VÌ SAO TÔI THEO ĐẠO CÔNG GIÁO

VÌ SAO TÔI THEO ĐẠO CÔNG GIÁO

Maria Nguyễn Thị Xuân
nguồn: ubmvgiadinh.org

Những người quen thân tôi đều biết rằng tôi là người mới làm lễ quy y theo
Đạo Phật cách đây khoảng hơn 2 năm. Nói là theo Đạo Phật nhưng thật ra tôi
yêu mến và cảm thấy gần gũi với Đức Quan Thế Âm Bồ Tát nhiều hơn và cũng nhờ
vậy mà cuộc sống của tôi đã trở nên vui vẻ và hạnh phúc hơn những năm về
trước, vì tôi cảm nhận được sự khác biệt giữa một cuộc sống có Đạo của ngày
hôm nay và đời sống không có Đạo của ngày hôm qua.

Nhưng gần đây (cuối  năm 2004) tôi và 2 đứa con tôi đã bắt đầu theo học chương trình giáo lý căn bản của Công Giáo tại Nhà Thờ Saint Jane Frances tại North York (Canada). Hai đứa con tôi, đứa con trai 17 tuổi và đứa con gái 14 tuổi đã được rửa tội hôm lễ Phục Sinh ngày 26/3/2005. Còn tôi thì chuẩn bị về Việt Nam rửa tội vào
tháng 8/2005.

Lý do tôi về Việt Nam rửa tội là vì dòng họ nội ngoại 2 bên nhà tôi từ bao đời nay, tôi là người đầu tiên theo đạo Công Giáo. Vì thế tôi muốn nhân cơ hội này đưa cả nhà
tôi ở đây về VN để giới thiệu cho gia đình 2 bên biết thêm về Thiên Chúa và ước nguyện rằng cơ hội này sẽ là ngọn Lửa thiêng soi sáng tất cả mỗi tấm lòng mọi người trong gia đình và là chiếc cầu nối liền giữa gia đình tôi cùng Thiên Chúa.

Có rất nhiều người đã hơi ngạc nhiên vì tôi chỉ trong một thời gian ngắn đã tin chắc chắn vào Thiên Chúa và việc theo Đạo “ào ạt” của mọi thành phần trong gia đình chúng tôi, nên đã hỏi tôi rằng “nguyên nhân nào đã khiến chúng tôi có một đức tin mãnh liệt và chắc chắn vào Thiên Chúa như vậy? Chúng tôi đã thấy gì và đã cảm nhận được gì nơi Thiên Chúa? Có phải chăng chúng tôi đã miệt mài đi tìm Chúa bấy lâu nay và ngày hôm nay chúng tôi đã tìm gặp Ngài hay là chính Ngài đã tìm gặp chúng tôi, những con chiên thất lạc tự bao đời.”

Đọc hồi nãy tới chừ mà chẳng nghe tôi nhắc tới chữ “chồng”, chắc các bạn nghĩ rằng tôi là “single mom” hả? Không phải đâu, cũng may còn có một người chịu khó lấy tôi làm vợ nên tôi cũng có chồng như ai, nhưng khổ nỗi là khi lấy nhau thì ổng mạnh ù và 4 năm nay thì ổng bịnh triền miên đau khổ, bịnh té lên, té xuống, bịnh đến nỗi mà nhìn lên trời chẳng thấy trời, nhìn xuống đất không thấy đất, nhìn chung quanh chẳng thấy ai và nhìn lại chồng mình cũng chỉ thấy có bịnh mà thôi. Đúng là bịnh đến độ không còn thấy trời trăng mây gió gì cả, mà đâu phải mấy cái bịnh tầm thường như đau đầu, sổ mũi mỗi mùa, mỗi năm vẫn thường xảy ra ở cái xứ lá phong này, mà là bịnh ung thư gan ngặt nghèo mà ai nghe tới cũng rùng mình rởn tóc gáy. Ai đã mang vào thân thì cơ hội sống được 5 năm chỉ có 5% mà thôi (theo cancer therapy guide xuất bản năm 2003). Nhưng cái khổ là chồng tôi đâu có phải chỉ bị ung thư gan 1 lần mà thôi đâu, chỉ trong vòng 3 năm rưỡi thôi, ổng đã bi bệnh ung thư gan tái phát đến 6 lần, tất cả là 9 cái khối u (tumors), cái lớn nhất là 13.5 cm và cái nhỏ nhất là 1.5cm.

Bệnh ung thư gan của chồng tôi tái phát lần thứ 6 vào cuối tháng 10 năm 2004. Khối u lần này phát triển rất nhanh và kỳ lạ: trong vòng 6 ngày mà phải ra vào phòng cấp cứu đến 4 lần. Sau nhiều lần thử nghiệm và xét nghiệm thì các Bác Sĩ tại bệnh viện
Princes Margaret tại Toronto đã báo cho chúng tôi biết là “sorry nothing we can do”. Khi biết bệnh không còn cách chữa trị, họ chuyển chồng tôi qua một Bác Sĩ khác để thí nghiệm một loại radiation mới ra đang còn trong thời kỳ thí nghiệm ở giai đoạn 1 (phase 1 clinical), nhưng người bác sĩ thực hiện cuộc thí nghiệm này đã đi vắng, 3 ngày sau mới trở lại bệnh viện. Vì thế chúng tôi phải về nhà chờ đợi 3 ngày sau sẽ trở vào bệnh viện cho họ thử thuốc.

Sau khi về đến nhà thì có một người bạn đem đến tặng cho chồng tôi một chai nước Thánh có hình Đức Mẹ Lộ Đức và có kể cho chúng tôi nghe sơ sơ về Đức Mẹ và từ đó do một sự đánh động vô cùng mãnh liệt đã dẫn đưa chúng tôi đến một quyết định không suy nghĩ là đi Lourdes ở bên Pháp để cầu nguyện với Đức Mẹ Lộ Đức (vì nếu có suy nghĩ thì không thể đi được, và đi có thể sẽ chết trên đường đi). Chỉ có một
ngày đi, một ngày ở và một ngày về.
Chúng tôi chỉ có một ngày ở với Đức Mẹ mà may mắn thay lại đúng vào ngày lễ lớn mỗi năm chỉ tổ chức một lần của các người dân miền núi. Có 3 vị Hồng Y chủ lễ, hơn 100 Giám Mục và soeurs, khi chúng tôi lần mò ra tới hang đá (Grotto) nơi Đức Mẹ hiện ra thì người ta đã vây quanh và đầy nghẹt cả mọi nơi. Chúng tôi cố len lỏi một hồi mà chẳng tới đâu, quay đầu nhìn về hướng hang đá cũng không thể nhìn thấy tượng Đức Mẹ đâu cả. Trải qua bao nhiêu khó khăn muốn đến tận nơi để dâng lời cầu nguyện với Mẹ mà bây giờ đứng xa như vậy làm sao mà cầu nguyện với Mẹ được. Tôi buồn và thất vọng vô cùng nên nhìn về phía hang đá mà khấn rằng “Lạy Mẹ, chồng con bịnh hoạn từ xa
đến đây tìm Mẹ mà bây giờ đứng xa quá không nhìn thấy Mẹ, xin Mẹ thương xót
cho chồng con vào bên trong được không!”.

Lạ lùng thay chưa đầy mấy phút sau thì bỗng một người đàn bà người Pháp đang giữ trật tự tại đó đến dắt chồng tôi vào bên trong và cho ngồi sau lưng các vị Giám Mục và đối diện với tượng Đức Mẹ nơi hang đá. Khi chồng tôi vào được bên trong thì tôi
vui mừng lắm. Nhưng mừng chưa xong thì lại lo lắng vô cùng, vì chồng tôi sức
khoẻ rất yếu nếu có việc gì ai lo cho ảnh đây! Vì thế chẳng còn cách nào khác hơn là tiếp tục cầu nguyện. Tôi lại tiếp tục thì thầm với Mẹ “Mẹ ơi! Mẹ cho con vào trong để con có thể nhìn thấy chồng con được không Mẹ ?.”…

Chỉ vài phút sau thì lại có một người giữ trật tự dắt tôi vào bên trong khu Thánh Lễ có ghế ngồi đàng hoàng, tuy ở đây không gần chồng tôi lắm, nhưng nhìn từ xa tôi có thể thấy thấp thoáng bóng dáng của chồng tôi. Được như vậy đã là may lắm rồi, vì
trong khu Thánh Lễ chỉ ưu tiên cho những bệnh nhân đi xe lăn và những người
bệnh nằm trên băng ca hoặc những ai có bổn phận thi hành Thánh Lễ mà thôi. Vì
số ghế chỉ có vài trăm mà số người lại đến mấy ngàn người. Sau khi xảy ra những việc nầy tôi mới thấy thế nào là sự mầu nhiệm của sự cầu nguyện và ngay lúc nầy lòng tôi đã cảm thấy gần gũi với Đức Mẹ và Chúa hơn bao giờ hết.

Tối hôm đó ngày 7/11/2004 cũng là tối cuối cùng tại Lộ Đức (Lourdes), tôi cứ lang thang quanh khu nhà thờ cầu nguyện và suy niệm về sự mầu nhiệm cuả  đức tin và lòng thương xót mà Mẹ đã ban cho tất cả những ai đang khốn khổ mà có lòng tin đến đây cầu xin cùng Mẹ và nhất là lòng thương xót mà Mẹ đã ban cho tôi ngày hôm nay.

Trời đã bắt đầu vào mùa Đông, mà Lourdes là miền núi nên vào ban đêm trời lạnh dữ lắm, nhất là vào lúc nửa đêm. Nhìn quanh khuôn viên nhà Thờ rộng lớn bao la không còn một bóng người, nhìn lại hang đá nơi Đức Mẹ hiện ra chỉ còn lại một bà cụ già đang quỳ gối, hai tay lần chuỗi mân côi, bà dùng hai đầu gối già nua quỳ trên
sàn đá lạnh buốt và lê từng bước nặng nề, chậm rãi nhưng cương quyết van xin
một điều gì đó vô cùng thành khẩn và tự tin.

Nhìn vào Đức Tin của bà cụ, cõi lòng tôi tự nhiên lòng dâng một niềm tin mãnh liệt vô bờ bến và tôi tiến dần về phía hang đá dưới chân tượng Đức Mẹ, nơi chồng tôi đang cúi đầu, hai tay ôm lấy vách đá lòng sụt sùi dâng lời cầu nguyện. Tôi yên lặng
một lát rồi đặt một tay lên vách đá và tay kia đặt trên đôi vai gầy guộc đang
run run vì xúc động của chồng tôi, tôi vô cùng đau khổ và xót xa cho số phận
của chồng tôi, cõi lòng tôi bỗng vỡ ra từng mảnh, những dòng nước mắt từ
trong linh hồn tôi đang tuôn ra. Tôi như chìm vào một không gian vô tận và
tôi bắt đầu cầu nguyện, những lời cầu nguyện bây giờ không phải bằng trí óc
hay con tim mà là những lời cầu nguyện từ trong linh hồn đang hoà tan vào
trong nước mắt dâng lên Mẹ.

“Mẹ ơi! chồng con đã bị bệnh quá ngặt nghèo đã không còn cách chữa trị, chúng con đến đây để cầu xin với Mẹ và chỉ biết một lòng cậy trông vào Mẹ mà thôi, xin Mẹ vì
lòng xót thương cầu bầu cùng Chúa Giêsu cứu lấy chồng con, CUỘC ĐỜI CÒN LẠI,
CON NGUYỆN XIN THEO MẸ ” và đây chính là lời nguyện ước giữa tôi và
Thiên Chúa.

Đến nửa đêm trời trở nên lạnh hơn, chúng tôi tạ ơn Mẹ ra về.

Trên đường về, chúng tôi ghé lại bên dòng suối mà năm xưa Đức Mẹ đã biến thành dòng nước thánh và đã chữa lành biết bao bệnh nhân có Đức Tin đến đây cầu xin cùng Mẹ. Chồng tôi đứng lại, dâng lời cầu nguyện và uống nguyên một chai nước thánh rồi đi thẳng một hơi về khách sạn mà không cần sự giúp đỡ của tôi, cái lưng cũng không còn khom khom như ngày hôm qua nữa. Tôi vô cùng kinh ngạc nhưng chẳng dám nói gì, cứ âm thầm quan sát mọi việc.

Thật đúng là “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở
cho” (Lc 9, 10)

Chiều hôm đó khi về tới nhà tại Mississauga, Ontario, Canada, chồng tôi đang loay hoay đem bức tượng Đức Mẹ đặt trên bàn thờ, còn tôi đang lăng xăng sửa soạn bữa ăn tối thì ngay lúc đó đứa con trai của tôi chạy xuống ôm lấy vai tôi mà hỏi rằng
“Mẹ ơi khi nào con rửa tội?”.

Tôi kinh ngạc vô cùng vì cả nhà tôi chưa có ai học Giáo lý bao giờ và cũng chưa có ai nói với nó việc theo Đạo Công giáo. Tôi hơi sững sờ một chút nhưng trong lòng rộn rã một niềm vui vì tôi biết rằng ơn Chúa đang đổ xuống nhà tôi. Tôi quay lại và
nói với con trai tôi rằng “Nếu con muốn được rửa tội để theo Chúa thì con phải đi học lớp giáo lý trước cái đã”. Con tôi đồng ý và mấy hôm sau thì chúng tôi liên lạc với Cha Giuse Phạm Ngọc Tuấn, nhờ sự nhiệt tình và lòng thương mến đến gìa đình chúng tôi, cha đã sắp xếp mọi thứ và mấy tuần sau thì cả gia đình chúng tôi theo học khóa Giáo Lý vừa qua và 2 đứa con của tôi đã nhận Bí Tích rửa tội vào đêm Lễ Vọng phục Sinh ngày 26/3/2005.

Còn phần tôi như đã thưa ở trên, tôi phải “rán” mà dời lại đến tháng 8 về Việt Nam rửa tội, mục đích là đem Tin Mừng về chia sẻ cùng gia đình hai bên và với ước nguyện rằng, nhân cơ hội nầy Chúa sẽ thương xót mà đánh động mỗi tâm hồn trong gia đình hai bên và ước mong một ngày nào đó, những tâm hồn này sẽ quay về với Chúa. Tôi xin bạn hãy cầu nguyện cho gia đình tôi thật nhiều để những lời nguyện ước của tôi sẽ trở thành sự thật.

Mấy tháng nay gia đình chúng tôi đang sống trong mầu nhiệm của Đức Tin và hồng ân của Thiên Chúa, qua hình ảnh Đức Mẹ và sự mầu nhiệm của biến cố nầy tôi đã thấy gì nơi Thiên Chúa? Và cuộc đời tôi biến đổi ra sao?

Viết đến đây tôi lại nhớ đến một người bạn trong “Chương trình Thăng tiến Hôn nhân Gia đình” tuần vừa qua đã mời tôi đến dự một buổi họp mặt hàng tháng tại
Liên Gia 12 và bài Thánh kinh được chia sẻ hôm đó lại là bài dụ ngôn nói về
“Nước Hằng Sống” và Chúa đã ví “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì chôn giấu laị, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.” (Mt 13, 44.)

Càng suy niệm tôi càng cảm thấy như đây là một lời nhắn nhủ mà Chúa đã dành riêng cho tôi, mà Mẹ là NGƯỜI đã âm thầm chỉ cho tôi kìa là Nước Hằng Sống và tôi phải làm gì để có được Nước Trời này đây ! Lạy Chúa, con thật chẳng có gì xứng đáng để bán, để mua, con chỉ có cuộc đời còn lại nầy và mỗi ngày trôi qua là một ngày
con xin dâng lên Mẹ và Chúa.

Đến bây giờ thì bạn đã biết vì sao tôi theo Đạo Công Giáo rồi phải không?

Tôi kể lại câu chuyện nầy là để Vinh Danh và tạ ơn Đức Mẹ Lourdes, Người đã đưa tôi về với Chúa và cũng để cảm ơn:

Cha Giuse Phạm Ngọc Tuấn, người đã hướng dẫn và dìu dắt tôi qua những đoạn đường, những khúc quanh của cuộc hành trình đức tin mà lòng tôi nhiều khi như mơ hồ lạc mất Chúa.

Cảm ơn tất cả các anh chị em trong Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình và nhất là anh chị em trong liên gia 10, đã cầu nguyện cho chúng tôi trong suốt thời gian qua.
Cảm ơn Thầy Lân Thầy Hoàng và Soeur Hà đã hướng dẫn gia đình tôi qua lớp Giáo Lý khóa 2004-2005 và tất cả quý vị trong ban Mục Vụ Cộng Đoàn Việt Nam ở North York, Canada.

Và xin đặc biệt xin chân thành cảm ơn mẹ đỡ đầu Theresa-Maria T. Hương và nhất là anh Toản, người đã chia sẻ buồn vui mỗi ngày với chúng tôi và cũng là người đã dìu dắt 2 chúng tôi trong suốt hành trình chuyến đi Lourdes đầy nước mắt hồng ân nầy.

Maria Nguyễn Thị Xuân

Về Bạc Liêu “gặp” nhân chứng đức tin

Về Bạc Liêu “gặp” nhân chứng đức tin

24/10/2012 –

Tác giả: Trầm Thiên Thu

“Cổng Đức Tin” (Porta Fidei) đã mở rộng. Năm Đức Tin đã khởi đầu. Chúng ta đang
hít thở không khí của tinh thần Năm Đức Tin là Tân Phúc Âm hóa. Đức tin phải được thể hiện cả đời, nhưng đặc biệt là trong Năm Đức Tin này.

Trong tinh thần đó, ban chấp hành CĐ LCTX TGP Saigon và ban chấp hành CĐ LCTX
các giáo hạt Tân Sơn Nhì, Gia Định và Gò Vấp đã có chuyến về Bạc Liêu để “gặp” một nhân chứng đức tin sống động: Lm P.X. Trương Bửu Diệp.

Đoàn chúng tôi khởi hành từ nhà thờ Tân Định lúc 21 giờ ngày 22-10-2012 và tới nhà thờ Tắc Sậy lúc 4 giờ 30 ngày 23-10-2012.

Người Việt Nam, cả lương lẫn giáo, không mấy ai lại không còn biết đến Lm P.X. Trương Bửu Diệp, người đã hết lòng vì đoàn chiên và hiến thân cứu đoàn chiên. Thậm chí có những người ngoại quốc (Pháp, Mỹ, Canada, Đài Loan,…) cũng đã đến cầu nguyện với Lm Diệp, bằng chứng là những bảng tạ ơn ghi rõ tên người tạ ơn và tên quốc gia. Quả thật, Lm Diệp đúng là vị Mục tử nhân lành mà Chúa Giêsu nói đến: “Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10:11). Đó là hình ảnh của Mục tử nhân lành được Chúa Giêsu “phác họa” rõ nét trong Ga 10:1-18. Thiên Chúa và Giáo hội rất cần những nhân chứng đức tin sống động như vậy.

Bé trai Trương Bửu Diệp sinh ngày 1-1-1897 tại làng Tấn Đức (nay thuộc ấp Mỹ Lợi, xã Mỹ Luông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang), được rửa tội ngày 2-2-1897 tại họ đạo Cồn Phước (nay cũng thuộc ấp Mỹ Lợi, xã Mỹ Luông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang), với tên thánh là Phanxicô Xaviê.

Năm 1924, sau thời gian tu học, thầy Diệp được thụ phong linh mục tại Nam Vang dưới thời Đức cha G.B. Chabalier người Pháp. Tháng 03-1930, Lm Diệp về quản nhiệm họ đạo Tắc Sậy (thuộc huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu). Trong những năm làm cha sở, ngài quan hệ rộng, giúp đỡ và thành lập nhiều họ đạo khác tại các vùng phụ cận như Bà Đốc, Cam Bô, An Hải, Đầu Sấu, Chủ Chí, Khúc Tréo, Đồng Gò, và Rạch Rắn.

Hoàn cảnh xã hội nhiễu nhương trong thời gian 1945–1946, chiến tranh loạn lạc,bà con nhân dân di tản, cha bề trên đįa phận Bạc Liêu là Phêrô Trần Minh Ký và cả các cha người Pháp cũng khuyên Lm Diệp lên Bạc Liêu lánh mặt, khi nào tình hình yên ổn thì sẽ trở lại họ đạo Tắc Sậy, nhưng ngài trả lời: “Con sống giữa đàn chiên và nếu có chết cũng chết giữa đàn chiên, CON KHÔNG ĐI ĐÂU CẢ”. Quả thật, câu nói này chứa đầy tâm huyết của một chủ chăn đích thực, can đảm quyết sống chết vì đoàn chiên.

Không chỉ vậy, ngày 12-03-1946, ngài bį bắt cùng với gần 100 chức sắc và giáo dân tại họ đạo Tắc Sậy, bị lùa đi và nhốt tại lẫm lúa nhà ông giáo Sự ở Cây Dừa. Người ta định giết hết tất cả nhưng ngài cương quyết: “Chính tôi là chủ chăn các con chiên đó, vậy TÔI XIN CHẾT THAY cho các con chiên của tôi”. Họ chấp nhận. Mọi người được thả còn ngài bị đem đi thủ tiêu. Cái chết của ngài là cái chết lành thánh, vì Chúa Giêsu đã nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Và Lm Diệp đã chịu tử vì đạo ngày 12-3-1946, nhằm ngày 9-2 năm Bính Tuất.

Hiện nay, Tòa thánh đang mở án phong chân phước cho Lm P.X. Trương Bửu Diệp.
Xin cho Thánh Ý Chúa nên trọn nơi tôi tớ trung tín Chúa, người đã xả thân vì
đoàn chiên của Chúa.

Trên đường về lại Saigon, chúng tôi ghé vào xứ đạo Trà Lồng (giáo hạt Trà Lồng, GP Cần Thơ), quản xứ kiêm quản hạt là Lm Phêrô Nguyễn Thành Chất. Tại đây, ngay trước nhà thờ, Lm Chất vừa cho xây tượng đài LCTX để mọi người cùng tín thác vào Chúa Giêsu, đúng như mệnh lệnh của Chúa Giêsu đã mặc khải cho Thánh nữ Faustina.

Trong bữa trưa thân mật, chúng tôi cùng chia sẻ nhiều vấn đề liên quan việc phát triển LCTX và đức tin. Lm Chất có bản chất dân Nam bộ là hiếu khách, hòa đồng, cởi mở, bình dị và thẳng thắn. Lm Chất có nói: “Bổn đạo làm hư các linh mục”. Ý này rất thực tế, đáng lưu ý cho cả giáo dân và giáo sĩ để “xem lại” chính mình – đặc biệt trong Năm Đức Tin này. Một linh mục (nay đã già yếu, du học và thụ phong linh mục tại Thụy Sĩ, và từng dạy Kinh thánh ở chủng viện) cũng đã từng tâm sự với tôi cái “ý độc đáo” này từ hơn 20 năm trước.

Sau đó, chúng tôi có đến gặp ĐGM Phaolô Bùi Văn Đọc, giám mục GP Mỹ Tho kiêm
chủ tịch Ủy ban Giáo lý và Đức tin của HĐGM Việt Nam. Tại nhà thờ chính tòa GP Mỹ Tho thấy đã có linh tượng LCTX với bảng chữ: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa”. ĐGM Đọc vui vẻ trò chuyện thân mật và cởi mở, đồng thời ngài cũng quan tâm việc phát triển LCTX trong giáo phận Mỹ Tho.

Sùng kính và truyền bá LCTX cũng là một cách sống đức tin và truyền giáo. Tuy nhiên, chúng ta muốn không bằng Chúa muốn. Thánh Phaolô xác định: “Tôi trồng, anh A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên” (1 Cr 3:6). Vấn đề không phải chúng ta làm nhiều hay ít, đạt hiệu quả hay không, mà vấn đề là thành tâm thực hiện của chúng ta, quan trọng nhất vẫn là “Thiên Chúa làm cho  lớn lên”, nghĩa là công việc được tiến triển tốt đẹp theo đúng Thánh Ý Thiên Chúa. Cái gì thuận Ý Chúa thì sẽ “thuận buồm xuôi gió”.

Làm việc gì cũng phải làm bằng niềm tin tưởng, tức là tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa. Mỗi chúng ta phải noi gương người cha của đứa bé bị quỷ câm điếc mà thân thưa với Chúa: “Con tin! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của con!” (Mc 9:24). Chính các tông đồ cũng đã phải cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con” (Lc 17:5).

Sống đức tin không dễ, thậm chí còn gặp nhiều gian truân khốn khó, nhưng “đức
tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn” (Gc 1:3). Thánh Giacôbê rất tuyệt vời khi nói về đức tin: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2:17).

Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho Giáo hội Việt Nam một nhân chứng đức tin sống động là cha P.X. Trương Bửu Diệp, nhờ lời nguyện giúp cầu thay của ngài, xin Chúa thêm đức Tin cho chúng con để chúng con can đảm làm nhân chứng trên cuộc lữ hành trần gian. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Bạc Liêu, 23-10-2012

Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện từ trần và đã gia nhập đạo Công Giáo


Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện từ trần và đã gia nhập đạo Công Giáo

RFA
10/2/2012      nguồn: Vietcatholic.net
Nhà thơ “ngục sĩ” Nguyễn  Chí Thiện từ trần và đã gia nhập đạo Công Giáo
Thi sĩ Nguyễn Chí Thiện, được mệnh danh “Ngục sĩ”, nhà thơ phản kháng nổi  tiếng nhất của Việt Nam, vừa từ trần tại Santa Ana, California, Hoa Kỳ lúc 7  giờ 17 phút sáng ngày 2/10/2012, hưởng thọ 73 tuổi
Ông sinh ngày 27 tháng 2 năm 1939 tại Hà Nội, học hành và sinh sống ở Hà Nội,
Hà Nam, Hải phòng với song thân phụ mẫu và một người chị.
Ông từng bị chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà bắt giam từ năm 1961, vì tội  “phản tuyên truyền” bằng những bài thơ phê phán chế độ. Được trả tự do vào  tháng 11 năm 1964, đến tháng 2-1966 ông lại bị tống giam đến tháng 7-1977.  Ông viết lại bằng tay tập thơ “Hoa địa ngục” sáng tác và ghi nhớ trong tù.
Tháng 7-1979, ông đem đưa được tác phẩm này vào bên trong toà đại sứ Anh. Ông
không đi tị nạn ở Anh và bị bắt ngay trước cổng toà đại sứ, bị tống giam thêm
12 năm, với chế độ giam giữ khắc nghiệt hơn hết so với những khoảng thời gian
bị giam cầm trước đó.
Tập thơ “Hoa địa ngục” từ toà đại sứ Anh ở Hà Nội được chuyển tới giáo sư  Patrick Honey (1925-2005) dạy tại đại học Luân đôn. Sau đó thơ ông được phổ  biến trên báo chí, sách vở của người Việt hải ngoại, được dịch và xuất bản  bằng Anh, Pháp, Việt ngữ. Năm 1985 ông được tặng thưởng khiếm diện giải  thưởng thơ quốc tế tại Rotterdam.
Từ năm 1981 Tổ chức Ân xá Quốc tế Amnesty International, Tổ chức Theo dõi
Nhân quyền Human Rights Watch và Tổ chức nhân quyền Quê Mẹ cùng phát động
chiến dịch kêu gọi quốc tế can thiệp với nhà cầm quyền Việt Nam về trường hợp
của ông.
Suốt thời gian đó ông bị giam tại Hoả Lò, Hà Nội, đến năm 1985 bị đưa đi biệt  giam giữa rừng, kiệt sức và gần chết đói. Năm 1990 ông được đưa tới trại tù Ba Sao săn sóc thuốc men, và được trả tự do vào tháng 10 năm 1991.
Được anh ruột bảo lãnh sang Hoa Kỳ từ năm 1995, ông ghi lại và phổ biến tập  “Hoa địa ngục” thứ nhì, gồm những bài ông sáng tác và ghi nhớ trong thời gian  cầm tù sau . GS Nguyễn Ngọc Bích dịch tác phẩm nay sang Anh ngữ và xuất bản  song ngữ. Ông viết tự truyện bằng Anh ngữ, được đại học Hawaii xuất bản trong  “Beyond Works: Asian Writers on Their Works.”
Thi sĩ “ngục sĩ” Nguyễn Chí Thiện được giải thưởng của Hội Nhà văn  Quốc tế vào năm 1998. Ông sang Pháp, ở lại đó 3 năm để viết “Hoả Lò tập  truyện”. Tác phẩm được dịch sang Anh ngữ, đại học Yale xuất bản năm 2007.
Nhà thơ cư ngụ tại quân Cam California từ năm 2004, phải phấn đấu thường  xuyên với những di chứng bệnh tật trong suốt 27 năm tù ngục, nhưng vẫn đi  nhiều nơi để nói chuyện về kế hoạch dân chủ hoá Việt Nam.
Ông là một người độc thân, mất đi trong sự săn sóc của bạn bè thân hữu và  những cuộc thăm viếng của những đồng bào Việt Nam ái mộ thơ văn của ông,  ngưỡng mộ ý chí bất khuất của ông trước chế độ cộng sản của Nhà nước Việt Nam  Xã hội Chủ Nghĩa.
Vietcatholic xin nói thêm, khi đi tù tại ngoài Bắc Việt Nam, thi sĩ đã cảm  phục tinh thần của Cha Vinh , đã tìm hiểu đạo Công Giáo nên trước khi từ  trần, thi sĩ đã xin gia nhập đạo Công Giáo. LM Cao Phương Kỷ đã rửa tội cho thi sĩ và ban các phép bí tích sau cùng cho thi sĩ.
Thi sĩ lấy tên Thánh là: Thomas More
Xin cầu nguyện cho linh hồn Thomas More  Nguyễn Chí Thiện sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa.
xem thêm:   Nuvuongcongly.net
VOA

Chuyện Cha Trương Bửu Diệp

Chuyện Cha Trương Bửu Diệp

Thưa quý bạn, Bạc Liêulà một tỉnh nhỏ ở vùng đồng bằng sông Cửu Long nhưng có nhiều chuyện nổi tiếng, như về lúa gạo, về muối, về nhãn, về… Công tử Bạc Liêu (1900-1973) trong thời Pháp thuộc, về vụ án Đồng Nọc Nạn của những năm 1928-1930, và về ngôi nhà thờ họ Tắc Sậy với sự linh ứng của Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp, mà gần đây
cả trong nước lẫn ngoài nước ai cũng biết.

Tôi không phải là người Công giáo, hơn nữa lại là một giáo viên (ngày trước gọi là giáo sư trung học) có đầu óc khoa học và ưa chuộng thực tế hơn là những sự tin tưởng mang tính
siêu hình. Tôi đã từng dạy học tại Bạc Liêu suốt 6 năm trời (1965-1971) và học trò của tôi tại các huyện Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu, Phước Long, Giá Rai v.v… đông lắm, chúng tôi thường xuống dưới đó chơi. Tôi rất quen thuộc với cái huyện (ngày trước gọi là quận) Giá Rai có ngôi nhà thờ nhỏ tí Tắc Sậy lợp tôn, nằm bên cạnh lộ sau khi đi qua ngôi chợ cũng nhỏ như vậy của thị trấn Hộ Phòng – thị trấn của huyện Giá Rai – khoảng một cây số.

Bây giờ, trong thời buổi CS này, nhà thờ Tắc Sậy tự nhiên nổi tiếng do sự linh thiêng “ai đến khấn nguyện điều gì đều được” của Cha Diệp. Có điều tôi muốn thưa với quý bạn rằng Nhà thờ Tắc Sậy huyện Giá Rai thuộc tình Bạc Liêu chứ không phải thuộc tỉnh Cà Mau. Tất cả các tài liệu đều ghi Bạc Liêu nhưng dân chúng thường nói Ca Mau bởi vì sau năm 1975, khi Cha Trương Bửu Diệp bắt đầu nổi tiếng thì Bạc Liêu thuộc về Cà Mau, kết hợp với tỉnh Cà Mau thành tỉnh Minh Hải, người ta quen gọi là Cà Mau chứ ít khi gọi là Minh Hải. Ngoài ra, Nhà thờ Tắc Sậy nằm trên đường Bạc Liêu đi Cà Mau, cách Bạc Liêu 37 cây số trong khi chỉ cách Cà Mau có 20 cây số nên mọi người dễ bị lầm.

Quý bạn hỏi vậy thì đối với những chuyện đồn đại, bản thân Đoàn Dự tin hay không tin? Tôi xin trả lời rằng tôi không dám nói tin hay không tin, nhưng theo tôi nghĩ, Nhà thờ Tắc Sậy là một ngôi nhà thờ rất nhỏ – nhỏ không thể nào nhỏ hơn được nữa – lại nằm trong một thị trấn cũng nhỏ, đồng không mông quạnh, ở phần gần như cuối cùng đất nước, cách Sài Gòn tới hơn 300 cây số, vậy mà nay được xây dựng thành một cơ ngơi to lớn, hiện đại, nguyên tiền xây cất đã hơn 59 tỉ đồng, tức gần 3 triệu đô-la, ấy là chưa kể các pho tượng 12 vị thánh tông đồ lớn gấp 2 hay 3 lần người thật, toàn bằng gõ đỏ tức loại gỗ quý hiện nay không còn có ở Việt Nam (nhưng còn có ở Campuchia và Lào) mà theo tôi biết, giá mỗi pho tới vài trăm triệu đồng, vậy thì tiền “nội thất” cũng tới hàng triệu đô-la. Toàn là do khách thập phương, lương cũng như giáo, nhất là Việt Kiều tại các nước gửi tới tạ ơn cả. Phải có cái gì đó thiêng liêng và đầy tin tưởng người ta mới dâng hiến lên Cha như thế! Mặt khác tôi cũng nghĩ, khi bị bắt cùng với 70 người vừa chức sắc vừa giáo dân trong họ đạo, Linh mục Phanxicô Trương Bửu Diệp đã hy sinh tính mạng của mình để cứu họ. Sau khi qua đời, ngài hiển linh ban ơn cho người này người kia, “ai xin thì cũng đều được”. Rồi bây giờ mọi người dâng lễ tạ ơn ngài, biến ngôi nhà thờ nhỏ xíu của ngài thành nơi khang trang, hiện đại. Tất cả những việc đó đều là tình người. Đối với tôi, bất cứ cái gì thuộc về tình người đều đáng ca ngợi.

Quý bạn cũng hỏi những chuyện về Cha Diệp thì ai cũng biết, tại sao tôi còn thuật lại? Xin thưa, tính tôi vẫn thế, không kể thì thôi, đã kể là rất chi tiết. Tôi sợ quý bạn tuy biết
nhưng biết từng mảng, không thành hệ thống. Bây giờ tôi xin tường thuật từ đầu đến cuối thật rõ để quý bạn hiểu, xin mời quý bạn xem xét…

 

* * *

 

Tiểu sử Linh mục Trương Bửu Diệp

Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp sinh ngày 01-01-1897, một tháng sau được Cha Giuse Sớm rửa tội ngày 02-02-1897 tại họ đạo Cồn Phước, nay thuộc ấp Mỹ Lợi, xã Mỹ Luông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.

Cha ngài là Micae Trương Văn Đặng. Mẹ ngài là Lucia Lê Thị Thanh. Gia đình sinh sống tại họ đạo Cồn Phước tỉnh An Giang.

Năm 1904, lúc ngài 7 tuổi thì mẹ mất. Cha ngài dời gia đình lên Battambang bên Campuchia, sinh sống bằng nghề thợ mộc. Tại đây, thân phụ ngài tục huyền với bà Maria Nguyễn thị Phước, sinh năm 1890, quê gốc tại Mỹ Luông, Chợ Mới, An Giang. Kế mẫu đã sinh cho ngài người em gái tên là Trương thị Thìn (1913), hiện còn sống tại họ đạo Bến Dinh, xã Tân Hòa, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp.

Năm 1909, cha Phêrô Lê Huỳnh Tiền gửi ngài vào Tiểu chủng viện Cù lao Giêng, xã Tấn Mỹ, Chợ Mới tỉnh An Giang. Học xong tại Tiểu chủng viện, ngài lên Đại chủng viện Nam Vang, Campuchia, (lúc đó các họ đạo An Giang, Châu Đốc, Hà Tiên trực thuộc giáo phận
Pnom Penh, Campuchia).

Năm 1924, sau thời gian tu học, ngài được thụ phong linh mục tại Nam Vang dưới thời Đức Cha Chabalier người Pháp. Lễ vinh quy và mở tay được tổ chức tại nhà người cô ruột là bà Sáu Nhiều, tại họ đạo Cồn Phước.

Từ năm 1924-1927, ngài được bề trên bổ nhiệm làm Cha phó họ đạo Hố Trư, một họ đạo của người Việt sinh sống tại tỉnh Kandal, Campuchia. Từ năm 1927-1929, ngài về làm giáo sư tại Tiểu chủng viện Cù lao Giêng tỉnh An Giang.

Tháng 03 năm 1930, ngài về trông nom họ đạo Tắc Sậy, quận Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Trong những năm làm cha sở, ngài quan hệ, giúp đỡ, thành lập nhiều họ đạo khác tại các vùng phụ cận như: Bà Đốc, Cam Bô, An Hải, Đầu Sấu, Chủ Chí, Khúc Tréo, Đồng Gò, Rạch Rắn.

Hoàn cảnh xã hội nhiễu nhương những năm 1945-1946, chiến tranh loạn lạc, bà con nhân dân di tản, Cha Bề Trên địa phận Bạc Liêu là Phêrô Trần Minh Ký và cả các cha người Pháp cũng khuyên ngài lên Bạc Liêu lánh mặt, khi nào tình hình yên ổn thì sẽ trở lại họ đạo Tắc Sậy, nhưng ngài trả lời: “Tôi sống giữa đàn chiên và nếu có chết cũng chết giữa đàn chiên, không đi đâu cả”.

Ngày 12-03-1946, ngài bị bắt cùng với trên 70 chức sắc và giáo dân tại họ đạo Tắc Sậy, bị lùa đi và nhốt tại lẫm lúa nhà ông giáo Sự ở Cây Dừa. Người ta định giết tất cả nhưng ngài nói
chính ngài là chủ chăn các con chiên đó, vậy xin chết thay cho các con chiên của ngài. Họ chấp nhận. Mọi người được thả còn ngài thì bị đem đi thủ tiêu.

Những người trong họ đạo kể rằng đêm hôm ấy ngài về báo mộng cho các vị chức sắc trong họ đạo biết chỗ họ ném xác ngài, trong cái ao nhà ông giáo Sự. Các vị đến nơi được báo mộng thì vớt được xác ngài đã bị chặt đầu với một vết chém ngang cổ chỗ gần mang tai, có
ba vết chém khác trên mình. Thân xác ngài không hiểu sao bị lột hết quần áo, trần trụi như Chúa Giêsu trên thập giá, nhưng hai tay vẫn chắp trước ngực như đang cầu nguyện và nét mặt ngài vẫn bình thản, không có vẻ gì sợ hãi.

Các vị chức sắc lén đưa xác ngài về chôn bí mật trong phòng thánh nhà thờ Khúc Tréo (nhà ông giáo Sự thuộc họ đạo Khúc Tréo, làm thế kín đáo hơn đưa về Tắc Sậy). Như vậy ngài đã tử vì đạo vào ngày 12 tháng 03 năm 1946, nhằm ngày mồng 09 tháng 02 năm Bính Tuất.

Hăm ba năm sau, tức năm 1969, hài cốt ngài được cải táng, di dời về Nhà thờ Tắc Sậy, nơi ngài đã làm chủ chăn trong 16 năm và là cha sở thứ nhì của họ đạo Tắc Sậy.

Hai mươi năm sau nữa, tức năm 1989, ngôi mộ của ngài được trùng tu thành một ngôi nhà mộ nho nhỏ lợp tôn ở phía sau Nhà thờ Tắc Sậy cũng nhỏ như vậy và khánh thành vào ngày
04-06-1989.

Đầu năm nay, 2010, một ngôi nhà mộ cực kỳ khang trang và hiện đại đã xây dựng xong, hài cốt ngài được di chuyển vào đó với lễ cải táng rất long trọng do đức Giám Mục địa phận Cần
Thơ chứng kiến. Ngày nào cũng có các tín hữu ở khắp mọi nơi trong nước cũng như ngoài nước, bên lương cũng như bên giáo, tới thăm viếng, khấn nguyện và tin tưởng vào sự linh ứng của ngài.

Chuyện một số phép lạ của Cha Bửu Diệp

Hiện nay, tuy Giáo hội Công giáo chưa xét phong Thánh cho Cha Bửu Diệp, nhưng trong lòng nhiều tín hữu Công giáo, kể cả một số người thuộc các tôn giáo khác, đã coi Cha như một vị Thánh, vì rất nhiều người khấn xin với ngài và được ngài ban cho như ý. Tại các
nhà thờ Công giáo trong nước, rất nhiều giáo dân xin lễ tạ ơn ngài. Đặc biệt, nhiều người không phải tín đồ Thiên Chúa giáo cũng rất kính mến, tin tưởng ở ngài. Những tấm bảng tạ ơn Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp được gắn trên tường trong căn phòng nguyện tại Nhà thờ Tắc Sậy nhiều không biết bao nhiêu mà kể.

Theo chúng tôi được biết, ở bên Mỹ, cụ Joan Baotixita Võ Hữu Hạnh, một nhà văn lớn tuổi, đã sáng lập “Hội những người con của Cha Trương Bửu Diệp”. Theo cụ, Cha Trương Bửu Diệp đã ban phép lạ cho nhiều người, cả lương cũng như giáo. Sau đây là một số chuyện về các phép lạ đó, bởi vậy tiếng tăm về ngài ngày càng lừng lẫy.

 

Chuyện gia đình ông Lâm ở Lâm Đồng, Đà Lạt:

Ông bà Lâm không phải tín đồ Thiên chúa giáo và chuyện này đã diễn ra năm 1977, do chính ông Lâm kể cho ông Ngọc Quang nghe, ông Ngọc Quang ghi lại trên tập san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, do cụ Võ Hữu Hạnh chủ trương.

“Bà Lâm bị bệnh viêm ruột và đau dạ dày từ lâu, bệnh đã trở thành vô phương cứu chữa. Bác sĩ tại các bệnh viện ở Sài Gòn đều bó tay. Ông Lâm đành đưa vợ từ Sài Gòn về Lâm Đồng để bà sống những ngày cuối cùng của mình.

Giữa lúc gia đình vừa đưa bà Lâm về tới nhà thì có một vị khách đi đường xa, xe bị hư, trong khi chờ tài xế sửa, ghé vào thăm. Khách là một người cao lớn, khỏe mạnh, gương mặt chữ
điền, hàm râu cánh én, vẻ người phúc hậu với bộ áo dài đen của linh mục.

Ông Lâm vốn tính tình hiền lành, thường rất tôn trọng các vị tu hành, dù lương hay giáo. Mặc dầu nhà đang bận rộn vì vợ bệnh nặng nhưng ông cũng lịch sự tiếp đón khách. Vị linh mục tinh ý hỏi tại sao nét mặt gia chủ có vẻ buồn rầu. Ông Lâm nói thật là vợ bệnh nặng, mới đưa từ Sài Gòn về nhà chờ chết. Vị linh mục nói rằng lúc trước mình cũng bị bệnh nặng như vậy, nhờ một ông bác sĩ tên Hữu cho uống loại thuốc này khỏi bệnh, bây giờ còn dư lại mấy viên. Cha lấy trong túi áo ra ba viên thuốc trao cho ông Lâm và dặn chiều cho bà uống một viên, tối lúc 10 giờ một viên và sáng hôm sau một viên nữa, thế nào cũng khỏi. Ông Lâm tuy không tin lắm nhưng trong lúc tuyệt vọng, ai bảo sao cũng đành nghe vậy. Giữa lúc ấy người tài xế vào thưa xe đã sửa xong, vị linh mục bèn từ giã chủ nhà ra đi. Chủ nhà cảm ơn Cha và hỏi cho biết Cha ở đâu, vị linh mục nói mình trông coi xứ đạo Tắc Sậy? tỉnh
Bạc Liêu.

Sau khi uống viên thuốc thứ nhất vài giờ, bà Lâm cảm thấy bớt đau, trong mình dễ chịu, biết đói và thèm ăn, ngủ ngon. Buổi tối, khoảng chừng 10 giờ, tự nhiên bà thức giấc và nhớ lời Cha dặn, bèn uống thêm viên thuốc thứ hai. Sáng hôm sau thức dậy, bà thấy trong
người khỏe khoắn, không còn mệt mỏi và đau đớn như trước. Bà sung sướng báo tin
cho chồng hay. Ông Lâm mừng quá bèn đem viên thuốc còn lại đến các tiệm để làm
mẫu, mua thêm cho chắc ăn. Nhưng ông đi khắp nơi, kể cả các tiệm thuốc Tây lẫn thuốc Bắc, song chẳng ai biết đó là thuốc gì. Ông đành trở về, cho bà uống nốt viên còn lại và định có dịp sẽ xuống Minh Hải (năm 1977, hai tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau bị sáp nhập lại với nhau thành tỉnh Minh Hải) thăm Cha và nhờ Cha nói với ông “bác sĩ Hữu” bán thêm giúp.

Muốn đi từ Lâm Đồng xuống Cà Mau thì phải về Sài Gòn, xuống Cần Thơ, qua Sóc Trăng rồi mới tới Bạc  Liêu, và Hộ Phòng là thị trấn của huyện Giá Rai tỉnh Bạc Liêu, cách thị xã Bạc Liêu 37 cây số, nơi có Nhà thờ Tắc Sậy. Việc giao thông lúc ấy rất khó khăn, phải xếp hàng từ khuya ở Bến Xe Miền Tây để mua vé xe, có khi xếp hàng cũng không mua được vé, đường đi lại lồi lõm, hết sức cực khổ. Bà Lâm mới khỏi bệnh, khó chịu đựng nổi với những chiếc xe cà rịch cà tàng, cổ lỗ đó. Đang lúc ông Lâm lo âu thì có người cháu làm trong cơ quan nhà nước đến chơi, cho biết anh ta sắp đi công tác tại Minh Hải để giao dịch mua lương thực cho tỉnh. Ông Lâm mừng quá, bèn nói với cháu cho đi nhờ xe xuống Tắc Sậy, tiền xăng ông chịu. Người cháu nhận lời vì Nhà thờ Tắc Sậy nằm ngay trên đường Bạc Liêu đi Cà Mau và cách thị xã Cà Mau khoảng 20 cây số, anh ta chở chú thím tới Tắc Sậy rồi
xuống Cà Mau không có gì khó.

Khi qua Bạc Liêu, xuống tới thị trấn Hộ Phòng, Nhà thờ Tắc Sậy nằm cách chợ Hộ Phòng khoảng một cây số, ở phía bên trái. Ông bà Lâm không thể ngờ được nơi ở của vị cha sứ ân nhân lại nhỏ như vậy. Đó là ngôi nhà thờ mái lợp tôn, vách ván, xiêu vẹo trông rất tiêu
điều. Đất nhà thờ rộng mênh mông nhưng chung quanh toàn đồng ruộng, dân cư thưa
thớt.

Chiếc sân đất của nhà thờ không có cổng. Vợ chồng ông Lâm xuống xe, đi vô. Một ông lão bộc (thường gọi là ông Từ) đang quét trên sân. Trông thấy khách lạ, ông Từ có vẻ ngạc nhiên vì ít khi có khách phương xa đến thăm ngôi nhà thờ này. Ông Lâm nói muốn gặp
cha sở, ông Từ mời vào bên trong rồi vào mời cha.

Một lát sau, vị linh mục ra, ngài cho biết ngài là Linh mục Phêrô Nguyễn Ngọc Tỏ, cha sở họ đạo Tắc Sậy. Ông bà Lâm rất ngạc nhiên, vị linh mục này trông không giống vị linh mục đã cho thuốc một chút nào hết mà sao hai vị đều tự nhận mình là cha sở họ đạo Tắc Sậy?
Ông Lâm bày tỏ sự tình và kể mình đã gặp một vị linh mục cao lớn, tóc ngắn, gương mặt chữ điền, hàm râu cá chốt. Cha Tỏ mỉm cười, không lấy gì làm lạ, bèn dẫn vợ chồng ông Lâm qua phía bên hông nhà thờ, tới ngôi mộ của Cha Diệp. Vừa nhìn thấy tấm hình trên bia mộ, tự nhiên ông Lâm quỳ phục xuống và quả quyết đây chính là vị ân nhân đã cho thuốc, cứu bà Lâm khỏi bệnh. Bà Lâm cũng quỳ xuống tạ ơn ngài. Ông bà là người bên lương, không biết làm dấu Thánh giá.

Lúc ra về, ông bà Lâm gửi Cha sở một số tiền nho nhỏ để giúp nhà thờ vì lúc ấy ai cũng nghèo, ông bà không có nhiều. Có lẽ ông bà Lâm là những người đầu tiên đã giúp nhà thờ từ năm 1977”.

 

Chuyện bức ảnh đẫm máu

Sau đây là nguyên văn bức thư của GS Trần Anh Linh gởi cho cụ Võ Hữu Hạnh, nói về bức ảnh đẫm máu. Xin ghi chú thêm rằng chuyện này xảy ra cách đây khoảng chừng 2 năm (2008) và hiện nay Linh mục Gioan Minh vẫn còn ở tại Nhà thờ Hiển Linh đường Ngô Tất Tố (Dương Công Trừng cũ) thuộc giáo phận Thị Nghè. Ngài nổi tiếng về việc khấn nguyện Đức Mẹ giùm những người bệnh tật kết quả rất tốt. Hằng ngày mọi người ở khắp các nơi đến nhờ ngài khấn rất đông nhưng chính quyền địa phương đã ra lệnh cấm vì không muốn có sự tụ tập đông đúc.

Sau đây là bức thư của GS Trần Anh Linh:

“Anh Hạnh thân mến,

Tôi xin gửi tặng anh món quà quí giá mà Cha Diệp đã ban cho tôi qua Cha Gioan Minh: Cha Diệp đã thực hiện một phép lạ nhãn tiền là dùng chính tấm ảnh mà chúng ta đã cho họa sĩ Đại Hàn ở khu Phúc Lộc Thọ vẽ rồi in ra nhiều ấn bản, vừa làm thành sách, vừa in
thành ảnh gởi tặng và bán khắp nơi.

Tấm ảnh đó đã đổ máu đào lênh láng từ vết chém bằng đao kiếm đứt cổ, máu Cha đã đổ ra thấm ướt làm mờ hàng chữ Trương Bửu Diệp bên dưới.

Câu chuyện xảy ra như sau:

Cha Gioan Minh (cựu Tuyên Úy), sau 12 năm học tập cải tạo, đã được cho về và sống ở nhà thờ Chúa Hiển Linh tại Thị Nghè nơi xưa kia Cha Dụ đã thành lập. Cha Minh ở lại Việt Nam, không xin ra nước ngoài theo diện HO dù cha có tới 12 năm ở tù.

Một hôm cha vào Nhà sách Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở đường Kỳ Đồng và chọn mua một tấm ảnh của Cha Diệp mà cha đã nghe có nhiều phép lạ. Cô bán hàng dùng giấy báo gói bức ảnh có đóng khung sẵn trao cho cha Minh. Cha Minh về đến nhà, tính mở ra để treo lên tường
thì một ơn lạ đã xảy ra, là máu tươi từ cổ bức ảnh tuôn trào ra thấm ướt cả tờ báo gói bức tranh.

Cha Minh kinh ngạc bèn cho đó là một dấu chỉ quan trọng, nên đã gói lại cẩn thận và lặng lẽ đem lên Tòa Tổng Giám Mục Saigon trình với Đức Cha Phạm Minh Mẫn. Theo cha Minh cho biết thì tấm ảnh thấm máu này đã được gởi qua để Tòa Thánh xét nghiệm, hy vọng
rằng đã đến lúc Tòa Thánh cho lập Ban Điều Tra, tìm hiểu về các ơn lành Cha Diệp đã làm mà việc lạ lùng làm cho máu đào từ vết cổ đổ ra sẽ là một trong những chứng cớ để Tòa Thánh có thể tôn phong Chân Phước cho Cha.

Tôi là bạn thân của cha Minh, nên cha đã tặng tôi một tấm. Tôi sao lại và gởi tặng anh, đây là tài liệu mới nhất về Cha Diệp, anh nên ghi chú vào tập sách Các Ơn Lành của Cha”.

Trần Anh Linh.

 

Chuyện ông chủ thầu vật liệu xây dựng

Từ những năm thuộc thập niên 1980 trở về sau, hằng năm cứ vào các ngày 11-12 tháng 03 dương lịch, dòng người lương, giáo từ các nơi lại đổ về Tắc Sậy. Trên những chiếc xe đò chở
khách, người ta có thể thấy hình một vị linh mục mặt vuông chữ điền rất dễ mến. Họ xuống để dự lễ giỗ của Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp.

Ông Phước, người trông coi phần mộ của Cha Diệp tại Nhà thờ Tắc Sậy, kể lại câu chuyện sau đây vào một buổi trưa tháng 04-2010 như sau:

“Vào khoảng những năm đầu thập niên 1980, bờ kinh cạnh khu nhà thờ này còn là một bãi đất trống, làm nơi ghe và xe cộ dừng lại đổ hàng. Nửa đêm, có một ông chủ ghe chở đầy vật liệu xây dựng như gạch, cát, xi-măng… đậu bên bờ kinh. Ông bỗng trông thấy một vị khách mặc áo dài đen theo kiểu nhà dòng từ trên bờ bước xuống. Vị khách tự xưng mình là cha xứ Nhà thờ Tắc Sậy, muốn mua hết các vật liệu trên ghe để xây lại nhà thờ. Giá cả xong xuôi, chủ ghe đồng ý bán và hẹn hôm sau sẽ cho công nhân đem hàng lên xong ông sẽ nhận tiền.

Sáng hôm sau, trước khi giao hàng, chủ ghe lên nhà thờ, định gặp cha xứ để biết chỗ cho công nhân xếp hàng. Đến khi gặp linh mục Phêrô Nguyễn Ngọc Tỏ, ông rất ngạc nhiên, từ giọng nói cho tới gương mặt, thân hình, vị linh mục này trông không giống với vị khách có ria mép hôm trước một chút nào cả. Cha Tỏ nói: “Tôi hiểu, đó chính là linh hồn cha sở Phanxicô Trương Bửu Diệp đấy. Ý ngài muốn xây lại nhà thờ nên hiện ra như vậy”. Cha kể cho ông chủ thầu nghe các chuyện linh ứng của Cha Bửu Diệp rồi nói: “Ý tôi cũng muốn xây lại ngôi nhà thờ cho đàng hoàng nhưng họ đạo nghèo, chưa đủ tiền. Thôi thì đành cáo lỗi với ông và hẹn khi khác”. Ông chủ thầu nói: “Cha Diệp đã linh ứng như vậy thì con không dám lấy tiền. Mặc dầu con là người bên lương nhưng con xin hiến tất cả các vật liệu trên ghe để nhà thờ xây sửa lại, không nhận một đồng nào cả”. Ông chủ thầu lập tức cho người khuân
gạch, cát, xi-măng từ dưới ghe lên rồi đi, ngay cả tiền công bốc xếp của các công nhân ông cũng tự trả, không để nhà thờ phải trả.

Không ngờ từ đấy ông chủ  ghe buôn bán ngày càng phát đạt. Ông cho rằng mình được Cha Diệp phò hộ nên mỗi lần đi qua Hộ Phòng ông thường quay lại Nhà thờ Tắc Sậy để tạ ơn Cha.

Cũng theo ông Phước, những chuyện linh ứng của Cha Diệp ngày một lan rộng. Từ đó về sau, khách thập phương kéo về nườm nượp để cầu xin Cha ban ơn lành. Nhất là các nghệ sĩ cải lương nổi tiếng, rất nhiều người xuống, họ cầu xin Cha chuyện này chuyện khác, và ai cũng được toại nguyện. Lời nguyện đắc thành, họ đến đền ơn Cha, người thì ghế đá, người thì vật dụng dùng cho nhà thờ, người thì tiền bạc…, nhiều không sao kể xiết. Cứ thế, vào những này cuối tuần hoặc trong dịp lễ giỗ Cha (12 tháng 03 dương lịch), khách thập phương kể cả trong nước lẫn ngoài nước về kính viếng Cha đông như trẩy hội. Có nhiều người đem theo cả những chai nước La Vie đến để bên cạnh mộ, cầu nguyện trước khi mang về cho người trong gia đình. Nhưng cũng có những người tin tưởng đến độ cầu nguyện trong nhà thờ, trước mộ của Cha chưa đủ, họ còn hỏi thăm, tìm đến chiếc ao nhỏ của gia đình ông giáo Sự ngày xưa để chiêm ngưỡng nơi Cha đã bị sát hại.

Điều lạ lùng hơn nữa là theo như lời của vị cha xứ hiện nay là Linh mục Phaolô Nguyễn Thanh Bình, thì có tới 70% khách thập phương xuống Giá Rai kính ngưỡng Cha Diệp là người ngoại đạo hoặc Việt Kiều từ nước ngoài về. Có những người chưa về nhưng đã “nghe nói” tới sự linh ứng của Cha nên đã gửi tiền về giúp nhà thờ xây dựng được một cơ ngơi lớn lao như ngày nay, khả dĩ có thể đón tiếp bất cứ các nhóm hành hương nào dù đông bao nhiêu, họ đều có chỗ nghỉ ngơi đàng hoàng mà không cần phải đóng góp gì cả.

Để kết luận bài này, tôi xin thưa với quý vị độc giả thân mến rằng tôi không phải là người Công giáo, nhưng tôi biết trong Thánh kinh Công giáo có câu nói của Đức chúa Giêsu: “Phúc cho ai không thấy mà tin”. Vậy nay tôi xin dùng câu nói này để cầu Chúa và Cha Diệp ban ơn cho quý vị. Amen.

Đoàn Dự ghi chép

 

ÔI ĐỨC TIN CÔNG GIÁO THẬT TUYỆT ĐẸP!

ÔI ĐỨC TIN CÔNG GIÁO THẬT TUYỆT ĐẸP!

Bà Gaelle là tín hữu Công Giáo Pháp được rửa tội và theo học giáo lý
trong thời niên thiếu. Bà từng đi nhà thờ tham dự Thánh Lễ cho đến khi xưng tội và rước lễ lần đầu. Sau đó thì xa lìa Giáo Hội, tuy vẫn thỉnh thoảng đến nhà thờ vào những dịp lễ lớn cùng với gia đình. Nhưng đó chỉ là hành động tôn giáo hoàn toàn vì ”thói quen”. Không hơn không kém.

Lớn lên đi vào cuộc sống bà thi hành một nghề nghiệp đôi khi nặng chĩu âu lo và đầy xúc động. Cứ mỗi lần như thế bà cảm thấy nhu cầu đẩy cửa bước vào một thánh đường để kín múc nhiên liệu thiêng liêng.

Rồi bà gặp đức lang quân, xuất thân từ một gia đình Công Giáo sống đạo chân thành. Hai vợ chồng có ba con và đều xin rửa tội cho cả ba đứa.

Dòng đời lặng lẽ trôi qua cho đến khi một biến cố đau thương xuất hiện trong đại gia đình. Người anh họ của bà Gaelle đột ngột từ trần sau một tai nạn thảm thương. Mặc dầu đau đớn vô cùng, nhưng Thánh Lễ an táng – do các thân nhân trong gia đình chuẩn bị chu đáo – diễn ra thật đẹp và thật trang trọng. Đặc biệt, chính Đức Tin kiên cường của hiền thê người quá cố là động lực khiến bà Gaelle đặt lại vấn đề tôn giáo của mình. Bà như được mời gọi phải canh tân cuộc sống nội tâm. Bà ngỡ ngàng kêu lên:

– Ôi Đức Tin Công Giáo tuyệt đẹp! Ôi sức mạnh thiêng liêng kỳ diệu đáng quý
biết bao! Tôi thật sự cảm nhận sự hiện diện của THIÊN CHÚA là CHA khoan nhân,
là Đấng từ ái vô biên!

Biến cố thứ hai góp phần vào việc đưa bà Gaelle trở lại với Giáo Hội Công Giáo là
khi gia đình bà dọn về sống nơi thành phố Orléans cách thủ đô Paris 120 cây số.
Thái độ đón tiếp niềm nỡ của giáo xứ mới như gieo vào lòng bà ước muốn phải đi
xa hơn trên con đường thiêng liêng. Bà liên lạc với một nhóm gồm những người
”tái khởi hành” ở cùng trường hợp như bà để chuẩn bị lãnh bí tích Thêm Sức. Bà
Gaelle kể lại lộ trình thiêng liêng trải qua như sau.

Trong nhóm, mỗi người đều hoàn toàn tự do đặt các câu hỏi. Không ai có mặc cảm bị xét đoán. Nhóm không đông người lắm khiến cho việc trao đổi dễ dàng. Câu hỏi của người này cũng giúp ích cho người kia và chúng tôi cùng tiến bước trong thanh thản an bình. Chúng tôi cũng được nghe giải thích về một số việc thực hành đạo hoặc được làm sáng tỏ về một số kinh đã dọn sẵn. Chẳng hạn đối với tôi, trước đây tôi rất khó đọc Kinh Tin Kính. Giờ đây tôi cảm thấy dễ dàng hơn khi đọc Kinh này. Rồi chúng tôi đọc Kinh Thánh. Nhờ một số văn bản Kinh Thánh,chúng tôi đào sâu ý nghĩa Lời của Đức Chúa GIÊSU KITÔ và tìm cách ứng dụng vào đời sống thường nhật.

Tôi không hối tiếc gì về hành trình trở về với Đức Tin Công Giáo. Hay nói theo ngôn ngữ ngày nay là ”tái khởi hành”! Trái lại tôi cảm thấy thật hài lòng. Bởi vì, khi đi vào hành trình thiêng liêng lúc đã trưởng thành giúp tôi ý thức rõ ràng hơn về Đức Tin của tôi. Chính tôi chọn lựa con đường trở về với Giáo Hội Công Giáo. Nếu tôi làm cuộc hành trình này lúc còn nhỏ tuổi, hẳn sẽ có một hiệu quả khác. Phần tôi năm nay đã 40 tuổi rồi. Tôi ước ao tiếp tục học hỏi và đào sâu về Lời Chúa. Tôi cũng ghi tên tham dự một khóa huấn luyện trong giáo phận.

… Đó là một trường hợp tín hữu Công Giáo Pháp trở về với Đức Tin và việc sống đạo. Thời gian gần đây, Giáo Hội Công Giáo Pháp hân hoan đón rước con số đông đảo các người trưởng thành xin học đạo, lãnh phép rửa tội và gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Lý do nào thúc đẩy họ đi đến quyết định chọn Kitô Giáo? Thưa là vì hầu hết họ cùng có ước nguyện chung về sự sống, về tình yêu và muốn tìm kiếm một ý nghĩa cho cuộc đời.

Người tân tòng không bao giờ nói suông trên lý thuyết. Trái lại, họ đi vào thực tế. Họ kể lại cuộc đời họ. Nếu họ kể lại cuộc đời mình chính vì họ linh cảm rằng, những gì không có lợi lộc vật chất lại ẩn chứa một giá trị khác. Nhưng họ không biết diễn tả ra sao. Họ chưa có thể nói về THIÊN CHÚA và tác động của Ngài trong đời sống của họ. Đây là điều khó khăn vì họ đang ở trong giai đoạn đầu. Họ chờ đợi THIÊN CHÚA tỏ lộ cho họ. Và THIÊN CHÚA dần dần tỏ lộ trong thời gian họ học giáo lý. Có các Linh Mục hướng dẫn và có các người đồng hành với các tântòng để giúp họ tiến đến cuộc gặp gỡ thân tình với Đức Chúa GIÊSU KITÔ.

Một người tháp tùng các tín hữu tân tòng kể lại kinh nghiệm như sau.

Niềm hạnh phúc lớn lao nhất của chúng tôi là tham dự vào tiến trình biến đổi mà Đức Chúa GIÊSU KITÔ tác động nơi mỗi tân tòng. Các khuôn mặt khép kín ban đầu dần dần tiếp nhận ánh sáng cho đến lúc hoàn toàn mở rộng cho tha nhân và cho cuộc sống!
Rõ ràng là có một ”cái trước” và một ”cái sau” của tín hữu tân tòng. Hiệu quả của
ơn thánh Chúa thật tuyệt vời!

… Ông Phaolô nói với các kỳ mục trong Hội Thánh Êphêxô rằng: ”Anh em hãy
ân cần lo cho chính mình và toàn thể đoàn chiên mà Thánh Thần đã đặt anh em làm  người coi sóc. Hãy chăn dắt Hội Thánh của THIÊN CHÚA, Hội Thánh Người đã mua bằng Máu của chính mình .. Giờ đây, tôi xin phó thác anh em cho THIÊN CHÚA và cho lời ân sủng của Người, là lời có sức xây dựng và ban cho anh em được hưởng phần gia tài cùng với tất cả những người đã được thánh hiến .. Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Đức Chúa GIÊSU đã dạy: ”Cho thì có phúc hơn là nhận”
(Sách
Công Vụ tông đồ 20,28+32+35).

(”Catholiques dans le Loiret”, La vie du diocèse d’Orléans, No 5, Mai 2012,
trang 14-15).

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Hạt giống Kitô trong đất Jrai

 


    Hạt giống Kitô trong đất Jrai (16)

    Đăng bởi pleikly lúc 2:54 Sáng 11/09/12

     

    VRNs (11.09.2012)
    – Gia Lai – Nếu chỉ nhìn người thuộc các sắc tộc thiểu số lá người bị
    thiệt thòi, không có cơ hội tiếp nhận các nền văn hóa văn minh trên thế
    giới, thì có nguy cơ bỏ qua những giá trị lớn lao do Thiên Chúa ban cho
    họ. Nhiều anh chị em thuộc các cộng đoàn  Công giáo người Kinh, khi được
    khuyên nên dành giờ đọc Thánh Kinh, thường trả lời là đọc không hiểu,
    nên không đọc. Nhiều linh mục cũng cho rằng đọc Thánh Kinh cao quá, chỉ
    nên khuyến khích các giáo dân đọc các sách giáo lý thôi. Nhưng đối với
    các anh chị em thuộc các sắc tộc thiểu số Tây Nguyên nói chung, và người
    Jrai nói riêng thì Thánh Kinh là một quyển sách cứu họ và cứunền văn
    hóa của họ.










     
     
     
     
    Giuse TRẦN SĨ TÍN, CSsR

    Nhân chứng sống của Lòng Chúa Thương Xót

    Nhân chứng sống của Lòng Chúa Thương Xót

                                                                          tác giả:  TRẦM THIÊN THU

    http://translate.google.com/translate?hl=en&sl=vi&tl=en&u=http%3A%2F%2Fkeditim.net

     

     Đây là câu chuyện có thật đã xảy ra với một người đàn ông Phi-luật-tân, rồi ông đã bỏ tất cả mọi sự và đi khắp nơi để làm chứng về Lòng Chúa Thương Xót (LCTX). Mời quý vị cùng đọc để hiểu và cảm nhận điều kỳ diệu…
    Có sự hứng thú và kinh ngạc vào sáng ngày 2-3-1993 tại bệnh viện Chong Hua, TP Cebu (Phi-luật-tân). Một người đàn ông tên là Stanley Villavicencio đã chết lâm sàng, nhưng bỗng dưng ngồi bật dậy và tự tay rút ống trợ thở ra khỏi mũi, rồi bước đi như người bình thường.
    Trước đó 3 ngày, tim ông đã ngừng đập, da đã tái nhợt từ đầu đến chân, và các cơ phận không còn dấu hiệu của sự sống. Các bác sĩ xác nhận ông không còn dấu hiệu của sự sống. Do đó gia đình đã chuẩn bị lo hậu sự, và sẽ an táng ông tại nghĩa trang Queen City Garden.
    Nhưng ông Stanley sống lại! Mọi người kinh sợ và chạy tán loạn. Ai cũng ríu người lại, kể cả vợ ông!
    Từ sự chết đến sự sống
    Điều gì đã xảy ra? Khi ông chết lâm sàng (chính xác là 3 ngày), ông Stanley cho biết ông đã gặp Chúa Giêsu. Ông nói rằng Chúa Giêsu mặc áo dài trắng sáng và ngực phát ra những tia sáng chói. Chúa cho ông thấy một màn hình lớn chiếu cuộc đời ông phát sáng. Khi ông làm điều gì sai thì “phim” chạy chậm lại, rõ từng chi tiết điều sai trái. Ông thấy Nhà nguyện Thánh Tâm bị người ta dùng làm nơi cờ bạc và rượu chè. Ông kể: “Một cận cảnh lớn về việc ham ăn ham uống của tôi được chiếu rõ trên màn hình!”. Sau đó ông nói: “Tại sao có cảnh này? Hẳn là trên trời không có ban kiểm duyệt vì nhìn rất xấu, nhưng dù tôi nhắm mắt cũng vẫn thấy cảnh đó”.
    Một lúc sau, Chúa Giêsu nói: “Hãy trở lại đó vì con vẫn còn nhiều việc phải làm. Nếu có sứ điệp nào cho con, Ta sẽ hiện ra với con trong giấc mơ”. Vì thế, sau 3 ngày, ông Stanley trở lại từ kẻ chết. Nhưng từ lúc đó, cuộc đời ông không như vậy nữa.
    Ông đã bỏ làm việc ở Aviation Security Command (AVSECOM) để bước theo tiếng gọi của Chúa Giêsu. Một quyết định khó khăn lúc đó, vì ông có tới 10 đứa con – trong đó ông có 3 con nuôi.
    Truyền bá Lòng Chúa Thương Xót
    Qua giấc mơ và đặc ngữ nội tâm, Chúa Giêsu đã hướng dẫn ông Stanley truyền bá việc sùng kính Lòng LCTX. Ông đã có hơn 30 lần gặp hoặc nói chuyện với Chúa. Chúa Giêsu đã nói với ông: “Này con, con sẽ làm chứng về lần đến cuối cùng của Ta”.
    Trường hợp của ông Stanley đã được Giáo hội điều tra và đã được công nhận là xác thực (declared authentic). Ông được sự giúp đỡ của ĐHY Ricardo Vidal và Đức ông Cristobal Garcia của GP Cebu, Đức ông Cristobal Garcia linh hướng cho ông.
    Từ một người bình thường và sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, ông Stanley đã đi khắp thế giới để nói về LCTX. Ngoài các quốc gia ông tới, ông đã được mời tới Hoa Kỳ, Anh quốc, Ai-len, Hong Kong, Macau, và Trung quốc. Ông tới các nhà thờ và kết quả có nhiều người được chữa lành bệnh, thậm chí là có phép lạ xảy ra. Ông cũng đã làm nhân chứng trước mặt các hồng y và các giám mục tại Tòa Thánh.
    Trong thư gởi ĐHY Vidal đề ngày 25-11-2001, Trevor Collett ở miền Bắc Anh quốc đã viết về điều kỳ diệu từ buổi nói chuyện của ông Stanley. Trong thư có đoạn viết:
    “Lúc 3 giờ chiều, nhiều người đứng dậy cùng cầu nguyện với LCTX. Có một phụ nữ đã bỏ xưng tội 50 năm. Sau khi nghe ông Stanley nói chuyện, phụ nữ này rất vui mừng và quyết định xưng tội vào ngày hôm sau! Có nhiều người khác đã rước lễ nhiều năm mà không xưng tội đúng cách, thậm chí có một số người còn phá thai, nhưng sau khi nghe ông Stanley làm chứng, ai cũng quyết định xưng tội vào thời gian sớm nhất. Các phụ nữ trẻ đã có ý định phá thai nhưng lại đổi ý và giữ lại đứa con. Một người đàn ông Mỹ đã “săn” ông Stanley khắp nơi trên đất Hoa Kỳ và Ai-len, nay mới gặp được ông Stanley tại Birmingham (Anh quốc) nên quá đỗi vui mừng”.
    Ông Stanley đã đến nhiều tỉnh tại Phi-luật-tân. Trong số những người đầu tiên trở lại Công giáo nhờ kinh nghiệm “sống lại” của ông là một bác sĩ đã chứng kiến ông chết lâm sàng 3 ngày. Bác sĩ này là người theo dõi bệnh trạng của ông. Sau đó, bác sĩ này vào tu trong chủng viện và đã thụ phong linh mục.
    Phúc cho ai có lòng tin!
    Một lần ông Stanley đến nhà thờ giáo xứ Đức Mẹ Dâng Chúa Giêsu ở BF Homes Parañaque ngay trước Tuần Thánh. Ông đã thu hút người nghe bằng sự chân thật và thẳng thắn. Có những lần ông nói với nhiều người tội lỗi rằng họ có thể cảm thấy sức mạnh và quyền năng của Chúa trong con người khiêm nhường và bình thường. Ông nói: “Nhà thờ này là nơi thứ 4.779 tôi đã làm chứng về LCTX”. Trong khi hỏi đáp, một bé gái hỏi ông rằng Chúa Giêsu nhìn thế nào. Ông nói: “Guwapong-gwapo!” (rất đẹp trai).
    Thánh Faustina đã từng bật khóc khi nhìn thấy Chúa Giêsu, linh ảnh LCTX được vẽ lại theo hướng dẫn của Chị. Thánh Faustina nói với Chúa Giêsu: “Ai sẽ vẽ Chúa đẹp như chính Chúa?”. Ngài trả lời: “Không phải là đẹp về màu sắc hoặc hình ảnh, mà là vẻ đẹp của chính ân sủng”.
    Các thánh đã bỏ mọi sự mà theo Chúa khi các ngài thấy được Vẻ Uy Nghi của Chúa. Những cuộc gặp gỡ siêu nhiên đó đã làm cho các ngài thành những con người khác thường. Nhưng đa số đều là những con người bình thường. Chúng ta có cần gặp riêng Chúa Giêsu hoặc trải nghiệm khác thường trước khi chúng ta quyết định thay đổi cách sống hay không?
    Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác vào Ngài! Tạ ơn Chúa đã gởi cho chúng ta một người Phi-luật-tân làm Tông đồ của LCTX.
    TRẦM THIÊN THU 

    (Chuyển ngữ từ All-About-The-Virgin-Mary.com)

    Cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn

     

         Cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn (tên thánh là Phêrô)

                              (1930- 2009)

                Trong quyển “Đất nước tôi”, Hồi ký chính trị của Cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn, đuợc biết ông sinh tại Cần Thơ năm 1930. Năm 1951 động viên khóa 1 sinh viên Sĩ Quan Trừ bị Thủ Đức.1953 trúng tuyển khóa 1 Học viện Quốc Gia Hành Chánh. 1957 tốt nghiệp Thủ khoa khóa 1 Học Viện Quốc Gia Hành Chánh.

    1958 Quận Trưởng Cái Bè, Định Tường.

    1959 -1967 Phó Tỉnh Trưởng Định Tường, Phước Tuy và Long An.

    1967-1971 Dân biểu Hạ Nghị Viện.

    1971-1975 Chủ tịch Hạ Nghị Viên.

    1975 Thủ tướng VNCH.

                Ký giả Hạnh Dương viết: “Trong cuộc phỏng vấn cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn đã cho hay rằng dưới chế độ Đệ Nhất Cộng Hoà của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, lúc ông làm Quận trưởng Cái Bè, Phó Tỉnh Trưởng Định Tường và Phó Tỉnh trưởng Phước Tuy, ông đã nhiều lần được đảng Cần lao yêu cầu ông trở lại đạo Công giáo, ông đã quyết liệt từ chối. Nhưng khi đến định cư tại Hoa Kỳ, sau khi con gái của ông tử thương vì tai nạn, ông đã buồn, khóc rất nhiều và mắt của ông gần như bị mù. Nghe nói Đức Mẹ Lộ Đức (Lourdes) tại Pháp là nơi linh thiêng và nhiều người khấn xin, đuợc Đức Mẹ chửa lành, nên phu nhân của ông đã đưa ông qua Pháp để đến cầu nguyện tại nơi Đức Mẹ hiện ra với chị Bernadette từ ngày 11-2-1858 đến ngày 16-7-1858 trong 18 lần khác nhau. …

                Cho đến nay sau ba lần khai mở hầm mộ của nữ tu này để khám nghiệm, làm thủ tục phong Thánh thì điều rất ngạc nhiên xác của nữ tu Marie Bernard này vẫn nguyên vẹn và mềm mại như người đang ngủ. Hiện nay thi thể của nữ tu được bỏ trong quan tài bằng kính trong suốt và để trong nhà nguyện cho mọi người đến kính viếng cầu nguyện.

                Cựu Thủ Tướng nói rằng ông chỉ đi theo đề nghị của vợ ông mà thôi chứ chẳng có tin tưởng gì. Nhưng sau khi thấy những điều kỳ diệu như thế nên ông đã cầu nguyện và không ngờ là sáng hôm sau, sau khi thức dậy, hai mắt ông bừng sáng như chưa hề bịnh tật gì. Và từ đó ông đã xin theo đạo Công giáo và được  thanh tẩy tại Lộ Đức ở Pháp và trở lại Hoa Kỳ đi nhà thờ mỗi ngày Chúa Nhật, rất sùng đạo, sống bình dị cho đến giờ phút ông vĩnh biệt gia đình và cộng đồng người Việt tự do tại Hoa Kỳ và Hải ngoại.

                Ông mất ngày thứ tư 20-5-2009.

                Thánh lễ cầu hồn cho linh hồn Phêrô tại nhà thờ Maria Goretti lúc 10 giờ ngày thứ tư 27 tháng 5 -2009,  và hạ huyệt tại nghĩa trang Oak Hill, San José.

    nguồn: http://ngothelinh.tripod.com/Nguyen_Ba_Can.html

    tác giả : Phùng văn Phụng

    trong bài “Đức Tin Là Một Hồng Ân”

     sách: “Tâm Tình Gởi lại” cùng tác giả

     

    Thánh Simon PHAN ĐẮC HÒA, Y sĩ

    Thánh Simon PHAN ĐẮC HÒA, Y sĩ

    (1774 – 1840)

    Lễ kính: ngày 12 tháng 12

                                                                                         Lm. Đào Trung Hiệu, OP

     

    Gương mẫu người tân tòng

    Phan Đắc Hòa sinh trong một gia đình ngoại giáo tại làng Mai Vĩnh, xã Mông thôn, tỉnh Thừa Thiên năm 1774. Thuở bé, cậu tên là Thu. Cha mất sớm, mẹ đưa chị em Hòa đến tá túc và làm công ở làng Lưỡng Kim, sau đó đến giúp một gia đình Công Giáo ở làng Nhu Lý, tỉnh Quảng Trị.

    Sống với người Công Giáo, nhìn thấy những gương sáng và được nghe nói về những điều cao đẹp của đạo mới này, cậu Hòa đem lòng cảm mến và xin phép mẹ cho mình theo học lớp giáo lý và gia nhập đạo. Khi ấy cậu mới chỉ là một thiếu niên 12 tuổi, cậu đã chọn thánh Simon làm bổn mạng. Yêu mến Chúa Kitô, cậu bé không dừng ở đó, mà còn muốn theo sát, phục vụ Chúa Kitô trong đời tu trì. Cậu đã vào chủng viện một thời gian, nhưng qua các cha bề trên, Simon Hòa nhận ra ý Chúa muốn cậu sống và làm chứng tá về Ngài ngay giữa lòng đời.

    Tuy không đạt được ước mơ, Simon Hòa vẫn thường xuyên liên lạc với chủng viện và các cha Bề trên. Sau khi lập gia đình và trở thành cha của 12 người con, Simon Hòa cố gắng chu toàn trách nhiệm nuôi dưỡng và giáo dục con cái, xứng đáng là ngày gương sáng tiêu biểu cho mọi gia đình trong làng. Sống đời giáo dân, ông Hòa hành nghề y sĩ: “Lương y như từ mẫu”. Nhiều người được ông chữa lành bệnh, nên dân chúng đồn đãi với nhau đến với ông rất đông. Nhờ đó ông có nhiều cơ hội giúp đỡ người nghèo khó. Nếu dư dả chút ít, ông liền đem đóng góp vào công việc từ thiện, xây cất thánh đường.

    Với đời sống đạo đức, ông lang y Hòa được đề cử làm Trùm họ. Trước mặt mọi người, ông đã thực thi chức năng một cách tốt đẹp: Ai ăn ở bất xứng, biếng trễ, ông tìm cách sửa chữa, hoặc răn đe dỗ dành, hoặc giải thích khuyên can. Ai cờ bạc rượu chè, ông nghiêm khắc sửa dạy. Thế nhưng ai cũng yêu mến chứ không oán ghét gì ông, bởi họ biết ông làm thế vì thương yêu họ và vì trách nhiệm, chứ không phải vì tư lợi. Ngoài ra, ông Simon Hòa còn sẵn sàng bênh vực, giúp đỡ người già nua tuổi tác, yếu đuối, các cô nhi quả phụ. Ông thấy thấm thía ý nghĩa của phúc thật tám mối, nhận ra hình ảnh Chúa Kitô nơi người khác, nhất là người nghèo khó. Có lần ông đích thân cúi xuống vực một người nằm kiệt sức bên đường, vác lên vai, đưa đến trạm canh, rồi cho người đem cơm nước để nuôi kẻ bất hạnh.

    Dư thừa can đảm

    Khi vua Minh mạng ra chiếu chỉ cấm đạo, Ông Trùm lang Hòa có dịp bày tỏ lòng can đảm của mình: ông sẵn sàng cho các linh mục ngoại quốc ẩn náu trong nhà, mặc dù biết rằng việc chứa chấp này đe dọa đến tính mạng của mình, cũng như của gia đình. Đức cha Cuénot Thể cũng trọ một thời gian tại nhà ông. Ông nhiệt thành lo liệu sắp xếp cho các linh mục có nơi trú ẩn. Nếu nhà mình không ổn, ông gởi các nhà ở nơi tương đối bình an hơn. Tối ngày 13.4.1840, khi đang trên thuyền Đức cha De la Motte Y đến làng Hòa Ninh, thuyền ông bị các quan phát hiện đuổi theo. Quân lính bắt ông và Đức cha Y đưa về huyện Dương Xuân, rồi giải về Qủang Trị giam hai tháng, và cuối cùng điệu về Huế.

    Suốt thời gian bị giam, lương y Hòa không những đã giúp đỡ anh em bạn tù bằng việc bốc thuốc chữa bệnh, ông còn khuyến khích họ trung thành với Chúa đến cùng. Cũng chịu khổ hình như mọi tù nhân, có khi còn hơn nữa, nhưng ông Simon vẫn kiên vững niềm tin. Các lần đòn đánh với vô số vết thương không làm ông nản chí, trái lại, ông còn lấy làm vui thỏa vì được hiệp thông với Đức Kitô chịu đóng đinh.

    Khổ hình và vinh phúc

    Ông Simon Hòa bị tra khảo đến 20 lần, có lẽ vì các quan tưởng dùng bạo lực, ông sẽ phải cung khai tung tích các vị thừa sai, nhưng “dã tràng xe cát biển đông”. Họ đã không đạt được ý nguyện, lại còn phải nghe ông thuyết giảng về chân lý đạo. Thế là họ trả đũa bằng đánh đập, bằng kìm kẹp và tra tấn dã man, cho tới khi người thày thuốc từ bi gục ngã không thể gượng dậy nổi. Nhưng niềm tin của lương y sĩ Hòa không thể ngã gục. Ông can đảm chịu mọi hình khổ đớn đau. Hơn nữa, ông quyết tâm hiến dâng mạng sống mình để làm chứng về đạo, dù phải hy sinh những điều thân thương qúi báu nhất đời. Khi các con đến thăm, ông khuyên nhủ: “Cha yêu thương các con và hắng chăm sóc các con. Nhưng cha phải yêu Chúa nhiều hơn, các con hãy vui lòng vâng ý Chúa, đừng buồn làm chi. Các con ở với mẹ, thương yêu nhau, và chăm sóc việc nhà. Từ đây cha không thể lo cho các con được nữa. Chúa muốn cha chịu khổ, cha xin vâng trọn”.

    Quả thật nỗi lòng y sĩ Simon Hòa lúc đó: “Yêu kính Chúa, nặng tình nhà, Trăm cay nghìn đắng, vẫn cam một lòng”.

    Năm 1840, vua Minh Mạng châu phê án xử trảm quyết, bêu đầu ba ngày. Khi điệu ông Hòa đi xử, các quan còn cố bắt ông quá khóa, dụ dỗ ông bỏ đạo, hay ít là cầm lấy ảnh quẳng đi để ông được tha, nhưng ông vẫn một lòng kiên quyết tuyên xưng niềm tin của mình.

    Vị lương y làng Nhu Lý đã vượt qua thử thách cuối cùng. Ông đã toàn thắng trong niềm tín thác vào Thiên Chúa ngày 10.12.1840 tại Cổng Chém, gần chợ An Hòa.

    Đức Giáo Hoàng Lêo XIII đã suy tôn y sĩ Simon Phan Đắc Hòa lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19.06.1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

    Lm. Đào Trung Hiệu, OP

    Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

    Tĩnh Tâm Giới Trẻ Thánh Linh lần đầu tiên tại Đền ĐMHCG Houston, TX

    Tĩnh Tâm Giới Trẻ Thánh Linh lần đầu tiên  tại Đền ĐMHCG Houston, TX

    17-19 /08/2012

     

    http://translate.google.com/translate?hl=en&sl=vi&tl=en&u=http%3A%2F%2Fkeditim.net

    Giới trẻ là tương lai của Giáo Hội cần sự nâng đỡ đặc biệt để không xa cách Chúa , để có một tình yêu vô tư và trong sáng nơi Thiên Chúa. Vì lẽ đó, theo sự gợi ý của Cha Đạt , phụ trách ơn gọi Giáo Phận Houston và Cha Thu quản nhiệm Giáo Xứ Christopher, cùng với tinh thần hy sinh dấn thân  dám làm của Chị Vân , Chị Hóa. Các Cha trong phong trào Canh Tân Đặc Sủng Thánh Linh đã quyết định tổ Chức Khóa Thánh Linh bằng Anh Ngữ cho giới trẻ Houston tại đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.

    Bắt đầu bằng các bài dance hâm nóng nhiệt huyết , tan băng.

    Cha Đạt , Giới trẻ với Chúa Thánh Thần , trình bày về sự cầu nguyện và một đời sống nên mạnh nhờ  liên kết với Chúa Thánh Thần .

    Cha Ben , hướng dấn Giới Trẻ trước những cám dỗ và đời sống tinh thần.

    Cha Chương dòng Don Bosco,  với tài kể chuyện về “ Ngôi nhà trên đỉnh gió hú” và “gương hy sinh của 117 Thánh Tử Đạo VN”  thật là hấp dẫn với các nhân vật Mọi Da Đỏ và Mũi đỏ.

    Cha Minh truyền  lửa Chúa Thánh Linh đến cho mọi người.

    Tiếp theo , phải kể đến phần chia sẻ theo Nhóm do các Cha , Các Sơ hướng dẫn: Có hai câu hỏi gợi ý đó là :

    1. Kinh nghiệm được gặp gỡ Chúa Giê Su của mình ?
    2. Chúa Thánh Thần đã tác động trong đời sống của Bạn như thế nào ?

    Kinh nghiệm của Nhóm nhỏ ( 8 người) mà Tôi là một thành viên  như sau:

    –   Một phật tử thuần thành  chia sẻ , Chị bị bệnh  mất ngủ và nhức đầu nan y , không chữa khỏi đã đến với Chúa trong Khóa Thanh Linh ,  Chị chỉ đến vì làm theo người bạn, “ để thử coi có hy vọng gì không” , sau khi đã đi khẩn cầu ở hầu hết các Chùa không thành công. Chúa không chỉ chữa cho Chị lành phần xác nhưng còn làm cho chị yêu mến Chúa quá đỗi. Anh Chồng không chấp nhận , nhưng đến khi con Anh vốn bị Tâm Thần từ lâu , được Chúa chữa khỏi lên cơn  thì nay cả gia đình đểu tin và xin làm con Chúa.

    –  Cha H chia xẻ , khi còn là môt thanh niên, trong một lần viếng nghĩa trang , nhìn vào tượng Mẹ bế Chúa tử nạn , ( Pieta), Anh Thanh Niên H,  được ơn bằng an và yêu mến Chúa choáng ngợp hồn , Anh H đã đi tu làm Linh Mục dòng Chúa Thánh Thể, Cha cảm thấy yêu thương các bệnh nhân và nay Cha H làm tuyên úy cho các bệnh viện tại Houston. Khi cầu nguyện cho bệnh nhân có những lần bệnh nhân được ơn Chúa an ủi và – thêm trông cậy Chúa.

    –    Một Anh thanh niên khác nói rằng , Anh đã theo đạo vì muốn lấy  vợ , nhưng điều xảy ra là cách đây một thời gian , anh đã tham dự một buổi cầu nguyện Thánh Linh , khi đó , Anh được Chúa bao bọc bằng một đức tin cháy sáng và yêu mến.  Kể từ hôm đó cho đến  hôm nay  thì Anh còn sốt mến Chúa hơn cả bà xã. Anh có biết đã lái xe 5, 6 tiếng đồng hồ để đến dự Khóa này. Đời sống Anh thay đổi , Anh luôn có niềm vui và bằng an trong Chúa.

    –     Sự hồi sinh năng lực truyền giáo , uy quyền mãnh liệt của Chúa Thánh Thần qua sự rao giảng trong các Khóa Thánh Linh cho anh chị em ngoài Đạo và Anh Chị Em Tân Tòng thật là đáng mừng.

    –    Một anh trung niên chia sẻ , sau khi dự Khóa Thánh linh tại Giáo Xứ Ngôi Lời vào năm 2008, anh đã có mối tương quan mới với Chúa. Do đó,  đối với anh thì Chúa là một thực tế , gần gũi hàng ngày , bất cứ khi nào bị cám dỗ về sắc dục hay các cám dỗ mà anh sắp thua và chiều theo điều xấu thì anh gọi tên Chúa Giê Su yêu dấu của anh , lập tức cơn cám dỗ tan biến tức thì , nó vỡ tan như “ bong bóng xà phòng” . Một triệu lần như một , khi trong mối liên kết với Chúa thì Chúa đã ra tay can thiệp bảo vệ ngôi đền của Chúa là thân mình của Anh . Thật là một kinh nghiệm gần gũi và quí giá !

    Nhiều lần , Các Cha đã mời Chúa Thánh Linh đụng chạm vào tâm hồn tham dự viên, kết quả là , Các Em trẻ  hầu hết đều được Chúa đụng chạm và có giây phút tuyệt vời , nghỉ ngời , tĩnh lặng trong Chúa hoặc hồi tâm và làm hòa với người mình giận hờn , làm hòa với Chúa như một người con.

    Tĩnh tâm giải quyết một vấn nạn của tuổi trẻ đó là hàn gắn lại những mối giây liên hệ trong gia đình , làm mới lại tình Cha Con, Anh Em qua sự tha thứ cho nhau và qua lòng mến Chúa đổ xuống cho tham dự viên. Có một cô gái , 16 tuổi  đã hết giận Cha Mẹ sau 3 năm dài không chấp nhận bất cứ ý kiến nào của Bố Mẹ trong các vấn đề có bạn trai sớm, muốn trang điểm sớm và trang điểm khi đi học, muốn ăn mặc theo model khi đi đến trường học.

    Các bạn trẻ Leader của các Nhóm rất mạnh mẽ, họ được ơn cảm nhận và biết được rằng ,  ai có nhu cầu cần hòa giải, cần giải tỏa và hai ba bạn đã đến  cùng đặt tay cầu nguyện với người đang cần sự liên kết . Họ đã làm một cách thành khẩn cho đến khi ơn đổi mới tâm hồn của Chúa ban xuống cho đương sự  thì các Leader trẻ mới chịu dừng lại và tạ ơn Chúa.

    Dưới đây  là tâm sự của một Bác tham dự đã gởi cho Vợ mình mấy lời sau khi dự khóa CTĐS: – Chưa bao giờ Anh cảm thấy hạnh phúc hơn lúc này khi Chúa can thiệp trực tiếp vào hạnh phúc của Gia Đình mình , làm mới lại mọi mối quan hệ : Bố Mẹ với Con và Chồng với Vợ. Y như là Chúa nắm lấy tay Anh và Con  mà bắt cả hai bắt tay nhau trước mặt của Chúa vậy. Có sự bằng an và an ủi lớn lao của Chúa bao phủ gia đình  chúng ta!

    Tuy Khóa không đông lắm vì là lần đầu tiên tổ chức cho giới trẻ nên chưa  có được sự kết hợp chặt chẽ với Life Teen của các Giáo Xứ nhưng về chất lượng thì rất là tuyệt vời. Tổng số tham dự vào khoảng chưa đến hai trăm người so với các kỳ tĩnh tâm khác lên đến trên một ngàn người, nhưng phải nói là ai tham dự cũng được tràn đầy bằng an và niềm vui chan chứa , đó là chưa kể đến khoảng hơn 20 người được ơn lành bệnh về phần xác : nhức đầu, thấp khớp, đau lá lách, mất ngủ, …

    Sau cùng phải nói là chỉ có 4 bác, 1 anh mà cho mọi người ăn ngon và dư đầy không thể tưởng được. Cám ơn tình yêu cụ thể của Chúa được các Bác, Các Anh tỏ ra trong việc cung ứng,  thết đãi các bữa ăn sáng , trưa , chiều, tối . Ơn Chúa trong Khóa này dồi dào như lượng thực phẩm bổ dưỡng, tươi ngon, dư đầy mà mọi người sử dụng . Xin Chúa ban một mùa xuân mới cho giới trẻ trong các Khóa Thánh Linh. Hơn ai hết Các Em vốn bị bế tắc trước ngưỡng cửa thiêng liêng cần đến các Khóa Thánh Linh vô cùng.

    Phần tôi , có niềm vui và bằng an nhẹ nhàng cứ lan tỏa lớn dần trong tâm hồn và sẽ ở cùng tôi trong su ốt tuần lế này. Cám ơn hồng ân của Chúa , Chúa thật là tuyệt vời.  Không thể nào tôi giữ kín niềm hạnh phúc này trong tâm , tôi phải chia sẻ ra với các bạn và mọi người.

    Francis Tran ,

    Lord the Incarnation Parish, Houston, TX

    PHÉP LẠ ĐÊM VỌNG LỄ ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI

    PHÉP LẠ ĐÊM VỌNG LỄ ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI
                                                            

                                                                                                 14/08/2012

                                                                                  nguồn: vietvatican.net

    … Câu chuyện xảy ra tại thành phố Milano, miền Bắc nước Ý.

    Cách đây đúng 90 năm – tối ngày 14-8-1922 – vào khoảng 11 giờ đêm cô Elvira Mazzoli vẫn còn miệt mài làm việc nơi tòa báo. Vị chủ nhiệm tờ tuần san ”Squilli di Risurrezione – Hồi Chuông Phục Sinh” rời văn phòng lâu lắm rồi, để lại công việc dang dở cho cô thư ký. Cô Elvira phải kết thúc số báo đặc biệt trước nửa đêm để giao cho nhà in. Tờ tuần báo phải lên khuôn ngay đêm nay, để sáng mai, lễ trọng Đức Mẹ MARIA Hồn Xác Lên Trời, tờ báo sẽ được phân phối cho các sạp bán báo.

    Lý do chậm trễ trong vội vã là vì vào phút chót, tờ báo nhận tin:
    – Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA được long trọng tuyên phong làm Chủ Tịch Hội Giới Trẻ Phụ Nữ Công Giáo.

    Tin quan trọng đáng được thay đổi toàn bộ tờ báo để làm nổi bật vai trò của Vị Nữ Tân Chủ Tịch Thiên Quốc.

    Giờ đây chỉ còn vỏn vẹn một tiếng đồng hồ để kết thúc bài viết trước khi người thợ in đến nhận bản thảo. Đôi mắt nặng trĩu vì quá mệt, cô Elvira Mazzoli cố gắng đánh máy những hàng cuối cùng:
    – Chúng con xin lập lại lời dâng hiến của toàn thể Hội Đoàn cũng như của từng người chúng con cho Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm Rất Thánh MARIA. Chúng con xin phó thác cho Mẹ cuộc sống nội tâm và công tác tông đồ của chúng con. Xin Mẹ thanh luyện chúng con. Xin Mẹ ban cho chúng con các nhân đức. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con ơn yêu mến Đức Chúa GIÊSU Con Mẹ. Cùng lúc, xin Mẹ cho chúng con biết làm cho những ai có dịp tiếp xúc với chúng con cũng được tăng thêm lòng kính mến Đức Chúa GIÊSU. Xin Mẹ cho chúng con ngày hôm nay biết sống trọn vẹn tư cách là giới trẻ Công Giáo để chuẩn bị cho mai ngày trở thành người vợ, người mẹ, người nữ tu và Phụ Nữ Công Giáo Tiến Hành.

    Vừa đánh máy, cô Elvira Mazzoli như nếm trước niềm vui của toàn thể độc giả cũng như của các Hội Viên Giới Trẻ Phụ Nữ Công Giáo, vào ngày mai, khi mỗi người hân hoan mân mê trong tay tờ tuần báo thân yêu. Nhưng nhất là, vui chừng nào khi biết rằng Đức Nữ Trinh Rất Thánh MARIA trở thành Vị Bảo Trợ Phong Trào Giới Trẻ Phụ Nữ Công Giáo vào chính ngày lễ trọng của Đức Mẹ, 15-8!

    Miên man với ý nghĩ này, cô Elvira Mazzoli ngủ thiếp đi lúc nào không hay biết. Trong giấc ngủ, cô làm ngã chiếc đèn dầu đặt trên bàn viết. Dầu chảy lan trên giấy và rơi xuống áo. Cùng với dầu, ngọn lửa theo nhanh bốc cháy. Trong khoảng ngắn, ngọn lửa có thể thiêu rụi căn phòng, biến cô Elvira Mazzoli thành ngọn đuốc sáng và bản thảo tờ Hồi Chuông Phục Sinh tan thành tro bụi!

    Thế nhưng, Vị Nữ Bảo Trợ Thiên Quốc của Phong Trào không mảy may cho phép điều này có thể xảy ra. Đức Mẹ MARIA ra tay uy quyền can thiệp. Và Phép Lạ đã xảy ra. Cánh cửa sổ đang đóng kín bỗng bị mở tung. Một luồng gió nhiệm mầu ùa vào, kịp thời thổi tắt ngọn lửa bắt đầu bốc cháy, trước khi ngọn lửa có thể thiêu rụi tất cả người và vật trong phòng.

    Nghe tiếng động của cánh cửa sổ bật mở, cô Elvira Mazzoli giật mình tỉnh thức.

    Rất nhanh sau đó, cô định trí và hoàn hồn khi thấy mình vừa thoát khỏi bàn tay tử thần trong đường tơ kẽ tóc! Không đợi chờ lâu, cô quỳ gối xuống đất, dâng lời cảm tạ Hiền Mẫu MARIA Thiên Quốc đã gìn giữ mạng sống cô an toàn.

    Mấy phút sau có tiếng chuông cửa reo. Đồng hồ cũng điểm 12 tiếng. Đúng nửa đêm. Người thợ in đến lấy bản thảo tờ Hồi Chuông Phục Sinh để cho lên khuôn. Khi cô Elvira Mazzoli trao bản thảo cho người thợ, tay cô vẫn còn run vì xúc động. Người thợ in nhận ra nét lúng túng xúc động của cô thư ký. Ông ân cần hỏi:
    – Cô Elvira, cô đang run rẩy! Cô có bị gì không? Cô có muốn tôi đưa cô về nhà không?

    Cô Elvira ôn tồn đáp lại:
    – Thưa ông Monti, tôi không bị gì hết. Ông đừng lo lắng cho tôi. Tôi chỉ mệt một chút thôi. Nhưng tôi muốn ở lại văn phòng chờ trời sáng. Tôi đã sẵn đề tài cho bài viết của số báo vào tuần tới!

    Ông Monti nhã nhặn nói:
    – Tùy ý cô! Nhưng cô nên cẩn thận đóng cửa sổ lại, kẻo bị gió độc nguy hiểm.

    Nói xong, người thợ in tốt lành cầm bản thảo mang đi.

    Còn lại một mình, cô Elvira Mazzoli đến đứng bên cửa sổ ngước mắt chiêm ngắm bầu trời đầy sao. Vừa nhìn trời, cô vừa sốt sắng đọc những lời kinh Kính Mừng MARIA, dâng lên Hiền Mẫu MARIA Thiên Quốc, với trọn tâm tình tri ân thảo hiếu. Sau đó, cô lặng lẽ ngồi vào bàn làm việc. Cô bắt đầu đánh máy bài viết cho số báo tuần tới:
    – Câu chuyện phép lạ xảy ra vào một đêm mùa hè, đêm đẹp nhất: đêm vọng lễ Đức Mẹ MARIA Hồn Xác lên Trời ..

    ĐỨC TRINH NỮ MARIA HỒN XÁC LÊN TRỜI

    Lạy Đức Trinh Nữ MARIA,
    Đức Bà Hồn Xác Lên Trời,
    nơi Mẹ, trong xác Mẹ và trong hồn Mẹ,
    hoàn tất chiến thắng của THIÊN CHÚA trên cái chết.
    Mẹ sống trong ánh sáng của Con Mẹ Sống Lại
    và Mẹ mở cho chúng con con đường Phục Sinh của Người.
    Lạy Đức Bà Hồn Xác Lên Trời,
    xin Mẹ canh giữ chúng con
    đưa cái nhìn và lòng chúng con
    hướng về chân trời của Vương Quốc THIÊN CHÚA,
    nơi Tình Yêu Chúa CHA sẽ chiến thắng
    mọi bạo lực, mọi biến dạng và mọi sợ hãi.
    Xin Mẹ ban cho Giáo Hội của Mẹ đang trên đường lữ thứ,
    giữa tăm tối và thử thách,
    biết cùng với Mẹ nhìn về Đức Chúa KITÔ
    để học biết tái sinh từ THIÊN CHÚA
    và để cho hành trình của chúng con được nâng đỡ
    bởi niềm hy vọng của cuộc sống mới này
    được hứa ban cho chúng con và đang chờ đợi chúng con.
    Lạy Đức Trinh Nữ MARIA,
    xin làm cho Chúa Thánh Linh có thể đặt
    trong xác và hồn chúng con
    niềm ước muốn thanh sạch, niềm ước muốn mạnh mẽ
    về cuộc sinh ra mới này mà Mẹ từng kinh nghiệm.
    Amen.

    (”Il Settimanale di Padre Pio”, 7 giorni di formazione e informazione cattolica, n.33, 10+17/8-2003, trang 25).

    Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

    PHÉP LẠ CHỮA LÀNH CỦA CUỘC ĐỜI NỮ TU BRIEGE McKENNA

    PHÉP LẠ CHỮA LÀNH CỦA CUỘC ĐỜI NỮ TU BRIEGE McKENNA

    13/10/2011                                                   nguồn: thanhlinh.net

    Chuyện về cuộc đời của Nữ Tu Briege McKenna là một điều huyền diệu. Các bác sĩ đã báo cho biết Sơ sẽ phải di chuyển bằng xe lăn do căn bệnh thấp khớp. Sơ đã được chữa lành bởi phép lạ. Giờ đây, Sơ dùng quyền năng chữa lành Chúa ban cho Sơ để giúp nhiều người khác.

    Chúng ta thường nói điều gì Chúa cũng làm được. Riêng với Sơ Briege Mckenna, Sơ biết rằng Chúa có thể thực hiện điều mà con người cho là bất khả thi (không thể làm được). Nhiếu người tin rằng những phép lạ chỉ có trong lý thuyết mà thôi, nhưng với Sơ Briege, Sơ tin thực sự có phép lạ vì chính Sơ đã nhìn thấy phép lạ xẩy ra.

    Sơ Briege đã chứng kiến Chúa can thiệp bằng những cách nhiệm mầu nhất từ khi Sơ được chữa lành khỏi bệnh thấp khớp vào năm 1970. Sự việc Sơ được chữa lành đã dẫn Sơ đi đến nhiều vùng xa xôi trên trái đất này, từ những cuộc tụ họp rất đông người tại các quốc gia Châu Mỹ La tinh đến những buổi tĩnh tâm trong các vùng xa xôi hẻo lánh ở Đaị Hàn.

    Sơ Breige sinh ra tại làng Co Armagh miền bắc Aí Nhĩ Lan, đúng vào ngày Chúa Nhật lễ Chuá Thánh Linh Hiện Xuống năm 1946.

    Mồ côi mẹ vào năm mới 13 tuổi. Sơ nhớ rất rõ và thuật lại rằng: “đêm đó tôi khóc rất nhiều và tôi nghe thấy có giọng nói với tôi: “đừng sợ, ta sẽ che chở cho con”. Sáng hôm sau thức dậy, tôi biết tôi muốn được trở thành một nữ tu.”

    Sơ Briege gia nhập Dòng Nữ Tu Saint Clare tại tỉnh nhà. Sơ nhớ như in lễ khấn đầu tiên của sơ: ”Khi tôi qùy trong nhà nguyện đợi được gọi tên, tôi nhìn thấy Chúa Giêsu mặc áo chăn chiên đến cầm tay tôi và Chúa nói: “con hãy theo Ta”.

    Sơ Briege được sai đến làm việc tại nhiều tu viện khác nhau, nhưng đến năm 1965 Sơ đau đớn biết được mình đang bị chứng bệnh thấp khớp. Năm 1967, Sơ đến Florida trong lúc bệnh trạng càng tồi tệ trầm trọng, “Trong cơn đau, tôi khóc rất nhiều, bác sĩ nói tôi không có hy vọng được khỏi và chẳng bao lâu nữa tôi sẽ phải di chuyển bằng xe lăn.” Khi đó, Sơ Briege bắt đầu kinh nghiệm nỗi đau tâm linh kinh khủng, và lòng khô cháy. Sơ tiết lộ: ”Tôi còn tự hỏi “ Tôi có thực sự tin vào Chúa Giêsu hay không?“.

    Những gì kế tiếp xẩy ra sẽ bắt đầu một giai đoạn khác thường trong cuộc đời của người phụ nữ phi thường này. Sơ Briege giải thích: ”Tháng 12 năm 1970, tôi tham dự một cuộc tĩnh tâm. Tôi lắng nghe những chia sẻ về sức mạnh của lời cầu nguyện và quyền năng của Chúa Thánh Linh. Trong cuộc tĩnh tâm, tôi nhớ đã nhìn vào đồng hồ rồi nhắm mắt lại. Lúc đó là 9:15 sáng ngày 9 tháng 12 năm 1970. Lời cầu nguyện của tôi chỉ đơn giản như sau: ”Chúa Giêsu ơi, xin cứu chữa con.” Ngay lúc đó tôi cảm thấy như có một bàn tay đặt lên đầu tôi, tôi mở mắt và chẳng thấy ai cả, nhưng có một nguồn sức mạnh chạy trong toàn thân tôi . Tôi nhìn xuống. Các ngón tay tôi vốn bị cứng đờ nhưng không bị vặn vẹo như chân tôi. Các khuỷu tay tôi đau đớn. Tôi nhìn vào thân mình. Các ngón tay tôi trở nên mềm mại, đau đớn biến mất và khi nhìn xuống 2 bàn chân bị tật đang mang dép đã được chữa lành. Tôi nhẩy lên sung sướng và la lên: ”Giêsu, Chúa thực sự đang ở đây!”

    Từ ngày đó Sơ Briege không còn bị thấp khớp nữa và đi thực thi sứ mạng tông đồ đầy nhiệt tình và hăng hái ít ai sánh ví kịp.

    Sự việc được chũa lành của Sơ Briege làm các bác sĩ không thể hiểu được, nhưng Sơ Briege không cần một sự giải thích nào cả, vì với Sơ, đó là do sự tác động của bàn tay chữa lành của Chúa.

    Sự khỏi bệnh một cách kỳ diệu chỉ là khởi đầu một cuộc sống mới của Sơ Briege. Chẳng những Sơ đã được chữa lành mà lại còn được Chúa ban cho ơn chữa lành nữa.

    Sơ Briege không muốn thi hành việc chữa lành, và trong thâm tâm hoàn toàn không hề nghĩ đến điều đó, nhưng Chúa chẳng hề trả lời không cho câu trả lời của Ngài. Sơ nói:  “Trong một buổi cầu nguyện, tôi không hề nói về chữa ơn lành, nhưng khi tôi đứng dậy, một phụ nữ chạy lên và nói: ”Xin lỗi Sơ, tôi có đôi lời muốn nói với sơ. Đó là Sơ đã được ban cho ơn chữa lành. Sơ biết như vậy nhưng Sơ sợ không được người ta chấp nhận mà đúng lý ra là Sơ phải sợ ý Chúa mới phải.” Tôi nhìn bà ta và nói: ”Suốt đời tôi chưa từng gặp bà, xin cho biết bà là ai?” Người đàn bà đã được Chúa Thánh Linh tác động để nói lên điều đặc biệt về Sơ Briege.

    Sơ Briege thực sự hân hoan quý nhận những đặc sủng của Chúa ban, và qua Sơ, Ngài đã làm nhiều điều kì diệu. Con người rất dễ kiêu hãnh về những đặc sủng như vậy, nhưng Sơ Briege lại hạ mình xuống khi nói cách khiêm tốn: ”Tôi chẳng làm được điều gì, tất cả đều do quyền năng chữa lành của Chúa. Ngài đã dùng tôi như một công cụ của Ngài.”

    Bất cừ đi tới đâu, Sơ cũng gặp rất nhiều người cần được chữa lành. Chúa ban nhiều ơn rất đặc biệt qua các việc tông đồ của Sơ, và sơ có một chương trình làm việc rất bận rộn trên khắp thế giới, để đem quyền năng Chúa đến cho những người Sơ gặp gỡ. Trước cuộc họp đông đủ các Giám mục tại Tòa Thánh cũng như trước hàng ngàn người tập trung tại một sân banh thể thao ở Châu Mỹ La Tinh, Sơ nói rất tự tin an bình.

    Trong công tác tông đồ của mình, Sơ chú trọng đến các linh mục khi nói: ”Bởi vì thiên chức linh mục đang bị tấn công tàn ác, có lẽ hơn bao giờ hết chúng ta cần có sự khuyến khích và nâng đỡ các linh mục.”

    Khi làm việc tông đồ, Sơ Briege có dịp đến thuyết giảng tại các chủng viện nơi đào tạo giới trẻ để trở thành linh mục.

    Tất cả những nơi Sơ đặt chân tới đều có một mục đích như thế, một chủng sinh đã mô tả Sơ như “một bảng chỉ đường dẫn đến Chúa”

    Trong một lần cầu nguyện trước Mình Thánh Chúa, Sơ đã được mặc khải về chức linh mục. ”Lúc đó, Chúa cho tôi thấy rằng tôi không thể chỉ ngồi yên để phê phán về thiên chức linh mục”.

    “Khi nhận bí tích truyền chức thánh, linh mục tuyên hứa với Chúa xin vâng để trở nên ling mục cho tôi, cho bạn và cho tất cả mọi người chúng ta”.

    Chúa Giêsu dẫn tôi nhìn thấy hình những hình ảnh lần lượt diễn ra trước nhà tạm. Rồi tôi thấy trong ánh mắt Chúa lễ truyền chức một linh mục.”

    “Khi chúng ta nhìn vào một tấm tranh thảm thêu đẹp đẽ treo trên tường, chúng ta chỉ nhận ra kết quả công lao của người nghệ sĩ”.

    Chúng ta đâu có thấy được công lao và lòng yêu nghệ thuật đặt vào tấm thảm đó. Tuy nhiên, nếu nhìn vào mặt trái của tấm thảm chúng ta sẽ thấy nhiều sợi màu, nhiều mũi khâu và nhận ra phải mất nhiều công lao để hoàn tất công trình nghệ thuật đó.”

    Cũng vậy, khi chúng ta nhìn vào một linh mục, chúng ta thấy có cả sức mạnh cũng như yếu đuối. Nhưng chúng ta không nhận ra đằng sau con người đó, Thiên Chúa bằng tình yêu và trung tín đánh động tâm hồn bằng ơn gọi và dẫn dắt người đó đến khi được nhận lãnh thiên chức linh mục. Khi được mặc khải những diễn tiến về chức linh mục tôi đã phải khóc òa.”

    Tôi có cảm tưởng, tất cả các thần thánh trên trời đều ca ngợi lòng nhân hậu của Chúa đối với nhân loại bằng cách từ muôn thế hệ đã chọn người thay mặt Chúa ở giữa muôn dân của ngài.”

    Qua kinh nghiệm này, tôi có một sự hiểu biết mới về chức linh mục. Tôi có một tình yêu mới và sự ngưỡng mộ sâu xa đối với bí tích truyền chức thánh. Tôi nhận ra rằng các linh mục cần được rất nhiều lời cầu nguyện và an ủi”. Điều này làm cho Sơ Briege bắt đầu sứ mạng loan truyền linh mục trong ơn gọi. “Sơ nói nhiều khi các linh mục nản chí vi các ngài không được hỗ trợ đầy đủ, linh mục cũng là con người với đầy đủ những yếu đuối, các ngài cần sự trợ giúp liên tục của chúng ta.”

    Sơ Briege McKenna là một phụ nữ tuyệt vời, một người đặt Chúa Giêsu trên hết trong đời mình, và phần thưởng cao qúy nhất của Sơ là đem nhiều người về với Chúa.

    Chính Sơ  đã nói: ”Tôi nhận ra rằng không ai có thể làm điều gì hơn là trở nên một bảng chỉ đường dẫn người ta đến với Chúa, giúp tha nhân nhận ra Chúa trong tâm hồn họ và để Chúa ban muôn ơn lành cho họ.”

    Sơ Briege quả thực là một nhân chứng tuyệt vời về quyền năng Chúa giữa thế giới văn minh; Chúa đã làm nhiều việc trọng đại cho nhân loại qua công tác tông đồ của Sơ.