Đức Mến Tha Thứ, Tin Tưởng, Hy Vọng Và Chịu Đựng Tất Cả!

Đức Mến Tha Thứ, Tin Tưởng, Hy Vọng Và Chịu Đựng Tất Cả!

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Luôn luôn tự đặt mình trong tư thế lắng nghe một đứa trẻ khuyết tật – RV

Bà Sylvie Danel 40 tuổi là nhà giáo dục chuyên môn tại một viện y-tế giáo-dục. Một ơn gọi đích thật nẩy sinh từ cuộc gặp gỡ với một trẻ tự-kỷ trong những năm đầu đời tìm kiếm việc làm. Xin nhường lời cho bà.

Là nhà giáo dục chuyên môn, từ năm 2012, tôi làm việc trong một viện y-tế giáo-dục nơi vùng ngoại ô thủ đô Paris. Đây là viện dành riêng cho các trẻ em khuyết tật hoặc tâm thần hoặc chậm trí nơi học đường.

Trước khi chính thức đi vào lãnh vực nghề nghiệp này, tôi muốn trở thành nữ giáo viên nên đã chuẩn bị và giật được mảnh bằng dạy học.

Có được bằng cấp rồi, mùa hè năm ấy, tôi tham dự một trại hè với tư cách nữ linh-hoạt-viên. Trại hè cũng tiếp nhận một số trẻ em bị bệnh tự-kỷ có các nhà giáo dục các em tháp tùng .. Hoàn toàn không biết gì về chứng khuyết tật này, tôi bỗng bị thôi-miên bởi Adrien một đứa bé tự-kỷ.

Tôi tạo được mối giao tiếp đặc thù với bé. Bé không nói được và không làm cho người khác hiểu được bé muốn gì. Vậy mà giữa hai chúng tôi đã có mối quan hệ đích thật chân thành. Vào buổi tối cuối cùng khi đốt lửa trại, tôi đến tìm bé, nắm lấy tay bé và cả hai chúng tôi cùng múa nhảy bên lửa trại. Sáng hôm sau, trước khi ra về, bé đến tìm tôi và xin tôi cùng nhảy với bé. Thật là giây phút tuyệt vời. Mọi người đều cảm động, ngay cả các nhà giáo dục tháp tùng các trẻ tự-kỷ cũng hết sức ngạc nhiên.

Riêng đối với tôi thì đây là ”cú sét” làm nẩy sinh mối tình tôi dành cho các trẻ tự-kỷ, đứng trước khía cạnh bí nhiệm của chứng khuyết tật này!!!

Từ trại hè trở về nhà, tôi suy nghĩ miên man và tự nhủ:

– Mình sẽ không làm nữ giáo viên nhưng làm nhà giáo dục!

Trong thời kỳ diễn ra trại hè, tôi đã bàn luận rất nhiều với các nhà giáo dục và hỏi han về nghề nghiệp của họ. Tôi bỗng ý thức rằng, trong một lớp học, giáo viên dạy cho cả lớp. Nếu có một trẻ nào gặp khó khăn, giáo viên không thể dừng lại lâu bên trẻ này, bởi vì toàn lớp học phải được tiếp tục chương trình. Đây là chuyện sẽ không bao giờ có thể xảy ra đối với tôi!!! Bởi lẽ giờ đây, đứa trẻ gặp khó khăn trở thành nhân vật quan trọng và tôi ước muốn dừng lại lâu thật lâu bên đứa bé. Có một dự án riêng biệt cho từng đứa trẻ khuyết tật với tư cách nhà giáo dục chuyên môn trở thành một dự án gây đam mê cho con đường công danh sự nghiệp của tôi. Tôi quyết định thay đổi hướng đi.

Sau một năm làm nhân viên thiện nguyện nơi vùng ngoại ô thủ đô Paris để lượng định sức mình, tôi chính thức ghi danh vào trường dành cho các nhà giáo dục chuyên môn. Sau khi ra trường, tôi làm việc hai năm nơi Cư Xá tiếp nhận những người lớn tuổi bị điếc. Cùng thời gian này thỉnh thoảng tôi cũng tiếp tay với một dịch vụ chăm sóc các trẻ tự-kỷ nơi tư gia. Sau cùng, tôi chính thức trở thành nhà giáo dục chuyên môn trong một viện y-tế giáo-dục.

Nơi viện y-tế giáo-dục thành phần các thân chủ được nới rộng gồm nhiều chứng khuyết tật khác nhau trong đó các trẻ em bị bệnh tự-kỷ. Xét vì kinh nghiệm có được cạnh các em tự-kỷ tôi đặc biệt lãnh trách nhiệm phụ trách 8 em tự-kỷ tuổi từ 7 đến 10. Khi các em không đến lớp hoặc không có những buổi tập luyện chuyên biệt thì chúng tôi tổ chức các sinh hoạt dành riêng cho các em tự-kỷ. Mục đích của chúng tôi là khởi hành từ chính điều kiện cá nhân của từng em để dẫn đưa các em tiến xa hơn trên con đường chữa trị. Không rõ chúng tôi có thành công hay không nhưng điều chính yếu là chúng tôi dùng trọn sức lực và thiện tâm để phục vụ các em.

Làm việc với tư cách nhà giáo dục chuyên môn nơi viện y-tế giáo-dục thì con đường sự nghiệp của tôi kể như không có, bởi lẽ không có nấc thang để cho tôi tiến thân! Nhưng không sao cả! Điều quan trọng là tôi cảm thấy yêu nghề và nghề nghiệp giúp tôi thủ đắc đức tính kiên nhẫn cùng với khả năng biết đặt lại vấn đề. Chẳng hạn có những đứa trẻ tôi tạo được dễ dàng mối quan hệ, trong khi có những đứa trẻ khác thì tôi gặp khó khăn. Kinh nghiệm này giúp tôi biết khiêm tốn nhận ra những giới hạn của mình và luôn luôn tự đặt mình trong tư thế lắng nghe một đứa trẻ khuyết tật.

 … ”Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi. Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được!” (1Côrintô 13,1-8).

 (”OMBRES & lumière”, Revue Chrétienne Des Personnes Malades Et Handicapées, De Leurs Familles Et Amis, No 209, Janvier-Février 2016, trang 8-9)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

 

TỪ MỘT PHI CÔNG TRỰC THĂNG KHÔNG QUÂN VNCH TRỞ THÀNH LINH MỤC CÔNG GIÁO

TỪ MỘT PHI CÔNG TRỰC THĂNG KHÔNG QUÂN VNCH TRỞ THÀNH LINH MỤC CÔNG GIÁO

TRUC THANG
Adelaide: Lúc 10 giờ 00 sáng, thứ Bảy, ngày 06 tháng Hai, năm 2016, Đức Tổng Giám Mục (ĐTGM) Philip Wilson đã chủ tế thánh lễ truyền chức linh mục cho thầy phó tế Giuse Nguyễn Long Hải tại nhà thờ chính tòa Saint Francis Xavier thuộc Tổng Giáo Phận (TGP) Adelaide, Nam Úc. Cùng đồng tế có Cựu Tổng Giám Mục Leonard Faulkner và 32 linh mục đang phục vụ trong TGP Adelaide.

Mở đầu thánh lễ, liên ca đoàn: Saint Patrick + Hy Vọng của cộng đoàn Việt Nam đã hát ca nhập lễ với bài thánh ca “God the Spirit, Guide and Guidance”. Bản thánh ca vừa chấm dứt, linh mục Paul Cashen MSC chánh xứ nhà thờ chính tòa đã lên chào mừng hai ĐTGM, linh mục đoàn, cùng tiến chức, thân nhân, quan khách và cộng đoàn. Cha Cashen nói lên ý nghĩa thánh lễ lúc 10 giờ 00 sáng nay, sau đó ĐTGM Philip Wilson bắt đầu cử hành thánh lễ bằng lời chào bình an đến cộng đoàn và xin mọi người cầu nguyện cách riêng cho tiến chức.

Phần phụng vụ, bài đọc sách thánh bằng song ngữ Anh Việt. Deacon Athony Hill công bố Phúc Âm.

Sau đó cha Philip Marshall tổng đại diện giáo phận đã gọi tên thầy Giuse Nguyễn Long Hải lên trình diện trước Đức Tổng Giám Mục chủ tế và xin Ngài phong chức linh mục cho thầy Hải.

ĐTGM chủ tế đã hỏi Cha Philip Marshall về tư cách, tác phong và đạo hạnh của tiến chức Nguyễn Long Hải, qua một thời gian dài tu học, xem thầy có xứng đáng được nhận lãnh thiên chức linh mục không?

Cha P. Marshall trả lời và xác nhận thầy Giuse Nguyễn Long Hải rất xứng đáng được truyền chức linh mục và thỉnh cầu ĐTGM phong chức linh mục cho thầy.

ĐTGM chủ tế chấp nhận lời đề nghị của Cha Tổng Đại Diện và tuyên bố sẵn sàng truyền chức linh mục cho thầy Hải trong giây phút sắp tới. Toàn thể Cộng Đoàn vỗ tay chúc mừng Tiến chức.

Tiếp tục phần phụng vụ, ĐTGM Philip Wilson chia sẻ Lời Chúa qua bài Phúc Âm thánh Luca 4:16-19, với chủ đề “Thần khí Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi loan Tin Mừng cho người nghèo khó”.

Sau bài chia sẻ Tin Mừng, ĐTGM Wilson cũng đã nói sơ qua về tiểu sử, cuộc hành trình ơn gọi và đời sống tận hiến của Tiến chức là thầy Giuse Nguyễn Long Hải. Chấm dứt bài giảng là nghi thức phong chức linh mục bắt đầu. Nghi thức phong chức linh mục gồm có các phần chính sau đây:

– ĐTGM chủ tế mời gọi tiến chức tiến đến gần Ngài và thẩm vấn tiến chức, có sẵn sàng ra đi rao giảng Lời Chúa và phục vụ tha nhân ở bất cứ nơi nào mà Thiên Chúa và giáo hội cần đến không?

– Lời tuyên hứa của tiến chức về sự vâng phục giáo quyền và quyền bính của giáo hội.

– ĐTGM Chủ Tế nắm tay tiến chức và cầu nguyện xin Thiên Chúa đổ tràn hồng ân xuống cho tiến chức

– Tiến chức được mời gọi nằm phủ phục, suy gẫm về sự hiến dâng thân mình cho Chúa trong thân phận mỏng dòn để xin các thánh phù hộ. Cộng đoàn hát “Kinh Cầu Các Thánh” xin ơn trợ giúp.

– Hết kinh cầu các thánh, Tân chức được mời đứng dậy, Chủ tế đọc lời cầu nguyện trên tiến chức

– ĐTGM Chủ tế đặt tay lên đầu Tiến Chức qua nghi thức tông truyền của giáo hội từ Chúa Kitô xuống trên các tông đồ của Chúa. Sau khi các Đức Tổng Giám Mục đặt tay cầu nguyện trên đầu tiến chức, các linh mục đoàn lần lượt xếp hàng đến đặt tay trên đầu Tân chức, diễn tả cùng ý nghĩa

-Kế tiếp Tiến Chức được Linh mục bảo trợ và hai thân nhân lên thay phẩm phục phó tế và mặc lên người bộ phẩm phục linh mục mới cho Tân chức.

– ĐTGM chủ tế xức dầu hai bàn tay của Tân Chức.

– Nghi thức trao sách thánh và trao chén thánh cho Tân Chức

ĐTGM chủ tế đọc lời nguyện trên Tân chức, kể từ hôm nay Tân Linh Mục Giuse Nguyễn Long Hải đã chính thức trở thành vị tư tế, cũng như thay mặt Thiên Chúa, phục vụ hội thánh và tha nhân.

Sau nghi thức truyền chức, Tân Linh Mục được hướng dẫn lên bàn thờ và cùng đồng tế thánh lễ với ĐTGM chủ tế. Nghi thức truyền chức chấm dứt, phụng vụ thánh lễ tiếp tục.

ĐTGM chủ tế và Tân Linh Mục cùng đồng tế, cho đến phần cuối của thánh lễ

Trước khi kết thúc thánh lễ Cha Tổng Đại Diện chúc mừng Tân Linh Mục và tuyên bố chào đón Tân Linh Mục Giuse Nguyễn Long Hải chính thức là thành viên trong linh mục đoàn của giáo phận.

ĐTGM Philip Wilson đã trao bài sai mục vụ cho Tân Linh Mục G. Nguyễn Long Hải đi làm phó xứ, giáo xứ Croydon Park, dưới quyền Cha chánh xứ Maurice Shinnick.

Tân Linh Mục ban phép lành đầu tay cho hai ĐTGM Leonard Faulkner & Philip Wison.

Tân Linh Mục ngỏ lời cám ơn đến toàn thể Cộng Đoàn và thân nhân, thân hữu.

Ban Tổ Chức thánh lễ mời hai ĐTGM, linh mục và quan khách sang hội trường tham dự tiệc mừng. Tân Linh Mục cắt bánh mừng ngày được thánh hiến.

Sau đó Tân Linh Mục trở lại nhà thờ chính toà, tiếp tục ban phép lành đầu tay cho các thân hữu và tín hữu đến tham dự thánh lễ truyền chức..

Thánh Lễ Tạ Ơn

Lúc 10 giờ 30 sáng, Chúa Nhật ngày 07 tháng Hai, rất đông tín hữu thuộc giáo xứ Croydon Park và quan khách đến nhà thờ Saint Mary Margaret tham dự thánh lễ Tạ Ơn do Cha Hải chủ tế. Trong thánh lễ có sự hiện diện của hai ĐTGM Leonard Faulkner và Philip Wilson.

Cùng đồng tế có Cha Maurice Shinnick chánh xứ giáo xứ Croydon Park nơi Tân Linh Mục sẽ phục vụ trong tương lai, Cha Phêrô Trần Trọng Mỹ phó xứ nhà thờ chính toà St Francis Xavier, thầy phó tế Rev. Athony Hill và một Linh Mục thuộc nghi lễ công giáo Đông Phương.

Sau thánh lễ mọi người được sang hội trường tham dự tiệc mừng do giáo xứ và thân nhân khoản đãi.

Tiểu sử

Được biết Tân Linh Mục Giuse Nguyễn Long Hải sinh năm 1953

– Gia nhập Không Quân QL/VNCH khóa 72A (pilot) hoa tiêu trực thăng và được Bộ Tư Lệnh Không Quân VNCH gửi sang Hoa Kỳ thụ huấn khóa căn bản phi công bay trực thăng.

– Sau 30.4.1975 phi công Nguyễn Long Hải bị đi tù lao động cải tạo dưới chế độ cộng sản Việt Nam

– Anh Hải cùng với hai người em trai dời VN, vượt biển tìm tự do, trên chiếc thuyền mong manh chứa 70 người. Một tuần lễ lênh đênh trên biển cả, đã cặp vào giàn khoan dầu và được đưa đến trại tỵ nạn Malaysia, sau đó Cao Ủy tỵ nạn Úc nhận là người tỵ nạn, được chính phủ tiểu bang Nam Úc cho định cư tại thành phố Adelaide. Đến Úc tháng Ba, năm 1981.

– Được định nơi vùng đất mới, anh Hải đã phải bon chen vất vả, làm lại cuộc sống từ khởi đầu. Anh đã kinh qua nhiều ngành nghề.

Trong thời gian đang đi làm, anh đã xin theo học các khóa thần học part time.

Đáp lại tiếng Chúa mời gọi, anh Hải đã xin tu học và gia nhập hàng ngũ tu sĩ trong TGP Adelaide.

Sau khi tốt nghiệp các khóa thần học, anh Hải được ĐTGM Philip Wilson phong chức phó tế vĩnh viễn vào tháng Chín năm 2012.

Sau khi được truyền chức phó tế, thầy Giuse Nguyễn Long Hải được bổ nhiệm đến làm phụ tá mục vụ cho giáo xứ Croydon Park trong thành phố Adelaide, thủ phủ của tiểu bang Nam Úc và làm tuyên úy trong nhiều lãnh vực. Thầy Hải tiếp tục tu học cho đến ngày 06 tháng Hai năm 2016 thì được thụ phong linh mục.

Tân Linh Mục Giuse Nguyễn Long Hải đã trải qua 42 năm hành trình ơn gọi, tiến tới thiên chức. Cho đến nay, Tân Chức đã tròn 63 tuổi đời.

Hồng Điểu Jo. Vĩnh
VNAF DUST OFF

Chúa vô hình hiện hữu trong đời sống của con, Chúa ở cùng con

Chúa vô hình hiện hữu trong đời sống của con, Chúa ở cùng con.

Dongten.net

Maria Thu Hồ

(Hành trình đức tin của người ngoại đạo theo đạo và chính thức trở thành Một Ki-Tô Hữu)

prinprintsgraphic

Lạy Chúa Thánh Thần! Xin Ngài hãy đến giúp con và cùng viết với con bài viết này, nhằm để chia sẻ kinh nghiệm đức tin cho lớp học Kinh Lạy Cha nơi học viện Dòng Tên, là Nhà Dòng mà con rất yêu dấu. Con Tạ Ơn Chúa Thánh Thần.

Mỗi người sinh ra trên đời này đều có một con đường để đi, dẫu là đường đời hay đường đạo, sự xuyên suốt từ lúc khởi điểm đến cứu cánh là cả một hành trình, cần phải có thời gian mà ta thinh lặng ngoảnh nhìn lại, để tự rút ra bài học làm hành trang cho cuộc đời về nhân bản và tâm linh.

Con là người ngoại giáo, xuất thân trong một gia đình lao động nghèo, đông anh em, sau khi tốt nghiệp chương trình học, con lập gia đình với người có đạo năm 1986 (lúc này con 26 tuổi), con đồng ý theo đạo chồng và hành trang con biết được Chúa trải qua 6 tháng học giáo lý hôn nhân- rồi rửa tội- thêm sức như bao nhiêu người theo đạo, thời gian trôi qua, trôi qua từng ngày, con vẫn trung thành với bài hát “Lạy Chúa! Con người ngoại đạo nhưng con tin có Chúa ngự trên cao” đối với con như thế là đủ.

Sau khi chịu các phép bí tích ấy, con lặng lẽ với danh phận là người đạo theo, là tân tòng … qua năm tháng con cũng sống như một người có đạo, nhưng trong con chỉ là những lề luật. Phải đi lễ hàng tuần vào ngày Chủ nhật, nếu không sợ mắc tội trọng, rồi phải xưng tội … Còn những ngày lễ khác hầu như là không, con không biết gì hơn là cứ im lặng đứng cạnh “người ấy của con” mỗi khi đi lễ, không quan tâm lắng nghe Cha nói gì, mọi người chung quanh con đều đáp lại Amen, riêng con thì không (bởi vì con có nghe gì đâu mà đáp lại), ra về cũng chẳng muốn đón nhận “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em” xuất phát từ nơi Cha ở phần cuối lễ. Rước lễ, cũng chỉ là một lề luật hình thức, con phải làm như mọi người thôi. Cuộc đời của một người có đạo như con là thế đấy.

Bây giờ con nghĩ lại, con rùng mình bởi sự hờ hững, vô tâm của con hết sức là quá lớn, là kinh khủng đến mức tàn nhẫn với công trình Cứu Chuộc của Chúa, thế mà Chúa vẫn chờ, vẫn đợi, đợi ngày con trở về, một sự kiên nhẫn bởi một tình thương cao cả, yêu đến tột cùng của Ngài, dẫn đến một ngày, cho đến một ngày Chúa không thể để mất con, một sự hư mất do con không biết Chúa.

Cho đến ngày con về hưu là tháng 6 năm 2015, con có tự nhủ với lòng: “Thôi thì việc đời công danh sự nghiệp đã dứt, bao nhiêu năm lăn lộn để cơm áo gạo tiền, thế là đủ” gác kiếm lại đi tìm một hội đoàn nào đó mà tham gia, để ít ra cũng được mọi người công nhận mình là người công giáo. Thế là con tham gia ở một nhóm Kinh Thánh Cầu Nguyện của một giáo xứ, trong khi tham gia con vẫn cầu nguyện với Chúa hàng đêm “Chúa ơi! Xin Chúa hãy cho con hiểu biết nhiều về Chúa, để con thật sự yêu mến Ngài như một tín hữu”. Sở dĩ con có sự cầu nguyện này bởi vì trong lòng con chưa có một tâm tình Mến Chúa, con rất lạnh lùng khi thấy mọi người ca tụng Chúa.

Bởi từ ngày theo đạo (chính xác hơn là theo đạo chồng, vì lấy chồng con mới theo đạo) con làm gì biết tin mừng là gì? Lời Chúa là gì? Cựu Ước-Tân Ước ra sao? Cho đến một ngày “Chúa gõ và con đã mở” lòng trí con đón nhận trong khao khát và con hiểu Chúa nhiều hơn qua tin mừng Thánh Gioan chương 13 câu 1, bửa ăn cuối cùng của Đức Giê-su và các môn đệ: “Trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” đọc vừa dứt câu con đã bật khóc (con đã khóc như chưa bao giờ con khóc vì đọc lời Chúa cả). Thưa, con khóc vì tình yêu Chúa quá lớn vượt ra khỏi suy nghĩ của con. Trong bối cảnh ngày ấy, năm ấy Đức Giê-su biết rõ hơn ai hết, đây là bữa ăn cuối cùng mình không còn ở thế gian nữa, buổi tiệc chia tay các môn đệ về với Chúa Cha. Về với Cha mà sao Ngài lại mang một nỗi ưu tư, chính bởi vì Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian và Người yêu thương họ đến cùng. Tạ ơn Chúa, con yêu Chúa nhiều lắm.

Bây giờ con tập sống trong một gia đình Công Giáo, Con đơn sơ nghĩ rằng: Một gia đình thì gồm có Cha, có Mẹ và rồi còn có Thầy để dạy ta sống nữa. Thế là tự con thành lập một gia đình Công Giáo cho riêng con và con là thành viên chính thức trong gia đình ấy, Có Cha là Chúa Cha, có Thầy dạy con sống là Chúa Giê-su và có Mẹ là Chúa Thánh Thần (bởi vì mọi tâm tình, mọi ước muốn con đều xin Chúa Thánh Thần như là xin với Mẹ vậy), con vẫn thích gọi Abba, Rabbouni và Mom. Ngoài ra còn có một hội đoàn vững chắc luôn hổ trợ cho con là Thánh Gia. Thế là con yên tâm, con vững tin hơn trong cuộc sống. Con tìm đến các lớp học về Lời Chúa, về sự mầu nhiệm của Thiên Chúa Ba Ngôi và học hỏi mỗi ngày ở nhiều nơi … Không thể ngồi yên được nữa, vì con đã có một giấc ngủ dài và rất dài suốt gần hết một đời người (60 năm cuộc đời, nay con đã 55 rồi còn gì), thế là con bắt đầu bước đi theo Chúa, bằng sự thì thầm hằng đêm : “Chúa ơi! Chúa Thánh Thần ơi! Xin Ngài hãy hướng dẫn con học những khóa cấp tốc như chúng con thường chạy vào các lớp luyện thi, Chúa nhé! Bởi vì muộn quá đối với tuổi đời của con”.

Ngày đầu bước vào đời sống Ki-tô-hữu, khi cầu nguyện với Chúa bằng tâm tình (như cuộc trò chuyện giữa con và Ngài, con nghĩ sao con nói với Chúa như vậy, không văn hoa, không dùng mỹ từ nào cả, bởi con có biết nói như thế nào cho hay đâu Chúa, Chúa hiểu lòng con mà), mỗi buổi sáng, con đã phải ngỡ ngàng hơn vì khám phá ra quá nhiều ơn sủng Chúa ban. Con cần phải quên đi những ngày đầu chập chững, con quyết sống sao cho những ngày đầu chỉ là ơn sủng còn non màu mạ, mỗi thời gian đi tới là chứa chan màu vàng của lúa đơm bông, của cây nho say trái. Con bỗng đột phá trong suy nghĩ: Ơn sủng Chúa ban thì hằng hà sa số, đủ-dư để đáp ứng cho con, lớp lớp thời gian Chúa không ngừng đổ rót. Để lãnh xin, sao con chỉ có đôi bàn tay bé nhỏ khép lại, sao hồn con cứ trống và tim con còn vơi. Phải rồi, phải mở toang ra những cánh cửa tâm hồn mà đón Chúa, cho dẫu trái tim con có bao nhiêu ngăn chăng nữa cũng xin dành trọn cho Chúa, Chúa ơi! (Con xác tín phải mến Chúa, rồi thì qua Chúa ắt sẽ yêu người) ngọn lửa tình yêu của Chúa sẽ châm ngòi cho trái tim con.

Con không thể lặng thinh như những ngày đã qua con sống cho con nữa, mà liên tục con hỏi Chúa: “Chúa ơi! Xin cho biết việc con phải làm theo Thánh ý Ngài và làm gì mong đẹp lòng Chúa, để giờ đây con không sống cho con mà là Chúa sống trong con. Tạ ơn Chúa, Con bắt đầu biến đổi:

Con bắt đầu, dự Thánh lễ Misa mỗi sáng lúc 5 giờ, Thánh lễ giờ đây với con rất ý nghĩa, con không còn dùng từ phải đi lễ nữa mà thay vào đó là được dự Thánh lễ, con lắng nghe lời Chúa và cả lời cầu nguyện của Cha, con đáp lời Amen, con hiểu được rước lễ là đón nhận Mình Thánh Chúa, với một tâm tình như một sợi dây ân tình hết sức là thiêng liêng khi đón nhận của Lễ.

Một khám phá mới trong con tiếp theo là trước khi ban bí tích Thánh Thể, Cha có đọc: “Bình an Chúa hằng ở cùng anh chị em – cộng đoàn đáp lại: Và ở cùng Cha – và rồi trong nghi thức Chúa đã phán rằng: Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau” như một lời đánh động Chúa nhắc nhở con: Động thái chúc bình an cho nhau, có nghĩa là mình đã tha thứ cho nhau, yêu thương nhau trước khi đón nhận Tình Yêu từ nơi Chúa, bởi vì không thể có được khi lòng ta muốn đón nhận tình yêu của Chúa, mà lại không muốn yêu thương tha nhân và làm sao mình chúc bình an nếu như lòng còn sự ganh ghét người cạnh bên. Thế là con học được chữ YÊU và THA THỨ từ nơi Chúa qua Bí Tích Thánh Thể (một Bí Tích Tình Yêu). Thật là tuyệt vời khi con nghiệm ra điều này và đây là động lực con tham dự Thánh Lễ sốt mến hơn.

Những khoảnh khắc trống trải hằng đêm và từng đêm con chọn lấy một câu trong bất chợt tin mừng nào, sau khi cầu nguyện Chúa Thánh Thần, rồi thường suy tư chiêm ngắm những mầu nhiệm mà Chúa đã làm cho con người.

Từ ngày theo Chúa, theo chồng, con thấy gánh nặng cuộc sống càng ngày càng nhiều, bổn phận lo cho cha mẹ, chồng con, cuộc sống. Nhưng điều an ủi con là con thấy có Chúa cùng ở với con, cùng đồng hành, nên con thấy bình an. Thập giá có tăng, nhưng ơn Chúa đủ cho con.

Lạy Mẹ Maria, con yếu đuối trước cám dỗ, con mỏng dòn trước các nghịch cảnh, con đường con đi luôn trơ trọi giữa thế gian, nhưng xin cho con được có Thánh Gia dắt dìu.

Lạy Chúa, xin cho con biết chọn lấy mỗi một nẻo về, chỉ một cõi đi về là được về với Chúa, nơi có Chúa đang ngự trị.

Con viết bài này như chưa bao giờ con được viết về Thiên Chúa là Đức Chúa của con, luôn ẩn mình qua Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng con. Mong rằng những điều con chia sẻ là một kinh nghiệm đức tin về Chúa, Chúa thực sự hiện diện, Chúa đang làm việc, đang sống, đang biến đổi con người con. Xin gởi chia sẻ này đến các bạn, cầu mong các bạn hãy là một Ki-Tô-Hữu đừng là người có đạo đơn thuần các bạn nhé!

Chúc Dòng Tên luôn mãi là Dòng Tên trong lòng mọi Ki-Tô-Hữu.

Chúc Thầy được đầy ân sủng Chúa trong ơn gọi.

Chúc các bạn trong lớp Cầu Nguyện Theo Kinh Lạy Cha, được nhiều ơn Thánh Thần, để qua Thần Khí của Chúa sẽ giúp các bạn đến gần Chúa hơn. Amen.

Maria Thu Hồ

Ngày 08/01/2016

Ba nữ tài tử xinh đẹp từ bỏ tất cả để trở thành nữ tu.

Ba nữ tài tử xinh đẹp từ bỏ tất cả để trở thành nữ tu

Làm sao để có một cuộc sống hạnh phúc? Điều gì khiến cuộc sống này đáng sống? Phải chăng đó là tiền tài, danh vọng, thành đạt…? Chúng ta không phủ định rằng những yếu tố kể trên không đem lại hạnh phúc cho con người nhưng nó không phải là tất cả. Và ai trong chúng ta cũng biết, cũng hay và cũng rõ, duy chỉ có Thiên Chúa, chỉ nơi Đức Ki-tô, con người ta mới có được một hạnh phúc tròn đầy và viên mãn.
Và cũng chỉ có cách hiểu như vậy thì chúng ta mới lý giải được lý do khiến ba nữ tài xinh đẹp được nói dưới đây quyết định từ bỏ tất cả để bước vào cánh cổng Tu viện. Họ bỏ lại sau lưng sự nghiệp, tiền tài, danh vọng để theo đuổi hạnh phúc trên con đường dân hiến.
1, Dolores Hart – “Nếu bạn được nghe những gì tôi đã nghe…”
Cô sinh năm 1938 và tên thật là Dolores Hicks. Cô đổi tên thành Dolores Hart khi bắt đầu sự nghiệp diễn xuất của mình từ khi còn rất trẻ. Ở tuổi 18, cô đã là một nữ diễn viên trong vai người yêu của ông hoàng Rock & Roll – Elvis Presley trong bộ phim Loving you. Cô đã nhận được nụ hôn đầu tiên của Elvis trên màn ảnh.
Dolores còn đóng nhiều vai diễn khác nữa trong 9 bộ phim trong vòng 5 năm sau đó. Cô đóng phim cùng các diễn viên nổi tiếng như Stephen Boyd, Montgomery Clift, George Hamilton và Robert Wagner.
Dolores Hart (thời trẻ) và “ông hoàng Rock & Roll” Elvis Presley từng cùng xuất hiện trong hai bộ phim được thực hiện hồi thập niên 1950-1960.
24 tuổi, cô quyết định từ bỏ tất cả để bước vào nhà dòng khi trên đà trở thành một ngôi sao Hollywood. Sau này, cô giải thích rằng, lúc đó cô được đóng vai Thánh Clara trong bộ phim Thánh Phanxico Assisi. Cô đã được gặp Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII tại Ý trong thời gian quay bộ phim. Cô giới thiệu với Ngài rằng: “Thưa Cha, con là Dolores Hart, nữ diễn viên trong vai Thánh Clara”. Ngài trả lời rằng: “Không phải như vậy. Con chính là Thánh Clara thành Assisi.”
Fan hâm mộ và bạn bè của cô đã bị sốc và thậm chí còn phát điên khi họ nghe tin này. Hart nhớ lại: “Thậm chí, người bạn thân nhất của tôi là linh mục, cha Doody, nói rằng: “Cậu thật điên rồ. Quá dại dột khi cậu quyết định như vậy.” Một người bạn của cô còn viết là thư đầy tức tối sau khi cô nhập tu và cố gắng thuyết phục cô ra khỏi nhà dòng. Và cô đã trả lời rằng: “Nếu cậu đã từng nghe thấy những gì tớ được nghe, cậu cũng sẽ làm như tớ, sẽ tới đây mà thôi!”
 
Sơ Dolores Hart hiện nay
2, Olalla Oliveros – “Thiên Chúa chẳng bao giờ lầm…”
Olalla Oliveros là một siêu mẫu nổi tiếng người Tây Ban Nha. Cô cũng là diễn viên, hoạt động trong lĩnh vực gioi trẻ trong nước và quốc tế.
Sau khi ghé tham Fatima, Portugal – một linh địa mà Mẹ Maria đã hiện ra với ba đứa trẻ năm 1917, cô đã bị đánh động. Olalla nói, trong đầu cô hiện lên hình ảnh của mình trong bộ áo dòng giống các nữ tu và một vài điều nữa mà thoạt đầu cô cho là phi lý.
Cô không thể nào bắt theo những hình ảnh đó. Và rồi cô nhận ra rằng, Chúa đang gọi mình. Chúa đang gọi cô từ bỏ cuộc sống hiện tại để trở thành một nữ tu.
“Thiên Chúa chẳng khi nào nhầm lẫn cả”, cô nói. “Ngài hỏi tôi rằng tôi có theo Ngài không và tôi chẳng thể nào chối từ”.
Hiện tại, cô đang sống trong dòng Thánh Micae, một nhà dòng bán kín.
3, Amada Rosa Pérez – “Tôi đang sống trong bình an…”
Amada Rosa Pérez là một trong những siêu mẫu thành đạt và nổi tiếng nhất ở Colombia 10 năm trước đây, trước khi cô “mất tích” khỏi công chúng. Sau 10 năm, cô quay trở lại và giải thích cho mọi người về sự vắng bóng của mình. Cô đã có một cuộc chuyển mình lớn và giờ Amada đang sinh hoạt trong Tu hội Đức Mẹ. (Tuy nhiên, cô không phải là một nữ tu mà chỉ cộng tác trong đó).
Trên đỉnh cao của sự nghiệp, cô được chẩn đoán là mắc bệnh về thính giác. Việc này đã khiến cô tự đặt một câu hỏi về cuộc sống hiện tại của mình. Cô nói: “Tôi cảm thấy tuyệt vọng, mất phương hướng và ngập chìm trong những thú vui thoáng qua… Tôi luôn băn khoăn để tìm kiếm lẽ sống nhưng cuộc đời lại chẳng trả lời giúp tôi.
Giờ đây, cô thường xuyên tham dự Thánh LỄ, đi xưng tội, đọc kinh Mân Côi và kính Lòng Thương Xót Chúa. “Trước đây, tôi luôn trong tình thế gấp gáp, vội vàng, căng thằng là dễ phiền muộn”, cô giải thích. “Thế nhưng, giờ lại khác. Tôi được sống trong bình an, thế gian kia chẳng còn đủ sức để cám dỗ tôi được nữa. Bởi, tôi luôn yên và quý trọng tựng phút giây mà Thiên Chúa ban tặng.”
Cô cũng nhận định là điều gì mới thực sự làm nên một hình tượng “người mẫu”. Cô chán ghét với một hình tượng chỉ được cái vẻ bên ngoài. Thực sự, đó là một thế giới của sự giả tạo, hình thức, dối trá, đạo đức giả và sự lừa gạt. Một xã hộ đầy dẫy những điều vô luân, bạo lực, dâm tục, ma túy, đánh hại nhau, một xã hội tôn thờ tiền tài, tình dục và lừa dối.
“Tôi muốn trở thành một người mẫu, người mà giúp cho nhân phẩm của người phụ nữ được coi trọng chứ không phải là để với mục đích thương mại”.

 

Điều gì Thiên Chúa đã hứa thì Ngài cũng có đủ quyền năng thực hiện

Điều gì Thiên Chúa đã hứa thì Ngài cũng có đủ quyền năng thực hiện

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Nơi một lớp tiểu học có 32 trẻ nữ. Cô giáo tên Gertrude. Cô là nữ cán bộ cộng sản cuồng tín và vô cùng thâm độc. Cô biến lớp học thành nơi đào tạo những đứa trẻ vô thần. Các trẻ là con em của các gia đình Công Giáo. Nhưng vì sợ hãi trước giọng nói chanh chua của cô giáo không một trẻ nào dám hé môi cãi lại.

Trong tư cách Cha Sở họ đạo – với ý thức sâu xa về hiểm họa cộng sản vô thần – tôi thường quy tụ tất cả trẻ em nơi nhà thờ vào mỗi Chúa Nhật để dạy giáo lý cho chúng. Tôi đặc biệt chuẩn bị cho chúng xưng tội và rước lễ lần đầu. Sau đó tôi nhắc nhở và hướng dẫn chúng thường xuyên lãnh hai Bí Tích Thánh Thể và Giải Tội.

Điều đáng nói là cô giáo Gertrude như được quỷ thần trợ lực khiến cô có thể nhận ra tức khắc đứa học trò nào sáng hôm đó đã rước Mình Thánh Chúa! Cô lăng mạ, chửi rủa và không để các trẻ đó một phút yên thân! Trong số các trẻ nữ nổi bật bé Angèle 10 tuổi. Angèle rất thông minh luôn dẫn đầu lớp. Nhưng bé không bị bạn bè ghen tương vì bé ngoan hiền và luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ các bạn.

Một ngày, Angèle đến xin tôi cho phép rước lễ hàng ngày. Tôi hỏi: “Con có biết rõ điều con xin đưa đến hậu quả nào không?”. Bé thưa: “Con nghĩ là cô giáo khó lòng bắt lỗi con. Trái lại, con sẽ học hành chăm chỉ hơn nữa. Ngày nào được rước Đức Chúa GIÊSU ngày đó con cảm thấy có sức mạnh hơn. Rồi Cha bảo con phải làm gương sáng. Mà để làm gương sáng, con cần được Đức Chúa GIÊSU ban cho con sức mạnh!”.

Tôi chấp nhận lời xin của bé Angèle nhưng trong lòng mang nhiều lo lắng.

Kể từ ngày đó, lớp học trở thành hỏa ngục đối với cô bé mảnh khảnh ngoan hiền Angèle. Dầu có thuộc bài, làm bài giỏi giang đến đâu đi nữa, bé vẫn bị cô giáo hết lời nguyền rủa. Angèle trở thành đích điểm lăng mạ của cô giáo. Ngày nào cô bé cũng bị cô giáo gọi lên hạch hỏi đủ chuyện với thâm ý bắt bí khiến bé luôn câm miệng! Thật ra đây chỉ là trò chơi vừa ác độc vừa bần tiện. Bởi lẽ, trong trận chiến, người thắng trận vẫn luôn luôn là cô giáo!

May mắn thay bé Angèle vẫn can đảm đứng vững, ngày ngày đương đầu với sức tấn công vũ bão của cô giáo .. Bỗng nhiên một sớm một chiều, bé Angèle trở thành trẻ nữ nổi tiếng trong làng. Bé là biểu tượng cho sức mạnh tinh thần, cho kho tàng Đức Tin mà hết mọi tín hữu Công Giáo Hung-gia-lợi cố gắng bảo tồn.

Đúng ngày 17 tháng 12 cô giáo Gertrude nghĩ ra một trò chơi ác độc với dụng ý tiêu diệt hoàn toàn tâm tình tôn giáo của các trẻ nữ đối với Lễ Giáng Sinh linh thiêng và trọng đại.

Sáng hôm ấy, như thường lệ, cô gọi bé Angèle lên đứng trên bục. Cô lần lượt chất vấn: “Nếu mẹ em gọi em thì em làm gì?”. Angèle thưa: ”Nếu mẹ gọi thì em đến!”. – “Em đến vì em hiện hữu. Nhưng nếu mẹ gọi ông già râu xanh hay cô bé quàng khăn đỏ thì những người này có đến không?”. Cô giáo hỏi tiếp. Angèle rụt rè trả lời: “Những người này không đến vì họ chỉ là nhân vật trong chuyện thần thoại”. Cô giáo đắc chí nói: ”Em trả lời thật thông minh! Vậy thì, nếu bây giờ em gọi Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng, Chúa có nghe tiếng em không?”. Như được sức mạnh thiêng liêng trợ giúp Angèle mạnh dạn thưa: “Có, em tin là Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng nghe tiếng em gọi!”.

Cô giáo Gertrude hí hửng vì thấy bé Angèle rơi vào tròng thâm hiểm. Cô trịnh trọng nói với cả lớp:

– Bây giờ chúng ta làm thử. Mọi người cùng kêu to: “Xin Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng đến!”. Một, hai, ba …

Cả lớp cúi đầu im lặng như tờ. Cô giáo cười đắc thắng:

– Thấy chưa? Không ai dám gọi vì các em biết rằng Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng không đến! Chúa không đến vì Chúa không hiện hữu, giống y như không có ông già râu xanh hay cô bé quàng khăn đỏ!

Bỗng chốc như được thông truyền sức mạnh, bé Angèle phóng nhanh đến đứng giữa lớp và nói:

– Nào, chúng mình cùng gọi Chúa đến. Tất cả cùng nói: “Xin Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng đến!”

Trong nháy mắt, cả 31 trẻ nữ đồng loạt đứng lên, chắp tay trước ngực và cùng kêu lên:

– Xin Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng đến!

Và phép lạ xảy ra. Mọi ánh sáng trong phòng như dồn về phía cửa ra vào. Cánh cửa từ từ mở ra. Ánh sáng lan rộng rực rỡ và trở thành bầu lửa. Rồi trong bầu lửa xuất hiện Cậu Bé mặc áo trắng tinh. Cậu Bé chỉ mỉm cười khoan dung với các trẻ nữ nhưng không nói lời nào. Sau đó Cậu Bé biến đi cùng với bầu lửa. Cánh cửa từ từ khép lại.

Bỗng một tiếng thét kinh hãi vang lên. Cô giáo Gertrude – đôi mắt lộn trồng, gương mặt thất thần – hét lớn: ”Chúa đã đến! Chúa đã đến thật!”. Thét xong, cô đâm đầu chạy ra khỏi lớp và đóng sập cửa lại!

Câu chuyện đến tai tôi và trong tư cách Linh Mục chánh xứ, tôi có thể quả quyết:

– Chuyện đã thật sự xảy ra đúng theo lời các trẻ nữ kể lại!

Về phần cô giáo Gertrude, cô bị mất trí và được đưa vào nhà thương điên.

 … “Mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông Abraham vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân tộc, như lời THIÊN CHÚA phán: ”Dòng dõi ngươi sẽ đông đảo như thế”. Ông Abraham đã gần 100 tuổi, nhưng ông vẫn vững tin không nao núng, khi nghĩ rằng thân xác ông cũng như dạ bà Sara đều đã chết. Ông đã chẳng mất niềm tin, chẳng chút nghi ngờ lời THIÊN CHÚA hứa; trái lại, nhờ niềm tin, ông đã nên vững mạnh và tôn vinh THIÊN CHÚA, vì ông hoàn toàn xác tín rằng: điều gì THIÊN CHÚA đã hứa thì Ngài cũng có đủ quyền năng thực hiện. Bởi thế, ông được kể là người công chính (Roma 4,18-22).

 (Maria Winowska “Les Voleurs de Dieu”, Editions Saint Paul, 1989, trang 103-113)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

 

Hoa hậu 22 tuổi hướng về Chúa!

Hoa hậu 22 tuổi hướng về Chúa!

Marta An Nguyễn chuyển dịch

Nói chuyện về Đức Giáo hoàng, về Thánh sử Luca, về triết gia Platon với Hoa hậu Thụy Sĩ là chuyện khá kỳ lạ. Vào đầu buổi phỏng vấn, cô Lauriane Sallin e sợ nói, “tôi không phải là chuyên gia về tôn giáo”. Nhưng lời e sợ này được thấy nhanh là không có căn cứ: cô gái Thụy Sĩ có khả năng trải rộng suy nghĩ nhất quán của mình về Chúa, đức tin công giáo và các liên hệ luân lý theo đó – và cả thẩm mỹ nữa.

Nói chuyện về Đức Giáo hoàng, về Thánh sử Luca, về triết gia Platon với Hoa hậu Thụy Sĩ là chuyện khá kỳ lạ. Vào đầu buổi phỏng vấn, cô Lauriane Sallin e sợ nói, “tôi không phải là chuyên gia về tôn giáo”. Nhưng lời e sợ này được thấy nhanh là không có căn cứ: cô gái Thụy Sĩ có khả năng trải rộng suy nghĩ nhất quán của mình về Chúa, đức tin công giáo và các liên hệ luân lý theo đó – và cả thẩm mỹ nữa.
Ngày 7 tháng 11 vừa qua, tại thành phố Bâle, cô được bầu làm tân Hoa hậu Thụy Sĩ. Cô trả lời không che giấu ngay cả hoài nghi và những câu hỏi tò mò. Nếu các câu hỏi về hiện sinh luôn ở trong lòng cô thì đức tin là kết quả của một suy nghĩ phát triển dần qua các thử thách trong đời mà cô gặp, nhất là sau cái chết của người chị cả Gặlle vào mùa xuân vừa qua vì bị ung thư óc.

Cô đã trả lời báo chí về các vấn đề tôn giáo mà cô quan tâm. Cô thấy điều gì hấp dẫn ở đó?

Lauriane Sallin: Về mặt văn hóa, tôn giáo là sợi chỉ mà người ta có thể lần theo đó, qua các thời kỳ, để tiếp cận được với các bối cảnh khác nhau của tư tưởng. Về mặt cá nhân hơn, từ lâu tôi đã tự đặt cho mình các câu hỏi về cuộc hiện sinh. Đã có một thời gian tôi cảm thấy mình đơn độc với loại chất vấn này, và rồi khi đọc sách vở, tôi khám phá ra nhân loại đã không ngừng đối diện với các thực tế này. Và ngay lập tức, tôi cảm thấy mình được bảo bọc che chở.

Những câu hỏi hiện sinh… Những câu hỏi nào?

Đặc biệt là câu hỏi về hạnh phúc và trong suốt thời gian chị tôi bệnh. Dù gặp tất cả những chuyện này, con người có thể có hạnh phúc không? Tôi đã đi qua nhiều giai đoạn khác nhau. Một vài tư tưởng gia cho rằng khái niệm hạnh phúc là không có. Nhưng nếu như vậy thì tại sao người ta sống? Tôi nghĩ hạnh phúc là điều có thể, nhưng phải biết chính xác thế nào là hạnh phúc. Cá nhân tôi, tôi tiếp cận với một vài nguyên tắc đầu tiên của đức tin kitô: sự tôn trọng, tình yêu cho người thân cận – không phải là người cách tôi 6 000 cây số, nhưng người ở bên cạnh tôi.

“Đứng trước cái chết của chị tôi,

tôi không thể cứ ở trong tình trạng tức thời.”

Như thế cô liên hệ vấn đề hạnh phúc với mệnh lệnh phúc âm “hãy thương nhau”?

Đúng. Tôi không thể nào hạnh phúc nếu tôi chỉ nghĩ đến tôi. Trong nhãn quan này, vấn đề tha thứ là chính yếu. Vào dịp lễ Phục Sinh, tôi đi lễ khi tôi còn rất đang giận một người. Lần đầu tiên trong đời, tôi đọc Kinh Lạy Cha mà tôi suy nghĩ từng chữ. “Xin Cha tha nợ cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ con”. Trong hoàn cảnh này, tôi nhận ra tôi có chọn lựa. Tôi có thể nuôi hận thù và làm cho người kia không sống được. Nhưng đó là một việc làm vô tận, oán oán trùng trùng. Người ta có thể ghét ai và ghét suốt đời. Tôi chọn thái độ tha thứ: tôi không muốn mình là người hận thù.

 “Lần đầu tiên trong đời, tôi đọc Kinh Lạy Cha mà tôi suy nghĩ từng chữ tôi đọc”

Như vậy đức tin công giáo là một tiến trình phát triển dần dần?

Trong gia đình tôi, mọi người đều tin nhưng mỗi người mỗi cách. Chúa nhật nào cha tôi cũng đi lễ nhưng chúng tôi không nói với nhau nhiều về chuyện này. Đối với tôi, đức tin không phải là chuyện vì cha mẹ bắt, nhưng đó là một cái gì rất riêng tư. Nó thuộc về tôi. Nó được xây dựng dần dần qua các sách vở tôi đọc, từ các triết gia Aristote, Descartes đến Phúc Âm Thánh Luca. Tôi muốn tìm hiểu Phúc Âm này. Vì thế tôi phải đọc kỹ, nó đòi hỏi tôi phải cố gắng, nhưng đó là cách duy nhất để nắm được ý nghĩa của Phúc Âm.

Tôi cũng nhận ra, tôn giáo giúp tôi có một độ lùi về các sự việc trong một thế giới mà con người thường xuyên phải sống trong tức thời. Có một ngày, một người bạn nói một câu làm tôi chấn động: “Trong mỗi người, có một phần của Nước Chúa trong đó”. Đứng trước cái chết của chị tôi, đích xác là tôi không thể sống tức thời, trong những chuyện mình sống từng giây – vì người sống từng giây là chị tôi, chị sắp chết. Phải nhìn cái gì xa hơn và tư tưởng nhỏ này đã giúp tôi rất nhiều.

Cô không phẫn nộ chống Chúa? Làm sao cô hòa giải được cuộc hiện sinh với cái chết của chị cô?

Tôi không có cảm tưởng Chúa dính gì trong việc chị tôi chết. Mình phải biết mình đang nói chuyện với một Chúa nào. Với tôi, Chúa là khả thể. Chúa là Đấng giúp mình vượt lên. Tôi không hình dung một Thiên Chúa lại đi phạt. Nếu có Chúa, Chúa vượt lên hình phạt.

Thiên Chúa là Đấng giúp chúng ta vượt lên.

Ông biết đó, luật chơi thì rõ ràng: chúng ta sống và như thế thì chúng ta phải chết. Thảm kịch lớn không phải ở đó, nó ở trong ảo ảnh mà mình tự khắc cho mình, để mình tin chắc, mình không chết ở tuổi 24. Chị tôi bị bệnh từ khi chị 14 tuổi. Tôi nói việc này với người lớn và tôi thấy họ bối rối hơn tôi. Họ sợ không dám nói đến chuyện này. Một đứa trẻ, nó nhìn thẳng mọi sự trước mặt. Nó có thể khổ nhưng nó không che cái sợ này bằng cách tránh trong các khái niệm sai. Thế giới này cho rằng tốt hơn nên chết ở nhà già. Như thế là sai!

Bệnh tật là dự phần vào sự sống. Chị tôi đau, tôi không đặt câu hỏi đó là lỗi của ai. Chỉ là mình phải cố gắng sống cho đến giây phút cuối cùng.

Cô có cầu nguyện được không?

Được, nhưng một cách khá đặc biệt. Tôi cầu nguyện khi có chuyện gì khó khăn. Chúa là Đấng giúp chúng ta vượt lên. Từa tựa như trong phim Star Wars, mình có một nội thần lực (cười). Đó là cái nhìn lạc quan. Có những hoàn cảnh cực kỳ khó khăn trong cuộc sống nhưng một “tình trạng tốt nhất” (Optimum) là điều có thể có được. Để được như vậy, tôi cần được giúp đỡ, vì thế tôi cầu nguyện.

Cô có cầu nguyện để được là Hoa hậu Thụy Sĩ không?

Không.

Cô tự giác với đức tin công giáo của mình. Cô nhìn Giáo hội bây giờ như thế nào?

Tôi nghĩ nếu Giáo hội không nói một cách cụ thể những gì xảy ra trong thế giới ngày nay thì Giáo hội không còn tính hữu ích của mình. Trong nghĩa này, Đức Phanxicô là một may mắn cho Giáo hội. Tôi đã đọc Thông điệp “Chúc tụng Chúa” và tôi thấy khái niệm môi sinh toàn diện là cực kỳ hấp dẫn. Đức Phanxicô vượt quá cương vị mà bình thường người ta chỉ định cho một giáo hoàng. Đó là một người có suy nghĩ tự do, không tìm cách làm vừa lòng mọi người. Ngài nhìn những gì đang xảy ra trên thế giới và ngài cố gắng làm một cái gì.

Có một dễ dãi chắc chắn khi tự cho là bất khả tri.

Đôi khi người ta nghĩ một Giáo hội bất biến và thụ động. Đức Phanxicô năng động, ngài làm nhúc nhích mọi sự. Nhờ ngài mà Giáo hội suy nghĩ lại về cương vị của gia đình theo tình trạng ngày nay, chứ không phải như một vài người muốn nó phải là. Khi người ta nghe nói về gia đình tái tạo, về kết hợp đồng tính ở Thượng Hội Đồng thì người ta nghĩ rằng, mọi sự đang nhúc nhích.

Còn về vấn đề hôn nhân, tôi đọc và biết khái niệm của Giáo hội đã tiến triển theo dòng lịch sử. Tôi nghĩ đã có một thời mà hôn nhân đến sau khi sinh con. Và người ta đã chính thức hóa theo đó. Lịch sử dạy cho chúng ta nhiều chuyện.

Bởi vì cô vừa nói đến lịch sử, bây giờ chúng ta trở lại với lịch sử. Từ khởi đầu Kitô giáo, thẩm mỹ đóng một vai trò nền tảng trong Giáo hội. Cô có thấy một liên kết giữa cái đẹp và Chúa không?

Rõ ràng là có. Cái đẹp và sự hài hòa giữa các hình thể, nó luôn lôi cuốn và làm dịu mắt. Cũng như tôi đặt câu hỏi về hạnh phúc, tôi cũng tìm để hiểu cái đẹp là gì. Để nắm được ý nghĩa, phải vượt lên sự tạo hình. Theo tôi, nét đẹp là con đường tiến đến sự hài hòa, tiến đến “tình trạng tốt nhất” (Optimum) như tôi vừa nói ở trên. Nó phải hướng về đó.

Như thế một cô Hoa hậu Thụy Sĩ là như thế nào?

Đó là một cái gì toàn diện, vượt lên sự tạo hình. Thân thể của tôi là một trụ đỡ. Tôi cố gắng là một chút gì như bức phúng dụ để đưa mọi người đi xa hơn.

Về cái gì?

(Im lặng) Tôi muốn chuyển tải sự tự do suy nghĩ. Phải suy nghĩ. Rất nhiều người dính chặt hoặc chống đối cái gì đó chỉ vì nguyên tắc, họ không thể nào giải thích rõ lý do. Trong lãnh vực mà tôi quan tâm, có một sự dễ dãi chắc chắn để tự cho mình theo thuyết bất khả tri. Đó là vòng ảnh hưởng hiện đại ngăn không cho chúng ta biện minh: lúc mà người ta không tin ở Chúa, người ta không cần giải thích.

Như thế đức tin kitô là một loại “lật đổ”?

Gần như vậy. Và nó còn làm tôi thích mười lần hơn: tôi có tinh thần phản biện. Cùng một lúc, tôi cởi mở với việc có một ngày nhận thấy Chúa không tồn tại. Cởi mở đến đó. Tôi không có một sự thật độc quyền, có thể một người vô thần họ có lý của họ. Phận sự của tôi là không được ngừng suy nghĩ.

Lauriane Sallin

Tân Hoa hậu Thụy Sĩ 22 tuổi, người vùng Belfaux, ở hạt Fribourg. Cô học lịch sử nghệ thuật và tiếng Pháp ở Đại học Fribourg. Ngày 7 tháng 11-2015, cô được bầu là người đẹp nhất nước Thụy Sĩ. Một chức vị mà cô tặng ngay cho chị cả Gaelle của cô vừa chết vì ung thư óc mùa xuân vừa qua. Trong cương vị Hoa hậu Thụy Sĩ, cô là người trung gian cho tổ chức Corelina, một hiệp hội giúp các em bé bị bệnh tim.

Marta An Nguyễn chuyển dịch

Ngôi Lời Là Ánh Sáng Ở Giữa Thế Gian Và Thế Gian Nhờ Người Mà Có!

Ngôi Lời Là Ánh Sáng Ở Giữa Thế Gian Và Thế Gian Nhờ Người Mà Có!

 Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

 

Cuộc đời tội lỗi con đã được tẩy rửa trong Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ – RV

 Thầy làm vườn Urbano nói với Cha Giáo Tập Bruno:

– Anh chàng đến xin tu này có dáng điệu trông giống tên côn đồ hơn là kẻ đi tìm kiếm THIÊN CHÚA!

Rồi Thầy ghé tai Cha Bruno thì thầm:

– Cha nên cẩn trọng! Con đang chăm sóc mấy hàng cà chua bên dưới cửa sổ phòng khách. Nếu có gì nguy hiểm, Cha ra hiệu là con đến ngay!

Cha Bruno mỉm cười trả lời:

– Thầy an tâm! Đâu phải ai đến gõ cửa Đan Viện cũng đều phải là Thiên Thần cả! Vã lại, tôi quen việc thẩm định chân giả rồi!

Dầu nghe Cha Giáo Tập nói thế, Thầy làm vườn vẫn còn nghi ngờ. Thầy vặn lại:

– Cha cứ nhìn cái mũi méo xệch của anh ta thì đủ thấy. Sao giống cái tên chuyên nghề đấm đá quá! Do đó ..

Không để Thầy nói hết câu, Cha Bruno cắt ngang:

– Thôi được! Rồi chúng ta sẽ thấy! Vã lại Chúa đâu có phán xét chúng ta theo hình dạng bên ngoài mà theo các việc lành dữ chúng ta làm!

Nói xong, Cha Bruno đứng lên bước đến phòng khách. Nhìn qua cửa sổ, chàng trai quả trông giống một tên cướp! Cha Bruno nhủ thầm:

– Có lẽ Thầy Urbano có lý!

Vừa khi Cha Bruno bước vào, chàng trai giật mình đứng bật dậy như chiếc lò xo và tự giới thiệu cộc lốc:

– Bogdan Grela. Xin chào!

Cha Giáo Tập lịch sự đáp lại:

– Ngợi Khen Đức Chúa GIÊSU KITÔ!

Rồi Cha vui vẻ nói:

– Ơ kìa, anh không biết phải chào như thế nào cho đúng kiểu một tín hữu Công Giáo hay sao?

Sau mấy câu trao đổi, Cha Bruno biết ngay mình đang đối diện với tên đao phủ khét tiếng của nhà tù chính quyền cộng sản vô thần Ba Lan. Chính chàng đã treo cổ Cha Micae, vị Linh Mục bạn thân của Cha Bruno. Nhưng không mấy chốc sau đó, Cha Bruno đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Chàng trai bắt đầu nói với Cha Bruno về những ngày sau cùng của Cha Micae.

Cha Micae không giống bất cứ tử tội nào khác. Cha nhìn cái chết với đôi mắt an bình. Cha không coi con như kẻ thù nhưng như người con, hay đúng hơn, đứa con đáng thương. Một buổi chiều, sau khi phát xong bữa ăn tối, con đi thẳng vào phòng giam và hỏi Cha Micae:

– Ông có chuyện gì vui mà cứ mỉm cười với tôi như thế? Ông không biết là trong vòng 10 ngày nữa người ta sẽ treo cổ ông sao?

Cha Micae bình thản trả lời:

– Bị treo cổ đâu phải là một bất hạnh! Bất hạnh thật chính là sống bất hòa với THIÊN CHÚA!

Cơn giận bốc cao, con nói:

– THIÊN CHÚA ư? .. THIÊN CHÚA cóc cần! Nếu không, sao Chúa ông không can thiệp để ông khỏi bị treo cổ?

Cha Micae vẫn nhẫn nhục nói:

– THIÊN CHÚA không cóc cần đâu! Bằng chứng là để cứu chúng ta, Ngài đã bị treo xác trên Thánh Giá mà!

Nói xong câu này, Cha Micae cất tiếng cười vang! Gương mặt an bình, tiếng cười của Cha Micae làm con càng hăng tiết hơn nữa. Con nói:

– Thánh Giá dành cho ông chứ không phải cho tôi!

Cha Micae càng cười to hơn và nói:

– Thánh Giá chính là cho bạn. Nếu Chúa chết, chính vì bạn mà Chúa chết đó! Bởi vì Ngài yêu bạn!

Những cuộc đối thoại với Cha Micae dần dần làm con hồi tỉnh. Con lần lượt kể cho Cha nghe tất cả tội lỗi tầy trời của con: từ tội trộm cắp đến tội cướp của giết người. Cuộc sống ”dã man rừng rú” ấy biến con thành tên đao phủ lý tưởng cho chính quyền cộng sản vô thần Ba Lan!

Sau khi nghe con kể hết tội trạng, Cha Micae hiền từ nói với con:

– Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ sẽ rửa con sạch mọi tội. Con có bằng lòng lãnh bí tích Giải Tội không?

Dĩ nhiên con chấp nhận ngay.

Ngày hôm trước khi bị treo cổ, Cha Micae gọi con vào phòng giam và nói:

– Con có thể tìm cho Cha một ít rượu trắng và bánh mì Giáng Sinh (bánh mì không men truyền thống Ba Lan mùa Giáng Sinh) không? Cha ước ao cử hành Thánh Lễ cuối cùng trong cuộc đời Linh Mục của Cha!

Con đi tìm ngay rượu bánh và đem đến phòng Cha Micae. Trước khi cử hành Thánh Lễ, Cha Micae ban phép giải tội cho con và ôm hôn con. Con hỏi:

– Sao Cha lại có thể hôn con, một tội nhân đáng ghê tởm?

Cha trả lời:

– Nếu Cha không giống con, không phải vì công lao gì của Cha, nhưng hoàn toàn nhờ ơn Chúa gìn giữ. Con cũng như Cha, chúng ta đều được Chúa cứu chuộc nhờ Lòng Thương Xót vô biên của Chúa!

Trong Thánh Lễ, Cha Micae cũng cho con rước Mình và Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Sau Thánh Lễ, Cha Micae cho con địa chỉ của Cha và bảo con tìm gặp Cha, làm theo tất cả những gì Cha dạy bảo.

Nghe đến đây, Cha Bruno vô cùng xúc động. Cha nói:

– Cha tiếp nhận con như di chúc tinh thần của Cha Micae. Nhưng con nên nhớ kỹ điều này: cuộc đời tội lỗi con đã được tẩy rửa trong Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Từ nay, Cha khuyên con không được kể ra với bất cứ ai khác, ngoại trừ khi con quỳ trước Thánh Giá Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Cha cũng khuyên con không được nghĩ tới dĩ vãng, ngoại trừ để dâng lời cảm tạ hồng ân vô biên THIÊN CHÚA Nhân Từ ban cho con.

 (Câu chuyện xảy ra tại một đan viện ở Ba Lan trong thời kỳ đất nước Ba Lan còn sống dưới ách cai trị độc tài của chính quyền cộng sản vô thần).

 … ”Ngôi Lời là Ánh Sáng thật, Ánh Sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con THIÊN CHÚA. Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi THIÊN CHÚA” (Gioan 1,9-13).

 (Maria Winowska ”Les Voleurs de Dieu”, Editions Saint Paul, 1989, trang 114-121)

 Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Giá Trị Vô Giá Của Đau Khổ

Giá Trị Vô Giá Của Đau Khổ

 Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

 

Con xin dâng những đau khổ của con lên Chúa qua tay Mẹ Rất Thánh của Chúa. Xin Chúa tha tội cho con. Xin cho con được trở về với Chúa

(Chứng từ của ông Phaolô Trần Quang Minh sống tại bang California bên Hoa Kỳ về cuộc đời và cái chết lành thánh của bào tỷ thân yêu)

Cách đây không lâu, tôi qua Úc để gặp mặt chị tôi lần cuối, vì bác sĩ nói cuộc sống của chị chỉ còn đếm từng ngày. Chị tôi có một người con bị bệnh thần kinh và một người chồng rượu chè cờ bạc. Mỗi khi say, anh thường chửi la gây gổ làm cho cuộc sống của chị phải đau khổ rất nhiều. Đến một ngày, chị mệt phải vào nhà thương. Bác sĩ cho biết chị bị ung thư gan, gan không còn làm việc, sẽ chết một ngày rất gần. Nghe tin dữ, chị bị tinh thần sụp đổ, Đức Tin lung lay và bắt đầu than thân trách phận.

Trên đoạn đường từ Mỹ sang Hồng Kông rồi từ Hồng Kông sang Úc, tôi mỏi mệt và buồn ngủ lắm, nhưng luôn cố gắng thức để cầu nguyện. Tôi nhớ đến đoạn đường xa xôi và khổ cực mà Đức Mẹ đã đi, để viếng thăm Bà thánh Isave. Khi vừa gặp Đức Mẹ thì Bà Isave tràn đầy ơn Thánh Thần. Tôi liền nài van, khẩn cầu Đức Mẹ: ”Xin Đức Mẹ hãy chiếm hữu lòng con để con đem ơn Thánh Thần đến cho chị con”.

Đến Úc, tôi vào ngay nhà thương để gặp chị. Câu nói đầu tiên là chị hỏi tôi: ”Em có bắc mối liên hệ được với Chúa không vậy?”. Tôi nhẹ gật đầu. Chị nói tiếp: ”Đời chị sao cứ khổ miết, khổ miết!”.   Tôi ở lại nhà thương để săn sóc chị vì chị bị căn bệnh ung thư hành hạ quá đau đớn. Chị nói với tôi: ”Trước đây, mỗi khi nghe đến trợ tử là chị chống đến cùng. Bây giờ chị mới thấy nó đúng!”. Có lúc chị tuyệt vọng la lên: ”Sao không có lối thoát vậy?”. Tôi xót xa nhìn chị và âm thầm cầu nguyện.

Mấy hôm sau, giờ phút thuận tiện đến. Trong phòng chỉ còn tôi với chị. Tôi quỳ xuống, cầm tay chị rồi nhìn thẳng vào mắt chị và nói: ”Chị không còn thời gian nữa. Chị phải sửa soạn tâm hồn để trở về với Chúa”. Chị trả lời: ”Chị không biết trở về làm sao? Không biết nói gì với Chúa!”. Tôi nói với chị: ”Dễ lắm! Chị có nhớ dụ ngôn người con hoang đàng không? Phúc Âm không kể nó bỏ đi bao lâu, nhưng chắc phải nhiều năm. Ngày ngày người cha nhìn ra xa xăm trông ngóng. Vì vậy khi nó còn ở đàng xa thì cha nó đã thấy nó. Ông chạy tới ôm lấy nó hôn lấy hôn để. Già đâu còn sức để mà chạy, vậy mà ông đã phải chạy”. Chị tôi nói: ”Tại vì ông quá thương nhớ nó”. Tôi tiếp lời chị: ”Hiện tại ngay bây giờ, Chúa cũng đang trông ngóng chị, đang ước ao được ôm chị vào lòng, hôn lấy hôn để”. Nghe đến đây, nét mặt chị tôi lộ vẽ xúc động.

Tôi liền bảo chị: ”Chị hãy nhớ lại tất cả những khổ cực chị đã chịu để lo cho con, cho thằng Nguyên, những khổ cực chị phải chịu với chồng và nhất là những đau khổ của căn bệnh hiện tại chị đang chịu. Chị phải ‘muốn thật là muốn’ nó đã xảy ra cho chị!”. Ơ Hơ!!! Chị tôi trố mắt kinh ngạc nhìn tôi. Tôi giải thích cho chị nghe: ”Chớ thằng trộm dữ nó đâu có muốn đâu, nhưng nó cũng phải vác thập giá, rồi nó cũng chết, rồi nó rơi xuống hỏa ngục”. Nghe đến ”rớt xuống hỏa ngục” thì tôi thấy chị giật mình hoảng sợ. Tôi lại nói tiếp: ”Còn người trộm lành, đâu phải chỉ nhờ vào câu nói với Chúa: ‘Khi nào lên Trời xin Ngài nhớ đến con’ mà ông ta được vào thiên đàng ngay đâu. Ai có tội cũng phải đền tội. Sở dĩ ông được lên thiên đàng ngay là ở câu ông nói với tên trộm dữ: ‘chúng ta bị như vầy là đáng tội’. Câu nói đó có nghĩa là ông ta đã bằng lòng chịu những đau khổ ông đang chịu để đền tội cho những tội lỗi ông đã phạm. Khi chết mình không còn tự do để lựa chọn nữa. Bây giờ còn sống còn tự do, nếu mình thực lòng bằng lòng chịu khổ, chịu nhục, để đền tội, thì khi chết, những đau khổ mình phải chịu dưới luyện ngục, sẽ được giảm đi rất rất là nhiều lần. Vì vậy người trộm lành không còn cần phải xuống luyện ngục để đền tội nữa, vì ông đã đền tội đủ rồi”.

Rồi hai chị em bắt đầu cầu nguyện. Chị chậm rãi lập lại theo tôi: ”Lạy Chúa, lạy Đức Mẹ, con xin bằng lòng chịu tất cả những đau khổ đã xảy ra trong cuộc đời con, đau khổ với chồng, với con và nhất là căn bệnh ung thư đang làm cho con phải đau đớn tột cùng, để đền bù những tội lỗi con đã phạm, làm đau lòng Chúa, làm buồn lòng chồng của con, con của con cũng như anh em con. Con xin dâng tất cả những đau khổ của con lên Chúa qua tay Mẹ Rất Thánh của Chúa. Xin Chúa tha tội cho con. Xin cho con được trở về với Chúa”.

Sau đó chị đã đọc Kinh Ăn Năn Tội chậm rãi, sốt sắng. Niềm Vui và Bình An rạng ngời trên khuôn mặt của chị.

Tôi nói tiếp với chị: ”Còn ông Simon đang đứng coi, bị quân dữ bắt vác đỡ Thánh Giá cho Chúa, nhưng khi kê vai vác rồi thì ông vác rất nhiệt tình”. Vậy chúng ta cùng cầu nguyện: ”Lạy Chúa, con xin lỗi Chúa vì từ bấy lâu nay con chỉ muốn Chúa chia sẻ cho con bình an và hạnh phúc của Chúa, còn những lúc đau khổ thì con để Chúa phải cịu một mình. Xin Chúa cho con từ nay được cùng chia sớt đau khổ với Chúa, được cùng vác Thánh Giá với Chúa”.

Lúc đó tôi ước gì mọi người nhìn thấy được khuôn mặt, ánh mắt của chị khi chị cứ lẩm bẩm lập đi lập lại: ”Cho con được cùng chia sớt đau khổ với Chúa, được cùng vác Thánh Giá với Chúa”. Tôi chưa từng thấy ai cầu nguyện một cách thiết tha, chân thành như vậy. Chị nói: ”Cầu nguyện như vầy tốt quá, từ giờ trở đi, cứ theo những ý này mà cầu!”. Tôi liền nói với chị: ”Những đau khổ chị đang chịu đây, nếu mà là chị chịu, thì chẳng giúp ích gì được cho ai, nhưng nếu là Đức Chúa GIÊSU đang chịu, thì lại là một chuyện hoàn toàn khác, sẽ cứu được rất rất là nhiều linh hồn”.

Rồi chị tôi và tôi cùng cầu nguyện như sau: ”Lạy Chúa, lạy Đức Mẹ, con chỉ là người tội lỗi, hèn hạ, chẳng ra gì, nhưng để chứng tỏ quyền phép của Chúa, không phải Chúa và Mẹ thích dùng những gì hèn hạ nhất, chẳng ra gì nhất, để làm những chuyện lớn lao của Chúa sao? Vậy thì con đây, con xin dâng đời con lên Chúa qua tay Đức Mẹ, từ nay đời con không còn là của con nữa. Con không còn làm chủ cuộc đời con nữa. Con cũng không còn làm theo những gì con muốn nữa. Xin Chúa hãy dùng con để tiếp tục chịu trăm ngàn đau khổ, nhục nhã, xấu hổ một cách vô cùng bất công để đền tội cho nhân loại, để cứu các linh hồn, để làm cho mọi người nhận biết Tình Yêu bao la của Chúa mà trở về cùng Chúa”.

Vài ngày sau, chị kiệt sức. Bác sĩ cũng không hiểu tại sao với liều thuốc morphine tối đa như vậy mà cũng không làm giảm đi chút nào đau đớn của chị. Tôi thấy cứ một chút chị lại yếu ớt đưa tay lên làm dấu Thánh Giá. Và chị đã ra đi trong vòng tay yêu thương của Đức Chúa GIÊSU và Đức Mẹ MARIA.

 … ”Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được. Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ; ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính. Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mátthêu 10,37-42).

 Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Người đẹp thành danh đã từ bỏ tất cả để làm Nữ tu

Người đẹp thành danh đã từ bỏ tất cả để làm Nữ tu

Người đẹp thành danh đã từ bỏ tất cả để làm Nữ tu

Điều gì đem lại hạnh phúc cho con người? Điều gì khiến cho cuộc đời đáng để sống?

Điều gì đem lại hạnh phúc cho con người? Điều gì khiến cho cuộc đời đáng để sống?
Là tiền bạc? Danh vọng? Nổi tiếng? Thành công sự nghiệp?
Tất cả chúng ta đều biết câu trả lời, ngay cả khi chúng ta không thích, đó là không phải tất cả những chuyện trên. Tất cả những chuyện ở trên sẽ chóng qua. Chỉ có một sự, hay chính xác hơn là một người, có thể cho chúng ta hạnh phúc, là Chúa Giêsu Kitô.
Đây là cách duy nhất để hiểu được quyết định của người phụ nữ này. Ngay giữa sự nghiệp thành công, cô đã bỏ tất cả để theo đuổi Chúa Kitô một cách tập trung hơn nữa trong đời sống tu trì.
Tất nhiên, chúng ta có thể theo Chúa Giêsu mà không nhất thiết phải vào dòng tu. Có người có ơn gọi kinh doanh, có người có ơn gọi làm trong ngành giải trí, lập gia đình …. Nhưng có người được kêu gọi sống đời sống tu trì triệt để, và họ là lời nhắc nhở cho chúng ta biết điều gì là thực sự quan trọng nhất.

Olalla Oliveros – ‘Thiên Chúa không bao giờ lầm …’

Olalla Oliveros là một người mẫu thành danh ở Tây Ban Nha, đã đóng nhiều phim và quảng cáo, trong nước cũng như quốc tế.
Rồi cô đến Fatima, và có được một sự theo lời cô là ‘cảm nghiệm động đất.’ Cô nói là cô thấy trong đầu hình ảnh cô mang áo nữ tu, một chuyện mà ban đầu cô xem là khá ngớ ngẩn.
Nhưng cô không thể giũ hình ảnh này ra khỏi đầu. Cuối cùng, cô kết luận là Chúa Giêsu gọi cô từ bỏ cuộc sống huy hoàng hiện thời và trở thành một nữ tu.
Cô đã nhận rằng, ‘Thiên Chúa không bao giờ lầm. Ngài đã ngỏ ý muốn tôi theo ngài, và tôi không thể từ chối.’

Hiện giờ, cô đang ở trong dòng Thánh Michael.
J.B. Thái Hòa chuyển dịch

Mẹ Teresa ‘có phép màu nhiệm thứ hai’

Mẹ Teresa ‘có phép màu nhiệm thứ hai’

AFP

Giáo hoàng Francis đã công nhận phép màu nhiệm thứ hai được cho là do Mẹ Teresa thực hiện, mở đường để vị nữ tu dòng Công giáo La Mã được phong thánh trong năm tới.

Phép màu nhiệm được nhắc tới là việc chữa lành cho một người đàn ông Brazil mắc chứng u não hồi 2008, Vatican nói.

Mẹ Teresa qua đời năm 1997 và đã được ban chân phước vào năm 2013, bước đi đầu tiên dẫn tới việc được phong thánh.

Bà đã được trao giải Nobel Hòa bình vì những gì bà đã làm cho người nghèo trong các khu ổ chuột ở thành phố Kolkata (Calcutta) của Ấn Độ.

“Đức Thánh Cha đã cho phép Bộ Tuyên Thánh La Mã công bố công nhận phép màu nhiệm đã xảy ra từ việc cầu nguyện hồng phước Mẹ Teresa,” Vatican nói hôm thứ Sáu.

Bà được trông đợi là sẽ được phong thánh tại Rome trong tháng Chín tới.

Sơ Christie, phát ngôn nhân của Dòng Thừa sai Bác ái Mẹ Teresa, được thành lập năm 1950, nói với BBC rằng họ vô cùng vinh hạnh trước tin này.

“Hiển nhiên là toàn bộ chúng tôi tại Dòng Thừa sai Bác ái cảm thấy cực kỳ hạnh phúc. Nhưng chúng tôi vẫn chưa có bất cứ kế hoạch nào nhằm ăn mừng lời tuyên bố này,” bà nói.

AP

Một người để được Giáo hội La Mã phong chân phước đòi hỏi phải có một phép màu, còn tiến trình dẫn tới được phong thánh đòi phải có bằng chứng về ít nhất là hai phép màu.

Mẹ Teresa được phong chân phước năm 2003 sau khi Giáo hoàng John Paul II chấp nhận một phép màu được cho là nhờ bà mà có, quả là đúng.

Ngài nói rằng việc một phụ nữ Ấn Độ đã mất đi khối u bất thường là kết quả của sự tác động siêu nhiên của Mẹ Teresa khi đó đã quá cố, điều mà những người theo chủ nghĩa duy lý Ấn Độ tỏ ý không tin.

Không có mấy chi tiết về việc khỏi bệnh của người đàn ông Brazil, người mà Vatican nói là sự sống đã được cứu nhờ phép màu nhiệm thứ hai.

Danh tính của người đàn ông này không được tiết lộ, nhằm duy trì sự trung dung, thận trọng trong quá trình điều tra, Catholic New Agency nói.

Hãng tin tức của Giáo hội nói ông này đã khỏi bệnh u não một cách bất ngờ hồi 2008 sau khi vị tăng lữ của ông cầu xin Mẹ Teresa hãy có lời với Chúa.

Mẹ Teresa, tên thật là Agnes Gonxha Bojaxhi, chào đời tại Skopje, trước thuộc Đế chế Ottoman, nay là Macedonia, vào năm 1910. Gia đình bà là người Albania và là những người Thiên chúa giáo sùng đạo.

Bà đã dành cả cuộc đời cho việc chăm sóc những người nghèo khổ, bệnh tật tại Kolkata.

Tuy nhiên, những người chỉ trích bà thì cáo buộc bà phát triển đạo Công giáo theo đường lối cứng rắn, chấp nhận cả những nhà độc tài và nhận các khoản đóng góp quỹ từ họ.

Những người ủng hộ thì nói việc nhận quỹ là thỏa đáng, chuyện tiền đến từ nguồn gốc nào không quan trọng, bởi tất cả đều được dùng để giúp người nghèo.

Con người sống không có tín ngưỡng tựa như lạc lối trong sương mù

Con người sống không có tín ngưỡng tựa như lạc lối trong sương mù

Đọc & Suy ngẫm

Chính Tâm

Con người, bất kể là ai cuối cùng rồi cũng phải đối mặt với cái chết. Có người sợ hãi tột cùng, có người lại thảnh thơi đối mặt, vậy điều gì quyết định tâm thái của sinh mệnh tại thời điểm quyết định này?

vô thần, tín ngưỡng, niềm tin, Bài chọn lọc,

“Không có tín ngưỡng, lấy gì để cứu vớt linh hồn chính mình và người khác đây”. Ảnh: Internet

Người ta sống trên đời, với một số vấn đề nhất định thì có thể nói mạnh miệng, riêng chỉ khi đối mặt với tử vong thì lại không nói được gì. Dù là nông dân hay trí thức, giàu có hay nghèo hèn, đều sẽ phải một lần đối mặt với vấn đề này. Tại mỗi nền văn hóa khác nhau lại có cách tiếp cận khác nhau.

Với tư cách bác sĩ ngoại khoa, tôi đã rất nhiều lần cùng người thân của bệnh nhân ung thư giấu kín đi bệnh tình của họ, để tránh bản thân người bệnh sau khi biết rõ mắc bệnh nan y tinh thần sẽ sụp đổ.

Đôi khi chúng tôi cũng thử cho người bệnh biết rõ tình trạng của mình, để cho người đó chuẩn bị tinh thần, nhưng kết quả đại đa số người biết được sự thật, tinh thần suy sụp, vốn dĩ có thể sống được nửa năm, lại chỉ sống được một tháng.

Rất nhiều cán bộ lãnh đạo ngày thường hô lớn chủ nghĩa vô thần, tập hợp quần chúng lại để phát biểu, ba hoa khoác lác, nhưng khi mạng sống sắp mất đi lại lo sợ cuống cuồng, chạy vạy khắp nơi mong tìm “phương thuốc” để kéo dài thọ mạng.

Thế nhưng tại phương Tây, nếu không cho người bệnh biết về tình trạng của họ, thì đó là hành vi lừa gạt, hoàn toàn trái pháp luật. Bản thân người bệnh phải biết rõ bệnh tình của chính mình, nhất là bệnh nan y, họ cần biết rõ mình còn sống được bao lâu, như vậy họ có thể làm thêm một vài việc muốn làm lúc cuối đời, tự mình sắp xếp tốt thời gian quý giá còn lại.

Người phương Tây đại đa số là tín đồ Cơ Đốc giáo, họ đối với cái chết tương đối bình tĩnh, tin tưởng sau khi chết linh hồn đi đến Thiên đường hoặc còn có kiếp sau, đối mặt với tử vong cũng không phải sợ hãi.

Họ cũng thường nói: “Bạn chưa thấy qua Thiên đường, bạn có thể cho rằng Thiên đường không tồn tại, nhưng mà bạn cũng chưa từng chết, vậy làm sao bạn dám chắc người chết sẽ không có linh hồn đi tới Thiên đường hay Địa ngục đây?”

Tuyệt đại đa số người trong nước chúng tôi (Trung Quốc) không dám đối mặt với ung thư, chớ nói chi là đối mặt với cái chết, trong cuộc sống  tại điểm cuối của sinh mệnh hầu như ở trong sợ hãi và mờ mịt trôi qua. Cho dù có lời nói dối thiện ý của bác sĩ và người thân, nhưng đối mặt với tình trạng thân thể của mình ngày càng sa sút thì sự sợ hãi của họ càng ngày càng tăng lên.

Cùng là cái chết ấy, có người trong sợ hãi, mờ mịt mà chết đi, có người lại trong ao ước đến Thiên đường cùng mong tưởng tốt đẹp của kiếp sau mà rời khỏi dương gian.

Nhìn thấy người bệnh trong nước sợ hãi trước khi chết, lại thấy nhóm tín đồ Cơ Đốc kia bình tĩnh chờ đợi thời điểm rời khỏi nhân gian, tôi hiểu rõ: “Thì ra thống khổ lớn nhất của bệnh nhân Trung Quốc không phải trên thể xác, mà là ở tâm hồn”.

Khi nghe thấy ai đó có theo tín ngưỡng, đa số nói: “Cái gì đều không tin, chỉ tin tưởng khoa học”. Còn có người nói: “Tín ngưỡng có thể làm gì? Có thể tạo ra cơm ăn sao?”

Thế nhưng mà, với tư cách bác sĩ, tôi chân thành hỏi mọi người một vấn đề: Không có tín ngưỡng, bạn có thể bình tĩnh đối mặt với tử vong hay không? Không có tín ngưỡng, bạn lấy cái gì để cứu vớt linh hồn chính mình và người khác đây?”

Sinh tử không phải nói huênh hoang, người Trung Quốc hiện nay, tôi tự đáy lòng nói rằng: “Chúng ta cần tín ngưỡng, cần tín ngưỡng cao thượng đúng đắn”.

Tác giả: Lisa

Iris, dịch từ Kannewyork