Tử huyệt

Tử huyệt

Blog RFA

CanhCo

10-1-2016

Chưa bao giờ người dân cả nước hướng chú ý vào việc tranh quyền đoạt ghế của Bộ chính trị như lần này. Càng tới gần ngày bầu bán, không khí càng sôi động hơn. Cạnh đó những động thái có liên quan tới ván cờ máu ngày càng lộ dần làm mọi người như được chứng kiến một cuộn phim gây cấn đang tới hồi kết thúc. Tiếc một điều, cuộn phim ấy không hề cho xem miễn phí vì những nhân vật chủ chốt lãnh tiền cát sê quá cao, cao đến nỗi có nhiều người không tiền đành phải trả bằng máu để được vào xem vở kịch đang diễn trên sân khấu Ba Đình.

Lối vào nhà hát này có hai cửa chính, một bên Đảng soát vé và một bên do Chính phủ trách nhiệm xé cùi vé cho người xem là nhân dân. Đảng do ông Trọng và Chính phủ do ông Dũng. Cả hai nhân vật chính trong vở kịch lịch sử đang trong giai đoạn cao trào và càng gần kết thì giá vé chợ đen vào cửa lại càng tăng vọt.

Vé vào cửa bên ông Dũng thu vào là tài nguyên trên rừng dưới biển. Là từng giọt mồ hôi của người lao động giá rẻ vắt ra cho các công ty ngoại quốc. Là hột lúa xuất khẩu khắp đồng bằng sông Cửu Long, là khoáng sản tại miền Bắc, là những đầm nuôi tôm cá ở miền Nam. Phe cánh Chính phủ tận thu để làm giàu cho cá nhân. Tiền vé vào cửa là đấy. Và tử huyệt của phe ông Dũng cũng là đấy: làm giàu bất chính trên xương máu nhân dân.

Bên cánh cửa của ông Trọng là những cái vé thu phí với giá khác. Những bộ óc của nhiều thế hệ bị vắt kiệt do các lý thuyết cộng sản, viễn cảnh không bao giờ tới của Xã Hội chủ nghĩa, về điều 4 hiến pháp, về hậu hoạn của Bắc phương, về tương lai u ám của đất nước do lệ thuộc quá sâu vào kẻ thù truyền kiếp. Trí thức trả giá vào cửa bằng sự ù lì, óc sáng tạo tê liệt, thời gian dùng vào nghiên cứu lý luận hảo làm kiệt quệ nhân tài dành cho đất nước. Cửa ông Trọng còn nhận vé từ các tập đoàn có hơi hướm Trung Quốc như Tân Hiệp Phát hay các công trình đầu tư do các tập đoàn Trung Quốc lại quả, do đó người dân có thể trả bằng dollar hay Nhân dân tệ cũng đều tốt cả.

Vì lậm vào thứ chủ nghĩa do Trung Quốc dẫn đầu, mượn Trung Quốc làm bức tường để dựa vào khi Liên xô sụp đổ, tử huyệt của Đảng là Hội nghị Thành Đô, một danh xưng đã trở thành biểu tượng bán nước và cũng chính từ bốn chữ này mà Đảng cộng sản không thể làm gì được ông Dũng. Đây là con dao găm giúp ông Dũng bao lần thoát khỏi sóng gió. Là tử huyệt của ông Trọng và hàng trăm ông khác trong Bộ chính trị.

Cửa ông Dũng ưu tiên dollar hơn vì dù sao thì Phò mã cũng là người Mỹ…tóc đen. Gia thế của anh ta không hợp với đảng nhưng lại hợp với ván bài chính trị của chính phủ. Chính phủ cần tiền, còn Đảng thì cần chủ nghĩa.  Ông Dũng học lớp ba nhưng xem ra có viễn kiến hơn ông Trọng mặc dù là Tiến sĩ xây dựng đảng, thứ bằng cấp chỉ được một nơi duy nhất trên thế giới nhận vào làm việc: Đảng cộng sản Việt Nam. Có lẽ chữ Đảng sau đuôi ám ông ta cả đời và dân tộc bị ông ta..ám ngược trở lại.

Hai cánh cửa để vào xem vở kịch Ba Đình đều tận thu và không ngoại lệ cho bất cứ ai nhưng nhân dân chúng ta cứ tưởng vào cửa tự do mới đáng buồn.

Không ai trong chúng ta thoát trả tiền vé dù có vào xem vở kịch thô lậu này hay về nhà ngủ để mai đi cày trả nợ. Thầy giáo hay nông dân, kỹ sư hay thợ mỏ đều còng lưng nộp đủ thứ thuế vô hình đánh trên cả dân tộc. Nhà báo bị cướp đi tiếng nói, nhà nông bị cướp đất, nhà văn bị cướp quyền xuất bản, chúng ta bị cướp tất.

Ba triệu đảng viên hí hửng tưởng rằng gia đình mình ngoại lệ, miễn nhiễm. Họ vô tư và ngây thơ khi sống trong chuồng heo vĩ đại của Đảng lại tưởng mình thơm tho vì đã phun các loại nước hoa đắt tiền mua của Mỹ!

Ngay cả hai nhân vật chính cũng không yên ổn gì khi trình diễn các vũ điệu lõa lồ trên chiếc sân khấu có 90 triệu khán giả.

Ông Trọng mặc chiếc áo Xã hội chủ nghĩa trong suốt. Trong suốt vì không một chút ý nghĩa hiện thực nào. Trong suốt nên cơ thể ông hiện ra trước bàn dân thiên hạ như câu chuyện hoàng đế ở truồng bên trời Tây.

Ông Dũng cũng có gì hơn, bỏ hết những của cải vật chất ra trên con người ông còn lại thứ gì? Chỉ là những tiếng hót véo von trong mỗi bài diễn văn được viết trước hay một vài tuyên bố có tính giật tít của báo chí nhằm ve vuốt những ai chống lại phe ông Trọng.

Nếu giỏi và can đảm, dám làm một cuộc cách mạng cho Việt Nam vào lúc này thì ông Dũng trong cương vị Thủ tướng, nắm vững và rõ từng chi tiết cũng như bằng chứng về Hội nghị Thành Đô, hãy công khai dùng nó tiêu diệt những kẻ đang cạnh tranh với ông.

Dù hơi bất chính một chút vì trở mặt với đồng chí, nhưng nhân dân sẽ tha thứ và tiếp tục xem ông là một người hùng, hay gian hùng cũng được, miễn là vở kịch cũ và kéo dài này nên có một kết thúc có hậu.

Cuộc chiến tuy chưa kết thúc nhưng hầu như ai cũng biết ông Dũng không bao giờ dám làm và ông Trọng cũng biết như thế nên cả hai đang chờ cái ngày lịch sử lập lại trong mỗi kỳ đại hội Đảng: thỏa hiệp để cùng tồn tại.

Chỉ có chúng ta, đám khán giả hiếu kỳ và không hề thiếu mộng mơ, khi vở diễn hạ màn chúng ta lại tiếp tục trong vai trò … khán giả.

Tuyển dụng kiểu Google: Không thông báo, không phỏng vấn, không xem bằng cấp…

Tuyển dụng kiểu Google: Không thông báo, không phỏng vấn, không xem bằng cấp…

Một hôm tôi cùng cậu con trai nói chuyện phiếm với nhau. Con trai tôi đột nhiên kể rằng bạn của cậu đã được nhận vào làm việc cho Google. Qua lời kể, con trai tôi có vẻ rất ngưỡng mộ điều đó.

Cha con tôi đều cho rằng Microsoft và Google đều là những công ty lớn, có sức ảnh hưởng và họ đang âm thầm cải biến thế giới xung quanh mình. Nên cả hai cha con tôi đều ngưỡng mộ họ.

Câu chuyện về bạn của con tôi được tuyển vào làm việc cho Google như sau:

Tình cờ một hôm, cậu này thấy được trên tấm bảng thông báo của trường có một tờ quảng cáo nhỏ. Trên tờ quảng cáo này không ghi gì ngoài tên miền địa chỉ website và một ký hiệu toán học rất lạ. Cậu ta cảm thấy thú vị liền ghi nhớ địa chỉ website này.

Khi về nhà, bạn của con trai tôi liền truy cập vào địa chỉ website đó và chỉ thấy hiện ra một đề toán rất khó hiểu. Cậu ta cảm thấy thú vị liền lập tức giải bài toán này. Nhưng quả thực đề bài không phải dễ, vật lộn hơn nửa tiếng đồng hồ cậu ta mới giải xong bài toán.

Sau khi giải xong, trang web liền hiện ra một tờ khai yêu cầu cậu ta điền thông tin và cửa vào làm việc cho Google cứ thế mở ra.

Văn phòng làm việc của Google

Văn phòng làm việc của Google

Hãy cùng phân tích một chút về kiểu tuyển dụng này nhé:

Trên một bảng thông báo đầy màu sắc mà chỉ chú ý đến một tờ quảng cáo nhỏ không có gì nổi bật: Đây rõ là một người cẩn thận, lưu ý đến mọi vật xung quanh mình.

Xem qua địa chỉ website liền ghi nhớ trong đầu: Người này xem qua liền nhớ, trí nhớ không phải tệ.

Về nhà liền truy cập vào website đó: Người này rất hiếu kỳ, muốn khám phá và tìm hiểu.

Nhìn thấy một đề toán “không có đầu không có đuôi” mà vẫn quyết định muốn giải: Điều này nói rõ đây là người thích động não.

Giải được bài toán: Chỉ số thông minh của người này không phải thấp.

Cuối cùng: Không xem lý lịch, không xem bằng cấp, không thông báo tuyển dụng, không phỏng vấn tuyển chọn, không tiêu tốn một đồng, Google đã tìm được nhân viên lý tưởng cho mình.

Đây chính là cách Google tìm kiếm nhân tài!

Suitcase

Suitcase

Bạn mang được gì trong chiếc vali bạn xách theo lúc lìa đời

Vương Đằng dịch 

The Suitcase Cái Vali
A man died, when he realized it, he saw God coming closer with a suitcase in his hand. Khi một người đàn ông nhận thức rằng mình đã chết, ông thấy Thượng Đế/Chúa đến gần hơn với một cái va-li trong tay.
God said: Alright son, it’s time to go. Thượng Đế bảo: Nầy con, đã đến lúc đi rồi.
Surprised the man responded: Now? So soon? I had a lot of plans… Ngạc nhiên, người đàn ông trả lời: Bây giờ sao? Mau quá vậy? Con có nhiều dự định…
– I’m sorry but it’s time to go. _ Rất tiếc nhưng đã đến giờ đi rồi.
– What do you have in that suitcase? the man asked. Người đàn ông hỏi: Thượng Đế có gì trong cái va-li đó vậy?
God answered: Your belongings. Thương Đế trả lời: Những gì thuộc về nhà ngươi.
– My belongings? You mean my things, my clothes, my money? _ Những gì thuộc về con? Ý Thượng Đế muốn ám chỉ những đồ đạc, áo quần, tiền bạc của con?
God answered: Those things were not yours; they belonged to the earth. Thượng Đế trả lời: Những cái đó đã không phải của nhà người; chúng thuộc vào trần gian.
– Is it my memories? The man asked. Người đàn ông hỏi: Có phải nó là ký ức của con?
God answered: Those never belonged to you; they belonged to Time. Thượng Đế trả lời: Những cái đó đã không bao giờ thuộc về nhà người; chúng thuộc vào Thời Gian.
– Is it my talents? _ Có phải là những tài ba của con?
God answered: Those were never yours; they belonged to the circumstances. Thượng Đế trả lời: Những thứ đó đã không bao giờ là của nhà ngươi; chúng tuỳ thuộc vào những tình huống.
– Is it my friends and family? _ Có phải là các bạn và gia đình?
God answered: I’m sorry they were never yours; they belonged to the path. Thượng Đế trả lời: Rất tiếc chúng đã không bao giờ là của nhà ngươi; họ thuộc vào con đường (mà nhà người đã đi qua).
– Is it my wife and son? – Có phải là vợ và con trai của con?
God answered: They were never yours; they belonged to your heart. Thượng Đế trả lời: Họ đã không bao giờ là của nhà ngươi; họ thuộc vào trái tim của nhà ngươi.
– Is it my body? _ Có phải là thân xác con?
God answered: that was never yours; it belonged to the dust. Thượng Đế trả lời: Cái đó đã không bao giờ là của nhà ngươi; nó thuộc vào cát bụi.
-Is it my soul? _ Có phải là linh hồn của con?
God answered: No, that is mine. Thượng Đế trả lời: Không, cái đó là của ta.
Full of fear, the man took the suitcase from God and opened it just to find out the suitcase was empty. Đầy sợ hãi, người đàn ông lấy cái va-li từ Thượng Đế/Chúa và mở nó ra mà chỉ thấy nó trống trơn.
With a tear coming down his cheek, the man said: I never had anything?? Với một giọt nước mắt lăn xuống gò má, người đàn ông thốt lên: Con đã chẳng có gì cả sao???
God answered: That is correct, every moment you lived were only yours. Thượng Đế trả lời: Đúng đó, chỉ mỗi thời gian ngắn ngủi nhà người đã sống là của nhà ngươi.
Life is just a moment–A moment that belongs to you. For this reason enjoy this time while you have it. Cuộc đời chỉ là thời gian ngắn ngủi–Một thời gian ngắn ngủi thuộc về bạn.
Don’t let anything that you think you own stop you from doing so. Đừng đề bất cứ cái gì bạn nghĩ rằng bạn làm chủ ngăn bạn làm như thế.
Live Now! Hãy sống bây giờ!
Live your life! Sống đời của bạn!
Don’t forget to be happy; that is the only thing that matters.! Đừng quên sống hạnh phúc; đó mới là điều đáng quan tâm.
Material things and everything else that you fought for stay here.! Những gì vật chất và mọi thự khác mà bạn tranh đấu ở lại đây.
YOU CAN’T TAKE ANYTHING WITH YOU…! BẠN KHÔNG THỂ MANG BẤT CỨ GÌ THEO BẠN …
Share this reflection with anyone you love or appreciate. Enjoy every second you live. Hãy san sẻ quan điểm nầy với bất cứ người nào mà bạn thương yêu hay quý báu. Hãy hưởng thụ mỗi giây bạn sống.

KINH NĂM THÁNH LÒNG THƯƠNG XÓT

KINH NĂM THÁNH LÒNG THƯƠNG XÓT

WHĐ (07.05.2015) – Đức Thánh Cha Phanxicô đã soạn một bản kinh để giúp các tín hữu cầu nguyện trong Năm Thánh Lòng Thương Xót (từ 08-12-2015 đến 20-11-2016).  Trong lời kinh, Đức Thánh Cha nài xin Chúa làm cho Năm Thánh Lòng Thương Xót trở nên một năm hồng ân để Hội Thánh “thêm lòng nhiệt thành mang Tin Mừng đến với người nghèo, loan báo tự do cho những người bị giam cầm và áp bức, và cho người mù lại được nhìn thấy”.

Sau đây là toàn văn kinh nguyện này:  (bản dịch tiếng Việt đã được các Đức giám mục Việt Nam

chấp thuận trong Hội nghị Thường niên kỳ II năm 2015 tại Toà Giám mục giáo phận Xuân Lộc)

Lạy Chúa Giêsu Kitô,

Chúa dạy chúng con phải có lòng thương xót như Cha trên trời,

và ai thấy Chúa là thấy Chúa Cha.

Year-of-Mercy-LOGO

 

Xin tỏ cho chúng con thấy dung nhan của Chúa

và chúng con sẽ được cứu độ.

Ánh mắt đầy yêu thương của Chúa đã giải thoát ông Zakêu

và thánh Matthêu khỏi ách nô lệ bạc tiền;

làm cho người đàn bà ngoại tình và thánh Mađalêna

không còn tìm hạnh phúc nơi loài thụ tạo;

cho thánh Phêrô khóc lóc ăn năn sau khi chối Chúa,

và hứa ban thiên đàng cho kẻ trộm có lòng hối cải.

 Xin cho chúng con được nghe

những lời Chúa đã nói với người phụ nữ Samaria,

như thể Chúa đang nói với mỗi người chúng con:

“Nếu con nhận ra hồng ân của Thiên Chúa!”

Chúa chính là gương mặt hữu hình của Chúa Cha vô hình,

Đấng biểu lộ quyền năng của Ngài

trước hết bằng sự tha thứ và lòng thương xót:

 Xin làm cho Hội Thánh

phản chiếu gương mặt hữu hình của Chúa trên trái đất này.

Chúa là Đấng phục sinh vinh hiển.

Chúa đã muốn các thừa tác viên của Chúa

cũng mặc lấy sự yếu đuối

để có thể cảm thông với những người mê muội lầm lạc,

xin làm cho tất cả những ai tiếp cận với các ngài

đều cảm thấy họ đang được Thiên Chúa

quan tâm, yêu mến và thứ tha.

 Xin sai Thần Khí Chúa đến

xức dầu thánh hiến mỗi người chúng con,

để Năm Thánh Lòng Thương Xót này

trở thành năm hồng ân của Chúa cho chúng con;

và để Hội Thánh Chúa, với lòng hăng say mới,

có thể mang Tin Mừng đến cho người nghèo,

công bố sự tự do cho các tù nhân và những người bị áp bức,

trả lại ánh sáng cho kẻ mù lòa.

 Lạy Chúa Giêsu,

nhờ lời chuyển cầu của Đức Maria, Mẹ của lòng thương xót,

xin ban cho chúng con những ơn chúng con đang cầu xin.

Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha

và Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.

 Đức giáo hoàng Phanxicô

Người Vô Thần Có Vào Thiên Đàng?

Người Vô Thần Có Vào Thiên Đàng?

 TRẦM THIÊN THU

ĐGH Phanxicô tạo một đợt “bão tố” đối với sự tranh luận về tôn giáo sau một bài giảng nói về người vô thần. Trong bài giảng này, ngài nhấn mạnh rằng vấn đề không phải là gia nhập tôn giáo, nhưng là “chúng ta làm điều tốt”:

 Thiên Chúa đã cứu độ tất cả chúng ta bằng Máu Thánh của Đức Kitô: Tất cả chúng ta, không chỉ người Công giáo. Mọi người. Kể cả người vô thần ư? Ngay cả người vô thần. Mọi người!… Tất cả chúng ta đều có trách nhiệm làm điều tốt. Và tôi nghĩ rằng mệnh lệnh này đối với mọi người làm điều tốt là con đường tốt đẹp dẫn tới hòa bình. Nếu mỗi chúng ta làm phần việc riêng mình, nếu chúng ta làm điều tốt cho người khác, nếu chúng ta gặp nhau ở đó, tức là làm điều tốt, và chúng ta đi chậm, nhẹ nhàng, từng chút một, chúng ta sẽ tạo nên văn hóa của sự gặp gỡ: chúng ta cần điều đó rất nhiều. Chúng ta phải gặp nhau trong việc làm điều tốt. “Nhưng tôi không tin, vì tôi là người vô thần! Còn làm điều tốt: chúng ta sẽ gặp nhau ở đó”.

Sau bài giảng gây tranh luận đó, các hàng tít trên các tờ báo lớn và chủ yếu như báo New York Times đã kêu lên với chữ “tin quan trọng” theo Đức giáo hoàng, thậm chí người vô thần cũng có thể vào Thiên đàng: tất cả chúng ta, kể cả người vô thần, sẽ “gặp nhau ở đó [Thiên đàng]”, với điều kiện là làm điều tốt. Đây là một số ví dụ mà nhiều hàng tít lớn trên các tờ báo uy tín: “Thiên đàng dành cho người vô thần? Đức giáo hoàng tạo sự tranh luận”; “ĐGH Phanxicô có là tín đồ dị giáo? Không, nhưng ngài gợi lên các vấn đề”; “ĐGH Phanxicô nói: Ngay cả người vô thần cũng có thể vào Thiên đàng”.

Theo dòng tranh luận sôi nổi, LM Thomas Rosica, phát ngôn viên Tòa Thánh, đã “thanh minh” về câu nói của Đức giáo hoàng khi nói rằng Đức giáo hoàng bị hiểu lầm, rằng “họ không thể được cứu độ, biết Giáo hội được Đức Kitô thiết lập và cần ơn cứu độ, sẽ từ chối gia nhập Giáo hội hoặc vẫn ở trong Giáo hội”. Điều này làm cho nhiều nhà bình luận nói rằng sự “bào chữa” này của phát ngôn viên Tòa Thánh trái ngược với thực chất của điều giáo hoàng đã nói. Richard Dawkins, khoa học gia nổi tiếng và là người vô thần thẳng thắn, đã phản hồi: “Người vô thần lên Thiên đàng ư? Không. Xin lỗi thế giới, giáo hoàng bất khả ngộ đã hiểu sai. Vatican bước vào đó bằng sự sốt sắng”.

Đây không là lần đầu tiên ĐGH Phanxicô nói bằng cách nói tích cực đối với người vô thần. Trong cuộc gặp gỡ đại kết với các vị lãnh đạo các tôn giáo khác chỉ vài ngày sau khi đắc cử giáo hoàng, ĐGH Phanxicô đã nói rằng người vô thần và tín hữu có thể là “đồng minh quý giá” (precious allies) trong nỗ lực “bảo vệ nhân phẩm, xây dựng sự chung sống hòa bình giữa các dân tộc và cẩn thận bảo vệ công cuộc sáng tạo”.

Một chương về vô thần trong cuốn sách đầu tiên của ĐGH Phanxicô

Trong cuốn sách của ĐGH Phanxicô xuất bản lần đầu tiên, cuốn “On Heaven and Earth: Pope Francis on Faith, Family and the Church in the Twenty-First Century” (Trên trời và dưới đất: ĐGH Phanxicô nói về Đức Tin, Gia đình và Giáo hội trong thế kỷ XXI), có một chương dành riêng cho chủ đề vô thần. Sách này gồm nhiều bài thảo luận giữa ĐHY Bergoglio (nay là ĐGH Phanxicô), kể cả giáo sĩ Do Thái giáo Abraham Skorka, người Argentine, về nhiều chủ đề thuộc đức tin và tôn giáo.

Sự nhấn mạnh của chương này là tôn trọng và tha thứ cho người vô thần. ĐHY Bergoglio (nay là ĐGH Phanxicô) cho biết: “Khi tôi nói chuyện với người vô thần… tôi không đưa ra vấn đề về Thiên Chúa là điểm khởi đầu, trừ trường hợp họ đưa ra trước… Tôi không gạ gẫm họ vào đạo, hoặc từ bỏ chủ nghĩa vô thần; tôi tôn trọng họ và tôi chứng tỏ chính tôi là gì… Tôi cũng không nói đời họ bị kết án, vì tôi tin rằng tôi không có quyền phán xét về sự chân thật của người đó” (trang 11).

Mặt khác, giáo sĩ Do Thái giáo Skorka đã kết án cả người vô thần và tín hữu về “sự kiêu ngạo” của họ, thay vì ngầm khen họ là “người theo thuyết bất khả tri” (không thể biết, agnostic) – thuật ngữ này diễn tả những người nói rằng họ không chắc rằng có Thiên Chúa hiện hữu. Khi người vô thần phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa, những người theo thuyết bất khả tri nói rằng không thể xác định sự hiện hữu của Thiên Chúa. Giáo sĩ Skorka nói: “Người theo thuyết bất khả tri nghĩ mình chưa có câu trả lời, nhưng một người vô thần 100% tin rằng Thiên Chúa không hiện hữu. Đó là sự kiêu ngạo tương tự dẫn tới chút nào đó chân nhận Thiên Chúa hiện hữu, cũng như chiếc ghế tôi đang ngồi đây. Những người theo tôn giáo là những người có niềm tin, nhưng họ lại không biết chắc Ngài hiện hữu…”.

Hơn nữa, giáo sĩ Skorka nói: “Mặc dù riêng tôi tin Thiên Chúa hiện hữu, nhưng là kiêu ngạo khi nói rằng Ngài hiện hữu như thể chỉ là sự chắc chắn nào đó trong cuộc sống. Tôi không ngẫu nhiên xác nhận sự hiện hữu của Ngài vì tôi cần sống sự khiêm nhường tương tự mà tôi đòi hỏi ở người vô thần”.

Về cơ bản, giáo sĩ Skorka nói rằng chúng ta nên “khiêm nhường” khi giải quyết với người vô thần bằng cách không khăng khăng cho rằng Thiên Chúa thực sự hiện hữu. Sự thật ở đây là ĐHY Bergoglio thực sự không mâu thuẫn với giáo sĩ Skorka về các câu nói trên đây, và thực sự, chương sách kết thúc bằng lời biện hộ của giáo sĩ Skorka về “sự khiêm nhường” trong thái độ của người theo thuyết bất khả tri.

Người vô thần có vào Nước Trời?

Nhiều người, kể cả người Công giáo đúng nghĩa, vẫn phản ứng ủng hộ bài giảng của ĐGH Phanxicô, khen ngài tha thứ cho người “không có đức tin”. Đó là tốt và đáng để chúng ta tôn trọng những người theo các tôn giáo khác, nhiều người quên rằng người vô thần từ chối Thiên Chúa. Làm sao một người từ chối Thiên Chúa có thể vào Thiên đàng chứ? Hoàn toàn trái ngược. Cuối cùng, Thiên đàng là Nước Trời của Thiên Chúa. Thiên đàng là nơi đời đời theo Chúa, tận hưởng vĩnh phúc.

Làm sao một người từ chối Thiên Chúa có thể vào Thiên đàng chứ? Người vô thần từ chối Thiên Chúa cho đến hơi thở cuối cùng là từ chối Nước Trời – họ từ chối tận hưởng vĩnh phúc, vì họ không tin điều đó. Vì chúng ta có ý chí tự do – một tặng phẩm Thiên Chúa không thể lấy đi khỏi chúng ta – Thiên Chúa không thể ép họ vào Nước Trời vì họ từ chối Ngài cho đến hơi thở cuối cùng.

Tại sao không nói về bằng chứng hiện hữu của Thiên Chúa?

Từ chối Thiên Chúa và vô thần là liều mạng vào lửa đời đời – trừ phi người vô thần sám hối trước khi chết. Người vô thần là người có linh hồn với nguy cơ vào hỏa ngục. Nếu chúng ta gặp ai đó sắp đâm đầu vào vách đá, rõ ràng là sẽ chết, chúng ta sẽ làm gì? Chúng ta có “tôn trọng” họ mà để mặc họ liều mạng? Hay là chúng ta sẽ kêu cứu, la lớn, bảo anh ta dừng lại và đi đường khác?

Tại sao ĐHY Bergoglio nói về việc tha thứ cho người vô thần, và dành hẳn một chương về người vô thần? Chúng ta không nên nói với người vô thần về bằng chứng Thiên Chúa hiện hữu chăng? Thánh Thomas Aquinas, Thánh Anselm và nhiều Giáo phụ có bằng chứng hợp lý và mạnh mẽ về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Không thích hợp chút nào để đưa ra bằng chứng Thiên Chúa hiện hữu. Thay vì vậy, có vẻ ngày nay nên nhấn mạnh sự tha thứ và chấp nhận những người không có niềm tin. Thay vì nhấn mạnh sự tha thứ và tôn trọng người vô thần, chúng ta không nên chia sẻ với họ về niềm vui và bình an nhờ tin vào Thiên Chúa, và số phận bi đát đang chờ những người từ chối Thiên Chúa đến cuối đời chăng? Sự thật đau lòng, nhưng vẫn cần nói về điều tốt của người vô thần.

Chứng thực mặc nhiên của thuyết vô thần/thuyết bất khả tri

Trong cuốn sách này, ĐHY Bergoglio không sửa đổi hoặc biện hộ lý thuyết về “sự không chắc chắn” của giáo sĩ Skorka. Chúng ta nhớ lại lời của giáo sĩ Skorka: Mặc dù riêng tôi tin Thiên Chúa hiện hữu, nhưng là kiêu ngạo khi nói rằng Ngài hiện hữu như thể chỉ là sự chắc chắn nào đó trong cuộc sống”.

Câu nói này chứng thực “thuyết bất khả tri” (không biết Thiên Chúa hiện hữu hay không). ĐHY Bergoglio nói: “…Theo cảm nghiệm về Thiên Chúa, luôn có câu hỏi không được trả lời, một cơ hội ngụp lặn trong Đức Tin… chúng ta có thể nói Thiên Chúa là ai, có thể nói về các thuộc tính của Ngài, nhưng không thể nói Ngài là cái gì… Tôi cũng nói rõ đó là kiêu ngạo, các lý thuyết đó không chỉ cố gắng xác định bằng sự chắc chắn và sự chính xác về các thuộc tính của Thiên Chúa, mà còn làm ra vẻ nói Ngài là ai”.

Chúa Giêsu ở đâu trong cuộc đối thoại?

Nếu tôi là ĐHY Bergoglio, đối thoại với giáo sĩ Skorka, làm sao tôi trả lời sự chứng thực của thuyết bất khả tri? Tôi sẽ trả lời bằng cách nói rằng Chúa Giêsu là bằng chứng tối hậu về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Cuộc đời của Ngài, việc làm của Ngài, và nhất là sự phục sinh của Ngài là bằng chứng vượt qua sự nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Đức Giêsu Kitô là bằng chứng thật, cụ thể, có tính lịch sử, không thể từ chối sự hiện hữu của Thiên Chúa.

Có lần Tông đồ Philipphê đã hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện” (Ga 14:8). Chúa Giêsu nói: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: ‘Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha’? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?” (Ga 14:9-10).

Thay vì nói với người vô thần: “Là người vô thần cũng được, bạn vẫn vào Thiên đàng nếu bạn làm điều tốt”, thiết nghĩ chúng ta nên nói về mối nguy cơ của việc sống vô thần, bằng chứng không thể chối cãi về sự hiện hữu của Thiên Chúa, và Thần tính của Chúa Giêsu. Họ có thể tranh cãi với chúng ta, la hét chúng ta, ghét chúng ta vì thách đố quan điểm của họ – nhưng nếu nói về “sự thật đau lòng”, và mặc dù như vậy, cũng cứ nên nói ra – chỉ vì muốn tốt cho họ.

PAOLO REYES

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ all-about-the-virgin-mary.com)

Người Việt đang từ bỏ quê hương

Người Việt đang từ bỏ quê hương

Nguyệt Quỳnh gửi RFA

000_SAHK970625042590-630.jpg

Một người Việt bị cưỡng chế hồi hương. Ảnh chụp ngày 8 tháng 3 năm 1995.

AFP PHOTO

Cứ mỗi năm cuộc tranh giành quyền lực ở cấp lãnh đạo thượng tầng lại lặp đi lặp lại, và càng ngày mức độ càng gay gắt. Tôi tự hỏi không biết các vị lãnh đạo có từng bao giờ quan tâm để nhận biết ra rằng từ lâu nhiều người dân Việt Nam đã thầm lặng bỏ nước ra đi!

Điều đáng giật mình là – ngày nay người ta rời bỏ quê hương mình không một chút vấn vương luyến tiếc. Quê hương là nơi chốn thiêng liêng, nơi thân thuộc, nơi có cha mẹ, anh em, bằng hữu, có cả một trời thơ ấu; nhưng vì sao người VN lại tìm mọi cách để rời bỏ đất nước mình?

Bốn mươi năm trước, người ta buộc phải dứt áo ra đi, buồn thắt ruột khi phải rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn. Thi sĩ Luân Hoán có bốn câu thơ nhớ quê đến nao lòng:

Trông ra cửa kính trời mưa tuyết
Ngó lại mình đang ngồi bó tay
Quê hương nhắm mắt như sờ được
Sao vẫn buồn xo đến thế này?

Nếu như ngày xưa, người Việt tị nạn lìa xa quê, nhớ từng chiếc lá me, từng cành phượng vĩ, thương từng viên ngói vỡ, bóng con chim se sẻ trước hiên nhà; thì ngày nay, người giàu cũng như nghèo, ngay cả con cái các quan chức nằm trong bộ máy chính quyền cũng tìm mọi cách để rời bỏ đất nước, ra đi không cần ngoái đầu nhìn lại.

Trong cuộc họp tại văn phòng Quốc hội ngày 29 tháng 12 vừa qua, bàn về tình trạng các du học sinh cấp phổ thông trung học và đại học sau khi tốt nghiệp không trở về; Thứ trưởng Nội vụ Nguyễn Duy Thăng đã nhìn nhận với các đại biểu Quốc hội rằng: “Tôi nghĩ con em nhiều người ngồi ở đây cũng không về. Cá nhân gia đình tôi cũng vậy, 2 đứa không về.”

Vì đâu có tình trạng này? Chiến tranh, nghèo đói cũng không làm người ta rời bỏ quê hương mình. Chỉ mới ngày nào, khi cuộc chiến biên giới bùng nổ vào năm 1979, hàng hàng lớp lớp thanh niên ưu tú sẵn sàng viết đơn bằng máu để xin ra chiến trường. Dù khó khăn, gian khổ người ta vẫn gắn bó, vẫn hãnh diện về dân tộc mình. Tôi nhớ có lần đọc được trong facebook của một em sinh viên: “Tôi tự hào vì mỗi tên đất, tên đường ở xứ tôi đều viết bằng tên người chứ không phải đánh số.” Nhưng chỉ vài tuần trước đây, một bài viết trên trang mạng BBC viết rằng – tác giả muốn rời bỏ VN để con cái mình khi lớn lên được sống làm người tử tế.

000_PAR2003100589951-400.jpg

Một người nhập cư Việt đang lao động ở Ba Lan. Ảnh chụp ngày 4 tháng 10 năm 2003. (minh họa)

Tôi có dịp gặp một số thanh niên Việt Nam ở Philippines. Họ trẻ, tốt lành và trong sáng, nhưng họ quay lưng hẳn và không muốn nhắc đến tình hình xã hội, chính trị tại đất nước mình. Sự gian dối, giả trá khắp nơi đã làm các em chán nản. Một em chia sẻ với tôi là hầu hết các bạn của em đều cảm thấy bất lực và muốn tìm cách rời khỏi Việt Nam.

Tôi gặp em H, một thiếu nữ sống một mình ở đất nước xa lạ này. Em sống và chống trả với những bất trắc, bão tố do tình trạng cư trú bất hợp pháp của mình. Gã chủ nhà muốn xâm hại em, thản nhiên cầm điện thoại và hăm dọa nếu em không thuận hắn sẽ báo cảnh sát. Rất may, H là một thiếu nữ thông minh và mạnh mẽ, em đã vượt thoát được. Cha mẹ ở miền quê làm sao biết được em đã phải chống chọi với những gì. Những thiếu nữ yếu đuối, không may mắn khác sẽ hành xử ra sao? Và định mệnh sẽ đưa đẩy các em về đâu?

Tôi cũng gặp một trường hợp khác, một phụ nữ miền biển, nghèo khó, vô danh nhưng chị đã làm tôi xúc động đến ngẩn ngơ.

Nếu bạn đang đi du lịch phượt trên đất Thái. Dừng chân uống một cốc nước dừa trên hè phố hay tại một quán ăn nào đó. Lúc bạn đang cố bập bẹ nói một ít tiếng Thái với người đang phục vụ, thì nhớ rằng người đang nói chuyện với bạn bằng tiếng địa phương đó có thể là một người Việt Nam. Bên dưới nụ cười xã giao và ánh mắt lẩn tránh đó, ẩn chứa cả một mối ân tình thắm thiết của người đồng hương.

Tôi gặp chị L, người phụ nữ gầy ốm da ngăm đen đứng bán một xe nước dừa bên hè phố. Ban đầu có lẽ nghe chúng tôi nói tiếng Việt, không nhịn được, chị cất tiếng hỏi tôi có phải người Việt Nam không. Thấy người đồng hương tôi vồn vã hỏi thăm, nhưng thấy thái độ chị lẩn tránh và đáp lại bằng tiếng Thái tôi đoán có lẽ chị đang có vấn đề về di trú. Bốn mươi năm trước, tôi đã gặp một người mẹ cắt ruột đẩy đứa con 6 tuổi của mình ra biển để mong nó tìm được tương lai. Ngày nay, tôi gặp người mẹ khác, cũng thắt ruột bỏ lại đứa con gái năm tuổi của mình cho bà ngoại để đi kiếm sống ở nước ngoài, đi “tha hương cầu thực”.

“ Ở đây người Thái họ hiền lắm, họ thương mình. Mình đẩy xe đi bán từ 7 giờ sáng đến 12 giờ đêm mới về được đến nhà. Đi ban đêm cũng không sợ… Ở đây từ những người thấp nhất trong xã hội như xe ôm hay cảnh sát họ đều giúp đỡ mình hết mình.”

Khi đã tin cậy, chị níu chặt lấy cánh tay tôi luôn miệng nói chuyện, quên cả bán hàng. Được một lúc chị móc trong túi áo ra 25 baht tôi vừa trả tiền nước, đưa lại. Chị ngượng ngùng bảo tình cảm mà lấy tiền tối về không ngủ được. Tôi xúc động vì sự tốt lành, vì cái ân tình chị dành cho tôi, một người xa lạ. Bấy nhiêu thôi cũng đủ thấu hiểu tấm lòng tha thiết của chị đối với người Việt, đối với quê hương như thế nào. Vậy mà có đến mấy lần chị nói với tôi là chị không muốn trở về VN nữa. Xin ghi lại một đoạn đối thoại của tôi với người phụ nữ này để hiểu vì sao chị không muốn trở về. Tôi cố tình hỏi tiếp:

–          Nhưng khi để dành đủ tiền rồi chị về quê mình chứ?

–          Thôi không về đâu.

–          Tại sao lại không về?

–          Ở đây người Thái họ hiền lắm, họ thương mình. Mình đẩy xe đi bán từ 7 giờ sáng đến 12 giờ đêm mới về được đến nhà. Đi ban đêm cũng không sợ… Ở đây từ những người thấp nhất trong xã hội như xe ôm hay cảnh sát họ đều giúp đỡ mình hết mình.

–          Nhưng mai mốt chị về thăm con, người khác dành mất chỗ bán của chị thì sao?

–          Không sao đâu, không có mình thì họ bán, khi họ thấy mình đẩy xe tới, họ tự động đẩy xe đi chỗ khác.

–          …

Những dự thảo văn kiện đại hội đảng có bao giờ đặt ra vấn đề vì lẽ gì mà người dân nghèo, lương thiện lại không cảm thấy an toàn ở quê hương mình? Những người như chị bán nước dừa, hay cháu H đâu cần biết gì đến dân chủ hay nhân quyền? Họ cũng không cần biết ngày mai ông Nguyễn Phú Trọng hay ông Nguyễn Tấn Dũng sẽ trở thành Tổng Bí Thư. Họ chỉ cần một môi trường sống ổn định, an lành. Nơi hàng ngày không phải nơm nớp lo sợ gặp cảnh sát giao thông hay quân cướp giật. Nơi họ kiếm được miếng ăn hàng ngày và không phải im lặng trước những điều tai ác.

Đến bao giờ người dân mình khi “Rời Bỏ” quê hương đều ôm giấc mơ sẽ “Trở Về” để sớt chia những gian nan và dựng xây lại đất nước?

Tôi biết những người như vậy, những người đã ra đi, nhưng lại chọn trở về như Trần Văn Bá, Võ Đại Tôn, Hoàng Cơ Minh, Võ Hoàng, Ngô Chí Dũng…Chúng ta cũng biết những người đang nỗ lực thay đổi xã hội, những người gắn bó với tổ quốc, người muốn dân mình, đồng bào mình được có đời sống đích thực cần có của một con người. Họ là Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Hồ Đức Hoà, Đặng xuân Diệu, Nguyễn Đặng Minh Mẫn, Nguyễn Văn Oai, Bùi Minh Hằng, Nguyễn Đình Cương, Võ An Đôn…Tiếc rằng những nỗ lực của họ chỉ đổi lấy tù tội, bất trắc và gian nan.

Tôi tự hỏi những người như Thứ trưởng Nội vụ Nguyễn Duy Thăng, các vị đại biểu quốc hội, những đảng viên “chân chính”… họ nghĩ gì? Họ phục vụ cho ai? Một chính quyền dù có theo đuổi mục đích, lý tưởng cao đẹp gì đi chăng nữa thì cũng chẳng có ý nghĩa gì khi mà con em họ, khi mà mọi người dân, từ trí thức cho đến chị bán nước dừa cũng đều muốn ra đi.

Tôi cho rằng các vị lãnh đạo, những người liên hệ trong chính quyền, hay trong trận đấu đá tranh giành quyền lực năm 2016 – từ anh công an quèn quen bóp cổ dân, đến các nhân sự tứ-trụ-triều-đình tương lai cần có câu trả lời chính đáng cho chính mình và cho những người dân hiền lành, chất phác đang phải sống lưu vong khắp nơi.

Cuối năm dân còn khổ, quan đi du lịch bằng tiền của dân

Cuối năm dân còn khổ, quan đi du lịch bằng tiền của dân

(VienDongDaily.Com)

Văn Quang – Viết từ Sài Gòn

Vào những ngày cuối năm thường các quan lớn có lý do và có thì giờ nghỉ ngơi. Có một cái “mốt thời thượng” mà các ngài tìm đủ cách để đi “du hí” với nhiều danh nghĩa khác nhau. Nào là tiệc tất niên, nào mừng thưởng công, nào vinh danh người tốt việc tốt… nếu làm đúng cũng chẳng có gì đáng nói tuy rằng những thứ đó tiêu tốn công quỹ tức là tiền của nhân dân, nhưng có hàng chục danh nghĩa để các quan lợi dụng. Ở đây tôi chỉ nói đến một kiểu lợi dụng đang bị dư luận của người dân rầm rộ lên án. Đó là việc có nhiều tỉnh cử đoàn đại biểu đi nước ngoài “học tập kinh nghiệm.” Hết học làm xổ số đến học cách chống ngập lụt… Ối, nước mình chậm tiến thì thiếu gì cái để học. Học làm cái bù loong, học cách giáo dục, học chống tham nhũng và học cả cách làm quan thanh liêm… cái gì cũng phải học. Học được là tốt.
Nhưng oái oăm thay hầu hết những vị được cử đi học lại toàn là những vị sắp hết nhiệm kỳ, nói trắng ra là học xong thì về hưu nghỉ khỏe! Đây là một kiểu “đền ơn đáp nghĩa” của các quan với nhau chứ anh dân đen chẳng ăn thua gì đến cái mục học hành của quý vị. Đó là một thứ “lợi ích nhóm” cũng nằm trong hiện tượng “gia đình trị” và “một người làm quan cả họ được nhờ.” Còn người dân chỉ nai lưng ra làm đầu tắt mặt tối, thậm chí không đủ ăn mà còn phải đóng đủ thứ thuế cho làng cho xã méo cả mặt.

Biếm họa đi du lịch bằng tiền của dân

Vậy mà vào thời gian này có những tỉnh thản nhiên tổ chức những chuyến đi nước ngoài cho các quan học hỏi, tốn hàng tỉ đồng cho mỗi chuyến đi. Mời các bạn hãy xem vài tỉnh hí hởn tổ chức những chuyến đi này.

Tỉnh Bình Phước cử cán bộ đi Canada học cái gì?

Vào những ngày cuối năm này tỉnh này quyết định cử một đoàn cán bộ hơn 30 người sang Canada học tập làm…. xổ số! Chi phí chuyến đi hết khoảng 1.5 tỷ đồng ($66,000 Mỹ kim), do công ty Xổ Số Bình Phước tài trợ (Doanh nghiệp kinh doanh xổ số là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, do nhà nước sở hữu 100% vốn). Như thế chẳng khác nào lấy tiền của dân cho các quan ăn chơi.

Và đặc biệt hơn nữa là đoàn cán bộ này gồm hầu hết là quan chức sắp nghỉ hưu hoặc đã nghỉ hưu. Nào là nguyên Bí thư Tỉnh ủy, Phó CT thường trực UBND tỉnh, Trưởng Ban Tuyên giáo tỉnh ủy, Trưởng Ban Tổ chức tỉnh ủy, Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh, Chánh Thanh tra tỉnh, Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh. Mấy ông này đi học làm xổ số để làm gì nhỉ? Nhìn đúng thực chất đó chỉ là một cái cớ để các quan có dịp đi chơi bằng tiền của dân.

Trước đó, năm 2014, tỉnh này cũng đã cử hai đoàn đi “học tập kinh nghiệm” tại Singapore và Malaysia, nguồn kinh phí phần lớn cũng của công ty xổ số tỉnh cung cấp.

Làm quan thời nay sướng thật!

Hơn thế Bình Phước chưa phải là tỉnh dư dả gì. Cách đây hai năm, 2013, Bộ Tài chính đã phải tạm ứng từ ngân sách Trung Ương cho tỉnh này 200 tỷ đồng ($8.8 triệu) nhằm tháo gỡ khó khăn, bảo đảm nguồn cân đối ngân sách thực hiện các chính sách chế độ, nhiệm vụ của năm.

Đây là một việc làm đã bị cấm, bởi trước đó, năm 2012, Văn Phòng CP đã từng có công văn truyền đạt chỉ đạo của chính phủ cấm lợi dụng chức vụ để đi nước ngoài bằng tiền doanh nghiệp (báo Thanh Niên, ngày 29/12/2012). Công văn này yêu cầu lãnh đạo bộ, ngành, địa phương, nhất là người đứng đầu, hạn chế tối đa việc đi công tác nước ngoài, dành thời gian tập trung chỉ đạo, xử lý công việc theo chức năng, nhiệm vụ được giao. Đó là chuyện công việc mà còn phải cân nhắc, nữa là chuyện du lịch, đi chơi bằng “tiền chùa”.

Nhưng công văn chính phủ thì mặc công văn, đường ta ta cứ đi, tiền chùa ta cứ xài.
Cái bệnh này không được chấn chỉnh nên cái đà “ăn cướp tiền của dân để đú đởn” ấy vẫn cứ tiếp tục và còn được một số tỉnh khác noi theo.

Tiền Giang cử cán bộ sang Hòa Lan học chống ngập lụt

Tháng 12 năm 2014, tỉnh Tiền Giang cử hai đoàn cán bộ hưu trí sang hẳn Mỹ cũng để học làm xổ số (theo báo Tuổi Trẻ, ngày 1/12). Tháng 11, 2015 vừa mới đây, tỉnh Tiền Giang còn quyết định cử đoàn cán bộ sang Hòa Lan và Nga học tập kinh nghiệp xây dựng các công trình chống nước biển dâng, chống ngập, do tác động của biến đổi khí hậu. Điều đáng nói, cũng toàn các cán bộ lãnh đạo sắp nghỉ hưu, và một số doanh nghiệp nhưng chẳng dính dáng gì đến đê điều, ngập lụt.

Các vị sắp về hưu, không tham gia vào ban chấp hành tỉnh ủy khóa mới (2015 – 2020) đi “tham quan, học tập kinh nghiệm” để làm gì nhỉ? Chẳng lẽ các vị đó khi nghỉ hưu ở Tiền Giang thì chống ngập úng cho… nhà mình?

Quảng Nam cho 26 quan ông và 3 phu nhân quan đi học làm du lịch

Bất chấp khốn khó về ngân sách, hàng loạt quan chức tỉnh Quảng Nam ở thời điểm “hoàng hôn nhiệm kỳ” (tức là sắp về hưu) vẫn được sang tận Nam Phi học tập kinh nghiệm.

Trong danh sách 26 người đi học tập Nam Phi của Quảng Nam lần này có ba phu nhân của các quan chức, 15 người đã và sắp về hưu, số còn lại không tái cử ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Nam nhiệm kỳ 2015-2020 vì… hết tuổi.

Đoàn này do ông Lê Phước Thanh – nguyên bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam, trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh – làm trưởng đoàn.

Ngoài ông Thanh còn có hàng loạt quan chức chủ chốt của tỉnh Quảng Nam đã cuối nhiệm kỳ và không tái cử gồm: ông Trần Kim Hùng – phó chủ tịch HĐND tỉnh, ông Lê Văn Lai – đại biểu Quốc Hội, bà Nguyễn Thị Kim Dung – trưởng Ban Dân Vận Tỉnh ủy, ông Ngô Văn Hùng – trưởng Ban Tuyên Giáo Tỉnh ủy.
Rồi hàng loạt bí thư huyện ủy sắp và đã về hưu như ông Nguyễn Tiến (bí thư huyện ủy, chủ tịch HĐND huyện Núi Thành), ông Nguyễn Văn Khương (bí thư Huyện ủy Duy Xuyên), ông Nguyễn Thế Tài (bí thư Huyện ủy Bắc Trà My)…

Đáng chú ý, trong danh sách khách mời còn có thiếu tướng Phan Như Thạch (nguyên giám đốc công an tỉnh) cùng vợ và hai người khác cũng là vợ các quan chức.

Trong quyết định 2977/QĐ-UBND cử đoàn cán bộ đi khảo sát, học tập kinh nghiệm do Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam Đinh Văn Thu ký nêu rõ: “Đi khảo sát các cơ sở du lịch, dịch vụ, thương mại; học tập kinh nghiệm về công tác quy hoạch, xây dựng các đô thị, khu kinh tế, quản lý du lịch, bảo tồn thiên nhiên tại Nam Phi.” Thời gian chín ngày từ ngày 5-9 đến 13-9-2015.

Có học được gì đâu

Khi được hỏi có làm việc với lãnh đạo ban quản lý khu bảo tồn này để học hỏi kinh nghiệm gì không, ông Nguyễn Tiến (Bí thư huyện ủy, Chủ tịch HĐND huyện Núi Thành) nói: “Họ đưa đến khu rừng mà trên tivi hay đưa về động vật hoang dã đấy! Đến coi được hai con tê giác, năm, sáu con ngựa vằn, mấy con chồn và sáu, bảy con voi.”

Hỏi có học được gì không thì ông Tiến bảo: “Không học được gì. Họ nhốt trên xe, tới nơi rồi thả xuống. Chỉ thấy mấy con tê giác ăn cỏ. Có học được gì đâu!”

Còn ông Trần Kim Hùng – Phó Chủ tịch HĐND tỉnh thì chẳng cần giấu giếm: “Đã nói đi cái đoàn ưu đãi cho những người không tái cử nhiệm kỳ mới. Không phải đi học hỏi gì hết.”

Tôi chỉ tường thuật vài chuyện như thế bạn đọc đã có thể nhìn rõ sự lộng hành quyền chức của các quan lãnh đạo địa phương như thế nào. Đến đây mời bạn theo dõi phản ứng của người dân qua câu trả lời của ông Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam khi trả lời câu hỏi vì sao nhiều cán bộ tỉnh vào thời điểm “hoàng hôn nhiệm kỳ” vẫn đi Nam Phi “học tập kinh nghiệm” làm du lịch.

Thế nào là phải đạo

Bài phỏng vấn của phóng viên báo Tuổi Trẻ khá dài, tôi chỉ tường thuật vài câu hỏi chính của phóng viên. Khi được hỏi:
PV: Chuyến đi này còn có khách mời là ba phu nhân của các cán bộ. Họ tự chi hay cũng lấy từ ngân sách?
– Ông chủ tịch Đinh Văn Thu – phó bí thư Tỉnh ủy, chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam trả lời: Trong quyết định tôi ký đã ghi rõ những người nằm trong danh sách từ 1 đến 23 là kinh phí từ ngân sách (nguồn lợi kinh doanh kinh tế Đảng). Còn những người đi thêm là vợ của các cán bộ thì họ phải tự lo thôi.
PV: Trong lúc ngân sách tỉnh còn đang khó khăn, đời sống của người dân còn nghèo, việc đi Nam Phi như thế có lãng phí không, thưa ông?

– Ông chủ tịch: Mục tiêu đã được thảo luận trong tập thể thường vụ Tỉnh ủy. Đây là thảo luận của tập thể, mà sử dụng nguồn như vậy tôi thấy là cũng “phải đạo” đối với một số đồng chí có chức danh trong cấp ủy, thường vụ đã tham gia công tác Đảng.

Chính vì chữ “phải đạo” này của ông Thu đã bị hàng ngàn người dân viết trên các báo hoặc facebook phản đối dữ dội. Báo Tuổi Trẻ Online đã tổng kết mời bạn cùng đọc một số lời phản bác thẳng thắn đôi khi gay gắt đó:
– Bạn đọc Mai Tấn Điệu viết:

“Cái “đạo” mà ông Thu nói là “đạo chích.” Ai cũng biết tiền ngân sách đi học tập kinh nghiệm chỉ là lý do để thanh toán thôi….”

– Tự nhận mình là người con Quảng Nam, nhiều bạn đọc góp ý rằng thay vì nhận ra cái sai để điều chỉnh, đằng này quan đứng đầu tỉnh lại bao biện, thật không thể chấp nhận được!

– Tâm sự với tư cách người đồng hương cùng chủ tịch Thu, bạn đọc Học viết: “Chúng tôi là đồng hương ở Quảng Nam – Đà Nẵng tại Sài Gòn. Chúng tôi làm việc cật lực và tiết kiệm từng đồng nhưng về quê thấy cảnh trẻ học không sách vở, không xe đạp đi. Chúng tôi phải ủng hộ và kêu gọi đóng góp để gởi về hằng năm cho các em ở Quảng Nam có điều kiện ăn học. Xin hỏi các ông bà dùng ngân sách đi du lịch là phải đạo là thứ đạo gì?”

– Cùng suy nghĩ này, bạn đọc Ngọc Tú bổ sung: “Có nhiều loại đạo lắm ông Thu ơi: đạo Cao Đài, đạo Thiên Chúa, đạo nhạc, đạo thơ,… và cả đạo chích nữa. Không biết ông theo cái đạo nào mà tổ chức chuyến đi tốn kém tiền của đó?”

– Thậm chí nỗi bức xúc của người dân đã được bạn đọc xuất khẩu thành thơ. Cụ thể, bạn đọc có nick name là Quang Nom (bạn này viết bằng ngôn ngữ địa phương):

“Quê mình nghèo lắm Quảng ơi,
Ăn chơi vừa phải, kẻo đời đi toi.
Mi đi du lịch cuối thời,
Hoàng hôn nhiệm sở ai mời mà đi?”
– Cùng với cách thể hiện này, bạn đọc Nguyễn Thị Vạn công kích thẳng thừng:
“Hỡi ông chủ tịch Quảng Nam
Học đạo làm người đâu phải đi xa
Chi bằng ông xuống với dân
Nhìn xem dân khổ, dân nghèo thế kia
Tiền kia ông hãy giúp dân
Dân nhà còn khổ quan thì đi chơi…”.

Nhìn vào hiện tượng “hoàng hôn nhiệm kỳ” với đủ các thủ đoạn vội vàng ký thăng quan tiến chức cho bà con anh em bạn bè, vơ vét đủ thứ, lợi dụng đủ kiểu của các quan người dân nào chẳng thấy xấu hổ và đau lòng, họ còn biết tin tưởng vào đâu?!
Văn Quang

(Đầu tháng Một, 2016)

Cho ngày tháng ấy lụi tàn

Cho ngày tháng ấy lụi tàn

Tạp ghi Huy Phương

Nguoi-viet.com

Bây giờ những gói quà đã được mở ra, ánh đèn trên cây Giáng Sinh đã tắt, trẻ em không còn nô nức chờ đợi và chúng ta đã trở lại với những ngày bình thường tất bật.

Các ông già Noel đi xe gắn máy trên xa lộ ở Belgrade, Serbia, hôm 26 Tháng Mười Hai, một ngày sau Giáng Sinh. (Hình minh họa: AP Photo/Darko Vojinovic)

Hai mươi lăm năm trôi qua trên đất Mỹ, tôi cảm nhận Giáng Sinh mỗi ngày mỗi buồn, không biết lý do có phải vì mỗi năm càng thấy mình mỗi già, thân không còn nhanh nhẹn, ý không còn lăng xăng. Đối với tất cả người già, như tuổi đời mệt mỏi, đứng lại bên lề đường hay lề đời, nhìn dòng xe hay dòng đời trôi qua.

Hai mươi lăm năm trước, khi tôi mới đặt chân đến Mỹ, dù chỉ với một gia đình gói gọn trong vòng năm bảy người, tuy không phải là người theo đạo Chúa, cũng như nhiều gia đình khác trong xóm, cả người ở lâu hay người mới đến, năm nào nhà cũng dựng cây Giáng Sinh, dưới gốc cây sáng ánh đèn, năm nào cũng đầy những gói quà cho nhau, được gói kỹ lưỡng với những tờ giấy gói trang trí đầy màu sắc.

Những ngày đó mỗi năm, tôi còn cắm cúi viết những lời chúc tụng trên những tấm thiếp mừng Giáng Sinh và năm mới, trình bày nghệ thuật, lúc nào cũng lấp lánh ánh ngân nhũ, mô tả những nóc nhà thờ đầy tuyết trắng, nhưng ông già Noel râu tóc bạc phơ trên chiếc xe tuyết do đàn tuần lộc, kéo chạy băng băng, từ trên bầu trời sáng đầy ánh sao.

Gần ngày Giáng Sinh, trên đường phố, tôi thường bắt gặp những chiếc xe chở những cây thông tươi nặng trĩu, và tôi có cảm tưởng rằng tất cả mọi nhà, đều có cây Giáng Sinh, có chăng đèn, kết hoa, có những gói quà cho người lớn và lũ trẻ, có bữa ăn “reveillon dinner” theo phong cách Âu Châu.

Những thương xá luôn đầy người mua sắm, không ngại tốn tiền mà ngại phải xếp hàng rồng rắn để đợi đến phiên mình trả tiền. Và những ngày cuối Tháng Mười Hai, đường về hình như kẹt xe nhiều hơn, trời thường tối sớm, cho chúng ta có cảm tưởng như bữa ăn tối thường dọn trễ hơn mọi ngày.

Có lẽ đối với trẻ em Giáng Sinh là một giấc mơ, một cơ hội tuyệt vời, nhưng đối với cả người lớn, chúng ta thử tưởng tưởng ra, một năm không có ngày Giáng Sinh, như con đường không có trạm nghỉ, dòng sông dài miên man không có một bến đỗ. Khéo cho ai đã đặt ra tuần, ra tháng, ra năm, để cho con người trên thế gian, có được cơ hội đếm thời gian, có chờ đợi, hẹn hò và cũng có hồi tưởng, để nhớ lại những ngày, những tháng, những năm…

Mãi lực mua sắm hàng năm của người Mỹ quả là có lên có xuống, nhưng là những món mua sắm cho bản thân mình. Những món quà Giáng Sinh mỗi năm cho bạn bè và người thân mỗi năm mỗi vắng. Trên đường đi, ít thấy cảnh những chiếc xe chở cây thông tươi về nhà. Trong thùng thư bưu điện họa hoằn lắm mới có tấm thiệp của người ở xa với những nét chữ quen thuộc, nhưng trong e-mail, có quá nhiều tấm thiệp vô hồn của một người gửi cho cả trăm người. Mấy năm rồi không hang đá, mà cũng chẳng buồn cây thông, con cháu lớn rồi, mỗi người một ngả, còn đâu phút sum họp mà mở quà.

Mấy năm nay không còn cái thú đi xem nhà thiên hạ giăng đèn rực rỡ đêm Noel, mà cũng chẳng còn mấy nơi chịu khó giăng đèn, chỉ còn những cây Giáng Sinh ở những khu thương mãi. Sở Vệ Sinh nước Mỹ càng ngày càng nhẹ gánh đỡ nhọc công đi đổ rác sau ngày Giáng Sinh khi thùng rác đầy giấy gói quà, thùng carton và những cây thông bắt đầu héo lá.

Cách đây 10 năm trong khu phố này, mỗi đêm Halloween có hàng chục em gõ cửa “trick and treat” năm nay chỉ có một lần với hai em, tôi bật đèn ngoài đến khuya, và rổ kẹo vẫn còn đầy. Phải chăng em không còn tuổi thơ hay ngoài đường không còn là nơi yên ổn cho em? Và phong tục, lễ tết càng ngày càng tàn lụi theo thời gian.

Rồi đây, các em sẽ biết rõ không có ông già Noel, không bao giờ có những chiếc xe tuần lộc chở nặng những gói quà, và tuổi thơ sẽ không còn mơ đến những câu chuyện huyền thoại của một thời như lúc chúng ta còn nhỏ. Nếu đời sống trần trụi, đơn điệu và mỗi đời người không có một giai đoạn gọi là tuổi thơ thì quả địa cầu này buồn biết mấy!

Thế giới hôm nay không còn “bình an dưới thế cho người thiện tâm,” thiên tai và nhân tai luôn luôn đe dọa rình rập loài người, không mang súng đạn cũng chết vì súng đạn, không là người ác cũng chịu chết như kẻ ác. Hãng thông tấn Sputnik cho biết, ở Mỹ hiện nay, súng là một món quà Giáng Sinh phổ biến và những khẩu súng làm quà tặng thì không cần kiểm tra lý lịch.

Chỉ nội cái ý nghĩ năm nay nhận được một khẩu súng lục trong gói quà Noel không biết chúng ta vui thích hay cảm thấy lạnh người, khi trên đất Mỹ, số người chết vì súng đã cao hơn số người chết vì tai nạn giao thông.

Trường học nhiều nơi, nhân viên và giáo viên đã được mang súng đến trường. Dù chưa có phép, ông già Noel cũng đã bắt đầu giấu súng trong chiếc áo bông dày cộm của ông, vì đám đông, dù là đám đông trẻ thơ tụ tập nhận quà, vẫn là mục tiêu tàn sát của bọn khủng bố.

Con người không mơ giàu có, không ước tiếng tăm, nếu được một ngày không phải lo âu, một đêm có giấc ngủ bình an, vui cứ cười, buồn cứ khóc, và mau quên những điều phiền muộn như trẻ thơ, thì thế giới hạnh phúc biết bao nhiêu!

Đó là lời cầu bình an!

Bình an dưới thế cho người thiện tâm!

 

Dư luận trước việc Civil Rights Defenders kêu gọi trả tự do cho LS Nguyễn Văn Đài

Dư luận trước việc Civil Rights Defenders kêu gọi trả tự do cho LS Nguyễn Văn Đài

Chân Như, phóng viên RFA

RFA

000_Hkg834327-622.jpg

Ảnh chụp qua màn hình TV phiên xử Luật sư Nguyễn Văn Đài và Luật sư Lê Thị Công Nhân tại Tòa án Nhân dân Hà Nội hôm 27/11/2007.

AFP

Your browser does not support the audio element.

Vừa qua, 26 nhóm xã hội dân sự trên thế giới cùng lên tiếng kêu gọi chính quyền Việt Nam trả tự do cho LS Nguyễn Văn Đài và Bà Lê Thu Hà. Một trong những tổ chức đó là Hội những người bảo vệ quyền dân sự (Civil Rights Defenders) trong một bức thư ngỏ được đăng trên trang web, nêu rõ đối với những người đấu tranh vì dân chủ nhân quyền như LS Nguyễn Văn Đài hay bà Thu Hà, thì nhà tù không phải là nơi dành cho họ và yêu cầu chính quyền Hà Nội phải thả họ ngay lập tức, để họ được quyền thực thi nhiệm vụ của họ là bảo vệ và truyền bá cho người khác về các quyền và nghĩa vụ sống theo đúng hiến pháp VN và luật pháp quốc tế.

Hoan nghênh

Chia sẻ với chúng tôi qua skype video, Blogger Nguyễn Tường Thụy, người cũng gần gũi thân thiết với LS Nguyễn Văn Đài cho rằng ông rất hoan nghênh việc lên tiếng của các nhóm xã hội dân sự:

Tôi rất hoan nghênh hội bảo vệ quyền con người lên tiếng yêu cầu trả tự do cho LS Nguyễn Văn Đài và cử nhân Lê Thị Thu Hà. Tôi thấy đây là việc làm rất đúng đắn và rất cần thiết vào lúc này.
-Blogger Nguyễn Tường Thụy

“Tôi rất hoan nghênh hội bảo vệ quyền con người lên tiếng yêu cầu trả tự do cho LS Nguyễn Văn Đài và cử nhân Lê Thị Thu Hà. Tôi thấy đây là việc làm rất đúng đắn và rất cần thiết vào lúc này, bởi vì chuyện lên tiếng về các tù nhân có những người đấu tranh ở Việt Nam bị bắt từ trước nay lên tiếng rất nhiều và đặc biệt trong trường hợp bắt Nguyễn Văn Đài là một việc bắt hết sức bất thường.

Vậy nếu tôi là một người mà đấu tranh cho nhân quyền cho dân chủ tự do, thì chắc chắn là tôi hoan nghênh thôi. Và tôi mong muốn rằng nhiều tổ chức xã hội trong và ngoài nước càng lên tiếng nhiều càng tốt.”

Bà Kim Chi, Người cũng đã ký tên để kêu gọi chính quyền trả tự do cho LS Nguyễn Văn Đài và Bà Lê Thu Hà cho rằng đây là việc làm rất cần thiết:

“Tôi nghĩ đây là việc làm rất cần thiết để bảo vệ nhân quyền, không phải chỉ đối với LS Đài và Lê Thu Hà mà đối với tất cả những ai đang tham gia tranh đấu bị nhà cầm quyền khủng bố và bắt bớ. Riêng LS Đài, mọi người đều yêu quý kính trọng và tin tưởng bởi LS đã xả thân không ngại đường xa vất vả đi khắp nơi để tuyên truyền về vấn đề nhân quyền và nói rõ rằng cần phải có nhân quyền và phải thoát Trung như thế nào. Một chiến sĩ can trường như thế mà bị cầm tù thì không ai không phẫn nộ không ai không muốn đòi ngay tự do cho người đó.”

Còn theo Blogger JB Nguyễn Hữu Vinh thì việc kêu gọi của các nhóm xã hội dân sự phản ánh đúng những nguyện vọng của người dân Việt Nam khi họ mong muốn được tự do bày tỏ chính kiến của mình, đây là một hành động mạnh mẽ:

nguyen-huu-vinh-jb-400.jpg

Blogger JB Nguyễn Hữu Vinh, ảnh chụp trước đây tại Hà Nội.

“Tôi nghĩ lời kêu gọi của các tổ chức dân sự nó cũng nằm trong một phong trào đòi trả tự do cho LS Nguyễn Văn Đài và cộng sự là cô Lê Thu Hà. Việc đó phản ánh nguyện vọng của những người dân chân chính cũng như các nhóm tổ chức xã hội dân sự, người ta lên tiếng để cho quyền của con người, quyền tự do bày tỏ chính kiến, quyền được nói lên ý nghĩ của mình phải được tôn trọng, đồng thời phản đối những việc dùng những điều luật mơ hồ, điều luật có thể suy diễn ra bất cứ trường hợp nào theo ý chủ quan của nhà cầm quyền để đàn áp những tiếng nói trung thực thẳng thắn, những tiếng nói ưu tư về hiện tình đất nước về tình hình dân tộc. Tôi cho rằng đây là một trong những hành động mạnh mẽ để đòi tự do cho những người dám nói lên tiếng nói của mình, chẳng hạn như LS Nguyễn Văn Đài và cộng sự của anh là cô Lê Thu Hà, những người bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền tự do của con người. Những người đó cần phải được bảo vệ. Tôi cho đó là hành động kịp thời và đúng đắn của những nhóm xã hội dân sự và những người có lương tâm, có lương tri đối với những hành động trên đất nước này đối với các công dân của mình của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam hiện nay.”

Sẽ tác động đến nhà cầm quyền?

Cũng có nhiều thắc mắc liệu khi nhà nước Việt Nam đang gấp rút để chuẩn bị đại hội đảng 12 thì liệu những lời kêu gọi đó sẽ có tác động gì đến nhà cầm quyền hay không? Theo Bà Kim Chi, người vẫn còn thẻ đảng cho rằng:

“Tôi nghĩ nó có tác dụng, rất tác dụng là khác, bởi vì nhà cầm quyền Việt Nam luôn luôn không nhớ những gì mình hứa, nên đây là một việc làm cần thiết mà có thể gọi là bài chúng tôi được học là bảo vệ nhân quyền. LS Đài hay Lê Thu Hà và nhiều những luật sư khác và nhiều người khác nữa, kể cả nông dân, dân oan ở ba miền họ cũng đã nhờ những sự hiểu biết từ những người dấn thân như LS Đài mà bây giờ họ cũng biết tranh đấu cho nhân quyền dân chủ.”

Tôi nghĩ nó có tác dụng, rất tác dụng là khác, bởi vì nhà cầm quyền Việt Nam luôn luôn không nhớ những gì mình hứa, nên đây là một việc làm cần thiết mà có thể gọi là bài chúng tôi được học là bảo vệ nhân quyền.
-Bà Kim Chi

Nhưng theo Blogger JB Nguyễn Hữu Vinh lời kêu gọi này của 26 nhóm xã hội dân sự sẽ không có nhiều tác dụng, nhưng ít nhiều cũng giúp thức tỉnh một số chưa biết việc mình làm:

“Thật ra có thể nói rằng rất nhiều lời kêu gọi, những tiếng nói từ trong nước cũng như ngoài nước từ trước đến nay có nhiều áp lực, có những cảnh tỉnh đối với nhà cầm quyền Việt Nam. Tuy nhiên nhiều khi đối với nhà cầm quyền điều đó cũng có thể không có tác dụng mấy, bởi vì khi họ đã làm những việc theo sự tính toán của họ.

Tôi cũng có bài viết là chẳng có gì dễ dàng hơn việc bắt một công dân của mình để làm con tin để đổi chác trong các vấn đề của đất nước, vấn đề về nhân quyền khi gia nhập TPP hoặc gia nhập hiệp định thương mại quốc tế chẳng hạn, những vấn đề như vậy thì Việt Nam vẫn thường xảy ra.

Khi bắt thì họ cố tình bắt bằng mọi giá nhưng khi thả thì có những điều kiện để họ được lợi trong nhiều vấn đề. Đó là một con bài, một trò mà chúng tôi thấy không lạ lùng gì. Cho nên việc nói rằng những áp lực của người dân kêu gọi thả ra thì tôi nghĩ rằng là cái tác dụng không thể không có những tác dụng lớn bởi vì thứ nhất, nó có thức tỉnh những người chưa biết việc họ làm, có những người chỉ hành động theo một cái máy móc, một phản xạ của con robot không có những lý trí trong khi làm việc đó. Bên cạnh đó sẽ có những con người sẽ được thức tỉnh, sẽ thấy ra được điều vô lý và những điểm bất nhân ở trong đó thì tình thần như vậy sẽ có những thay đổi ngay trong nội bộ của đảng cộng sản.

Cái thứ hai đặc biệt là có tác động với dân chúng, với những người trước đây còn sợ hãi chưa dám lên tiếng nói của mình thì đã đến lúc họ nhìn thấy rằng “quyền của người dân là được lên tiếng” quyền của người dân phải bảo vệ lẽ phải bảo vệ những người công chính.

Tôi cho rằng nó sẽ có rất nhiều tác dụng trong xã hội Việt Nam hiện nay, còn tác dụng đối với đảng cộng sản thì tôi nghĩ rằng trong chừng mực nào đó thì họ sẽ so sánh giữa cái được với cái mất giữa cái lợi và cái hại trong vấn đề bắt và giữ những nạn nhân này.”

Cũng xin được nhắc lại, Luật sư Nguyễn Văn Đài, là một cựu tù nhân lương tâm và Bà Lê Thu Hà, vừa bị bắt một tháng trước khi diễn ra Đại hội Đảng CS lần thứ 12. Cả hai bị cáo buộc tội “tuyên truyền chống nhà nước theo Điều 88 bộ luật hình sự, với điều luật này có thể sẽ phải chịu bản án từ ba đến 20 năm tù.

Cái duyên gặp gỡ với bạn đọc người nước ngoài

Cái duyên gặp gỡ với bạn đọc người nước ngoài

Đoàn Thanh Liêm

* * *

Tôi qua định cư bên nước Mỹ từ năm 1996, đến năm 2016 này thì đã được 20

năm rồi. Sau thời gian trị bệnh, tình trạng sức khỏe của tôi đã hồi phục khả

quan và từ trên 10 năm nay tôi đã tham gia sinh họat về văn hóa xã hội với

nhiều bạn bè cùng chí hướng – cũng như viết báo để trao đổi thảo luận với bà

con độc giả qua báo giấy cũng như trên báo điện tử. Các bài tôi viết thì hầu

hết là bằng tiếng Việt nhằm phục vụ đa số bà con người Việt mình và tôi cũng

đã nhận được nhiều đáp ứng của bạn đọc với sự khích lệ thật đáng quý. Tôi

sẽ có dịp viết chi tiết về những sự trao đổi này của bạn đọc khắp nơi ở trong

cũng như ở ngoài nước.

Nhưng tôi cũng viết một số bài bằng tiếng Anh để dành riêng cho lớp cháu

sinh trưởng ở Mỹ và nhân tiện cũng gửi cho các bạn ngọai quốc đọc nữa. Và

trong số các độc giả người nước ngòai này lại có một ít người còn thông thạo

cả tiếng Việt nữa. Nhân dịp đầu Xuân Bính Thân 2016, tôi xin ghi lại những

câu chuyện trao đổi ngộ nghĩnh lý thú giữa tôi và các bạn đọc người nước

ngòai ấy. Xin lần lượt trình bày một số danh tính các bạn đọc đó như sau đây.

1 – Anh chị Earl và Pat Martin ở tiểu bang Virginia.

Hai anh chị Martin đã từng làm việc tại Quảng Ngãi hồi trước năm 1975

trong công tác nhân đạo từ thiện của Giáo hội Tin lành Mennonite được gọi

là tổ chức Mennonite Central Committee (MCC). Bà con ở Quảng Ngãi

thường biết đến anh chị qua tên tiếng Việt là chú Kiến, cô Mai. Sau năm

1975, anh chị còn làm việc tại nhiều nước Á châu khác nữa. Từ năm 1998,

Pat giữ chức vụ Giám đốc viện Xây dựng Hòa bình Mùa hè (Summer

Peacebuilding Institute SPI) thuộc Đại học Eastern Mennonite University

(EMU) tại thành phố Harrisonburg, Virginia. Trong các bài báo trước đây, tôi

đã có nhiều dịp viết về anh chị bạn rất thân thiết này rồi. Nay tôi chỉ ghi tóm

tắt lại câu chuyện trao đổi của anh chị về các bài viết của tôi cả bằng tiếng

Việt, cả bằng tiếng Anh.

Nói chung, anh chị đều chú ý đến các bài tôi gửi qua email và luôn phản hồi

mau lẹ, đại khái như “bài này hấp dẫn đấy” (interesting), “người Mỹ chúng

tôi cần được biết đến những thông tin chính xác như trong các bài do anh

viết” v.v… Có lần Earl gọi tôi là “an wandering philosopher” (một triết gia đi

lang thang). Mới đây, sau khi đọc bài “My Two Passions in Life” (Hai niềm say mê trong đời của tôi) Earl trả lời ngay rằng đó là “Beautiful Reflections”

Người anh cả của Earl tên là Luke Martin, ông làm việc lâu năm ở Việt nam

như là một vị Mục sư thuộc Giáo hội Tin Lành Mennonite. Ông cũng như bà

vợ là Mary Martin đều khá thông thạo tiếng Việt. Khi đọc bài tôi viết về Giáo

hội Mennonite tại Mỹ, mục sư Luke nói ngay chắc là Earl đã cung cấp các tài

liệu cho tôi tham khảo để viết bài đó. Vào cuối năm 2012, tôi đã đến ngụ tại

nhà ông bà tại thành phố Allentown tiểu bang Pennsylvania. Chúng tôi vẫn

thường liên lạc với nhau qua email.

2- Giáo sư Sophie Quinn-Judge tại Đại học Temple ở thành phố Philadelphia.

Sophie từng làm việc tại Việt nam trước năm 1975 trong tổ chức nhân đạo

của giáo phái Quaker. Chị thông thạo tiếng Pháp, Nga và cả tiếng Việt nữa.

Từ nhiều năm nay, chị làm giáo sự dạy môn sử học, đồng thời cũng làm phó

giám đốc trung tâm văn hóa, triết học và xã hội Việt nam tại Đại học Temple.

Một vài lần chị còn mời tôi đến trú ngụ tại nhà của chị ở khu ngọai ô của

Philadelphia. Đôi khi chị còn mời tôi đến nói chuyện với sinh viên trong lớp

do chị hướng dẫn nữa.

Sophie Quinn-Judge còn là tác giả cuốn sách “Ho Chi Minh – The Missing

Years” xuất bản năm 2002 mà được nhiều thức giả đánh giá cao. Sophie tính

tình hồn nhiên đôn hậu dịu hiền, chị xưng mình là một Buddhist Quaker

(người Quaker mà có tinh thần Phật giáo). Mới đây, chị cho biết sắp sửa đến

tuổi nghỉ hưu rồi, nhưng cho biết là chỉ nghỉ việc giảng day, còn vẫn phụ

trách chuyện nghiên cứu cho trường Temple.

Chị thường góp ý kiến cho các bài viết của tôi. Đặc biệt là về bài tôi viết về

“Kỷ niệm vui buồn với anh chị em thuộc Trường Thanh niên Phụng sự Xã

hội” ở Việt nam trước năm 1975, thì Sophie nói là những bài như thế rất là

cần thiết để cho các thế hệ sau này hiểu biết rõ ràng hơn về những cố gắng

xây dựng xã hội ở Việt nam ngay trong thời kỳ chiến tranh trước đây nữa.

3 – Luật sư Dinah Pokempner Cố vấn trưởng của tổ chức Theo dõi Nhân

quyền Human Rights Watch (HRW) ở New York.

Từ năm 1990 – 91, tổ chức HRW đã phân công cho Dinah Pokempner là

người phụ trách về hồ sơ của tôi bị giam giữ ở Việt nam từ năm 1990. Vì thế,

nên Dinah và tôi rất gắn bó thân thiết với nhau và mỗi khi tôi đến New York

thì thường tới gặp gỡ thăm viếng chị tại văn phòng của HRW. Dinah lại còn

tham gia giảng dậy tại Đại học Columbia và mới đây vào tháng 3/2015 lúc tôi

tham dự Đại hội thường niên của tổ chức Amnesty tại Brooklyn, New York,

thì Dinah cũng mời tôi đến nói chuyện với sinh viên trong lớp do chị phụ trách giảng dạy nữa.

Dinah cũng chuyển các bài của tôi viết cho các sinh viên của chị tham khảo

vài bữa trước khi lớp học bắt đầu, nên trong lớp học chị còn đặt những câu

hỏi và nhờ tôi giải thích chi tiết rõ ràng hơn cho các sinh viên hiểu biết về bối

cảnh chính trị văn hóa ở Việt nam. Dinah nhấn mạnh đến quan điểm vững

chắc của tôi trong cố gắng góp phần xây dựng luật pháp ở Việt nam – mà

cũng vì thế mà tôi bị cộng sản bắt giữ và tuyên án xử phạt tôi 12 năm tù vì tội

“tuyên truyền chống chủ nghĩa xã hội” trong phiên xử vào năm 1992 tại Tòa

án Sài gòn.

Chị còn nói rõ hơn với sinh viên: Các em cần chú ý đến lập trường của luật

sư Liêm khi ông viết trong tài liệu từ đầu năm 1990 rằng “Truyền thống nhân

bản và nhân ái của Việt nam đã có từ lâu – đó là cơ sở vững chắc cho công

cuộc phát huy nhân quyền tại quốc gia này. Chứ quan niệm về nhân quyền

không phải chỉ là sản phẩm riêng của phương Tây đề xuất ra…”

Sau buổi thuyết trình, Dinah mời tôi ra quán uống cà phê và nói chuyện thêm.

Tôi hỏi Dinah: Sinh viên của chị họ phê phán về tôi ra sao? Dinah vừa nói

vừa cười thật tươi rằng: Các em đó gọi anh là một “Rockstar”đấy. Khi về nhà

bạn Dick Hughes ở Manhattan, tôi thuật lại chuyện sinh viên ở Columbia của

Dinah, họ gọi tôi là rockstar đó, Dick cười ngất, anh nói: Mister Liêm quả

thật là nổi danh với chuyện được sinh viên tặng cho cái danh hiệu Rockstar

như vậy đó!

4 – Giáo sư Olga Dror tại Đại học Texas A & M (TAMU)

Olga Dror là người gốc Do Thái sinh trưởng ở Nga. Chị học chuyên về ngôn

ngữ và văn hóa Việt nam và đã có thời làm cho đài phát thanh Moscow phần

tiếng Việt. Hiện chị làm giáo sư giảng dạy về lịch sử tại Đại học TAMU. Chị

là người dịch cuốn sách Giải Khăn Sô Cho Huế của Nhã Ca sang tiếng Anh –

cuốn sách này đã được Nhà xuất bản Đại học Indiana cho ấn hành vào năm

2014 và tôi cũng đã có dịp giới thiệu với bà con độc giả người Việt vào đầu

năm 2015 vừa rồi.

Chị cũng là tác giả một cuốn sách nghiên cứu về Công chúa Liễu Hạnh mà

được nhà xuất bản Đại học Hawaii ấn hành vào năm 2007. Từ ít lâu nay,

Olga chuyên nghiên cứu đối chiếu về giáo dục tại 2 miền Bắc và Nam Việt

nam trong thời kỳ chiến tranh 1965 – 1975.

Từ đầu năm 2015 đến nay, tôi thường hay trao đổi thư từ và bài viết với Olga.

Cụ thể như khi tôi gửi cho chị loạt bài “Thanh thiếu niên và Công tác xã hội

tại miền Nam hồi trước năm 1975”, thì Olga trả lời rằng loạt bài này rất sinhđộng và góp phần vào việc tìm hiểu tình hình xã hội ở Việt nam trong thời kỳ

chiến tranh trước đây.

Phu quân của chị là Keith Taylor, thì cũng là một giáo sư chuyên nghiên cứu

và giảng dạy về lịch sử và văn hóa Việt nam tại đại học danh tiếng Cornell

nữa.

5 – Doug Hostetter, Giám đốc văn phòng “MCC Liaison Office with the

United Nations” (Văn phòng Liên lạc của MCC với Liên Hiệp Quốc).

Doug từng làm việc thiện nguyện tại Tam Kỳ trong tổ chức MCC hồi trước

năm 1968. Sau anh về Mỹ và tham gia tích cực trong phong trào sinh viên

chống chiến tranh hồi đầu thập niên 1970. Anh nổi tiếng vì họat động trong

nhiều tổ chức tranh đấu xây dựng hòa bình như Fellowship of Reconciliation

(FOR). Từ trên 10 năm nay anh là Giám đốc văn phòng của MCC liên lạc với

Liên Hiệp Quốc, vì thế lần nào đến New York tôi cũng đến gặp gỡ trao đổi

với anh tại văn phòng kế cận với khuôn viên của trụ sở LHQ.

Chúng tôi vẫn thường trao đổi thư từ với nhau qua email. Đặc biệt dịp 30/4

năm 2015, tôi có gửi cho Doug bài viết bằng Anh ngữ về những vụ tàn sát

của phe cộng sản Việt nam đối với người thuộc phe quốc gia trong các năm

1945 – 47 lúc họ vừa mới nắm được quyền hành trong tay của mình. Đọc

xong, Doug trả lời ngay cho tôi; “Các vụ thảm sát này không hề được phong

trào hòa bình (the peace movement) nhắc đến trước đây vào hồi đầu thập

niên 1970!”

6 – Trao đổi với anh bạn Danut Manastireanu từ xứ Rumania.

Đây là người bạn mà tôi chưa hề trực tiếp gặp mặt, nhưng từ vài ba năm nay

chúng tôi vẫn liên lạc thư từ với nhau qua email. Lý do là anh bạn Danut này

hiện vẫn sinh sống tại quê nhà ở nước Rumania bên Đông Âu. Anh thường

cho đăng bài của tôi viết bằng tiếng Anh lên Google để nhiều người khắp nơi

có thể đọc được nữa. Tôi hy vọng khi qua thăm bà con bên Âu châu, thì sẽ có

dịp gặp mặt với anh để hàn huyên tâm sự nhiều. Anh làm việc cho tổ chức

World Vision tại Rumania.

7 – Trao đổi với chị Annette làm việc tại chi nhánh Bưu điện Bolsa, thành phố

Westminster, California.

Chị Annette làm việc lâu năm tại Bưu điện Bolsa là nơi mà phần đông bà con

người Việt tại khu vực Little Saigon đều biết đến. Mấy năm gần đây, tôi hay

gửi cho chị những bài tôi viết bằng tiếng Anh. Có lần sau khi đọc bài viết về

chiến tranh Việt nam, thì Annette đã nói với tôi, đại khái như thế này: “Trước

khi được đọc bài viết của anh, thì tôi thật không hề biết là người cộng sản ở

Việt nam lại có thể tàn ác đến như thế…” (I didn’t know that the communists

in Vietnam are so atrocious).

8 – Trao đổi với chị Sophie Richardson tại văn phòng HRW ở thủ đô

Washington DC.

Từ cuối thập niên 1980, hồi còn rất trẻ Sophie Richardson đã khởi sự tham

gia họat động tại Cambodia với các tổ chức phi chính phủ (NGO – Non-

Governmental Organisations). Và sau ít lâu thì chị gia nhập với tổ chức HRW

và từ 20 năm nay làm việc tại văn phòng của tổ chức này ở Washington DC.

Sophie được nhiều bà con người Việt chúng ta biết đến và mến chuộng vì chị

thường ra điều trần tại Quốc Hội Mỹ để tố cáo những vi phạm nhân quyền

của chính quyền cộng sản Hà nội.

Và mỗi khi tôi đến thành phố này, thì chúng tôi thường gặp gỡ chuyện trò

trao đổi thông tin với nhau. Sophie thông thạo tiếng Hoa, luận án thi văn

bằng tiến sĩ của chị là về tình hình chính trị ở Trung quốc. Gần đây, Sophie

được HRW bố trí phụ trách riêng về tình hình ở Trung quốc.

Có lần, Sophie giải thích cho tôi: “Anh biết không, cái tên Sophie của tôi là

từ tiếng Hy lạp có nghĩa là wisdom (minh triết). Tôi rất thích cái tên này do

cha mẹ chọn cho tôi đấy…” Tôi bèn trả lời: “Chị cũng biết đấy, tên của tôi là

Thanh Liêm có nghĩa là Honesty. Nhưng các bạn quen biết lại còn gọi tôi là

một philosopher nữa. Như vậy, thì giữa Sophie và tôi có sự liên hệ mật thiết

đấy nhỉ…” Sophie hiểu ngay ý nghĩa khôi hài của tôi và cười thật tươi.

Gần đây, sau khi đọc bài “My Two Passions” của tôi, Sophie trả lời ngay qua

email: “ Rất cảm ơn anh đã chia sẻ bài viết này với tôi. Ví chính tôi cũng có 2

niềm say mê giống như anh vậy – đó là sách báo và bạn hữu”.

9 – Trao đổi với các bạn trong nhiều cuộc gặp gỡ khác.

 Tôi tham gia sinh họat với tổ chức Amnesty International tại Mỹ từ nhiều

năm nay, ở cả 3 cấp bậc: – Họp thường xuyên hàng tháng tại địa phương gọi

là local group số 178 ở thành phố Irvine – cấp miền gồm các tiểu bang khu

vực miền Tây nước Mỹ gọi là Western Regional họp mỗi năm vào tháng 11 –

và cấp tòan quốc trong các Đại hội Thường niên họp vào tháng 3 gọi là

Annual General Meeting (AGM). Vì thế mà tôi có cơ hội gặp gỡ trao đổi thân

mật với rất nhiều bạn hữu từ nhiều quốc gia khác nhau mà lại có cùng một

chí hướng theo đuổi lý tưởng bảo vệ nhân quyền.

Số bạn này quá đông, tôi không thể nào kể ra hết danh tính của từng người

trong số cả ngàn các bạn đó được. Thường tôi chuyển một số bài mình viết

cho các bạn ấy đọc và rất nhiều bạn đã gửi phản hồi tích cực lại cho tôi. Đó là

cái duyên quen biết gắn bó lâu dài của tôi với các bạn trong khuôn khổ đại

gia đình của tổ chức Ân Xá Quốc Tế đó vậy.

Cũng tương tự như thế, qua nhiều cuộc hội thảo nơi các đại học tại những

tiểu bang thuôc khu vực miền Đông nước Mỹ, tôi cũng có thêm sự quen biết

gần gũi với khá nhiều các bạn khác nữa. Và chúng tôi đều có những trao đổi

thân tình thuận thảo với nhau trong tinh thần nhân bản tiến bộ và tương kính.

Đối với tôi, thì rõ ràng những cuộc gặp gỡ trao đổi gắn bó thân thiết với các

bạn người Mỹ cũng như với những bạn hữu quốc tế như thế – đó là một

phương cách thuận lợi để mình hội nhập êm thắm nhịp nhàng vào với dòng

chính của xã hội nước Mỹ – là nơi mà một số khá đông lên đến gần 2 triệu

người Việt chúng ta đã chọn lựa đi đến sinh sống lập nghiệp lâu dài kể từ sau

năm 1975 vậy.

Nói chung, thì với chiều hướng tòan cầu hóa về các mặt chính trị, kinh tế, xã

hội cũng như văn hóa tinh thần – con người ngày nay có sự tôn trọng, thông

cảm và liên đới gắn bó mật thiết với nhau mỗi ngày càng thêm bền chặt hơn.

Và đó là điều giúp chúng ta có được sự tin tưởng và niềm phấn khởi cho

tương lai sắp tới của nhân lọai trong thế kỷ XXI này vậy./

Westminster California, cuối năm Ất Mùi 2015

Đoàn Thanh Liêm

NHÂN ĐỨC

NHÂN ĐỨC

Fr. Huynhquảng  

Kính gởi lời chào thân ái đến quí bạn hữu đã đồng hành và chia sẻ mục Sống Sao Cho Đẹp qua chín mươi bài vừa qua. Đời người vẫn còn đó những biến chuyển đổi thay; nổi thao thức cho một cuộc đời có ý nghĩa hay và đẹp vẫn bám chặt trong con tim khối óc của mỗi chúng ta. Với tinh thần học hỏi trao đổi giúp nhau sống tốt hơn, tác giả mục Sống Sao Cho Đẹp xin tiếp tục chia sẻ loạt bài cuối với chủ đề mới: Nhân đức.

* * *

Theo bạn, cuộc đời như thế nào được gọi là có ý nghĩa hay và đẹp? Câu hỏi này tựa như thật đơn giản, nhưng thực ra cả nhân loại từ nhiều ngàn năm qua vẫn đi tìm câu trả lời cho nó. Các nhà triết học, tôn giáo vẫn đi tìm câu trả lời cho nó; và đến lượt chúng ta hôm nay vẫn đi tìm câu trả lời cho nó. Tại sao nó khó quá vậy? Xin thưa, vì để trả lời cho câu hỏi về một cuộc đời hay và đẹp, không ai có thể thoả mãn câu trả lời này qua những minh giải lý thuyết của những người khác, nhưng chỉ thực sự hay và đẹp khi mình cảm nghiệm được cuộc đời hay và đẹp trong cuộc sống. Nói cách khác, đó là sự cảm nghiệm một cuộc sống hạnh phúc trong chính mình. Nhưng để đạt được sự hạnh phúc ấy, bên cận những yếu tố trợ lực, cũng có những yếu tố trở lục. Có những yếu tố trợ lực giúp chúng ta đạt hạnh phúc dễ dàng, nhưng cũng có những yếu tố trở lực ngăn cản chúng ta đạt hạnh phúc. Dầu vậy, có khi những yếu tố trở lực này đôi khi lại trở nên nguồn trợ lực khi chúng ta biết tận dụng nó cho hợp lý. Nói tóm lại, các tôn giáo, các triết gia phần nào chỉ cho chúng ta thấy đâu là trợ lực và đâu là trở lực trong hình trình đi tìm hạnh phúc cho mỗi đời người. Nhân đức chính là yếu tố trợ lực cho chúng ta đạt được hạnh phúc.

Nhân đức là gi? Thật đơn giản, Giáo lý Công giáo định nghĩa như sau: “Nhân đức là những thói quen tốt và bền vững, giúp ta làm sự thiện một cách dễ dàng hơn” (GLCG # 1803). Có hai loại nhân đức, nhân đức nhân bản và nhân đức hướng thần. Trong loạt bài cuối của mục SSCĐ, chúng ta sẽ lần lượt ôn lại bốn nhân đức nhân bản chính yếu và ba nhân đức hướng thần. Bốn nhân đức nhân bản chính yếu bao gồm: khôn ngoan, công bằng, dũng cảm và tiết độ; ba nhân đức hướng thần bao gồm: đức tin, đức cậy và đức mến.

* * *

Nhân đức là thói quen tốt, và bền vững. Nhân đức có thể đạt được qua tập luyện, tuy nhiên việc tập luyện nhân đức không chỉ như là việc rèn luyện một kỹ thuật nào đó (ví dụ như chơi thể thao), nhưng nó là một sự biến đổi con người – điều này tạo ra tính bền vững; nó trở nên như bản tính tự nhiên thứ hai trong người chúng ta.

Giáo sư Kinh thánh Yohanna Katanacho, người Palestine bị cho là đối tượng bị tình nghi nằm trong nhóm người khủng bố tại Israel. Ông thường xuyên bị ngăn chặn và bị kiểm tra thẻ căn cước; có lúc ông bị giam giữ hằng giờ để bị thẩm vấn. Điều này làm ông vô cùng bực bội và căm thù những người lính Israel. Là người rao giảng Lời Chúa, ông hiểu rằng Chúa dạy phải yêu thương kẻ thù. Nhưng trong trường hợp này, làm sao ông có thể tha thứ và yêu thương những “kẻ thù” làm phiền và bắt bớ ông một cách vô cớ?!

Sau nhiều tháng trăn trở và cầu nguyện, ông cảm nghiệm được rằng, tình yêu kẻ thù mà Tin Mừng mời gọi không phải là loại tình yêu cảm tính, nhưng là một hành động. Nhưng phải làm gì để chứng tỏ tình yêu qua hành động với những người lính này? Ông nghĩ ngay tới việc “chia sẻ Lời Chúa” với những người lính. Nhưng làm cách nào để làm cho những người lính đối thoại với ông trên đường phố? Ông làm những mãnh giấy nhỏ có in đậm câu Lời Chúa trích từ sách Isaiah, “Yêu thật lòng” bằng tiếng Do Thái. Cứ mỗi lần bị chặn lại và yêu cầu đưa thẻ căn cước, ông đều tặng cho người lính câu Lời Chúa này. Vì câu Lời Chúa bằng tiếng Do Thái, nên những người lính thường hỏi han và trao đổi với ông trước khi để ông đi. Sau một thời gian, ông Yohanna nhận ra sự biến đổi trong con người ông; ông không còn cảm thấy hận thù và nhục nhả trong lòng mình nữa. Cũng hoàn cảnh đó, những con người đó, nhưng trong ông đã thay đổi khi gặp những người lính trên đường. Vì thế, khi bắt đầu đi ra khỏi nhà, ông đều cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin để cho con bị chận lại để con chia sẻ tình yêu của Chúa Kitô cho họ.”

* * *

Mẫu chuyện trên giúp chúng ta suy nghĩ đến việc luyện tập nhân đức. Ai trong chúng ta cũng thường hay gặp phải những chuyện không vừa lòng, trái ý trong cuộc đời. Có nhiều cách để vượt qua những trở ngại khó khăn đó, nhưng nếu chúng ta giải quyết bằng cách lấy mình làm trung tâm, có lợi cho mình, mà gạt Chúa và tha nhân ra khỏi bức tranh đời mình, thì có lẽ thành quả sẽ không đạt và bình an cũng không chiếm ngự được. Vì thế, tập nhân đức trước hết và cần trên hết chính là tập sống với Chúa. Lấy Chúa làm trung tâm chi phối mọi sinh hoạt, suy nghĩ của đời ta. Chỉ trong Chúa, ta mới thực sự trở nên người biết sống đẹp và có ý nghĩa.

Fr. Huynhquảng

Đề Nghị Đầu Năm: Để (Yên) Cho Người Về Sơn La

Đề Nghị Đầu Năm: Để (Yên) Cho Người Về Sơn La

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

RFA

Bác về … im lặng. Con chim hót

thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ

Tố Hữu

Tôi sống nhiều về nội tâm nên rất thích những người tính tình hướng nội. Ba nhân vật mà tôi đặc biệt có thiện cảm, trong thời gian gần đây, là bà Lê Linh Lan, ông Nguyễn Hoằng, và ông Nguyễn Thanh Sơn. Cả ba vị đại sứ này đều có sáng kiến “đột xuất” là đặt tượng đài và điện thờ của Chủ Tịch Hồ Chí Minh ngay trong khuôn viên sứ quán.

Đại Sứ Ba Lan cùng phu nhân đang trong nghi lễ “nhập hồn vào tượng Bác.”

 Ảnh và chú thích: Đàn Chim Việt

Tượng ông Hồ Chí Minh trong không gian tâm linh của Đại Sứ Quán

VN tại Nga. Ảnh và chú thích: BBC

Dâng hương trước bàn thờ Bác tại Đại sứ quán Việt Nam. Ảnh: Việt Hòa/Mexico

Qúi vị đại sứ Việt Nam tại Nga, Tây Ban Nha, và Ba Lan – rõ ràng – đều là những nhân vật thức thời. Chớ qua “bốn mươi năm không treo được cờ sao ra ngoài khuôn viên sứ quán” thì tìm đâu ra nơi để mà dựng tượng đài cho Bác. Chỗ nào thiên hạ cũng xua tay, lắc đầu quầy quậy.

Ngày 3 tháng 9 năm 2015 vừa qua, VOA  buồn bã loan tin:

Việc hội đồng thị trấn Newhaven, Sessex, Anh chấp nhận kế hoạch của Đại sứ quán Việt Nam định dựng một bức tượng mới nhìn ra bến cảng đã gây tranh cãi tại cả địa phương lẫn trên mạng trực tuyến.

Dân biểu địa phương Maria Caulfied đã kêu gọi từ bỏ kế hoạch dựng bức tượng Hồ Chí Minh, và gọi ông là “một nhà độc tài cộng sản quá cố đã gây ra hàng trăm ngàn cái chết…”

Mấy hôm sau (hôm 8 tháng 9 năm 2015) trang vietinfo.eu lại âu sầu loan một tin buồn khác, liên quan đến dự tính dựng tượng của Bác ở nước Cộng Hoà Séc: “Sau nhiều ý kiến và văn bản phản đối của các tổ chức và cá nhân, thành phố Chrastava đã bác bỏ ‘giấc mơ’ này của ông Đại sứ.”

Trong thư phản đối của kỹ sư Nguyễn Tùng (PTS, 72 tuổi, công dân CH Séc. Cựu cán bộ Viện Hàn Lâm Khoa Học Tiệp Khắc) trên trang Đàn Chim Việt, có đoạn:

“Việc bia kỷ niệm được sản xuất và chi trả từ tiền của người dân nghèo khổ Việt Nam hay là từ đóng góp của cách doanh nghiệp Việt Nam dưới sức ép của Đại sứ quán là một điều sỉ nhục với chúng tôi.”

Nội dung bức thư thượng dẫn tuy hơi gay gắt nhưng những luận điểm nêu ra đều rất hợp lý, và được diễn đạt bằng ngôn từ tương đối ôn hoà/lịch sự. Điều đáng tiếc là độc giả, có vị, đã ghi lại đôi ba phản hồi (nghe) không được nhã nhặn gì cho lắm:

Reply

Chổ nào có lỗ trống là đảng và nhà nước ta tìm đủ mọi cách – mua chuộc quan chức địa phương – để nhét bác Hồ vào… Đúng là mặt dầy, mày dạn!

Mà đâu phải cứ “mặt dầy, mày dạn” và cứ muốn “nhét Bác Hồ vào” chỗ nào cũng được. Đến như dân Lào mà họ cũng rẫy nẩy lên đành đạch:

Laotians Bristle at Plan to Erect Ho Chi Minh Statue in Vientiane… “I think it’s strange to erect a monument to Ho Chi Minh in Laos,” a Laotian said in an RFA call-in show recently…
“We are an independent country. If Lao leaders do this, it may indicate some deeper plan that [the citizens] don’t know about. In the future, this land may no longer belong to Laos…”
A third caller said that a statue of Ho Chi Minh in the capital was “unnecessary,” questioning what the former Vietnamese president had done for Laos to deserve such an honor.
“On the contrary, he pulled the people of Laos into the Vietnam war,” the caller said.

(Dự án dựng tượng Hồ Chí Minh tại thủ đô Vientiane bị nhân dân Lào giận dữ phản đối… người dân Lào đã công khai phản đối qua đài phát thanh RFA: “Thật là lạ lùng nếu dựng tượng HCM ở thủ đô Lào”, “Lào là một nước độc lập. Phải chăng đây là ý đồ của giới cầm quyền Lào muốn lệ thuộc vào Việt Nam?” “HCM đã làm gì ích lợi cho nhân dân Lào mà được cái vinh dự này? Trái lại, ông ta đã lôi kéo nhân dân Lào vào chiến tranh Việt Nam…” – Hoàng Ngọc-Tuấn chuyển ngữ).

Hiền hậu và dễ chịu cỡ như xứ Lào mà “nhét vào” còn không lọt thì Bác (đành) qui cố hương thôi. Nhớ cái thưở Người về Cao Bằng, mấy mươi năm trước, thiệt là bồi hồi và cảm động hết biết luôn:

Bác về … im lặng. Con chim hót

thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ

Thưở ấy, cả chim lẫn người đều hay … hót, và hót hay. Chim chóc ở Việt Nam, bây giờ, chả còn mấy con sống sót. Loại người có năng khiếu ca hót – ở đất nước này, cỡ như cái ông Tố Hữu – cũng đều chết tiệt cả rồi.

Bởi vậy, lần này Bác lại về nhưng không thấy chim chóc và người ngợm líu lo như trước nữa – dù Hội Đồng Nhân Dân Tỉnh Sơn La đã thông qua đề án xây dựng tượng đài Bác Hồ, với vốn đầu tư của dự án lên đến 1.400 tỷ đồng (“phát xuất từ tình cảm”) với sự đồng thuận của cả Đảng và Nhà Nước.

Không đứa nào ca hót/tán tụng (đã đành) cả lũ còn đồng loạt bàn ra, hoặc bàn lui:

  • Đại Biểu Quốc Hội Cao Sỹ Kiêm: Việc Hội đồng nhân dân tỉnh Sơn La quyết định ra nghị quyết thông qua đề án xây dựng tượng đài với tổng mức đầu tư khoảng 1.400 tỷ đồng là điều không thể chấp nhận được.
  • Ông Phan Đình Tân, Chánh Văn phòng, Người phát ngôn Bộ VHTT&DL:…trong hoàn cảnh hiện nay, và nhất là năm nào Chính phủ cũng phải cấp tiền cho Sơn La thì không nên.
  • Kỹ sư Bùi An: Không ai cấm một người bán vé số bước vào tiệm và gọi tô phở bò Kobe có giá bằng 1/3 thu nhập của mình, nhưng ai cũng biết là không nên làm vậy.

Ô hay, chớ nếu “không nên làm vậy” thì làm sao khác đây – cha nội? Bác đã bị nhân dân hữu sản (và vô sản) trên toàn thế giới kỳ thị  “tới bến” rồi thì phải tìm một chỗ để Người về chớ. Mà ngoài Sơn La ra thì còn chỗ nào an lành hơn được nữa?

Wecome to Sơn La. Ảnh: VOV

Báo Thế Giới Mới vừa rầu rĩ cho hay đây nè:

Người Việt Nam yêu cầu Facebook lập lại tên Sài Gòn thay vì TP Hồ Chí Minh. Trong thỉnh nguyện thư gửi Mark Zuckerberg, nhà sáng lập trang mạng xã hội Facebook, ông Nghĩa Bùi, cư dân thành phố Allen của tiểu bang Texas nói rằng hàng ngàn, và có thể là hàng triệu người sử dụng Facebook được sinh ra tại Sài Gòn, Việt Nam, muốn thiết lập địa danh đúng nơi đã xuất phát là Sài Gòn, thay vì thành phố Hồ Chí Minh, không chính xác về phương diện địa lý lẫn chính trị.

Người Việt Nam khắp thế giới có nguồn gốc xuất thân là Sài Gòn đều muốn Facebook xác lập nơi mà họ xuất thân trên mạng Facebook một cách chính xác. Người sử dụng Facebook cho rằng, đây là sự kiện có ý nghĩa đối với tất cả mọi nơi trên thế giới lâu nay bị buộc phải chấp nhận một cái tên xa lạ đối với họ.

Bức thư ngỏ được tung ra chưa đầy 43 phút đồng hồ đã được 3,000 người tán đồng. Nghĩa Bùi, cư dân Allen, tiểu bang Texas, Hoa Kỳ là người từ 2 ngày trước đã ký tên vào thỉnh nguyện thư đòi xác lập tên Sài Gòn trên.

Rất nhiều người Việt Nam từ Úc, Malaysia, Houston, Hoa Kỳ và đông nhất vẫn là người dân Sài Gòn đều cho rằng, Sài Gòn mới là tên đúng của thành phố Sài Gòn xưa, chớ không phải là Hồ Chí Minh. Quý bạn đọc có thể ký tên vào đơn thỉnh nguyện yêu cầu Facebook hiển thị tên Sài Gòn thay vì Hồ Chí Minh bằng cách log in vào change.org, đang cần thêm 1,891 người nữa để đạt được 10000 người ủng hộ.

Những em bé Sơn La ngực trần, chân không dép giữa mùa Đông. Ảnh: tiin.vn

Cái thành phố rực rỡ tên vàng, rõ ràng, không còn rực rỡ và an ninh nữa. Hà Nội (e) rồi cũng vậy thôi. Bộ Tư Lệnh Bảo Vệ Lăng Bác chỉ chận được bom đạn hay chất nổ thôi, chứ làm sao ngăn nổi tâm tư sôi nổi của người dân:

“Chúng ta đề nghị Tổng cục Thống kê và Bộ Tài chính thử tính sổ xem 30 năm qua ta đã tiêu tốn vào lăng Người tổng số là bao nhiêu tiền của… Và thử xem riêng ngân sách dự chi cho năm 2000 xem có thể xây được bao nhiêu trường học cho một ngàn xã hãy còn vắng về giáo dục ở miền cao. Có thể xây bao nhiêu căn nhà để nuôi trẻ mồ côi… Có thể xây bao căn nhà dưỡng lão cho người già lão cô đơn, không nơi nương tựa. Có thể xây bao nhiêu nhà thương làm phúc chữa bệnh cho người nghèo…”

Bác đâu có thể nằm yên mãi trong lăng được khi mà bệnh viện hết tiền trả lương cho bác sĩ, bệnh nhân thì chen chúc mấy mạng trên một giường, và nợ công thì chất chồng hàng ngàn Mỹ Kim trên lưng của đám dân đen khố rách áo ôm.

Ngay cả ở nhà riêng của (nguyên) T.B.T Nông Đức Mạnh, người vốn được coi là có liên hệ cốt nhục tình thâm, Bác ngồi cũng không nóng đít. Báo Tiền Phong chỉ mới “nhá” ra có mỗi tấm hình mà dân chúng đã chửi như tát nước!

Bởi vây, với tất cả lòng thành, tôi xin đề nghị: Thôi, hãy để (yên) cho Người về Sơn La đi.

Giáo sư Ngô Bảo Châu quan ngại: “Trẻ con ăn không đủ no, áo không đủ ấm, sinh hoạt như lũ thú hoang, mà bỏ ra 1.400 tỉ để xây tượng đài thì hoặc là khốn nạn, hoặc là thần kinh.” Ông giáo có thể là một nhà toán học có tâm nhưng chắc chắn thiếu tầm, cái tầm của những người chuyên hành nghề cách mạng.

Những vùng đất đói, nghèo, dốt nát… không chỉ là chốn lý tưởng cho cách mạng nẩy mầm mà còn là nơi an toàn cho … cách mạng (khi cần)có chỗ lánh thân nữa. Xét theo tiêu chuẩn này thì Sơn La, rõ ràng, hội đủ điều kiện “lý tưởng” để Bác về nương náu.

Chớ có chỗ nào an toàn hơn được? Còn Người an toàn thêm được bao lâu (nữa) thì lại là chuyện khác. Đã đến nông nỗi này rồi thì được ngày nào biết ngày ấy thôi.