Tại sao người khoan dung rộng lượng thường thành công?

Tại sao người khoan dung rộng lượng thường thành công?

Có lẽ chúng ta ai cũng đã từng tiếp xúc với người khoan dung và rộng lượng. Họ đơn thuần không toan tính cho bản thân mà luôn nghĩ và lo lắng cho người khác. Ai cần họ, họ sẵn sàng dành thời gian để giúp đỡ và chia sẻ với người đó. Những lời họ nói rất chân thật và thiện tâm, khiến người nghe cảm nhận lòng tốt và sự khoan dung toát ra từ họ.

Chính vì thế mà họ đã truyền cảm hứng đến nhiều người, khiến người khác thay đổi suy nghĩ và trở nên quan tâm hơn đến mọi người xung quanh.

Người rộng lượng được đánh giá là người thành công trong cuộc sống, không những trong các hoạt động cộng đồng, trong công việc mà còn trong cuộc sống cá nhân.

Điểm đặc biệt chúng ta có thể nhận thấy chính là: bất cứ ai cũng có thể trở thành người rộng lượng cho dù họ kiếm được bao nhiêu tiền, giàu có đến đâu… chỉ cần họ thành tâm với người khác. Bạn cũng có thể là một trong những số ấy bằng cách trau dồi và rèn luyện tâm tính của mình.

7 lý do dưới đây sẽ cho bạn thấy lý do tại sao người sống rộng lượng lại thường dễ thành công.

  1. Họ là người hạnh phúc

Người khoan dung rộng lượng sẵn lòng dành thời gian, tài sản và khả năng của mình để đóng góp cho gia đình và xã hội. Trái tim họ còn mở rộng hơn với những người xa lạ ở phương trời khác chứ không chỉ ở nơi họ đang sinh sống. Khi họ có dịp đặt chân trên vùng đất nào đó, họ đều tìm hiểu về người và cuộc sống người dân ở đó. Mục đích chủ yếu chỉ là giúp đỡ nhiều người. Đối với họ hạnh phúc chính là “cho đi” hơn “nhận lại”. Đây chính là ý nghĩa nhân sinh xuất phát từ đáy lòng họ với người khác trong cuộc sống này.

khoan dung

  1. Họ có cuộc sống thư thái

“Nghèo và giàu” luôn làm cho con người bận tâm và lo lắng. Cuộc sống chật vật và thiếu thốn hay đầy đủ và sung túc cũng đều khiến người ta phải bận tâm. Vấn đề giàu và nghèo thường gây cho một số người mất phương hướng và chọn lựa sai lầm con đường đi của mình.

Kết quả thực tế cho thấy, có nhiều người đi theo lối sống lệch lạc, không chân chính, đi ngược lại với lương tâm và đạo đức…v.v…. Người khoan dung rộng lượng dựa vào cái tâm chân chính của mình để sống, không của cải hay bạc tiền nào có thể ảnh hưởng hay mua chuộc được họ. Họ có thể kiếm được rất ít, nhưng họ không sống “nô lệ” cho đồng tiền. Họ có cuộc sống bình an và thoải mái vì họ không bị ràng buộc về vật chất, họ có thể cho đi bất cứ thứ gì họ đang có.

  1. Họ làm việc chăm chỉ

Đặc điểm chung của người rộng lượng là “chịu thương chịu khó” đối với bất kỳ công việc nào được giao. Họ cũng đặt mục tiêu trên bước đường đi của họ, nhưng với họ không tranh giành để thành công, không đi “đường tắt”, không trái với lương tâm.

Họ quan niệm rằng mọi thành công không chỉ riêng cho họ mà với tất cả mọi người, đồng đội họ, nhân viên họ, và toàn thể doanh nghiệp. Chính vì thế họ cấp trên được đánh giá cao, giao phó những việc lớn hơn. Vì sự tận tâm, tận lực với công việc, họ dễ nắm bắt được thành công.

  1. Họ là người tử tế

Bạn hiếm khi tìm được những người rộng lượng mà không tử tế. Họ giúp người khác khi cần cũng như tạo điều kiện cơ sở cho người đó được thành công. Thật lòng mà nói khi bạn tử tế với ai thì người đó cũng sẽ đối đáp với bạn như thế. Chìa khóa thành công của người rộng lượng là cho đi hơn nhận lại. Tuy nhiên, những điều họ nhận được còn lớn hơn rất nhiều những thứ họ cho đi.

Nhà văn người Mỹ – Zig Ziglar từng nói: “Bạn có thể có mọi thứ bạn muốn trong cuộc sống nếu bạn giúp người khác có cái họ muốn”.

2

  1. Họ là người tự do

Nhà tù mạnh nhất trên thế giới này được xây dựng bằng sự tham lam, ham muốn và ích kỷ của con người. Những thứ không tốt đó như một sợi dây xích đang trói bạn lại, hạn chế tất cả niềm hy vọng và thành công của bạn. Điều duy nhất để phá vỡ những mắt xích này là tấm lòng bao dung và rộng lượng.

Người rộng lượng tự do làm bất cứ thứ gì họ muốn, bởi vì hạnh phúc và thành công của họ không phụ thuộc vào những gì họ có, mà đó là những thứ họ cho đi. Bạn có nhận ra rằng những người rộng lượng thường có nhiều hơn những thứ họ cần trong cuộc sống không?

  1. Họ có các mối quan hệ tốt đẹp

Điều rõ ràng trong các mối quan hệ của người khoan dung rộng lượng là sự bền vững và lâu dài. Phẩm chất và nhân cách của họ, sự thật lòng thật dạ, không tính đếm thiệt hơn khiến các mối quan hệ của họ ngày càng trở nên khăng khít.

Ngoài ra, họ có tầm ảnh hưởng lớn đến những người trong các mối quan hệ của họ. Họ có thể thay đổi được những suy nghĩ và hành động không tốt của người khác.

  1. Họ là người tin vào luật nhân quả

Nếu bạn không tự xem mình là “trung tâm của vũ trụ, đặt mình lên trên người khác”, bạn sẽ thấy cuộc sống này thật tuyệt, không những cho bản thân mà cho tất cả mọi người.

Người khoan dung rộng lượng không xem trọng những thứ họ cho đi, ngoại trừ sự tự do không gò ép. Họ tự tin vào bản thân, họ tin rằng cuộc sống này “không mất thì không được”. Chính vì vậy, họ cho đi mà không hề toan tính.

Điều đặc biệt, người khoan dung rộng lượng rất tin vào luật nhân quả, họ tin rằng thiện hay ác – tất cả đều có báo ứng. Vì vậy, tham lam, ham muốn và ích kỷ không có trong “từ điển” của họ. Không có những lợi ích cá nhân nào làm ngăn trở họ. Họ làm tất cả vì mọi người bằng cả con tim và khối óc.

Hahna Nguyễn

Nghĩ về cuộc chiến Bắc – Nam

Nghĩ về cuộc chiến Bắc – Nam

FB Vinh Le

1-1-2016

Tôi là người lính của phía bên này, bên mà Huy Đức gọi là bên thắng cuộc, đã đi một quãng đường dài từ Quảng Trị tới Sài Gòn từ 1972 tới 1975, giai đoạn cuối của cuộc chiến thống nhất đất nước. Bàn về cái đúng cái sai của cuộc chiến này nên để cho các nhà làm sử và hậu thế phán xét. Là người lính của phía bên này nhưng tôi không nghĩ những người lính Việt phía bên kia là kẻ thù, nhất là sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 bởi chúng ta, những người lính phía bên này hay phía bên kia cùng là người Việt máu đỏ, da vàng.

Suy nghĩ của tôi thời chiến tranh, sau chiến tranh và hiện nay rất đơn giản, là công dân của thể chế nào khi đi lính thì phục vụ thể chế đó, đúng phận sự của người lính, điều này là một thực tế, muốn thay đổi cũng không được.

Có lẽ sai lầm trong cách xử lý của thời hậu chiến của các nhà lãnh đạo thời bấy giờ đã để lại vết thương lòng quá lớn cho những người lính kể cả những người đã mất phía bên kia và gia đình họ. Sau chiến tranh, mất mát nhiều nhất là những người lính cả hai phía, kể cả gia đình họ. Tôi không phải là người lính phía bên kia nên bàn về sự mất mát của họ và gia đình họ có thể thiếu chính xác. Là người trong cuộc tôi muốn giải bày những gì tôi và đồng đội tôi, những người lính của bên thắng cuộc để các bạn thấy chúng tôi được hay mất.

Khoảng giữa tháng 12 năm 1975, cánh lính sinh viên chúng tôi được giải ngũ về học tiếp. Mỗi người được cấp 93 đồng tiền giải phóng (đồng tiền được sử dụng tại miền Nam từ tháng 9 năm 1975). Tôi không biết 93 đồng giải phóng lúc bấy giờ tương đương với bao nhiêu đồng thời nay chỉ biết số tiền đó đủ để mua một con búp bê, một võng dù cho cháu, một áo phao cho em gái, tiền xe đò đi từ Bến Cát về Sài Gòn và ngược lại, còn dư 10 đồng để tiêu vặt từ Bến Cát tới Quảng Trị.

Nếu coi đây là tiền “xương máu” mà chúng tôi được trả trong bốn năm rưỡi đi lính cũng được. Khi nhập ngũ, chúng tôi được trống giọng cờ mở đưa tiễn, lúc trở về lại âm thầm lặng lẽ. Chúng tôi ở xa về muộn nên không chịu cảnh mắc võng đấu tranh ở bộ quốc phòng và bộ đại học đòi được nhập học tiếp, nhiều bạn sinh viên đồng ngũ ra quân vào tháng 7 tháng 8 năm 1975 đã làm giúp chúng tôi điều này.

Có lẽ ưu đãi lớn nhất của cánh lính sinh viên trở về học tiếp là được hưởng sinh hoạt phí 30 đồng một tháng, hơn 8 đồng so với sinh viên ngành sư phạm ngày đó. Ưu đãi thứ hai và cũng là ưu đãi cuối cùng mà nhà nước dành cho tôi và những người cùng cảnh ngộ với tôi, những người lính của bên thắng cuộc là không phải hai năm tập sự sau khi ra trường.

Tôi, một người lính có chút ít chữ nghĩa, kiếm được việc làm ổn định, ở cái thời khốn khó về kinh tế từ 1976 đến 1988. về vật chất chắc chẳng hơn gì gia cảnh của những người lính phía bên kia. Nhiều đồng ngũ của tôi, những người bỏ áo lính trở về làm xã viên hợp tác xã nông nghiệp, quản lý theo kiểu công xã còn khốn khó hơn nhiều. Những đồng ngũ thương bình với trợ cấp 20 đồng hàng tháng, đủ mua được 20 kg gạo theo giá thị trường, nếu không tự bươn chải, tự vươn lên để sống, liệu có vượt qua cái thời khốn khó đó không?

Tôi có một người bạn đồng học đồng ngũ mang trong mình 25% máu Hoa, nhà bạn tôi có ba anh em tham gia cuộc chiến thống nhất đất nước, thế mà sau cuộc chiến chống xâm lược Trung Quốc ở biên giới phía Bắc, gia đình bạn tôi đã bị trục xuất ra khỏi Việt Nam mặc dù gia đình anh không muốn đi và sẵn sàng vào định cư tai Lâm Đồng để tránh xa Trung Quốc, nhưng không được chấp nhận.

Nếu các thương phế binh ở phía bên kia là nạn nhân của một cuộc chiến thì bạn tôi, một người lính của bên thắng cuộc liệu có phải là nạn nhân của hai cuộc chiến hay không? Là người Việt trực tiếp cầm súng ở phía bên này hay phía bên kia, sau chiến tranh chúng ta không thắng cũng không bại, chỉ có đất nước này, dân tộc này là chiến thắng vì đã kết thúc một cuộc chiến tranh lâu dài, nồi da xáo thịt. Nếu thật sự yêu nước, yêu dân tộc Việt, dù đang sống trong nước hay ngoài nước, dù chấp nhận ý thức hệ kiểu này hay kiểu kia lẽ nào chúng ta lại muốn khoét sâu vào vết đau của chiến tranh.

Quá khứ không phải là cái chết, nhưng đôi khi phải quên nó để mà sống để mà đi lên. Các bạn, những người lính phía bên kia nếu có mặc cảm đau lòng vì mình thuộc bên chiến bại, thì chúng tôi, những người lính thuộc bên thắng cuộc còn đau lòng hơn vì những lý tưởng tốt đẹp mà chúng tôi đã phụng thờ một thời chỉ là ảo tưởng. Còn gì đau lòng hơn khi lòng tin bị đổ vỡ, chúng tôi cảm thấy mình đã bị phản bội. Một lớp người cơ hội, phần đông đã tránh không phải tham gia chiến tranh, bằng cách này hay cách khác, leo vào bộ máy công quyền, phụng sự đất nước, phụng sự dân tộc thì ít, mưu cầu lợi ích cá nhân thì nhiều. Họ và gia đình họ, có lẽ là lớp người hưởng lợi nhiều nhất sau chiến tranh.

Đáng lên án là những kẻ dựa vào thể chế để trục lợi, vì trục lợi cho bản thân nên họ đã xem nhẹ lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, làm kìm hãm sự phát triển của đất nước. Dù tôn thờ và theo đuổi thể chế chính trị nào cũng nên đặt đất nước và dân tộc lên trên tất cả, đấy mới là người Việt Nam chân chính.

Ngày đầu năm muốn chia sẻ cùng các bạn một vài cảm nghĩ của tôi về hậu quả của cuộc chiến trong quá khứ, mặc dầu cuộc chiến thống nhất đất nước đã qua hơn 40 năm, nhưng dư âm của nó vẫn còn nặng nề trong lớp người thuộc thế hệ chúng tôi, những người thuộc phía bên này hay phía bên kia.

Mong rằng các thế hệ người Việt chúng ta hãy đồng lòng vì đất nước, đấu tranh quét sạch lũ sâu mọt hại dân, hại nước. Chỉ vậy mới hy vọng người dân Việt có thể ngẩng cao đầu và không xấu hổ với bè bạn bốn phương.

Chóp bu CSVN dùng mạng ảo để đấu đá tranh ghế

Chóp bu CSVN dùng mạng ảo để đấu đá tranh ghế
Nguoi-viet.com

Tư Ngộ/Người Việt

HÀ NỘI (NV)Không “đấu đá” trực tiếp với nhau được, các phe phái trong đảng CSVN dùng mạng ảo để bôi bẩn đối thủ. Ðây là điều người ta thấy đang diễn ra trước ngày bầu bán nhóm chóp bu quyền lực chế độ CSVN trong đại hội đảng lần thứ 12 diễn ra vào tháng 1, 2016.


Trang mạng có tên “Ý kiến đảng viên về Ðại Hội XII” đập phe cánh Nguyễn Phú Trọng, bênh Nguyễn Tấn Dũng. (Hình: Người Việt)

Cho đến nay, chỉ còn 20 ngày nữa là đến Ðại Hội Ðảng CSVN và khoảng một tuần nữa sẽ diễn ra phiên họp kỳ thứ 14, tức kỳ họp chót của Ban Chấp Hành Trung Ương đảng CSVN khóa XI. Thời giờ chẳng còn bao nhiêu nữa để người ta thấy tên tuổi, diện mạo nhóm cho bu đảng CSVN khóa XII trình diện vào cuối tháng 1, 2016.

Cũng giống như những kỳ đại hội đảng bầu bán nhóm chóp bu trước đây, nhiều lời đồn đoán về những gương mặt nào sẽ nằm ở vị trí nào trong số 4 ghế của “tứ trụ triều đình đỏ.” Năm nay, sự rò rỉ được giữ rất kỹ lưỡng nên hiện không ai biết những cái tên nào sẽ ở lại, kẻ nào phải về vườn trong số 15 ủy viên Bộ Chính Trị đương nhiệm.

Trong những kẻ ở lại, thì ai sẽ được đôn lên ghế nào trong tứ trụ tổng bí thư đảng, chủ tịch nước, thủ tướng và chủ tịch Quốc Hội.

Sự việc trở nên phức tạp hơn khi có những biệt lệ được đề ra trong kỳ đấu đá chia ghế này là những ông hay bà nào quá tuổi nghỉ hưu theo quy định vẫn được ngồi lại, dẫn đến những đồn đoán và ngay cả những đấu đá, phe cánh chỉ trích lẫn nhau một cách hung hãn trên mạng ảo.

Một số người trả lời các cuộc phỏng vấn trên báo đài ngoại quốc như nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng bày tỏ lo ngại rất có thể Tướng Bộ Trưởng Công An Trần Ðại Quang được đôn lên ghế tổng bí thư mà ông tin là sẽ là thảm họa cho dân chủ, nhân quyền.

Blogger Phạm Thành trên blog Bà Ðầm Xòe có những lời ai điếu sớm khi ông nhìn thấy “Quan tài cho Ba Dũng, phe phái Ba Dũng và dòng họ Nguyễn Tấn.”

Một số người khi thấy Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng chạy sang Bắc Kinh khấu đầu trước lăng Mao Trạch Ðông ngay trước đại hội đảng thì nghi rằng, rất có thể ông “Hùng hói” được Trung Nam Hải “phê chuẩn” làm tổng bí thư. Nhưng ông này đã được cắt cử làm trưởng ban bầu cử của Quốc Hội cho kỳ họp chia ghế Quốc Hội sắp tới thì chẳng lẽ ông ta “vừa đánh trống vừa thổi còi”?

Bên cạnh các lời dồn đoán, phân tích của những người “ngồi bên lề lịch sử,” người ta thấy những ngày gần đây xuất hiện một số trang mạng với những bài viết có nội dung bênh ai, chống ai rất rõ ràng trong cuộc chạy đua chiếm ghế tổng bí thư, tức cái ngai vàng của triều đình đỏ.

Cuối năm 2014 sang đầu năm 2015, trang mạng “Chân Dung Quyền Lực” mà một số người đồn đoán là của phe Nguyễn Tấn Dũng tấn công một số người thuộc phe đối thủ trong Trung Ương Ðảng và Bộ Chính Trị.

Mới đây, người ta thấy xuất hiện một trang mạng có tên “Phúc Phản Phúc” lấy lại các bài trên Chân Dung Quyền Lực tố cáo ông Phó Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc đùn tiền bạc tài sản nhờ tham nhũng hối lộ sang cho con gái và con rể nắm giữ để tránh tiếng. Ông Phúc có thể là một trong những người được phe cánh cài cắm vào ghế thủ tướng.

Trên Internet xuất hiện một số đơn thư tố cáo ông Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng và con gái Nguyễn Thanh Phượng nhiều tội gồm cả tội chống thiên triều ở Bắc Kinh và các thư “giải trình” của hai người này chống lại các cáo buộc. Không ai có khả năng kiểm chứng sự thật giả của các tài liệu.

Gần đây nhất người ta thấy xuất hiện trang mạng “Ý kiến đảng viên về Ðại Hội XII” đánh Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng và phe cánh trong khi chống đỡ cho ông Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng.

Bên cạnh đó, người ta cũng thấy xuất hiện trang mạng có tên Nguyễn Công Khế (nguyencongkhe.com) không phải do ông này (nguyên tổng biên tập báo Thanh Niên) lập ra mà chỉ lấy tên ông ta và đăng tải các bài viết cáo buộc Nguyễn Công Khế từ “Mưu hèn kế bẩn của Nguyễn Công Khế hiến cho minh chủ,” đến “Tên gián điệp Nguyễn Công Khế nợ máu như thế nào với cách mạng và nhân dân Việt Nam?,” “Nguyễn Công Khế đã chiếm tập đoàn Thanh Niên như thế nào?” v.v…

Vì ông Nguyễn Công Khế được dư luận đồn đoán là tay chân của ông Chủ Tịch Nước Trương Tấn Sang nên có người cho rằng đây chỉ là chiêu thức “cách sơn đả ngưu,” tức đòn gián tiếp đánh vào ông Tư Sang.

Tổng Bí Thư Ðảng CSVN Nguyễn Phú Trọng ngồi lại hay về vườn dù đang sắp sửa tới tuổi 72? Chủ Tịch Trương Tấn Sang, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đều ở tuổi 66, cũng đã quá tuổi hưu một tuổi, trong khi ông Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng cũng đã 67 tuổi.

Tuy đã có danh sách “ứng cử viên” cho các chức danh chủ chốt của đảng CSVN nhưng nó chỉ kết thúc vào kỳ họp thứ 14 của Trung ương đảng khoảng một tuần lễ nữa nhưng chính thức phải đợi đến cuối Ðại Hội đảng XII. Rất có thể người ta sẽ còn được thấy thêm những chiêu đấm đá ngoạn mục nữa không chừng. (TN)

Ông Vũ Ngọc Hoàng: Kiểm soát quyền lực bằng cơ chế dân chủ và tự do ngôn luận

Ông Vũ Ngọc Hoàng: Kiểm soát quyền lực bằng cơ chế dân chủ và tự do ngôn luận

Posted by adminbasam on 01/01/2016

“Khẩn trương nghiên cứu để sớm có các bước đi phù hợp, cụ thể, tích cực nhằm  đổi mới về chính trị, như việc kiểm soát quyền lực bằng quyền lực nhà nước, bằng cơ chế dân chủ, thông tin đại chúng và tự do ngôn luận, đổi mới quản lý nhà nước và phương thức lãnh đạo của Đảng,…”

___

TuanVietNam

1-1-2016

Ông Vũ Ngọc Hoàng. Nguồn: TVN

LTS: Tuần Việt Nam/báo VietnamNet trân trọng giới thiệu tới quí vị bài viết đầu năm của ông Vũ Ngọc Hoàng, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó ban thường trực Ban Tuyên giáo Trung Ương có tựa đề: Ba mươi năm đổi mới: Nhìn lại và suy ngẫm.

Cần sớm đổi mới về chính trị, như việc kiểm soát quyền lực bằng quyền lực nhà nước, bằng cơ chế dân chủ, thông tin đại chúng và tự do ngôn luận, đổi mới quản lý nhà nước và phương thức lãnh đạo của Đảng,…

Công cuộc đổi mới do Đảng CSVN lãnh đạo đã giành được những thành tựu đáng kể, cải thiện tình hình nhiều mặt của đời sống xã hội; đưa đất nước vượt qua thời kỳ hết sức khó khăn và nghèo đói, trở thành một nước có thu nhập trung bình, thế và lực đã tăng nhiều.

Mặt khác, so sánh với thế giới và khu vực, đến nay, nước ta vẫn còn nhiều mặt tụt hậu, có mặt đã tụt hậu xa hơn so với một số nước. Cần khách quan và cầu thị, nhìn lại và suy ngẫm, để sắp tới tiếp tục công cuộc đổi mới một cách toàn diện, đồng bộ và căn bản hơn, nhằm tạo sự phát triển vượt bậc, hiệu quả cao và bền vững hơn.

Đã có các tổng kết, các con số, khá đầy đủ về 30 năm đổi mới, kể cả thành tựu, yếu kém và nguyên nhân, bài học. Tôi không nhắc lại mà chỉ xin nêu mấy suy nghĩ chắt lọc từ thực tiễn đổi mới để bạn đọc tham khảo.

Suy ngẫm cho thấu đáo, chắt lọc kỹ, nhiều người cùng thảo luận, dân chủ và công khai, thì cũng có nghĩa là, đổi mới còn cho ta một kết quả nữa, đó là kết quả trong sự phát triển tư duy của con người, nhất là những người lãnh đạo, quản lý và tầng lớp tri thức, để từ đó mà tiếp tục đi tới, xa hơn, bền hơn.

Nhìn thẳng sự thật

Để chuẩn bị tư tưởng cho cuộc đổi mới, lãnh đạo đất nước ngày ấy đã chủ trương phải nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật. Đây là chủ trương rất quan trọng, không né tránh thực tế, đối diện với nó để tìm cách giải quyết, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, không che dấu khuyết điểm mà công khai nó để mọi người cùng thấy, cùng khắc phục. Việc đó không làm Đảng mất uy tín như cách nghĩ cũ, mà ngược lại nhân dân và đảng viên thấy tăng niềm tin vì nghĩ rằng như vậy là bản lĩnh, là một Đảng mạnh và chắc chắn.

Đổi mới tiếp theo cũng vậy, trước tiên phải nhìn thẳng sự thật, để thấy cái sai, cái yếu kém và tụt hậu của nước ta. Không nhìn thấy những yếu kém và tụt hậu thì không thể khắc phục chúng. Muốn khắc phục tụt hậu thì trước tiên phải nhìn thấy mình tụt hậu. Sự thật là năng suất lao động xã hội, thu nhập đầu người, hiệu quả đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực và ứng dụng khoa học công nghệ… của nước ta còn nhiều yếu kém và tụt hậu. Đổi mới không thể không tập trung giải quyết các vấn đề nêu trên.

Tư duy về giữ nước

Bước vào đổi mới, Đảng chủ trương trước tiên phải đổi mới tư duy. Đây là bước đi rất đúng. Không đổi mới tư duy sẽ không thể đổi mới trong công việc, trong hành động, hoặc nếu có chỉ là ngẫu hứng, bất chợt, cảm tính, không đủ cơ sở khoa học, có kết quả cũng không chắc chắn, hoặc kết quả mặt này lại trở ngại cho mặt kia.

Hoạt động đổi mới là hoạt động có mục đích, có tư duy, không thể tự  phát, phản ứng tức thì từng việc một, mà cần có cái nhìn tổng quát, có chiều rộng và tầm xa, chủ động trong nhiều bước đi nối tiếp nhau, tiến về phía trước, vượt lên phía trước, vượt lên chính mình.

Tất nhiên tư duy của con người không phải cùng lúc nghĩ hết được mọi việc, mà phải quan sát thực tiễn và nhìn ra thế giới, để tư duy được điều chỉnh và bổ sung liên tục. Tuy nhiên, đổi mới tư duy phải đi trước, có hệ thống, có cơ sở khoa học để bảo đảm thắng lợi, chứ không phải là để làm khác. Lúc đầu quả thật chúng ta có quan tâm việc dổi mới tư duy, rất tiếc là một thời gian sau đó tư duy bị chựng lại không tiếp tục đổi mới, cứ sợ “chệch hướng”, không dám đổi mới tiếp.

Người Việt Nam, từ cha ông để lại, tư duy về giữ nước  rất giỏi, không như thế thì làm sao ta có thể thắng được các đội quân lược từ phương Bắc và phương Tây mạnh hơn ta rất nhiều lần. Nói như vậy để tự hào, để thấy mặt mạnh của ta, và tất nhiên không được chủ quan, ngày nay sự phát triển về kỹ thuật công nghệ của thế giới đã có bước tiến rất xa, dẫn đến nhiều thay đổi về phương thức hoạt động của con người.Mặt khác, tư duy của người Việt Nam về sự phát triển thì không giỏi, chưa giỏi, còn nhiều mặt yếu kém. Nếu không phải thế thì tại sao cho đến nay, sau mấy ngàn năm lịch sử, thời kỳ hòa bình nhiều hơn chiến tranh, đất nước ta vẫn chưa phải là nước phát triển, thậm chí còn không ít mặt tụt hậu xa so với nhiều nước trên thế giới và khu vực.

Từ nay, trong đánh giá tình hình nên thường xuyên so sánh với các nước, và trên nền tảng của văn hóa dân tộc, văn hóa giữ nước mà chủ động và tích cực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, văn hóa phát triển.

“Lắng nghe” thực tiễn

Công cuộc đổi mới của chúng ta lúc đầu xuất phát từ thực tế, sau đó khái quát lên, bổ sung vào hoặc biến thành lý luận mới. Thực tế ấy cho phép nghĩ rằng, đổi mới phải bám sát vào thực tiễn, “đọc” kỹ thực tiễn, “lắng nghe” thực tiễn, từ trong đó mà nhìn cho rõ yêu cầu bức thiết của cuộc sống.

Cuộc sống luôn đặt ra cho chúng ta những vấn đề phải phúc đáp, đồng thời trong cuộc sống cũng luôn manh nha những câu trả lời, dù chưa đầy đủ, chưa toàn diện, nhưng có sức sống, bám rễ từ thực tiễn. Thực tiễn cũng là thước đo của chân lý.

Thực tiễn là người phản biện những lý thuyết, những chủ trương, từ đó mà vượt qua giáo điều, để điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện và phát triển lý thuyết. Đó là người thầy giúp ta giàu có vốn kiến thức và còn giúp ta phương pháp tiếp cận để đi xa, vượt qua thời gian, vượt qua chính mình, vươn về phía trước.

Đem lại lợi ích cho dân

Cuộc sống và hoạt động của đại đa số nhân dân, đó chính là thực tiễn. Công cuộc đổi mới phải xuất phát từ những mong muốn thiết thực và chính đáng của nhân dân, đáp ứng những mong muốn ấy, từ đó mà tập họp rộng rãi mọi người, thành những phong trào tự nguyện. Trong đấu tranh giành lại đất nước, chiến tranh vệ quốc, với ngọn cờ dân tộc và dân chủ, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành người lãnh đạo nhân dân.

Ngày nay, trong công cuộc đổi mới, cũng phải phát huy truyền thống ấy, với ngọn cờ dân tộc và dân chủ để tiếp tục tiến lên. Vai trò lãnh đạo vô cùng quan trọng trong việc lựa chọn đường hướng. Nhưng đổi mới phải là sự nghiệp của “trăm họ”, muôn dân. Nhân dân là mục tiêu và lực lượng của đổi mới. Đổi mới phải phục vụ nhân dân, đem lợi ích về cho nhân dân, từ đó mà có lực lượng lớn lao ở nhân dân.

Khi có lực lượng lớn lao thì mới có thể đạt kết quả to lớn, từ đó mà đáp ứng nhiều hơn cho mục tiêu phục vụ nhân dân. Những việc chẳng có lợi cho dân mà vẫn làm, gây phiền hà và tốn phí tiền thuế của dân thì đó không phải đổi mới, thậm chí là cản trở đổi mới.

Kiểm soát quyền lực

Xã hội và cuộc sống là một tổng thể gồm nhiều mặt có quan hệ hữu cơ với nhau. Không thể đổi mới lĩnh vực này mà không đổi mới lĩnh vực khác, gây gập gềnh và cản trở lẫn nhau. Nước ta chủ yếu mới đổi mới về kinh tế, mà cũng mới đi nửa đường, còn văn hóa và chính trị thì cơ bản chưa đổi mới, sắp tới cần đồng bộ và toàn diện trong công cuộc này.

Trung ương đã có Nghị quyết về đổi mới căn bản nền giáo dục, chuyển từ giáo dục truyền thụ kiến thức sang xây dựng nhân cách, phát triển năng lực và xây dựng một nền giáo dục mở, thực học. Đó là việc đúng, nhưng triển khai chậm và chưa chắc, có việc nửa chừng, có việc phải điều chỉnh nhiều mới có thể đi đến thành công. Các cơ quan có trách nhiệm cần tập hợp các chuyên gia để thực hiện cuộc đổi mới căn bản nền giáo dục này, gắn với xây dựng nền văn hóa giàu tính nhân văn và phát triển khoa học – công nghệ.

Khẩn trương nghiên cứu để sớm có các bước đi phù hợp, cụ thể, tích cực nhằm đổi mới về chính trị, như việc kiểm soát quyền lực bằng quyền lực nhà nước, bằng cơ chế dân chủ, thông tin đại chúng và tự do ngôn luận, đổi mới quản lý nhà nước và phương thức lãnh đạo của Đảng,…

Những ý kiến trên đây chắc chắn là chưa đủ, và cần phải thảo luận để điều chỉnh và bổ sung…

Vũ Ngọc Hoàng, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó ban thường trực Ban Tuyên giáo Trung Ương.  

(*) Tựa đề cho trang Ba Sàm đặt

Ông Dũng có thể đã chết, nhưng ông Trọng ơi, rồi ai sẽ thay ông?

Ông Dũng có thể đã chết, nhưng ông Trọng ơi, rồi ai sẽ thay ông?

Đôi lời: Bài này, tác giả đã giúp gỡ những chiếc đinh trên nắp quan tài anh Ba Dũng. Bài phân tích dựa trên thuyết âm mưu và có phần cảm tính của tác giả. Xin giới thiệu để độc giả biết thêm một góc nhìn khác.

____

Bùi Quang Vơm

31-15-2015

Gửi ông Trọng và 200 uỷ viên TW.

Chỉ còn vài tuần lễ để kết thúc việc chuẩn bị cho Đại hội XII, từ ngày 20 đến 28/1/2016. Thời gian còn quá ít. Khác với mọi kỳ Đại hội trước, lần này, tuyệt không một tin tức nào từ nội bộ bị rò rỉ.

Đã có một quy định đặc biệt được đưa ra từ hội nghị 12: “mọi nội dung về nhân sự là tuyệt mật, là sống còn của đảng, tiết lộ sẽ bị qui vào tội phản đảng, ngang với tội phản quốc, khai trừ và cách chức tuốt tuột ngay lập tức. Trong suốt thời gian hội nghị, mọi ủy viên tham dự sẽ ăn ngủ tại chỗ, không về nhà, không giao tiếp với bất kỳ ai và chịu sự giám sát 24/24”.

Chuyện “bí mật” thì xưa nay vẫn vậy. Việc của đảng chưa bao giờ là việc của dân. Nhưng bây giờ, nhìn vào đâu, đảng cũng thấy có kẻ thù, ở chỗ nào, cũng có âm mưu lật đổ. Đảng đang hoạt động trong lòng địch. Dân đã thành địch rồi. Lộ ra cho dân biết là chết. Phải áp dụng quy tắc thời chiến, như hoạt động bí mật, nghĩa là ngoài vòng pháp luật, nghĩa là hoạt động phi pháp.

Nhưng cái chuyện bí mật lần này thực đã không giống bất cứ lúc nào, bởi vì nó đã quá khó ngửi, nghĩa là chuyện nội bộ đã quá thối. Cái bẩn đã vung vãi lung tung mà đóng kín, thì.. có bao nhiêu, đảng ngửi hết.

Mặc dù vậy, khi bế mạc hội nghị 13, nghe ông Trọng tuyên bố “Hội nghị của chúng ta đã thành công tốt đẹp” và “nhìn chung đạt kế hoạch đề ra, mặc dù còn không ít khó khăn”, thì có thể đoán rằng cuộc chiến có thể đã ngã ngũ. Cũng có nghĩa là có thể ông “Dũng đang thoi thóp, thậm chí đã chết”. Bởi vì rõ ràng, “kế hoạch được đề ra” là loại bỏ bằng được ông Dũng, để “bảo vệ bằng được chế độ”.

Xưa nay, thiên hạ cứ đồn đoán hai phe, thậm chí ba phe, nhưng nhìn kỹ một chút, sẽ thấy chẳng có phe phái nào cả. Chỉ có chuyện Đảng và ông Dũng. Đảng về danh nghĩa có quyền tuyệt đối, nhưng lại chẳng có công cụ kiếm tiền, trong khi với hai nhiệm kỳ Thủ tướng, ở trung tâm thực quyền, ông Dũng lại kiếm được quá nhiều. Nếu có thể nói là ông Trọng, ông Sang hay nhiều ông chuyên trách đảng, không thuộc chính phủ, là trong sạch, là liêm khiết thì sợ “bé cái nhầm”, bất đắc dĩ phải “sạch” đấy thôi. Cứ nhìn ông Nông Đức Mạnh thì biết, hai nhiệm kỳ hò hét trong sạch, mà kiếm đủ tiền để dát vàng như cung vua, rồi để cưới một bà vợ ngang tuổi con mình. Cũng là mơ ước, thèm khát âm thầm của biết bao lãnh tụ. Ở Hội ngḥi 6, không biết ông Trọng thực khóc cho dân cho nước, hay khóc vì cay cú và uất ức? Và những kẻ “sạch” bất đắc dĩ này là đồng minh tự nhiên của ông. Chẳng phải vì ông có thừa tâm đức để quy tụ họ, mà chỉ vì họ cùng ghét ông Dũng.

Còn ông Dũng thì chưa bao giờ đủ tài đức để có thể tạo dựng được phe cánh. Nhưng mà có đồng minh, đồng minh cuả ông là lòng tham. Mà lòng tham thì ở đâu trong Đảng lại không có? Lực lượng của ông có lúc là 75% Trung ương kia mà! Nhưng tham thì tráo trở, lật lọng. Những kẻ bỏ phiếu tín nhíệm ông không phải vì ông đáng được, mà vì chính họ, bởi vì sau ông, sẽ tới họ. Nhưng khi ông “bốc mùi” thì những đồng minh này sẽ là những kẻ bỏ chạy đầu tiên.

Ông Đại Biểu Lê Nam nói trong phiên họp Quốc Hội: “nhiệm kỳ này chúng ta đã chứng kiến nước mắt của đồng chí Tổng bí thư rơi vào lịch sử”. Đúng vậy. Chưa bao giờ trong lịch sử Đảng CS Việt Nam, một TBT lại uất hận Thủ Tướng đến phải khóc. Chính vì thế, ngay từ sau Hội nghị 6, một kế hoạch “Đánh Chuột” hình thành.

Theo lẽ thường, thanh trừng bắt đầu bằng việc chặt tay chân đối thủ, nghĩa là cắt bỏ vây cánh. Chương trình “Luân chuyển cán bộ” – một kế hoạch cài người thân tín một cách công khai dưới danh nghĩa bồi dưỡng cán bộ quy hoạch ra đời ngày 21/03/2014. Đó là chước “Dụ rắn ra khỏi hang”.

Trong danh sách 25 cán bộ được giao trách nhiệm phó bí thư đảng bộ địa phương, có hai người bị loại ở Đại hội cơ sở là Nguyễn Văn Thanh, phó Tổng thanh tra Chính Phủ, được ông Dũng cài làm phó bí thư Lạng Sơn, nếu trúng bí thư, thì Chính Phủ sẽ là người kiểm soát cửa vào Trung Quốc, căn cứ hậu cần chiến lược của Đảng, và để tiện đi đêm, khi cần. Nguyễn Khắc Định, Phó Chủ Nhiệm Văn phòng Chính Phủ, người chuyên chấp bút diễn văn cho Thủ Tướng, được cài làm phó bí thư Thành Phố Hồ Chí Minh với ý đồ tiếp quản thường vụ thay Nguyễn Văn Đua về hưu, rồi lót chân Lê Thanh Hải, nắm quyền quyết định ở thành phố quan trọng nhất của Việt Nam. Nhưng ngày 15/04/2014, Tô Huy Rứa áp vào trao quyết định phân công Võ Văn Thưởng. Nguyễn Khắc Định không có tên trong Ban chấp hành mới của đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh.

Còn ở Lạng Sơn, Trần Sĩ Thanh, cháu Nguyễn Sinh Hùng, được Bộ Chính Tṛi chỉ định làm Bí thư, không qua bầu cử, Nguyễn Văn Thanh chưng hửng. Lê Thanh Hà, con trai nguyên Chủ tịch Lê Đức Anh, được ông Dũng cài vào Sài Gòn từ 2001, nhưng bị Lê Thanh Hải bắt bài, nên cô lập và vô hiệu hoá. Cả ba vị này ông Dũng phải cay đắng rút về Văn Phòng Chính Phủ.

19 vị khác được đưa xuống địa phương, chủ yếu do giới thiệu của Thủ tướng, cài vào vị trí Phó Chủ Tịch tỉnh – không một vị nào trúng Phó bí thư, nghĩa là không vị nào có được ghế Chủ tịch tỉnh.

Không chỉ tay chân của ông Dũng lộ hết nguyên hình, bị chặt cụt, sự nghiệp chính trị coi như hết, mà đám ăn theo, từng bỏ phiếu cho ông, bây giờ dúm vó, tim đập chân run, mặt cắt không ra máu. Những kẻ này sớm muộn cũng là những xác chết rồi. Vì thế, kỳ viết phiếu lần này ở Hội nghị 13, có khó gì mà không đoán ra được. Ai là kẻ dám to gan đề cử ông Dũng? Ai là Lê Lai cứu chúa. “Đi với ma mặc áo giấy”, những kẻ, nếu có lúc đi cùng đường với ông, chỉ là lòng tham, những kẻ mặc áo giấy, kiếm đâu ra Lê Lai.

Nhưng độc hơn, hiệu nghiệm hơn có lẽ là bài “lịch sử chính trị”. Đây là công cụ mà bậc thầy của các bậc thầy đểu giả là Lê Đức Thọ đã biến nó thành một nghệ thuật man rợ, vô nhân cách nhất của sự Đểu Giả của nền Chính Trị cộng sản. Nếu có vấn đề về lịch sử chính trị thì bắt buộc phải gạt ra ngoài danh sách đề cử và ứng cử, đợi điều tra xác minh. Đây là điều bất khả kháng duy nhất đối với mọi loại bầu bán của đảng. Chưa có kết luận thì còn treo. Nếu vẫn chưa có kết luận thì vẫn còn treo. Và nếu cứ mãi còn đang xác minh thì nghĩa là vận mệnh chính trị của con mồi đã hết. Chính vì vậy mà trước bầu cử , bao giờ cũng bất ngờ xuất hiện những tài liệu từ trên trời rơi xuống. Thật thì đối thủ chết ngay lập tức, mà giả thì phải điều tra, xác minh, nghĩa là không chết cũng ngắc ngoải.

Ông Dũng có quá nhiều điều cần phải xác minh. Con gái ông Dũng là đảng viên nhưng lấy chồng người Mỹ và có quốc tịch Mỹ. Vi phạm điều lệ đảng. Ông Dũng thông gia với quan chức cao cấp ngụy quyền Sài Gòn, đại tá tình báo Mỹ. Ông Dũng có hai tài khoản nước ngoài với hàng trăm triệu đô. Ông Dũng có bất động sản ở gần như tất cả các tỉnh. Ông Dũng tuồn tiền tham ô cho con gái, con gái tuồn tiền cho chồng rửa dưới danh nghĩa đầu tư ở nước ngoài, mua sắm bất động sản ở nước ngoài dưới vỏ bọc đầu tư. Ông Dũng chính là nhân vật bí ẩn đứng sau Phạm Qúy Ngọ trong lời khai cuả Dương Chí Dũng. Phủ thờ từ đường dòng họ của ông Dũng xây bằng tiền hối lộ…

Tất cả đều cần phải được xác minh. Để chính danh việc xác minh cần có người thật tố cáo. Ba vị Giáo sư-Tiến sỹ đầu ngành và cao niên nhất của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã phải hy sinh danh dự và uy tín của mình để tố cáo con gái Thủ tướng có quốc tịch Mỹ mà không đủ bằng chứng. Cần tới 3 Giáo sư-Tiến sỹ đầu ngành và không cần bằng chứng, vì mục đích chính là gây náo động, càng tranh cãi ồn ào càng tốt. Có thiếu căn cứ thì mới có tranh cãi và mới có thanh minh, mà có gì hơn sự nhận tội bằng chính lời thanh minh?

Nhưng để cho tiện, những vấn đề của ông Dũng, mặc dù chưa phải là tất cả, được gom lại trong một lá đơn tố cáo gửi ông Trọng, Bộ Chính trị và BCH Trung ương của người có tên là Trịnh Văn Lâu (Tư Cẩn), nguyên uỷ viên TW khoá VI, VII, nguyên phó Chủ nhiệm Thanh tra TW. Trong bản cáo trạng này, ngoài những tội đã nêu trên mà ai cũng rõ, còn có tội phá hoại quan hệ môi răng Trung Việt và tội âm mưu Tổng thống, âm mưu tách Quân Đội và Công An ra khỏi đảng, âm mưu dùng cựu Thủ tướng Anh Tony Blair làm cố vấn chuẩn bị Cách Mạng Màu…

Cùng với lời giãi bày công khai cuả Nguyễn Thanh Phượng là việc công khai qua mạng xã hội thư của người có tên là Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Chính phủ gửi Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng, ba ngày trước Hội nghị TW 13, thanh minh với ông Trọng những điều mà Ban Thanh Tra TW báo cáo Bộ Chính trị liên quan đến ông Dũng.

Đây cũng lại là thủ đoạn“thanh minh là thú tội”. Nếu chính ông Dũng chịu thanh minh, thì trước hết, các tố cáo kia là có thật. Còn việc thanh minh đúng sai thì cần phải điều tra xác minh, tức là đã đạt được mục đích! Đọc cái thư thanh minh này, người ta chỉ thấy những tố cáo thì hóc hiểm, trong khi thanh minh thì hời hợt, yếu ớt, chả có mấy thuyết phục. Ông Dũng “lùn” thật với văn hoá chỉ đủ làm y tá, nhưng chắc chắn không ngu tới mức tự cắt… của mình. Với lại, việc nhận tội và cầu xin ông Trọng là việc chấp nhận đầu hàng, tự buông vũ khí, hy sinh, bỏ rơi vây cánh và tệ hơn là vô tình tâng ông Trọng lên tột đỉnh. Thử hình dung xem điều gì xảy ra khi lá thư này tới tay 200 uỷ viên TW đang bị nhốt kín trong phòng họp Hội nghị 13.

Không biết của ai, nhưng chắc chắn thư này không thể là của ông Dũng.

Vụ án Nguyễn Viết Dũng mặc quần áo ngụy quân là một tuyên chiến với những gì dính líu Chế độ Cộng Hoà, với bất kỳ ai liên quan tới Ngụy quân, Ngụy quyền. Mặc áo còn bị tù, thì thông gia với Ngụy quyền, với gián điệp Mỹ vẫn có thể làm Tổng Bí Thư ?!

Tất cả mọi tố cáo phải được làm rõ trước Đại Hội 12. Đó là lý do để chính danh hoá việc Ban Thanh Tra TW đảng được giao nhiệm vụ cấp bách với quyền hạn tối thượng, nghĩa là có quyền làm bất cứ điều gì, dùng bất cứ công cụ phương tiện nào, thọc vào bất cứ đâu, huy động bất cứ ai, trảm bất cứ trở lực nào, với danh nghiã bảo vệ sự trong sáng cho cán bộ cao cấp cuả đảng, nhằm mục đích bảo vệ Đảng, bảo vệ Chế độ. Nghĩa là mọi bí mật sẽ bị khui ra. Không một cái gì có thể che giấu. Cũng có nghĩa là ông Dũng bị lột “trần truồng”.

Nhưng có thể do khối lượng công việc qúa lớn, nội dung công việc quá phức tạp, trong khi thời hạn lại quá ngắn, sẽ phải tiếp tục điều tra sau Đại hội. Hội nghị 13 được triệu tập chậm hơn hai tháng, để thời gian điều tra không còn nữa, là vì lý do này. Nghĩa là mọi chuyên đã được tính trước. Hồ sơ ông Dũng sẽ phải tạm để lại. Và như vậy là số phận của ông Dũng đã được định đoạt. Không có ông Dũng trong danh sách đề cử. Lại thêm chính ông Dũng cũng đã “TỰ XIN RÚT không ứng cử”. Vì vậy, sẽ không có ông DũngTổng Bí Thư và cũng vì vậy, sẽ chẳng có ông Dũng Tổng Thống.

Và cái mà người ta điều tra ra sẽ là bản án treo trên đầu ông Dũng, có thể dùng bất cứ lúc nào để uy hiếp, trấn áp, mặc cả, thậm chí để cho những kẻ đê tiện, nhiều như ròi trong Đảng, làm tiền cha con ông Dũng.

Mưu ma này là của ai, của chính ông Trọng hay cuả cả bốn ông Trọng Dụ Rứa Huynh? Có Trần Đại Quang ở đây không? Mưu ma chước quỷ loại này cũng thường khiến người ta nghĩ đến Trung Nam Hải. Không có căn cứ nào để biết rõ.

Điều có thể khẳng định được duy nhất là ông Dũng phải thua và chắc là đã thua.

Ông Dũng vốn dĩ có thể thắng, vì ông có tiền, những kẻ ăn theo xúm quanh ông có tiền, rất nhiều tiền. Ai cũng cần tiền và vì tiền, kể cả thánh. Những kẻ ghen ghét ông, qúa một nửa trong số đó là vì tiền, dù chỉ là tiền ông cướp được của dân. Trong khi, “cái gì không mua được bằng tiền thì có thể mua được bằng rất nhiều tiền”. Chỉ tiếc, khi ông tuyên bố “không hy sinh chủ quyền để đổi lấy hữu nghị viển vông”, “đã đến lúc phải thay đổi cơ chế”, ông lại không đi tới cùng như chờ đợi của lòng người. Người ta không tin ông đem lại điều gì khả dĩ tốt đẹp, nhưng người ta sẽ dồn hết sức, thậm chí hy sinh cho ông để thay đổi chế độ. Tiếc là sự ngạo mạn ngu xuẩn và có thể lòng tham đã làm ông mù mắt. Bây giờ thì mọi chuyện đã thành quá muộn. Không ai cứu được ông nữa.

Ông ít học và chỉ quen nghề võ, mà xưa nay, Võ chỉ thắng trong thời loạn mà không thể thắng trong thời bình. Vì vậy ông cần phải làm ra loạn, tạo ra loạn. Sáng 28-12, khi chủ trì hội nghị trực tuyến của Chính phủ với các địa phương ông đã chỉ thị phải “ngăn chặn âm mưu can thiệp của nước ngoài vào vấn đề nội bộ”.

Nguyễn Sinh Hùng đi Bắc Kinh ngày 21/12 vừa để trình duyệt dự thảo nhân sự Đại Hội 12, vừa để nhận chỉ thị cuả Tập. Đây chính là âm mưu can thiệp của nước ngoài ? Vấn đề nội bộ là gì, nội bộ Đảng, hay việc riêng của Dũng và Nhóm lợi ích thân Dũng?

Từ việc này có thể tiết lộ một sự thật: Nguyễn Tấn Dũng chính là mục tiêu tiêu diệt cuả họ Tập. Khi sang Việt Nam hồi tháng 11, cái mà Tập sợ nhất là phát ngôn kiểu “Hữu nghị viển vông” cuả Dũng. Nếu điều này xảy ra, nghĩa là Dũng vu vơ gì đấy giữa Quốc Hội, hay đài báo quốc tế, thì chuyến đi cuả Tập sẽ thất bại hoàn toàn, và “Thiên Tử” sẽ phải ôm nhục. Chính vì vậy mà trước khi sang VN, Tập đã úp mở phao tin sẽ mời riêng Dũng. Đó là chiêu “ảo ảnh sa mạc”, nhằm khoá miệng Dũng bằng ảo ảnh hào quang trên 9 tầng mây. Dũng là người duy nhất ôm hôn Tập 3 lần, Tập ngỏ lời mời và thế là Dũng ngây ngất, ngoan ngoãn im tiếng suốt chuyến đi của Tập.

Nhưng khi gặp Nguyễn Sinh Hùng, Tập lại chỉ chuyển lời hỏi thăm Trọng, Sang, không một lời đếm xỉa tới Dũng. Tập chúc mừng Trọng Sang và cười vào mũi Dũng.

Người ta đã lừa Dũng dễ dàng như lừa một chú chó con.

Vì vậy phải có loạn. Có loạn mới dùng được vũ lực. Kẻ nào không sợ chết? Phạm Quý Ngọ đã chết trước khi có thể nói ra cấp trên trực tiếp. Nguyễn Bá Thanh phải chết khi dám công khai tuyên chiến “hốt liền, không nói nhiều”. Phùng Quang Thanh lẽ ra đã bị bắn… còn những kẻ như họ Cù thì lập tức “biến” chỉ bằng hai bao cao su.

“Trạng chết chúa cũng băng hà, dưa gang đỏ đít thì cà đỏ trôn”. Dũng sẽ không chịu. Sẽ có máu đổ. Đầu tiên là Trọng Lú, sau đó là Sang Móm, tiếp đến là Hải Sài Gòn.

Lời kêu gọi ngăn chặn âm mưu can thiệp của nước ngoài vào vấn đề nội bộ có phải được hiểu là lời tuyên chiến?

Nhưng Dũng làm gì có lực lượng. Đỗ Bá Tỵ lên Đại tướng, nhưng bị tước hết quyền lực. Cũng giống trường hợp Hà Văn Thắm, Chủ tịch Oceanbank, đã có quyết định khởi tố vẫn để cho tháp tùng ông Trọng đi Mỹ. Đỗ Bá Tỵ lên Đại tướng chỉ vì cần phong Đại tướng cho Ngô Xuân Lịch, bí thư TW, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, là người của đảng, sẽ vào Bộ Chính Trị trong Đại Hội 12 và sẽ là Bộ trưởng Quốc phòng, chứ không phải Tỵ.

Trần Đại Quang chưa bao giờ là người cuả Dũng. Dù rất nhiều cố gắng, nhiều công sức, nhưng thực ra Dũng chưa bao giờ kiểm soát được cái Bộ khốn nạn chỉ biết “còn Đảng còn mình” này, thậm chí cả khi còn Nguyễn Văn Hưởng. Dũng muốn nó thành Bộ Kiên giang, nhưng Lê Hồng Anh là một con lợn, ai cho ăn cũng khụt khịt, ngoáy đuôi. Bùi Quang Bền chỉ là một chú vịt bầu, lọt thỏm giữa đám vịt cái Nam Định, Ninh Bình. Bây giờ thì Trần Đaị Quang đã biến nó thành Bộ Ninh Bình rồi, và Quang khinh Dũng, chỉ đơn giản là vì chính Quang là người biết rõ nhất Dũng giầu như thế nào và từ đâu mà giầu. Đám lau nhau ăn theo Dũng, đông như kiến, nhưng là đám âm binh, vô hình, chỉ giỏi trò ma cô và sẵn sàng tháo chạy.

Vì vậy mà cùng trong một hội ngḥi trực tuyến với 63 tỉnh ngày 29/12, ngay sau khi Dũng kêu gọi “ngăn chặn âm mưu can thiệp của nước ngoài vào vấn đề nội bộ”, thì Quang cảnh cáo ngay “tình trạng nghiêm trọng tiết lộ bí mật quốc gia trên mạng” và tuyên bố “không để hình thành các tổ chức phản động, đối lập cũng như không để xảy ra các tình trạng bị động bất ngờ trong nội địa”?! Sau đó 1 ngày, 30/12, Đinh Thế Huynh cũng nhắc lại cảnh cáo “cư dân mạng nói (ông Hùng) sang là để TQ can thiệp vào ĐH 12 của Đảng, tác động vào nhân sự của ĐH là sai trái”. Ý ám chỉ là đe ông Dũng đã xúc phạm Thiên triều.

Dũng có thể làm gì được? Thủ tiêu cả Trọng, Sang cũng không giúp ông có được ghế TBT. Mà đụng tới Thiên Triều thì ngay cả mạng sống cũng khó mà giữ .

Không leo lên được thì chỉ còn đường về. Mà về thì ông thực khó mà sống. Ông có quá nhiều ân oán. Liệu người ta có để ông yên với đống tài sản khổng lồ mà ông chiếm được, dù thực ra không hoàn toàn do ông cố ý. Ông không cấm được người ta ăn cắp, trong khi theo luật cuả giới trộm cắp, thì “người để mình ăn cắp là người cùng ăn cắp và được chia phần như nhau”. Bệnh ăn cắp tài sản quốc gia là bệnh cuả chế độ, ông chỉ là người được ăn “của ăn cắp”. Ai ngồi cái chỗ phải ăn ấy cũng sẽ như ông thôi. Ông thừa biết, chỉ có thay đổi cái chế độ ngồi trên pháp luật này mới diệt được bệnh dùng pháp luật để ăn cắp. Nhưng ông đã không kiên định để dân và người Mỹ tin ông.

Tuy nhiên, gạt được Dũng ra khỏi cuộc chơi, mới chỉ đi được một nửa,“từ nay đến hội nghị 14 còn quá nhiều việc phải làm và không ít khó khăn”. Bởi vì còn chuyện của 4 cái ghế “tứ trụ”.

Quốc Hội thì có lẽ vào tay Nguyễn Thị Kim Ngân, vì TòngThị Phóng quá “đụt”, ngồi ghế tập sự tới hai nhiệm kỳ mà vẫn cứ như người ngọng.

Ở cái ghế thứ hai, Nguyễn Xuân Phúc có vẻ dương oai ồn ào nhưng tham không thua gì Dũng, trong khi gian hùng lại vượt xa Dũng và có tiếng là phản thầy, bán chúa. Hoàng Trung Hải có tài, nhưng có máu Tàu trong người, gọi tục là Trọng Thủy, leo lên Tể tướng thì nỏ thần Việt có cơ mất lần nữa. Vũ Đức Đam thì tuy sạch nhưng quá đơn giản, chưa hợp với chiến địa đang ngập đầy máu và thương tích. Chỉ còn Nguyễn Thiện Nhân, tuy có hơi hướng từ đào tạo Mỹ, nhưng cũng không chống Trung Quốc, nhất là thuộc loại trung dung, dễ bảo. Và nếu ông này trúng Thủ Tướng, thì VN còn chút may mắn.

Nguyễn Sinh Hùng, sau chuyến đi Trung Quốc vừa rồi, rộ lên tin đồn được Trung Quốc chấm vào ghế TBT. Nhưng chắc không phải. Có lẽ chỉ là chuyện Tập thưởng công cho việc tiếp đón tại Quốc Hội. Nhân việc cần Khâm sai sang trình nhân sự Đại Hội 12, nên Tập gọi đích danh, nhân thể nhận quà ban thưởng. Đích thân sang cầu nhận phong vương, thì dân Việt người ta đào mả cả ba đời nhà ông chứ tha à?! Vả lại, Hùng đã chịu phân công làm Chủ tịch Hội Đồng Bầu Cử QH năm 2016. Chả lẽ vừa làm TBT vừa làm Chủ tịch HĐ Bầu Cử? Vả lại, cái ông xứ Nghệ này, vốn ăn nói như dùi đục chấm mắm cáy, nếu lên ngôi Tổng, chắc dân Việt phải nhiều lần đỏ mặt với bàn dân quốc tế.

Trương Tấn Sang gần đây kín tiếng, ít ồn ào, không biết bên trong ẩn chứa gì. Vừa rồi, Ông hứa “sẽ tận dụng thời gian còn lại, dành tối đa thời gian để giải quyết những bức xúc, trăn trở của nhân dân, ngày mai nghỉ, chiều nay vẫn phải làm”. Không biết đây là tín hiệu rút lui hay là trò tung hoả mù để tránh đòn thù của Dũng. Ông này tuy thèm muốn chiếc ghế Tổng Bí Thư, nhưng lại không đủ gan đứng mũi chịu sào, muốn diệt Dũng, nhưng lại sợ Dũng, chỉ đánh võ mồm và nấp sau lưng Trọng. Nếu có trúng TBT thì cũng chẳng làm nên trò trống gì.

Đinh Thế Huynh là Chủ tịch Hội Đồng lý luận TW, mỗi năm một lần dẫn đoàn Hội Thảo lý luận với một Uỷ viên Bộ Chính Trị TQ, tất nhiên mỗi năm một lần nhận quà cuả TW đảng CS Trung Quốc, hai năm một lần ăn ngủ tại khách sạn hảo hạng cuả nước Trung Hoa, nếm đủ cuả ngon vật lạ cuả Thiên Triều, chắc chắn sẽ cũng như Tô Huy Rứa, và trước nữa là Nguyễn Phú Trọng, đã dầy công vun đắp cho tình hữu nghị keo sơn Trung Việt và làm giàu thêm kho tàng lý luận Mác-xít và Chủ Nghĩa Xã Hội. Ông này có thể được lòng Thiên Triều, nhưng chưa đủ bề dày để quy phục nhân tâm. Có thể được “quy hoạch” TBT, nhưng cho nhiệm kỳ tới. Kỳ này có thể thay Tô làm Trưởng Ban Tổ Chức, hoặc thay Lê vào chân Thường Vụ. Thậm chí có thể “hạ phóng” làm Bí Thư Hà Nội để tích lũy thực tiễn, rồi rút về, hoặc bầu bổ sung giữa nhiệm kỳ.

Trần Đại Quang nếu chịu rời chức Bộ Trưởng Công An đầy quyền thế, có thể chịu nhận chiếc ghế nào? Chủ tịch nước vốn có tiếng mà không có miếng. Cái ghế ấy chỉ hợp với đàn bà, quanh quẩn với các việc hiếu hỉ lễ nghi, nâng cốc và chúc tụng. Người ta chỉ nhận nó khi đã nguội lạnh mọi khát vọng. Quang chưa phải loại người này, chẳng lẽ vun vén biến Bộ Công An thành Bộ đồng hương Ninh Bình là để cho ai? Nếu cái chủ trương kéo thêm 10 năm cho tướng CA có bằng Giáo Sư Tiến Sĩ là để ghế Bộ Trưởng Công An cho Bùi Văn Nam, thì Quang sẽ đi đâu, Trưởng Ban Tổ Chức hay Trưởng Ban Thanh Tra? Còn nếu ông trúng TBT thì ra chế độ này là chế độ Cảnh Sát, Đảng này thành Đảng phát xít, gần 4 triệu đảng viên thành mật vụ hết à? Có thể làm Tổng thống kiểu Putin, nhưng làm sao thay được Hiến Pháp?

Như thế này thì ra Tổng Trọng âm mưu dọn chỗ cho chính mình? Già và lẩm cẩm như ông mà vẫn còn tham vọng, ảo tưởng thế sao? Hay ông cũng có giấc mơ cuả ông Nông, vợ trẻ, tiền nhiều? Taị sao ông cứ phải liên tục hò hét “bảo vệ cho được chế độ”? “ bảo vệ cho được chủ nghiã Mác Lênin và bảo vệ cho được XHCN”. “Phải kiên quyết chống cho được đa nguyên, đa đảng”. Đúng. Để bảo vệ cho được những thứ đó phải có những người như ông và chỉ những người như ông. Còn phải chọn ai nưã. Nhưng cũng chính vì giữ cho được những thứ từ lâu đã thành rác rưởi này mà ông, những người lú lẫn như ông và tiền bối mông muội của ông đã cướp đi của dân tộc bao nhiêu thế hệ. Lịch sử dân tộc đã bị các ông kéo lùi bao nhiêu năm?

Không còn mấy người như vậy đâu. Hãy nhìn quanh ông xem, đừng ảo tưởng nữa. Người ta gạt ông Dũng ra không phải vì ông sáng suốt mà vì ông Dũng bất tài, đã không đáp ứng được ngưỡng vọng của họ. Người ta bỏ ông Dũng, không phải để bầu cho ông, mà vì ông Dũng đã không lật được ông, không cứu được dân, không bảo vệ được đất nước.

Ông kêu “còn không ít khó khăn”, hãy nhìn kỹ lại xem, liệu có Đại Hội được không? Nếu cứ cố ép, rồi cũng sẽ có danh sách đề cử, nhưng rồi có bầu được không? Và rồi cái bầu ra sẽ có hình thù cuả cái gì? Hãy suy nghĩ lại xem. Tại sao như vậy? Đây là hiện tượng gì? triệu chứng gì? Khủng hoảng này do đâu? Lần Đại Hội này đã khó thế, liệu còn có lần sau không? Các nhân tố ngày tận thế cuả đảng đã xuất hiện từ chính sự chém giết mà ông là tác giả. Bởi vì không ai có thể giết được xu thế. Mọi cái mới xuất hiện, nếu nó tự lớn lên, không một sức mạnh nào cản nổi thì đó là yếu tố quy luật, đó là xu thế. Cái thuận quy luật thì tồn tại, cái cản lại nó không tránh được bị tiêu diệt.

Còn nếu để bảo vệ chế độ cộng sản, ông chủ trương dựa vào Tàu, trông nhờ vào ý thức hệ để bảo vệ độc đảng, thì ông sẽ là kẻ phản bội nhân dân cuả ông, ông sẽ có tên trong những kẻ bán nước, rước voi về dầy mả tổ. Hãy để cho dân cuả ông được sống như những người dân xung quanh vùng và trên thế giới. 200 con người, 200 cái đầu TW uỷ viên không ngu như ông tưởng đâu. Chỉ còn 4 nước CS độc đảng trong một thế giới gần 200 quốc gia. Điều đó đủ để chỉ cho 200 cái đầu TW biết rằng ông là người bị bệnh, bệnh lú lẫn. Và họ sẽ không bầu cho ông.

Ông đã biến chuyến đi Mỹ cuả ông thành một thứ trò chơi. Ông đã xúc phạm danh dự và sự nghiêm túc cuả Tổng thống Mỹ. Ông một lần nữa lại tiêu huỷ cơ hội lịch sử cuả Dân tộc. Ông không thể tránh được sự trừng phạt. Sự lú lẫn trong cái đầu của ông đã không còn là của riêng ông nữa. Nó đang kìm hãm, kéo lùi bước đi của cả một dân tộc. Hãy nhìn kỹ xem, ngoài ông ra, trong đảng cuả ông, có người thứ hai nào cố thủ ngu muội đến như ông không? Nếu không có thì hãy tin rằng mạng sống của ông đang bị đe dọa. Bởi vì sẽ có một suy diễn rằng chỉ cần loại được ông là hoá giải được tất cả. Và bởi vì cái điên cuả ông có thể làm nhiều cái đầu khác phát điên. Sự kiên nhẫn có thể đã tới hạn. Với hơn 90 triệu người thì khó mà lường trước được điều xảy ra.

Sẽ chẳng có ai thay ông cả. Ngay cả khi họ ngồi vào ghế của ông, họ cũng sẽ không lặp lại sự ngu xuẩn của ông. Nghiã là họ có thể ngồi đấy, nhưng họ sẽ không phải là người điên.

Và có thể tin được rằng, lần này sẽ là lần cuối cùng các ông làm Đại Hội.

31/12/2015

ĐỂ THẤY CHÚA HIỂN LINH TA CẦN CÚI XUỐNG THẬT THẤP

ĐỂ THẤY CHÚA HIỂN LINH TA CẦN CÚI XUỐNG THẬT THẤP

(CN Lễ Hiển Linh)

Tuyết Mai

Con người đời thường của chúng ta thích đứng ngẩng đầu cho thật cao để tương xứng với nghề nghiệp và chức vụ của mình nên vô tình hay cố ý đã làm cho xương cốt chúng ta nó cứng đơ ở vị trí như thế.   Bởi đứng thật cao thì chẳng bao giờ nhìn thấy được ai cả, trừ hai con mắt của anh chị em mình.   Chúng ta thời nay càng ngày càng có nhiều người thống khổ và hoạn nạn.   Họ thường ở dưới chân của mình chứ có đâu được ở ngang tầm mắt của mình mà thấy, thưa có phải?.

Thật dễ hiểu thay khi Chúa Hài Đồng Giêsu của chúng ta, sinh ra và được đặt nằm trong máng cỏ, cơ hàn và lạnh lẽo.   Chúa của chúng ta Ngài là hình ảnh của biết bao nhiêu anh chị em nghèo khổ từ trẻ sơ sinh cho đến già nua bệnh tật, sống chung quanh chúng ta.   Ra đường có mấy ai chịu nhìn xuống để thấy cuộc đời cần rất nhiều sự chia sẻ của chúng ta đâu!?.   Ngay trong gia đình là người thân cận nhất của chúng ta mà chúng ta cũng chỉ nhìn ngang bằng chứ không chịu nhìn thấp xuống để có sự cảm thông, hay biết khi nào người thân rất cần sự chăm sóc của mình.

Nếu như cuộc đời chúng ta cứ nhìn thẳng trước mặt để tìm sự tiến thân hay tiến chức thì thú thật chúng ta chẳng bao giờ nhìn thấy Chúa Hiển Linh được đâu.   Hiển danh, hiển lộc, hiển tiền, hiển gian dối, hiển hiện sự khinh khi đối với người, hiển hiện cho nhau sự ghen ghét và thù hằn thì chẳng bao lâu con người sẽ đi theo cái bóng hiển hiện của sự dữ là ma quỷ và mất linh hồn đời đời của chúng ta.

Chúa Giêsu sinh ra đời làm người thiết tưởng Ngài không kỳ thị một ai nhưng là để Cứu Chuộc nhân loại.   Bằng chứng là ba nhà chiêm tinh gia thuộc thành phần giầu có quý phái cũng đã được Chúa soi sáng, báo tin cho họ biết là có một Đấng Tối Cao từ Trời mà xuống thế, sẽ sinh hạ đâu đó nơi thành Bê-lem.   Rồi mục đồng nghèo khổ làm nghề chăn thú vật cho người giầu có, cũng được Chúa báo để đến xem Chúa Hiển Linh.

Chúa Hiển Linh là để chiếu sáng những đức tính thần thiêng, thánh thiện và rất con người của Ngài, là Yêu Thương nhân loại.   Qua sự ra đời (theo Thánh Ý Thiên Chúa muốn) trong khốn khó, trong nghèo nàn của Ngài.   Bởi vì chương trình của Thiên Chúa là muốn Chúa Giêsu được cùng chia sẻ sự nghèo khổ ấy cho con người bần hèn nhất trong xã hội nhân loại.   Vì có phải Thiên Chúa dạy cho con người biết sự giầu sang của thế gian, không đem lại cho con người hạnh phúc đích thực, nên Ngài không muốn dạy cho con cái của Ngài đi sai đường như thế.

Quả chương trình của Chúa Giêsu đã được Thiên Chúa Cha sắp xếp cho từ đầu đến cuối là sự thể phải theo thứ tự như thế!.   Cả cuộc đời của Chúa Giêsu là tấm gương soi sáng cho toàn thể nhân loại.   Tấm gương ấy sáng ngời và chiếu soi cho những ai muốn sống theo Ngài.   Tấm gương ấy sẽ rọi chiếu những điều tốt lành, thánh thiện và yêu thương.   Càng soi vào tấm kiếng trong vắt ấy, Chúa sẽ cho chúng ta thấy hình ảnh của Chúa và biến chúng ta ngày một giống Chúa hơn.

Quả nếu tâm hồn chúng ta có Chúa, chúng ta sẽ hiểu biết mà nhận ra Thiên Chúa của chúng ta, đang nằm thật thấp trong máng cỏ hôi hám, không giống Thiên Chúa của loài người trông đợi!.   Vâng, xin toàn thể nhân loại con người là những thành phần bất xứng hãy đến với Chúa với tấm lòng giản dị và rất chân tình.   Hãy có cuộc sống thật khiêm nhường.   Hãy yêu thương nhau như Chúa luôn yêu thương chúng ta.

Hãy mở tấm lòng để Chúa có thể ngự trị trong con người của chúng ta!.   Hãy xa tránh những cạm bẫy của thế gian và sống cuộc đời thánh thiện để Chúa sẽ mở mắt cho chúng ta thấy sự Chúa Hiển Linh và hình ảnh trung thực nhất của Chúa là những anh chị em khốn cùng đang sống chung quanh chúng ta đây.

Khi chúng ta chịu cong người xuống thật thấp, để thấy được những anh chị em đang sống thống khổ và đói khát nằm đầy dẫy bên vệ đường.   Họ ghẻ lở, bệnh tật và tật nguyền, đang rất cần chúng ta giúp đỡ.   Bắt chước Chúa Giêsu sống trong khiêm nhường và trong yêu thương.   Đối xử tốt với hết thảy mọi người chỉ cách ấy chúng ta mới nhận biết Chúa Hiển Linh và ngài luôn ở cạnh bên chúng ta mọi ngày cho đến khi Chúa gọi chúng ta ra khỏi đời này để về với Chúa.   Hưởng mọi phúc vinh trên Quê Trời Nơi có Thiên Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần.   Amen.

** Xin bấm vào mã số dưới đây để hát theo:

http://www.youtube.com/watch?v=lxTduer6YyM

(Chúa Là Ai Con Không Thấy Quen)

Y Tá Của Chúa,

Tuyết Mai

31 tháng 12, 2015

———————————————————————

CHÚA LÀ AI CON KHÔNG THẤY QUEN

(Thơ và Nhạc của Tuyết Mai 6/13/10)

Lạy Chúa!

Ngày ngày trên bước đường con đi,

Sao con chẳng bao giờ gặp được Chúa?

Chúa là ai? Con chẳng thấy trông quen?

Toàn những con người con không thể làm quen hay thân được.

Bà Chu bên cạnh nhà, ồn ào, từ sáng sớm.

Ông Xã Xệ sát bên, lời qua tiếng lại, chẳng kém gì bà ta.

Mấy đứa con trai bà, thẹo đầy mặt, trông phát ghê sợ.

Mấy đứa con gái ông Xã Xệ, xem cách ăn mặc,

Cũng biết thuộc gái ăn chơi của thời đại,

Luôn có mặt trong những quán bia ôm.

Bà Gô bán bánh mì đầu ngõ,

Đố ai ăn quịt, mà ra về được an toàn.

Còn những đứa bạn gọi là thân nhất,

Cũng tốt với con tùy bữa tuỳ ngày.

Đại khái chẳng ai trong xóm con thấy chơi được,

Hà huống chi con lại muốn kết thân.

Còn ông Sò mang tiếng giầu nhất phố,

Cũng nổi tiếng là keo kiệt.

Bà vợ thì nổi tiếng là ngồi lê đôi mách chẳng ai sánh bằng.

Ăn hàng ghi sổ, từ quán ngoài cửa chợ, cho đến vào chợ trong.

Từ sáng sớm đến hoàng hôn, không cần ăn cơm nhà.

Không chuyện của ai mà bà ta không được biết.

Lạy Chúa,

Thế Chúa là ai con không được rõ?

Có phải anh mù, chị điếc, thằng câm, con thường gặp ở chợ?

Xin ăn từng bữa, kiếm miếng cơm thừa, cũng chẳng có ai cho?

Có phải những con người tanh hôi ghẻ lở?

Ở góc chợ đời, bị bao kẻ khinh ghét đuổi xua?

Có phải những con người lang thang trên hè phố?

Điên điên khùng khùng, vì cuộc đời cay nghiệt,

Chẳng biết đi về đâu?

Có phải những tiếng khóc của trẻ thơ,

Văng vẳng khắp nơi trên đường phố,

Tìm bú mớm từ giòng sữa ấm của mẹ,

Nhưng nó sẽ chẳng bao giờ được cho?

Cùng với tất cả những ai không nhà cửa,

Người thân, bất hạnh, khuyết tật,

Bệnh hoạn, điên loạn, nghèo đói,

Bị mọi người và xã hội ruồng bỏ,

Khinh chê, và bị bỏ quên trên khắp mọi nẻo đường,

Khắp mọi nơi trên tòan thế giới?

Lạy Chúa,

Có phải tất cả, họ là anh chị em của chúng con,

Là hình ảnh của Chúa đó không?

Nếu phải, thì lậy Chúa, con sẽ phải làm sao?

Vâng, thưa lạy Chúa!

Con sẽ cố gắng tìm đến và giúp từng người một con gặp được,

Trên mỗi bước đường của con, bây giờ,

Cho đến hết cuộc đời ngắn ngủi và giới hạn của con. Amen.

Y Tá Của Chúa

Tuyết Mai

*** Để cảm tạ, ngợi khen, và tôn vinh Thiên Chúa là Cha chung của tất cả chúng ta, tôi chân thành mời anh chị em hãy dùng những bài hát của tôi để hát, đem đến tận phương trời xa, để làm Sáng Danh Thiên Chúa.

Bị đánh bom nguyên tử, vì sao người Nhật lại cúi đầu kính trọng tướng Mỹ?

Bị đánh bom nguyên tử, vì sao người Nhật lại cúi đầu kính trọng tướng Mỹ?

Chính Tâm

MacArthur, vị danh tướng của Mỹ, là người chỉ huy quân đội tiến đánh Nhật Bản trong thế chiến thứ II. Tuy nhiên, khi ông rời khỏi đất nước này, người dân không hề căm ghét mà n

kính trọng, dan chu, chiến tranh,

Chân dung Thống tướng Douglas MacArthur. Ảnh: Internet

Năm 1942 tướng MacArthur dẫn đại quân tấn công Nhật Bản, từ Melbourne xa xôi đánh thẳng đến Tokyo, hai tay nhuộm máu người Nhật Bản. Vì thế vô số người Nhật đều hận ông thấu xương.

Chiều ngày 30/8/1945, tướng quân MacArthur ra khỏi máy bay và đặt chân lên đất Nhật, cho dù ông không mặc quân phục và không mang theo vũ khí gì, cũng không có người tổ chức duyệt binh, nhưng thời khắc đó với 70 triệu người Nhật Bản là thời khắc kinh hoàng mà họ không thể quên, trong tâm trí mọi người chỉ còn nghĩ được hai chữ “mất nước”.

Nhưng tướng MacArthur mang quân đến hòa bình, chính nghĩa, khoan dung và dân chủ

Nền kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh rơi vào suy sụp, đến bữa trưa của Nghị viên Quốc hội cũng phải ăn cơm trộn khoai lang, cái đói bao phủ khắp nơi. Lúc này tướng MacArthur gây áp lực khiến chính phủ Mỹ phải hỗ trợ Nhật Bản, thế là 3,5 triệu tấn lương thực và 2 tỷ Mỹ kim tức tốc được gửi đến Nhật. Ông không chỉ giữ lại chính quyền Nhật Bản mà còn đặc xá cho Thiên hoàng, thậm chí còn quan tâm đến số phận của từng người lính bình thường của Nhật Bản, giúp họ tìm con đường sống.

kính trọng, dan chu, chiến tranh,

Tướng MacArthur tiếp nhận quân Nhật đầu hàng (Ảnh: Internet)

Theo sau ông, 400 nghìn lính Mỹ đã dùng thiện ý và tinh thần hy sinh để chinh phục người Nhật Bản. Khi đó các con hẻm trong thành phố của Nhật rất chật hẹp, một người Nhật bình thường và một người lính Mỹ to lớn nếu gặp nhau cũng khó để đi qua, vì thế thường thì người lính Mỹ sẽ nép vào một bên cho người Nhật đi trước. Người Nhật không thể không băn khoăn tự hỏi, nếu mình là kẻ chiến thắng thì có làm được như thế không?

Sau khi tướng MacArthur đến Nhật Bản, ông lập tức ra lệnh thả tội phạm chính trị, trong đó có rất nhiều Đảng viên Cộng sản, bị chính phủ Nhật bắt giam trong thời gian dài.

Ngày 25/8/1945, quân chiếm đóng của Mỹ cho phép phụ nữ Nhật thiết lập tổ chức của mình; tháng 9 cho công bố Dự luật về vai trò trong bầu cử của phụ nữ Nhật Bản; đây là lần đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản, phụ nữ được quyền bầu cử và ứng cử.

Lúc này tại Tokyo có cô kỹ nữ được chọn làm Nghị viên thành phố, nhiều thị dân cảm thấy khó chấp nhận. Nhưng tướng MacArthur nói, mọi người chọn cô ấy để cô ấy phục vụ mọi người, đừng vì cô ấy là kỹ nữ mà kỳ thị bỏ qua. Khi đó mọi người chợt hiểu người được chọn trong bầu cử dân chủ phải là người thay mặt để vì mình làm việc, thế là sau khi hiểu ý nghĩa vấn đề họ đã quyết định chọn bầu cô kỹ nữ kia. Kết quả sau khi trở thành Nghị viên, cô đã không phụ lòng mọi người, làm được rất nhiều việc có ý nghĩa.

kính trọng, dan chu, chiến tranh,

Cột khói hình nấm khổng lồ bốc lên khi Mỹ thả bom nguyên tử xuống Nhật Bản. Ảnh: Askman.com

Vào ngày 11/10/1945, tướng MacArthur tuyên bố bỏ lệnh cấm báo chí, Nhật Bản được tự do thông tin và tự do ngôn luận. Ngày 22/12/1945, ban hành “Luật Công hội”, giai cấp công nhân thực sự có tổ chức của mình. Ngày 1/9/1947, ban hành “Luật lao động”, quy định tiêu chuẩn tiền lương thấp nhất và thời gian làm việc nhiều nhất.

Ngày 3/2/1946, tướng MacArthur chỉ thị cho Tổng bộ Liên minh khởi thảo Hiến pháp Nhật Bản. Chính phủ Mỹ truyền đạt nguyên tắc chế định Hiến pháp cho tướng MacArthur là: Chính phủ Nhật Bản phải do toàn thể cử tri trao quyền và phải chịu trách nhiệm trước toàn thể cử tri. Ngày 3/5, quân liên minh giao ra Bản dự thảo Hiến pháp. Ngày 7/10, Quốc hội Nhật Bản thông qua Hiến pháp. Ngày 3/11, Thiên hoàng cho ban hành Tân Hiến pháp.

Đây là Hiến pháp do kẻ chiếm lĩnh chiếu theo giá trị quan phương Tây áp đặt cho kẻ bị chiếm lĩnh, nhưng lại là bản Hiến pháp đem lại phúc lợi cho nhân dân quốc gia bị chiếm lĩnh. Bản Hiến pháp nhấn mạnh quyền lợi công dân cơ bản của người Nhật Bản, xem những quyền lợi này là “quyền lợi trời cho mà không ai có quyền tước đoạt”. Những quyền này bao gồm: quyền bầu cử, lập hội và tự do xuất bản; không có sự tham gia của luật sư thì không được định tội; bảo đảm quyền cư trú an toàn cho dân, cấm kiểm tra và tước đoạt vô cớ.

Ngày 21/10/1946, Quốc hội đã thông qua “Luật Cải cách ruộng đất”. Chính phủ Nhật Bản mua lại đất đai dư thừa của giới địa chủ, sau đó bán đất lại cho nông dân không có ruộng. Với những nông dân không có tiền mua đất, chính phủ cho vay thế chấp. Tất cả diễn ra không đổ một giọt máu, một mạng người, những người nông dân ai nấy đều có được một phần đất cho mình.

Ngày 31/3/1947, ban hành “Luật Giáo dục”. Theo đó mục tiêu hàng đầu của giáo dục là “tôn trọng sự tôn nghiêm của cá nhân, bồi dưỡng cho mọi người có lòng nhiệt huyết vì chân lý và hòa bình”. Trường học của Nhật Bản không còn nằm trong kiểm soát của chính phủ mà là do Ủy ban Giáo dục do dân chúng bầu ra quản lý. Việc chọn lựa nhà giáo, sách học và bố trí chương trình hoàn toàn do người dân tự chủ quyết định.

Năm 1952, quân chiếm đóng Mỹ trả chính quyền về cho chính phủ Nhật Bản. Sau 7 năm chiếm đóng, người Mỹ cải cách triệt để con đường phát triển của Nhật Bản, chủ quyền quốc gia từ trong tay kẻ chuyên chế trao lại cho người dân Nhật Bản, những tiền đề tiến bộ đầu tiên này giúp người Nhật bước vào con đường thênh thang.

kính trọng, dan chu, chiến tranh,

Quang cảnh sau khi xảy ra vụ ném bom nguyên tử, hầu như mọi thứ đều bị thổi bay. Ước tính 90% nhà cửa ở Hiroshima bị hủy diệt hoặc hư hại. (Ảnh: Internet)

Hơn 10 năm sau, Nhật Bản trở thành cường quốc kinh tế thứ hai thế giới, quốc gia phồn vinh, nhân dân giàu có, xã hội ổn định. Có thể nói thêm một câu, quân chiếm đóng của Mỹ không chi một đồng tiền thuế nào của người dân Nhật Bản, chi phí của họ là lấy từ tiền thuế của người Mỹ.

Người Nhật tổ chức buổi lễ long trọng đưa tiễn tướng quân MacArthur

Trong thời gian chiếm đóng Nhật Bản, rất nhiều người Nhật đã viết thư gửi cho tướng MacArthur yêu cầu biếu tặng đất đai của họ. Nhiều phụ nữ can đảm viết thư đề nghị được hiến thân cho tướng MacArthur, nhiều người còn viết “xin hãy cho tôi được sinh con cho ngài.”

Sáng ngày 16/4/1951, Tổng thống Harry Truman phế bỏ chức Tư lệnh quân chiếm đóng và buộc tướng MacArthur phải về nước, sự kiện này chỉ thông báo cho một số quan chức cấp cao người Nhật biết. Nhưng khi ông ngồi lên ô tô thì mới phát hiện, từ nơi dinh phủ ông ở đến Sân bay Atsugi có hàng triệu người Nhật Bản đứng hai bên đường đưa tiễn. Đoàn xe hộ tống đi qua những hàng nước mắt cùng tiếng hô vang dậy của người dân Nhật Bản: Đại nguyên soái!

Người dân Tokyo đứng chật kín hai bên đường, ai nấy rơi nước mắt, họ như hoàn toàn quên chuyện tướng MacArthur là kẻ chiếm đóng đã đánh bại quân đội quốc gia mình. Thiên hoàng đích thân đến sứ quán đưa tiễn MacArthur, tướng MacArthur cũng xúc động rơi nước mắt, nắm chặt hai tay của Thiên hoàng Hirohito.

Khi đưa tiễn, Thủ tướng Yoshida của Nhật nói: “Tướng quân MacArthur đã cứu chúng tôi ra khỏi nỗi sợ hãi, lo lắng và hỗn loạn của thất bại để đưa chúng tôi vào con đường mới do ông xây dựng, chính Ngài đã gieo trồng hạt giống dân chủ trên đất nước chúng tôi để chúng tôi bước trên con đường hòa bình, tình cảm ly biệt mà nhân dân chúng tôi dành cho Ngài không lời nào có thể diễn tả được.

Uy lực quả bom nguyên tử của Mỹ tàn phá thành phố và nền kinh tế của Nhật Bản, nhưng về phương diện tinh thần, nước Mỹ đã hoàn toàn chinh phục được người Nhật Bản.

Theo Daikynguyenvn

Việt Nam 2016: Năm quyết định thời cuộc?

Việt Nam 2016: Năm quyết định thời cuộc?

Hoang Dinh Nam AFP

Người dân Việt Nam mong đợi năm 2016 sẽ đem lại những tin vui

Các nhà quan sát trông đợi và kỳ vọng gì về những chuyển biến chính trị – xã hội Việt Nam trong năm 2016?

Hôm 31/12, BBC Tiếng Việt đã phỏng vấn những người theo dõi sát thời cuộc Việt Nam trong năm qua và hỏi nhận định của họ về năm 2016.

Chính quyền không thể ‘cứ như xưa’

Từ Hà Nội, luật sư Ngô Ngọc Trai, Trưởng văn phòng luật sư Ngô Ngọc Trai và Cộng sự cho biết: “Tôi trông đợi trong năm 2016, Việt Nam sẽ tiếp tục các bước cải cách tư pháp còn dở dang trong năm qua để đem lại những bước đột phá cho nền kinh tế đang bị kiềm hãm và giúp cải thiện đời sống người dân cũng như bảo vệ tốt hơn quyền lợi doanh nghiệp tốt hơn. Muốn có điều này, chính quyền cần thay đổi nhận thức về hệ thống tư pháp”.

Luật sư Ngô Ngọc Trai kỳ vọng vào sự thay đổi nhận thức của chính quyền về nền tư pháp

Từ góc độ của người hành nghề luật, ông nhấn mạnh: “Năm 2015, Quốc hội Việt Nam đã thông qua nhiều văn bản sửa đổi nhưng vẫn còn nhiều việc phải làm trong năm tới để giảm thiểu những vụ án oan, những rầy rà cho người dân và doanh nghiệp. Tôi mong rằng năm 2016, hai Luật Thanh tra và Luật Tố cáo sẽ được cải thiện nhằm tạo điều kiện cho giới luật sư bảo vệ doanh nghiệp cũng như những người tố cáo nhũng nhiễu”.

Ông Trai nói thêm rằng trong năm 2016, giới luật sư “còn nhiều việc phải làm”. Điều quan trọng là luật sư cần thể hiện vai trò tiên phong trong việc đấu tranh để tạo những chuyển biến trong hệ thống pháp luật và tư pháp.

Về những vụ việc đấu tranh dân chủ như trường hợp của luật sư Nguyễn Văn Đài mới bị bắt giam trở lại gần đây, luật sư Trai nói: “Trong bối cảnh nhận thức của người dân ngày càng tốt hơn và mạng xã hội tác động tích cực đến dân trí, tôi tin rằng chính quyền không thể hành xử theo kiểu ‘cứ như xưa’ được nữa”

 Đỗ Thị Minh Hạnh tin rằng các nhà hoạt động nghiệp đoàn sẽ đoàn kết hơn để tiếp tục đẩy mạnh phong trào

‘Không lạc quan cũng chẳng bi quan’

Từ TP. Hồ Chí Minh, nhà hoạt động Đỗ Thị Minh Hạnh cho hay: “Nói thật là tôi không lạc quan cũng chẳng bi quan về tình hình xã hội cũng như phong trào hoạt động nghiệp đoàn tại Việt Nam trong năm mới”.

Bà lý giải: “Những động thái của chính quyền trong việc câu lưu, bắt giam các nhà hoạt động dân chủ, nghiệp đoàn trước Đại hội Đảng 12 khiến ngay cả những người lạc quan cũng phải e ngại và nhận thấy chính quyền đang có sự mập mờ trong việc hành xử với những tiếng nói đối lập”.

Bà nói thêm: “Thách thức lớn nhất với những nhà hoạt động nghiệp đoàn trong năm 2016 là phải đoàn kết hơn nữa, bất chấp những ngăn trở từ phía chính quyền để đấu tranh cho quyền lập hội nhóm và nghiệp đoàn độc lập”.

Nhà hoạt động “hy vọng những người hoạt động nghiệp đoàn đang bị bắt giam như Đoàn Huy Chương và những trường hợp đấu tranh chống cưỡng chế đất đai như Nguyễn Mai Trung Tuấn sẽ sớm được trả tự do trong năm 2016. Chính quyền cũng phải thừa nhận rằng ngày càng có thêm nhiều người dân ủng hộ các hoạt động dân sự, nghiệp đoàn”.

 Luật sư Vũ Đức Khanh tin rằng ‘chính quyền hiểu người dân đang muốn có sự thay đổi’

‘Năm quyết định’

Từ Ottawa, Canada, Luật sư Vũ Đức Khanh nhận định 2016 là năm mang tính ‘quyết định thời cuộc Việt Nam giống như năm 1986 mở đường cho ‘đổi mới’”.

“Có thể thấy, sự kiện quan trọng nhất năm 2016 của Việt Nam là kỳ Đại hội Đảng 12. Những người lạc quan thì mong đợi kỳ Đại hội này sẽ thiết lập chính phủ mới, quốc hội mới đáp ứng được những kỳ vọng của người dân trong bối cảnh hội nhập quốc tế”, luật sư nói.

Tuy vậy, ông cũng thừa nhận: “Rủi ro lớn nhất là phe cấp tiến thân phương Tây trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng không giành thắng lợi trong Đại hội do lực cản từ phía Trung Quốc. Điều này dẫn đến hệ lụy là sẽ làm chậm tiến trình TPP, khiến Việt Nam đánh mất nhiều cơ hội cải cách xã hội và đạt mức tăng trưởng kinh tế mới”.

Ông dự báo mọi chuyển biến của Việt Nam chỉ thật sự rõ ràng khi Đại hội Đảng 12 kết thúc và đem lại kết quả ‘khiến người dân cảm thấy an lòng là Đảng Cộng sản và nhà nước quyết định chọn con đường mới để đi thay vì tiếp tục núp bóng Trung Quốc’.

Ước vọng đầu năm mới 2016!

Ước vọng đầu năm mới 2016!

happy-new-year-2016

Anh chị em thân mến,

Một năm đã qua, nhìn lại thước phim cuộc đời mình, chúng ta cảm nhận được tình thương của Chúa dành cho mình khi Ngài chở che và dẫn dắt chúng ta đi trong cuộc trần này. Tuy đời sống ấy có những lúc không như lòng Chúa ước mong, chẳng như chúng ta kiếm tìm, nhưng chúng ta vẫn nhận thấy những hồng ân lớn lao bao bọc lấy mình. Thiên Chúa đã dệt nên cuộc sống hằng ngày của chúng ta với nhiều gam màu khác nhau, có phút giây hạnh phúc, có những lúc trầm buồn. Hẳn là mỗi người chúng ta đều muốn thưa lên cùng Chúa lời tạ ơn chân thành và sâu thẳm nhất.

Giờ đây, chúng ta lại được mời gọi hướng đến một tương lai với tâm tình tin yêu và phó thác như tổ phụ Ápraham. Tuy không biết nơi đâu là vùng đất mà Chúa muốn ông tới, nhưng ông vẫn theo lời mời gọi của Người để lên đường cất bước đi. Hẳn là ông cũng có nhiều bận tâm, vì tương lai phía trước tưởng chừng như có rất nhiều thách đố chông gai. Nhưng ông không bao giờ nghi ngờ tình thương và lời hứa của Chúa. Ông đã tin tưởng hoàn toàn vào kế hoạch của Người. Điều ấy giúp ông lên đường và cuộc đời của ông được thành toàn như ông và Chúa ước mong!

Bầu không khí trong lành của năm mới 2016 đã tới. Chặng đường cũ đã qua đi, chặng đường mới lại mở ra. Cuộc sống bước theo Giêsu chưa bao giờ là một hành trình có điểm dừng cả! Trong tư cách người con yêu mến của Thầy Chí Thánh, chúng ta lại tiếp tục lên đường như Ápraham, hăng hái đối diện với tất cả khó khăn thử thách phía trước, bằng một niềm xác tín mãnh liệt vào Đấng giàu lòng thương xót.

Trong năm mới này, chúng ta cùng nhau tạ ơn Chúa lần nữa vì bao ơn lành dồi dào Người đã, đang và sẽ ban cho thế giới, cho Giáo Hội, cho giáo xứ, cho gia đình và cho người chúng ta. Đồng thời, chúng ta cũng dâng những dự tính, hy vọng và mọi âu lo của chúng ta cho bàn tay quan phòng của Chúa.

Xin Chúa cho chúng ta biết tìm kiếm Nước Thiên Chúa và Đức công chính của Người trước hết và mở lòng đón nhận mọi điều mà Người sẽ ban cho chúng ta. Ước gì trong năm 2016 này là một khoảng thời gian ý nghĩa để chúng ta sống tin tưởng, yêu thương và phó thác trong cung lòng của Thiên Chúa xót thương!

Chúc mừng năm mới đến với mọi người!

Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J.

Người Việt có yêu nước không?

Người Việt có yêu nước không?

Song Chi.

RFA

Người Việt có yêu nước không? Nếu bây giờ mà đặt một câu hỏi như vậy thì đúng là rất dễ bị “ném đá”, tẩy chay!
Bao nhiêu năm nay khi đi học trẻ em Việt Nam luôn được dạy rằng người Việt có truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm, anh hùng bất khuất, chịu thương chịu khó, giàu đức hy sinh v.v…Và nếu nhìn lại lịch sử VN suốt mấy ngàn năm qua thì quả là đúng vậy. Nếu không yêu nước, không quyết tâm bảo vệ đất nước, có lẽ cha ông chúng ta đã không thể giành lại được độc lập cho đất nước sau một ngàn năm bị giặc Tàu đô hộ, 100 năm bị Tây đô hộ. Rõ ràng là “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có” (Bình Ngô Đại cáo, Nguyễn Trãi), hết lớp người này đến lớp người khác, đã đứng lên, ngã xuống, và tiếp tục đứng lên, để bảo vệ đất nước.
Lịch sử của VN là lịch sử viết bằng máu của những cuộc chiến tranh chống ngoại xâm lẫn nội chiến, thời gian chiến tranh có nhiều khi còn dài hơn cả thời bình. Nếu người Việt không yêu nước, có lẽ bây giờ VN đã bị xóa tên trên bản đồ thế giới, đã trở thành một quận lỵ, một tỉnh của Tàu từ lâu lắm rồi. Cha ông ta không những đã bảo vệ trọn vẹn non sông mà còn mở rộng lãnh thổ lãnh hải về phía Nam để trao lại cho con cháu đời nay một Tổ Quốc VN dài từ Nam ra Bắc với hình dáng chữ S như bây giờ.
Thế nhưng, kể từ khi đảng cộng sản xuất hiện rồi dần dà trở thành đảng lãnh đạo duy nhất tại VN thì mọi chuyện có khác.
Như tất cả mọi đảng phái chính trị khác, ngay từ khi khởi đầu cho đến tận giờ này, sau 85 năm thành lập, 70 năm độc quyền lãnh đạo ở miền Bắc, 40 năm độc quyền lãnh đạo trên toàn đất nước VN, đảng cộng sản luôn luôn nhân danh lòng yêu nước cũng như lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân để cướp chính quyền về tay mình và giữ riệt lấy quyền lực. Thật sự ra đảng cộng sản chưa bao giờ yêu nước thương nòi.
Nếu thật sự yêu nước, họ đã đặt quyền lợi của đất nước dân tộc lên trên quyền lợi của đảng. Nếu thật sự yêu nước, thương dân, họ đã không chọn con đường giành chính quyền bằng bạo lực bất chấp ý nguyện của nhân dân, sau đó tiếp tục đẩy cả dân tộc vào cuộc chiến tranh với Pháp rồi với Mỹ đồng thời là cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn kéo dài suốt 20 năm, bất chấp cái giá phải trả là xương máu của nhân dân, đất nước hoang tàn, lòng người ly tán. Lịch sử VN suốt bốn ngàn năm chưa bao giờ mất đất, thậm chí ông cha ta như vừa nói trên còn mở mang bờ cõi VN, nhưng chỉ dưới triều đại do đảng cộng sản cầm quyền, VN đã mất đất, mất đảo, mất biển vào tay Trung Cộng và sẽ còn tiếp tục mất nữa…
Bây giờ họ lại tiếp tục đặt quyền lợi của đảng lên trên hết, tiếp tục bám víu quyền lực, cố giữ cái chế độ độc tài toàn trị lạc hậu phản động, phản cách mạng này bằng mọi giá, bất chấp con đường đã và đang đi là sai lầm, bất chấp tình trạng tụt hậu thê thảm của đất nước, sự khốn cùng của nhân dân và nguy cơ bị lệ thuộc vĩnh viễn, nguy cơ mất nước vào tay Trung Cộng.
Trong suốt 70 năm qua, lịch sử rất nhiều lần đã cho đảng cộng sản được quyền lựa chọn và đảng cộng sản đã luôn luôn lựa chọn sai lầm, xuất phát từ sự tham quyền cố vị, ích kỷ, đớn hèn. Chưa và sẽ không bao giờ đảng và nhà nước cộng sản thực sự có bất cứ một hành vi nào là yêu nước. Không những thế, đảng cộng sản còn hèn hạ nhịn nhục, nhân nhượng, kể cả bán nước cho ngoại bang, cụ thể là cho Trung Cộng, để được tiếp tục yên thân cai trị đất nước. Đảng cộng sản đã từng dựa vào ngoại bang, Liên Xô và Trung Cộng để giành được chiến thắng, bây giờ họ vẫn tiếp tục lệ thuộc vào ngoại bang, để cho Trung Cộng thò tay thao túng và can thiệp vào mọi chuyện nội bộ của VN.
Đó là nói chung đảng và nhà nước cộng sản. Còn từng cá nhân đảng viên đảng cộng sản họ có yêu nước không? Có thể có những cá nhân ban đầu đi theo đảng xuất phát từ lòng yêu nước, sau đó đau đớn khi thấy niềm tin vảo đảng cộng sản của mình bị đặt sai chỗ, rằng đảng cộng sản đã lừa dối hàng chục triệu người, đẩy nhân dân vào cuộc chiến tàn khốc với niềm mơ ước sẽ xây dựng lại một chế độ tốt đẹp hơn, công bằng, tiến bộ hơn gấp nhiều lần chế độ cũ. Hóa ra chỉ là cái bánh vẽ, chế độ mà đảng cộng sản đang điều hành còn tồi tệ hơn mọi chế độ phong kiến, thuộc địa, hay chế độ VNCH cũ gấp hàng trăm, hàng ngàn lần.
Tất cả những gì đảng cộng sản từng nói, từng đả phá, từng vì nó mà chiến đấu, bây giờ đảng hoàn toàn làm ngược lại, lộ rõ một tập đoàn tham nhũng, mafia, bán nước, “hèn với giặc ác với dân”. Những con người nhận ra sự thật ấy đã cay đắng mà từ bỏ đảng, trở về với nhân dân, thậm chí là những người mạnh mẽ lên tiếng tố cáo chế độ, như ông Hoàng Minh Chính, tướng Trần Độ, đại tá Bùi Tín, nhà văn Vũ Thư Hiên, nhà văn Dương Thu Hương, nhạc sĩ Tô Hải, nhà thơ Bùi Minh Quốc, hai anh em ông Huỳnh Nhật Tấn (Phó Giám đốc Trường Đảng tỉnh Lâm Đồng kiêm Tỉnh ủy viên dự khuyết), Huỳnh Nhật Hải (Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Thành phố Đà Lạt kiêm Thành ủy viên), luật gia Lê Hiếu Đằng, trung tá Trần Anh Kim v.v…
Nhưng đó chỉ là số ít. Số đông vẫn bám lấy đảng vì quyền lợi. Và những người này họ có yêu nước không? Câu trả lời là không. Vì nếu yêu nước, họ hẳn đã nhận ra đảng cộng sản là nguyên nhân gây ra sự lạc hậu đói nghèo, thua kém của VN so với các nước xung quanh và thế giới, chế độ này là một chế độ độc tài lạc hậu, và cần phải thay đổi thể chế chính trị, chuyển sang mô hình tự do dân chủ đa đảng pháp trị thì mới mong đưa đất nước thoát khỏi sự khó khăn, bế tắc và nguy cơ bị mất nước như hiện tại. Nhưng không, dù có nhận ra hay không, họ vẫn tiếp tục bám lấy đảng, bám lấy chế độ để thăng quan tiến chức, làm giàu, vơ vét những gì có thể vơ vét được.
Một mặt, họ tiếp tục lên tiếng bênh vực chế độ, ca ngợi đảng và nhà nước cộng sản, thậm chí cực đoan hơn, chửi bới các nước Hoa Kỳ và phương Tây, căm ghét tất cả những gì dính dáng đến chế độ VNCH cũ hoặc mọi hoạt động đòi hỏi tự do, dân chủ, nhân quyền, mọi nhân tố tiến bộ trong xã hội; nhưng mặt khác, khi bệnh nặng thì họ lại chạy sang các nước “tư bản giãy chết” để chữa trị chứ không chữa trị trong nước hay sang nước Trung Quốc “anh em”, họ lại cho con cháu đi học ở Hoa Kỳ và các nước phương Tây, lén lút tẩu tán tài sản sang các nước này, chuẩn bị tất cả để bất cứ khi nào có “biến” thì họ đã có sẵn cơ ngơi, nhà cửa…ở bên ấy và thong dong hạ cánh an toàn hưởng nhàn đến mấy đời sau.
Đất nước đói nghèo tụt hậu-mặc kệ, kinh tế khủng hoảng, nợ công nợ xấu ngập đầu, môi trường sống bị ô nhiễm nặng nề, giáo dục nát bét, đạo đức xã hội xuống cấp, người dân không hề được hưởng những quyền tự do dân chủ và những giá trị nhân quyền phổ quát trên toàn thế giới đã đành mà còn phải sống trong cảnh bất an, bất ổn từ kinh tế cho tới tinh thần…-mặc kệ, VN có nguy cơ bị Trung Cộng thôn tính vĩnh viễn-mặc kệ. Họ còn mong cho chế độ này tồn tại lâu dài để tuyệt đại đa số nhân dân đói nghèo trong lúc họ và những kẻ như họ ung dung hưởng mọi bổng lộc, ăn trên ngồi trước. Yêu nước? Không. Yêu đảng thì may ra. Vì đảng cộng sản đã cho họ mọi thứ, nhiều người trong số họ “từ không thành có tất cả” là nhờ đảng cộng sản.
Còn với hơn 90 triệu người dân trong và ngoài nước, chúng ta có yêu nước không?
Với người dân trong nước, sau bao nhiêu năm sống dưới chế độ cộng sản đã khiến cái nhìn, quan điểm, mục đích, lý tưởng sống của con người ít nhiều bị méo mó, thực dụng đi. Phải sống trong một chế độ, thể chế không lo được cho người dân bất cứ cái gì, không hề có an sinh phúc lợi xã hội, mọi thứ người dân phải tự lo, nhưng lại phải è cổ đóng đủ thứ thuế cho nhà nước, bị nhà nước bóp nặn đủ kiểu, luật pháp thì chỉ bảo vệ cho kẻ mạnh và cho chính nhà nước. Phải chứng kiến bao nhiêu cảnh bất công trái tai gai mắt, người tử tế, lương thiện thì bị thiệt thòi, kẻ cơ hội xấu xa thì luồn sâu leo cao; người có tài nhưng thân cô thế cô thì không được trọng dụng trong lúc những kẻ bất tài nhưng có tiền có quyền hoặc con ông cháu cha thì cứ thế mà được đặt sẵn những chỗ “thơm” nhất, ngon nhất trong xã hội…
Khi phải sống trong một chế độ, một xã hội như vậy, lâu dần con người trở nên ích kỷ hoặc vô cảm hoặc tệ hơn, cơ hội, thực dụng, vì phải nghĩ tới mình trước, lo cho bản thân mình, gia đình mình trước hết. Và thế là hình thành những lối suy nghĩ, cách sống phổ biến là tìm cách thoát khỏi đói nghèo bằng mọi giá. Nhà nhà lo mưu sinh lo làm giàu, không còn thời gian tâm trí đâu mà nghĩ đến chuyện chính trị, vận mệnh đất nước.
Nếu nhà nghèo, không có đường làm ăn ở trong nước thì tìm cách đi lao động xuất khẩu, cho con gái lấy chồng ngoại, nếu có tiền hơn thì mở cơ sở làm ăn ở nước khác, đi du học hoặc cho con đi du học rồi tìm cách ở lại…Nghĩa là chỉ trừ những người hoàn toàn không có đường để ra đi, còn lại rất nhiều người VN vẫn âm thầm tìm mọi cách chạy thoát khỏi con tàu VN!
Sau biến cố lịch sử 30.4.1975 chỉ một thời gian ngắn, hàng triệu người đã phải bỏ nước ra đi tỵ nạn cộng sản, tạo thành một làn sóng thuyền nhân đánh động lương tâm cả thế giới, để rồi trong suốt 40 năm qua dòng người tìm đường ra đi dù không còn ồ ạt như xưa nhưng vẫn chưa bao giờ dừng lại. Trong lúc những người đã ra đi, chẳng mấy ai nghĩ đến chuyện đem tài năng, tuổi trẻ về cống hiến, phục vụ đất nước. Đừng hỏi tại sao vì chúng ta đã thừa biết câu trả lời. Và có lẽ chỉ khi nào đất nước thực sự chuyển đổi sang mô hình tự do dân chủ, may ra lúc đó mới chấm dứt chuyện người Việt bỏ nước ra đi và may ra mới có chiều ngược lại, trở về xây dựng quê hương.
Còn người Việt sống ở nước ngoài? Nếu chỉ căn cứ vào hành vi đi làm ở nước người rồi gửi tiền về VN là yêu nước, thì người Việt hẳn là một cộng đồng yêu nước rất mạnh, bởi vì VN trong nhiều năm qua luôn là một trong những quốc gia có lượng kiều hối gửi về rất cao, chính số tiền này đã góp phần nuôi sống nhà nước độc tài cộng sản cho đến tận giờ này. Nếu căn cứ vào sự quan tâm của người Việt với tình hình thời sự chính trị xã hội trong nước, người Việt nhìn chung cũng là một cộng đồng rất quan tâm theo dõi tình hình VN, sống ở nước người ta nhưng tâm trí cứ đau đáu nghĩ về VN, gặp nhau là lại nói chuyện về VN…Đó là thế hệ trung niên hoặc lớn tuổi, còn bọn trẻ lớn lên hoặc sinh ra ở nước người thì khác, chúng không còn mấy quan tâm nữa.
Nhưng người Việt cũng là một cộng đồng rất lạ. Người Việt có thể xót xa nghĩ về quê hương, có thể chăm chỉ gửi tiền về nước giúp người thân, nhưng nếu phải đồng lòng làm một việc gì đó, hy sinh quyền lợi của mình cho sự thay đổi của đất nước thì chưa chắc. Ví dụ như nếu bảo tất cả mọi người chỉ cần ngưng gửi tiền về nhà một thời gian để nhà nước này, vốn đang bị khủng hoảng khó khăn về kinh tế, sẽ càng thêm bội phần khó khăn và buộc phải thay đổi chẳng hạn, thì có thể nói chắc rằng chẳng mấy người làm đâu. Người Việt có đến hàng chục hàng trăm đảng phái, tổ chức đang hoạt động chính trị ở ngoài nước, nhưng riêng việc ngồi lại với nhau, cùng nhau tạo thành sức mạnh chung để trợ giúp người trong nước, đẩy mạnh phong trào hoạt động dân sự, dân chủ, thúc đẩy quá trình chuyển đổi chính trị trong nước là chẳng bao giờ làm được. Chưa nói đến chuyện đánh phá lẫn nhau.
Có nghĩa là từ nhà nước cộng sản nói chung, đảng viên cộng sản nói riêng cho tới người dân đang sống trong hay ngoài nước, chúng ta vẫn chỉ nghĩ tới quyền lợi của mình, còn chúng ta vẫn không/chưa thực sự chấp nhận đánh đổi hy sinh, mất mát dù chỉ một chút những gì đang có, cho một tương lai chung tốt đẹp hơn của đất nước. Chúng ta vẫn chưa thực sự thấy nhục thấy đau vì hình ảnh VN trong mắt thế giới nhiều năm qua chỉ thường gắn với những gì tệ hại, lạc hậu… để mà quyết liệt thay đổi.
Như vậy so với những dân tộc biết vì cái chung, hoặc biết vượt qua những sai lầm, thất bại, mất mát…trong quá khứ, đồng lòng xây dựng đất nước thành những quốc gia hùng cường như người Mỹ, người Đức, người Nhật, người Do Thái…và rất nhiều dân tộc khác nữa, người Việt có yêu nước không?

Dồn dập đơn thư về lãnh đạo Việt Nam

Dồn dập đơn thư về lãnh đạo Việt Nam

xinhuanet

Vài tuần trước khi Đại hội Đảng 12 khai mạc tại Hà Nội, mạng xã hội xuất hiện nhiều đơn thư, status ‘liên quan đến lãnh đạo’.

Hôm 30/12, báo Tuổi Trẻ thông báo một lãnh đạo Văn phòng Chính phủ cho mô tả điều họ gọi là đơn thư xuất hiện trên mạng internet tố cáo Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc là đơn thư ‘mạo danh’.

Đơn thư theo vị lãnh đạo Văn phòng Chính phủ khẳng định là ‘mạo danh’ đã xuất hiện trên một số trang blog và mạng xã hội gần đây”, Tuổi Trẻ viết.

Theo lá đơn đề ngày 9/12, ông Phúc bị một người tự nhận là ‘cán bộ lão thành nghỉ hưu tại Tam Kỳ, Quảng Nam’ đề nghị thanh tra “khối tài sản khổng lồ của ông”.

“Người ký tên đơn thư tố cáo này là ‘Nguyễn Đức Hạnh, cán bộ Văn phòng Chính phủ’ với nội dung về việc sắp xếp cán bộ của tổ chức này.

Tuổi Trẻ đưa tin lãnh đạo Văn phòng Chính phủ đã giao Vụ Tổ chức cán bộ xác minh thông tin, cho thấy Văn phòng Chính phủ không có cán bộ như nêu trên.

Hôm 28/12, tại hội nghị trực tuyến của Chính phủ với 63 tỉnh thành, Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang nói: “Tình hình lộ, lọt bí mật nhà nước xảy ra rất nghiêm trọng”.

‘Suy đoán không có cơ sở’

Trả lời phỏng vấn của BBC hôm 29/12, Luật sư Trần Quốc Thuận, nguyên Phó Chủ nhiệm Thường trực Văn phòng Quốc hội Việt Nam, bình luận:

“Bây giờ trên trang mạng đưa nhiều thông tin của người này, người kia, những người lãnh đạo Đảng và nhà nước phát biểu thế này, phát biểu thế kia, theo văn bản này kia.

“Mà tôi nghĩ theo quy định của Việt Nam, những văn bản đó là văn bản tối mật, mà tự nhiên lại bị bung lên trên mạng…

“Đó là những tài liệu thuộc loại gọi là bí mật, mà bây giờ tự nhiên lại đưa ra công khai, thì đó là hoạt động không bình thường, và như vậy thì an ninh, an toàn trong các chủ trương, chính sách, các văn bản này nọ thì không biết thực giả như thế nào…

“Có một phát biểu của ông Bộ trưởng Bộ Công an như thế, thì chắc là ông phải có trách nhiệm điều tra, làm rõ hoặc là có biện pháp ngăn chặn hiệu quả…

“Tôi đã từng trả lời là phải khởi tố vụ án làm lộ bí mật của cơ quan nhà nước, thì lúc đó mới điều tra biết được ai là ai và tại sao và ai đứng đằng sau được, chứ bây giờ suy đoán thì không có cơ sở,” luật sư Thuận nói.

Giới quan sát đánh giá tranh giành quyền lực cho các vị trí lãnh đạo cao nhất thường được gọi là “tứ trụ” là nguyên nhân chính dẫn tới sự trì hoãn và kéo dài thêm các hội nghị trung ương so với các kỳ đại hội trước.

Trong giai đoạn diễn ra Hội nghị Trung ương 13, một bức thư được mô tả của một ủy viên Bộ Chính trị gửi Tổng bí thư Trọng xuất hiện trên mạng xã hội gây xôn xao và được chia sẻ nhiều.

Một trang tin tiếng Anh đã tóm tắt lại nội dung lá thư trong đó người được cho là Thủ tướng Dũng giãi bày một loạt những cáo buộc liên quan đến phát biểu của ông về Trung Quốc và cuộc sống gia đình ông.

Cách đây khoảng một năm trên mạng xuất hiện một trang tin có tên Chân dung Quyền lực cũng từng phát tán các cáo buộc liên quan tới một số chính khách cấp cao, tài sản của gia đình họ và con cái họ tại Việt Nam mặc dù không đăng tải bài nào về cá nhân Thủ tướng Dũng.

Trang này ngưng cập nhật từ cuối tháng Một năm nay và không bị chặn tại Việt Nam.

Báo trong nước xác nhận đơn thư tố cáo Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc (trái) là ‘mạo danh’.

Trung Quốc: Thiếu vắng niềm tin và sự tử tế

Trung Quốc: Thiếu vắng niềm tin và sự tử tế

Gary Feuerberg

Phạm Nguyên Trường dịch

He Huaihong (bên trái), Giáo sư triết học tại Đại học Bắc Kinh và Cheng Li, Cheng Li, giám đốc Trung tâm Trung Quốc mang tên L. Thornton John ở Brookings đang thảo luận về sự suy đồi và thức tỉnh về mặt đạo ở Trung Quốc, Brookings, ngày 6 tháng 11 (ảnh của Gary Feuerberg).

Trong cuốn sách do Brookings Press mới xuất bản gần đây, một vị giáo sư Trung Quốc, ông He Huaihong đề xuất một nền đạo đức xã hội mới cho cái xã hội mà nhiều nhà quan sát, cả bên trong lẫn bên ngoài Trung Quốc, cho là đang ở trong tình trạng khủng hoảng về mặt đạo đức.

Nhà sử học, đạo đức học, phê bình xã hội, và người bảo vệ không khoan nhượng Nho giáo, giáo sư He đưa ra khuôn khổ trí tuệ nhằm định hướng hành vi của người dân và khôi phục lại nền đạo đức xã hội để Trung Quốc có thể giành được vị trí của mình trong cộng đồng các quốc gia khác mà không phải xấu hổ. Giáo sư He nói tại Viện Brookings vào ngày 06 tháng 11, nhân dịp xuất bản cuốn sách mới của mình: “Đạo đức xã hội ở nước Trung Quốc đang thay đổi: Suy đồi đạo đức hay sự thức tỉnh về đạo đức?”

He Huaihong là giáo sư triết học tại Đại học Bắc Kinh. Cuốn sách gồm 19 bài tiểu luận, trừ hai bài, đều được viết trong khoảng thời gian từ năm 2002 đến năm 2013.

“Hiện nay, trong xã hội Trung Quốc, chúng tôi gặp vấn đề khá nghiêm trọng về mặt đạo đức. Những vấn đề chính là chúng tôi thiếu niềm tin và chúng tôi thiếu tử tế”, He nói như thế, đấy là qua lời người dịch tiếng Anh.

Đặc biệt là niềm tin của nhân dân đối với các nhà lãnh đạo chính trị. “Dù chính phủ có nói gì thì dân chúng cũng không tin. Ngay cả khi họ nói sự thật thì người dân vẫn không tin”. Các đảng viên và quan chức nhà nước cũng nghi ngờ, ông nói.

“Hiện nay, ở Trung Quốc, chủ đề về suy đồi đạo đức và thiếu niềm tin không còn là những chủ đề nhạy cảm và chắc chắn không phải điều cấm kỵ về mặt chính trị nữa”, Cheng Li, giám đốc Trung tâm Trung Quốc mang tên L. Thornton John ở Brookings, người giới thiệu giáo sư He nói như thế.

Trong phần giới thiệu cuốn sách, Li đưa ra một danh sách dài những hiện tượng chứng tỏ đang có những vấn đề đạo đức nghiêm trọng: “Gian lận thương mại, gian lận thuế, lừa dối tài chính, những dự án kỹ thuật kém chất lượng và nguy hiểm, sản phẩm giả, sữa nhiễm độc, bánh mì độc, thuốc độc, và sự suy giảm đạo đức nghề nghiệp trong giáo viên, bác sĩ, luật sư, các nhà sư Phật giáo, và đặc biệt là các quan chức chính phủ”.

Giáo sư He viết rằng, tham nhũng là không chỉ giới hạn trong những quan chức cao cấp nhất. Ngay cả “trưởng thôn, thị trưởng, các nhà quản lý ngân hàng địa phương có thể có hàng chục hoặc thậm chí hàng trăm triệu nhân dân tệ tiền hối lộ. Một trưởng văn phòng huyện có thể sở hữu hàng chục ngôi nhà”.

Giáo sư He đặc biệt lo lắng về việc xã hội Trung Quốc đang mất dần sự tử tế. Trong buổi nói chuyện, ông có nói rằng nếu người ta nhìn thấy một người già ngã, rất nhiều người sẽ không dám đỡ dậy vì sợ bị tống tiền. Họ có thể sẽ phải trả tiền viện phí. Trong cuốn sách, ông đã dẫn ra một trường hợp có thể làm người ta choáng váng: một bé gái 2 tuổi bị hai ô tô cán lên người, hàng chục người đi qua mà không ai giúp đỡ.

“Nhiều vụ tai nạn với xe chở trẻ con lớp mẫu giáo; khi xe tải đâm vào, người qua đường không những không cứu nạn nhân mà nhảy vào hôi của”, ông viết trong bài tiểu luận thứ tám. “Trong xã hội Trung Quốc, đang xảy ra khủng hoảng đạo đức”.

“Sự thờ ơ đối với tha nhân… đang lan tràn, không quan tâm tới đời sống của con người, không quan tâm tới tục lệ xã hội và luật pháp”, He viết.

Cách mạng Văn hóa

Giáo sư He chỉ ra nhiều nguồn gốc có tính lịch sử làm cho đạo đức suy đồi, nhưng chủ yếu là Cách mạng Văn hóa (1966-1976), khi đất nước rơi vào tình trạng suy đồi đạo đức tồi tệ nhất. Chiến dịch “tiêu diệt bốn cái cũ” – tư tưởng cũ, văn hóa cũ, phong tục cũ, và thói quen cũ – trên thực tế là tiêu diệt đạo đức truyền thống.

“Nhiều cuốn sách lịch sử, nhiều hiện vật và địa điểm lịch sử bị phá hủy. Mộ của một số nhân vật lịch sử được nhân dân kính trọng bị đập phá và thậm chí đôi khi hài cốt của họ còn bị đào lên. … Trẻ con được lệnh phải báo cáo về gia đình của mình và đôi khi thậm chí còn tham gia đánh đập người thân trong gia đình. … Chính trị hoàn toàn thay thế đạo đức. Tiêu chí duy nhất để đánh giá về đạo đức là lòng trung thành với lãnh tụ Mao Trạch Đông”.

Thành phần chủ chốt của Cách mạng Văn hóa là Hồng vệ binh, đỉnh điểm là trong hai năm đầu tiên 1966-1968, lúc đó “đất nước thực ra là đã lâm vào tình trạng hỗn loạn”. Hoạt động của chúng chỉ giảm từ tháng bảy năm 1968, đấy là lúc Mao đưa hầu hết Hồng vệ binh về các vùng nông thôn. He trở thành Hồng vệ binh khi vừa tròn 12 tuổi và đã chứng kiến hoạt động và bạo lực quá mức của tổ chức này. Ông nói rằng đã tìm cách lảng tránh và đóng vai quan sát viên là chính.

Đặc điểm quan trọng nhất của Hồng vệ binh là “xu hướng bạo lực”. Một trong những khẩu hiệu yêu thích của nó là: “Khủng bố đỏ muôn năm!” Trong cuốn sách, He đã dẫn ra một trường hợp khi trở thành người sợ hãi “bạo lực bừa bãi”.

“Đạo đức đứng sau chính trị”, ông nói. Từ sau sự sụp đổ của triều đại nhà Thanh và kháng chiến chống Nhật, các giá trị được mượn từ Liên Xô và Stalin, “Trong thế kỷ XX, Trung Quốc đã hoàn toàn từ bỏ các giá trị truyền thống và cổ xưa của mình”.

Trong vụ Hồng vệ binh, ông cho rằng chỉ một mình Mao có lỗi và đã bỏ qua vai trò của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhưng những lời chỉ trích Đảng Cộng sản, tuy không được nói rõ, lại nằm ngay bên dưới bề mặt. Ông nhắc đến 100 năm hỗn loạn trước khi áp dụng nền kinh tế thị trường trong 30 năm vừa qua, mà theo ông đã để lại một di sản đáng ngờ. Những lời kêu gọi về bình đẳng của thế kỷ trước phải được đưa vào nền đạo đức sẽ được tái thiết, ông nói, nhưng “lý thuyết cực đoan về đấu tranh giai cấp và triết lý về xung đột không phải là di sản mà chúng ta phải chấp nhận (trang 77)”, He viết như thế, mà đấy chính học thuyết cơ bản của Cộng sản.

Tuy không gọi tên Đảng cộng sản Trung Quốc, He cho rằng hệ tư tưởng cũ sinh ra từ lý thuyết về cách mạng, chứ không phải là lý thuyết về quản trị. “Nó bắt đầu như là món hàng nhập khẩu từ nước ngoài, và ban đầu đã chú tâm vào cuộc tấn công vào truyền thống văn hóa của Trung Quốc”. He nói rằng ngay cả những lý tưởng chính trị gần đây, ví dụ như “xã hội hài hòa” cũng “luôn luôn là ý thức hệ và mâu thuẫn với thực tế của đời sống của người Trung Quốc”.

He nói rằng người Trung Quốc vừa mới thoát ra khỏi “thời kỳ quá độ đầy rối loạn” và mặc dù hiện nay đương là thời bình, “chúng ta phải thường xuyên cảnh giác nhằm chống lại sự trở về tình trạng hỗn loạn”. Vì vậy, cần phải xây dựng ngay một kiểu xã hội mới và “bước đầu tiên trong quá trình đó là tạo dựng nền tảng luân lý vững chắc”, ông viết.

Phê Khổng

Giáo sư He viết rằng “linh hồn” văn hóa truyền thống đã bị đánh bật gốc rễ, đấy là trong giai đoạn sau của Cách mạng văn hóa, khi những người cầm bút, từng tin tưởng Khổng giáo bắt đầu tham gia phê phán Khổng Tử.

“Trong nhân dân, Khổng Tử, Khổng giáo, những nghi thức của Nho giáo và đạo đức Nho giáo trở thành những từ ngữ rủa xả. Hiện nay [2013] vẫn còn cảm nhận được ảnh hưởng của việc phê Khổng và không được đánh giá thấp những tác hại mà nó gây ra đối với đạo đức xã hội”.

Không chỉ sự cuồng tín và bạo lực của Hồng vệ binh, sự thiếu giáo dục của cả một thế hệ trong Cách mạng Văn hóa, mà đạo đức truyền thống cũng bị ảnh hưởng trong suốt 30 năm, trước khi nền kinh tế Trung Quốc bùng nổ. “Đạo đức lại bị kinh tế và kinh tế thị trường chôn vùi một lần nữa”, giáo sư He nói. “Đó là lý do chính làm cho chúng tôi gặp phải những vấn đề đạo đức như hiện nay”, ông nói ở Brookings.

Khuôn khổ mới của đạo đức xã hội

Giáo sư He cố gắng kết hợp nền đạo đức cũ, từng được sử dụng trong suốt 3.000 năm, với thời hiện đại. Ông dẫn người đọc bài tiểu luận đầu tiên, “Những nguyên tắc mới: Hướng tới khuôn khổ mới của đạo đức xã hội ở Trung Quốc”, thông qua một khóa học ngắn về Nho giáo.

Khởi đầu là Mạnh Tử, học trò nổi tiếng nhất và có ảnh hưởng nhất của Khổng Tử. Mạnh Tử tin vào lòng tốt bẩm sinh của con người. “Mọi người đều có lòng từ bi”, He trích dẫn lời của Mạnh Tử.

Giáo sư He coi những “tính tốt không đổi” từ thời cổ đại và chỉ ra rằng những đức tính đó có thể được áp dụng cho thời kỳ hiện đại: nhân, nghĩa, lễ, trí, và tín. Năm đức đó vẫn còn giá trị, chỉ cần giải thích theo lối mới mà thôi, ông viết.

Ví dụ, lòng nhân có thể được coi là nguồn gốc của toàn bộ đạo đức. Khi lòng từ bi bị những yếu tố bên ngoài làm suy giảm thì nó không còn là động cơ cho hành vi nữa, như được thể hiện trong ở sự vô tâm trong những thí dụ được nói tới bên trên. Lễ là tỏ ra lịch sự. “Tự kiềm chế là một điều kiện tiên quyết cho lễ”, và cũng có nghĩa là hạn chế những ham muốn của chúng ta, đặc biệt là ham muốn vật chất của chúng ta, He nói. Trí là về công nhận những điều đúng đắn và có “ý trí và trí tuệ là để đánh giá về mặt đạo đức … trí còn để tìm ra sự cân bằng và tìm trung đạo”.

Một trong những tư tưởng của Nho giáo là “chính danh”. Giáo sư He nói rằng ý thức hệ chính trị không phù hợp với thực tế xã hội. “Ở đâu cũng đầy những lời sáo rỗng”, ông viết. Niềm tin trong xã hội, đặc biệt là giữa chính quyền và nhân dân, đã không còn, tạo ra khủng hoảng lòng tin. Giáo sư He nói rằng người Trung Quốc “đang thường xuyên gặp phải sự giả dối; chúng ta đang quen với nó”.

Ví dụ, chính quyền gọi các “quan chức” là “đầy tớ của nhân dân”, tạo ra sự bất tương thích giữa danh và thực. Các quan chức sử dụng quyền hạn một cách vô trách nhiệm và phi đạo đức, dẫn tới “sự tức giận và lòng hận thù chưa từng có đối với các quan chức đó”. Cách chữa trị: “Hãy để các quan chức là quan chức” và sửa lại tên gọi, một cách chính thức.

Nền đạo đức mới khác đạo đức cũ ở điểm quan trọng. Quan hệ cũ giữa kẻ cai trị và người bị trị có nghĩa là đưa ra những hướng dẫn cho người bị trị và người bị trị có trách nhiệm trước kẻ cai trị. Hiện nay, ngược lại, người cai trị phải làm tròn bổn phận của mình trước những người có địa vị thấp và chịu trách nhiệm trước các “công dân”. Các chính khách “phải coi nhân dân là ông chủ cao nhất của mình”, He viết. He coi đây là sự thay đổi lớn nhất giữa nền đạo đức cũ và mới. Ông nghĩ rằng với tình hình hiện nay ở Trung Quốc, trở thành chế độ dân chủ và pháp quyền là con đường khó khăn và lâu dài, nhưng đó là hướng đi của lịch sử Trung Quốc.

G.F.

Nguồn bản dịch: http://phamnguyentruong.blogspot.com/2015/12/trung-quoc-thieu-vang-niem-tin-va-su-tu.html

Nguồn bản gốc: http://www.theepochtimes.com/n3/1899732-confucian-scholar-confronts-the-lack-of-trust-and-kindness-in-china/