Sự khác biệt giữa độc tài và dân chủ

Sự khác biệt giữa độc tài và dân chủ

Ảnh minh hoạ: Cảnh sát Việt Nam dùng loa kêu gọi dân chúng và các nhà báo rời khỏi khu vực gần Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội, Việt Nam, ngày 18/5/2014.

Ảnh minh hoạ: Cảnh sát Việt Nam dùng loa kêu gọi dân chúng và các nhà báo rời khỏi khu vực gần Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội, Việt Nam, ngày 18/5/2014.

Nguyễn Hưng Quốc

Cách đây mấy ngày, tình cờ tôi gặp lại một người quen, trước, sống ở Úc, sau, về Việt Nam làm việc từ cả hơn 20 chục năm nay. Thỉnh thoảng, vài ba năm một lần, anh về lại Úc để thăm gia đình. Tôi hỏi cảm tưởng của anh mỗi lần quay lại Úc.  Ngẫm nghĩ một lát, anh cho biết: Mỗi lần về Úc, anh cảm thấy thoải mái hơn, tự tin hơn, và nhất là, được tôn trọng hơn, do đó, thấy mình… “người” hơn.

Điều anh nói, tôi cũng đã từng nghe nhiều người khác nói, những người vừa sống ở Úc vừa sống ở Việt Nam.  Tất cả đều nói giống nhau: Ở Việt Nam, người ta cảm thấy cái phần “người” của họ bị đè bẹp, chỉ còn rất nhỏ, còm cõi, yếu ớt, thảm hại. Chủ yếu là vì lúc nào cũng sợ sệt người khác. Ở nhà thì sợ người khác cạy cửa ăn trộm, có khi, giết chết. Ra đường thì, một mặt, sợ tai nạn giao thông; mặt khác, sợ cảnh sát giao thông quấy nhiễu, tìm cớ để ăn hối lộ. Vào các công sở thì lúc nào cũng thấy bị uy hiếp. Sợ nhất là gặp công an. Làm ăn lương thiện, không có tội gì cả, nhưng cứ hễ thấy bóng công an là thấy bất an, hồi hộp, lo lắng. Nói chung, ở Việt Nam, lúc nào người ta cũng căng thẳng vì sợ hãi. Ở Úc thì khác. Gặp ai cũng được chào hỏi một cách thân mật. Rất hiếm thấy cảnh sát. Mà có thấy cũng không lo sợ vì biết chắc sẽ không ai làm khó dễ gì mình. Khi cần làm giấy tờ, bước vào cửa các cơ quan công quyền, người ta hoàn toàn tự tin là mình sẽ được phục vụ theo đúng quy định chứ không bị sách nhiễu như ở Việt Nam.

Tôi cho những kinh nghiệm như thế tiết lộ cho chúng ta sự khác biệt sâu sắc giữa một chế độ độc tài và một chế độ dân chủ.

Nói đến sự khác biệt giữa độc tài và dân chủ, lâu nay, người ta chủ yếu chỉ nhìn vấn đề từ góc độ chính trị; ở chính trị, người ta chủ yếu tập trung vào yếu tố cơ chế; và trong cơ chế ấy, người ta quan tâm nhiều nhất đến các quan hệ quyền lực. Thật ra, dưới chế độ nào, giới lãnh đạo cũng đều có rất nhiều quyền lực. Chỉ khác ở một số điểm: Một, quyền lực, dưới chế độ độc tài, có tính tuyệt đối, nằm hẳn trong tay của một người hoặc một nhóm người; dưới chế độ dân chủ, có tính chất tương đối và được phân tán, ít nhất trong ba lãnh vực khác nhau, thường được gọi là tam quyền phân lập (hành pháp, lập pháp và tư pháp). Hai, quyền lực, dưới chế độ độc tài, chủ yếu là do cưỡng đoạt hoặc lạm dụng; dưới chế độc dân chủ, chủ yếu là được dân chúng uỷ thác trong các cuộc bầu cử tự do, bình đẳng và minh bạch. Ba, quyền lực, dưới chế độ độc tài, nằm trên cả luật pháp, ở đó, luật pháp được sử dụng như một công cụ để đàn áp dân chúng (rule by law); dưới chế độ dân chủ, bị kiểm soát bởi luật pháp (rule of law). Và bốn, quyền lực, dưới chế độ độc tài, có thể kéo dài cho đến lúc bị sụp đổ; dưới chế độ dân chủ, có tính chất nhiệm kỳ.

Sự khác biệt giữa độc tài và dân chủ cũng có thể được nhìn từ một góc độ khác: nhân quyền. Nói một cách tóm tắt, độc tài chà đạp lên quyền làm người căn bản của con người trong khi dưới các chế độ dân chủ, các quyền ấy được tôn trọng. Trong các quyền ấy, có ba loại quyền quan trọng hơn hết: Thứ nhất là quyền được tự do suy nghĩ và tự do phát biểu dưới mọi hình thức. Thứ hai là quyền được chọn lựa giới lãnh đạo qua các cuộc bầu cử. Và thứ ba là quyền kiểm soát, phản biện, phê phán, thậm chí, phản đối các chính sách của chính phủ một cách công khai qua các phương tiện truyền thông cũng như các cuộc biểu tình bất bạo động.

Ở Việt Nam hiện nay, không có quyền nào trong ba thứ quyền nêu trên được tôn trọng đúng nghĩa. Người dân được quyền tự do suy nghĩ nhưng lại có rất ít quyền tự do phát biểu. Phát biểu ở chỗ riêng tư, với bạn bè hoặc người thân thì được, nhưng phát biểu công khai trên các phương tiện truyền thông đại chúng – vốn hầu hết đều nằm trong tay nhà nước – thì bị hạn chế và không ít trường hợp, bị trù dập. Hơn nữa, những cái được gọi là tự do tư tưởng đều chỉ có ý nghĩa tương đối. Đã đành là ở Việt Nam hiện nay, khác với trước đây, không có cảnh “đem bục công an đặt giữa trái tim người” như lời Lê Đạt thời Nhân Văn Giai Phẩm. Nhưng khi người dân không có quyền tìm kiếm và lưu giữ thông tin, khi người dân chỉ được tiêu thụ những thông tin do chính quyền sàng lọc và cung cấp, họ cũng không thực sự có quyền tự do tư tưởng.

Người dân cũng được đi bầu Quốc hội, nhưng thứ nhất, người ta chỉ được bầu những người đã được lựa chọn sẵn; và thứ hai, bản thân Quốc hội cũng chả có quyền lực gì đáng kể trong hệ thống chính trị tại Việt Nam. Những lá phiếu của dân chúng chỉ là những chi phiếu giả, không có tiền thế chấp, do đó, không có giá trị gì cả. Nó chỉ tạo ra ảo tưởng tự do nhưng lại không phải là tự do thật.

Riêng các quyền phản biện và chống đối thì bị bóp nghẹt hoàn toàn. Cho đến nay, chính phủ và Quốc hội hứa hẹn sẽ soạn luật về biểu tình nhưng cả hai đều cứ lần khân khất hẹn mãi.  Những cuộc biểu tình, dù một cách chính đáng, ví dụ chống các hành động gây hấn ngang ngược của Trung Quốc, đều bị cấm đoán; một số người tổ chức hoặc tham gia bị bắt bớ, có người bị cầm tù dưới nhiều tội danh khác nhau.

Việc tôn trọng các quyền làm người cũng là việc tôn trọng con người. Không ai thực sự là người nếu các quyền căn bản của họ không được tôn trọng. Bởi vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi sống ở dưới các chế độ dân chủ, người ta không những được tự do mà còn thấy tự tại phơi phới, thấy mình đích thực là mình.

Việt Nam vẫn còn chia cách: vết thương chậm hồi phục, ít có triển vọng cho con cái của đồng minh Mỹ

Việt Nam vẫn còn chia cách: vết thương chậm hồi phục, ít có triển vọng cho con cái của đồng minh Mỹ

Bloomberg

Tác giả: John Boudreau K Oanh Ha

Người dịch: Trần Văn Minh

23-12-2015

Những gia đình từng là đồng minh Mỹ, bị ngăn cản, không được gia nhập Đảng Cộng sản

H1Vũ Tiến, một sinh viên đại học tại thành phố Hồ Chí Minh, giữ hình ảnh của cha, người đã phục vụ trong quân đội VNCH đã từng cầm quyền miền nam từ năm 1954 đến 1975. Nguồn: Bloomberg

Là một sinh viên tốt nghiệp từ một trong những trường có uy tín nhất ở Việt Nam, Cao, 22 tuổi, dường như có một tương lai tươi sáng phía trước – nếu gạt bỏ vấn đề lý lịch sang một bên. Anh tìm thấy triển vọng về sự nghiệp của mình bị vây hãm bởi những di sản còn sót lại của một cuộc chiến đã kết thúc gần hai thập niên trước khi anh được sinh ra.

Hai người bác của anh đã phục vụ trong quân đội bị thua trận của miền Nam Việt Nam, là đồng minh của Hoa Kỳ trong suốt những gì được biết ở Việt Nam là “cuộc chiến chống Mỹ”. Sau khi đất nước thống nhất dưới sự cai trị của Đảng Cộng sản Việt Nam, mẹ của anh đã bị từ chối, không được vào học đại học vì sự liên hệ của người anh với chính quyền miền Nam. Ngay cả khi Việt Nam nới lỏng các quy định cũ trừng phạt những người có liên quan tới Việt Nam Cộng Hòa trước đây, nhiều người ở miền Nam tin rằng hệ thống vẫn ưu đãi những người có mối quan hệ với cộng sản.

H2Cha của Vũ Tiến, bên phải, đứng cùng với các đồng đội trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Nguồn: Vũ Tiến

Cao thậm chí không màng xin việc tại các công ty do nhà nước kiểm soát ở Việt Nam, là các công ty cung cấp việc làm bền vững, các khoản tiền thưởng và gia tăng cơ hội việc làm cho các thành viên gia đình. “Để có thể kiếm được việc làm trong hệ thống nhà nước, một người phải có bố mẹ hoặc người thân làm việc ở đó, vì vậy những người dân bình thường như chúng tôi không thể tới gần những công ty đó được“. Cao, một sinh viên tốt nghiệp trường Đại học Ngoại thương Thành phố Hồ Chí Minh, cho biết.

Thảo luận về mối quan hệ của một người với chính quyền Sài Gòn cũ là một chủ đề nhạy cảm và Cao yêu cầu chỉ sử dụng tên họ của mình. Cuối cùng, anh tìm được việc làm tại một công ty bất động sản tư nhân. “Nếu công ty nhà nước quan tâm đến lý lịch gia đình của tôi, chắc chắn tôi sẽ thất bại”, anh nói.

H3Quân đội Cộng sản tấn công dinh tổng thống ở Sài Gòn, đánh dấu sự kết thúc chiến tranh vào ngày 30-4-1975. Ảnh: Jean-Claude Labbe/Gamma-Rapho via Getty Images

Cuộc chiến bên trong

Kinh nghiệm của anh phản ánh một thực tế kinh tế đối với người dân miền Nam 40 năm sau khi quân đội cộng sản thống nhất đất nước – một sự mỉa mai vô cùng tận. Ngay cả khi mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đã cải thiện đáng kể từ khi quan hệ ngoại giao đầy đủ được khôi phục vào năm 1995, các vết thương xã hội bên trong chưa hoàn toàn bình phục từ cuộc chiến huynh đệ tương tàn, đã giết chết khoảng 3 triệu người Việt.

Việt Nam vẫn là một quốc gia phân biệt giai cấp, trong đó truyền thống phân biệt đối xử đối với các cựu đồng minh của Mỹ đang kềm hãm nền kinh tế, bằng cách loại trừ một số người giỏi và thông minh nhất nước, ra khỏi những vị trí hàng đầu tại các công ty nhà nước và chức vụ chính quyền. Mối căng thẳng chiến tranh chưa giải tỏa tại quốc nội cũng xua đuổi đầu tư tiềm năng và chuyên môn cần thiết của nhiều người Việt Nam ở nước ngoài.

Cộng đồng người Mỹ gốc Việt, với con số đông 1,8 triệu người, là nhóm cộng đồng hải ngoại lớn nhất bên ngoài quê hương, bị chia rẽ trong mối liên hệ với chế độ cộng sản. Nhiều người không muốn đầu tư tiền và khả năng chuyên môn về quê hương vì chính quyền vẫn nhìn họ dưới con mắt ngờ vực, ông Nguyễn Thịnh cho biết, là người đã bỏ sự nghiệp ở Silicon Valley để thành lập một công ty phần mềm tại thành phố Hồ Chí Minh.

Ông nói: “Trừ khi các cộng đồng ở nước ngoài thấy một vài nỗ lực hòa giải, Việt Nam sẽ không hấp dẫn được những thành phần tinh túy nhất nước ngoài. Rất nhiều lần, người Việt nước ngoài không được đối xử công bằng, chứ đừng nói đến được hoan nghênh ở đây“.

Một trở ngại lớn cho phát triển kinh tế của Việt Nam là sự thiếu hụt kỹ năng bởi vì hệ thống đại học của Việt Nam không đáp ứng được nhu cầu của một nền kinh tế hiện đại, Trinh Nguyễn, nhà kinh tế kỳ cựu về Á Châu đang trỗi dậy, làm cho Công ty Natixis SA có trụ sở ở Hồng Kông, nói: “Một trong những cách dễ nhất để Việt Nam lấp đầy khoảng cách nàyban hành những chính sách thu hút và giữ chân những người Việt ở nước ngoài có kỹ năng cao“.

Lập trường của Hà Nội rằng cuộc xung đột không phải là một cuộc nội chiến, mà là cuộc cách mạng chống lại Mỹ và chính quyền bù nhìn Sài Gòn, là “trở ngại lớn nhất đối với hòa giải”. Huy Đức, một cư dân đến từ Hà Nội và là tác giả sách “Bên Thắng Cuộc”, một quyển sách về Việt Nam sau khi thống nhất đất nước, nói.

Ông Đức nói: “Chế độ hiện tại này chưa từng suy nghĩ một cách nghiêm túc về vấn đề hòa giải thực sự. Họ luôn luôn khẳng định mình là kẻ thắng cuộc chiến và là bậc thầy của dân tộc“.

H4Quốc kỳ và biểu ngữ chào mừng Đảng Cộng sản được trang trí trên đường phố Hà Nội, Việt Nam. Nguồn: Justin Mott/Bloomberg

Sau chiến tranh, các đảng viên được tin cậy của Đảng Cộng sản và gia đình của họ được tưởng thưởng với những chức vụ hàng đầu, trong khi những người Việt Nam là đồng minh của Mỹ thì bị trừng phạt và con cái của họ bị từ chối các cơ hội. Nhiều người miền Bắc đã được gửi đến miền Nam bị chinh phục. Ngày nay, chính sách đó đã góp phần vào hệ thống vững chắc, vẫn mang vẻ nghiêng về phía người Bắc và Đảng viên Cộng sản:

  • 22 trong số 25 doanh nghiệp nhà nước lớn nhất của Việt Nam có trụ sở tại Hà Nội, thủ đô của đất nước.
  • ĐảngCộng sản không chấp nhận là đảng viênnếu cha mẹ của một người (hoặc cha mẹ của người phối ngẫu) từng làm việctrong chính quyền [cũ] hoặc”quân đội của kẻ thù”.
  • Haiphần ba trong khoảng 3triệu đảngviên Cộng sảncủaViệt Namcư ngụ ở các tỉnhphía Bắccủa đất nước,từ QuảngTrịtrở ra,tính đến năm 2010, theoCarlyleThayer, giáo sư danh dựvàchuyên giavề Việt NamtạiHọc việnQuốc phòngÚcởCanberra. Miền Bắcchiếm 46%, trong số 87triệu dâncủa đất nước.
  • Khoảng 70% nội cácchính phủ hiện nay là người miền Bắc, so với 30% từ các tỉnh miền Namvà miền Trung.

Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ Ngoại giao và Bộ Công an đã không trả lời các câu hỏi về hòa giải trước khi bài viết này được đăng tải.

Trong một bài diễn văn nhân ngày 30 tháng 4 tại thành phố Hồ Chí Minh, đánh dấu kỷ niệm 40 năm thống nhất đất nước, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kêu gọi người Việt tại quê hương và hải ngoại “nêu cao chủ nghĩa dân tộc, lòng yêu nước, truyền thống nhân đạo, khoan dung, không phân biệt quá khứ, vượt lên trên những khác biệt, để thật tâm hòa giải dân tộc”.

Trả thù sau chiến tranh

Sau khi bị cộng sản tiến chiếm, Sài Gòn được đổi tên là Thành phố Hồ Chí Minh và hơn 1 triệu người, gồm những người đã chiến đấu bên cạnh quân đội Mỹ hoặc phục vụ trong chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cũ, đã bị đưa đến các trại cải tạo, theo báo cáo của Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc.

Toàn bộ các gia đình, thường kéo dài đến ba thế hệ, được coi là có “lý lịch gia đình xấu” bởi vì mối liên quan của họ với chính phủ đã bị sụp đổ. Hệ thống kiểm tra lý lịch đó, vẫn còn tồn tại đến ngày nay, đã ngăn cản nhiều người không xin được việc làm hay bước vào các trường đại học. Sự đối xử khắc nghiệt góp phần vào luồng di cư của hơn 1 triệu người Việt Nam tỵ nạn.

H5

Đó sự phân biệt đối xử khi quy định ngăn cấm gia nhập đảng đối với những người cha mẹ hoặc cha mẹ bên vợ, bên chồng làm việc cho chế độ cũ“, ông Vũ Tiến, người học đại học tại thành phố Hồ Chí Minh và yêu cầu không sử dụng tên đầy đủ của mình, cho biết. Cha anh phục vụ trong quân đội miền Nam, Việt Nam, và ông quyết định di cư đến một nước phương Tây vì anh thấy triển vọng kinh tế tốt hơn cho bản thân ở nước ngoài. “Đó một chính sách bất công và vô nghĩa, từ khi chiến tranh kết thúc 40 năm trước đây“.

Bằng nhiều cách, hận thù đã dịu lại qua nhiều thập niên giữa những kẻ thù cay nghiệt một thời, và thái độ của khu vực cũng góp phần vào sự mất cân bằng chính trị và kinh tế. Con gái của ông Dũng, một người miền Nam, từng bị thương khi là một y tá Việt Cộng trong cuộc chiến, đã kết hôn với Henry Nguyễn, người Mỹ gốc Việt, người có cha từng làm việc cho chính phủ miền Nam Việt Nam. Người Việt có quan hệ với chế độ cũ hiện nay, có thể đạt được một số vị trí trong chính phủ và các doanh nghiệp nhà nước, mặc dù họ không thể giữ các chức vụ hàng đầu, ông Đức và các nhà nghiên cứu khác cho biết.

Sự phân chia giữa đảng viên miền Bắc và miền Nam gắn liền với di sản của cuộc chiến – đa số các nhà cách mạng cộng sản đến từ miền Bắc – và sự thờ ơ của người miền Nam đối với đảng, ông Thayer nói. “Điều này là khá rõ rệt. Gia nhập đảng không cần thiết đối với nghề nghiệp của họ. ‘Tôi không thể làm một công an, thì sao nào?’ Miền Bắc thắng được cuộc chiến và miền Nam thắng được kinh tế“. Ông Thayer cho biết.

H6

Nhiều sinh viên tốt nghiệp trẻ, đặc biệt là những người ở miền Nam, thích làm việc cho các công ty nước ngoài như Intel Corp và Samsung Electronics Co. Nền kinh tế phồn thịnh của Việt Nam – mà chính quyền dự báo sẽ phát triển 6,7% trong năm tới, tốc độ nhanh nhất trong 9 năm – cung cấp nhiều cơ hội nghề nghiệp ngoài khu vực nhà nước. Nhiều chuyên gia trẻ ở miền Nam cũng cho biết, họ không có ý muốn gia nhập Đảng Cộng sản.

Thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm tài chính của Việt Nam và quê hương của những người Việt có quan hệ với chính quyền miền Nam cũ, đã làm nên gần ¼ tổng sản lượng quốc nội (GDP) của đất nước. Hà Nội, ngược lại, đóng góp 10% cho GDP.

Dù sao những thuận lợi cho kẻ chiến thắng tiếp tục làm thay đổi hình thái kinh tế, từ việc tuyển dụng các chức vụ quan chức chính phủ quan trọng, giúp định hình chính sách tài khóa, cho tới sự ưu đãi đối với các công ty nhà nước có trụ sở ở miền Bắc, là các công ty có được sự tiếp cận ưu tiên nguồn vốn từ các ngân hàng do Chính phủ bảo trợ. Các công ty nhà nước sử dụng khoảng 50% đầu tư công của Việt Nam và hút 60% các khoản vay ngân hàng của đất nước, trong khi chỉ đóng góp 1/3 cho GDP, theo số liệu của chính quyền.

H7Những con gà chạy nhảy ngang qua một nghĩa trang đổ nát của hàng ngàn binh lính miền Nam, Việt Nam gần thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Nguồn ảnh: John Boudreau/Bloomberg

“Chế độ hiện tại này chưa bao giờ suy nghĩ nghiêm túc về vấn đề hòa giải thực sự”.

H8Quân đội cộng sản vui cười, ngồi trên nóc xe tải và xe bọc thép ở Sài Gòn khi chiến tranh kết thúc vào tháng 4-1975. Nguồn: AFP/Getty Images

Vấn đề trung thành

Thuật ngữ sau chiến tranh dùng để ngăn cản sự tiếp cận vẫn là một phần của tâm lý và tiếng địa phương của Việt Nam ngày nay: các mẫu đơn chính thức về lịch sử gia đình được yêu cầu đối với các trường học và công việc, đòi hỏi người nộp đơn phải liệt kê những gì các thành viên gia đình đã làm “trước và sau ngày 30 tháng 4 năm 1975”. Cho đến hôm nay, thuật ngữ “ngụy” dùng cho “chế độ bù nhìn” vẫn còn được sử dụng thường xuyên.

Người Việt viết cho các hãng tin trực tuyến và luật sư trên mạng để hỏi xem họ có thể gia nhập Đảng Cộng sản nếu họ có người trong gia đình phục vụ chế độ “ngy“. Một công ty luật trả lời một câu hỏi trực tuyến vào tháng 10, liệu kết hôn với một viên công an sẽ được phép, khi người phối ngẫu có quan hệ với chế độ cũ. (Luật sư trả lời rằng sẽ không được Bộ Công an cho phép). Một người yêu cầu hỗ trợ pháp lý sau khi ông bị các quan chức tỉnh từ chối việc làm, với lý do bố vợ của ông là một nhân viên kế toán trong chính quyền Sài Gòn.

“Hệ thống chính trị Việt Nam đánh giá cao sự trung thành”, ông Nguyễn Xuân Thành, một thành viên thâm niên của Đại học Hành chánh Kennedy của Harvard tại Việt Nam, có trụ sở ở Thành phố Hồ Chí Minh, cho biết. “Hiện vẫn còn mối quan tâm thực sự về những gì họ gọi là diễn biến hòa bình – giới cao cấp trong hệ thống chính quyền từ từ trở nên chống đảng và mất niềm tin vào chủ nghĩa xã hội”.

Trong khi đó, các cựu chiến binh và những người “có công với cách mạng” khác – một sự chỉ định tính anh hùng vẫn được sử dụng ngày nay – và gia đình của họ nhận được trợ cấp theo luật hàng tháng, bảo hiểm y tế và sự đối xử ưu đãi trong việc gia nhập trường học và công ăn việc làm. Cựu chiến binh cộng sản được ưu tiên khi xếp hàng lên máy bay.

Các lợi ích kinh tế

Tình cảm phổ biến về phía những kẻ chiến bại được minh họa bằng một nghĩa trang đổ nát của hàng ngàn binh lính Nam Việt Nam, gần thành phố Hồ Chí Minh. Một số ngôi mộ không còn gì hơn một đống đất và những mộ khác thiếu bia đá. Nhân viên bảo vệ sử dụng nghĩa trang để nuôi gà. Bên kia đường cao tốc gần đó, những ngôi mộ của các cựu chiến binh chiến đấu bên phía những người Cộng sản thì được chăm sóc cẩn thận và được bao quanh với những luống hoa trong “nghĩa trang liệt sĩ”.

Việc hoà giải những vết thương cũ sẽ mang lại cho nền kinh tế sức mạnh hơn nữa, ông Tương Lai nói. Ông là một giáo sư xã hội học và là đảng viên Đảng Cộng sản, là người đã từng cố vấn cho cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Cựu Thủ tướng trông coi việc cải cách kinh tế vào thập niên 1990, nối lại quan hệ ngoại giao với Mỹ và kêu gọi hòa giải dân tộc trong một cuộc phỏng vấn của báo chí năm 2005.

Ông Tương Lai nói: “Để hội nhập với thế giới, chính quyền Việt Nam đầu tiên cần phải hòa giảilàm bạn với những người dân mà họ coi là kẻ thù. Nếu chúng ta không có một sự hòa giải thực sự trong nước, làm sao chúng ta có thể làm điều đó với thế giới?

Ông Mao Trạch Đông mê giết người thế nào?

Ông Mao Trạch Đông mê giết người thế nào?

“Số người Trung Quốc chết vì một quả bom nguyên tử của Mao gấp trăm lần số người chết vì hai quả bom nguyên tử do Mỹ ném xuống Nhật Bản.” (Ảnh: internet)

“Số người Trung Quốc chết vì một quả bom nguyên tử của Mao gấp trăm lần số người chết vì hai quả bom nguyên tử do Mỹ ném xuống Nhật Bản.” (Ảnh: internet)

Bao nhiêu người Trung Quốc chết trong 3 năm Đại nhảy vọt?

Cựu Chủ tịch Mao Trạch Đông được Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) phong là sư tổ, từng có bài thơ «Thấm viên xuân – Tuyết» thể hiện sự xem thường các bậc đế vương trong lịch sử. Các vua chúa như Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế, Đường Thái Tông, Tống Thái Tổ, thậm chí Thành Cát Tư Hãn, tất cả đều không đáng để ông ta để mắt đến.

Khởi đầu từ năm 1949, Mao Trạch Đông làm ‘hoàng đế’ được 27 năm, tàn sát hơn 60 triệu người Trung Quốc. Ông ta dùng thủ đoạn để cướp chính quyền. Là kẻ điên cuồng với quyền lực, Mao Trạch Đông đã có âm mưu lại có cả dương mưu, lừa gạt dân chúng và khống chế các đối thủ trong Đảng, độc tài cho đến tận hơi thở cuối cùng.

Mao dìu dắt ĐCSTQ cướp chính quyền và được cho là thành công, thực ra cách Mao làm chẳng qua là loại kế sách bẩn thỉu có từ cổ xưa, gọi là ngư ông đắc lợi. Loại mưu mô xảo quyệt này đã được dùng nhiều trong lịch sử Trung Quốc. Sau đây là hai ví dụ:

Vào thời mạt nhà Tần, Hạng Vũ xuất quân quyết chiến quân chủ lực nhà Tần, có công đầu trong diệt nhà Tần. Còn Lưu Bang nhân cơ hội lúc Hạng Vũ và quân Tần quyết chiến đã cướp được Hàm Dương. Sau đó Lưu Bang lại giả vờ thần phục Hạng Vũ rồi âm thầm tích lũy thế lực như tằm ăn rỗi, cuối cùng diệt được Hạng Vũ.

Thời mạt nhà Minh, đội quân nông dân của Lý Tự Thành trường kỳ quyết chiến với nhà Minh, tiểu quốc Mãn Thanh khi đó chiếm cứ vùng biên giới phía đông bắc rồi lặng lẽ quan sát. Lý Tự Thành mất bao nhiêu khổ công cuối cùng mới chiếm được thủ phủ nhà Minh, đang lúc chưa kịp nghỉ ngơi thì quân đội nhà Thanh dưới sự dẫn dắt của Ngô Tam Quế đột nhập vào Sơn Hải Quan đánh Lý Tự Thành. Với đội quân kỵ binh tinh nhuệ 50 nghìn quân đã tiêu diệt Lý Tự Thành và diệt luôn nhà Minh, lập nên triều Mãn Thanh ngoại lai.

Điểm xuất phát của ông Mao Trạch Đông và ĐCSTQ cũng là sự lặp lại của lịch sử: lợi dụng lúc quân Nhật đánh vào, mặc cho quân chính phủ và quân Nhật quyết chiến. Quân Cộng sản chỉ đánh Nhật giả vờ, chiếm cứ địa bàn khắp nơi rồi chuẩn bị lực lượng. Đợi đến khi quân Nhật rút lui, sức mạnh quân chính phủ cũng suy giảm đáng kể, lúc này quân đội ĐCSTQ mới thừa cơ hội tạo loạn và cướp chính quyền.

Cải cách ruộng đất với khẩu hiệu “đánh cường hào, chia ruộng đất” là một lá bùa khác của Mao Trạch Đông. Thực ra, nhìn vào lịch sử, đây cũng là một cách khởi nghiệp thường thấy của những thủ lĩnh nông dân. Ông Mao Trạch Đông áp dụng chiêu này để lừa thiên hạ. Đội quân Cộng sản Trung Quốc đã thực hiện “Cải cách ruộng đất” ở khắp nơi, cưỡng chế phân chia cấp bậc, tước đoạt quyền tư hữu tài sản, kích động quần chúng đánh địa chủ, dùng danh nghĩa “cách mạng” ngang nhiên xét xử và bắn chết địa chủ. Mao Trạch Đông lệnh cho tổ công tác “Cải cách ruộng đất” Cộng sản Trung Quốc: “Đặt chân đến đâu, việc đầu tiên là phải tạo ra cảnh tượng thật khủng bố”. Sau khi hệ thống chính quyền cơ sở của ĐCSTQ xây dựng kiên cố, người nông dân chia ruộng đất xong chưa kịp vui được mấy ngày lại bị ĐCSTQ cho “công xã hóa” tịch thu hết. ĐCSTQ ra lệnh nông dân phải nộp lại toàn bộ ruộng đất, thậm chí cả trâu cày và nông cụ. Mọi tài sản đều thuộc về sở hữu của ĐCSTQ.

Cái gọi là “Cải cách ruộng đất” chỉ là một trò bịp bợm, mãi cho đến tận ngày nay ĐCSTQ vẫn quy định ruộng đất là sở hữu công, cũng tức là sở hữu của Đảng, không chịu trả lại ruộng đất cho nông dân, dùng phương thức cho thuê, thầu khoán để giao ruộng cho nông dân cày cấy.

Trong “Phong trào Ngũ Tứ”, thanh niên Mao Trạch Đông khi viết thư cho chiến hữu Thái Hòa Sâm từng nói rõ: “Tôi ghét cay ghét đắng chủ nghĩa yêu nước”, như Hitler viết trong cuốn «Cuộc tranh đấu của tôi» (Mein Kampf), sau này Mao viết lời hứa thuở thanh niên của ông ta. Mao không chỉ muốn lợi dụng lúc giặc Nhật xâm lược để hòng tìm cách cấu kết với Nhật lợi dụng lúc quốc nạn mà phát tài, hơn nữa còn luôn xem văn hóa Trung Hoa như kẻ thù.

Trong “Cách mạng Văn hóa”, ông Mao Trạch Đông đã dốc tận lực để hủy hoại toàn bộ văn hóa, văn vật, di tích của Trung Quốc. Cả đời ông tôn Nga và Đức với Marx, Engels, Lenin, Stalin làm thầy, trước lúc chết còn không quên lải nhải “muốn được gặp Marx”. Câu nói này giờ đã trở thành câu kinh cửa miệng của tập đoàn quan chức ĐCSTQ.

Thứ “triết học” đấu tranh mà Mao theo đuổi là loại triết học bạo lực, triết học thù hận. Để thu lấy quyền lực, ông ta quen nhìn mọi người như kẻ thù, vì thế không chỉ xem Quốc dân Đảng là kẻ thù mà còn xem chính người của mình như kẻ thù, hoặc là kẻ thù tiềm ẩn. Bất cứ ai chỉ cần hơi kín đáo phê bình ông ta là sẽ bị xếp vào đối tượng để thanh trừng.

Sau “Cách mạng Văn hóa”, ông Hồ Diệu Bang từng phụ trách công tác tổ chức của ĐCSTQ, đã tổng kết về “Đại Cách mạng Văn hóa” của ông Mao Trạch Đông với 100 triệu người bị đấu tố, 80 nghìn gia đình bị hủy hoại, 5 triệu người bị kết án, 7.030.000 người bị tàn phế, số người tự sát lên đến 2 triệu người, gần 200 nghìn người bị xử bắn vì tội danh chính trị.

Đảng Cộng sản Trung Quốc thống trị quốc gia đã thực hiện nền chính trị giết người. Trên thế giới, nhiều người đã ví ông Mao Trạch Đông với Hitler và Stalin, mệnh danh là “ba đại đồ tể” của thế kỷ 20. Nhưng theo thống kê ghi chép lại thì ông Mao chính là kẻ giết người kinh khủng nhất, Hitler và Stalin không thể sánh bằng được.

Hitler giết 6 triệu người Do Thái, Stalin giết 12 triệu người Nga, còn Mao Trạch Đông giết ít nhất cũng lên đến 30 triệu người Trung Quốc, tính cả người bị đói mà chết thì con số lên đến 70 triệu người. Mao nghiện giết người, bất kể thời chiến hay thời bình, có bao nhiêu người chết ông ta không bao giờ quan tâm.

Nội tâm Mao Trạch Đông khinh rẻ nhân dân Trung Quốc, không chỉ giết người hàng loạt, ông ta còn luôn xem dân Trung Quốc như kẻ thù, còn nói ngông cuồng muốn có chiến tranh hạt nhân, không tiếc “hy sinh một nửa dân số Trung Quốc”. Để phát triển quân sự, bất chấp dân chúng phản đối, ông ta tước đoạt lương thực của dân chúng khiến vô số người bị chết đói, thế nhưng vẫn xuất khẩu ồ ạt lương thực để đổi lấy trang bị vũ khí.

Trong tác phẩm tiểu sử Mao Trạch Đông của nữ nhà văn nổi tiếng người Anh gốc Trung Quốc là Trương Nhung, đã viết: “ĐCSTQ chế tạo ra một quả bom nguyên tử tốn 4,1 triệu Mỹ kim. Tính theo vật giá thời đó, có thể cứu được 38 triệu người chết đói”. Nhà văn đau xót nói:

“Số người Trung Quốc chết vì một quả bom nguyên tử của Mao gấp trăm lần số người chết vì hai quả bom nguyên tử do Mỹ ném xuống Nhật Bản.”

Là kẻ cầm quyền mà không quan tâm đến quốc kế dân sinh, thản nhiên phá hoại nền kinh tế, có lẽ xưa nay không ai sánh bằng cựu Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông.

Ông ta cao giọng: “Thà lấy cỏ của Chủ nghĩa Xã hội, không lấy mạ của Chủ nghĩa Tư bản”. Trong 26 năm cầm quyền, nền kinh tế Trung Quốc bại hoại, nhân dân sống tạm cho qua ngày, hàng chục triệu người dân bị chết đói. Điều này có lẽ suốt các thời đại trong lịch sử Trung Quốc, hoặc bất kể một quốc gia trên thế giới nào khác, cũng tuyệt không thể có.

Ông Mao Trạch Đông xem thường giáo dục, chửi rủa tri thức là “cục phân”, đại đa số tri thức bị sỉ nhục hoặc dày vò cho đến chết. Ông ta tuyên bố “chế độ giáo dục phải rút ngắn lại, phải làm cách mạng giáo dục”. Vào thời “Cách mạng Văn hóa“, giáo dục bậc cao của Trung Quốc hoàn toàn bị triệt tiêu, giáo dục trung và tiểu học cũng hoàn toàn hoang phế.

Cách mạng kiểu Mao tóm lại là: Lấy nông dân thay cho trí thức, lấy văn mù thay cho văn nhân, nếu ta nói không bằng ngươi thì ta không cần nói nữa mà dùng vũ lực, kẻ nào thắng kẻ đó chuyên chính, ta là lưu manh mặt dày tâm đen thì còn sợ ai.

Lý Nhuệ, một thư ký của ông Mao Trạch Đông tiết lộ, khẩu hiệu “Mao Chủ tịch vạn tuế” có từ năm 1950. Vào năm đó khi ông ta phê duyệt khẩu hiệu chào mừng ngày Quốc tế Lao động 1/5 đã tự mình bổ sung thêm vào, hơn chục năm sau thì khẩu hiệu này phổ biến khắp Trung Quốc.

Ông Mao Trạch Đông và ĐCSTQ tự xưng là tin vào “Chủ nghĩa Duy vật“, nhưng hành động lại tự mâu thuẫn, khiến người ta phải dở khóc dở cười. Ví như vừa ca lên một câu rằng xưa nay không tồn tại Chúa cứu thế, không có thần thánh, nhưng lại ngay lập tức lại tung hô ta chính là thần thánh của nhân dân!

Bạn trẻ ơi ! Hãy sống thật sung mãn.

Bạn trẻ ơi ! Hãy sống thật sung mãn.

Đoàn Thanh Liêm

*     *     *

DoanThanhLiem

Gần đây, tôi nhận thấy trên các ly đựng café Starbucks người ta có in một số câu nói thật ngắn gọn của Oprah Winfrey là một người rất nổi danh với chương trình hội thọai trên truyền hình tại Mỹ từ vài ba chục năm gần đây. Điển hình như câu phát biểu sau đây của người nghệ sĩ tài ba này : “Cuộc sống của bạn thật to lớn. Hãy tiếp tục vươn tới” – Nguyên văn tiếng Anh : “Your life is big. Keep reaching”.

Câu nói này khiến tôi liên tưởng đến cái khẩu hiệu rất thông dụng trong giới trẻ trên thế giới từ ba bốn chục năm nay. Câu đó chỉ gồm có 4 chữ thế này : “Think Globally, Act Locally”. Xin tạm dịch dài dòng cho rõ nghĩa hơn : “Hãy suy nghĩ toàn cục, Hãy hành động tại điạ phương”. Nhân tiện, tôi cũng xin trình bày một vài suy nghĩ liên hệ đến chủ đề này như sau.

I – Thích nghi với hòan cảnh mới của xã hội tiến bộ.

Ngày nay với sự tiến bộ thần kỳ của khoa học kỹ thuật cũng như sự thịnh vượng về mặt kinh tế tại khắp nơi trên thế giới – và đặc biệt là sự bùng nổ thông tin và giao lưu giữa các dân tộc – thì hiện tượng tòan cầu hóa càng ngày càng mở rộng trên khắp các lãnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa cũng như chính trị. Trong một thế giới văn minh phát triển như thế, thì mỗi cá nhân riêng lẻ – cũng như mỗi tập thể dân tộc của một quốc gia – đều phải cố gắng học tập, suy nghĩ, tìm hiểu để mà theo kịp được với những sự chuyển biến lớn lao của xã hội. Như dân gian ta thường nói : “ Mỗi khi nước nổi lên, thì con thuyền cũng phải dâng cao theo”. Đó là một quy luật trong cuộc tranh đấu sống còn của thiên nhiên cũng như của cộng đồng nhân lọai vậy.

Còn về mặt hành động, thì cũng phải thích nghi với hòan cảnh thực tế tại mỗi địa phương với những đặc thù về văn hóa xã hội cũng như về kinh tế chính trị riêng biệt tại mỗi nơi, mỗi lúc. Cụ thể như tại nhiều nơi trên thế giới kể từ thập niên 1950, người ta thường phát động những chương trình họat động gọi là “Phát triển Cộng đồng” (Community Development Program) nhằm cải thiện môi trường sinh họat của từng địa phương. Đó là những công tác cải tiến xã hội thực tiễn mà được thực hiện với sự tham gia tự nguyện và hăng say phấn khởi của chính người dân địa phương, ngay tại “hạ tầng cơ sở” nơi đó (at the grassroot).

Cũng tại các điạ phương, thì thường xảy ra những bất công áp bức do người có quyền thế gây ra làm khổ cực cho người dân “thấp cổ bé miệng, thân cô thế cô”. Vì thế mà cần phải có những người trượng phu quân tử dám ra tay nghĩa hiệp để bênh đỡ cho những nạn nhân của bất công xã hội đó. Như cha ông ta xưa kia đã từng nhắc nhở trong câu “Anh hùng thấy sự bất bình chẳng tha”. Và chính vì khía cạnh “Hành động nhằm bênh vực sự Công bằng Xã hội” này, mà tôi muốn khai triển chi tiết hơn trong mục sau đây.

II – Vai trò làm “Đối trọng” của Xã hội Dân sự hiện nay.

Như ta đã biết Xã hội Dân sự đóng hai vai trò chính yếu, đó là vừa làm “Đối tác” và vừa làm “Đối trọng” đối với chính quyền nhà nước (Counterpart/Counterbalance). Làm đối tác là cùng sát cánh với nhà nước trong lọai công việc từ thiện nhân đạo, giáo dục thanh thiếu niên v.v…, như các Hội Hồng Thập Tự, Hướng Đạo, Cứu trợ Nạn nhân Thiên tai Bão lụt. Còn làm đối trọng là tranh đấu bênh vực những nạn nhân của bất công áp bức do cán bộ nhà nước gây ra, điển hình như bênh vực Dân oan bị mất nhà mất đất, bảo vệ các nạn nhân bị công an cảnh sát đối xử tàn bạo, chà đạp nhân phẩm v.v…

Từ trên 60 năm nay, kể từ ngày Liên Hiệp Quốc công bố Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền vào năm 1948, thì lần lượt tại khắp nơi trên thế giới đã phát sinh ra một Phong trào Tranh đấu cho Phẩm giá và Quyền Con Người. Cuộc tranh đấu này đã và đang diễn ra hết sức kiên cường sôi nổi nhằm bắt buộc giới cầm quyền cũng như giới tài phiệt tại từng quốc gia phải chấm dứt mọi hành động bất công áp bức đối với người dân sở tại. Và đặc biệt trong vòng 30 năm nay, nhờ sự phổ biến của Internet mà người dân tại nhiều quốc gia đã có thể trao đổi tin tức vừa mau lẹ vừa chính xác cho nhau – để rồi từ đó mà đưa ra những hành động hợp thời, hiệu quả nhằm bênh vực quyền lợi chính đáng của bà con đồng bào ruột thịt của mình.

Riêng ở nước Việt nam chúng ta hiện nay, thì đang xuất hiện công khai các nhóm, các tổ chức tự phát mà có đủ cả ba tính chất “phi chính phủ”, “bất vụ lợi” và “tự nguyện” của Xã hội Dân sự nhằm đòi hỏi nhà cầm quyền cộng sản phải thực tâm tôn trọng những quyền tự do căn bản của mỗi người công dân – như đã được ghi rõ trong Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và các văn bản liên hệ khác cũng do Liên Hiệp Quốc ban hành. Như vậy là cuộc tranh đấu của bà con chúng ta ở trong nước đã đi đúng hướng với phong trào tòan cầu để đòi hỏi mọi chính phủ phải thực thi những cam kết về Bảo vệ Nhân quyền từ lúc họ k‎ý‎‎ kết phê chuẩn các Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị, cũng như về Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa.

Cụ thể là gần đây, nhiều nhà tranh đấu nhân quyền từ Việt nam đã có mặt tham gia tại các buổi điều trần công khai về nhân quyền do Liên Hiệp Quốc tổ chức tại Geneva Thụy sĩ hay do tổ chức Cộng Đồng Âu Châu (EU = European Union) hoặc do chính phủ Liên Bang Hoa Kỳ mở ra cho công chúng tham dự. Rõ rệt là các vị đó đang cất lên tiếng nói thay cho những nạn nhân của bất công áp bức ở Việt nam – những người luôn bị chính quyền cộng sản bịt miệng không cho phát biểu – điển hình là Linh mục Nguyễn Văn L‎ý đã bị công an công khai bịt miệng trước phiên tòa.‎‎ (Voice for the Voiceless in Vietnam).

Như vậy là cuộc tranh đấu cho Tự do, Dân chủ và Nhân quyền tại địa phương Việt Nam chúng ta hiện đang có được sự thông cảm, liên đới và sự tiếp tay yểm trợ của nhiều dân tộc trên thế giới vậy đó (Local Action with Global Solidarity and Support).

III – Chúng ta tranh đấu vì “Yêu thương trọn vẹn” đối với đồng bào ruột thịt thân yêu của mình.

Vào năm 1995, lúc còn bị giam giữ tại trại Z30D ở Hàm Tân Phan Thiết, tôi có làm một bài thơ song ngữ tiếng Việt và tiếng Anh nhan đề “Nói với Bạn Trẻ” – trong đó có mấy câu cuối như sau :

…”Hãy sống thật sung mãn

Bằng Yêu thương trọn vẹn

Và biết tận hưởng

Sự An bình Ngây ngất

Trong sâu thẳm nội tâm chúng ta.”

Tôi muốn đưa cụm từ ngữ “Hãy yêu thương trọn vẹn” trong bài thơ này để góp thêm vào với cái khẩu hiệu “Hãy suy nghĩ toàn cục, Hãy hành động tại địa phương” đã ghi ở trên thành một khẩu hiệu có ba vế mà được viết ra tiếng Anh như sau :

               “ Think Globally – Act Locally – Love Totally”.

Và tôi cũng muốn nói rõ hơn với các bạn trẻ rằng : Ở vào đầu thế kỷ XXI này, hiện phần đông trong chúng ta đang được hưởng thụ những thành quả tốt đẹp của sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật, của nền kinh tế thịnh vượng và của sự thông cảm và liên đới quốc tế. Đó là những phúc lộc do cha ông chúng ta trước đây và cũng do nhân lọai tiến bộ ngày nay đã góp phần tạo dựng ra để cho tất cả chúng ta được sống trong bàu không khí nhân ái an hòa, được chia sẻ sự thịnh vượng và tiến bộ của cộng đồng thế giới hiện nay.

Vì từ gần 70 năm qua, người cộng sản đã gieo rắc hận thù ân óan của chủ thuyết “đấu tranh giai cấp” với “chuyên chính vô sản” vào trong lòng dân tộc ta – khiến cho cái nọc độc bạo lực căm thù đó đã tàn phá đến tận cội rễ trong tâm hồn con người Việt Nam chúng ta, làm băng họai tiêu diệt hết cái truyền thống nhân ái bao dung trong xã hội – mà phải biết bao nhiêu thế hệ vất vả cực nhọc cha ông ta mới gầy dựng nuôi dưỡng lên được. Do đó, mà tôi muốn kêu gọi các bạn trẻ hãy nghiêm túc nghe theo lời kêu gọi khuyên nhủ của cha ông chúng ta từ xa xưa – mà được gói ghém trong hai câu văn thật ngắn gọn như sau :

                       “Đem Đại nghĩa thắng Hung tàn.

                         Lấy Chí nhân thay Cường bạo”.

Trong cuộc sống của con người thời nào và ở đâu cũng vậy – điều qu‎ý báu nhất là do nơi tấm lòng nhân ái yêu thương đùm bọc lẫn nhau, giúp đỡ nhau mỗi khi có ai gặp họan nạn, bị bóc lột chèn ép… Các bạn trẻ ngày nay được học hỏi tiếp cận nhiều với thế giới văn minh tiến bộ, thì các bạn càng có nhiều khả năng, nhiều sáng kiến để mà đem ra giúp dân giúp nước đang bị cả hai thứ “thù trong, giặc ngòai” quấy phá.

Và chỉ khi nào mà – thông qua những hành động cụ thể tích cực – các bạn biết đem hết cái Tình Yêu Thương Trọn Vẹn đó ra để san sẻ rộng rãi với đông đảo các bà con đang là những nạn nhân khốn khổ bất hạnh của cường quyền bạo lực ở nơi quê nhà, thì cuộc sống của các bạn mới thật sự sung mãn và có ý ‎nghĩa cao đẹp tuyệt vời vậy./

San Clemente California, ngày 8 tháng Bảy 2014

Đoàn Thanh Liêm

*         *         *

Ghi chú :

1 – Bạn đọc muốn tìm hiểu thêm về các câu nói của Oprah Winfrey hay về khẩu hiệu “Think Globally, Act Locally”, thì có thể tìm kiếm trên Internet bằng cách bấm Google và đánh các chữ liên hệ như “Oprah Winfrey quotes”, “Think Globally, Act Locally”.

2 – Ba văn kiện căn bản hợp thành Bộ Luật Quốc Tế Nhân Quyền (do Liên Hiệp Quốc ban hành năm 1976) gồm :

A – Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (công bố năm 1948)

B – Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị (LHQ biểu quyết năm 1966 và các quốc gia lần lượt phê chuẩn)

C – Công ước Quốc tế về Quyền kinh tế, Xã hội và Văn hóa (LHQ biểu quyết năm 1966 và các quốc gia lần lượt phê chuẩn).

Tiếng Anh :The International Bill of Human Rights consists primarily of three following texts :

I- The Universal Declaration of Human Rights (UDHR);

II- The International Covenant on Civil and Political Rights (ICCPR);

III – The International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights (ICESCR).

3 – Về bản tiếng Anh của bài thơ “A Message to Youth” tôi làm hồi còn ở trại Z30D Hàm Tân Phan Thiết năm 1995, thì cũng có trên Google với mục “Poems from Prison Doan Thanh Liem”.

4 – Bản tiếng Việt của bài thơ “Nói Với Bạn Trẻ’ nguyên văn như sau :

I – Bạn trẻ của tôi ơi!                      

*Hãy suy nghĩ chính xác              

Để khám phá được                        

Những điều kỳ diệu                    

Trong Thiên nhiên                      

Và Xã hội loài người.        

*Hãy có lòng nhân hậu

Để yêu thương tất cả mọi người

Kể cả thù địch.

II – Bạn trẻ của tôi ơi!                      

*Hãy nâng tâm trí lên cao        

Để tạo cho cuộc sống thêm ý nghĩa.                        

*Hãy chịu trả đắt giá                      

Để có được sự cao cả nơi tâm hồn.

III – Bạn trẻ của tôi ơi!

*Hãy chia sẻ những phúc lộc

Cùng với tất cả anh chị em mình

*Hãy đích thực là mình

Với phong cách tốt đẹp xưa nay

Giữa lòng cái thế giới hỗn độn này

IV – Bạn trẻ của tôi ơi!

*Hãy có hành động thích đáng

Trong giờ phút đày thử thách

Của Lịch sử vinh quang chúng ta.

*Hãy sống thật sung mãn

Bằng Yêu thương trọn vẹn

Và biết tận hưởng

Sự An bình Ngây ngất

Trong sâu thẳm nội tâm chúng ta./

Làm tại Hàm Tân, Mùa Xuân 1995

Sao lục lại tại California, năm 2010

Cỏ cũng không có để mà ăn! Ở thiên đàng CS Bắc Hàn

Cỏ cũng không có để mà ăn! Ở thiên đàng CS Bắc Hàn

   Phương Tôn                                                                                                                     

Cuốn hồi ký „Đi ngược dòng – Cuộc trốn chạy khỏi Bắc Hàn khốn khổ“ của Timothy Kang vừa được xuất bản như một cái tát vào mặt những tập đoàn lãnh đạo đảng Cộng Sản Bắc Hàn đứng đầu là Kim Jong-un.

Timothy Kang sinh năm 1986 tại Danchosi thuộc Bắc Hàn. Khi vừa mới 11 tuổi cậu bé đã cùng mẹ bỏ Bắc Hàn chạy trốn sang Trung Cộng. Do cùng là loại thảo khấu, nhà cầm quyền Trung Cộng bắt giam người tỵ nạn rồi trao trả cho Bắc Hàn. Kang bị tống giam hai năm tù khổ sai. Như một phép lạ, cậu ta sống sót sau những năm bị đày đọa trong tù rồi lại còn thoát được nhà tù lớn Bắc Hàn và hiện đang sống cùng vợ tại Nam Hàn.

Hiện vẫn chưa có một thống kê chính xác về con số người bỏ trốn khỏi Bắc Hàn, nhưng chính xác thì con số người thành công vượt ra khỏi Bắc Hàn lại rất ít. Đến được vùng đất an toàn nhưng có lẽ những người vượt tuyến thành công vẫn còn bị ám ảnh bởi sự dã man tàn bạo của nhà cầm quyền nên đa số người tỵ nạn Bắc Hàn đều không dám lên tiếng tố cáo chế độ. Kang là một trong số người hiếm hoi viết lại hồi ký để lên án chế độ bất nhân, tố cáo cùng thế giới những điều kiện giam giữ tồi bại trong các trại tù và các trại cưỡng bức lao động của Bắc Hàn, và cũng để nhắc nhở cùng thế giới về một loại động vật đi hai chân đang sống lầm than vất vưởng tại Bắc Hàn nhưng hiện đang bị loài người bỏ quên.

Đặc biệt xin giới thiệu cùng bạn đọc đoạn ngắn trong tập hồi ký (do Bild Online phổ biến) nói về trận đói thế kỷ từ năm 1994 đến năm 1997 tại Bắc Hàn. Thực sự tại xứ Cộng Sản này chẳng khi nào người dân được no cơm, nhưng do sự ngu xuẩn cộng thêm lối tôn sùng xác chết lãnh tụ đã thối rữa một cách bệnh hoạn của tập đoàn lãnh đạo, người dân trong những năm này đành phải chịu chết vì đói. Họ ăn hết tất cả những gì có thể nhai được và ngay cả cỏ cũng không còn đủ để mà ăn!

* * *

Thời thơ ấu trong địa ngục

Tôi chào đời vào năm 1986 tại Unchŏn, một ngôi làng nhỏ thuộc Danchŏnsi, Hamkyŏngnamdo. Đây là khu vực khai thác mỏ. Ở đây chẳng có gì khác hơn là đá và bụi bay mù trời khi bị gió lốc. Toàn bộ phủ màu xám nghịt, chẳng có màu sắc gì khác hơn, chẳng có màu xanh cây cỏ. Mà nếu như có cây cỏ xanh thì người ta cũng ăn chúng ngay lập tức. Chúng tôi bị đói ăn.

Khi vừa lên ba thì cha tôi qua đời do tai nạn. Mất cha, chúng tôi mất luôn sự bảo bọc, nguồn sống và ngay cả căn hộ để ở. Không nơi trú ngụ, mẹ phải dẫn tôi đi quanh quẩn từ chỗ này sang chỗ khác. Đây là khoảng thời gian có đến chừng hai phần ba người dân Bắc Hàn bị đói. Mẹ cũng chẳng có gì để nuôi tôi ăn.

Trong khoảng thời gian khá dài chúng tôi về sống cùng bà ngoại. Tôi là cái gai nhọn trong con mắt của bà vì ngay chính bà cũng chẳng lo được cho thân bà thì lấy gì để nuôi tôi. Bà xem tôi như là gánh nặng mà bà phải nuôi ăn.

bachan-doi

Cái đói làm hiện ra cái xấu xa được chôn dấu trong con người ta. Đây là cái điều mà về sau này chính tôi cũng tự nhận thấy ngay chính bản thân mình. Nó phá tan tình cảm gia đình trong cuộc chiến giành nhau để được sống còn. Bà ngoại giao cho tôi cái rìu nhỏ để đi chẻ củi như ngầm nói „có ăn thì phải có làm“. Giờ ngồi viết lại thật khó mà nghĩ rằng hồi đó tôi vừa bốn tuổi. Hàng ngày tôi đi ra khỏi cái thành phố xám nghịt để vào rừng, ra ruộng mót củi, mót củ, mót đậu. Từ khoai tây, đến ngũ cốc, bắp, củ cải… tất cả những gì tìm thấy tôi đều gom nhặt đem về. Mỗi khi có ít nhiều đem về thì bà ngoại vui lắm, còn như đi về với hai bàn tay trắng thì bà lại chửi mắng.

Phần số bi thương xảy ra cho gia đình cha ghẻ của tôi khi ông nội của ông vô tình làm vỡ tấm kính khung hình của Kim II Sung trong lúc lau chùi.

Hàng xóm biết vụ việc, thế là đêm hôm sau ông ta biến mất không để lại dấu vết. Tại Bắc Hàn, một khi bạn có lời không tốt về Kim II Sung hay làm hư hại tấm hình của ông ta thì ngay lập tức bạn bị tống vào trại tù chính trị, xem như bản án tử hình rồi sẽ không xa. Chân dung của Kim II Sung và Kim Jong II được treo khắp mọi nơi. Được dùng để trang trí nơi công cộng, treo trong mỗi lớp học và trong nhà riêng cũng không được phép thiếu.

Thảm họa chết đói 1994-1997

Từ cái hồi tôi bé, khẩu phần lương thực do nhà nước phát được xem như là cuộc sống căn bản. Nhưng sau cái chết của Kim II Sung, thời gian để tang được kéo dài từ một trăm ngày lên đến ba năm, rồi đảng lại tuyên bố bắt đầu chiến dịch được gọi là cuộc „Chinh hành lớn“. Trên nguyên tắc người dân được phát khẩu phần ăn nhưng thực tế thì hàng hóa chẳng bao giờ đến tay người dân, do đó những năm kế tiếp có đến hơn ba triệu người bị chết đói. Trận đói này là một thảm họa của đất nước mà không ai có thể tưởng tượng được bởi vì ngay cả cỏ cũng không đủ để mà ăn.

Người dân hoàn toàn lệ thuộc vào khẩu phần lương thực được phát, nên đến khi nhà nước không phát nữa thì người ta đành chịu chết đói đặc biệt là giới trí thức. Chỉ có những người như tôi, chịu nhổ gốc cỏ, cạo vỏ cây mà ăn hoặc đi trộm cắp thực phẩm mới thoát qua được giai đoạn đói này để sống cho đến ngày hôm nay. Con số người chết không thể nào tính cho hết. Có những khu chung cư không còn ai sống sót vì đói. Đi đâu cũng nghe tiếng khóc than vì thân nhân qua đời.

Cỏ là bữa ăn chính

bachan-doian

Để sống sót chúng tôi phải ăn cỏ hàng ngày. Gạo và bắp thì càng ngày càng hiếm. Thỉnh thoảng nguyên cả ngày chúng tôi chẳng có gì để ăn. Tôi còn nhớ bữa ăn cỏ đầu tiên trong đời.

„Mày muốn sống thì mày phải ăn – ngay cả khi chỉ là cỏ mà thôi! Mình đi mót cỏ mà ăn“, mẹ nói. Vừa ngay khi đó thì tôi xây xẩm mặt mày vì hệ tuần hoàn có vấn đề sau vài ngày chẳng có gì để nhét vào bụng. Mẹ đi chừng vài tiếng đồng hồ đem về được một lố cỏ ăn được. Không riêng gì chúng tôi mà rất nhiều người sau khi bị ngưng cung cấp khẩu phần lương thực phải đi nhổ cỏ mà ăn, cái loại cỏ mà trước đây chỉ dành cho heo ăn. Tôi từng nghĩ rằng chỉ có thú vật mới ăn cỏ nhưng nay không ngờ lại đến phiên chúng tôi.

Khi nghe mẹ gọi „ Chŏl có đồ ăn đây!“ tôi liền ngồi bật dậy thật sung sướng. Mẹ nấu cỏ rồi bỏ vào ít muối. Đã một vài ngày bao tử của tôi chẳng phải làm việc gì. Tôi nhai một vài cọng cỏ đắng chát nhưng nó cứ vướng nơi cổ họng. Cuối cùng thì tôi phải phun nó ra.

„ Chŏl khi mày muốn sống thì mày phải ăn cỏ! Mày không chịu ăn thì mày sẽ chết! Mày có muốn chết chung với tao không?“ Mẹ quá đau khổ. Bà cũng chẳng có gì khác để cho tôi ăn nữa. Bà lại đút cỏ vào miệng tôi. Tôi cố tìm cách nuốt nhưng nó vẫn nghẹn nơi cuống họng. Tôi làm thinh nằm xuống trong khi nước mắt trào ra.

Đứa bé con chết đói

Dì tôi có đứa bé con chưa đầy năm nhưng dì không có sữa cho nó bú vì dì chẳng có gì để ăn. Cứ mỗi lần đứa bé khóc rú lên vì đói thì dì lại đẩy nó vào bầu vú đã cạn sữa, nhưng cái kiểu này cũng chẳng lừa nó được lâu, vậy là nó khóc thét lên, không không ngừng. Tiếp như vậy vài ngày thì nó cạn tiếng vì đuối sức. Cuối cùng thì nó chết trên lưng cõng của dì.

Xã hội như đóng băng, lạnh lùng và không có một thay đổi dù nhỏ nhặt nhất. Bất kể ở đâu, dù có mỏi mắt tìm kiếm cũng chẳng có một dấu vết của tình yêu, của sự sống. Cái câu nói dễ dàng nhất, thông dụng nhất như là „Mẹ yêu con“, „Bà thương cháu“, „anh yêu em“ tôi chưa bao giờ được nghe từ ngày được sinh ra đời. Tôi chẳng biết cái chữ „Tình yêu, Tình thương“ có ý nghĩa như thế nào. Ngay cả trong gia đình người ta cũng chẳng để ý, nhường nhịn nhau. Người nào lo thân người nấy. Mỗi khi có liên hệ cùng nhau thì liền xảy ra cãi vã sinh ra thù hận.

Phương Tôn

Việt Hoàng: Cuối cùng thì Nguyễn Sinh Hùng mới là Tổng bí thư?

Việt Hoàng: Cuối cùng thì Nguyễn Sinh Hùng mới là Tổng bí thư?

Thông Luận

Việt Hoàng

Cuộc thư hùng trong nội bộ ĐCSVN vẫn chưa ngã ngũ trong Hội nghị 13 vì vậy nó sẽ tiếp tục “thi đấu” ở Hội nghị 14, dự kiến sẽ nhóm họp vào đầu tháng 1/2016. Ai sẽ là người chiến thắng sau cùng?

Theo dư luận thì cuộc chiến trong đảng là sự đối đầu giữa đương kim thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Tương quan lực lượng là 50-50. Trước đây vài tháng thì tương quan nghiêng về phía ông Nguyễn Tấn Dũng nhưng vì ông Dũng có quá nhiều sai lầm và quá nhiều vết để các đối thủ khai thác và công kích.

Ông Dũng đã chống đỡ một cách lúng túng và thiếu mạnh mẽ qua một tài liệu được cho là thư gửi Bộ chính trị ĐCSVN mới được công bố trên trang Anh Ba Sàm.

Sỡ dĩ ông Dũng được ủng hộ vì ông đã có một chiến thắng ngoạn mục trong Hội nghị 6, khi đó ông đã lật ngược được thế cờ với chiến thắng mang tên “đồng chí X”. Đám quan chức theo ủng hộ ông vì cho rằng ông mạnh và sẽ chiến thắng chứ không phải vì ông là người có bản lĩnh hay tài giỏi gì.

Hội nghị 12 ông Dũng phải dùng đến con gái mình để phản công đối thủ chứng tỏ ông đã yếu đi. Thêm một chi tiết mà ít người chú ý đến là sự vắng mặt của một nhân vật rất quan trọng luôn đứng bên cạnh ông Dũng là Thượng tướng, Thứ trưởng quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh.

Một chi tiết rất đặc biệt trong tài liệu được cho là thư của ông Dũng gửi Bộ chính trị là việc ông Dũng “xin rút lui”. Nếu trường hợp này xảy ra và tài liệu kia là thật thì chuyện gì sẽ xảy ra? Đương nhiên ông Dũng không thể “về vườn” một mình được. Nếu ông Dũng “rút” thì ông phải ép ông Nguyễn Phú Trọng và ông Trương Tấn Sang rút cùng. Chuyện này đã xảy ra không phải một lần trong nội bộ ĐCSVN.

Nếu ông Dũng, ông Trọng và ông Sang cùng rút lui thì ai sẽ lên làm Tổng bí thư?

Người đó chính là đương kim chủ tịch quốc hội Nguyễn Sinh Hùng.

Sau khi Hội nghị 13 vừa kết thúc thì ông Nguyễn Sinh Hùng đã vội vã sang Trung Quốc để trình diện hoàng đế Tập Cận Bình và nhận chỉ thị của thiên triều.

Nội dung cuộc viếng thăm đột ngột của ông Nguyễn Sinh Hùng, chỉ sau một tháng khi ông Tập Cận Bình đến Hà Nội đã được Vietnamnet đưa tin (xin bấm vào hàng chữ xanh để đọc Vietnamnet):

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đề nghị hai nước thúc đẩy thực hiện nhận thức chung và các thỏa thuận giữa lãnh đạo cấp cao của hai nước; thúc đẩy hợp tác trên nhiều lĩnh vực với các hình thức linh hoạt, đa dạng, gắn kết vững chắc hơn quan hệ chính trị, đoàn kết, hữu nghị và hợp tác giữa hai nước.

Trên tinh thần quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, hai nước cần đẩy mạnh hơn nữa hợp tác toàn diện và hiệu quả trên tất cả các lĩnh vực về kinh tế, thương mại, đầu tư, văn hóa, giáo dục… đảm bảo cân bằng lợi ích, đôi bên cùng có lợi; cả trong quan hệ song phương cũng như hợp tác đa phương tại các diễn đàn khu vực và quốc tế. 

Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, sự ủng hộ lẫn nhau tại các cơ chế, diễn đàn quốc tế có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng của mỗi nước”.

Nói ngắn gọn thì ông Nguyễn Sinh Hùng quyết tâm theo phò thiên triều đến cùng qua việc biến Việt Nam thành một vùng tự trị của Trung Quốc.

Nguyễn Sinh Hùng là người như thế nào?

Xin trích một số câu nói “bất hủ” của Tổng bí thư tương lai:

  • Quốc hội là cơ quan lập pháp, nếu quyết sai cũng phải nhận khuyết điểm chứ không phải kỷ luật, Chủ tịch Quốc hội cũng không phải người đứng đầu Quốc hội. Vì thế, không thể vì cả 500 đại biểu bỏ phiếu mà kỷ luật cả 500 vị hay kỷ luật ông Chủ tịch. “Quốc hội tức là dân, dân quyết sai thì dân chịu, chứ kỷ luật ai”. [1]
  • Trong công việc tôi làm thời gian qua còn nhiều khiếm khuyết, trong khi yêu cầu của cuộc sống, của sự phát triển ngày càng cao. Phiếu bầu cho tôi không cao thể hiện rõ điều này. Nếu những việc chưa tốt là non nửa, ứng với số phiếu không được bầu là non nửa thì đó là bình thường.(Khi được bầu làm Phó Thủ tướng với số phiếu chỉ đạt 58% năm 2006)[7]
  • Thị trường đã là đáy, anh nào bán thì thiệt, anh nào mua thì thắng. Chính phủ đảm bảo năm nay thị trường phải tăng trưởng.(3/2008, VN-index khoảng 500 điểm)[8]
  • Không thể không làm đường sắt cao tốc (Phiên chất vấn của Quốc hội sáng 12-06-2010)[9]
  • Hôm nay thấy sai một chút chỗ này xử lý, “cách chức đi, kỷ luật đi”, ngày mai thấy sai chỗ kia, “cách chức đi, kỷ luật đi”, lấy ai mà làm việc các đồng chí ? (Phiên chất vấn của Quốc hội sáng 12-06-2010)
  • Thử hỏi trong số chúng ta ngồi đây, bản thân tôi nhiều khi cũng tự hỏi mình làm trăm việc, làm mười việc thế nào cũng sai một hai việc cũng nên, có khi sai lớn, có khi sai nhỏ, nhưng mà các đồng chí cứ dẹp đi thì bầu không kịp ? (Phiên chất vấn của Quốc hội sáng 12-06-2010)[10]
  • Vấn đề các đại biểu đặt ra là tiền, tiền đâu để làm dự án, tôi không lo lắng lắm về vấn đề này, GDP của nước ta những năm qua cũng ổn và dự kiến đến năm 2050 GDP cũng khả quan.[11]
  • Hiện GDP của Việt Nam là 106 tỉ USD, năm 2020 sẽ gần 300 tỉ, năm 2030 sẽ là 700 tỉ và năm 2040 sẽ là 1.000 tỉ. Thu nhập bình quân đầu người hiện nay 1.200, đến năm 2040 sẽ đạt 20.000 USD.(Phiên chất vấn của Quốc hội sáng 12-06-2010)[9]
  • Tôi yên tâm. Yên tâm rằng phải làm. Yên tâm cùng Chính phủ xin Quốc hội chủ trương để làm. Yên tâm là Quốc hội và Chính phủ tính được bài để làm(Phiên chất vấn của Quốc hội sáng 12-06-2010)[12]
  • Ai dám hạn chế không cho các anh phát hành trái phiếu. Chính phủ sẽ không để xảy ra ngừng trệ vốn kinh doanh cho các tập đoàn”.[13]Trả lời than thở của Phạm Thanh Bình, TGĐ Vinashin trong cuộc họp ngày 23 tháng 4 năm 2008: “Vốn chủ yếu vay từ ngân hàng, nhưng lãi suất cao. Chúng tôi đã trình đề án xin phát hành trái phiếu sáu tháng nay nhưng chưa được phê duyệt”. Sau đó Vinashin được vay 10000 tỷ đồng từ các ngân hàng.[14]
  • “Tôi thì vẫn chưa lo”. Ngày 8 tháng 6 năm 2010, ông nói câu này khi được các phóng viên hỏi về những lo ngại về hiệu quả kinh doanh tại Vinashin trong kỳ họp Quốc hội.
  • Dù ùn tắc, nhưng rất trật tự, rất lành mạnh, rất vui tươi (phát biểu trong đánh giá về đại lễ 1000 Thăng Long Hà Nội ngày 5 tháng 1 năm 2011).[15]
  • Xin nói thật là làm thủ trưởng thì nó khác, cho ai nói thì nói, không cho nói thì thôi, người ta nói mình nghe thì nghe mà không nghe thì quên[16]
  • “Quốc hội tức là dân, dân quyết sai thì dân chịu, chứ kỷ luật ai” [17]
  • “Vậy số nợ còn lại vẫn treo đó khi nào trả? Mấy năm vừa rồi cũng nợ nữa. Đã thế còn vay ngắn, vay ngắn sang năm phải trả. Chưa vay đã trả lấy gì mà cân đối được. Các Ủy ban, Bộ, ngành phải tính chứ tôi nói các đồng chí năm nay không có đồng nào tăng lương. Nói hay thế mà 1 đồng xu tăng lương không có là thế nào?” (Nói trước Quốc hội về tình trạng hụt thu ngân sách trong năm 2014-15) [18]

Theo (vi.wikipedia.org/wiki)

Mới đây nhất khi nói về tội tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN VN (điều 88), Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng cho ý kiến: ” Tôi nói thật là ta phát biểu nhiều khi cũng vi phạm, bắt cũng được đấy. Nói như vậy để thấy là không thể để một cái tội chống nhà nước quy định chung chung như vậy, muốn bắt ai thì bắt, đâu có được“. Nói thế nhưng luật sư Nguyễn Văn Đài vẫn bị bắt.

Sân sau và các đại gia trong thân tộc của ông Nguyễn Sinh Hùng là như thế nào? Mời mọi người đọc thêm trêm vanews.org (xin bấm vào chữ vanews.org cso màu)

Tất cả mọi dự đoán sẽ sớm được rõ ràng trong một vài ngày tới.

Việt Hoàng

____

Phụlục:

Những tuyên bố ‘vô tiền khoáng hậu’ của ngài Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng

Mỗi chính khách trong thời gian tại nhiệm ít nhiều đều để lại những dấu ấn nhất định thông qua những phát ngôn và hành động. Riêng Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, không chỉ được biết đến như một vị chính trị gia quyền lực có nhiều tập đoàn kinh tế sân sau mà còn nổi tiếng với những phát ngôn bất hủ.

Nhân câu nói của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng: “Ăn hết rồi thì lấy đâu đầu tư”, tại phiên họp thường vụ Quốc hội ngày 9/10/2014, bàn về tình hình thu chi ngân sách năm 2014 và câu lập luận “Quốc hội tức là dân, dân quyết sai thì dân chịu, chứ kỷ luật ai”, tại hội nghị đại biểu Quốc hội chuyên trách sáng 11/4/2014. Có thể coi đây là những phát ngôn bất hủ nhất mọi thời đại khiến cho nhiều người nhớ tới những phát ngôn để đời của ông Nguyễn Sinh Hùng trước đây. Xin trích một số câu bất hủ khác của ông để chúng ta cùng suy ngẫm những ngày cuối tuần.

1- Khi làm Phó Thủ tướng, trả lời phỏng vấn báo Tuổi trẻ ngày 6/3/2008, ông Nguyễn Sinh Hùng nói: “Tôi đảm bảo TTCK sẽ lên giá và có chất lượng hơn. Nếu là nhà đầu tư chứng khoán thì lúc này tôi sẽ mua cổ phiếu”. Báo Quân đội nhân dân nhấn mạnh thêm ý của ngài: “Thị trường đã giảm đến đáy, nên trong điều hành Chính phủ quyết tâm không để giảm thêm. Thời điểm này, nếu nhà đầu tư nào bán tháo cổ phiếu thì sẽ thất bại, ngược lại người nào có quyết định mua vào thông minh sẽ thắng”. Tuy nhiên, ngay sau thời điểm Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng nói câu trên thì chỉ số giá chứng khoán đang đứng ở mức khoảng 600 điểm đã đi xuống một lèo tới đáy thực sự của TTCK là 238 điểm.

2- Trong lần đăng đàn trả lời chất vấn của Quốc hội ngày 12/6/2010, nói về việc xử lý cán bộ, ông Nguyễn Sinh Hùng không ngần ngại nhấn mạnh: “Nghiêm ở đây không có nghĩa sai là ‘chặt chém’ ngay, như vậy thì hết người, không có người để làm… các đồng chí cứ dẹp đi thì bầu không kịp?” rồi ông đặt một hỏi câu bất hủ: “Kỷ luật hết thì lấy ai mà làm việc các đồng chí?”. Phát ngôn này của ông Nguyễn Sinh Hùng đã vấp phải sự phản đối dữ dội từ phía dư luận. Bởi họ cho rằng phát biểu của ông như đang dung dưỡng cho những hành vi sai trái.

3- Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng trả lời chất vấn trước Quốc hội: “Đồng chí Lợi hỏi tôi có yên tâm với đường sắt cao tốc không, tôi yên tâm, chúng ta không thể không làm đường sắt cao tốc”. Ngài Phó Thủ tướng còn nhấn mạnh: “Tôi yên tâm. Yên tâm rằng phải làm. Yên tâm cùng Chính phủ xin Quốc hội chủ trương để làm. Yên tâm là Quốc hội và Chính phủ tính được bài để làm”. Sau đó như chúng ta đã biết thì Quốc Hội bác bỏ dự án này, và cũng bác luôn lời nói của ông.

4- Họp bàn tái cơ cấu Vinashin ngày 8-6-2010, ngài PTT Nguyễn Sinh Hùng khẳng định như đinh đóng cột: “Từ nay đến năm 2012 còn lỗ nhưng dự báo tới 2013-2014 sẽ bắt đầu có lãi và sau năm 2015 VNS sẽ phát triển ổn định”. Chỉ 1 tháng sau, tháng 7/2010, thông tin về vụ bê bối ở Vinashin bung ra và thực tế đã cho thấy khả năng dự báo của ngài. Trả lời báo chí trước những lo ngại về hiệu quả kinh doanh tại Vinashin trong kỳ họp Quốc hội, PTT Nguyễn Sinh Hùng vô tư nói: “Tôi thì vẫn chưa lo”.

5- Trả lời than thở của ông Phạm Thanh Bình, TGĐ Vinashin trong cuộc họp ngày 23/4/2008: “Vốn chủ yếu vay từ ngân hàng, nhưng lãi suất cao. Chúng tôi đã trình đề án xin phát hành trái phiếu sáu tháng nay nhưng chưa được phê duyệt”. PTT Nguyễn Sinh Hùng nói: “Ai dám hạn chế không cho các anh phát hành trái phiếu. Chính phủ sẽ không để xảy ra ngừng trệ vốn kinh doanh cho các tập đoàn”.

Và ông Nguyễn Sinh Hùng thể hiện quyết tâm bằng việc cho phép Vinashin được huy động 20.000 tỷ đồng, trong đó quan trọng nhất là đã chỉ định các ngân hàng phải cho Vinashin vay 10.000 tỷ trong thời điểm các doanh nghiệp nhỏ và vừa cực kỳ khó khăn vì thiếu vốn. Xin hỏi 10.000 tỷ này bây giờ đã bốc hơi đi đâu?

6- Khi Quốc hội bàn về làm đường sắt cao tốc, ngài Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng giải thích về những lo ngại của các đại biểu Quốc hội là Việt Nam không đủ nguồn lực: “GDP năm nay của Việt Nam tuy chỉ có 106 tỷ USD, nhưng đến 2020 sẽ tăng lên 300 tỷ USD và năm 2030 là 700 tỷ, đến 2040 ước đoán cỡ 1,2 – 1,4 nghìn tỷ USD. Đến 2050, khi hoàn thành toàn tuyến, con số đó dự kiến sẽ tăng gấp đôi”. …. “Thu nhập bình quân đầu người hiện nay là 1.200 USD, nhưng với tốc độ tăng trưởng kinh tế tương lai thì đến 2020 sẽ là 3.000 USD, và lần lượt tăng lên mức 6.000, rồi 12.000 và sẽ đạt 20.000 vào năm 2050”.

Với phát biểu trên của PTT Nguyễn Sinh Hùng, tiến sĩ Nguyễn Văn Tuấn cho rằng, ông Nguyễn Sinh Hùng làm kinh tế bằng cách lấy số cũ nhân 2. Và dù cho đến 2050, thì Việt Nam cũng chỉ đạt GDP vào khoảng 5400 USD mà thôi, còn lâu mới đuổi kịp….Thái Lan.

Cùng chủ đề về đường sắt cao tốc, khi một số đại biểu băn khoăn hỏi lí do phải làm đường sắt cao tốc, thì ông Nguyễn Sinh Hùng cho rằng “vì không nước nào có diện tích dài như Việt Nam?”. Vậy Australia thì sao, nơi mà bay từ bang phía Nam sang bang phía Tây tốn cả 4 giờ bay, tức còn dài gấp mấy lần Việt Nam ta. Nhưng Australia không làm đường sắt cao tốc. Do đó, lý giải của ông Phó Thủ tướng xem ra …

7- Trước băn khoăn của một số đại biểu khi đây là con đường sắt cao tốc “dài nhất thế giới”, Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng giải thích, “dài nhưng làm từng đoạn, chả có mấy nước có chiều dài như nước ta đâu, các đồng chí ạ, đi lại từng đoạn thì ngắn, cộng lại thì dài”. (Báo VnEconomy)

8- Phát biểu trong đánh giá về đại lễ 1000 Thăng Long Hà Nội ngày 5/1/2011, Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng vui vẻ nói: “Dù ùn tắc, nhưng rất trật tự, rất lành mạnh, rất vui tươi”. Lần khác, theo Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng, vào tối 10/10, mặc dù chịu cảnh tắc đường vào sân vận động Mỹ Đình song hàng vạn người dân đứng ngoài sân vẫn vui vẻ nói “Tôi ngồi trong xe nhìn ra cũng thấy yên tâm, thấy cuộc sống rất thanh bình”.

Nhiều người khi nghe câu này của ông liền tự hỏi: Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng nói đùa hay thật? ông có cả một đội quân để mở đường cho ông vào “thanh bình” mà.
Những tuyên bố trí tuệ của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng
Khép lại thời làm Phó Thủ tướng với rất nhiều các phát ngôn để đời, bước vào vị trí mới, trọng trách lớn hơn đó là Chủ tịch Quốc hội, ông Nguyễn Sinh Hùng tiếp tục để lại dấu ấn với các tuyên bố “để đời” của ngài Chủ tịch Quốc hội khóa 13:

9- Ngày 7/8/2011, khi được báo chí hỏi, từ Phó thủ tướng sang làm Chủ tịch Quốc hội, sự đổi vai này đem lại cho ông những thuận lợi và khó khăn nào, ông có sợ khi điều hành Quốc hội bị nhầm vai không? Tân Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nói một câu mà ít ai có thể hiểu nổi: “Xin nói thật là làm thủ trưởng thì nó khác, cho ai nói thì nói, không cho nói thì thôi, người ta nói mình nghe thì nghe mà không nghe thì quên”.

10- Ngày 11/04/2014, trong phiên họp Quốc hội về xử lý trách nhiệm liên quan đến đầu tư công ngày 11/4/2014, Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng đã gây một cơn “địa chấn” trong dư luận khi phát biểu: “Quốc hội tức là dân, dân quyết sai thì dân chịu chứ kỷ luật ai!”. Cũng tại Hội nghị này ông Nguyễn Sinh Hùng còn nói: “Chủ tịch Quốc hội không phải là người đứng đầu Quốc hội”.

Tuyên bố này của ông Nguyễn Sinh Hùng đã làm bùng lên sự không hài lòng trong dân chúng. Quốc hội tức là dân, dân quyết… Dân nào quyết? Thật khó có lời lẽ nào bình luận về phát biểu này! Chủ tịch Quốc hội không phải là người đứng đầu Quốc hội? Vậy xin các nhà làm từ điển, các nhà làm Luật xem xét lại?

Chưa hết, với tư cách là người có trách nhiệm cao nhất trong Quốc hội, nhưng phát biểu của ông không chỉ cho thấy sự thiếu trách nhiệm mà còn thể hiện sự bao che cho cả cơ quan Quốc hội khi nói “Quốc hội sai thì chỉ nhận khuyết điểm chứ không thể kỷ luật”.

11- Và mới đây nhất, ngài Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng phán: “Ăn hết rồi thì lấy đâu đầu tư”, tại phiên họp thường vụ Quốc hội ngày 9/10/2014, bàn về tình hình thu chi ngân sách năm 2014. Như chúng ta đã biết, sau lưng ngài có hàng loạt các tập đoàn kinh tế sân sau đang ngày đêm “ăn hết” của cải của đất nước, thì lấy đâu tiền để đầu tư cho nhân dân?

Trên đây chỉ là vài tổng kết chưa đầy đủ về những câu nói bất hủ của ông Nguyễn Sinh Hùng, vẫn còn rất nhiều phát ngôn để đời khác của ông Nguyễn Sinh Hùng cần phải được tập hợp lại, in thành sách để nghiên cứu, học tập… Rất có thể sẽ là đề tài thú vị của nhiều luận văn Tiến sĩ, Thạc sĩ trong tương lai gần.

(Sưu tầm trên internet)

Một số nhận xét từ cách mạng 1989

Một số nhận xét từ cách mạng 1989

 Nguyễn Đình Cống

Bài dưới đây là của GS Nguyễn Đình Cống – một cộng tác viên quen biết – trình bày những suy nghĩ về những biến động lịch sử liên quan đến sự chuyển đổi thể chế xảy ra ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, từ đó liên hệ đến tình hình đất nước. Muốn hay không, thì bài học của sự tan rã hệ thống xã hội chủ nghĩa vẫn cần được phân tích thấu đáo, từ đó định hướng chiến lược cho sự phát triển của Việt Nam. Trên suy nghĩ đó, Bauxite Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết và mời gọi bạn đọc cùng suy nghĩ với tác giả. Quan điểm và phong cách trong bài là thuộc người viết.

Bauxite Việt Nam

I- GIỚI THIỆU QUA

Tên gọi “Cách mạng 1989” dùng để chỉ sự thay đổi chế độ chính trị đồng loạt ở sáu nước Đông Âu, từ chỗ toàn trị độc đảng cộng sản thành nhà nước dân chủ đa đảng.

Hồi năm 1989 tôi đang làm chuyên gia giáo dục ở Châu Phi. Vào kỳ nghỉ hè chúng tôi sang các nước Đông Âu chơi và biết một ít tình hình thông qua chuyện trò với các bạn người Việt sinh sống tại đó. Tuy vậy hiểu biết về Cách mạng 1989 có được là do đọc tài liệu nước ngoài và đặc biệt là quyển Revolution 1989 – The Fall of the Soviet Empire của Victor Sebestyen, xuất bản tại New York, năm 2009 (bản dịch tiếng Việt của Phan Trinh).

Một số nước Đông Âu, trong gần nửa thế kỷ xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa dưới sự toàn trị của cộng sản và sự khống chế của Liên Xô, bỗng cùng nhau cải cách triệt để trong vài tháng vào năm 1989. Quá trình diễn biến và nguyên nhân gần ở mỗi nước có khác nhau, song nguyên nhân gốc có một số điểm chung:

1- Mâu thuẫn gay gắt giữa chính quyền cộng sản và nhân dân. Đảng Cộng sản dùng lối toàn trị, áp đặt xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, vô sản chuyên chính, mất dân chủ, dùng công an đàn áp người bất đồng chính kiến, tuyên truyền dối trá. Dân mất lòng tin vào Đảng, chán ghét chế độ, đoàn kết lại đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền.

2- Đảng tạo thành một giai cấp mới đặc quyền đặc lợi, các lãnh đạo cấp cao của Đảng trở thành vua chúa kiểu mới, thành bọn Trung ương sản đỏ, nhóm lợi ích, trong lúc nhiều bộ phận nhân dân sống thiếu thốn, cực khổ, bị áp bức bóc lột.

3- Nền kinh tế phát triển chậm chạp, thua kém các nước phương Tây, năng suất lao động thấp, chính phủ vay nợ nước ngoài rất nhiều. Vay nợ để kiến thiết đất nước thì ít mà chủ yếu để tham nhũng. Muốn tham nhũng lại tự tạo ra lãng phí. Vay nợ mới để trả nợ cũ và như vậy nợ càng chồng chất. Sự cai trị tàn bạo và ngu dân của Cộng sản làm suy đồi đạo đức xã hội.

4- Do phát triển của truyền thông, của Internet mà chính quyền không thể bưng bít thông tin để tiếp tục lừa dối nhân dân.

5- Do Liên Xô bị suy yếu nhiều, không còn đủ sức và không muốn can thiệp, để cho các nước tự lo liệu lấy (trong đó có vai trò của Gorbachev, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô đã thấy rõ sự dối trá của chủ nghĩa cộng sản, đề ra phong trào cải cách).

II- TÓM TẮT VÀI DIỄN BIẾN

Phong trào bắt đầu từ Ba Lan. Sau đây tóm tắt vài sự kiện chính tại mỗi nước.

1- Ba Lan. Cộng sản lấy tên Đảng Công nhân Thống nhất. Tổng Bí thư: Jaruzelski (1923-2014).

Năm 1970 công nhân tại Gdansk biểu tình phản đối nhà nước tăng giá nhu yếu phẩm, bị đàn áp, 44 người bị bắn chết. Năm 1978 nữ công nhân, anh hùng lao động Anna vận động thành lập công đoàn độc lập, bị vu cho tội ăn cắp và bị sa thải. Khắp nơi dấy lên phong trào ủng hộ Anna. 1980 Walesa vận động thành lập Công đoàn Đoàn kết, tổ chức đình công, hàng ngàn người bị bắt, bị đánh đập, tra tấn. Walesa bị bắt nhiều lần. Năm 1983 Giáo hoàng thăm Ba Lan, có tác dụng thức tỉnh và đoàn kết nhân dân quan tâm đến dân chủ. Trí thức và giáo hội ủng hộ Công đoàn Đoàn kết. Trong vòng 5 năm có trên 50% đảng viên bỏ đảng. Tháng 11/ 1987 Jaruzelski cho trưng cầu dân ý về đường lối xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, cộng sản chỉ nhận được sự ủng hộ của khoảng 40% cử tri. Ngày 1/5/1988 đình công toàn quốc. Chính quyền đàm phán với Công đoàn Đoàn kết, chấp nhận bầu cử tự do vào ngày 4 tháng 6/ 1989. Kết quả bầu cử cộng sản chỉ được dưới 5%, Công đoàn Đoàn kết thắng lớn, lập chính phủ. Ngày 27 tháng 10 / 1990 Đảng Công nhân Thống nhất họp, tuyên bố giải thể. Một số đảng viên đứng ra thành lập đảng mới, lấy tên Đảng Xã hội Dân chủ.

2- Hungari. Cộng sản lấy tên Đảng Công nhân Xã hội chủ nghĩa. Tổng Bí thư: Janos Kadar (1912- 1989).

Năm 1956 Nagy làm thủ Trung ươngớng. Nhân dân nổi dậy chống sự chiếm đóng của Liên Xô. Quân đội LX kéo vào đàn áp, trên 2500 người bị giết, Nagy bị treo cổ, trên 20 vạn bỏ chạy ra nước ngoài. Trong hơn 30 năm tình hình xã hội và kinh tế trở nên tồi tệ. Năm 1986 Kadar định nhận tiền của Áo để xây đập trên sông Danube, cung cấp điện cho Áo. Đập sẽ phá hoại môi trường của Hung. Trí thức và công nhân liên kết chống lại. Năm 1988 Kadar (76 tuổi) đã bị mất uy tín, được thuyết phục từ chức nhưng không chịu. Ngày 20/5/1988 Trung ương Đảng họp, ép Kadar từ chức và đưa Grosz lên thay. Ngày 28/6/1988 cuộc biểu tình lớn ở thủ đô chào mừng sự kiện lật đổ Kadar. Ngày 15/3/1989 biểu tình khổng lồ kỷ niệm Cách mạng 1848 chống đế quốc Áo. Tháng 6/ 1989 có trên 30 vạn người dự lễ cải táng Nagy. Trong buổi lễ, Viktor Orban, một thanh niên 26 tuổi đọc diễn văn đả kích chế độ cộng sản độc tài. Ngày 6/7/89 Kadar chết. Ngày 10/9/89, do áp lực của dân tị nạn, phá bỏ hàng rào ngăn giữa Hung và Áo (bức màn sắt), đi lại tự do từ Hung sang Áo để đến Tây Đức. Bị áp lực của nhân dân ngày 23/10/89 Đảng Công nhân Xã hội chủ nghĩa họp tuyên bố giải tán, lập đảng mới lấy tên Đảng Xã hội, đổi tên nước.

3- Đông Đức. Đảng Thống nhất Xã hội chủ nghĩa (CSED). Tổng Bí thư: Honecker (1912-1994).

Từ 1949 đến 1961 có trên 3 triệu người trốn sang Tây Đức. Năm 1961 xây bức tường Berlin, sau này có hàng trăm người bị bắn chết khi trèo qua tường. Đông Đức là nước có hệ thống mật vụ theo dõi dân chúng rất sát sao, do trùm công an Mielke chỉ huy. Ngày 5/7/ 1989 bầu cử Hội đồng nhân dân, bị phát hiện gian lận, các tổ chức dân sự yêu cầu điều tra. Sau khi Hungari phá bức màn sắt đã có hàng ngàn người Đông Đức qua Hung, Áo đến Tây Đức. Ngày 11/9/89 hội “Tân diễn đàn” thành lập, chỉ vài ngày đã có trên 150 ngàn người ký tên đòi đối thoại với chế độ. Ngày 18/9/89 có trên 15 ngàn người biểu tình, bị đàn áp, bị bắt trên 100. Mielke đề nghị trấn áp mạnh biểu tình bằng vũ lực nhưng bị một số lãnh đạo đảng không tán thành. Ngày 7/10/89 mít tinh kỷ niệm Quốc khánh, Gorbachev (được dân Đông Đức gọi thân mật là Gorby) đứng trên lễ đài. Khi đoàn diễu hành của thanh niên đi qua, mọi người bỗng hô vang: “Gorby, cứu chúng tôi, Gorby hãy cứu chúng tôi”. Chỉ một giờ sau, biểu tình nổ ra hàng loạt tại các thành phố lớn, công an bắt đi hàng ngàn người. Ngày 15/10 nhân dân thành phố Leipzig chuẩn bị biểu tình. Quân đội được lệnh trấn áp. Binh sĩ ôm nhau khóc vì phải bắn vào dân. Chủ tịch Hội Nhà văn Herman Kant gửi thư kêu gọi lãnh đạo Đảng kiểm điểm và đối thoại với dân. Lãnh đạo Đảng chia rẽ. Ngày 17/10 Trung ương Đảng họp, phế truất Honecker, đưa Krenz lên thay. Ngày 4/11 biểu tình 70 vạn người tại Berlin. Ngày 9/11 chính phủ ban bố cho dân tự do đi Tây Đức. Chỉ trong một đêm hàng vạn dân ùa đến bức tường Berlin đòi mở cửa, lính canh ban đầu không mở nhưng sau phải mở. Bức tường bị phá bỏ. Ngày 18/3/1990 bầu cử tự do, Đảng CSED bị mất tín nhiệm. Sau khi thống nhất những người trước đây làm việc tại Đông Đức vẫn được trọng dụng và được trả lương hưu.

4- Bungari. Đảng Cộng sản. Tổng bí thư: Todor Zhivkov (1911- 1998).

Tại Bungari có nhiều người gốc Thổ Nhĩ Kỳ như là một dân tộc thiểu số, họ bị đối xử bất bình đẳng. Tháng 5/ 1989 có trên 15 ngàn người Thổ biểu tình, bị đàn áp, 60 người chết, hàng trăm người bị thương, hàng ngàn bị bắt. Ngày 20/5 chính phủ trục xuất 300 ngàn người Thổ. Có 250 nhân vật nổi tiếng ký kiến nghị phản đối. Zhivkov chỉ thị cho cấp dưới xin lỗi và đổ tội cho an ninh làm quá. Uy tín của Đảng và Zhivkov xuống quá thấp. Để cứu vãn, một nhóm bốn người (Thủ tướng và ba Bộ trưởng) chủ trương lật đổ Zhivkov. Ngày 24/10 Bộ trưởng Ngoại giao từ chức, gửi thư công khai tố cáo Zhivkov độc quyền, tham nhũng. Zhivkov gặp bạn thân là Bộ trưởng Quốc phòng Dzhurov bàn cách đối phó, nhưng Dzhurov lại khuyên Zhivkov nên từ chức. Zhivkov âm mưu đưa con trai (Vladimir, 40 tuổi) lên thay thế. Đêm 8/11 Zhivkov tập hợp lực lượng ủng hộ nhưng vô vọng. Ngày 9/11 lãnh đạo Đảng họp, Zhivkov buộc phải từ chức, Mladenov lên thay nhưng vẫn cố giữ sự toàn trị của Đảng. Nhân dân tiếp tục biểu tình rầm rộ, thành lập Liên minh các lực lượng dân chủ. Mladenov phải đàm phán và chấp nhận tổ chức bầu cử tự do vào đầu năm 1990. Đảng Cộng sản họp, đổi tên thành Đảng Xã hội, chấm dứt chế độ xã hội chủ nghĩa.

5- Tiệp Khắc. Đảng Cộng sản. Tổng Bí thư: ban đầu là Husak, sau là Jakes.

Năm 1967 và đầu 1968 một số người định làm cải cách dân chủ (Mùa xuân 68). Ngày 20/8/1968 quân đội Liên Xô dùng xe tăng đàn áp, trên năm ngàn bị chết và bị thương, trên 70 ngàn đảng viên bị khai trừ. Ngày 16/1/1969 sinh viên Jan Palach tự thiêu phản đối Liên Xô. Ngày 15/6/1976 buổi chơi nhạc của nhóm “Người nhựa vũ trụ” bị đàn áp (vì không xin phép). Tháng 1/ 1977 Havel, một trí thức lớn, thành lập “Hiến chương 77” đấu tranh bảo vệ nhân quyền. Havel bị bỏ tù bốn năm rưỡi. Ngày 8/12/1987 biểu tình lớn, Orta, đại diện nhóm Hiến chương 77 phát biểu về nhân quyền, bị bắt cùng với vài chục người. Ngày 17/12/87 ban lãnh đạo Đảng họp, cho Husak thôi Tổng Bí thư, lên làm Chủ tịch nước, đưa Jakes lên. Thay người nhưng vẫn giữ đường lối cũ. Ngày 15 đến 21 tháng 1/ 1989 sinh viên liên tục mít tinh kỷ niệm việc Palach tự thiêu, bị đàn áp. Ngày 15 có 90 người bị bắt. Ngày 16 biểu tình rầm rộ, 5000 người bị bắt, trong đó có Havel. 4000 người ký tên đòi thả Havel. Ngày 17/11 thanh niên diễu hành tưởng niệm 50 chiến sĩ Tiệp bị phát xít bắn chết trong một cuộc mít tinh năm 1939. Hơn 50 ngàn người biểu tình, hô khẩu hiệu: “Hãy nhớ sự kiện 68, đả đảo cộng sản”, bị đàn áp, 560 người bị thương, 120 bị bắt. Ngày 20/11 có trên 300 ngàn người biểu tình tại thủ đô. Nội bộ lãnh đạo Đảng chia rẽ, một số trong đó có Tổng Bí thư Jakes đòi dùng lực lượng vũ trang đán áp thẳng tay, một số khác đòi thương lượng. Ngày 22/11 Bộ trưởng Quốc phòng tuyên bố quân đội không chống lại nhân dân. Ngày 27/11 biểu tình 50 vạn người, tổng đình công. Ngày 28/11 do áp lực của nhân dân và quân đội toàn bộ lãnh đạo Đảng Cộng sản từ chức. Ngày 7/12 lập chính quyền mới, Havel được cử dứng đầu chính phủ. Năm 1993 Đảng Cộng sản bị coi là tội phạm trong lịch sử.

  1. Rumani. Đảng Cộng sản. Tổng Bí thư: Ceausescu (1918- 1989).

Ceasescu tự xưng là lãnh tụ anh minh và vĩ đại, thực sự là độc tài và gia đình trị nổi tiếng, sống như đế vương. Rumani có mạng lưới công an và mật vụ dày đặc, gieo rắc sợ hãi trong dân cư. Không hề có tự do báo chí và ngôn luận. Năm 1977 thợ mỏ đòi tăng lương, lãnh đạo hứa giải quyết nhưng sau đó trở mặt, bắt và thủ tiêu những người cầm đầu. Ceausescu thực hiện “tổ chức lại nền văn minh nông nghiệp” bằng cách định san bằng 8000 trong số 13000 làng xã để thành lập các trung tâm công nông nghiệp khỏng lồ, lại bắt san bằng khu phố cổ để xây cung điện nguy nga quá tốn kém. Dân chúng kéo nhau đi tị nạn. Ngày 2/3/1989 họa sĩ Babes tự thiêu để phản đối Ceausescu. Có sáu cán bộ cao cấp, lão thành gửi thư cho Đảng phê phán Ceausescu. Tháng 11/ 1989 Ceausescu được đại hội Đảng bầu lại làm Tổng Bí thư, trong lễ nhậm chức ông đã đọc diễn văn ba tiếng, được vỗ tay hoan hô 34 lần, lần nào cũng kéo dài. Tại thành phố Timisoara, một đêm cuối tháng 11 công an, mật vụ xông vào nhà đánh đập mục sư Tokes, một nhà hoạt động dân chủ. Giáo dân được tin kéo đến cứu Tokes và biến thành biểu tình. Ngày 17/12 công an đàn áp, bắt người. Biểu tình phát triển mạnh hơn, kiểm soát trung tâm thành phố Timisoara, Ceausescu ra lệnh lực lượng quân đội dùng xe tăng đàn áp, các lực lượng vũ trang phải bắn vào biểu tình không thương tiếc. Trong nước đưa tin 60 người bị giết, hàng trăm bị thương, đài Châu Âu tự do đưa tin trên 4000 người chết. Ngày 20/12 Ceausescu đi thăm Iran về, cho tổ chức mit tin chào mừng. Ban đầu quần chúng vỗ tay hoan hô nhưng sau đó có tiếng hô: TI-MI-SOA-RA, ban đầu nhỏ rồi to dần, vang rền. Rồi quần chúng hô to: “Đả đảo quân giết người. Ceausescu, dân là chủ”. Ngay sau đó biểu tình tỏa ra nhiều hướng. Vào 6 giờ tối công an xả súng vào biểu tình. Ngày 22/12 Ceausescu cách chức Bộ trưởng Quốc phòng Milea vì ngăn không cho binh lính bắn vào dân và ra lệnh giết ông. Trung ương lệnh các binh chủng đứng về phía biểu tình, đem quân bao vây trụ sở Đảng. Ceausescu cùng vợ lên trực thăng bỏ trốn, bị quân đội bắt lại. Một tòa án quân sự được thành lập, xét xử tội trạng, kết án tử hình. Ceausescu bị bắn ngay sau đó.

Ghi chú: Viết đoạn này tôi có tham khảo bài “Suy nghĩ về sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu” của Hà Tuấn Trung.

III. MỘT SỐ NHẬN XÉT

1- Các cuộc cách mạng đều bắt đầu bằng biểu tình hòa bình, tuy vậy không tránh khỏi đổ máu. Sự đàn áp của cộng sản là khó tránh và chỉ chứng tỏ thế yếu, tuy vậy khi dân đã giác ngộ, thấy rõ bản chất độc ác và hèn yếu của cộng sản thì sự đàn áp không làm số đông run sợ mà biểu tình càng đông hơn, dân càng quyết tâm hơn. Trong lực lượng biểu tình thì vai trò của thanh niên, của sinh viên và công nhân ở các thành phố là rất quan trọng.

2- Cộng sản dựa vào lực lượng vũ trang, ban đầu có một số vì bị mua chuộc, bị lừa bịp hoặc sợ hãi mà tuân lệnh để đàn áp dân, nhưng rồi họ nhận ra sự thối nát của cộng sản, sự chính nghĩa của nhân dân nên quân đội ủng hộ dân, công an quăng súng bỏ chạy.

3- Khi nhân dân nổi lên thì trong lãnh đạo cộng sản sẽ có phân hóa, bên cạnh một số cố níu giữ quyền lực đến phút cuối và sẵn sàng đàn áp thì cũng có nhiều người kịp thời thấy được sự chính nghĩa của nhân dân, từ bỏ cộng sản, đứng về phía nhân dân. Sự đấu tranh trong nội bộ của những người đứng đầu chính quyền có tác dụng thúc đẩy quá trình sụp đổ của cộng sản.

4- Chế độ cộng sản vốn tàn bạo và dối trá, ban đầu dân vừa bị lừa vừa sợ nên chịu khuất phục. Đến khi dân đã có giác ngộ, đoàn kết lại thì trở thành lực lượng mạnh, đủ sức loại bỏ chế độ cộng sản. Lãnh đạo cộng sản nếu biết thời đã hết, biết đặt quyền lợi quốc gia, dân tộc lên trên thì còn giữ được một chút gì đó, còn nếu cứ níu giữ sự độc tài đến cuối thì khó tránh khỏi kết thúc bi thảm như Ceausescu.

IV- NGHĨ GÌ VỀ VIỆT NAM

Chủ nghĩa Cộng sản vào được Việt Nam, sống bám và phát triển được là nhờ lòng yêu nước của các chiến sĩ cách mạng. Nhưng rồi lòng yêu nước đã bị lợi dụng. Cộng sản Việt Nam bị lệ thuộc vào Đảng Cộng sản Trung quốc, một tổ chức rất tàn bạo, rất độc ác, rất nham hiểm. Cộng sản Việt Nam nhờ đánh thắng vài cuộc chiến tranh, tự phong là “lương tâm của thời đại”, tự cho là “vô cùng sáng suốt và quang vinh” để lừa bịp nhân dân. Tháng 10/1989, Nguyễn Văn Linh bàn với Gorbachev kế hoạch Cộng sản Việt Nam kết hợp với Liên Xô ngăn cản cuộc cải cách của các nước Đông Âu, nhằm cứu phe xã hội chủ nghĩa. Khi Gorbachev không tán thành thì ông Linh lại tôn Đảng Cộng sản Trung Quốc lên thành lãnh đạo của phe xã hội chủ nghĩa. Năm 1969 Hồ Chí Minh cũng muốn dùng Đảng Cộng sản Việt Nam để hàn gắn bất đồng trong phong trào cộng sản quốc tế (toàn chuyện buồn cười vì ảo tưởng). So với các đảng cộng sản ở Đông Âu, Đảng Cộng sản Việt Nam nguy hiểm hơn, tàn bạo hơn. Ngoài việc học được các thủ đoạn của cộng sản Đông Đức và Rumani trong tổ chức mật vụ, cộng sản Việt Nam còn học theo cộng sản Trung Quốc nên có nhiều mưu mẹo thâm độc hơn, trắng trợn hơn trong việc đàn áp phong trào dân chủ và tuyên truyền lừa dối nhân dân. Đa số dân Việt Nam đã quen bị nô lệ, quen bị áp bức nên dễ bị cộng sản lừa dối, rất sợ Đảng và chính quyền, rất dũng cảm trong chống ngoại xâm nhưng rất e ngại trong đấu tranh cho tự do, dân chủ.

Tuy Việt Nam và Đông Âu có tình hình khác nhau, nhưng cùng chịu cảnh đọa đày của cộng sản. Chế độ cộng sản là tai họa của nhân loại, thế nào cũng bị loại bỏ hoàn toàn. Các nước Đông Âu và Liên Xô đã đi trước. Chế độ cộng sản chỉ còn lại tại vài nước. Rồi nhân dân các nước đó sẽ vùng lên để chôn vùi nó lần cuối cùng. Riêng tại Việt Nam sự chia rẽ, đấu đá trong nội bộ chóp bu của Đảng để tranh giành quyền lực tại Đại hội 12 sắp tới sẽ làm Đảng suy yếu trầm trọng, sẽ tạo cho nhân dân thấy rõ hơn sự thối nát không thể nào che giấu, tạo cơ hội cho các tổ chức dân chủ liên kết với những người tiến bộ trong Đảng, tạo thành lực lượng hùng hậu của nhân dân đứng lên tiến hành cải cách thể chế, loại bỏ chủ nghĩa cộng sản ra khỏi đời sống của dân tộc, có được như thế mới mong đưa dân tộc thoát khỏi sự nguy hiểm là thời kỳ Bắc thuộc mới.

  1. N.Đ. C.

Nhân vật của năm 2015: lưu manh đỏ

Nhân vật của năm 2015: lưu manh đỏ

Trương Duy Nhất

26-12-2015

H1Năm 2015 nổi lên hàng loạt vụ hành hung, trấn áp thô bạo các nhà bất đồng chính kiến và hoạt động dân chủ. Tăng cả về số vụ lẫn độ tàn độc, dã man, và tăng cả về quân số hùng hậu của lực lượng “lưu manh đỏ” này.

Nếu trên mạng là cuộc tấn công bôi nhọ sặc màu tục tĩu, vô học của đội quân “dư luận viên”, thì ngoài xã hội là những cuộc tấn công đậm chất côn đồ, lưu manh kiểu xã hội đen nhằm vào các blogger, nhà báo độc lập, luật sư và các nhà hoạt động dân chủ.

Từ vụ đánh đập dã man Nguyễn Chí Tuyến đến cuộc trấn áp anh em Trịnh Bá Tư- Trịnh Bá Phương và bà con Dương Nội khi vào trại giam số 6 đón anh Trịnh Bá Khiêm mãn hạn tù; đến cuộc hành hung các cựu tù Chu Mạnh Sơn, Trương Minh Tam… trên đường đi đón bạn tù Trần Minh Nhật; đến các vụ hành hung tàn bạo chị Trần Thị Nga; đến các cuộc ném mắm tôm và hành hung sưng đầu bầm ngực anh Nguyễn Văn Thạnh; đến các cuộc quấy phá khủng bố Nguyễn Lân Thắng của nhóm “áo đỏ phản ứng nhanh” Hà Nội; đến cú tạt a xít lên đầu anh Trương Dũng; đến cuộc hành hung luật sư Nguyễn Văn Đài và cuộc tấn công mang tên “bụi Chương Mỹ” nhắm vào các luật sư Trần Thu Nam, Lê Luân; đến cuộc trấn áp đẫm máu cựu binh Trần Bang trong cuộc biểu tình ở Sài Gòn để phản đối chuyến thăm của Tập Cận Bình…

Dư luận đặt dấu hỏi về “vai trò chỉ huy” của lực lượng an ninh đứng sau đội quân trấn áp này. Thậm chí nhiều vụ, người ta nghi ngờ đội quân trấn áp lưu manh đó chính là… an ninh mặc thường phục. Tuy nhiên, về phía cơ quan an ninh, họ luôn phản bác và cho rằng đấy là lũ… lưu manh, côn đồ!

Anh Quốc, một nhà hoạt động dân chủ trẻ tuổi ngụ tại Lăng Cô, Thừa Thiên- Huế (người cũng từng bị nhiều trận trấn áp hành hung dạng này) trong một lần tình cờ tiếp tôi cùng nhà văn Nguyên Ngọc và giáo sư Chu Hảo nhận định: “Bọn đó không phải lưu manh côn đồ đâu. Lưu manh côn đồ họ có tâm hơn”.

Chưa thể xác thực được họ là… lực lượng nào. Nhưng điều xác thực được là họ rất lưu manh, rất côn đồ, rất mất dạy, rất tàn ác. Và đặc biệt: họ đều xưng danh “yêu nước, bảo vệ đảng và chế độ” khi ra tay hành hung trấn áp các nhà hoạt động dân chủ.

Vì thế tôi gọi họ là đám “lưu manh đỏ”. Và chọn họ, lực lượng “lưu manh đỏ” là nhân vật của năm. Như một chỉ báo mai mỉa cho thực trạng xã hội của năm 2015 vừa qua.

________

Lời thêm:

Như các bình chọn thường niên khác trên Một Góc Nhìn Khác, “Nhân vật của năm” cũng theo tiêu chí ấn tượng (cả nghĩa cộng hoặc trừ), miễn là nó thật sự nổi bật, tác động thật sự, gây những cơn sóng xã hội thật sự. Ưu tiên cho nghĩa cộng. Nhưng khi phía cộng không thật đủ mạnh, thì đành phải nhường ghế cho phía trừ.

Nguyễn Bá Thanh và sự ra đi hồi đầu năm của ông thật ấn tượng (ấn tượng theo đúng nghĩa cộng), nhưng không đủ để đưa ông thành nhân vật của năm.

Cấn Thị Thêu bất khuất, người tù quả cảm, nguồn lửa của phong trào nông dân Dương Nội. Như một hiện tượng. Nhưng hiện tượng Cấn Thị Thêu theo tôi, vẫn chưa đủ ngưỡng để bùng cháy thành một mẫu hình nhân vật của năm theo đúng nghĩa cộng mà tôi hằng mong đợi.

Ở nghĩa trừ. Con ruồi Tân Hiệp Phát dậy sóng đấy, nhưng xếp cùng để cân đong với hiện tượng “lưu manh đỏ” thì tôi chọn lũ “lưu manh đỏ”.

TDN

Chiều nay có mùa thu đi về

Chuyện Phiếm đọc trong tuần sau lễ Hiển Linh Năm C 03/01/2016

 “Chiều nay có mùa thu đi về”
Buồn vương mây ngàn giăng khắp lối
Mùa thu bơ vơ đến bên trời
Ru tóc em suối nguồn
Gọi hồn hong gió thu buồn.

(Từ Công Phụng – Mùa Thu Mây Ngàn)

(Rm 2: 1-2)

            Trần Ngọc Mười Hai

             Lại một lần nữa, bần đạo xin thú thật với bạn bè người thân rằng thì là: đề-tài “mùa thu” từng là nguồn-hứng cho cả người viết nhạc lẫn bần đạo bầy tôi đây. Thu, bao giờ cũng “vương mây ngàn”, “bơ vơ đến bên trời” và “gọi hồn hong gió thu buồn.”

Lại nữa, cứ nói đến thu, nghệ sĩ nhà mình sẽ còn hát điệu buồn những là xa nhau, như sau:

“Ngày mai chúng mình xa nhau rồi

Cầm tay em nhìn sao không nói

Chiều nay mưa bay khắp phố nhỏ

Mưa ướt đôi vai mềm

Bùn lầy lấm gót chân em.”

(Từ Công Phụng – bđd)

Vâng. Thơ nhạc thì như thế. Thế còn, truyện kể thì ra sao?

Vâng. Một câu hỏi “hóc búa” như thế có ma nào dám trả lời. Thôi thì, thay vì trả lời trả cả vốn, nay mời bạn và mời tôi, ta nghe thử truyện kể nhè nhẹ như một trò chơi, một trò chơi quá tuyệt vời, rất sau đây:

“Năm ấy, con gái lớn của tôi, Tina được 9 tuổi. Một hôm, tôi chở con gái về thăm bà nội. Tôi nhớ rằng, giai-đoạn ấy tôi đi đến quyết định rằng việc mở tài khoản tình cảm giữa cha con chúng tôi là hết sức quan-trọng. Thế là, trước chuyến đi ấy, tôi cứ băn-khoăn mãi với ý-nghĩa; “Mình có thể làm gì trong vòng 30 phút để ký gửi vào tài-khoản tình-cảm của con gái?”

Bạn biết không, để làm được điều này, cần phải có một chút can đảm. Một đứa trẻ 9 tuổi chắc-chắn đã hình-thành nhận-định của riêng mình về những hành-vi mà nó trông-đợi ở người khác. Tôi không phải là người hay nói chuyện trong lúc lái xe.

Thỉnh-thoảng, tôi cũng có nhận-xét này nọ về cảnh-vật hai bên đường, nhưng thường thì tôi chỉ im-lặng điều-khiển “vô-lăng”. Vì thế, quả là tôi phải hoay hoay một lúc mới nghĩ ra cách và tôi ngỏ ý với con gái về một trò chơi giữa hai cha con.

 Khi chúng tôi vừa lái xe ra khỏ nhà, tôi bèn hỏi: “Này con gái, sao bố con mình không cùng tham-gia một trò chơi nhỉ? Điều chúng ta cần làm rất đơn-giản, chỉ cần nói: “Bố ơi, con rất vui bởi vì…” hoặc: “Bố thích điều con làm bởi vì…” Từ “Bởi vì” rất quan-trọng, nó trả lời câu hỏi tại sao người khác yêu mến chúng ta. Đồng ý chứ? Bố bắt đầu trước nhé?”

Tôi là người bắt đầu trước. Tôi nói một điều gì đó về con gái. Cô bé ngẫm nghĩ một chút rồi bắt đầu nói một cái gì đó về tôi. Nhưng, sau ba bốn câu như vậy, tôi bắt đầu “cạn vốn” không nghĩ ra được điều gì để nói. Quả là một sự thật gây sốc đối với tôi. Tôi yêu con gái mình là thế, vậy mà tôi khó có thể nhớ ra việc làm hoặc nét tính-cách nào ở nó làm tôi yêu thích. Tôi chau mày cố tìm ra một cái gì để nói. Tina làm điều này dễ dàng hơn.

Sau khoảng năm, sáu câu trôi chảy, nó bắt đầu ngập-ngừng, với giọng nói ngắt quãng. Tôi chắc rằng nó đang cân nhắc mọi chuyện về bố nó, ôn lại những gì mà tôi đã nói hoặc đã làm. Nó biết ơn những việc tôi làm, những buổi đi dạo trong công-viên với tôi, những buổi tập bóng rổ ngoài sân và cái cách mà tôi đánh thức con bé dậy vào mỗi buổi sáng. Nó có thể nhìn thấy tất cả những điều tốt đẹp ấy trong tôi.

Tôi thì phải loay hoay để nghĩ ra những điều cần nói. Và, khi tôi phóng chiếu tầm mắt nhìn lại những sự việc xung quanh cô con gái bé nhỏ của mình, quan-sát lại những điều mà nó thường làm trong gia-đình, tôi bắt đầu thấy một điều khác. Tôi thấy cảnh nó ôm hôn cha mẹ, nhớ lại những câu nói hồn-nhiên của nó và cả những lời cảm ơn nữa. Tôi biết rằng Tina học giỏi ở trường và cung-cách của nó rất lễ-độ. Tôi bảo con rằng: tôi thích nhất là khi Tina đi học về và lao đến ôm cha mẹ.

Khi cha con tôi bắt đầu đi sâu vào chi-tiết và xem xét lại mọi chuyện thì chúng tôi không thể dừng được nữa. Chuyến đi chỉ kéo dài nửa tiếng mà chúng tôi đã nói được 22 hoặc 23 điều; đến đây, thì tôi phải ngừng lại vì không thể nghĩ ra được thêm một điều nào nữa.

Thú thật, tôi có cảm-giác lẫn-lộn trong trò chơi này. Một mặt tôi rất vui, nhưng không tránh khỏi cảm-giác thất-vọng. Điều đáng mừng là Tina có thể biết nhiều điều về bố nó như thế (nó vẫn muốn tiếp-tục cuộc chơi), tôi thất vọng vì thấy mình không thể tìm ra những điều gì đẹp đẽ tốt-lành trong con bé nữa. Nhưng, dù sao điều quan-trọng nhất vẫn là, suốt dọc đường hai cha con có cơ-hội chuyện-trò rôm-rả. Tôi nghĩ trò chơi mở đầu cho cách nói chuyện mà trước đây chưa bao giờ tôi trao-đổi với con.

Khi chúng tôi đến nơi, Tina nhảy ngay xuống xe, chạy như bay vào nhà và đó là lúc mà trái tim tôi như muốn vỡ oà ra vì cảm-động. Vừa chạy nó vừa la lên: “Bà nội ơi, nội ơi. Bố biết bao nhiêu điều tốt về cháu. Cháu không biết là bố biết nhiều điều tốt về cháu đến thế.” (Trích sách “Sống Mạnh Mẽ” do Stephen R. Covery biên-soạn, Trần Đăng Khoa – Uông Xuân Vy dịch)

             Lại cũng xin thú thật với bạn đọc và bạn nghe đọc trên “sách nói” về nhiều thứ, cả chuyện phiếm lẫn truyện kể nhẹ-nhàng, rất giản-đơn.

Thú thật, là vừa xưng thú vừa nói thật những điều mà mình ít khi để ý đến. Thú thật, là thật tình tình xưng thú về kiến-thức rất hạn hẹp của mình. Thú rất thật, là: càng viết nhiều càng thấy mình chẳng biết gì nhiều, cả những điều căn-bản mà người đọc hoặc người nghe đọc truyện kể lại biết nhiều hơn người viết.

Thú thật thêm nữa, là bần đạo đây, tiếng là viết và lách những 10 cuốn chuyện phiếm trong thời gian gần 10 năm nói khoác, không có sách, mà thật ra chỉ là trích và dịch những tư-tưởng của người khác, kể cả và nhất là người nhà Đạo rất “im hơi lặng tiếng”. Thú thật, cũng rất thật như người kể truyện ở trên đôi khi cũng “thú thật” những sự thật ít khi dám xưng thú.

Và hôm nay, bần đạo đây lại cũng xin phép với bạn đọc và bạn nghe sách báo đọc bằng tai/miệng rằng: chỉ dám xin bầu bè miễn thứ cho cái tội biết quá ít, nhưng lại dịch quá nhiều. Thôi thì, đã xin phép thế rồi, nay bần đạo bèn đánh bạo ngẩng đầu nhìn về đằng trước tìm xem có đề tài gì để trích và để dịch hầu cống-hiến bạn đọc và bạn nghe đọc, hầu giết thì giờ để cho vui.

Thế thì, mời bạn và mời tôi ta đi thẳng vào bài báo xuất-hiện trên tờ The Cathokic Weekly ở Sydney hôm 20/12/2015 có đầu đề bảo rằng: “Theo toà-thánh Vaticăng, thì: Người Công-giáo không nên tìm cách khiến người Do-thái-giáo trở lại đạo”.

Đi thẳng vào bài báo, là đi vào phần tìm-hiểu rất như sau:

“Tài-liệu vừa mới phát-hành của Toà-thánh Vaticăng dạy rằng: Người Công giáo chúng ta không nên bắt-buộc người theo Do-thái-giáo phải về với Đạo mình, cho nhất-quán. Đây, là sứ-điệp của Uỷ-ban Giáo-Hoàng về Tương-quan Đạo-giáo đối với người theo Do-thái-giáo đã được Toà thánh làm sáng-tỏ qua sứ-điệp của Công-đồng Vaticăng 2 trong một tài-liệu có tên là “Nostra Aetate”. Tài-liệu mới, của Toà thánh được phổ-biến, để mừng kỷ-niệm 50 năm ngày kết-thúc Công đồng Vaticăng 2 này…

 Tài-liệu, nay nhấn mạnh điểm này, là: niềm tin của người Đạo Chúa có gốc-gác từ Do-thái-giáo, từng xác-nhận rằng Thiên-Chúa lần đầu tiên mặc-khải về chính Ngài, là dành cho người theo Do-thái-giáo. Và tài-liệu đây cũng nói: “Chính vì thế, Hội-thánh buộc phải quan-niệm việc giảng rao Tin Mừng là dành cho người theo Do-thái-giáo, tức: những người chỉ tin vào một Thiên-Chúa độc-nhất theo cung-cách khác với điều mà những người thuộc tín-ngưỡng khác, và những người thuộc thế-giới khác với ta, từng quan-niệm.”

Tài-liệu, còn nói thêm: dù người Do-thái-giáo không tin Đức Kitô là Đấng Cứu-chuộc toàn vũ-trụ, họ vẫn có phần trong việc cứu-rỗi nhân-trần, do quà-tặng và lời mời gọi của Thiên-Chúa là lời mời không thể thu-hồi lại được. Thế nên, làm sao điều như thế lại nằm ở huyền-nhiệm vô-phương dò-thấu trong kế-hoạch cứu-rỗi của Thiên-Chúa, được.

Bằng lời lẽ cụ-thể, điều này có nghĩa là: Hội-thánh Công-giáo không hành-xử cũng chẳng hỗ-trợ bất cứ sứ-vụ đặc biệt theo bất cứ cơ-chế nào trực chỉ về phía những người theo Do-thái-giáo, nào hết.

Tài-liệu, nay khuyến-khích người Đạo Chúa hãy biết “làm chứng-nhân cho niềm tin của họ trong Đức Giêsu Kitô đối với người Do-thái-giáo, nhưng theo cách ‘khiêm-hạ và bằng thái-độ nhạy-cảm’ biết chắc chắn rằng người theo Do-thái-giáo lại cũng là chứng-nhân cho Lời của Thiên-Chúa.

 Tài-liệu nói ở đây, lại cũng dạy rằng: người Công-giáo chúng ta sẽ hiểu được ý-nghĩa của Lò Thiêu Sự Sống là thế nào với người Do và phải đấu-tranh chống bất cứ dấu hiệu của thành-kiến chống lại người Do-thái-giáo. Người đi Đạo Chúa không bao giờ đu7o5c phép tỏ ra mình là người chuyên bài bác người Do-thái, đặc-biệt vì Đạo Chúa bắt nguồn từ Do-thái-giáo…(X. The Catholic Weekly 20/12/15 tr. 27 trích tin/bài từ CATHOLICCULTURE.ORG)       

             Trích và dịch như thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta đi vào vườn hoa âm-nhạc có những ca-từ đầy tình-tự đọng lắng tâm-tư của người cùng một cảm-nghiệm những hát rằng:

“Thu nay mây ngàn còn giăng mãi bên trời,
Mùa thu lưu luyến bóng dáng anh đi.
Đêm nay bên thềm cầm tay em khẽ nói:
Ngày mai anh đi rồi,
Anh có buồn gì không?

Buồn không hỡi người đã đi rồi.
Tìm đâu những ngày vui êm ấm?
Người đi theo năm tháng không cùng,
Thương mắt em hay buồn,
Nhìn mùa thu chết bên song.

(Từ Công Phụng – bđd)

Kể ra thì, bạn và tôi có hát những câu ca da-diết đến là như: “Buồn không, hỡi người đã đi rồi?” “Tìm đâu những ngày vui êm ấm?” cũng là để dẫn đưa nhau vào với giòng chảy suy-tư đầy tư-lự, vẫn nhủ rằng: đời mình/đời người vẫn đầy ắp nhiều suy-tư về Đạo và về đời, như lời kể của cô-giáo ở trường tiểu-học nọ có bé nọ tên “Nho” lại cứ muốn thuật lại từng chữ cho mẹ mình nghe, hay như phim Hàn-quốc sau đây:

“Chú bé 9 tuổi tên Nho được mẹ hiền gặn hỏi xem bé học được những gì ở nhà trường, môn giáo lý. Nghe mẹ hỏi, bé tíu tít nói vội vàng:

 -Mẹ, cô ở trường có kể cho tụi con nghe rất nhiều chuyện Chúa làm. Sao con thấy chuyện nào cũng đẹp như phim tập, đó mẹ. Cô bảo thế này: Chúa cứu dân Do Thái thoát khỏi ách nô lệ của lính Ai Cập chuyên hà-hiếp dân lành Do Thái. Chúa cứu họ bằng cách cho ông MôSê, xuất hiện ngay sau lưng địch, mà địch không hay.

 Kế đó, ông Môsê đem dân Do Thái tới Biển Đỏ an toàn xa lộ, không ai bị đói. Thế rồi, ông lại truyền cho các kỹ sư bắc một cây cầu thiệt to, cao ơi là cao, đặt ngay phía trên đỉnh đầu của mọi người. Và rồi, dân Do Thái ai cũng qua được cầu, mà không bị gì hết. Kế đến, ông dùng di-động gọi về cho tổng hành dinh, kêu máy bay yểm trợ.

 Thế là, họ gửi máy bay đến um sùm trời đất, bắn phá tơi bời. Và, cầu bị sập ngay lập tức. Làm chết đám lính Ai Cập. Bọn lính chết sạch, không ai kịp trăn trối với vợ con. Trong khi đó, dân Do Thái cứ ung dung sống an nhàn, thảnh thơi. Mẹ thấy có khủng khiếp không!

 Bà mẹ ngắt lời:

-Này con, con kể có đúng như cô con dạy không đó?

-Con nói thiệt đấy. Đúng rồi đó, mẹ. Con chỉ thêm có chút xíu cho nó giống phim Hàn Quốc, thôi. Chứ, kể dài như cô ở trường, mẹ nghe chỉ có nước ngủ gục, chứ ai mà tin những điều cô kể!…

 Lời chú bé thuật lại, nghe cũng giống như lời “cụ đạo” nào đó đứng bục cứ đem các truyện tiếu lâm chay/mặn ra mà xào xáo tuy không giống như lời chú bé tên Nho nói ở trên, nhưng cũng là lời kể khá là “hư cấu” ở đâu đó, rất Do-thái-giáo (?).

Quá đáng chăng, nếu cứ gán tội cho người theo Do-thái-giáo những “hư cấu” và/hoặc xấu xa rất không thật? Hư-cấu chăng, hay chỉ là hư-hao, hư-hại một uy-tín mà lâu nay ta cứ gán bừa cho người đồng Đạo tôn-thờ cùng một Chúa Trời, ở cõi này? Hư hay không hư, người Do-thái cũng đâu phải thế. Không tin, cứ mời bạn/mời tôi ta vào lại vường hoa Lời vang bậc thánh-hiền có những đoạn quả-quyết rất chắc nịch như sau:

“Hỡi người, dù bạn là ai đi nữa

mà bạn xét đoán,

thì bạn cũng không thể tự bào chữa được.

Vì khi bạn xét đoán người khác,

mà bạn cũng làm như họ,

thì bạn tự kết án chính mình rồi.”

(Rm 2: 1-2)

Dẫn-chứng ở đây, đôi điều này, không phải để bảo nhau: ta đừng xét-đoán hoặc phê bình người nào khác, dù người ấy có là Công-giáo, Tin-Lành hay Do-thái-giáo. Mà là, hãy nhìn lại xem Đạo mình, người mình đặt nặng cuộc sống của chính mình vào điều gì, mà thôi.

Dẫn-chứng hay không chứng-thực vào làm chứng gì đi nữa, cũng chỉ để tôi và bạn, ta mời nhau đi vào một hành-trình sống đạo trong đó có những đòi hỏi khá gắt gao của cả một đạo-giáo chung đụng với mọi người ở thế-trần. Đòi hỏi ấy không gì ngoài chuyện thương yêu và tha thứ.

Để minh-hoạ cho đòi hỏi cốt-lõi của Đạo Chúa hay đạo từ-bi làm người, cũng nên mời nhau đi vào vùng trời truyện kể để dẫn chứng cho điều mình cần suy-tư thực-hiện trong cuộc sống rất đời thường. Truyện kể bao giờ cũng nhè nhẹ đi vào tâm-can của mỗi người và mọi, như sau:

“Một hôm, một cậu học sinh 14 tuổi đang trên đường trở về nhà sau giờ tan học thì nhìn thấy bên trong hiệu sách ven đường có một cuốn sách mà cậu rất yêu thích nhưng trên người cậu lại không mang đủ tiền để mua cuốn sách đó. Thế là, cậu liều đem cuốn sách giấu vào trong ngực, không ngờ bị ông chủ hiệu sách bắt gặp.

 Ông chủ bực tức đưa ngay cậu bé vào trong một căn phòng kín. Sau đó, gọi mấy nhân viên bảo vệ tới và xét hỏi. Cậu bé sợ hãi, nước mắt giàn rụa chảy đầy khuôn mặt. Một lát sau, họ hỏi cậu bé số điện thoại của gia đình, bố mẹ và gọi điện tới thông báo cho gia đình.

 Chỉ ít phút sau, cha của cậu bé chạy tới. Cậu cúi đầu im lặng và chờ đợi sự trách phạt từ cha.

 “Tôi nghĩ, đây nhất định là một sự hiểu lầm!” Người cha nói: “Bởi vì tôi rất hiểu con trai mình. Cháu là một cậu bé hiểu chuyện. Nhất định đây là cuốn sách mà cháu rất yêu thích, nhưng lại không mang đủ tiền để mua nó cho nên mới làm như vậy. Ông xem như thế này có được không nhé, tôi sẽ trả số tiền gấp 3 lần để mua cuốn sách kia và chuyện này coi như xong!”

 Sau đó, người cha lấy ra đủ số tiền trả cho chủ hiệu sách. Cậu bé sợ hãi và lấm lét nhìn cha, người cha cũng nhìn con trai nhưng trong ánh mắt ấy không hề có sự trách mắng mà chỉ có chan chứa yêu thương…

 Hai cha con cậu bé rời khỏi hiệu sách, người cha dừng bước rồi nâng khuôn mặt đầy xấu hổ và cảm động của con trai lên rồi nói: “Con trai! Cả đời này con nhất định sẽ phạm phải không nhiều thì ít lỗi lầm. Hãy tiếp thu rồi quên nó đi! Đừng để nó lưu lại bóng mờ trong lòng con, hãy cố gắng học tập và sống chỉ cần lần sau đừng phạm lại tội lỗi ấy nữa thì con vẫn là một người con khiến cha mẹ kiêu hãnh, tự hào!”

 Nói xong lời này, người cha liền đặt cuốn sách vào tay con trai. Cậu bé không nhịn được liền oà khóc và sà vào lòng cha. Hãy cố gắng giữ bình tĩnh, đừng đánh mắng khi trẻ phạm lỗi. Bởi vì như vậy sẽ dễ dàng gây ra cho trẻ một tâm lý oán hận. Nếu có thể dùng nhiều hơn một chút tha thứ và giảm đi một chút trách mắng thì đó chính là cách xử sự của bậc cha mẹ có trí tuệ.” (Theo NTDTV / ĐKNMai Trà biên dịch)

            Phiếm-luận hôm nay và mai ngày, bao giờ cũng là thời-khắc để bạn và để tôi, ta thư-giãn lắng đọng lòng mình vào với những giây phút kể lể cho nhau đôi ba ý-tưởng làm nền cho cuộc sống rất thường-tình, ở đời.

Phiếm và luận, lúc nào và bao giờ cũng chỉ gồm những kể và kể. Kể cho nhiều, cho hay đó mới là mục-tiêu và là cung-cách để tôi và bạn, ta cùng nhau khuyến-khích mọi người đi vào cuộc sống tuy ồn-ào, náo-động, nhưng rất vui. Vui với người và với mình, suốt mọi ngày trong đời. Ở chợ đời.

            Trần Ngọc Mười Hai

            Vẫn cứ kể hoài kể mãi

            Câu chuyện phiếm rất Đạo

            ở trong đời.

            Với mọi người.

Đêm nay xuống một bài thơ trắng,

Suy Tư Tin Mừng tuần sau lễ Hiển Linh năm C 03/01/2016

 Tin Mừng (Mt 2: 1-12)

Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem, và hỏi:

 “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.”

Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời:

“Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: “Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời.”

Bấy giờ vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Rồi vua phái các vị ấy đi Bêlem và dặn rằng:

“Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người.”

Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.

*   *   *

“Đêm nay xuống một bài thơ trắng,”

Cầu nguyện cho đời, nở ái ân”

(Dẫn từ thơ Vũ Hoàng Chương)

Mai Tá lược dịch.

Thơ trắng lâu rồi đã giáng hạ, xuống với đêm đen. Nhưng, đêm đen cuộc đời nào mấy ai nhận ra thơ. Thơ cuộc đời. Thơ trong Đạo. Thơ của Đức Chúa vẫn hiển hiện với dân con, ngày lễ hội. Vẫn cứ hỏi rằng: con dân nhà Đạo đã mấy ai nhận ra Thơ Trắng, ngày Chúa Hiển Linh?

Từ lâu, nhiều nhà khoa-học trong Đạo cảm-nhận được Thơ Trắng, đã cố gắng giải-thích hiện-tượng “vì sao lạ” trong Tin Mừng. “Vì sao lạ” tuyệt-vời ấy, đã dẫn dắt 3 đạo-sĩ phương Đông đến Bêlem thờ lạy Chúa Hài Nhi. Là, nhà khoa-học Đạo Chúa, các nhân-sĩ ấy muốn đem đến cho chúng dân một học-thuyết nền-tảng nhằm giãi bày với mọi người, rằng: vì sao tuyệt-vời, xuất-hiện cùng ngày Đức Chúa giáng-trần, là vì sao rực sáng, rất thiên-văn.

Dù có thuần-phục về phương-pháp các nhân-sĩ khoa-học sử-dụng, tôi vẫn luôn tự hỏi: làm sao các cụ cứ mải bận tâm chuyện trăng sao mây nước, như thế nhỉ? “Vì sao lạ”, nói ở Tin Mừng đâu có mang ý-nghĩa của một thiên-văn, rất thực-nghiệm? Thánh Mát-thêu chỉ muốn viết về nền thần-học tu-đức nhằm chứng-tỏ rằng: thiên-đường trời cao vẫn ở trên. Chốn trời cao bên trên ấy, đã dẫn đường chỉ lối cho dân con trần-thế bằng các biến-cố rất hiện-thực. Những biến-cố gần gũi với người trần-gian. Còn, sao lạ trên trời vẫn là Thơ trắng hiển-hiện với người trần-gian, đã từ lâu.

Nghiên-cứu kỹ, ta hẳn sẽ thấy: ảnh-hưởng của trăng sao, tinh-tú vẫn xuất-hiện đậm nét trong các trình-thuật Cựu-Ước, như: sách Đệ Nhị Luật, Dân số, Tiên-tri Ysaya và Thánh-vịnh. Toàn-bộ trình-thuật về lễ-hội Hiển-Linh đã mang tính-chất biểu-tưởng, tuyệt-nhiên không dính-dự về khoa-học.

Truyện kể về “sao lạ dẫn đường” đã được sử-gia Hippolitus thuật ghi vào đầu thế-kỷ thứ 3, khi nguồn sử thánh-thiêng vẫn còn rất mới. Lúc ấy, sử-gia Hippolitus  cũng đã đề-cập đến con số 12 tròn-trịa cốt tính đúng ngày giờ xảy đến sau sự-kiện Chúa giáng trần. 12, là số liệu biểu-tượng vang vọng tính nhân-hiền của Thiên-Chúa, lúc Ngài tạo-dựng các chi-tộc thuộc giòng họ Israel .

Và, 12 cũng là số-liệu thần-thiêng được Thầy Chí Thánh sử-dụng để gầy nhóm môn-đồ đại-diện, do Ngài chọn.

Cụ thể hơn, truyện kể về “sao lạ dẫn đưa đạo sĩ ghé thăm Đấng Hài-Đồng” cũng rập khuôn ăn khớp với các ảnh-hình được thánh Mát-thêu đề cập ở những chương kế tiếp. Ở ba chương đầu, thánh Mát-thêu cho thấy hiện-tượng kỳ lạ thường xảy đến, rất miên-trường nơi chương đầu, ta thấy thánh Giuse nhận thông-điệp sứ-thần Chúa mang đến, trong giấc mộng lành. Chương hai, “Lời Thơ” viết về các đạo-sĩ theo vết sao tìm đến với Hài Nhi rất thánh, Đức Giêsu. Kịp đến chương ba, lại giải bày trời cao nay rộng mở. Và, Thiên-Chúa tỏ-bày thánh-ý của Ngài ngang qua việc thanh-tẩy Đức Kitô, Con của Ngài.

Nhìn từ góc cạnh chuẩn-mực cho bất kỳ sử-liệu nào, trình-thuật nay mở đầu cho linh-đạo về nhân-vật thần-thiêng, ít nghe đến. Nói cách khác, tiểu-sử về Đấng Nhân Hiền rất thánh ghi ở đây, cốt chứng-tỏ: sự Hiển-Linh thần thánh, qua đó Thiên-Chúa biểu-lộ vinh-quang của Ngài với thế-giới nhân-trần. Và, vinh-quang ấy nay thành hiện-thực.

Thế nên, hãy thử tìm-hiểu xem vinh-quang Đức Chúa tỏ bày cho những ai? Ở đâu? Khi nào?

Trường-hợp đầu, thánh Giuse là người được vinh-dự nhận-đón sứ-điệp từ Trên, trong giấc mộng lành. Thứ đến, là trường-hợp các nhà thiên-văn ngoài Đạo cũng được mặc-khải cho biết về sự Hiển-linh khác thường, ít khi thấy. Các nhà thiên-văn ở trên đã đại-diện cho nhân-gian trần-thế, chốn thân-quên.

Ở nơi này, thế-giới nối-kết với mọi thứ quyền-bính, vẫn hành-xử với trần-gian. Qua người ở chốn gian-trần, và ở đây quyền-năng phàm-trần được thể-hiện nơi Hêrôđê đã trở-thành sức mạnh đối đầu với vinh-quang Chúa Hiển-linh. Quyền-năng trần-thế lại còn ngăn-chặn tính nhân-hiền, biểu-hiện nơi hình-hài bé nhỏ Chúa Hài Đồng.

Cuối cùng, là trường-hợp đám dân con chân-chất Do-thái, tức các con dân được chọn đã biết tìm đến với vị hiền-nhân ngôn-sứ, thánh Gioan Tẩy Giả.

Ba chương Tin Mừng thánh Mát-thêu, vinh-quang Đức Chúa như vòng quay tròn trịa, đã công-khai hiển-hiện nơi bản thân Đức Kitô. Và, tính công-khai hiển-hiện ấy nay phổ-cập đã đến với nhiều người. Cũng từ đó, vinh-quang Hiển-linh rất thánh nơi Ngài đã biến-cải nhiều cuộc sống, nơi người phàm. Cụ thể là, cuộc sống của thánh Giuse, thái-độ của các đạo-sĩ chiêm-tinh và hoạt-động của thánh Gioan Tẩy Giả.

Còn hơn nữa, cả những người từng nghe lời Ngài giảng-dạy, bảo ban trong hành-trình cuộc sống nơi nhà Đạo. Tất cả đều nhất nhất không quay về với lề-lối sống xa xưa, như ngày trước.

Mà, Hiển-Linh tuyệt nhiên không là phó-bản của một hiện-tượng “Sao chổi”, vừa đổi ngôi. Hiển-linh, là lễ-hội rất thánh nhân đó, ta mừng kính vinh quang của Đức Chúa đã cải-biến cuộc sống, cải-biến tâm-can rất nhiều người.

Hiển-linh, là lễ hội tràn đầy cơ-hội giúp biến-cải cuộc sống của mọi người. Và, cảm-hóa tâm-can của mỗi người. Hiển-linh, còn là dịp giúp ta chấp-nhận mình sẽ phải chết đi cho chính mình. Chết, để không còn sơ-xuất lỗi phạm nữa. Chết vì Hiển-linh, giúp ta tái-sinh trong vinh-quang của Đức Chúa; để rồi, vinh-quang chói-ngời của Ngài sẽ bừng sáng lên mãi trong ta. Bừng sáng, ngay tại bản-chất và ngang qua cuộc sống của mọi người.

Cầu mong sao, lễ Hiển-linh hôm nay giúp ta nhớ lại ngày Đức Chúa tỏ lộ vinh-quang cao cả của Ngài cho ta. Tỏ lộ, không chỉ riêng cho mình ta mà thôi. Cầu mong sao, lễ Hiển-Linh còn là dịp nhắc nhở rằng: ta được mời gọi để ra đi loan báo cho mọi người biết rằng: chính vinh-quang Thiên-Chúa đang hiển-hiện một cách linh-hoạt với mọi người, nơi mỗi người.

Cầu mong cho ta có được quyết tâm ra đi loan-truyền vinh-quang ấy bằng niềm tin tưởng vào lễ-hội Hiển-linh. Loan-truyền niềm tin, bằng chính cuộc đời ta đang sống. Sống hiên-ngang, vui tươi trong tâm-thức kiến-tạo nên một thế-giới mới tràn-đầy vinh-quang rực-sáng những yêu-thương, cứu-độ đổ xuống với mọi người.

Lm Richard Leonard sj biên soạn

Mai Tá lược dịch.

Bức ảnh 2015 gây chấn động thế giới!

Bức ảnh 2015 gây chấn động thế giới!

Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J.

Bức-ảnh-2015-gây-chấn-động-thế-giới

Có lẽ tình hình chiến sự tại Syria trong năm 2015 được thế giới quan tâm nhiều nhất. Phía sau những làn đạn là hệ quả của biết bao đau thương mất mát. Dòng người tỵ nạn tháo chạy khỏi Syria ngày càng lớn. Tính đến cuối năm 2015, con số người di tản tị nạn tại các nước Châu Âu khoảng trên một triệu người. Đó là chưa kể đến hàng ngàn người phải bỏ xác giữa lòng đại dương. Trong đó, cả thế giới chấn động, mọi người bàng hoàng khi chứng kiến hình ảnh của em Aylan Kurdi, 3 tuổi người Syria, chết trôi vào bãi biển ở Bodrum, Thổ Nhĩ Kỳ hôm 2-9-2015.

Trước cảnh tượng em mặc áo đỏ, quần short tối màu, đi giày đen, nằm úp mặt lên cát, giống như đang ngủ, Nilufer Demir – một phóng viên – đã chụp tấm ảnh này. Ngay lập tức, tấm ảnh như biểu lộ một tiếng thét từ thi thể câm lặng của cậu bé vang đến toàn thế giới. Hôm sau, tổng thư ký Liên Hợp Quốc Ban Ki-moon đã lên tiếng kêu gọi các chính phủ ở châu Âu cần phải hành động ngay để giải quyết cuộc khủng hoảng người di cư. Rồi bất chấp sự phản đối của một số quốc gia châu Âu, thủ tướng Merkel vẫn đồng ý cho phép nhiều người tị nạn hơn vào Đức.

Tưởng cũng nên nhắc lại, trốn từ thành phố Kobani (Syria), gia đình em đã hòa cùng dòng người nhập cư để sang nước giáp ranh là Thổ Nhĩ Kỳ. Cha mẹ em mong muốn cuộc sống của gia đình em sẽ tươi vui an bình hơn khi tới vùng đất mới. Hy vọng tìm được sự đổi đời ở châu Âu là động lực để gia đình em và rất nhiều đồng bào của em vượt biên. Thế nhưng ước mơ ấy đã không thành! Trên chiếc thuyền định mệnh hôm ấy, tất cả đều bị nhấn chìm trong biển cả khiến 13 người thiệt mạng, trong đó có em, mẹ em và người anh 5 tuổi của em. Cha em may mắn thoát chết, nhưng ông mãi kinh hoàng vì: tất cả đã vụt khỏi tay ông!

Em là một trong vô số những nạn nhân của chiến tranh đang giày xéo quê hương Syria. Một bức ảnh khiến cả thế giới phải câm lặng! Bức ảnh cũng cho thấy thế nào là tội ác: bất công, chiến tranh, bạo tàn và vô tâm; thế nào là điều thiện: công bằng, hòa bình, hạnh phúc và tình người.

Bây giờ, em và rất nhiều đồng bào xấu số của em đã yên nghỉ. Cả thế giới khi nhìn bức ảnh của em, ai ai cũng thương tiếc và tiếp tục cầu nguyện cho linh hồn em và những nạn nhân trong cuộc chiến đau thương này. Hy vọng trong một ngày rất gần, đất nước của em sẽ thanh bình, đồng bào của em sẽ hưởng được cuộc sống ấm no hạnh phúc.

Không còn chiến tranh, hận thù và tang tóc là điều ước em muốn gửi đến cho thế giới qua bức ảnh của em vốn gây chấn động đến cả thế giới, khiến mọi người phải bàng hoàng!

Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J.

THÁNH LỄ CUỐI CÙNG

THÁNH LỄ CUỐI CÙNG

Trích EPHATA 673

Sau thế chiến thứ hai, có một tài liệu được công bố ở Đức, mang tên Những Bức Thư Từ Stalingrad. Đây là những bức thư được chở trên chuyến phi cơ Đức cuối cùng rời thành phố Stalingrad. Khi phần thất bại đã chuyển hẳn về phía quân xâm lăng phátxít Đức, vì sợ nội dung các lá thư có thể làm suy giảm tinh thần ở hậu phương, nên Hitler đã ra lệnh tịch thu tất cả, nhưng chưa kịp đem hủy đi mà còn sót lại trong số các văn thư lưu trữ tại thủ đô Berlin.

Tác giả các lá thư đều là các binh lính Đức Quốc Xã đã hầu như tuyệt vọng, chỉ còn chờ chết hoặc bị hồng quân Liên Xô bắt làm tù binh. Họ cố gắng viết những giònG chữ cuối cùng cho thân quyến. Trong các lá thư đó, người ta đọc được một trang nhật ký của một Linh Mục tuyên úy người Đức mô tả quang cảnh Lễ Giáng Sinh năm ấy, một Lễ Giáng Sinh có lẽ là cuối cùng trong đời của những người dự lễ ngay tại chiến trường lửa và máu. Bức thư thuật lại như sau:

“Đêm trước Lễ Giáng Sinh, có 11 chiến hữu Công Giáo đã mừng ngày sinh Đức Giêsu trong một căn lều còn tương đối lành lặn. Thật không dễ gì mà tìm được một nhóm tín hữu đích thật như họ ở giữa những kẻ vô vọng của cuộc chiến. Họ được tôi liên lạc mời tới tham dự Thánh Lễ. Trên cõi địa cầu bao la này có rất nhiều bàn thờ, nhưng chắc hẳn không ở đâu lại có chiếc bàn thờ nghèo nàn hơn ở đây. Mới hôm qua, đó là một chiếc thùng đựng những viên đạn đại bác phòng không, thì hôm nay, tôi trải lên trên mặt thùng chiếc áo lót màu trắng còn sạch sẽ của một anh lính.

Tôi đọc một đoạn trích trong Tin Mừng theo Thánh Luca. Tôi cho họ rước Mình Máu Thánh Chúa dưới hình thức những mẩu bánh mì đen, là khẩu phần nhỏ bé và cuối cùng của họ trong ngày.

Tôi đã khẩn cầu cho họ được ơn tha thứ và đón nhận lượng từ bi của Thiên Chúa chúng ta. Họ ngồi trên những mảnh ván, mắt họ ngước nhìn tôi… Ngoài kia, bom đạn vẫn đang nổ rền…

Lm. BERNARD BRO, NIỀM CẬY TRÔNG BẤT CHẤP TUYỆT VỌNG
Bản dịch của cụ Antôn Lê Văn Lộc ( + 1988 )