Thằng Khùng -Phùng Quán

Thằng Khùng -Phùng Quán

(Cha chính Nguyễn văn Vinh – Giáo-phận  Hà nội ]

Thằng Khùng (viết lại theo lời kể của nhà thơ Nguyễn Tuân)

“… Anh ta vào trại trước mình khá lâu, bị trừng phạt vì tội gì, mình không rõ. Người thì bảo anh ta phạm tội hình sự, người lại bảo mắc tội chính trị. Nhưng cả hai tội mình đều thấy khó tin. Anh ta không có dáng dấp của kẻ cướp bóc, sát nhân, và cũng không có phong độ của người làm chính trị. Bộ dạng anh ta ngu ngơ, dở dại dở khùng. Mình có cảm giác anh ta là một khúc củi rều, do một trận lũ cuốn từ một xó rừng nào về, trôi ngang qua trại, bị vướng vào hàng rào của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó. Nhìn anh ta, rất khó đoán tuổi, có thể ba mươi, mà cũng có thể năm mươi. Gương mặt anh ta gầy choắt, rúm ró, tàn tạ, như một cái bị cói rách, lăn lóc ở các đống rác. Người anh ta cao lòng khòng, tay chân thẳng đuồn đuỗn, đen cháy, chỉ toàn da, gân với xương.

Trên người, tứ thời một mớ giẻ rách thay cho quần áo. Lúc đầu mình cứ tưởng anh
ta bị câm vì suốt ngày ít khi thấy anh ta mở miệng dù là chỉ để nhếch mép cười.
Thật ra anh ta chỉ là người quá ít lời. Gặp ai trong trại, cả cán bộ quản giáo lẫn phạm nhân, anh ta đều cúi chào cung kính, nhưng không chuyện trò với bất cứ ai. Nhưng không hiểu sao, ở con người anh ta có một cái gì đó làm mình đặc biệt chú ý, cứ muốn làm quen… Nhiều lần mình định bắt chuyện, nhưng anh ta nhìn mình với ánh mắt rất lạ, rồi lảng tránh sau khi đã cúi chào cung kính.

Hầu như tất cả các trại viên, kể cả những tay hung dữ nhất, cũng đều thương anh ta. Những trại viên được gia đình tiếp tế người để dành cho anh ta viên kẹo, miếng bánh, người cho điếu thuốc.

Ở trại, anh ta có một đặc quyền không ai tranh được, và cũng không ai muốn tranh. Đó là khâm liệm tù chết. Mỗi lần có tù chết, giám thị trại đều cho gọi “thằng khùng” (tên họ đặt cho anh ta) và giao cho việc khâm liệm. Với bất cứ trại viên chết nào, kể cả những trại viên đã từng đánh đập anh ta, anh ta đều khâm liệm chu đáo giống nhau. Anh ta nấu nước lá rừng, tắm rửa cho người chết, kỳ cọ ghét trên cái cơ thể lạnh ngắt cứng queo, với hai bàn tay của người mẹ tắm rửa cho đứa con nhỏ.

Lúc tắm rửa, kỳ cọ, miệng anh ta cứ mấp máy nói cái gì đó không ai nghe rõ. Anh ta rút trong túi áo một mẩu lược gãy, chải tóc cho người chết, nếu người chết có tóc. Anh ta chọn bộ áo quần lành lặn nhất của người tù, mặc vào rồi nhẹ nhàng nâng xác đặt vào áo quan được đóng bằng gỗ tạp sơ sài.

Anh ta cuộn những bộ áo quần khác thành cái gói vuông vắn, đặt làm gối cho người chết. Nếu người tù không có áo xống gì, anh ta đẽo gọt một khúc cây làm gối. Khi đã hoàn tất những việc trên, anh ta quỳ xuống bên áo quan, cúi hôn lên trán người tù chết, và bật khóc.

Anh ta khóc đau đớn và thống thiết đến nỗi mọi người đều có cảm giác người nằm trong áo quan là anh em máu mủ ruột thịt của anh ta. Với bất cứ người tù nào anh ta cũng khóc như vậy. Một lần giám thị trại gọi anh ta lên: – Thằng tù chết ấy là cái gì với mày mà mày khóc như cha chết vậy? 

Anh ta chấp tay khúm núm thưa:

– Thưa cán bộ, tôi khóc vờ ấy mà. Người chết mà không có tiếng khóc

tống tiễn thì vong hồn cứ lẩn quẩn trong trại. Có thể nó tìm cách làm hại cán bộ. Lúc hắn còn sống, cán bộ có thể trừng trị hắn, nhưng đây là vong hồn hắn, cán bộ muốn xích cổ, cũng không xích được. 

Thằng khùng nói có lý. Giám thị trại mặc, cho nó muốn khóc bao nhiêu thì khóc. Nhưng mình không tin là anh ta khóc vờ. Lúc khóc, cả gương mặt vàng úa, nhăn nhúm của anh ta chan hòa nước mắt. Cả thân hình gầy guộc của anh ta run rẩy. Mình có cảm giác cả cái mớ giẻ rách khoác trên người anh ta cũng khóc…

Trong tiếng khóc và nước mắt của anh ta chan chứa một niềm thương xót khôn tả.
Nghe anh ta khóc, cả những trại viên khét tiếng lỳ lợm, chai sạn, “đầu chày, đít thớt, mặt bù loong” cũng phải rơm rớm nước mắt. Chỉ có nỗi đau đớn chân thật mới có khả năng xuyên thẳng vào trái tim người. Mình thường nghĩ ngợi rất nhiều về anh ta. Con người này là ai vậy? Một thằng khùng hay người có mối từ tâm lớn lao của bậc đại hiền?…

Thế rồi, một lần, mình và anh ta cùng đi lùa trâu xuống con sông gần trại cho dầm nước. Trời nóng như dội lửa. Bãi sông đầy cát và sỏi bị nóng rang bỏng như than đỏ. Trên bãi sông mọc độc một cây mủng già gốc sần sùi tán lá xác xơ trải một mảng bóng râm bằng chiếc chiếu cá nhân xuống cát và sỏi. Người lính gác ngồi trên bờ sông dốc đứng, ôm súng trú nắng dưới một lùm cây. Anh ta và mình phải ngồi trú nắng dưới gốc cây mủng, canh đàn trâu ngụp lặn dưới sông. Vì mảng bóng râm quá hẹp nên hai người gần sát lưng nhau. Anh ta bỗng lên tiếng trước, hỏi mà đầu không quay lại:

– Anh Tuân này – không rõ anh ta biết tên mình lúc nào – sống ở đây anh thèm cái gì nhất?

– Thèm được đọc sách – mình buột miệng trả lời, và chợt nghĩ, có lẽ anh ta chưa thấy một cuốn sách bao giờ, có thể anh ta cũng không biết đọc biết viết cũng nên.

– Nếu bây giờ có sách thì anh thích đọc ai? – anh ta hỏi. 

– Voltaire! – một lần nữa mình lại buột miệng. Và lại nghĩ: Nói với anh ta về Voltaire thì cũng chẳng khác gì nói với gốc cây mủng mà mình đang ngồi dựa lưng. Nhưng nhu cầu được chuyện trò bộc bạch với con người nó cũng lớn như nhu cầu được ăn, được uống… Nhiều lúc chẳng cần biết có ai nghe mình, hiểu mình hay không. Đó chính là tâm trạng của anh công chức nát rượu Marmeladov bất chợt nói to lên những điều tủi hổ nung nấu trong lòng với những người vớ vẩn trong một quán rượu tồi tàn, mà Dostoievsky miêu tả trong “Tội ác và Trừng phạt”.

Anh ta ngồi bó gối, mắt không rời mặt sông loá nắng, hỏi lại:

– Trong các tác phẩm của Voltaire, anh thích nhất tác phẩm nào?

Mình sửng sốt nhìn anh ta, và tự nhiên trong đầu nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ: một người nào khác đã ngồi thay vào chỗ anh ta… Mình lại liên tưởng đến một cậu làm việc cùng phòng hồi còn ở Đài phát thanh, tốt nghiệp đại học hẳn hoi, đọc tên nhạc sĩ Chopin (Sôpanh) là Cho Pin.

Mình trả lời anh ta:

– Tôi thích nhất là Candide.

– Anh có thích đọc Candide ngay bây giờ không?

Không đợi mình trả lời, anh ta nói tiếp:

– Không phải đọc mà nghe… Tôi sẽ đọc cho anh nghe ngay bây giờ.

Rồi anh ta cất giọng đều đều đọc nguyên bản Candide. Anh đọc chậm rãi, phát âm
chuẩn và hay như mấy cha cố người Pháp, thầy dạy mình ở trường Providence. Mình
trân trân nhìn cái miệng rúm ró, răng vàng khè đầy bựa của anh ta như nhìn phép lạ. Còn anh ta, mắt vẫn không rời dòng sông loá nắng, tưởng chừng như anh ta đang đọc thiên truyện Candide nguyên bản được chép lên mặt sông…

Anh đọc đến câu cuối cùng thì kẻng ở trại cũng vang lên từng hồi, báo đến giờ lùa trâu về trại. Người lính gác trên bờ cao nói vọng xuống:

“Hai đứa xuống lùa trâu, nhanh lên!”.

– Chúng mình lùa trâu lên bờ đi! – anh nói.

Lội ra đến giữa sông, mình hỏi anh ta:

– Anh là ai vậy?

Anh ta cỡi lên lưng một con trâu, vừa vung roi xua những con trâu khác, trả lời:

– Tôi là cái thanh ngang trên cây thập tự đóng đinh Chúa .

Rồi anh ta tiếp:

– Đừng nói với bất cứ ai chuyện vừa rồi…

Giáp mặt người lính canh, bộ mặt anh ta thay đổi hẳn – ngu ngơ, đần độn như thường ngày.

Cuối mùa đông năm đó, anh ta ngã bệnh. Nghe các trại viên kháo nhau mình mới biết.

Thằng chuyên gia khâm liệm e đi đong. Thế là nếu bọn mình ngoẻo, sẽ không còn
được khâm liệm tử tế và chẳng có ai khóc tống tiễn vong hồn…

– những người tù nói, giọng buồn.

Mình gặp giám thị trại, xin được thăm anh ta.

Giám thị hỏi:

– Trước kia anh có quen biết gì thằng này không?

Mình nói:

– Thưa cán bộ, không. Chúng tôi hay đi lùa trâu với nhau nên quen nhau thôi.

Giám thị đồng ý cho mình đến thăm, có lính đi kèm. Anh ta nằm cách ly trong gian lán dành cho người ốm nặng. Anh ta nằm như dán người xuống sạp nằm, hai hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc chốc lại lên cơn co giật…

Mình cúi xuống sát người anh ta, gọi hai ba lần, anh ta mới mở mắt,

chăm chăm nhìn mình. Trên khoé môi rúm ró như thoáng một nét cười.  Nước mắt mình tự nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt anh ta. Anh ta thè luỡi liếm mấy giọt nước mắt rớt trúng vành môi. Anh ta thều thào nói:

– Tuân ở lại, mình đi đây… Đưa bàn tay đây cho mình…

Anh ta nắm chặt bàn tay mình hồi lâu. Một tay anh ta rờ rẫm mớ giẻ rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi, được mài tròn nhẵn như viên phấn viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên than viết vào lòng bàn tay mình một chữ nho. Chữ NHẪN .

Viết xong, anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than, và lên cơn co giật.

Người lính canh dẫn mình lên giám thị trại với bàn tay có viết chữ Nhẫn ngửa
ra. Người lính canh ngờ rằng đó là một ám hiệu.

Giám thị hỏi:

– Cái hình nguệch ngoạc này có ý nghĩa gì? Anh mà không thành khẩn khai báo,
tôi tống cổ anh ngay lập tức vào biệt giam.

Mình nói:

– Thưa cán bộ, thật tình tôi không rõ. Anh ta chỉ nói: tôi vẽ tặng cậu một đạo bùa để xua đuổi bệnh tật và tà khí.

Nghe ra cũng có lý, giám thị trại tha cho mình về lán…

Phùng Quán

________

Ghi Chú:

(*) THẰNG KHÙNG trong tù này là Cha Chính Vinh, tức là Linh mục Gioan Lasan
NGUYỄN VĂN VINH (1912-1971), của Nhà thờ lớn Hà Nội.  Bài viết của Phùng
Quán đã kể lại chuyện thật những năm, những ngày cuối trong ngục tù của Ngài.

Xin mời đọc thêm (bài kèm theo dưới đây) tiểu sử của Cha Vinh để chúng ta biết
thêm nhiều chi tiết về cuộc đời Ngài; và cũng để hiểu thêm gương phụng sự Chúa
của Ngài…. Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH, Cha chính Hà Nội, (1912 – 1971).

Tấm gương can trường.

Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH*

Cha Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh chào đời ngày 2 tháng 10 năm 1912 tại làng Ngọc
Lũ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.

Cậu Vinh, một thiếu niên vui vẻ, thông minh, có năng khiếu nghệ thuật bẩm sinh
về âm nhạc, ca hát. Cậu biết kính trên, nhường dưới, trong xứ đạo, ai cũng quý
yêu. Cha xứ Ngọc Lũ thời đó là Cố Hương, một cha người Pháp tên là Dépaulis
giới thiệu cậu lên học tại trường Puginier Hà Nội. Năm 1928, cậu học Tiểu Chủng
viện Hoàng Nguyên, Phú Xuyên, Hà Tây.

Năm 1930, thầy Vinh được cố Hương dẫn sang Pháp du học. Năm 1935, thầy vào Đại
Chủng viện St Sulpice, Paris. Ngày 20-6-1940, thầy được thụ phong linh mục ở
Limoges .

Chiến tranh thế giới xảy ra, cha Vinh phải ở lại Pháp và tiếp tục học tập.

Ngài học Văn Khoa – Triết tại Đại Học Sorbone, học sáng tác và hòa âm tại Nhạc
viện Quốc Gia. Ngài phải vừa học vừa làm. Vóc dáng nhỏ nhắn dễ thương của ngài
đã làm cho nhiều người Pháp tưởng lầm ngài là phụ nữ nên cứ chào: “Bonjour
Madame!”

Nhưng ẩn trong cái dáng vóc nhỏ bé đó là một tâm hồn rộng lớn, sau đôi mắt sáng
là tính cương trực, dưới nụ cười là ý chí sắt son.

Sau khi tốt nghiệp cử nhân Văn Triết ở Sorbone, ngài gia nhập dòng khổ tu Biển
Đức tại Đan Viện Sainte Marie.

Sau 17 năm du học, năm 1947 cha Vinh về nước, nhằm góp sức xây dựng Giáo Hội
Công Giáo Việt Nam vững mạnh về mọi mặt. Khi ấy, Đức cha François Chaize –
Thịnh, Bề trên Giáo phận đã bổ nhiệm ngài làm cha xứ Nhà Thờ Lớn Hà Nội. Ngài
xin Bề trên lập dòng Biển Đức ở Việt Nam, nhưng không thành.

Cha Vinh, dù tu học ở Pháp nhưng luôn có tinh thần yêu nước, độc lập, không nệ
Pháp. Năm 1951, Nhà Thờ Lớn Hà Nội tổ chức lễ an táng cho Bernard, con trai
tướng De Lattre de Tassigni. Trong thánh lễ, tướng De Lattre kiêu căng đòi đặt ghế
của ông trên cung thánh và bắt chuyển ghế của Trần Văn Hữu, Thủ tướng Việt Nam
xuống dưới lòng nhà thờ. Vì lòng tự trọng dân tộc, danh dự quốc gia, cha Vinh
cương quyết không chịu.

Tướng De Lattre rất tức giận, gọi cha Vinh tới, đập bàn quát tháo, đe

dọa. Cha Vinh cũng đập bàn, lớn tiếng đáp lại, quyết không nhượng bộ, nhưng Thủ
Tướng ngại khó nên tự nguyện rút lui. Sau vụ đó, để tránh căng thẳng, Đức Cha
Khuê đã chuyển cha Vinh làm giáo sư của Tiểu Chủng Viện Piô XII, phụ trách Anh
văn, Pháp văn, âm nhạc, triết học; ngài khiêm tốn vâng lời. Ngài cũng giảng dạy
Văn Triết ở trường Chu Văn An.

Năm 1954, Đức cha Trịnh Như Khuê cho phép cha Vinh và cha Nhân đưa chủng sinh
đi Nam, nhưng cả hai đều xin ở lại sống chết với giáo phận Hà Nội, dù biết hoàn
cảnh đầy khó khăn, nguy hiểm. Đức Cha Khuê bổ nhiệm ngài làm Cha Chính, kiêm
Hiệu Trưởng trường Dũng Lạc.

Ngài tổ chức lớp học giáo lý cho các giới, có những linh mục trẻ thông minh,
đạo đức cộng tác, như cha Nguyễn Ngọc Oánh, cha Nguyễn Minh Thông, cha Phạm Hân
Quynh. Lúc đầu, lớp học được tổ chức thành nhóm nhỏ tại phòng khách Tòa Giám
Mục, về sau, con số người tham dự tăng dần, lớp học được chuyển tới nhà préau,
và ngồi ra cả ngoài sân. Lớp học hiệu quả rất lớn, những tín hữu khô khan trở thành đạo đức nhiệt

thành, ảnh hưởng lan tới cả giới sinh viên và giáo sư đại học, nhiều người gia nhập đạo. Sau chính quyền ra lệnh ngừng hoạt động vì lý do an ninh.

Khi cha Vinh đang làm Hiệu Trưởng Dũng Lạc, Chính phủ ra chỉ thị phải treo ảnh
lãnh tụ thay vào ảnh Thánh Giá ở các lớp học. Ngài không tuyên đọc chỉ thị cũng
không tháo bỏ Thánh giá, nên năm 1957, trường bị đóng cửa.

Thời bấy giờ, Đại học Y khoa Hà Nội thiếu giáo sư, nên đã đề nghị Đức Cha Khuê
cử cha Vinh đến trường dạy La tinh. Nhiều sinh viên cảm phục ngài. Một hôm, Chu
Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc đến thăm trường, thấy bóng dáng chiếc áo chùng
thâm linh mục, ông nói với đoàn tháp tùng:

“Đến giờ này mà còn có linh mục dạy ở Đại Học quốc gia ư?” Ít lâu sau trường
Đại học Y khoa không mời cha dạy nữa.

Biết tài năng và kiến thức âm nhạc của ngài, nhiều nhạc sĩ ở Hà Nội tìm cha Vinh tham khảo ý kiến và nhờ xem lại những bản nhạc, bài ca họ mới viết.

Cha Vinh, một trong những nhạc sĩ tiên phong của Thánh nhạc Việt Nam, và là một
nhạc sĩ toàn tài. Ngài chơi vĩ cầm và dương cầm thật tuyệt, chính ngài là người Việt Nam đầu tiên chơi vĩ cầm ở Hà Nội.

Ngài có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc, lại được học tập chu đáo nên

đã sáng tác và để lại nhiều nhạc phẩm thánh ca tuyệt vời. Cha Vinh trình bày bản hợp tấu “ Ở Dưới Vực Sâu ” nhân cuộc đón tiếp phái đoàn Việt Nam do ông Hồ Chí Minh dẫn đầu sang dự Hội Nghị Fontainebleau năm 1946.

Ngài cộng tác với Hùng Lân sáng tác “Tôn Giáo Nhạc Kịch Đa-Vít.” Sáng tác nhiều
nhạc phẩm lớn: “Mở Đường Phúc Thật,” “Tôn Vinh Thiên Chúa Ba Ngôi,” “Ôi GiaVi,”
“Lạy Mừng Thánh Tử Đạo.” Ngài phổ nhạc cho các Ca Vịnh 8 , Ca vịnh 16, Ca vịnh
23, Ca vịnh 41, Ca vịnh 115 và nhiều bài hát khác như Đức Mẹ Vô Nhiễm, Thánh
Tâm Giêsu. Ngài còn viết những bài

ca sinh hoạt: Sao Mai, Đời Người, phổ nhạc bài “Bước Tới Đèo Ngang” của Bà
Huyện Thanh Quan.

Hằng tuần ngài đến dạy nhạc, xướng âm và tập hát bên chủng viện Gioan.

Cha Vinh có giọng nam cao, âm hưởng thanh thoát, lôi cuốn. Ngài tổ chức và chỉ
huy dàn đồng ca trong nhiều cuộc lễ và rước kiệu lớn như cuộc Cung Nghinh Thánh
Thể từ Hàm Long về Nhà Thờ Lớn Hà Nội.

Năm 1957, Nhà nước muốn tỏ cho dân chúng trong nước và thế giới thấy là ở Việt
Nam đạo Công giáo vẫn được tự do hành đạo và tổ chức được những lễ nghi long
trọng, tưng bừng. Dịp Lễ Noel, chính quyền tự động cho người đến chăng dây, kết
đèn quanh Nhà Thờ Lớn, sau lễ họ vào đòi nhà xứ Hà Nội phải thanh toán một số
tiền chi phí lớn về vật liệu và tiền công.

Năm 1958 cũng thế, gần đến lễ Noel, không hề hỏi han, xin phép, một số người
của Nhà nước ngang nhiên đưa xe ô tô chuyển vật liệu, tự động bắc thang, chăng
dây treo bóng điện màu trang trí ở mặt tiền và trên hai tháp Nhà Thờ Lớn. Cha
xứ thời đó là cha Trịnh Văn Căn bảo vệ chủ quyền Giáo Hội trong khuôn viên cơ
sở tôn giáo, không đồng ý, nhưng họ cứ làm. Để phản đối, cha Căn liền cho kéo
chuông nhà thờ cấp báo, giáo dân kéo đến quảng trường nhà thờ rất đông ủng hộ
cha xứ, hai bên to tiếng.

Cha Căn gọi Cha Vinh ra can thiệp, sau một hồi tranh luận không kết

quả, cha Vinh kéo những người của Nhà nước đang leo thang chăng đèn xuống, rồi
chính ngài leo lên thang, hai tay đưa cao trước mặt, hai bàn tay nắm lại, hai
cườm tay đặt lên nhau, làm dấu hiệu còng tay số 8, và nói lớn:

“Tự do thế này à!”

Vụ giằng co lộn xộn kéo dài suốt buổi sáng, công cuộc trang trí không thành.
Cha Căn, cha Vinh cùng một số giáo dân bị cơ quan an ninh thẩm vấn, đem ra xét
xử. Tòa án Hà Nội tuyên án: Cha Trịnh Văn Căn, Chính xứ Nhà Thờ Lớn, người chịu
trách nhiệm tổ chức lễ Noel năm 1958 chịu án 12 tháng tù treo.

Cha Chính Nguyễn Văn Vinh chịu án 18 tháng tù giam, với tội danh: “Vô cớ tập
hợp quần chúng trái phép, phá rối trị an, cố tình vu khống, xuyên tạc chế độ,
gây chia rẽ trong nhân dân” (!).

Sau phiên tòa, cha Vinh bị đưa đi giam ở Hỏa Lò, sau bị chuyển đi nhiều trại giam khác như Chợ Ngọc, Yên Bái, cuối cùng là trại “Cổng Trời”, nơi dành riêng cho các tù nhân tử tội.

Khi cha Vinh mới đến trại Yên Bái, ngài còn được ở chung với các tù nhân khác,
nhiều giáo dân, chủng sinh, tu sĩ đến xin cha giải tội, vì thế ngài bị kỷ luật, phải biệt giam, bị cùm chân trong xà lim tối. Mấy tháng sau được ra, ngài lại ban phép giải tội. Cán bộ hỏi:

“Tại sao bị cùm, bị kỷ luật, được ra, anh tiếp tục phạm quy?”

Ngài đáp:

“Cấm là việc của các ông, giải tội là việc của tôi, còn sống ngày nào, tôi phải
làm bổn phận mình!”

Ở tù đói rét là đương nhiên, lúc nào cũng đói, hằng ngày mỗi bữa một bát sắn độn cơm, ăn với lá bắp cải già nấu muối, khi chia cơm phải cân đong từng chút một… Một lần cha Vinh nhận được gói bưu kiện do cha Cương, quản lý Nhà Chung Hà Nội, gửi lên, trong đó có ít thức ăn, lương khô và vài đồ dùng cá nhân, ngài đem chia sẻ cho anh em trong nhóm, cả Công giáo lẫn lương dân, ăn chung, dùng chung. Anh em tù hình sự thân thương gọi ngài là “Bố.”

Ngay trong nhà tù, cha Vinh vẫn can đảm bảo vệ người bị áp bức, có lần một tổ trưởng đánh đập tù nhân, ngài lên tiếng bênh vực, liền bị người tổ trưởng này xông đến giang tay đánh, ngài đưa tay gạt, anh ta ngã khụy. Từ đó trong trại có tiếng đồn cha Vinh giỏi võ, mọi người phải nể vì.

Một cán bộ cao cấp ở Hà Nội lên Cổng Trời gặp cha Vinh, nói: “Đảng và Chính phủ
muốn anh được tha về, nhưng với điều kiện phải cộng tác với linh mục Nguyễn Thế
Vịnh (Chủ tịch Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo). Nếu anh đồng ý, anh có thể về Hà Nội
ngay bây giờ với tôi”. Ngài khẳng khái đáp: “Ông Vịnh có đường lối của ông
Vịnh. Tôi có đường lối của tôi”.

Vì không khuất phục được ngài, nên bản án từ 18 tháng tù giam, không qua một thủ tục pháp lý án lệnh nào, đã biến thành 12 năm tù kiên giam, xà lim, biệt giam và án tử.

Năm 1971, khi ngài từ trần không ai được biết, một năm sau, chính quyền mới báo cho Đức Cha Khuê và cha Cương quản lý Nhà Chung: “Ông Vinh đã chết. Không được làm lễ áo đỏ cho ông Vinh!”

Suốt đời mình, trong mọi tình huống cha Chính Vinh làm tròn trách vụ của mình. Ngài
đã mạnh mẽ rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho đức tin, khi thuận tiện cũng như
khó khăn. Vượt mọi thử thách gian khó, không chịu khuất phục trước cường quyền,
luôn trung kiên với Thiên Chúa và Giáo

Hội.

Cha Chính Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh là một chứng nhân của thời đại, một linh
mục Công Giáo Việt Nam can trường, hậu thế kính tôn và ghi ân ngài.

TGP Hà Nội – 2013

BBT (Theo HĐGMVN)

From: Đỗ Tân Hưng

Thánh ca: “CON TẠ ƠN MẸ”- Lời chứng của Sr Hồng Thủy

httpv://www.youtube.com/watch?v=8gsybcT4X_I

Thánh ca: “CON TẠ ƠN MẸ”. Tâm Tình Sr. M. Josefa Thủy Được Ơn Chữa Lành Bệnh Hiểm Nghèo Covid 19.

Con là Nữ Tu Maria Josefa Nguyễn Thị Hồng Thủy, con xin trân thành cảm tạ tri ân đến Đức Cha, Cha Cố, Quý Cha, Quý Tu Sĩ cùng tất cả quý vị đã thương dâng lễ, cầu nguyện,hy sinh, và đồng hành cùng với con trong suốt thời gian con ở bệnh viện để điều trị Covid-19.

Vào cuối Tháng Tư năm nay 2021, tất cả sáu chị em chúng con đều bị nhiễm Covid-19. Sau mấy ngày vất vưởng, Chúa đã thương ban cho bốn sơ đều hoàn toàn bình phục, còn lại một sơ 88 tuổi người Balan và con phải vào bệnh viện cấp cứu. Sau 2 tháng ở bệnh viện người ta đã chuyển sơ qua thẳng Viện Dưỡng Lão, vì sơ không thể đi được nữa và vì sức khỏe mỗi ngày yếu dần đi. Riêng con thì bị nặng Bác Sĩ họ dự định mổ cuống họng để dẫn ống thở vào phổi nhưng sau đó con cũng thở được nên bác sĩ không mổ nữa mà con chỉ thở oxigen một tháng. Sau đó những cơn ho tấn công không ngừng nghỉ, lạ lùng là khi con nằm thì không sao, nhưng khi đứng lên hoặc ngồi thì cơn ho lại ập đến ngay. Mỗi lần con ho thì nhịp tim của con đập rất cao, từ 160 cho đến 175. Trong trường hợp của con, có bẩy Bác Sĩ lo cho con. Mỗi ngày Bác Sĩ, Y Tá đều đến bên giường để dẫn con đi, mỗi bước chân của con đi là mang theo một cơn ho không ngừng và có những gì trong bụng là con ói ra hết.

Nhìn thấy các Y Tá, Bác Sĩ tận tâm, lo lắng và chăm sóc cho các bệnh nhân, con thật là xúc động. Còn các anh chị em lao công, họ phải làm những công việc rất ư là bẩn thỉu, hôi thối, tuy vậy, trên môi họ luôn nở một nụ cười thật tươi. Chính họ đã là những nhân chứng sống động cho con, con nhìn thấy Chúa trong từng gương mặt của họ. Chúa cúi xuống lau chùi, Chúa thương yêu nâng họ lên, Chúa dọn bữa ăn cho họ, Chúa cùng đồng hành và đang đau đớn trong họ, Chúa ở bên họ ngày và đêm. Sau ba tháng rưỡi ở bệnh viện cơn ho của con đã được giảm, chỉ đi mới ho nhưng nhịp tim của con vẫn không giảm, Bác Sĩ muốn chuyển con qua Rehabilitation nhưng con đã xin về, để con được rước Mình Thánh Chúa mỗi ngày. Ở bên chị em và con nghĩ chị em đỡ vất để đi thăm con. Nhưng khi về nhà Dòng rồi thì sức khỏe của con lại có phần yếu hơn trước, thay vì đứng lên đi thì con ho, bây giờ, trở mình hoặc ngồi lên là con bị ho liền tục, con cũng đã đi bác Sĩ chuyên khoa, bác Sĩ cũng thay đổi nhiều loại thuốc nhưng không thuyên giảm. Đã ba tháng rưỡi ở nhà trôi qua bịnh tình của con cứ như thế. Mỗi lần xuống Nhà Nguyện tham dự THÁNH LỄ thì cơn ho lại ập xuống trong từng cử động và trong từng bước chân của con, con thưa với Chúa: “Chúa ơi mỗi cái ho của con đây là những nốt nhạc tình yêu con dâng lên Chúa. Con yêu mến Chúa.” Những cơn ho nó như là một người bạn thân thiết tựa hình với bóng. Ngoài việc tham dự Thánh Lễ, con không thể nào tham dự các giờ Chầu, kinh sáng, chiều và tối được nữa. Đã bẩy tháng trôi qua trên giường bệnh con băn khoăn nghĩ đến ơn gọi của mình, nếu như bệnh tình của con kéo dài thêm nữa, thì ơn gọi của con sẽ ra sao? Thế rồi vào chiều Thứ Sáu đầu tháng, ngày 03-12-2021. Lúc tất cả các Sơ nhà con đang có giờ Chầu Thánh Thể, từ 2:00 pm đến 5:00 pm. Con cũng kết hiệp với chị em cùng Tôn Thờ, Chúc Tụng, yêu mến Chúa và con đã cầu nguyện suốt đêm cho tới 4:00 giờ sáng. Con thì thầm thưa với Mẹ: “Mẹ ơi! Mẹ biết rõ con yêu Mẹ và Con của Mẹ nhất trên đời, xin Mẹ cho con một dấu chỉ để con biết, con có được tiếp tục làm nữ tì của Mẹ và Con yêu dấu của Mẹ là Thiên Chúa Đấng Tình Quân của con nữa không?”

Lúc 12:00 giờ trưa Thứ bẩy đầu tháng ngày 4-12 2021 con nghe tiếng chuông đọc kinh Truyền Tin. Thường thì con đọc tại trên giường, nhưng trưa hôm đó, không hiểu tại sao con lại đứng dậy đọc. Sau đó con tập thể dục mấy động tác cúi đầu xuống, giang tay ra và hít thở. Lúc đó con chợt nhận ra là con không còn ho nữa, con vội vàng tập mấy động tác nhẩy dây và chạy tại chỗ, mà vẫn không thấy ho. Trong lòng con rộn rã, reo vui hét vang lên lời chúc tụng, cảm tạ Chúa và Mẹ đã thương chữa lành cho con. Con vội vàng chạy xuống báo tin vui, cho chị em con sửng xốt ngỡ ngàng, con vui sướng con nhẩy lên, nhẩy xuống như một đứa trẻ. Chị em chúng con mừng vui cùng nhau cảm tạ tri âm và chúc tụng Chúa.

Con viết những dòng chữ này để làm chứng vinh danh Chúa cho mọi người được nhận biết; Thiên Chúa tình yêu không ở đâu xa xôi, Ngài đang ở ngay trong trái tim mình và hằng lắng nghe những lời mình nguyện xin. Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa Nhân Từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Con đã tạ ơn Chúa trong tất cả mọi hoàn cảnh của con, vui cũng như buồn. Vì được tạ ơn Chúa là hồng ân cho cuộc đời con.

 Con Sr. Maria Josefa Nguyễn Thị Hồng Thủy

Cảm Nghiệm của đời mình sau 17 năm bị Stroke

Đây là bức thơ của anh Nguyễn Ngọc Thụ, nguyên là bác sĩ chuyên khoa về tim, làm chứng về sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời của anh và gia đình anh.

Ban Biên Tập

Cảm Nghiệm của đời mình sau 17 năm bị Stroke

17 năm về trước, vào tối ngày Giáng Sinh 24/12/2004 tại Northern Virginia, con/tôi bị stroke vào nhà thương cấp cứu, ICU/hospital.  Hôm đó, con/tôi đi công tác ở Vancouver, Canada và Seattle, WA về đến Washington D.C trời xuống -36 độ lạnh.  Lúc con/tôi đi trời ấm như mùa xuân, lúc về buốt lạnh mùa đông. Từ terminal xe bus đưa tôi ra parking lot, không ngờ xe bus đưa tôi ra lộn parking lot.  Một tiếng rưỡi lội bộ đi tìm xe dưới nhiệt độ 36 trừ độ âm nhưng tôi không có áo lạnh.  Kết quả, tôi bị stroke sau 1-2 với cái shock bất ngờ đó. Một cái stroke rất là nặng tưởng chết, nhưng Chúa và Đức Mẹ đã cứu tôi và cho tôi sống lại một cuộc sống gần gũi với Chúa và Đức Mẹ hơn và được làm nhân chứng cho Chúa.

Biến cố đó, gia đình và người thân và bạn bè đã đến thăm và care cho tôi nhiều lắm.  Bố Mẹ và một số người thân 26 người đã hũy bỏ chuyến đi đến Indonesia/Malaysia/Thailand để chăm sóc cho tôi.  Một ngày rưỡi sau, là biến có Tsunami làm đến 330,000 người đã bỏ mạng ở vùng Indonesia/Malaysia/Thailand, nhưng gia đình tôi đã được Chúa và Đức Mẹ cứu sống, và tôi từ dạo đó tôi chiêm niệm sống gần gũi Chúa và Đức Mẹ.

 Tạ ơn Thiên Chúa đã cứu tôi và gia đình tôi.

Tôi bị câm không nói được vài tháng, nhưng rồi trong một buổi sáng Mai đã cùng tôi cầu nguyện để xin Sáng Danh Chúa, xin Chúa cho tôi được nói lời ca ngợi Chúa. Và Chúa đã nhận lời, cho tôi lần đầu tiên bật lại tiếng là Kinh Lạy Cha và Kính Kính Mừng, và tôi đã ca ngợi Chúa và Đức Mẹ đọc hết Chuỗi Mân Côi trong buổi sáng đó, và mỗi ngày từ đó về sau. 40 ngày nằm nhà thương như là mầu nhiệm được vào sa mạc 40 ngày với Chúa.

Ba tháng sau khi bị stroke, tôi đã lập ra một đường dây để thông đạt với các Cha, các Soeurs, các Thầy, các Bác và các Anh Chị thân mến… bây giờ gần 17 năm rồi chị Ngọc Nga, Kim Hà, Chị Kim Nga, Anh Roger Phung, Anh Cao Tan Tinh, và các Cha Sáng Lập và ACE và 11 năm co Thu, Anh Anh, Anh Can….)

Xin các Đức Giám Mục, các Cha, Thầy, các Soeurs, các Bác và Bố Mẹ, gia đình, người thân và tất cả mọi người cho chúng con/tôi được cám ơn, nhầm ngày kỷ niệm 17 năm tôi bị stroke, tận đáy lòng chúng tôi… một tình yêu mà Thiên Chúa cho kết hiệp.

Xin chúc các Đức Giám Mục, các Cha, các Thầy, các Soeurs, các Bác và Anh Chị đầy Hồng Ân Chúa Cứu Thế và tiếp tục hành trình sống với Chúa.

MERRY CHRISTMAS 2021 AND HAPPY NEW YEAR 2022!

Happy New year to you and your family.

Chỉ có một  thứ hạnh phúc trên đời này, đó là yêu thương và được yêu thương ~ George Sand

Bảo Trọng,

Nguyễn Ngọc Thụ & Mai

Chứng nhân Đức tin – Nữ tu 105 tuổi Dòng Mến Thánh Giá Hà Nội

Chứng nhân Đức tin – Nữ tu 105 tuổi Dòng Mến Thánh Giá Hà Nội

Vào hồi 17h15 thứ Bảy, ngày 11 tháng 12 năm 2021, khi hồi chuông giờ Kinh chiều Một của ngày Chúa Nhật tuần III mùa Vọng, Chúa Nhật của niềm vui, vang lên cũng là lúc Nữ tu Mátta Nguyễn Thị Khiêm, vị chứng nhân lịch sử cuối cùng kể từ giai đoạn tiền bán thế kỷ 20, cây đại thụ của Hội Dòng Mến Thánh Giá Hà Nội đã ngả bóng. Người nữ tu ấy dừng chân tạm nghỉ trong cuộc hành trình dài trên dương thế, an nghỉ lành thánh trong Chúa, hân hoan bước vào chặng đường mới với 105 tuổi đời– 88 năm Khấn Dòng, tại Cộng đoàn Mến Thánh Giá Kẻ Non thuộc giáo xứ Cẩm Sơn, Tổng Giáo phận Hà Nội.

Thật đúng như tên gọi của mình, Nữ tu Mátta cả một cuộc đời luôn sống khiêm hạ. Dù ở cương vị nào thì người nữ tu ấy vẫn luôn là người dễ gần, dễ mến, nhỏ bé, đơn sơ nhưng kiên trung trước mọi nghịch cảnh, với nụ cười luôn tươi nở trên môi. Bởi thế mà nhiều Đấng Bậc, chị em toàn dòng và bà con giáo dân dành cho Nữ tu ấy một tình cảm thật đặc biệt, một cách gọi gần gũi thật trìu mến, thân thương “Mẹ Khiêm” hay “Mẹ Mátta”

Mẹ Khiêm sinh ra và lớn lên tại giáo xứ Đạo Truyền, Bình Lục, Hà Nam, trong một gia đình đạo đức có bốn anh chị em. Mẹ Mátta ước ao dâng mình cho Chúa ngay từ khi còn rất nhỏ. Sau nhiều năm tìm hiểu, lui tới với nhà dòng, mặc dù lúc đó rất khó khăn, tới năm 15 tuổi Mẹ được chính thức gia nhập Dòng Mến Thánh Giá Cộng đoàn Kẻ Non và được Tuyên khấn lần đầu với lời khấn tư vào năm 1932.

Năm 1954, xảy ra cuộc di cư lớn, dòng người từ miền Bắc vào miền Nam, hầu hết các dòng tu trong Địa phận Hà Nội thời đó đã di cư hay buộc phải rời khỏi Việt Nam. Nhiều cơ sở tôn giáo cũng như các Tu viện vườn không nhà trống không người hiện diện. Mẹ Mátta là một trong số ít những nữ tu Mến Thánh Giá đáp lại lời kêu gọi của Đức Cha Giuse Maria Trịnh Như Khuê: không di cư nhưng ở lại song hành cùng Địa Phận Hà Nội trong giai đoạn đầy gian nan, khó khăn và thử thách này.

Số các chị em Mến Thánh Giá còn sót lại ấy được Đức Cha Giuse Maria sai đi tản ra trong các tu viện Mến Thánh Giá hoặc các cơ sở của Giáo hội không còn người ở như Nhà Kín 72 Nguyễn Thái Học Hà Nội, trường Thánh Mẫu 29-31 Nhà Chung để giữ đất, giữ nhà. Khó khăn do hoàn cảnh của thời cuộc chất chồng, nhiều hoạt động tông đồ của chị em Mến Thánh Giá thời đó chỉ là âm thầm hiện diện như men trong đấu bột giữa những xứ đạo cùng bà con giáo dân. Sự thiếu hụt linh mục trầm trọng, đi lại khó khăn, các chị phụ trách việc Rửa tội cho trẻ nhỏ, trao Mình Thánh Chúa cho kẻ liệt và các Đấng Bậc bị quản thúc hay cầm tù, chép sách kinh bổn để gìn giữ Đức tin, đồng hành và hiện diện cùng bà con giáo dân trong mọi biến cố vui buồn của cuộc sống.

Mẹ Mátta được Đức Cha Giuse Maria Trịnh Như Khuê tin tưởng trao phó những chức vụ như Phụ trách Tu viện Kẻ Non kiêm phụ trách Tập Viện giai đoạn 1955 – 1961. Mẹ cũng là một trong bảy chị đầu tiên của Ban Điều Hành Dòng được khấn công khai theo giáo luật dưới thời Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Văn Căn. Bà Mẹ nhì khóa I và II toàn dòng (1983 – 1991). Cùng với Bà Mẹ nhất Mátta Nguyễn Thị Nhục, Mẹ đã trở thành hai trụ cột vững chắc của Hội dòng, nâng đỡ và duy trì ơn gọi trẻ trong giai đoạn “Chính sách ngầm” đang len lỏi vào mọi ngõ ngách của miền Bắc lúc bấy giờ với mục đích “Xóa sổ các cơ sở Tôn giáo và Tu viện.” Nhiều ơn gọi trẻ đến xin gia nhập Dòng muốn xin tạm trú hay nhập hộ khẩu đều không được, nên chị em đành phải chịu cảnh “tu chui”. Ban ngày các Chị phục vụ trong tư cách người giúp việc Nhà dòng, nhiều đêm phải chạy trốn vì bị kiểm tra hộ khẩu bất thường do cư trú bất hợp pháp theo luật bấy giờ.

Có những chị em khổ quá định bỏ tu về lại gia đình, được Mẹ kịp thời an ủi động viên nâng đỡ để tiếp tục ơn gọi. Những chị em mới gia nhập Tu viện, chập chững những bước đi đầu tiên trong ơn gọi đầy bỡ ngỡ, được Mẹ dạy bảo ân cần, tập sống khó nghèo và các nhân đức để thánh hóa từng giây phút hiện tại trong ngày sống. Không chỉ chị em trong Dòng, nhưng cả bà con giáo dân cũng tìm đến với Mẹ khi gia đình có những biến cố vui buồn, để được Mẹ chuyển cầu trong lời kinh nguyện hoặc là nhận lấy những lời khuyên dạy chân thành, nâng đỡ nhằm giúp các gia đình vượt qua thử thách.

Thế rồi những giai đoạn khó khăn gian khổ đầy nước mắt và đau thương đó qua đi cũng là lúc Mẹ Mátta được nghỉ ngơi và hưu dưỡng tại Cộng đoàn Kẻ Non kể từ năm 1991 cho đến nay.

“Tôi đã chạy hết chặng đường và đã giữ vững Đức tin” giờ đây Mẹ Mátta trở về cùng Thiên Chúa là Cha yêu thương, sau khi đã hoàn tất hành trình dương thế, trung kiên sống Đức tin trong giai đoạn khó khăn gian khổ nhất của thời cuộc, trung thành gìn giữ bảo vệ tinh thần và gia sản của Hội dòng… Để hôm nay đây chúng tôi, thế hệ cháu con được thừa hưởng thành quả mà Mẹ và các bậc tiền nhân để lại… sẽ tiếp nối tâm nguyện của Mẹ để song hành với mọi biến cố vui buồn của Tổng Giáo phận, cùng ghi tiếp những trang sử thiêng của Hội Dòng Mến Thánh Giá Hà Nội, với khát vọng giới thiệu cho muôn người về Tình yêu và Lòng thương xót của Đấng-Chịu-Đóng-Đinh, Đấng đã yêu cho đến cùng, Đấng đã chết vì yêu, Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

Nữ tu Maria Phạm Thị Thu Trang

Dòng Mến Thánh Giá Hà Nội

Lòng Chúa Thương xót

Kinh nghiệm hoán cải của bác sĩ Bryan Thatcher nhờ Lòng Thương xót

Bác sĩ Bryan Thatcher ở Florida, Hoa Kỳ, đã sống một trải nghiệm hoán cải nhờ cuộc gặp gỡ với Lòng Thương Xót Chúa, điều khơi dậy trong lòng ông mong muốn truyền giáo đồng thời chăm sóc cho linh hồn những người hấp hối.

Lòng Chúa Thương xót

Hồng Thủy – Vatican News

Khi Thatcher còn là một bác sĩ trẻ, anh đã làm việc ngày đêm để cải thiện sức khỏe cho bệnh nhân của mình. Nhờ nỗ lực siêng năng của mình, anh đã có đời sống tài chính kinh tế thoải mái, nhưng anh lại phải đối mặt với một vấn đề nội tâm.

Trong cuộc phỏng vấn với báo trực tuyến National Catholic Register, bác sĩ Thatcher chia sẻ rằng vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, ông là một bác sĩ chuyên về khoa tiêu hóa rất thành công, nhưng công việc của ông vẫn thiếu yếu tố tinh thần. Ông nói: “Nhiều bệnh nhân bệnh nặng đã chết khi tôi điều trị cho họ tại khoa chăm sóc đặc biệt và lúc đó tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc cầu nguyện cho họ hay suy tư về những gì đang xảy ra với họ về mặt thiêng liêng.”

Cuộc sống làm việc căng thẳng và áp lực mà Thatcher gặp phải đã làm tổn hại đến hai lĩnh vực, đó là đức tin và gia đình. Nhưng mọi thứ bắt đầu trở nên tốt hơn sau chuyến đi đến Mexico City. Bác sĩ Thatcher chia sẻ: “Khi đó tôi đang có cuộc chiến đấu nội tâm và tôi đã nhận ra cuộc sống có nhiều thứ trong cuộc sống hơn là những gì tôi đang làm. Thực tế là tôi đang chết trong tâm hồn.”

Và Thiên Chúa đã ban cho ông một cơ hội. Trong chuyến đi tham dự đại hội y khoa vào năm 1991, với sự trợ giúp của Đức Mẹ, tại đền thánh Đức Mẹ Guadalupe, ông đã trải nghiệm một điều và điều này đưa ông trở về hành trình đức tin.

Bác sĩ Thatcher chia sẻ: “Bên ngoài đền thờ, tôi nhận thấy tất cả những người nghèo, đơn sơ và thất học dường như rất hạnh phúc. Họ không có quần áo sang trọng, thức ăn ngon hay xe hơi sang, nhưng họ rất vui vẻ khi giao lưu với nhau. Trái ngược hoàn toàn với cuộc sống của tôi, có đầy đủ quần áo, thức ăn và xe hơi sang trọng, nhưng không hài lòng, và thực sự nó đã cuốn tôi đi.”

Ông kể tiếp, ông đã ở đó, “một người giàu có trong số những người nghèo nhưng hạnh phúc”, và bắt đầu khóc khi thấy tất cả những người đó “tràn đầy niềm vui, những người liên đới trong sự giản dị”, trong khi ông đang trải qua những vấn đề hôn nhân nghiêm trọng. Ông hiểu rằng mình phải thay đổi cuộc đời nhưng không chắc chắn phải làm thế nào.

Đến năm 1992, khi đọc cuốn nhật ký của Thánh Faustina “Lòng Thương xót Chúa trong tâm hồn tôi”, ông hiểu rằng chúng ta có giá trị “trong mắt Chúa, không phải vì những của cải thành công của thế gian, mà bởi vì chúng ta được tạo ra theo hình ảnh Người và giống Người.” Ông yêu thích sứ điệp Lòng Thương xót Chúa và ông bắt đầu nhận ra rằng Chúa yêu thương ông, không phải vì con người mà ông nghĩ mình phải trở nên như thế nhưng vì ông, vì chính con người ông trước mắt Thiên Chúa.

Theo bác sĩ Thatcher, khi tình yêu thương của Thiên Chúa tràn đầy chúng ta không thể giữ nó và chúng ta muốn chia sẻ nó với người khác. Vì vậy ông quyết định thành lập hội tông đồ giáo dân “Các Tông đồ Thánh Thể của Lòng Thương Xót Chúa”, dưới sự hướng dẫn của các tu sĩ dòng Hiến sĩ Đức Mẹ Vô nhiễm nguyên tội. Đây là một tổ chức tông đồ cung cấp các cuộc hội thảo và một chương trình học tập có hướng dẫn cho các cộng đồng cầu nguyện bao gồm việc học hỏi Kinh Thánh, Giáo lý của Giáo hội Công giáo và Nhật ký của Thánh Faustina. Hiệp hội cũng cổ võ “Chầu Thánh Thể, cùng với lần hạt Lòng Chúa Thương xót cầu nguyện cho các bệnh nhân và những người hấp hối. Hiệp hội thực hiện nhiều việc bác ái khác, bao gồm gửi các vật liệu y tế và giáo dục cho người nghèo trên khắp thế giới và các chăm sóc trong các nhà tù.

Bác sĩ Thatcher khuyến khích lần hạt Lòng Chúa Thương xót cầu nguyện cho những người bệnh nặng và lưu ý rằng ” hiện diện với mọi người là một phúc lành khác và một công việc tuyệt vời khác của lòng thương xót.” Ông nói thêm: “Có rất nhiều cơ hội bị bỏ lỡ để giúp đỡ những người hấp hối về mặt thiêng liêng khi tôi đang hành nghề y, nhưng điều an ủi tôi khi biết rằng những lời cầu nguyện của tôi” bây giờ giúp đỡ họ.

Bác sĩ Thatchet nhấn mạnh rằng với tư cách là bác sĩ, điều rất quan trọng là phải “đưa đặc tính Công giáo vào công việc của chúng tôi”, điều này thậm chí còn “quan trọng hơn việc điều trị vật lý mà chúng tôi đưa ra”. Ông nhận định: “Bệnh nhân không phải là những cơ thể có nhiều bộ phận để nghiên cứu, để thực hành; bệnh nhân có tâm trí, thể xác và linh hồn, và họ được tạo ra để ở với Chúa và ngợi khen Người trên thiên đàng mãi mãi.”

Bác sĩ nói rằng nếu có thể quay lại những ngày trước như là một bác sĩ, ông sẽ thích trở nên giống như thánh Giuse Moscati, một bác sĩ sống vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, người đã “thực hiện các công việc thương xót thể xác và tinh thần, cho thấy một người chăm sóc sức khỏe lý tưởng là như thế nào.””

Đức tin của bác sĩ Thatcher đã lớn dần theo năm tháng và ông đã trải qua những biến cố khác nhau giúp ông cảm thấy sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời mình. Vào tháng 11 năm 1996, một trong những con trai của ông, John Paul, khi đó mới 15 tháng tuổi, đã suýt chết khi người ta tìm thấy em bé trôi nổi trong hồ bơi của nhà. Bryan, cậu con trai lớn 11 tuổi gọi cho ông và báo rằng John Paul bị chết đuối. Người ta thấy em bé nằm úp mặt trong hồ bơi và khi vợ bác sĩ vớt cháu lên thì cháu đã tím tái và mạch không đập nữa.

Bác sĩ Thatcher nhận ra rằng do sự bất cẩn của mình, đã mở cửa của hồ bơi trước khi rời khỏi nhà, mà tai nạn đã xảy ra. Ngay lúc đó ông cảm thấy đức tin của mình bị thử thách. Ông nhớ lại những gì được nghe tại một hội nghị về sự tín thác vào Chúa Giê-su. Ông hiểu ông phải tín thác, và nghĩ đến câu chuyện của tổ phụ Abraham và Isaac, ông đã cầu nguyện và xin vâng theo ý Chúa. Tất cả mọi điều Thiên Chúa của sự sống muốn, ông vui lòng vâng theo.

Trên đường đến bệnh viện, mạch của bé John Paul đập trở lại. Em bé đã hồi phục dần dần trong bệnh viện và được xuất viện sau hai ngày. Ngày nay John Paul đã trở thành một thanh niên khỏe mạnh 25 tuổi. (ACI Prensa 9/12/2020)

Hồng Thủy – Vatican New

From: Nguyen TThuy & KimBang Nguyen

Người chết vì yêu!

Người chết vì yêu!

chị Ann Nguyễn T Kim Hương- Gx Tân Bắc

Trên trang Facebook của anh Lê Cường ghi báo tin về sự ra đi của người vợ thật nhẹ nhàng nhưng cũng thật cảm động.

“Tạm biệt em, em hãy an nghỉ nhé.

Cám ơn em đã hy sinh tất cả vì con…”

Và người vợ trước khi qua đời cũng ghi lại vài dòng nguệch ngoạc gửi cho chồng rằng:

“Cám ơn Chồng về tất cả nha

Đã luôn yêu thương, chăm sóc, nhường nhịn, hy . . .”

Chị Anna Nguyễn Thị Kim Hương đã kết thúc cuộc đời mới chỉ 34 tuổi. Chị đã có một con trai và đang mang thai đứa thứ hai thì nhận được hung tin mình đã bị ung thư phổi. Vì tính mạng của thai nhi chị đã từ chối mọi lối trị liệu hóa học, vì như thế có nghĩa là giết chết bào thai!

Chị Anna sinh hạ Lê Minh Khang ngày 29/02/2021. Ngay sau đó, chị bắt đầu các phương pháp trị liệu hóa học, nhưng quá trễ, người mẹ trẻ anh dũng êm ái trút hơi thở cuối cùng ngày 29/11/2021 để lại chồng và 2 con thơ.

Đây là một cái chết đẹp. Chết cho con được sống. Chết để gìn giữ một sinh linh bé bỏng đã được Thiên Chúa phú bẩm nơi cung lòng của người mẹ. Chắc chắn mai sau khi lớn lên, đứa bé đã được mẹ chết thay đó, sẽ hết lòng cảm ơn mẹ. Nhờ mẹ đã hy sinh tính mạng mình, mà người con được bước vào cuộc đời.

Có thể nói sự kiện người mẹ trẻ hôm nay dám chết cho con được sống, đã hoạ lại hình ảnh rất đẹp của Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành.

Chúa Giê-su đã dùng cái chết để cứu độ trần gian. Thập giá chính là minh chứng của hiến thân, của tình yêu vô vị lợi. Không có hy sinh, từ bỏ, thậm chí hiến dâng mạng sống thì không có yêu thương. Chúa đã trải qua con đường tận hiến vì yêu thương con người, thì những ai cùng đi với Chúa trên con đường thập giá cũng được nên đồng hình đồng dạng với Người.

Vì yêu thương đứa con mà người mẹ trẻ sẵn sàng hy sinh bản thân. Cái chết của chị đã trở thành dấu chứng của tình yêu, của hy sinh. Cái chết mà mọi người xem là mất mát đớn đau thì chị lại cho là niềm vui. Vui vì được dâng hiến đời mình cho người con yêu. Chúa Giêsu đã phán: “Không tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình”. (Ga15,13)

Dưới con mắt đức tin, chúng ta được mời gọi nhìn vào sự quan phòng của Chúa.

Nếu qua cái chết, con người chỉ nhìn thấy thất bại đớn đau, thì Thiên Chúa lại nhìn thấy chiến thắng.

Nếu con người chỉ nhìn thấy ngõ cụt, thì Thiên Chúa lại nhìn ra con đường đi tới.

Vâng, Thập giá Chúa Giêsu chính là sức mạnh, là lẽ khôn ngoan, và là vinh dự của người Kitô hữu. Chúng ta được mời gọi nhìn lên Thập giá của Chúa, chúng ta nhìn thấy Thập giá của chính mình để tiếp tục tiến bước trong phó thác xin vâng.

Chị Anna hôm nay ra đi trong sự nuối tiếc của biết bao người thân. Một cuộc đời còn trẻ, còn biết bao mộng ước để làm, để lo cho con cái. Nhưng chị, đã chọn hy sinh, chọn hiến thân như Đức Ky-tô mà chị tôn thờ. Chắc chắn Chúa không để cái chết của chị ra vô ích nhưng qua hy sinh này Chúa sẽ dành phần thưởng lớn lao trên quê trời cho chị, và chắc chắn Chúa cũng sẽ chúc phúc cho chồng cho con luôn được bình an và can đảm đón nhận mọi sự theo thánh ý Chúa.

Chúng ta cùng dâng thánh lễ này phó dâng linh hồn Anna cho lòng thương xót của Chúa. Xin Chúa là Đấng rất nhân từ thương tha thứ cho những yếu đuối của phận người nơi chị Anna. Xin cho chị nương nhờ trong tình thương bao la hải hà của Chúa. Amen

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

https://www.facebook.com/cuongle0501

Ơn hoán cải của nữ hoàng trượt băng Hàn Quốc, Kim Yuna

Make Christianity Great As Always is in South Korea.

{Ơn hoán cải của nữ hoàng trượt băng Hàn Quốc, Kim Yuna}

Câu chuyện của nữ vận động viên người Hàn Quốc, nữ hoàng trượt băng đã trở lại Công giáo. Sau khi giải nghệ đã dành một phần tài sản cho các dự án liên đới Công giáo.

Đối với Kim Yuna, sân trượt băng là môi trường sống của cô. Mọi người nhận xét dường như cô được sinh ra cùng với đôi giày trượt băng. Vóc dáng phù hợp với bộ môn thể thao, sự dẫn dắt nhiệt tình của các huấn luyện viên, kết hợp với sức mạnh ý chí đã làm nên những chiến thắng trên sân ở các giải thi đấu quốc gia và quốc tế của Kim Yuna.

Thiếu nữ Hàn Quốc đã nhiều lần ở trên bục cao danh dự, chạm tới những đỉnh cao chiến thắng, nhưng đối Kim Yuna, Thiên đàng thực sự là khi cô khám phá sự bình an trong đức tin Công giáo.

Kim Yuna bắt đầu trượt băng khi mới lên 5 tuổi. Các huấn luyện viên đã nhìn thấy nơi vóc dáng hoàn hảo của cô rất phù hợp cho bộ môn thể thao này. Vì vậy họ đã thuyết phục cha mẹ cô để cô được tập luyện trở thành vận động viên chuyên nghiệp.

Năm 2002, lần đầu tiên tham gia một cuộc thi đấu quốc tế, cô đã giành huy chương vàng. Ngay sau đó, khi tròn 12 tuổi, Kim Yuna đã trở thành vận động viên trượt băng nghệ thuật trẻ nhất giành chức vô địch Hàn Quốc.

Từ lúc đó, cuộc sống của cô trở thành một vòng xoáy của những chuyến du lịch, tập luyện và đi đấu. Trong những lần đi đấu đó, thường xuyên cô giành chiến thắng, nhận được nhiều huy chương vàng. Cô trở thành thần tượng cho các thiếu nữ khác.

Kim Yuna ngày càng nổi tiếng trong làng thể thao thế giới nói chung và Hàn Quốc nói riêng. Mọi thứ chạm vào cô đều trở thành vàng. Các công ty lớn tìm mọi cách để mời cô làm người mẫu quảng cáo cho mặt hàng của họ. Tất cả tin rằng sự hiện diện của cô bảo đảm cho sự thành công đem lại lợi nhuận cho công ty.

Tuy nhiên vào thời điểm thành công rực rỡ đó, Kim Yuna lại cảm thấy lạc lõng, cô đơn. Cô phải thường xuyên di chuyển trên máy bay và lưu lại khách sạn một mình.

Năm 2007, ở giải vô địch trượt băng nghệ thuật thế giới, khán giả chứng kiến trước khi vào sân đi đấu, nữ hoàng trượt băng đã làm dấu Thánh Giá. Mọi người còn thấy cô đeo nơi cổ một hình Đức Mẹ. Sau này cô tiết lộ đây là món quà của một nữ tu.

Trong lần thi đấu đó, do bị chấn thương cô không thể thi đấu tốt và giành chiến thắng như những lần trước. Cô chia sẻ, lần đó cô đã cầu nguyện rất nhiều và Đức Mẹ đã giúp cô hoàn thành cuộc thi và đứng vị trí thứ ba.

Một năm sau đó, Kim Yuna và mẹ cô đã lãnh Bí tích Rửa tội, gia nhập Công giáo.

Cô cho biết, cô học yêu Chúa từ bác sĩ, một người có đời sống đạo tốt, và từ các nữ tu đã chăm sóc cho cô khi cô nằm điều trị trong bệnh viện. Từ những người này, Kim Yuna đã tìm được sự bình yên điều cô đang cần. Từ lúc đó, ngày qua ngày, Kim Yuna ngày càng cảm nhận tình yêu Chúa và học yêu Chúa. Cô đã quyết định học giáo lý Công giáo với mong muốn được trở thành Kitô hữu. Cô đã lãnh Bí tích Rửa tội và tiếp tục sự nghiệp thể thao nhưng trong tinh thần mới, tinh thần Kitô. Tinh thần Kitô được nữ hoàng trượt băng thể hiện trong mỗi trận đấu, qua việc thể hiện nét đẹp của thể thao theo đúng nghĩa của nó. Nghĩa là chiến thắng bằng nỗ lực tập luyện và say mê nghệ thuật, không chiến thắng bằng những thủ thuật làm tổn hại đến sự trong sáng của thể thao, làm mất niềm tin nơi khán giả. Vinh quang trong chiến thắng không phải là đích đến cuối cùng, nhưng là một khích lệ để tiếp tục tiến bước với sự thanh thản và bình an, là nguồn cảm hứng cho những người trẻ khác, giúp cho họ không bỏ cuộc trong những thất bại trong mọi lĩnh vực.

Ngày 09/02/2018, Kim Yuna được vinh dự lớn thắp sáng ngọn đuốc Olympic tại Thế vận hội Bình Xương. Ban tổ chức quyết định dành cho cô vinh dự này vì muốn ghi nhận sự nghiệp mà cô đã đạt được trong những lần vô định thế giới và huy chương vàng tại Thế vận hội Vancouver năm 2010.

Năm nay, ở tuổi 30, Kim Yuna đã tạm dừng các giải thi đấu lớn, nhưng không ngưng các hoạt động khác, các hoạt động xã hội đem lại phúc lợi cho người khác. Thực tế, trong nhiều năm qua, nữ vận động viên đã cộng tác với nhiều tổ chức bác ái và các hội dòng để biến các dự án ở các khu vực nghèo trên thế giới thành hiện thực.

Cô quan tâm đặc biệt đến hoàn cảnh của các trẻ em nghèo, bị bỏ rơi. Vì vậy, cô đã thúc đẩy việc thành lập các trường học và hợp tác chặt chẽ với Unicef để hỗ trợ các trẻ em. Và tất nhiên nữ hoàng trượt băng vẫn tiếp tục bảo vệ và sống đức tin Công giáo, điều đã làm cho cuộc đời cô thay đổi mãi mãi.

(Ngọc Yến – Vatican News)

Niềm tin giản đơn đến bất ngờ

Niềm tin giản đơn đến bất ngờ

Vinhsơn Vũ Tứ Quyết S.J

Tạ ơn Chúa vì con bị HIV!

Đây là lời cầu nguyện “ngược đời” của một con người hạnh phúc trong khổ đau. Chị là một người giữa bao người. Chị bình thường trong một cuộc sống bình thường. Thế nhưng, một ngày đã tới, ngày mà chị biết mình bị nhiễm căn bệnh thế kỷ HIV. Chẳng mấy chốc, mọi người đều rời xa chị. Chị cô đơn đến tuyệt vọng. Chị kiệt sức. Chị muốn chết.

Phúc thay, chị được đưa đến mái ấm có các sơ chăm sóc. Dần dần, sức khỏe chị khá lên. Ngày qua ngày, niềm vui chị nhận được từ những người xa lạ, dần lớn lên trong chị. Lần đầu tiên trong đời chị biết Chúa Giêsu. Lần đầu tiên trong đời chị cảm nhận được tình thương mến lạ lùng từ những người tin vào Giêsu. Lần đầu tiên trong đời chị nhận ra ơn của Chúa ngay trong nghịch cảnh, nhận ra sức sống ngay trong sự tiều tụy. Sự kinh ngạc và niềm vui lớn tới nỗi chị thốt lên: “Nếu con không bị HIV, con nào biết Chúa trên đời. Vì con bị HIV như thế này mà con có dịp biết Chúa. Tạ ơn Chúa.”

Vâng, con người bỏ rơi nhau, còn Chúa thì không bao giờ.

Tại sao con theo đạo Phật, mà Chúa lại bắt con vác thánh giá?

Đó là lời “than trách khó hiểu” của một bà bị tai biến, hiện liệt nửa người, đang ở trong nhà dưỡng lão mà các sơ chăm sóc. Trước kia, bà vốn ở một mình. Nhìn khuôn mặt bà, nghe bà kể chuyện, tôi nhận thấy niềm tiếc nuối rất lớn về quá khứ. Bà nói: “Trước kia con đẹp lắm, làm ăn được lắm, có của ăn của để, bạn bè rất nhiều… Đến một ngày, con bị tai biến, liệt nửa người. Thế là, tiền bạc của con có dư thì cũng không cứu được con. Bạn bè con bỏ con hết, chẳng còn ai. Người thân của con thì ai họ cũng phải lo việc nhà của họ. Con còn lại một mình.”

“Cũng chẳng biết ở đâu, vì không có người chăm sóc, con đành ở trong nhà dưỡng lão này. Từ trước tới giờ, con sùng đạo Phật lắm. Khi vào đây ở, có các sơ, con mới biết Chúa. Các sơ có an ủi con thế này: Bà chịu khó vác thánh giá Chúa trao.”

Bà thắc mắc về số phận khó chấp nhận của mình, bà hỏi tôi: “Khi con bị tai biến, con đâu biết Chúa. Tại sao con theo đạo Phật mà Chúa lại bắt con vác thánh giá?” Nhìn bà, tôi nhủ thầm: “Bà ơi! Bệnh tật là một phần của đời người, chẳng ai tránh được. Chỉ có điều, mỗi người đối diện với bệnh tật một cách mà thôi. Bà buồn rầu và thất vọng không phải vì bà bị bệnh, mà là vì bà bị bỏ rơi và bị quên lãng, là vì bà chưa có sức mạnh từ bên trong, là vì bà chưa có những người thực sự thân thiết yêu thương.”

Cầu chúc bà có thể nhận thấy tình thương mến của những người đang sống với bà.

Đối diện với đau khổ và cái chết, mỗi người chọn cho mình một thế đứng. Tùy điểm tựa mà mỗi người vững vàng hay sụp đổ. Có một điều chắc chắn là ai cũng chết, cũng có một điều khá chắc chắc là hầu như người ta cứ nghĩ mình còn lâu mới chết. Giá trị đời người và giá trị con người, ngày càng bị lãng quên trong cuộc sống xô bồ.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết tìm điểm tựa nơi Ngài, để con sống một cuộc đời đáng sống và chết một cái chết bình an, và dù có chết thì con vẫn sống trong Ngài. Amen.

Vinhsơn Vũ Tứ Quyết S.J

No photo description available.

TỪ MỘT NGƯỜI LƯƠNG DÂN, THEO ĐẠO VÀ TRỞ THÀNH LINH MỤC CỦA CHÚA

Make Christianity Great As Always

TỪ MỘT NGƯỜI LƯƠNG DÂN, THEO ĐẠO VÀ TRỞ THÀNH LINH MỤC CỦA CHÚA

Tân linh mục Phanxico Xavie Lương Văn Tây Dcct, người vừa được Đức Giám mục Giuse Đinh Đức Đạo truyền chức linh mục vào ngày 16/10/2021 tại Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp – Dòng Chúa Cứu Thế, quả thật là một trường hợp rất đặc biệt.

Vào năm 2005, ngài gia nhập Hội Thánh Công giáo khi đã tốt nghiệp Đại học và bắt đầu đi làm.

Hai năm sau ngày Rửa tội, ngài vào tìm hiểu Dòng Chúa Cứu Thế.

Đến năm 2014, ngài tuyên khấn lần đầu và năm 2018 khấn trọn đời trong DCCT.

Và nay trở thành linh mục thừa sai DCCT.

….

Được biết, khi còn là sinh viên, ngài tham gia các nhóm sinh hoạt Công giáo và tham gia trong trào Hướng đạo. Vì “chơi với người Công giáo” nên chú Tây cũng thường xuyên lân la đến Nhà thờ và “ngồi ở ngoài để xem lễ”.

Nhìn thấy chàng thanh niên tham dự thánh lễ cách sốt sắng mà không chịu lên rước lễ, nên quý xơ đã tìm gặp “để hỏi cho biết sự tình như thế nào”. Nghe chú Tây bảo, con là người khác tôn giáo, thế là quý xơ đã “tìm cách rủ rê chú theo đạo”.

Chính quý xơ là người đã dạy giáo lý cho chú Tây, hướng dẫn chú trở thành con cái Chúa.

Mục đích theo đạo của chú Tây là để dâng mình cho Chúa trong ơn gọi dâng hiến. Ước nguyện của chú Tây đã được Chúa nhận lời. Chúa đã chọn chú làm con của Chúa, làm tu sĩ và làm linh mục của Chúa.

Hai ông bà cố của tân linh mục đã qua đời khi ngài mới vào Nhà dòng, nên giờ đây Thiên Chúa là Cha duy nhất của ngài và Hội thánh là người mẹ cưu mang ngài.

Thánh ý Chúa quả thật rất nhiệm mầu. Tạ ơn Chúa muôn đời.

Nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần đồng hành và hướng dẫn cha P.x trên nẻo đường sứ vụ, để cha trở thành người mục tử như lòng Chúa mong muốn.

Chúng ta cùng cầu nguyện thật nhiều cho ngài.

May be an image of 2 people, people standing and indoor

Những người vô danh chết vì Đạo Chúa

Make Christianity Great As Always is at Giáo xứ Phường Đúc – Huế.

{Những người vô danh chết vì Đạo Chúa}

Ở sâu trong thôn Thượng Bốn làng Dương Xuân Thượng và Dương Xuân Hạ, thành phố Huế, ít có ai biết ngôi mộ của Mười Hai Ông Cỏ (những người vô danh chết vì đạo Chúa).

Các vua chúa Việt Nam thời xưa nuôi rất nhiều voi, vì voi là loài dễ thuần hóa và thông minh trong chiến đấu. Vào triều vua Gia Long (1802), ở xã Nguyệt Biều, Thừa Thiên có cơ sở dụ voi, và 3 xưởng voi ở xã Phú Xuân và Dương Xuân. Vào thời này các giáo dân bị kết án “Tả Đạo“ (theo đạo Gia tô hay đạo Thiên Chúa ngày nay) đều được đưa về đây bứt cỏ nuôi voi (hay còn gọi là án thảo tượng).

Vào đời Minh Vương Nguyễn Phúc Chu (1691 – 1725), có 26 lính ngự lâm quân (21 nam và 5 nữ) không chịu bỏ đạo, bị kết án thảo tượng và khắc tự ở trán, mang xích ở chân và cổ. Trong đó có ông Cai Pho người Thợ Đúc bị bắt năm 1714.

Đời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738 – 1765), theo Đức Cha Lefebvre Từ (nay là Thánh tử đạo Việt Nam) có hai chủng sinh bị kết án và có ông Đamianô quê ở Thợ Đúc.

Đời Huệ Vương Nguyễn Phúc Thuần (1765 – 1777), Cha Pigneau người coi xứ đạo lúc bấy giờ cho hay có 30 người bị án này hơn 20 năm. Theo cha Pigneau có 3 giáo dân từ Nha Trang ra Huế chịu án thảo tượng, có một chủng sinh chết vì chịu đựng không nổi.

Như vậy trong 3 đời chúa, thì đời Minh Vương, các vị bị khắc tự “Tả Đạo” ở trán, hai đời chúa sau thì mang miếng gỗ hoặc đồng ghi “Tả Đạo”, chân và cổ mang xích, suốt ngày họ phải chèo đò, vào tận núi để bứt cỏ và bị lính hạch sách đủ điều như cỏ xấu, cỏ bứt không đủ số lượng. Trong thời gian thụ án này, các tù nhân đều vui vẻ sống đạo một cách sốt sắng. Các thừa sai thời bấy giờ thương cảm cũng kêu gọi các giáo dân đi bứt cỏ giúp hoặc góp tiền thuê người bứt cỏ.

Đặc biệt có những trường hợp, quan trên tha không buộc phải mang xích nhưng họ từ chối, hoặc tạo cơ hội để họ trốn nhưng họ cũng không làm vì họ sợ bị hiểu lầm và làm ô danh đạo.

Trong số người bị án thảo tượng thì họ Thợ Đúc có hai vị: ông Câu Pho và ông Đamianô. Hiện nay theo ghi chép, có 12 vị bị án này tại Thợ Đúc được an táng ở sâu trong thôn Thượng Bốn. Dù hữu danh hay vô danh, hy vọng các Ngài đang được hưởng Nhan Thiên Chúa.

Vào năm 1999, Đức Tổng Giám mục Stêphanô đã giao cho Cha sở xứ Thợ Đúc tôn tạo lại mộ Mười Hai Ông Cỏ một cách xứng đáng và tôn nghiêm.

(Anna TrangGiáo xứ Cần Giờ – DCCT)

Chuyện có thật về những người đẹp nổi tiếng đã bỏ tất cả để trở thành nữ tu

Chuyện có thật về những người đẹp nổi tiếng đã bỏ tất cả để trở thành nữ tu

Việc gì trên đời này có thể đem hạnh phúc đến với con người? Có thể làm cho đời sống có ý nghĩa ? Phải chăng đó là tiền bạc? Danh vọng? Địa vị? Hay là sự thành công ? Chỉ có một câu trả lời, chỉ có một Người có thể mang lại hạnh phúc cho chúng ta mà thôi – đó là Chúa Giê-Su Ki- tô, Chúa chúng ta.

 Ba nghệ sĩ tài sắc này đã đi theo tiếng gọi thiêng liêng để theo Chúa, trong khi họ đang tiến trên đài danh vọng

  • Dolores Hart

 

 

 

 

 

 

 

 

  “Nếu mọi người nghe được những gì tôi đã nghe…”

Tên thật Dolores Hicks sanh năm 1938, nghệ danh là Dolores Hart. Cô đã nổi tiếng ngay từ khi bắt đầu đóng phim. Năm 18 tuổi cô đóng vai người yêu của tài từ Elvis Presley trong phim Loving You. Cô là người hôn Elvis lần đầu trên màn ảnh, qua phim này.Trong 5 năm liên tiếp , cô đã đóng các vai chính trong 9 bộ phim với các tài tử lừng danh như Stephen Boy, Montgomerry Clift, George Hamilton, Robert Wagner. Khi ấy cô cũng đang chuẩn bị để kết hôn.

Nhưng năm 24 tuổi, trong khi đang có sự nghiệp vững chắc và ở trên đà thành công, thình lình cô tuyên bố sẽ hủy bỏ tất cả để đi theo Chúa. Việc này xảy ra khi Cô thủ vai Clara trong phim Thánh Phanxicô Assisi, trong lúc quay phim tại Ý, Dolores Hart đã gặp Đức Giáo hoàng Gioan XXIII. Khi cô giới thiệu: “Con là Dolores Hart, thủ vai Thánh nữ Clara ” Đức Thánh Cha trả lời là, “Không, con chính là Thánh Clara!” Những người mến mộ cô rất thất vọng và họ cũng giận dữ nữa khi họ nghe tin Dolores Hart sắp đi tu.  Cô còn chia sẻ là có một vị linh mục tên là Cha Doody từng nói, “Con thật là điên khi quyết định đột ngột như thế!” Dolores Hart đã trả lời thư một người bạn thân khuyên cô nên bỏ ý định đi tu bằng những lời sau:

 “Nếu bạn nghe được như tôi đã nghe tiếng Chúa gọi, hẳn bạn cũng sẽ đi theo Chúa!”

  • Olalla Oliveros

 

 

 

 

 

 

 

 

 

“Chúa không bao giờ lầm lẫn…”

Olalla Oliveros là một siêu mẫu ở Tây Ban Nha, sau chuyển sang đóng phim và làm người mẫu quảng cáo trong nước và quốc tế. Sau khi đi hành hương ở Thánh Địa Fatima nơi Đức Me hiện ra năm 1917, cô đã có cảm giác như có “một trận động đất lớn đã xảy ra trong linh hồn tôi”.  Olalla còn có thị kiến, thấy mình là một nữ tu mặc áo dòng, hình ảnh mà cô đã cho là kỳ quái khi mới thấy lần đầu. Nhưng hình ảnh đó cứ ám  ảnh Olalla  mãi cho đến lúc cô biết là Chúa Giê- Su đã gọi cô từ bỏ lối sống phù hoa để thành nữ tu. ” Chúa không bao giờ lầm lẫn. Ngài kêu gọi tôi đi theo Ngài, và tôi không thể cưỡng lại được ơn gọi ấy”

Hiện nay Olalla Oliveros đang đi tu trong Dòng Kín Thánh Michael ở Spain.                                                                

      Amanda Rosa Perez

 “Hiện giờ tôi sống trong bình an”

Amanda Rosa Perez là người mẫu thành công nhất ở Colombia cho đến 10 năm trước, khi không ai biết tin tức gì của cô nữa . Nhưng sau đó, Cô đã giải nghĩa về sự vắng mặt thình lình của cô trước công chúng. Cô đã được ban ơn hoán cải tâm hồn, và đang làm việc chung với các nữ tu trong một cơ quan tôn giáo. Lúc trước, khi lên đến đỉnh cao của nghề kiểu mẫu, cô bị mắc một cơn bệnh làm mất đi một phần thính giác. “Tôi đã thất vọng, bực tức, mất hướng đi và chìm đắm trong các cuộc vui. Tôi luôn tìm câu trả lời nhưng thế giới vẫn im hơi lặng tiếng…”

Hiện giờ Amanda Rosa Perez năng đi xưng tội, rước Lễ, lần Chuỗi Mân Côi, và lần hạt Lòng Chúa Thương Xót.

“Lúc trước tôi luôn bận rộn, căng thẳng, và hay nổi giận. Tôi chán làm người kiểu mẫu siêu hạng. Tôi chán ngán cái thế giới đầy dối trá, lừa đảo, giả dối, bạo hành ; thế giới chỉ nhìn qua bề ngoài, đầy những việc ngoại tình, nghiện ngập, hút sách; một thế giới chỉ tôn trọng vật chất của cải, hưởng thụ, và những việc vô luân.  Bây giờ tôi cảm thấy rất bình an và thế gian không còn cám dỗ được tôi như trước. Tôi trân quý từng giây phút Thiên Chúa ban cho tôi.  Tôi muốn làm một người mẫu kêu gọi cho việc tôn trọng phẩm giá phụ nữ, thay vì là người mẫu dùng cho các quảng cáo thương mại.”

Bách Việt

From: TU-PHUNG