâm lăng của Trung Quốc tại Trường Sa vào năm 1988 rõ ràng vi phạm Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và do đó không thể ban hành chủ quyền hợp pháp cho Đài Loan hoặc Trung Quốc tại Trường Sa. Trung Quốc cũng không thể kiến tạo chủ quyền chỉ vì Trung Quốc liên tục phản đối chủ quyền của Việt Nam mà Việt Nam kế thừa chính đáng từ Pháp. Do đó, yêu sách chủ quyền của Trung Quốc tại Trường Sa rõ ràng là không có cơ sở pháp lý.

Chắc chắn là Trung Quốc sẽ không từ bỏ tham vọng chiếm hết Biển Đông. Việt Nam không còn con đường nào khác mà phải chuẩn bị ngay hồ sơ pháp lý và tiến hành đơn kiện Trung Quốc trong một thời điểm sớm nhất và thuận tiện nhất. Chủ quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa cần được phổ biến rộng rãi trong quần chúng và nên nằm trong chương trình giảng dạy ngay từ cấp trung học, nhưng không phải qua hình thức tuyên truyền một chiều của Ban Tuyên giáo Đảng Cộng sản Việt Nam vì những thứ đó không có giá trị trước tòa án hoặc công luận quốc tế. Người dân Việt Nam đặc biệt là thế hệ trẻ phải được cơ hội tiếp cận lịch sử một cách trung thực, khoa học và khách quan để xây dựng lập luận có giá trị thuyết phục. Môn lịch sử ở Việt Nam đã bị lạm dụng làm công cụ chính trị phục vụ cho Đảng Cộng sản Việt Nam quá lâu với quá nhiều dối trá điển hình là câu chuyện Lê Văn Tám đến nỗi học sinh chán ghét lịch sử nước nhà. Khi thế hệ trẻ quay lưng với lịch sử nước nhà thì dân tộc đó phải đối diện với nguy cơ và hiểm họa diệt vong đánh mất độc lập chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải. Và cá nhân hay đảng phái nào làm cho giới trẻ có thái độ thờ ơ với lịch sử và vận mệnh dân tộc sẽ là tội đồ muôn thưở của tổ quốc Việt Nam.

  1. V. T.

Sydney, tháng 12/2015

Tham khảo

Alexander Ovchar, “Estoppel in the Jurisprudence of the ICJ: A principle promoting stability threatens to undermine it“. Bond Law Review Volume 21 Issue 1, 2009

Francois Xavier-Bonnet, “Geopolitics of Scarborough Shoal“. Research Institute of Comtemporary Southeast Asia, November 2012

Francois Xavier-Bonnet “Archaeology and Patriotism: Long Term Chinese Strategy in the South China Sea” The Institute for Maritime and Ocean Affairs 2015

Hong Thao Nguyen, “Vietnam’s Position on the Sovereignty over the Paracels & the Spratlys: Its Maritime Claims“. Journal of East Asia International Law V JEAIL (1) 2012

Monique Chemiller – Gendreau, “Chủ quyền trên Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” Người dịch: Nguyễn Hồng Thao, Hiệu đính: Lưu Văn Lợi & Lê Minh Nghĩa, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội, 1998

Phil C.W Chan, “Acquiescence/Estoppel in International Boundaries: Temple of Preah Vihear Revisited“. Chinese Journal of International Law (2004) 3 (2)

Raul Pedrozo, “China versus Vietnam: An Analysis of the Competing Claims in the South China Sea“, CNA August 2014

Tác giả gửi BVN.

Posted on 12/21/201512/21/2015

Giấc Mơ Dương Tường & Ác Mộng Bùi Ngọc Tấn

Giấc Mơ Dương Tường & Ác Mộng Bùi Ngọc Tấn

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

RFA

Mặc dù nhiều khi mượn áo trí thức để làm dáng nhưng trong thực tế bản chất của lưu manh là thâm thù căm ghét trí thức chân chính. Và họ căm thù trí tuệ nói chung.

Vương Trí Nhàn

Thi sĩ Dương Tường vừa viết thư (“Gửi Bạn Ở Cõi-Bên-Kia”) nhân ngày giỗ đầu – ngày 18 tháng 12 năm 2015 – của nhà văn Bùi Ngọc Tấn:

“Mình đang đi trên một con phố mới, hình như ở Hải Phòng. Lạ hoắc song lại có nét gì quen quen mà không tài nào xác định nổi. Giống như khi ta cố nhớ ra một cái tên rất thân quen, chắc chắn nó ở quanh quanh đâu đây trong bộ nhớ, chỉ dấn chút xíu nữa là “bắt” được mà nó vẫn vuột mất để rồi đến một lúc thôi không  cố nhớ nữa thì nó lại bất ngờ hiện ra. À, đây rồi cái biển tên phố gắn trên một cột đèn. Mình tiến lại và đọc thấy: BÙI NGỌC TẤN…

Thế là mình thức giấc. Và ngồi viết thư cho Tấn đây…

Hà Nội đã có những đường phố mang tên Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Xuân Diệu, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Huy Tưởng …, những điểm son của văn học Việt Nam. Thế còn bao giờ Nam Định có phố Trần Dần, Bắc Ninh có phố Hoàng Cầm, Thanh Hóa có phố Hữu Loan, Yên Bái có phố Lê Đạt, Thừa Thiên-Huế có phố Phùng Quán?  Và Hải Phòng có phố Bùi Ngọc Tấn? Một dự cảm tâm linh nói với mình: rồi những giá trị đích thực sẽ được trả về đúng vị trí. Con đường mình vừa dạo chơi trong mơ – đường Bùi Ngọc Tấn – rồi sẽ thực sư có trong thực tại. Và biết đâu đấy, mình lại có dịp thả bộ trên con đường ấy, như đã thả bộ trên đường Văn Cao dăm năm trước …”

Đại lộ Phạm Hùng. Ảnh: baomoi

Bức thư thượng dẫn làm tôi nhớ đến những mẩu đối thoại (tưởng tượng) khác, cũng của người ở cõi dương với bạn bè ở bên kia thế giới:

Tôi thỉnh thoảng dạo phố vẫn hay dừng lại nhìn lên một tên phố mà chuyện trò lặng lẽ với con người ngồi ở trên cái bảng sắt tây dó. Để nghe anh ta giãi bày. Và cũng để anh ta đừng tưởng bở.

Thí dụ Văn Cao, ngày hai lượt ra trung tâm thành phố và về Cầu Giấy, tôi từng có lần hỏi anh: Cậu khỏe không? … Bây giờ ở trên cao này có thấy sao không?” Thì Văn Cao bảo tôi:“Tao làm nhạc, làm thơ, vẽ, ai hay nay làm diễn viên lên sân khấu đóng vai kịch ca ngợi đảng trọng hiền tài. Mày với tao sống trong cái chăn toàn rận này, mày lạ đ. gì nữa.

Hôm nọ thằng Dương Bích Liên nó lui lủi đi dưới kia, đầu chúi chúi, hai tay đút túi quần. Tự nhiên nó nhìn lên hỏi, mày lại cam ra làm bù nhìn bịp cho cái chính sách yêu vớt trí thức ư? Thế là tao rơi đánh xoáng một cái xuống. (Trần Đĩnh. Đèn Cù II, Westminster, CA: Người Việt, 2014).

Đại Lộ Mai Chí Thọ. Ảnh:  triviet24h

Tôi thì trộm nghĩ rằng những con phố mang tên Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Xuân Diệu (e) chả phải là vở kịch “đảng trọng hiền tài” hay “chính sách yêu vớt trí thức” – như cách dụng ngữ của nhà văn Trần Đĩnh đâu. Những người cộng sản Việt Nam có đời nào mà tử tế dữ vậy. Họ cũng chưa bao giờ qúi trọng hay yêu thương gì giới trí thức cả, “giả trọng” hay “yêu vớt” cũng không luôn.

Nói gần nói xa, chả qua nói thiệt, và nói theo lối thường dân (Nam Bộ) thì đây chẳng qua chỉ là “chính sách ăn theo” hoặc “chiến thuật dựa hơi” của Đảng mà thôi.

Kiểu chơi láu cá chó này ai cũng biết, đâu có xa lạ và mới mẻ gì. Tạp chí Khởi Hành số  phát hành tháng 8 năm 99 – từ California – đã có bài viết (“Khi Chính Trị Chi Phối Văn Hoá”) của Thạc Sĩ Trần Anh Tuấn, về mấy cái mánh (lặt vặt) như thế tự lâu rồi.

Một phần của bài viết, Trần Anh Tuấn dùng để điểm cuốn Lịch Sử Và Văn Hoá Việt Nam, Những Gương Mặt Trí Thức, tập Một – do Dương Trung Quốc, Nguyễn Quang Ân và Tạ Ngọc Liễn sưu tầm và biên tập – nhà xuất bản Văn Hoá Thông Tin Hà Nội xuất bản năm 1998. Nội dung cuốn sách được ghi nhận và phân tích như sau:

“Với hơn 700 trang, các tác giả đã chọn ra 71 nhân vật mà họ vinh danh là những trí thức Việt Nam tiêu biểu trải qua 770 năm lịch sử, với 9 thời đại và thời kỳ (Trần, Hồ, Lê, Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Nguyễn, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa V.N.)”.

“Nhưng nhìn vào danh sách là chúng ta thấy ngay sự ăn gian của những người làm sách: trong suốt 720 năm (1225 – 1945) họ chỉ chấm có 38 nhân vật tức 53%. Ðó là Trần Thái Tông, Lê Văn Hưu, Trần Quốc Tuấn, Trần Nhân Tông, Chu Văn An, Tuệ Tĩnh, Hồ Nguyên Trừng, Nguyễn Trãi, Triệu Thái, Lê Thánh Tông, Lê Sĩ Liên, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Lê Hữu Trác, Nguyễn Thiếp, Lê Qúi Ðôn, Lê Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Trần Văn Kỷ, Võ Trường Toản, Phan Huy Chú, Vũ Phạm Khải, Nguyễn Ðình Chiểu, Phạm Thuật Duật, Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Truờng Tộ, Nguyễn Quang Bích, Lương Văn Can, Nguyễn Phạm Tuân, Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Văn Trường, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn An Ninh, và Phạm Tuấn Tài.”

“Trong 50 năm sau cùng (1945 – 1995), họ đưa ra một số lượng khổng lồ là 33 nguời, tức 47%. Trong số 33 tên, chỉ trừ giáo sư Hoàng Xuân Hãn sống ở Pháp, còn lại 32 tên không ai khác hơn là những đảng viên cao cấp của Ðảng Cộng Sản Việt Nam và những nguời phục vụ chế độ cộng sản. Ðó là Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Truờng Chinh, Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Khánh Toàn, Ðặng Thái Mai, Trần Huy Liệu, Phạm Huy Thông, Tôn Thất Tùng, Hồ Ðắc Di, Phạm Ngọc Thạch, Trần Ðại Nghĩa, Nguyễn Văn Huyên, Tạ Quang Bửu, Trần Văn Giáp, Tôn Quang Phiệt, Hải Triều, Ngụy Như Kon Tum, Dương Ðức Hiền, Ðặng Văn Ngữ, Hoài Thanh, Nam Trân, Nguyễn Khắc Viện, Lê Văn Thiêm, Từ Chi, Nguyễn Ðổng Chi, Cao Xuân Hy, Trần Ðức Thảo, Hoàng Thúc Trâm, Ðào Duy Anh, và Hoàng Xuân Hãn.”

Nhạc sĩ Tô Hải mô tả đây là “cái trò nhố nhăng định khoanh vùng lịch sử chỉ còn ở cái ‘thời rực rỡ nhất’ là do Đảng họ lãnh đạo thôi,” chứ CS chả có lòng “yêu vội” hay “yêu vớt” gì Trần Ðức Thảo,  Ðào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn… cả. Họ chỉ “dựa hơi” những nhân vật trí thức này để mở đường cho cái đám thất phu (cỡ như Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Truờng Chinh …) được dịp “quá giang” hay “đi ké” vào lịch sử – như những gương mặt trí thức – Việt Nam.

Tương tự, những con đường mang tên Nguyễn Chí Thanh, Xuân Thủy, Phạm Văn Đồng, Mai Chí Thọ, Phạm Hùng, Trần Quốc Hoàn … sẽ bớt dơ dáng và dị hợm (phần nào) khi được đặt cùng với mấy tên phố tử tế và đàng đàng hoàng khác: Nguyễn Tuân, Văn Cao, Nguyên Hồng, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng… Làm thế coi cho đỡ chướng, và ngó cũng dễ “nuốt” hơn. Trông cũng giống như mấy lát mì cõng cơm (ăn độn) vậy mà!

Tôi còn sợ rằng giấc mơ của Dương Tường (dám) lại là ác mộng của Bùi Ngọc Tấn nữa chớ. Thưở sinh thời, đã biết bao lần nhà văn của chúng ta từng phải sống qua những ngày tháng hốt hoảng và tuyệt vọng:

– “… bàng hoàng khi biết mình có ‘đuôi’….  Anh như ngửi thấy cái mùi của nhà tù. … Đó là đòn đánh ngang đầu. Là đất sụt nơi mình đứng. Là cuộc đời bỗng nhiên không còn là cuộc đời nữa… có cảm giác của một con thú bị nhốt trong chuồng lồng lộn nhưng không sao thoát được. Thì ra họ có toàn quyền làm những việc họ thích. Họ huy động cả guồng máy khổng lồ để hại mình.” (Bùi Ngọc Tấn. Chuyện Kể Năm 2000, tập I. CLB Tuổi Xanh, Westminster, CA: 2000).

– “Tôi thấy rợn hết cả người khi nghĩ đã có mấy thế hệ theo dõi tôi, săn đuổi tôi, vu cáo tôi. Họ đã già đi. Ðã về nghỉ, hưu trí an nhàn. Nhiều người đã chết. Một thế hệ khác tiếp tục việc theo dõi. Rồi một thế hệ tiếp theo nữa. Ðời này sang đời khác.” (Bùi Ngọc Tấn. Hậu Chuyện Kể Năm 2000. Tiếng Quê Hương. Fallchurch, VA: 2014).

Cho mãi đến khi từ giã cõi đời, Bùi Ngọc Tấn mới hết bị “theo dõi” và mới hoàn toàn thoát khỏi “cái cảm giác như một con thú bị nhốt trong chuồng.” Thế mà cái “con thú” này bất ngờ lại được lên tên đường, và cận kề với toàn danh nhân (của ngành công an) những nhân vật “toàn quyền làm những việc họ thích” và có thể “huy động cả guồng máy khổng lồ để hại” người cỡ như Trần Quốc Hoàn, Mai Chí Thọ, Phạm Hùng … thì rõ ràng là một chuyện rất … hãi hùng – một cơn ác mộng – chớ còn gì nữa? Không khéo Bùi Ngọc Tấn lại “rơi đánh xoáng một cái” như không!

Tương tự, tôi e rằng Văn Cao cũng không cảm thấy vinh dự hay hạnh phúc gì cho lắm (sau một kiếp “sống trong một cái chăn toàn rận”) khi ông bị đặt nằm giữa những con phố đầy rẫy bất trắc và tệ đoan xã hội:

– “Quét Gái Mãi Dâm Trên Đường Nguyễn Chí Thanh” – báo An Ninh Thủ Đô

– “Đột Nhập Động Mãi Dâm Trên Đường Phạm Văn Đồng” – báo Người Đưa Tin

– “Bắt Kẻ Giao Hàng Trắng Dọc Đường Trường Chinh” – báo An Ninh Thủ Đô

– “Trộm Vàng Táo Tợn Trên Đường Xuân Thuỷ” – báo VietNamNet

–  “Phóng Viên Truy Đuổi Đối Tượng Trộm Cắp Trên Đường Phạm Hùng” –   báo An Ninh Thủ Đô

– “Dàn Cảnh Cướp Xe Trên Đường Hồ Chí Minh” – báo Dân Trí

-“Xe Buýt Lại Tông Người Trên Đường Lê Duẩn” – báo Người Lao Động

– “Xuất Hiện Hố Tử Thần Trên Đường Trần Quốc Hoàn” – báo Lao Động

-“Tảng Đá Chục Tấn Rơi Trên Đại Lộ Nguyễn Tất Thành” – Báo Mới

– “Ôtô Điên Trên Đường Tôn Đức Thắng” – Báo Mới

-“Đột Kích Hàng Loạt Tụ Điểm Mát Xa Kích Dục Trên Đường Nguyễn Duy Trinh” – Báo Vnexpress.

Tiểu lộ Nguyễn Thị Nhỏ. Ảnh: Dân Việt

Sau 83 năm đô hộ Việt Nam – ngoài những tội ác vô phương chối cãi – người Pháp cũng đã để lại cho xứ sở này những thành quả hiển nhiên, thuộc nền văn minh chung của toàn thể nhân loại: hệ thống cầu cống, giao thông, y tế, giáo dục, ngân hàng, bưu điện, bệnh viện, thư viện, kiến trúc… Nói theo bác Nguyễn Gia Kiểng là “Pháp đã còng tay Việt nam và dẫn vào thời đại mới.”

Sau đó, dân Việt bị còng tay (chặt hơn) bởi những người cộng sản rồi buộc phải… đi lùi! Đó là lý do tại sao trước khi được “vinh hạnh” mang tên “những vị anh hùng cách mạng,” phố phường Hà Nội (nói riêng) và của cả nước (nói chung) sạch sẽ và an lành hơn hiện cảnh rất nhiều.

Điều phiền phức và rắc rối hiện nay là dân Việt không còn chỗ để có thể lùi được nữa. Họ đã bị đẩy đến tận chân tường rồi. Bởi thế, những người cộng sản khó mà có thể tiếp tục giữ được quyền bính trong những ngày tháng tới.

Khác với chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa cộng sản khi sụp đổ không để lại nơi phần đất mà nó cai trị bất cứ một thứ thành quả nào – ngoài bạo lực, nghèo đói, dốt nát, dối trá, và vô số những con đường (cũng như những ngôi trường, những cơ quan, dinh thự …) buộc phải thay tên!

Đến lúc đó, có lẽ, vẫn chưa muộn để “Nam Định có phố Trần Dần, Bắc Ninh có phố Hoàng Cầm, Thanh Hóa có phố Hữu Loan, Yên Bái có phố Lê Đạt, Thừa Thiên-Huế có phố Phùng Quán …  Và Hải Phòng có phố Bùi Ngọc Tấn” – như giấc mơ của Dương Tường.

Posted on 12/21/201512/21/2015

Đi đâu mà vội mà vàng?

Đi đâu mà vội mà vàng?

Bài ghi ngắn của Đoàn Thanh Liêm

* * *

Hồi tôi ở độ 7 – 8 tuổi còn theo học lớp sơ cấp tiểu học, thì được thày giáo

cho các học sinh chép một bài học thuộc lòng gồm có 4 câu thơ mộc mạc đơn

giản theo thể lục bát. Mà nay sau đã trên 70 năm, tôi vẫn còn nhớ rất rõ về

bài thơ đó như sau:

 

“Đi đâu mà vội mà vàng

Mà vấp phải đá, mà quàng phải giây

Thủng thỉnh như chúng anh đây

Chẳng đá nào vấp, chẳng giây nào quàng”

 

Tôi xin mượn câu đầu để làm nhan đề cho bài viết ngắn này.

Sau này, thì tôi được nghe các bậc tôn trưởng cũng nhắc lại câu tục ngữ bằng

chữ Hán gồm có 4 chữ thế này “Dục tốc bất đạt” – có nghĩa là khi làm việc gì

mà cứ muốn có kết quả mau lẹ ngay tức khắc, thì không thể thành đạt được.

Người Pháp cũng có câu khuyên bảo có ý nghĩa tương tự: “ On ne peut pas

bruler les étapes” có nghĩa là “ Người ta không thể đốt giai đọan”. Túc là mọi

sự việc trên đời, thì thường phải diễn ra trong nhiều giai đọan; do vậy mà ta

không thể quá sốt ruột nôn nóng để mà bỏ qua các giai đọan cần thiết bình

thường đó được.

Hồi còn sinh tiền, nhà báo Đỗ Ngọc Yến thường hay tâm sự với bạn bè về

một số nhân vật trong cộng đồng người Việt tỵ nạn trên đất Mỹ như sau:

“Các ông A, ông B đó là những người rất năng nổ tháo vát và có tài năng

nữa, nhưng các ông ấy lại ít thành công do cái lối nôn nóng, cứ đòi đi lối tắt

(anh Yến nói nguyên văn tiếng Anh là short cut). Vì thế mà việc làm của các

ông ấy không lôi cuốn được nhiều người cùng tham gia cộng tác lâu bền

được. Và kết quả là các ông ấy đã không thể thực hiện được một công trình

dự án nào có quy mô lớn lao hòan chỉnh được cả.

Nhìn rộng ra về đại khối trên 4 triệu người Việt chúng ta hiện định cư tại

nước ngòai từ 40 năm qua, thì quả thật đã có rất nhiều gia đình có con, cháu

gặt hái được những thành công thật đáng ca ngợi về nhiều phương diện, đặc

biệt về mặt khoa học kỹ thuật. Đó là một điểm son đáng kể nhất của người

Việt ở hải ngọai vậy.

Nhưng trong sinh họat tập thể cộng đồng, thì vẫn còn có những chuyện lấn

cấn, bất cập kể cả những chia rẽ phân hóa nơi nhiều đơn vị tổ chức – ngay cả

ở những Hội Ái Hữu, Tương Trợ vốn là những tổ chức hòan tòan có tính cách

tự nguyện, bất vụ lợi mà thường không nên có những tranh chấp vì tiền bạc

hay địa vị danh vọng gì cả.

Lại còn cái chuyện rất phổ biến trong nhiều năm nay mà thường được gọi là

“chụp mũ, đội nón cối” tố cáo lẫn nhau, gán cho nhau cái nhãn hiệu là “ Việt

gian, tay sai cộng sản” nữa. Và xét cho kỹ ra, thì cái sự chia rẽ đó phần lớn

đều do những chuyện lẩm cẩm lặt vặt phát sinh từ lòng tự ái, tính hay chấp

nhất bắt bẻ lẫn nhau về mấy chi tiết nhỏ nhoi mà thôi.

Dù thế nào đi nữa, thì chúng ta cũng không nên quá bi quan trước tình trạng

không mấy sáng sủa phấn khởi nơi một số sinh họat cộng đồng nói trên. Mà

do nơi môi trường sinh sống mới lạ nơi đất khách, đa số bà con ta còn gặp

nhiều bỡ ngỡ, hụt hẫng đến độ chóang váng mất phương hướng trong cuộc

sống của cá nhân cũng như của tập thể. Vì thế mà chúng ta cần phải giữ thái

độ kiên nhẫn, bao dung thông cảm nhường nhịn đối với nhau – thay vì vội vã

lên án chỉ trích mạt sát nặng lời với nhau – như một vài người khó tính

thường hay vấp phải.

Nói vắn tắt lại, việc điều chỉnh ổn định cuộc sống nơi môi trường văn hóa xã

hội mới lạ ở xứ người là một quá trình vận động sinh họat rất phức tạp – quá

trình này thường đòi hỏi một thời gian tương đối lâu dài hơn, chứ không thể

được phát triển một cách thuận lợi dễ dàng mau chóng theo như mong ước

chủ quan của chúng ta được.

Vì thế mà người tỵ nạn chúng ta cần có sự bình tĩnh, sáng suốt và nhẫn nại

để lần hồi tìm ra được những phương cách thuận lợi êm thắm trong chiều

hướng hội nhập tốt đẹp với dòng chính nơi xã hội sở tại, bởi vì đây chính là

nơi chốn mà chúng ta đã chọn lựa như là một quê hương thứ hai cho cả gia

đình mình vậy./

Westminster California, Tháng 12 năm 2015

Đoàn Thanh Liêm

Posted on 12/21/2015

Theo Phan Bội Châu: Chống tham nhũng – Chống áp bức

Theo Phan Bội Châu: Chống tham nhũng – Chống áp bức
Nguoi-viet.com

Ngô Nhân Dụng

Trong bài trước, mục này đã đề nghị những đảng viên ký tên dưới bức thư gửi Bộ Chính Trị và toàn thể đảng Cộng Sản Việt Nam phải hành động, khi những lời họ yêu cầu đảng thay đổi không được đại hội đảng kỳ thứ 12 đáp ứng. Họ cần cộng tác với các nhà tranh đấu dân chủ ngoài đảng, cùng tạo ra một thực thể chính trị mới, có như vậy Việt Nam mới có thể bắt đầu tiến trình dân chủ hóa noi gương Myanmar. Thực thể chính trị mới không nhất thiết là một đảng, một tổ chức chặt chẽ, mà chỉ cần bùng lên như một phong trào tự động, tự phát, sẽ tác động trên tinh thần của tất cả đồng bào, nhất là giới thanh niên.

Người ta sẽ làm gì để gây thành một phong trào như vậy? Hãy hành động như Luật Sư Nguyễn Văn Ðài. Ông Nguyễn Văn Ðài vừa bị bắt giam và sẽ bị đưa ra tòa, chỉ vì ông đi từ nhà ở phường Bách Khoa, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội vào tận xã Nam Lộc, huyện Nam Ðàn, tỉnh Nghệ An, thuyết trình trước 70 người dân Việt Nam. Ông chỉ nói với đồng bào về các quyền căn bản của con người và của các công dân Việt Nam, căn cứ trên bản hiến pháp hiện đang thi hành. Cần hàng ngàn, hàng vạn người trong giới trí thức và thanh niên Việt Nam noi theo gương hành động của Nguyễn Văn Ðài. Ông chỉ làm một công việc mà Phan Bội Châu, trước đây hơn một thế kỷ, đã khuyên dân ta phải thực hiện.

Năm 1903, trong cuốn Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư (Lá thư mới viết bằng máu và nước mắt, từ quần đảo Lưu Cầu,) Phan Bội Châu nói tới ba nhu cầu thay đổi của nước ta: Học Thuật, Nhân Tài, và Dân Khí. Ðổi Học thuật, ngày nay chúng ta nói phải thay đổi tư tưởng, học hỏi khoa học kỹ thuật tiến bộ và nếp sống xã hội, chính trị tự do dân chủ mà nhân loại đã thực hiện trên khắp trái đất. Dưỡng Nhân Tài, bây giờ gọi là nhu cầu cải thiện giáo dục và đào tạo thanh niên. Phan Bội Châu viết: “Trong ba điều nói trên thì chấn dân khí là trước hết,” ưu tiên số một trong số ba việc cần làm. (Phan Bội Châu Toàn Tập, xuất bản năm 1990, cuốn 1, trang 145).

Nguyễn Văn Ðài đã làm cả ba công việc, theo đúng lời khuyên của Cụ Phan: Giúp đồng bào thay đổi, tập suy nghĩ theo tinh thần dân chủ, căn cứ vào hiến pháp; tập nói thẳng những điều mình thấy là đúng mà không sợ hãi trước cường quyền. Nếu tất cả quý vị đã ký tên trong bức thư gửi đảng Cộng Sản cũng làm được như vậy, họ cũng sẽ góp công vào việc chấn dân khí.

Nhưng muốn chấn dân khí, có thể làm những công việc cụ thể hơn. Cụ Phan đã nêu lên hai việc quan trọng nhất. Một: “Cốt yếu là phải tuyệt đường hối lộ để khích lệ lòng liêm sỉ.” Hai: “Phải bớt lệnh áp bức để cổ võ chí khí cương cường.”

“Tuyệt đường hối lộ,” và “Bớt lệnh áp bức.” Khi đọc hai mệnh đề đó, chắc nhiều vị độc giả không biết đó là những phương thuốc trị bệnh cho nước Việt Nam do Phan Bội Châu đề nghị từ thế kỷ trước.

Chống tham nhũng, chống áp bức là những việc tất cả mọi người Việt Nam đều có thể tham dự, kể cả các đảng viên cộng sản. Các đảng viên có lợi thế hơn người khác vì họ “nằm trong chăn” nên dễ biết những con rận đang chui rúc ở đâu. Các đảng viên cần cộng tác với các nhà tranh đấu ngoài đảng thì mới tác động được trên tất cả mọi người. Mười năm trước đây, cựu Ðại Tá Phạm Quế Dương và Giáo Sư Trần Khuê đã nộp đơn xin thành lập “Hội Nhân Dân Việt Nam ủng hộ đảng và nhà nước chống tham nhũng,” nhưng “vừa làm đơn gửi đi được mấy ngày đã ‘rách chuyện’ ngay lập tức…” như ông kể lại. Bởi vì muốn chống tham nhũng thì xã hội Việt Nam phải thay đổi, Phạm Quế Dương nói, “trước hết là phải đa nguyên, đa đảng, cái thứ hai là phải có tự do báo chí, cái thứ ba là phải có tự do bầu cử.”

Các đảng viên đã gửi bức thư cho Bộ Chính Trị cũng đề nghị thay đổi như vậy: “Ða nguyên, đa đảng, tự do báo chí, tự do bầu cử.” Các nhà tranh đấu cho dân chủ ở Việt Nam, Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Văn Ðài đang bị tù hay Linh Mục Phan Văn Lợi, Nguyễn Ðan Quế, còn được tự do, cũng theo đuổi các mục tiêu tương tự. Ðã tới lúc các đảng viên cộng sản tỉnh ngộ và các nhà tranh đấu dân chủ phải hành động đồng nhịp với nhau. Một bên là các đảng viên cộng sản gây phong trào chống tham nhũng. Bên kia là các nhà tranh đấu đẩy mạnh phong trào chống đàn áp. Cả hai sẽ góp công chấn hưng dân khí, theo lời khuyên của Phan Bội Châu.

Hai cụ Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu đều coi việc chấn dân khí là quan trọng nhất trong công cuộc phục hồi phẩm giá và danh dự cho dân tộc Việt Nam. Một trăm năm sau, điều này vẫn đúng. Chấn Dân Khí là làm sao con người Việt Nam không hèn nhát, không ỷ lại, không ích kỷ, không sợ cường quyền.

Phan Bội Châu viết rõ ràng: “Con đường hối lộ chưa chặn hẳn thì dân khí không sao chấn được!” (Toàn Tập, cuốn 1, trang 146). Cụ Phan coi chống tham nhũng là một phương tiện để nâng cao khí tiết. Xây dựng đức liêm sỉ là cứu cánh. Phải chấm dứt nạn tham nhũng hối lộ, thì mới tập cho người dân Việt biết thế nào là liêm sỉ. Trong một xã hội mà giới trẻ lớn lên thấy muốn gì cũng phải đút lót; họ thấy nếu có tiền thì cái gì cũng mua được; trong một xã hội như vậy, thanh niên không thể nuôi dưỡng khái niệm về đức liêm sỉ.

Trong tiểu thuyết Lạc Ðường của nhà văn Ðào Hiếu, một nhân vật thú nhận: “Hồi trẻ tôi thường nghĩ: Làm người thì phải có lý tưởng, phải tin vào một cái gì đó và phải biết ước mơ … Hàng triệu thanh niên cũng nghĩ như tôi vậy. Nhưng thật tội nghiệp cho thế hệ thanh niên ngày nay… khi lịch sử đã chứng minh rằng lý tưởng chỉ là cái mớ giẻ rách…” Hồi trẻ của Ðào Hiếu là thời ông lớn lên ở miền Nam, được giáo dục trong gia đình và các trường học của Việt Nam Cộng Hòa. Chính trong nếp sống xã hội và hệ thống học đường đó, ông được dạy dỗ phải sống theo một lý tưởng. Ông đã tin vào lý tưởng cộng sản, hoạt động nội thành, gia nhập đảng. Sau năm 1975 ông đã thất vọng, vì tính bộc trực, không chịu luồn cúi không được chế độ mới chấp nhận. Nhưng tại sao một người gần 70 tuổi lại tỏ ý chán chường đến nỗi phải kết luận: “lý tưởng chỉ là cái mớ giẻ rách,” như Ðào Hiếu đã viết? Một nhân vật trong Lạc Ðường còn khuyên giới trẻ: “Ðừng tin ai, đừng trung thành với ai, đừng hy sinh vì cái gì cả… Cả lũ chúng ta đang bị lừa.” (Lạc Ðường, in 2008, trang 118).

Chúng ta biết nhà văn chỉ nói như vậy để các thanh niên đời nay tự nghĩ ra rằng muốn sống ra con người thì phải thay đổi. Phải dám tin tưởng. Phải trung thành với niềm tin của mình. Phải biết hy sinh cho một lý tưởng.

Hơn 100 năm trước, Phan Bội Châu nhận xét “Dân khí nước ta bị suy giảm quá tệ!” Và nêu ra các triệu chứng: Người dưới làm điều đê tiện mà không biết hổ, chịu sự ô nhục mà không biết thẹn; người trên lo trang sức cho đẹp mắt, giữ hủ lậu cho yên thân.”

Dù trong nước Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều người “đê tiện” và “ô nhục” nhưng khi nhìn nụ cười tươi của nhạc sĩ Việt Khang khi được tự do trở về nhà, chúng ta biết dân khí nước ta hiện nay đã tiến hơn thời 100 năm trước. Chàng thanh niên Nguyễn Việt Dũng dám nói và làm những việc biết trước sẽ đưa mình vào tù, nhưng vẫn cương quyết làm và nói những điều mình tin tưởng. Nguyễn Phương Uyên, Nguyễn Việt Dũng, Việt Khang, Nguyễn Văn Ðài và bao nhiêu nhà tranh đấu dân chủ khác đã “chấn dân khí” bằng hành động.

Hành động của họ gửi một thông điệp hùng hồn nhưng rất giản dị: Con người có thể sống với lý tưởng. Nhà văn Ðào Hiếu đã “cường điệu” khi mô tả một nhân vật bi quan về lý tưởng. Nhưng trong lịch sử nhân loại không thiếu gì những vụ lừa đảo, những vụ lừa đảo hàng loạt, lừa đảo cả một thế hệ, lừa đảo một nửa loài người vào bẫy. Như các người trí thức đảng viên cộng sản dám vạch ra: “Sự phát triển của đất nước bị kìm hãm chủ yếu là do Ðảng Cộng Sản Việt Nam từ nhiều năm nay dẫn dắt cả dân tộc đi con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình Xô-viết dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin.” Họ cho thấy chính họ đã bị lừa đảo.

Nhưng cuối cùng, suốt lịch sử, sẽ tới lúc loài người biết mình bị lừa. Khi tỉnh ngộ, người ta lại đứng dậy, tiếp tục giữ niềm tin vào những giá trị cao hơn cuộc sống cá nhân mình. Loài người vẫn nuôi nhiều giấc mộng lý tưởng. Lý tưởng có thật. Lý tưởng không phải là “những cái giẻ rách.” Nó giúp cho đôi mắt của Việt Khang lúc nào cũng sáng ngời. Lý tưởng biến Nguyễn Việt Dũng tự tin không khuất phục cường quyền. Họ là những bản tuyên ngôn “Chấn dân khí” gửi đến tuổi trẻ Việt Nam.

Phan Bội Châu mô tả tình trạng Dân Khí tồi tệ với những kẻ “Nghe một lời nói khác mình thì khiếp sợ như nghe sấm sét; thấy một người làm khác mình thì cho là quái lạ như Thục khuyển phệ Nhật, Việt khuyển phệ tuyết” (Chó nước Thục, ở phía Bắc khi thấy mặt trời thì lạ quá, bèn sủa, chó nước Việt ở miền Nam sủa nếu trông thấy tuyết).

Phản ứng của các lãnh tụ đảng Cộng Sản cũng sợ hãi khi thấy Nguyễn Văn Ðài dõng dạc đòi dân Việt Nam được quyền sống như những con người; đúng là “khiếp sợ như nghe sấm sét!” Ðám công an Cộng Sản thấy Phạm Thanh Nghiên, Nguyễn Việt Dũng dám nói chống Trung Cộng chiếm Hoàng Sa, Trường Sa thì cũng kinh ngạc không khác gì những con chó ở nước Thục cất tiếng sủa khi trông thấy mặt trời, chó ở nước Việt thì sủa khi thấy tuyết. Khi hàng ngàn, hàng vạn người, kể cả các đảng viên cộng sản, cùng hành động như Phạm Thanh Nghiên, Nguyễn Văn Ðài thì họ sẽ tạo thành một “công luận vững như sắt đá, chính lý sáng từ cổ kim; búa rìu không uy hiếp nổi, uy quyền không đe dọa được.” (Phan Bội Châu, ibid, trang 147).

“Tuyệt đường hối lộ,” và “Bớt lệnh áp bức.”

Người Việt Nam phải bắt đầu thực hiện những lời khuyên cụ thể của Phan Bội Châu.

Posts pagination

Previous page Page 1 … Page 1,037 Page 1,038 Page 1,039 … Page 1,260 Next page
  • Tạo vật sống quây quần
  • Tạo Vật biết yêu thương
  • Tạo vật đẹp xinh
  • Tạo vật sống hiệp quần
  • Tạo vật mỹ miều
  • Tạo vật uyên ương
  • Tạo vật sinh động
  • Tạo vật linh động

Tìm bài viết theo câu chữ :

Bài Mới Đăng Trong Tuần

  • Trăm hoa đua nở trên đất Bắc – Hoàng Văn Chí 11/18/2025
  • CSVN kêu gọi 5 Việt kiều ở hải ngoại bị chụp mũ ‘khủng bố’ ra đầu thú 11/18/2025
  • Cái chết của cô giáo trẻ…- Thái Hạo 11/18/2025
  • 10 CÂU  NÓI  KINH ĐIỂN CỦA NGƯỜI DO THÁI 11/17/2025
  • Bị Bộ Công an Việt Nam khởi tố, ông Lê Trung Khoa lên tiếng 11/17/2025
  • Thánh Elizabeth ở Hung Gia Lợi (1207-1231)- Cha Vương 11/17/2025
  • ĐÓI GIÊSU – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế 11/17/2025
  • Đạo chích bậc thầy – Đoàn Xuân Thu 11/17/2025
  • Kết quả giảo nghiệm: Bà gốc Việt ở San Francisco giết chồng con rồi tự tử 11/16/2025
  • Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình. (Lc 21:19) – Cha Vương 11/16/2025
  • NGỦ NGON – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế 11/16/2025
  •  Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người ​đàn bà- Cha Vương 11/15/2025

Bài Viết được nhiều Người đọc nhất

  • downloadTại sao nhiều người qua đời không lâu sau khi bước qua tuổi 80 ? 10/23/2025 (91)
  • download NGƯỜI LỮ KHÁCH CUỐI CÙNG…- Truyen ngan Hay 10/27/2025 (37)
  • giao-thua-o-suoi-mauCHỊ NGUYỆT- Truyện ngắn-Qua’ HAY 10/19/2025 (33)
  • imagesMột Giấc Mơ (Chuyện giả tưởng) – Tác giả: Phùng Văn Phụng 10/25/2025 (33)
  • imagesTUỔI GIÀ SỐNG KHỔ NẾU KHÔNG BỚT 5 CÁI DẠI NÀY 10/26/2025 (25)
  • imagesCẦU NGUYỆN ĐỂ TÌM KIẾM SỰ HƯỚNG DẪN CỦA CHÚA – Rev. Ron Rolheiser, OMI  10/28/2025 (25)
  • imagesThiên đàng là gì? 10/15/2025 (25)
  • images (1)Sự tha thứ: 15 Trích dẫn từ các Vị Thánh 10/09/2025 (28)
  • download (1)Vài suy nghĩ về tuổi 80 – Tác giả: Phùng Văn Phụng 11/09/2025 (24)
  • images RƠI! 10/22/2025 (23)
  • downloadNHỮNG CHUYẾN XE CUỘC ĐỜI 11/08/2025 (22)
  • images (1)MÓN QUÀ THIÊN CHÚA QUÝ NHẤT – Lm. Mark Link, S.J. 10/23/2025 (21)
  • download (1)VỀ GIÀ 10/05/2025 (44)
  • download6 DẤU HIỆU CHO THẤY BẠN ĐANG TRẦM CẢM, CHỨ KHÔNG PHẢI LƯỜI BIẾNG 10/19/2025 (20)
  • downloadTIỆC ĐỜI ĐỜI – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế 11/03/2025 (20)
  • imagesHoàng Xuân Chiến, thứ trưởng Quốc Phòng CSVN, ‘sờ mó tình dục’ ở Nam Hàn 10/20/2025 (18)
  • 476277780_939435234968290_933893222946187025_n*BÍ ẨN VỀ NGÔI MỘ CỦA ÔNG TỔNG BÍ THƯ TRẦN PHÚ TRONG NGHĨA TRANG ĐÔ THÀNH – SÀI GÒN 10/18/2025 (17)
  • 6887555608_f4e5cf1556_zCó Một Người Phụ Nữ Như Thế – Hoàng Thị Bích Hà-Truyện ngắn HAY 11/06/2025 (15)

Bạn đọc bốn phương

Flag Counter

BÀI VIẾT THEO THÁNG NĂM

BÀI VIẾT THEO THỂ LOẠI

Loạt Bài Mới Đăng

  • Trăm hoa đua nở trên đất Bắc – Hoàng Văn Chí 11/18/2025
  • CSVN kêu gọi 5 Việt kiều ở hải ngoại bị chụp mũ ‘khủng bố’ ra đầu thú 11/18/2025
  • Cái chết của cô giáo trẻ…- Thái Hạo 11/18/2025
  • 10 CÂU  NÓI  KINH ĐIỂN CỦA NGƯỜI DO THÁI 11/17/2025
  • Bị Bộ Công an Việt Nam khởi tố, ông Lê Trung Khoa lên tiếng 11/17/2025
  • Thánh Elizabeth ở Hung Gia Lợi (1207-1231)- Cha Vương 11/17/2025
  • ĐÓI GIÊSU – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế 11/17/2025
  • Đạo chích bậc thầy – Đoàn Xuân Thu 11/17/2025
  • Kết quả giảo nghiệm: Bà gốc Việt ở San Francisco giết chồng con rồi tự tử 11/16/2025
  • Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình. (Lc 21:19) – Cha Vương 11/16/2025
  • NGỦ NGON – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế 11/16/2025
  •  Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người ​đàn bà- Cha Vương 11/15/2025
  • TRUYỀN CẢM HỨNG – Lm. Minh Anh – Tgp. Huế 11/15/2025
  • Ba tù nhân lương tâm được trao Giải Nhân Quyền Việt Nam 2025 11/15/2025
  • Năm Thánh – Năm Hồng Ân #50: Thầy phó tế Cường và cô Tuyết, California, Mỹ 11/15/2025
  • TỬ ĐẠO, MỘT CHỌN LỰA CỦA LÒNG TIN –  Lm. Đaminh Xuân Trường, GP.Bắc Ninh  11/15/2025
  •  HỒI HƯƠNG – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế 11/14/2025
  • Trời [Thiên đàng] là gì? – Cha Vương 11/14/2025
  • Chị không thấy đất nước mình đã thay đổi nhiều lắm sao? 11/14/2025
  • Josephine Chen hành nghề bác sĩ suốt 40 năm ở Laramie 11/13/2025
  • LIÊN LẠC
Proudly powered by WordPress