Thánh Columban & Thánh Leonard ở Cảng Maurice

Thánh Columban
(543? – 615)
25 Tháng Mười Một

Thánh Columban là nhà truyền giáo nổi tiếng người Ái Nhĩ Lan, hoạt động ở Âu
Châu. Khi còn là thanh niên, ngài bị đau khổ dữ dội vì sự cám dỗ của xác thịt,
ngài phải xin sự cố vấn của một bà đạo đức sống ẩn tu lâu năm. Qua lời khuyên
bảo của bà, ngài nhìn thấy ơn gọi của mình. Ðầu tiên ngài là một tu sĩ trên đảo
Lough Erne, sau đó ngài theo học tại tu viện Bangor.
Sau nhiều năm sống tách biệt để cầu nguyện, ngài đến xứ Gaul (nước Pháp bây
giờ) để truyền giáo cùng với 12 người bạn. Các ngài được dân chúng quý trọng vì
sự hăng say rao giảng, làm việc tông đồ, và luôn tuân giữ lời khấn bác ái,
trong khi tu sĩ thời ấy thì lười biếng và dân chúng luôn luôn xung đột. Thánh
Columban thiết lập vài tu viện ở Âu Châu mà sau này trở thành các trung tâm tôn
giáo và văn hóa.
Như mọi vị thánh khác, ngài cũng bị chống đối. Cuối cùng ngài phải cầu khẩn
đến đức giáo hoàng để chống với cáo buộc của các giám mục người Pháp, nhằm minh
xác điều ngài giảng dạy là chân thật và chấp thuận các tục lệ của Ái Nhĩ Lan.
Ngài khiển trách nhà vua về đời sống dâm loạn của ông dù đã thành hôn. Do đó,
thánh nhân đã bị trục xuất trở về Ái Nhĩ Lan. Vì bão lớn, tầu của ngài bị mắc
cạn, và ngài lại tiếp tục công việc truyền giáo ở Âu Châu, sau cùng ngài đến
nước Ý, là nơi ngài được tiếp đón ân cần bởi ông vua của người Lombard. Trong
những năm cuối đời, ngài thiết lập một tu viện nổi tiếng ở Bobbio, và cũng là
nơi ngài từ trần. Các văn tự ngài để lại gồm một luận án về sự ăn năn sám hối và
các văn bản chống với bè rối Arian, các bài giảng, thi ca và quy luật tu viện.

Lời Bàn

Sự phóng túng tình dục ngày nay đã đến mức quá độ, chúng ta cần nhớ đến
gương mẫu sống động của những thanh niên sống khiết tịnh như Thánh Columban. Và cuộc sống an nhàn của thế giới Tây Phương ngày nay trái ngược với hình ảnh bi
thảm của hàng triệu người đang chết đói, chúng ta phải chịu khó sống khắc khổ
và có kỷ luật như các tu sĩ Ái Nhĩ Lan. Chúng ta cho rằng, họ quá nghiêm khắc,
họ đi quá xa. Nhưng chúng ta sẽ đi được tới đâu?

Lời Trích

Trong thư gửi cho đức giáo hoàng nói về sự tương tranh ở Lombardy, Thánh
Columban viết: “Chúng con là người Ái Nhĩ Lan, sống ở bên kia quả địa
cầu, là những người theo Thánh Phêrô và Phao-lô và các môn đệ đã viết ra những
quy tắc thiêng liêng dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Chúng con không
chấp nhận những gì khác hơn là giáo huấn và truyền thống tông đồ này… Con thú
nhận là con rất đau lòng vì điều tiếng xấu về ngai tòa Thánh Phêrô ở quốc gia
này… Mặc dù Rôma thật xa cách, nhưng chúng con rất tôn trọng chỉ vì ngai tòa
này… Xin Ðức Thánh Cha hãy để ý đến sự bình an của Giáo Hội, xin ngài đứng
giữa đàn chiên và bầy sói.”
*      *       *       *        *       *       *       *        *        *        *       *       *       *
Thánh Leonard ở Cảng Maurice

(1676-1751)

26 Tháng Mười Một
Thánh Leonard, người được Thánh Alphonsus Liguori gọi là “nhà truyền giáo vĩ đại của thế kỷ 18”, cũng là một tu sĩ Phanxicô cố gắng đến truyền giáo ở Trung Cộng nhưng thất bại, và ngài đã thành công lớn trong một số công việc khác. Cha của Leonard là một thuyền trưởng mà gia đình sinh sống ở cảng Maurice nằm về phía đông bắc của bờ biển nước Ý. Vào lúc 13 tuổi, Leonard đến Rôma sống với người chú là Agostino và học tại trường Roman College. Leonard là một sinh viên giỏi mà cha mẹ muốn ngài theo đuổi ngành y khoa. Tuy nhiên, vào năm 1697, ngài gia nhập dòng
Phanxicô, trái với sự chống đối quyết liệt của người chú. Sau khi thụ phong
linh mục, Leonard bị mắc bệnh lao và được gửi về nhà để tĩnh dưỡng hoặc chờ
chết. Ngài hứa rằng nếu được khỏi bệnh ngài sẽ tận hiến cho việc truyền giáo và
hoán cải kẻ tội lỗi. Không bao lâu, ngài được lành bệnh và bắt đầu quãng đời 40
năm tận tụy rao giảng trong các cuộc tĩnh tâm, trong mùa Chay và trong các cuộc
canh tân giáo xứ (tuần đại phúc) trên toàn nước Ý. Cuộc tĩnh tâm thường kéo dài
từ 15 đến 18 ngày và ngài thường ở lại thêm một tuần nữa để giải tội. Sau những
lần tổ chức tĩnh tâm, để duy trì lòng đạo đức sốt sắng của giáo dân, Cha Leonard thường cổ võ việc Ngắm Ðàng Thánh Giá, mà thời ấy rất ít người tham dự.
Ngài cũng thường rao giảng về Thánh Danh Giêsu. Cha Leonard được phong thánh
vào năm 1867; vào năm 1923, ngài được đặt làm quan thầy cho những ai chuyên đi
giảng về tuần đại phúc.
Lời Bàn
Sự thành công của một người đến rao giảng trong buổi tĩnh tâm thì tùy thuộc vào lòng nhiệt thành của họ có bền bỉ với thời gian hay không. Ðiều khác biệt là sự hoán cải của người tham dự. Ðối với Thánh Leonard, việc Ngắm Ðàng Thánh Giá và xưng tội thường xuyên sẽ giúp  giáo dân giữ được lòng đạo đức mà ngài đã khơi dậy qua lời rao giảng. Lần sau cùng bạn Ngắm Ðàng Thánh Giá là khi nào?
Lời Trích
Có lần Thánh Leonard nói, “Nếu vào lúc tôi chết, Thiên Chúa khiển trách tôi vì quá nhân từ với kẻ tội lỗi, tôi sẽ thưa, ‘Lạy Chúa Giêsu, nếu nhân từ với kẻ tội lỗi là một sai lầm thì đó là sự sai lầm con học được từ Ngài, vì Chúa không bao giờ khiển trách bất cứ ai đến với Ngài để xin được thương xót” (Trích trong cuốn Thánh Leonard ở
Cảng Maurice, t. 9, của Leonard Foley, O.F.M.).
nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Thánh Anrê Dũng Lạc và Các Bạn

Thánh Anrê Dũng Lạc và Các Bạn

24 Tháng Mười Một

Thánh Anrê Dũng Lạc là một trong 117 vị tử đạo ở Việt Nam trong những năm từ 1820 đến 1862. Các ngài được phong chân phước làm bốn đợt, từ 1900 đến 1951. Sau cùng, các ngài được Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong thánh vào năm 1988.

Kitô Giáo được người Bồ Ðào Nha đưa vào Việt Nam qua ba triều đại. Vào năm 1615, các linh mục dòng Tên mở khu hội truyền giáo đầu tiên ở Ðà Nẵng. Ở đây các cha coi sóc các người Công Giáo Nhật Bản bị tống ra khỏi nước.

Vua chúa thời ấy cấm các nhà truyền giáo ngoại quốc không được du nhập vào Việt Nam và họ dụ dỗ người Việt chối đạo bằng cách bước qua thập giá. Giống như thời kỳ cấm đạo ở bên Anh, các linh mục ở Việt Nam cũng phải trốn tránh trong nhà của giáo dân.

Có đến ba lần bắt đạo cực kỳ khủng khiếp trong thế kỷ 19. Kể từ năm 1820, trong sáu thập niên, có khoảng 100,000 đến 300,000 người Công Giáo đã bị giết hoặc bi đầy ải. Trong đợt bách hại đầu tiên các nhà truyền giáo ngoại quốc gồm các linh mục của Tu Hội Thừa Sai Ba Lê, cũng như các linh mục Ða Minh người Tây Ban Nha và các người dòng ba.

Vào năm 1847 xảy ra cuộc bách hại lần thứ hai, khi nhà vua nghi ngờ các vị thừa sai và giáo dân Việt Nam đồng loã với lực lượng phản loạn để giết các con trai của vua.

Các vị tử đạo sau cùng là 17 giáo dân, trong đó có một em 9 tuổi, được tử đạo năm 1862. Chính năm đó một hiệp ước được Việt Nam ký kết với Pháp nhằm đảm bảo sự tự do tôn giáo cho người dân, nhưng hiệp ước đó không được tôn trọng.

Vào năm 1954, có khoảng một triệu rưỡi người Công Giáo — khoảng bảy phần trăm dân số — sống ở miền Bắc. Người Phật Giáo chiếm khoảng 60 phần trăm dân số. Vỉ sự tàn ác của chế độ cộng sản, 670,000 người Công Giáo đã từ bỏ đất đai, nhà cửa và tài sản để di cư vào miền Nam. Sau cuộc chiến Việt Nam, vào năm 1975 cộng sản đã làm chủ toàn thể lãnh thổ quốc gia này.

Lời Bàn

Lịch sử tử đạo của dân tộc Việt giúp cho những ai chỉ biết đến Việt Nam qua cuộc chiến giữa tự do và cộng sản thấy rằng, ngay tự xa xưa, thập giá đã là một phần của đời sống người Việt. Trong khi lý do của sự can thiệp hoặc bỏ rơi của Hoa Kỳ vào vấn đề Việt Nam chưa được giải đáp thỏa đáng, thì chính đức tin Kitô Giáo từng ăn sâu vào lòng đất Việt đã chứng tỏ sự can trường hơn bất cứ sức lực nào muốn tiêu diệt đức tin ấy.

Lời Trích

“Giáo Hội Việt Nam thì sống động và đầy sinh lực, với nhiều giám mục trung tín và hăng hái, và nhiều giáo dân tận tụy và can đảm & Giáo Hội Việt Nam đang sống phúc âm trong một hoàn cảnh khó khăn và phức tạp với một sức mạnh đáng kể” (nhận định của ba vị tổng giám mục Hoa Kỳ sau chuyến thăm viếng Việt Nam vào tháng Giêng 1989).

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

 

Các Thánh Tử đạo Việt Nam

Các Thánh Tử đạo Việt Nam

Ngày 24/11:

Sắc lệnh của Bộ Phụng Tự ký ngày 14.2.1990: “Theo đơn xin của Đức Hồng y
Trịnh văn Căn, Tổng Giám mục Hà Nội, Chủ tịch Hội Đồng Giám mục Việt Nam, đề
ngày 15.10.1989, và theo quyền hạn đã được Đức Thánh cha Gioan Phaolô II uỷ
quyền, Bộ Phụng tự và Bí tích cho phép các giáo hữu tại Việt Nam mừng lễ “Thánh
Anrê Dũng Lạc và các bạn Tử đạo” hằng năm vào ngày 24.11 với bậc Lễ Kính”.

Theo sử liệu, Giáo hội Công giáo Việt Nam có khoảng 130.000 tín hữu được
diễm phúc đổ máu làm chứng cho đạo Chúa trong những thời kỳ bách hại như sau :

– Trịnh – Nguyễn 1745 và 1773: 2 vị

– Cảnh Thịnh năm 1798: 2 vị

– Minh Mạng năm 1820-1840: 50 vị

– Thiệu Trị 1841-1847: 3 vị

– Tự Đức 1848-1883: 58 vị

Trong số tử đạo 130 ngàn người, có 117 vị được phong chân phước trong 4
giai đoạn:

– Đức Lêô XIII phong ngày 27.5.1900: 64 vị

– Đức Piô X phong ngày 20.5.1906: 8 vị

– Đức Piô X phong ngày 2.5.1909: 20 vị

– Đức Piô XII phong ngày 29.4.1951: 25 vị

Trong số này gồm có:

– 8 Giám mục (6 thuộc Dòng Đa Minh, và 2 của Hội Thừa Sai Paris)

– 50 Linh mục (37 Việt Nam, 5 Đa minh, 8 Thừa sai Paris)

– 16 Thầy giảng

– 1 Chủng sinh

– 42 giáo dân thuộc mọi tầng lớp xã hội (công chức, quân nhân, y sĩ, thương
gia, công nhân, nông dân, ngư phủ, trùm họ, lý trưởng…)

Các ngài đã chịu những cực hình khác nhau:

– 79 vị bị xử trảm quyết (chặt đầu)

– 16 vị bị xử giảo (thắt cổ)

– 8 vị chết rũ tù

– 6 vị bị thiêu sinh (bị đốt cháy khi còn sống)

– 4 vị bị lăng trì (chặt tay chân trước khi bị chém đầu)

– 1 vị bị bá đao (lóc 100 miếng thịt trong thân thể)

– 1 vị bị đánh tử thương trong lúc đi đường.

Tất cả 117 vị chân phước này được Đức Thánh cha Gioan Phaolô II phong lên
hàng hiển thánh ngày 19.6.1988 (Cơ mật viện công bố tin ngày 22.6.1987).

Và sau này, thầy giảng Anrê Phú Yên được Đức Thánh cha Gioan Phaolô II
phong chân phước ngày 5.3.2000.

Mừng Lễ Các Thánh Tử đạo Việt Nam, chúng ta xin các ngài cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta biết nghe theo tiếng Chúa và Hội thánh mời gọi, can đảm làm chứng cho Chúa giữa những thử thách đau thương.

Maria Thanh Mai gởi

Thánh Giáo Hoàng Clement I

Thánh Giáo Hoàng Clement I

(c. 101)

23 Tháng Mười Một

Ðức Clement của giáo phận Rôma là người thứ ba kế vị Thánh Phêrô, và cai quản Giáo Hội trong thập niên cuối cùng của thế kỷ thứ nhất. Lịch sử cho chúng ta biết ngài tử đạo
năm 101. Tuy nhiên, chi tiết về sự tử đạo của ngài đều là truyền thuyết, được
góp nhặt trong khoảng thế kỷ thứ tư hay thứ năm. Có lẽ Ðền Thánh Clement ở
Rôma, là một trong những giáo đường đầu tiên ở thành phố này, được xây trên khu
đất xưa là nơi cư ngụ của Thánh Clement. Thư đầu tiên của Thánh Clement gửi cho
giáo đoàn Côrintô được giữ gìn cẩn thận, và bức thư này được phổ biến rộng rãi
trong thời tiên khởi. Ðó là lá thư của Giáo Hội Rôma, tác giả là Ðức Clement,
gửi cho Giáo Hội ở Côrintô về sự chia rẽ đã làm tách biệt giáo dân với giáo sĩ.
Ðức Clement phàn nàn về sự chia rẽ trái phép và vô lý ấy trong Giáo Hội
Côrintô, và ngài khuyên hãy đoàn kết lại. Ngài coi lý do của sự tranh chấp ấy
là vì “đố kỵ và ganh ghét.”

Lời Bàn

Ðức Clement đã chủ  trương dùng đức ái để hàn gắn chia cắt trong Giáo Hội Côrintô, vì “nếu không có đức ái, không có gì làm hài lòng Thiên Chúa.” Sau Công Ðồng
Vatican II, toàn thể Giáo Hội cảm nhận được sự tách biệt giữa mới và cũ. Cầu
mong sao mọi Kitô Hữu ngày nay hãy nhớ đến sự cổ vũ của Thánh Clement mà thể
hiện lời Thánh Phao-lô: “Và trên tất cả những điều ấy hãy có đức yêu thương, đó là giây ràng buộc mọi điều toàn thiện” (Colossê 3:14).

Lời Trích

“Ðức ái kết hợp chúng ta với Thiên Chúa& Trong đức ái không có gì là xấu hổ, không có gì là ngạo mạn. Ðức ái không đi với ly giáo, không nổi loạn, nhưng hài hòa mọi sự. Trong đức ái, những người được Thiên Chúa tuyển chọn sẽ trở nên tuyệt hảo” (Thư Thứ Nhất Gửi Giáo Ðoàn Corinto).

Maria Thanh Mai gởi

 

 

Thánh Cecilia

Thánh Cecilia

22 Tháng Mười Một

(Thế kỷ III)

Mặc dù Thánh Cecilia  là vị tử đạo thời danh trong Giáo Hội Rôma, những câu chuyện quen thuộc về thánh nữ thì không thấy ghi chép trong văn bản chính thức. Vào thời tiên khởi
cũng không thấy dấu vết của sự tôn kính ngài. Chỉ có một mảnh đá thời thế kỷ thứ tư có ghi khắc tên của một nhà thờ mang tên thánh nữ, và ngày lễ kính được cử hành vào khoảng năm 545.

Theo truyền thuyết, Cecilia là một  thiếu nữ Kitô Giáo của giai cấp quyền quý kết hôn với một người La Mã tên là Valerian. Cecilia mặc áo nhặm, ăn chay, và thường cầu khẩn các thánh, các thiên thần, các trinh nữ xin họ gìn giữ sự trinh tiết của ngài. Và thánh nữ nói với
đức lang quân, ” Em sẽ tiết lộ cho anh một sự thật, nhưng anh phải hứa đừng nói với ai.” Và khi ông hứa, ngài nói: “Có một thiên thần luôn trông chừng em, và gìn giữ em khỏi bị ai đụng chạm đến.” Ông nói, “Em yêu dấu, nếu đó là sự thật, hãy cho anh thấy vị thiên thần ấy,” và ngài trả lời, “Anh chỉ có thể thấy nếu anh tin vào Thiên Chúa, và được rửa tội.”

Ngài gửi đức lang quân đến gặp Thánh Giáo Hoàng Urbanô để được rửa tội; và khi ông trở về nhà, ông thấy Cecilia đang cầu nguyện trong phòng, và cạnh đó là một thiên thần với đôi cánh rực lửa, tay cầm hai triều thiên bằng hoa hồng và hoa huệ đặt trên đầu của hai người, và biến đi. Sau đó, Tibertius, người em của Valerian, bước vào phòng và ông ngạc
nhiên khi ngửi thấy mùi hoa nồng nàn cũng như vẻ mỹ miều của các bông hoa.

Khi ông này được kể cho biết các chi tiết của câu chuyện, ông cũng muốn được rửa tội. Sau đó, cả hai anh em ông tận tụy hy sinh chôn cất các vị tử đạo mà thời ấy xảy ra hàng ngày, dưới quyền tổng trấn Turcius Almachius. [Không có tổng trấn nào mang tên này cả]. Họ bị bắt và bị đưa ra trước quan tổng trấn, và khi họ từ chối thờ cúng các tà thần họ đã bị
chém đầu.

Trong khi đó, Thánh Cecilia, qua lời rao giảng ngài đã đưa bốn trăm người trở lại đạo và được Ðức Giáo Hoàng Urbanô rửa tội. Sau đó thánh nữ bị bắt, và bị xử tử bằng cách trấn nước cho đến chết. Ngài bị dìm trong bồn nước một ngày một đêm, sau đó quan cho nổi lửa đun sôi bồn nước, nhưng thánh nữ không hề hấn gì. Khi tổng trấn Almachius nghe biết
điều này, ông sai người đến chặt đầu thánh nữ ngay trong bồn nước. Lý hình chém đến ba lần mà đầu thánh nữ vẫn chưa đứt. Hắn để mặc cho máu tuôn đổ. Ðám đông đổ xô đến để thấm máu trong khi ngài vẫn rao giảng cho họ. Ba ngày sau, ngài trút hơi thở cuối cùng, và được Ðức Giáo Hoàng Urbanô và các phó tế chôn cất.

Vào thời Phục Hưng, người ta thường vẽ ngài với đàn vĩ cầm và phong cầm nhỏ.

Lời Bàn

Như bất cứ Kitô Hữu tốt lành nào  khác, Thánh Cecilia dùng miệng lưỡi để ca ngợi Thiên Chúa với tất cả tấm lòng. Ngài tiêu biểu cho sự tin tưởng của Giáo Hội rằng thánh nhạc là một phần căn bản trong phụng vụ, có giá trị lớn lao hơn bất cứ nghệ thuật nào khác. Trong
thời đại hỗn độn của âm nhạc ngày nay, có lẽ chúng ta cần đọc lại những lời của Công Ðồng Vatican II dưới đây.

Lời Trích

“Hành động phụng vụ thêm cao quý khi các nghi thức thánh được âm nhạc trang trọng hóa, với sự phụ giúp của các thừa tác viên chức thánh và sự tham dự của giáo đoàn… Phải luôn luôn khuyến khích các ca đoàn, nhưng các giám mục và cha sở phải để ý rằng, bất cứ
lúc nào phụng vụ được cử hành với thánh nhạc, toàn thể giáo đoàn phải có thể góp phần tham dự cách tích cực vì đó là quyền lợi của họ… Bình ca phải có vị trí xứng đáng trong các nghi lễ, so với các loại nhạc khác. Nhưng điều đó không có nghĩa gạt bỏ các loại thánh nhạc khác, nhất là loại đa âm điệu… Thánh ca dành cho giáo dân phải khéo léo chọn lựa, để trong việc phụng tự và nghi lễ, họ có thể cùng góp tiếng hát”
(Sắc Lệnh Về Phụng Vụ, 112-118).

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Thánh Rose Philippine Duchesne

Thánh Rose Philippine Duchesne

(1769-1852)

18 Tháng Mười Một
Sinh ở Grenoble, nước Pháp, trong một gia đình giầu có, Philippine hấp thụ năng
khiếu chính trị từ người cha và nơi người mẹ ngài học được sự thương yêu người
nghèo. Về tính tình, chính yếu ngài là một người cương quyết với ý chí bất
khuất, mà sau này tính khí ấy đã giúp ngài trở nên thánh thiện. Ngài gia nhập
tu viện năm 19 tuổi mà không nói với cha mẹ một lời, và dù gia đình có chống
đối, ngài vẫn cương quyết đi tu. Khi cuộc Cách Mạng Pháp bùng nổ, tu viện phải
đóng cửa, ngài quay sang chăm sóc người nghèo và người đau yếu, mở lớp dạy các
trẻ bụi đời và liều mình giúp đỡ các linh mục đang hoạt động âm thầm.
Khi tình thế lắng dịu, chính ngài thuê lại tu viện cũ, đã đổ nát vì chiến tranh, cốt để làm sống lại sinh hoạt nhà dòng. Chiến tranh đã tàn phá không chỉ vật chất mà còn ảnh
hưởng đến đời sống tâm linh. Nhà dòng chỉ còn lại bốn nữ tu. Sau đó họ gia nhập
Tu Hội Thánh Tâm mới được thành lập, mà vị bề trên trẻ tuổi, Thánh Madeleine
Sophie Barat, trở nên một người bạn trong suốt cuộc đời của sơ Philippine. Một
thời gian ngắn sau đó, sơ Philippine làm bề trên nhà dòng và làm hiệu trưởng
một trường học. Nhưng mơ ước của ngài ngay từ khi còn nhỏ, lúc được nghe biết
về công cuộc truyền giáo ở Louisiana, là sang Hoa Kỳ phục vụ người da đỏ. Ngài
thực hiện tham vọng này khi 49 tuổi.
Cùng với bốn nữ tu, ngài lênh đênh trên biển 11 tuần lễ để đến New Orleans, và sau đó họ phải xuôi giòng Mississippi thêm bảy tuần lễ nữa để đến St. Louis. Ðến nơi, ngài chỉ gặp
toàn thất vọng. Ðức giám mục địa phương không có chỗ cho các sơ tá túc để hoạt
động cho người thổ dân Hoa Kỳ. Thay vào đó, đức cha lại sai các sơ đến một nơi
mà ngài gọi là “làng hẻo lánh nhất Hoa Kỳ,” đó là St. Charles, Missouri. Tuy nhiên, với bản tính dũng cảm sơ Philippine đã thiết lập trường học miễn phí đầu tiên cho các thiếu nữ ở vùng tả ngạn sông Mississippi.
Nhưng đó là một sai lầm. Mặc dù các ngài làm việc quần quật như bất cứ người phụ nữ nào trong thời kỳ khẩn hoang phải rong ruổi trên các toa xe ngựa viễn tây, sự đói khát và lạnh
giá đã đẩy các ngài ra khỏi vùng, lưu lạc đến Florissant, Missouri, là nơi ngài thiết lập trường Công Giáo Da Ðỏ đầu tiên. Phải là một nữ anh thư như Mẹ Philippine Duchesne mới kinh qua được những hành trình khủng khiếp trong thời gian truyền giáo. Louis E. Callan, người tìm hiểu về Mẹ Duchesne đã viết: “Trong thập niên đầu khi Mẹ Duchesne đến Hoa Kỳ, trên thực tế ngài đã phải chịu đựng mọi gian khổ của một người khẩn hoang, ngoại trừ sự đe dọa của người da đỏ — không có chỗ ở, thiếu thốn thực phẩm, nước uống, dầu đốt, tiền bạc, thời tiết thay đổi thất thường, thiếu thốn mọi tiện nghi, và sự ngỗ nghịch của các trẻ em vì sống trong môi trường thô bạo và ít được giáo dục”.
Sau cùng, vào lúc  71 tuổi, với sức khoẻ yếu kém và mệt mỏi, ngài đã hoàn thành ước mơ. Một xứ đạo được thành hình ở Sugar Creek, Kansas, giữa những người thổ dân Potawatomi. Mặc dù ngài không thể học được tiếng bản xứ, nhưng người thổ dân gọi ngài là “Bà Luôn Cầu Nguyện”. Trong khi người khác học hỏi thì ngài cầu nguyện. Người ta kể rằng các trẻ em da đỏ nghịch ngợm, lén ra đằng sau lưng ngài khi đang cầu nguyện để ném lên áo những mẩu giấy, và vài tiếng đồng hồ sau chúng trở lại, các mẩu giấy ấy vẫn còn dính trên áo.
Ngài từ trần năm 1852 lúc 83 tuổi, và được Ðức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II phong thánh năm 1988.
Lời Bàn
Ơn Chúa đã trui rèn ý chí sắt đá và sự quyết tâm của Mẹ Duchesne để trở thành một người khiêm tốn và vị tha, không muốn sự an nhàn của một đấng bề trên. Tuy nhiên, người ta chỉ
nên thánh bởi sự trau dồi theo thời gian. Truyện kể rằng trong một cuộc tranh luận với vị linh mục về sự thay đổi nơi cung thánh, ngài cứng đầu đến nỗi vị linh mục phải đe dọa lấy đi nhà tạm thì ngài mới thôi. Nhưng ngài đã kiên nhẫn chịu đựng sự chỉ trích của các nữ tu trẻ cho rằng ngài thiếu cấp tiến. Qua tất cả các biến cố trong quãng đời 31 năm ấy, ngài có được một tình yêu bất khuất và đã trung thành tuân giữ lời khấn của ngài.
Lời Trích
“Chúng tôi chỉ làm được những điều rất nhỏ trong cánh đồng truyền giáo cho Ðức Kitô, nhưng chúng tôi yêu quý điều ấy, vì biết rằng Thiên Chúa không đòi hỏi phải thành đạt những công trình lớn lao, nhưng Người muốn một con tim dâng hiến tất cả, không giữ lại chút gì cho mình… Thập giá đích thực là thập giá mà chúng ta không tự chọn cho
mình… Người có được Ðức Giêsu là có được tất cả”
(Thánh Rose Philippine Duchesne)
nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Thánh Agnes ở Assisi

Thánh Agnes ở Assisi

(1197-1253)

19 Tháng Mười Một

Thánh Agnes là em ruột và là người đầu tiên theo Thánh Clara. Sau khi Clara bỏ nhà đi tu thì hai tuần sau, Agnes cũng bỏ nhà đi theo chị mình. Gia đình các ngài tìm cách ép
buộc đưa Agnes về. Họ cố lôi ngài ra khỏi tu viện, nhưng thật lạ lùng thân thể của ngài bỗng dưng nặng trĩu khiến vài người đàn ông cũng không thể nhấc nổi. Người chú của ngài là Monaldo định đánh ngài nhưng bỗng dưng ông bị tê liệt. Sau đó họ phải để cho các ngài yên.

Agnes không thua gì người chị của mình trong việc cầu nguyện và hy sinh hãm mình trong thời gian ở San Damiano. Năm 1221, một nhóm nữ tu dòng Biển Ðức ở Monticelli (gần Florence) xin được trở thành các nữ tu Clara Nghèo Hèn. Thánh Phanxicô gửi Agnes đến làm tu viện trưởng của tu viện này. Sau khi thiết lập các tu viện Clara Nghèo Hèn ở vùng bắc nước Ý, Agnes được gọi về San Damiano năm 1253, khi Clara sắp sửa từ trần.

Ba tháng sau khi Clara từ trần, Agnes cũng đi theo chị mình.

Thánh Agnes được phong thánh năm 1753.

Lời Bàn

Thiên Chúa chắc hẳn phải ưa thích cảnh trớ trêu, vì thế giới đầy dẫy những điều ngược đời. Vào năm 1212, ở Assisi chắc hẳn nhiều người nghĩ rằng Thánh Clara và Agnes đã uổng phí
cuộc đời khi các ngài quay lưng lại thế gian. Trên thực tế, cuộc đời của các ngài thực sự đã đem lại sức sống dồi dào, và thế giới được phong phú hơn nhờ gương mẫu của các vị tu sĩ nghèo hèn ấy.

Lời Trích

Charles de Foucald, sáng lập tu hội Tiểu Ðệ và Tiểu Muội của Chúa Giêsu, có viết: “Người ta phải trải qua sự cô độc và thực sự sống ở đó để nhận được ơn sủng của Thiên Chúa. Chính ở đó mà họ từ bỏ tất cả, gạt bỏ tất cả những gì không thuộc về Thiên Chúa, có như thế họ mới dọn được căn nhà linh hồn chỉ để một mình Chúa ngự. Khi làm như vậy, đừng sợ phản bội loài người. Ngược lại, đó là phương cách duy nhất mà bạn có thể phục vụ họ cách hữu
hiệu”
(Raphaen Brown, Franciscan Mystic, t. 126).

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

 

 

 

Thánh Albertô cả: Giám mục, Tiến sĩ Hội thánh

Thánh Albertô cả: Giám mục, Tiến sĩ Hội thánh

Ngày 15/11

 

Thánh Albertô là một người thuộc thế hệ đầu của dòng Đaminh, được thành
lập năm 1216. Ngài góp phần lớn trong những tiến triển quan trọng về trí thức
trong thế kỷ XIII. Đức Giáo hoàng Piô XII năm 1941 đã đặt Ngài làm thánh bảo
trợ cho những ai say mê nghiên cứu các khoa học tự nhiên. Ngài sinh tại Swabia
có lẽ vào năm 1206, là con trưởng thuộc một gia đình quí phái trong binh
nghiệp. Điều người ta biết rõ về chàng thiếu niên người Đức này là lòng yêu
thích nghiên cứu học hành và thiên nhiên. Khi thì Ngài học với các thầy dòng
Bênêdictô, khi thì Ngài lạc lõng trong miền quê, say mê quan sát cây cỏ khám
phá các loại cây và để cho năng khiếu chín mùi trước cảnh sắc của tạo hóa. Cuối
cùng Albertô đã bỏ rơi truyền thống hiệp sĩ của gia đình. Một người cậu đã dẫn
Albertô tới Bologne để hoàn tất việc học hành. Ngài nghe một bài giảng của chân
phước Jordain miền Saxe thuộc dòng Đaminh và cảm thấy được Chúa gọi, nhưng lại
ngập ngừng vì mới 16 tuổi. Ông cậu muốn Albertô quên đi ý tưởng này. Nhưng ở
Padua, Albertô gặp lại chân phước Jordain và sau một cuộc đàm thoại, Albertô đã
nói với thầy Jordain:

– Thưa thầy ai đã tỏ lộ lòng con cho Ngài ?

Từ đây không ai ngăn cản nổi ơn kêu gọi của Albertô nữa. Ngài vào nhà tập
dòng anh em giảng thuyết. Lời cầu nguyện của Ngài diễn tả một ước muốn sống tự
thoát:

– “Lạy Chúa Giêsu Kitô, con kêu lên Chúa, xin Chúa đừng để con bị quyến
rũ bởi những lời hão huyền về danh giá gia đình, về uy thế của dòng tu, về sự
lôi cuốn của khoa học”.

Dưới ánh sáng chân lý Ngài đã tuân theo, Albertô nhiệt thành nghiên cứu
khoa học và trở thành tu sĩ thánh thiện, nhà tư tưởng lớn, giáo sư siêu việt,
nhà sưu tầm bách khoa tài ba. Ngài có sự hiểu biết uyên bác đặc biệt như một số
những nhà trí thức lớn thời Trung cổ.

Luôn luôn tìm gia tăng những hiểu biết, Albertô rảo qua khắp nước Đức,
thu thập những ý niệm về các loại súc vật cây cỏ, trước tác những tác phẩm về
khoa học tự nhiên. Ngài quan tâm tới các thuyết của Aristote và tìm cách Kitô
hóa các lý thuyết đó. Ngài lần lượt dạy học tại Cvologne, Pribourg, Ratisbonne,
Strasbourg.

Khoảng năm 1240, Ngài tới Paris, làm giáo sư tại đây. Các lớp học quá nhỏ
không đủ để dung nạp hết các thính giả của Ngài, Ngài phải dạy họ tại công
trường nay vẫn còn giữ tên Ngài: công trường Maubert hay Albertô cả. Lời Ngài
có uy tín đến nỗi để chấm dứt cuộc tranh luận chỉ cần nói: “Thầy Albertô đã nói
vậy”. Tài năng Ngài lan rộng tại đại học Paris, đại học danh tiếng nhất thế
giới. Ngài trú ngụ tại nhà dòng thánh Giacôbê, viết nhiều tác phẩm về nhiều đề
tài khác nhau: thần học, toán học, luân lý, chính trị, triết học, hình học, địa
chất học.

Vua thánh Louis tỏ tình nghĩa với thầy dòng thời danh này và trao cho
Ngài nhiều kỷ vật quí báu trước khi Ngài về Đức, bởi vì thánh Albertô được đặt
làm Giám tỉnh. Vâng lệnh Đức Giáo hoàng, Ngài giã từ căn phòng sách vở và học
trò, suốt ba năm Ngài đi bộ, không tiền của, ăn xin để thăm các nhà dòng và lập
nhiều nhà mới. Rôma mời Ngài về làm sáng tỏ cuộc tranh cãi giữa các giáo sĩ.
Albertô được một thời an bình trong dòng để dạy học, viết lại những quan sát và
suy tư của mình. Nhưng Đức Giáo hoàng buộc Ngài nhậm chức Đức Giám mục
Ratisbonne, một trách vụ nặng nề. Trong trung tâm giàu có phồn thịnh này, người
ta kể lại rằng: Đức Giám mục không có lấy “một đồng tiền trong két, một giọt
rượu trong hầm, một nhúm bột trong vựa”. Dầu vậy, thánh Albertô vẫn trả hết nợ
và xây dựng một nhà thương. Khi đã hoàn thành công cuộc hết sức có thể, Ngài
xin từ chức để trở lại đời sống một tu sĩ đơn giản. Năm 1623 theo lệnh Đức Giáo
hoàng, Ngài đi kêu gọi nghĩa binh trong các làng quê nước Đức.

Một năm sau Đức Giáo hoàng qua đời và Ngài ngừng công việc lại. Thánh
Albertô thấy cần được hồi tâm. Ngài lui về tu viện Surtzbourg, miệt mài với
việc nghiên cứu và giàn xếp những cuộc tranh luận. Một lần nữa Ngài lại được
rảo qua các đô thị lớn nước Đức, Ngài thánh hiến các thánh đường, truyền chức
cho các giáo sĩ. Năm 1270 Ngài đến dạy tại Cologne. Ở Công đồng Lyon, Ngài bênh
vực Rodolphe I miền Habbsourg. Bảy năm sau, tức năm 1277, dầu đã già Ngài buộc
phải đi Paris để bênh vực cho giáo thuyết của học trò mình là Tôma Aquinô.

Albertô chọn cho mình một phần mộ trong dòng và mỗi ngày đến đọc kinh
nhật tụng cầu cho kẻ chết, để cầu cho chính mình.

Ngài qua đời êm ái tại phòng riêng giữa các anh em đầy chung quanh, Ngài
được phong làm tiến sĩ Hội Thánh năm 1931.

Mừng lễ thánh Anbertô cả, một lời nhắc nhở chúng ta hãy dùng khả năng, tài lực của mình như những nén bạc Chúa trao, để biết sinh lời theo đúng ý Chúa.

Maria Thanh Mai gởi

Vị Ðáng Kính Solanus Casey

Vị Ðáng Kính Solanus Casey

(1870-1957)

5 Tháng Mười Mt
Barney Casey là một linh mục nổi tiếng ở Detroit, Hoa Kỳ, dù rằng ngài không được phép
giảng và giải tội!
Barney xuất thân từ một gia đình ở Oak Grove, tiểu bang Wisconsin. Khi 21 tuổi, và sau
khi đã trải qua các công việc sinh nhai như đốn củi, giúp việc ở bệnh viện, tài xế xe công cộng và cai tù, ngài gia nhập Chủng Viện Phanxicô ở Milwaukee — nhưng không theo đuổi nổi vì việc học quá khó khăn đối với ngài. Ðến năm 1896, ngài gia nhập dòng Capuchin ở Detroit, lấy tên là Solanus. Một lần nữa, ngài phải vất vả với việc học.
Ngày 24-7-1904, ngài được thụ phong linh mục, nhưng vì kiến thức thần học được coi
là quá yếu nên Cha Solanus không được phép giảng và nghe xưng tội. Một tu sĩ
Capuchin biết rõ về ngài cho biết sự ngăn cấm khó chịu đó “đã khiến ngài trở nên cao cả và thánh thiện.” Trong 14 năm làm người gác cổng và dọn lễ ở Yonkers, Nữu Ước, dân chúng nhận ra tài ăn nói của ngài.
James Derum, người viết tiểu sử của ngài cho biết, “Dù ngài bị cấm không được
giảng dạy về tín lý, nhưng ngài có thể xuất khẩu những tư tưởng mà các cha
Capuchin gọi là feverino”. Nhiệt huyết tinh thần của ngài đã khiến người
nghe phải kinh ngạc.
Cha Solanus phục vụ tại các giáo xứ ở Manhattan và Harlem trước khi trở về Detroit,
là nơi ngài giữ việc gác cổng và dọn lễ trong vòng 20 năm ở Tu Viện Thánh
Bonaventura. Mỗi chiều thứ Tư hàng tuần ngài thi hành công việc mục vụ cho các
người bệnh. Một cộng tác viên cho biết, trung bình từ 150 đến 200 người chờ đợi
Cha Solanus ở văn phòng. Hầu hết người ta đến để xin cha ban phép lành, và
khoảng 40 đến 50 người xin lời khuyên bảo của cha. Nhiều người coi ngài là một
khí cụ của Thiên Chúa trong việc chữa lành và nhiều ơn khác. Họ nhận thấy sức
mạnh của sự cầu nguyện của ngài, một người có đức tin mạnh mẽ.
Những lời Cha Solanus chia sẻ về Thiên Chúa đã khích động các người nghe. Câu nói phổ
thông của ngài là “Hãy chúc tụng Thiên Chúa vì tất cả những công trình của
Người.”
Nhiều bạn hữu của Cha Solanus đã giúp dòng Capuchin mở nhà phát chẩn cho người nghèo
trong thời kỳ Ðại Khủng Hoảng. Và cho đến ngày nay sinh hoạt đó vẫn tiếp tục.
Vào năm 1946, vì sức khỏe yếu kém, Cha Solanus được thuyên chuyển về đệ tử viện
Capuchin ở Huntington, bang Indiana, là nơi ngài sống cho đến năm 1956. Ngài từ
trần ngày 31-7-1957 tại bệnh viện ở Detroit. Lời cuối cùng ngài thốt lên là:
“Con phó linh hồn con cho Chúa.” Người ta ước lượng khoảng 20,000
người đã đến viếng thi hài của ngài trước khi được mai táng trong nhà thờ Thánh
Bonaventura ở Detroit.
Vào năm 1960, một tổ chức lấy tên Cha Solanus được thành lập ở Detroit để giúp đỡ
chủng viện Capuchin. Vào năm 1967 tổ chức này có đến 5,000 hội viên – mà nhiều
người đã từng được ngài khuyên bảo cũng như an ủi. Ngài được tuyên xưng Ðáng
Kính vào năm 1995.
Lời Bàn
James Patrick Derum, người viết tiểu sử Cha Solanus nói rằng ngài kiệt quệ vì gánh
nặng của những người ngài phục vụ. “Ðã từ lâu, ngài hiểu rõ chân lý của lời Ðức Kitô là tình yêu Thiên Chúa và tha nhân hệ tại ở hành động. Sống chân lý này một cách nhiệt
thành và liên tục đã khiến ngài trở nên một con người tự do về tinh thần —
không bị nô lệ bởi những đam mê, bởi cái tôi, bởi lạc thú, và bởi sự than van
— để tự do phục vụ Thiên Chúa và đồng loại”
(Người Giữ Cửa Nhà Thờ
Thánh Bonaventura, trang 199).
Lời Trích
Trong một lá thư gửi cho người em là Cha Maurice Casey khi làm việc trong một bệnh xá
gần Baltimore và cảm thấy khó chịu với vị tuyên uý nhà thương này, Cha Solanus
viết: “Thiên Chúa đã có thể thiết lập Giáo Hội với sự trông coi của các thiên thần để không có gì sai trái hay khiếm khuyết. Nhưng Giáo Hội, như hiện nay, bao gồm và dưới sự trông
coi của những người tội lỗi tầm thường — kế vị ‘người đánh cá tầm thường ở
Galilê’ — thì ai có thể hồ nghi rằng, chính Giáo Hội là một phép lạ vĩ đại?”
nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Hạnh các thánh tháng 11

Hạnh các thánh tháng 11

 

1/11 – Lễ các Thánh

Lễ các thánh sớm nhất từ đầu thế kỷ IV là lễ tưởng niệm các vị tử đạo. Đầu thế kỷ VII, sau khi những kẻ xâm lăng cướp phá các hầm mộ, ĐGH Boniface IV thu gom khoảng 28 toa xe lửa xương và cải đưa về để ở bên dưới đền Pantheon (đền thờ chư thần ở Rôma). ĐGH thánh hiến đền này thành đền thờ Kitô giáo. Bậc đáng kính Bede, ĐGH muốn rằng việc kính nhớ các thánh được tôn kính ở nơi mà trước đây đã được dùng để thờ ma quỷ.

Nhưng việc tái dâng hiến đền Pantheon, cũng như việc tôn kính các vị tử đạo, xảy ra vào tháng Năm. Nhiều giáo hội Đông phương vẫn tôn kính các thánh vào mùa xuân, trong mùa Phục sinh hoặc ngay sau lễ Hiện Xuống.

Tại sao giáo hội Tây phương mừng lễ các thánh vào thánh 11 là vấn đề khó hiểu đối với các sử gia. Thần học gia Alcuin cho là lễ các thánh có từ ngày 1-11-800, như bạn của ông là ĐGM Arno, giám mục GP Salzburg, đã làm. Cuối cùng, Rôma theo ngày này từ thế kỷ IX.

2/11 – Lễ cầu cho các linh hồn

Giáo hội khuyến khích cầu nguyện cho những người đã qua đời từ thời Kitô giáo làm việc bác ái. Thánh Augustinô viết: “Nếu chúng ta không quan tâm những người đã qua đời, chúng ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ”. Các nghi lễ thời tiền Kitô giáo dành cho những người qua đời được giữ như việc tưởng tượng dị đoan, mãi đến thời Trung cổ mới chính thức cầu nguyện cho những người đã qua đời.

Giữa thế kỷ XI, thánh Odilo, viện phụ Dòng Cluny (Pháp), truyền cho các tu viện của dòng này phải cầu nguyện và dâng lễ cầu hồn vào ngày 2-11. Thói quen tốt lành này lan rộng từ Dòng Cluny tới cả giáo hội hoàn vũ.
Sự củng cố về thần học đối với lễ này là việc nhận biết bản tính yếu đuối của con người. Vì một số người đạt được sự hoàn hảo ngay từ đời này, nhưng một số người vẫn còn dấu vết tội lỗi, họ cần thanh luyện trước khi được diện kiến Thiên Chúa. Công đồng Trentô xác định tình trạng ở luyện hình này và việc cầu nguyện của người còn sống có thể “rút ngắn” thời gian than luyện.

Nhưng sự dị đoan vẫn liên quan lễ này. Người Trung cổ tin rằng các linh hồn nơi luyện hình có thể xuất hiện vào ngày này ở dạng “phù thủy”, con cóc hoặc ma trơi (will-o’-the-wisps). Thực phẩm đặt ở nghĩa địa được coi là để an ủi những người qua đời. Tính tôn giáo của lễ này vẫn còn, trong đó có việc rước hoặc viếng nghĩa địa và trang trí mộ bằng hoa, đèn, nến.

3/11 – Thánh Martin Porres (1579-1639)

Thánh Martin có trái tim nhân hậu dành cho những người nghèo khổ và bị khinh miệt. Ngài là con của một phụ nữ da đen ở Panama, có thể là người Mỹ, và một đàn ông da trắng quý tộ ở Lima, Peru. Ngài có nước da đen giống mẹ nên người cha bỏ mẹ con ngài khi ngài 8 tuổi sau khi có thêm con gái.

Lúc ngài 12 tuổi, mẹ ngài cho ngài đi học hớt tóc và học ngành thuốc. Sau vài năm, Martin ngài vào Dòng Đa Minh làm “hiến sinh”, vì ngài cảm thấy mình không xứng đáng làm tu sĩ. Sau 9 năm, ngài nổi bật về gương cầu nguyện, làm việc đền tội, bác ái và khiêm nhường, nên nhà dòng yêu cầu ngài khấn dòng.

Ban đêm cầu nguyện, ban ngày giúp bệnh nhân và người nghèo. Mọi người khâm phục ngài nên không còn kỳ thị ngài. Ngài đi tìm trẻ mồ côi, chăm sóc người nô lệ Phi châu và sống đại lượng. Ngài là biện lý của tu viện và thành phố. Khi tu viện lâm tình trạng nợ nần, ngài nói:“Con chỉ là người da đen, hãy bán con đi. Con là tài sản của nhà dòng, hãy bán con đi”.

Ngài có những lúc cầu nguyện xuất thần và lơ lửng trên mặt đất, căn phòng ngập
ánh sáng. Nhiều người coi ngài là vị linh hướng, nhưng ngài vẫn tự nhận mình là
“kẻ nô lệ khốn khổ”. Ngài là bạn thân của một nữ tu Đa Minh ở Peru là thánh
Rosa Lima.

4/11 – Thánh Charles
Bôrômêô, Giám mục (1538-1584)

Ngài sống thời tái Cải cách của Tin Lành, và ngài góp phần cải cách giáo hội trong những năm cuối Công đồng Trentô.

Ngài xuất thân tù một giáo dục quý tộc ở Milan, nhưng ngài muốn hiến thân vì giáo hội. Khi chú ngài là hồng y Medici được bầu làm giáo hoàng năm 1559, danh hiệu Piô IV, ngài được chọn làm trợ tế hồng y (cardinal-deacon) và làm quản lý TGP Milan. Ngài thông minh nên được giữ vài chức vụ quan trọng liên quan Vatican và sau đó được bầu làm thư ký với đầy đủ trách nhiệm quản lý. Sau khi người anh qua đời, ngài thụ phong linh mục lúc 25 tuổi, không lâu sau ngài được tấn phong giám mục GP Milan.

Ngài khuyến khích giáo hoàng cải cách Công đồng năm 1562 sau khi bỏ dở 10 năm. Ngài làm việc âm thầm nhưng có công lớn với Công đồng.

Ngài sống khổ hạnh và đền tội nhiều, đồng thời rất thương người nghèo. Trong nạn đói năm 1576, ngài cố gắng giúp 60.000 tới 70.000 người mỗi ngày. Để làm được điều này, ngài đã phải vay tiền. Khi nạn đói lên tới đỉnh điểm, chính quyền bỏ trốn, nhưng ngái vẫn ở lại giúp mọi người. Công việc quá sức nên ngài qua đời lúc 46 tuổi.

5/11 – Bậc đáng kính Sôlanô Casey, Linh mục (1870-1957)

Ngài sinh trưởng trong một giáo dục ở Oak Grove, Wisconsin. Lúc 21 tuổi, ngài vào Dòng Phanxicô ở Milwaukee. Học không nổi, ngài ra khỏi dòng này và vào Dòng Phanxicô ở Detroit năm 1896, lấy tên dòng là Solanô. Học làm linh mục với ngài cũng rất khó khăn.

Ngài thụ phong linh mục ngày 24-7-1904, nhưng vì yếu môn thần học, ngài không
được phép giải tội và giảng. Trong 14 năm làm người giữ cửa và lo phòng thánh ở
Yonkers, New York, người ta mới nhận thấy ngài có tài ăn nói. Những điều ngài
nói đã gây ấn tượng những người nghe.

LM Solanô phục vụ các giáo xứ ở Manhattan và Harlem, rồi trở lại Detroit, làm
người giữ cửa và lo phòng thánh trong 20 năm tại Tu viện Thánh Bônaventura. Mỗi
chiều thứ Tư ngài đều dâng lễ cho khoảng 150 tới 200 bệnh nhân. Mọi người nhận
được phép lành của ngài, và ngài tư vấn cho khoảng 40 tới 50 người.

Năm 1946, trong tình trạng sức khỏe yếu, ngài chuyển về Huntington, Indiana, và
sống tại đây tới năm 1956. Ngài được đưa về Detroit và qua đời ngày 31-7-1957.
Ước tính có khoảng 20.000 người đi qua linh cữu của ngài trước khi ngài được an
táng tại nhà thờ Thánh Bônaventura ở Detroit.

Năm 1960, Hội LM Solanô được thành lập ở Detroit để giúp các sinh viên Dòng
Phanxicô. Năm 1967, hội này có 5.000 thành viên. Ngài được tôn phong là bậc
đáng kính năm 1995.

6/11 – Thánh Nicôla Tavelic và các bạn tử đạo (1340-1391)

Nicôla và 3 người bạn trong số 158 tu sĩ Dòng Phanxicô đã tử đạo tại Thánh Địa vì họ coi sóc các đền thờ năm 1335.

Ngài sinh trưởng trong một gia đình giàu có quý tộc ở Croatia. Ngài vào Dòng Phanxicô và được sai đi cùng với Deodat Rodez tới truyền giáo ở Bosnia. Năm 1384, họ tình nguỵen đi truyền giáo ở Thánh Địa. Họ chăm nom những nơi thánh và học tiếng Ả-rập.

Năm 1391, Nicôla, Deodat, Phêrô Narbonne và Stêphanô Cunêô quyết định trực tiếp
hoán cải người Hồi giáo. Ngày 11-11-1391, họ tới đền thờ Hồi giáo Omar ở Giêrusalem và xin gặp Qadi (giáo sĩ Hồi giáo). Họ bị bắt, bị tù và bị đánh đập, cuối cùng họ bị chém đầu trước đám đông. Thánh Nicholas và các bạn được phong
thánh năm 1970.

7/11 – Thánh Điđacô, Tu sĩ (1400-1463)

Ngài là nhân chứng sống của Thiên Chúa “những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh” (1 Cr 1:27).

Ngài sinh tại Tây Ban Nha, vào Dòng Phanxicô và sống ẩn tu một thời gian. Ngài có tiếng về hiểu được đường lối Chúa, ăn chay đền tội nghiêm nhặt, nhưng hào phóng với người nghèo đến nỗi các tu sĩ khác không bằng lòng với cách bác ái của ngài.

Ngài tình nguyện đi truyền giáo ở đảo Canary và làm việc hăng say ở đó. Ngài được bầu làm bề trên ở đó.

Năm 1450, ngài được cử tới Rôma để tham dự lễ phong thánh cho nữ tu Bernardine Siena. Khi về Tây Ban Nha, ngài hoàn toàn sống tĩnh lặng. Ngài cho các tu sĩ thấy sự khôn ngoan của Thiên Chúa.

Khi hấp hối, ngài nhìn Thánh giá và nói: “Ôi gỗ thánh, ôi đinh quý giá! Các ngươi được sinh ra để chịu gánh nặng ngọt ngào, và xứng đáng mang Thiên Chúa và Vua  Trời” (Marion A. Habig, O.F.M., Sách các thánh Dòng Phanxicô, tr. 834).

San Diego, thành phố thuộc bang California (Hoa Kỳ), theo tiếng Tây Ban Nha
nghĩa là Thánh Đidacô. Ngài được phong thánh năm 1588.

8/11 – Chân phước Gioan Duns Scotus, Linh mục (1266-1308)

Ngài là người khiêm nhường, và là một trong các tu sĩ Dòng Phanxicô ảnh hưởng nhất trong nhiều thế kỷ.

Ngài sinh tại Duns, thuộc quận Berwick, Tô Cách Lan, thuộc dòng dõi gia phong. Ngài có tên là Gioan Duns Scotus để xác định nơi ngài sinh, Scotia thao tiếng Latin là Scotland (Tô Cách Lan).

Ngài vào Dòng Anh em Hèn mọn (Dòng Phanxicô) ở Dumfries, nơi bác ngài là Elias Duns làm bề trên. Sau khi vào nhà tập, ngài học tại Oxford và Paris, thụ phong linh mục năm 1291. Ngài học thêm ở Paris tới năm 1297, rồi dạy học tại Oxford và Cambridge. Sau 4 năm, ngài trở lại Paris để dạy và hoàn tất chương trình học tiến sĩ năm 1305. Ngài tiếp tục dạy tại Paris tới năm 1307. Ngài được bổ nhiệm tới trường của Dòng Phanxicô tại Cologne và qua đời tại đây năm 1308. Ngài được an táng tại nhà thờ Dòng Phanxicô gần đại giáo đường ở Cologne.

Dựa vào tác phẩm của ngài, ĐGH Piô IX đã long trọng công bố tín điều Đức Mẹ Vô
nhiễm vào tháng 5-1854. Ngài được phong chân phước năm 1993.

9/11 – Cung hiến Đền thờ thánh Gioan Latêranô

Nhiều người nghĩ đền thờ thánh Phêrô là đền thờ của giáo hoàng, nhưng chính đền thờ thánh Gioan Latêranô mới là đền thờ của giáo hoàng, nhà thờ chính tòa của TGP Rôma, nơi giám mục TGP Rôma là giáo hoàng.

Đền thờ đầu tiên được xây dựng ở nơi này hồi thế kỷ IV, khi Constantine hiến đất mà ông nhận của giáo dục Latêranô. Các đền thờ bị cháy, động đất và chiến tranh, nhưng đền thờ Latêranô vẫn là nhà thờ mà các giáo hoàng được thánh hiến tới khi các giáo hoàng từ Avignon trở lại hồi thế kỷ XIV.

ĐGH Innocent X cho xây đền thờ hiện nay từ năm 1646. Đền thờ này có 15 tượng:
Chúa Giêsu, thánh Gioan Tẩy giả, thánh Gioan thánh sử và 12 vị thánh tiến sĩ
giáo hội. Bên dưới bàn thờ vẫn còn chiếc bàn gỗ nhỏ mà thánh Phêrô đã từng dâng
thánh lễ.

10/11 – Thánh Lêô Cả, Giáo hoàng Tiến sĩ Giáo hội (qua đời năm 461)

Ngài được bầu làm giáo hoàng năm 440. Ngài hăng say làm việc của người kế vị thánh Phêrô.

Công việc giáo hoàng của ngài gồm 4 lĩnh vực chính, trình bày quan niệm của ngài về trách nhiệm của giáo hoàng đối với đoàn chiên của Chúa Kitô. Ngài hoạt động chống các tà thuyết Pelagianism (1), Manichaeism (2) và các tà thuyết khác, đặt điều kiện với những người theo đạo để bảo đảm đức tin Kitô giáo. Lĩnh vực quan trọng thứ hai mà ngài quan tâm là sự tranh luận về giáo lý trong Giáohội Đông phương, ngài phúc đáp bằng một lá thư bác bỏ giáo huấn của họ về bản tính Chúa Kitô. Với đức tin mạnh mẽ, ngài dẫn quân La Mã chống lại cuộc tấn công đối kháng dữ dội và đảm nhận vai trò người kiến tạo hòa bình.

Ở mọi lĩnh vực, công việc của ngài đều được đánh giá cao. Ngài được phong thánh
nhờ tâm linh sâu sắc trong chức vụ tông đồ. Ngài nổi tiếng với những bài giảng
thâm thúy, trích dẫn Kinh thánh mạch lạc và hiểu biết Giáo hội. Một trong những
bài giảng lễ của ngài vẫn còn nổi tiếng tới ngày nay. Ngài có khả năng nhận
biết nhu cầu của người khác.

Triều đại Giáo hoàng của ngài có Công đồng Chalcedon (năm 451) xác tín Chúa
Kitô con-người-Thiên-Chúa với 2 bản tính: Thiên tính và nhân tính.

——————————

(1) Pelagianism: Thuyết thần học của Pelagius (354?-418), một tu sĩ người Anh, bị Công giáo kết án là tà thuyết năm 416. Thuyết này từ chối tội nguyên tổ và khẳng định khả năng con người trở nên công chính nhờ ý chí tự do, nhấn mạnh ý chí tự do và bản chất tốt lành của con người. Đệ tử của ông là Celestius từ chối giáo lý Công giáo về tội nguyên tổ và sự cần thiết của bí tích Thánh tẩy. Pelagius và Celestius bị vạ tuyệt thông năm
418, nhưng họ vẫn chống đối cho tới khi Công đồng Êphêsô kết án giáo phái của
họ tà thuyết năm 431.

(2) Manichaeism: Mani giáo, hệ thống tôn giáo nhị nguyên do tiên tri Manes (khoảng 216–276) sáng lập ở Ba Tư hồi thế kỷ III, dựa trên vụ xung đột nguyên thủy giữa ánh sáng và bóng tối, kết hợp với các yếu tố của Kitô giáo ngộ đạo (Gnostic Christianity), Phật giáo (Buddhism), Bái hỏa giáo (Zoroastrianism), và các yếu tố ngoại giáo khác. Thuyết này bị
chống đối từ phía Hoàng đế La mã, các triết gia tân Platon (Neo-Platonist) và các Kitô hữu chính thống.

11/11 – Thánh Martin Tours, Giám mục (316?-397)

Ngài là người chống đối dữ dội mà muốn làm tu sĩ, một tu sĩ trở thánh giám mục, một giám mục chống lại chủ nghĩa ngoại giáo và cầu xin Lòng Chúa Thương Xót cho những người theo tà thuyết. Ngài là một trong các vị thánh nổi tiếng nhất và là một trong số người tử đạo tiên khởi.

Ngài sinh trưởng trong một gia đình ngoại giáo ở một vùng mà nay là Hungary và được giáo dục tại Ý. Là con trai của một cựu chiến bình, ngài bị bắt buộc phải phục vụ trong quân ngũ từ lúc 15 tuổi, dù ngài không muốn. Ngài được rửa tội lúc 18 tuổi và trở thành giáo lý viên. Lúc 23 tuổi, ngài từ chối tiền thưởng quân đội của hoàng đế và nói: “Hạ thần phục vụ ngài với tư cách binh sĩ, bây giờ hãy để hạ thần phục vụ Đức Kitô. Xin nhường phần thưởng cho người khác. Còn thần là binh sĩ của Chúa Kitô”. Ngài trở thành đệ tử của thánh Hilary Poitiers.

Ngài là người trừ quỷ và hăng say chống lại tà thuyết Arian (*). Ngài đi tu, mới đầu sống ở Milan (Ý), sau đó sống ở một đảo nhỏ. Khi thánh Hilary được phục hồi sau thời kỳ lưu đày, thánh Martin Tours trở về Pháp và thành lập Dòng đầu tiên của Pháp gần Poitiers. Ngài ở đây 10 năm, lập nhóm các môn đệ và đi truyền giáo kháp nước.

Dân chúng Tours yêu cầu tấn phong ngài làm giám mục. Ngài bị “lừa” tới thành phố đó và bị đưa vào nhà thờ, và ngài miễn cưỡng để được tấn phong giám mục. Các giám mục nghĩ ngài có bề ngoài luộm thuộm và tóc tai bù xù không xứng đáng với chức vụ.

Cùng với thánh Ambrôsiô, ngài phản đối luật của ĐGM Ithacius bắt những người theo tà thuyết phải chết – có sự can thiệp của hoàng đế trong các vụ như vậy. Ngài thắng thế và cứu sống những người theo tà thuyết Priscillian (*). Với cố gắng của ngài, thánh Martin vẫn bị kết án là đồng lõa, còn GM Priscillian bị hành quyết. Ngài cảm thấy có thể hợp tác với Ithacius trong các lĩnh vực khác, nhưng sau đó lương tâm ngài cắn rứt vì quyết định đó.

Khi hấp hối, các đệ tử xin ngài đừng bỏ họ, và ngài đã cầu nguyện: “Lạy Chúa, nếu người ta vẫn cần con, con sẽ không từ chối. Xin cho Ý Ngài nên trọn”.

—————————

(*) Arianism: Thuyết của Arius, thế kỷ IV, cho rằng chỉ  có Thiên Chúa là bất biến và tự hữu, nhưng Ngôi Con không là Thiên Chúa mà chỉ là phàm nhân. Thuyết này từ chối thiên tính của Chúa Giêsu. Công đồng Nicaea (AD 325) đã kết án Arius và tuyên bố “Ngôi Con đồng bản thể với Đức Chúa Cha”. Thuyết Arian được nhiều người bảo vệ tiếp 50 năm sau, nhưng cuối cùng cũng sụp đổ khi các hoàng đế Kitô giáo của Rome Gratian và Theodosius lên ngôi. Công đồng Constantinople đầu tiên (năm 381) phê chuẩn Tín điều của Công đồng Nicê và cấm thuyết Arian. Tà thuyết này vẫn tiếp tục trong các bộ lạc ở Đức suốt thế kỷ VII, và các niềm tin tương tự được duy trì đến ngày nay bởi tổ chức Nhân chứng
của Giavê (Jehovah’s Witnesses) và bởi một số người theo thuyết Nhất Vi Luận
(Unitarianism), tương tự Tam Vị Nhất Thể, tức là Một Chúa Ba Ngôi.

(*) Priscillianism: Thuyết của Priscillian, thế kỷ IV-V.
Priscillian là giám mục dựa vào tư tưởng của mình về thuyết ngộ đạo (Gnosticism) và thuyết Mani (Manichaeism – hệ thống tôn giáo nhị nguyên do tiên tri Manes (khoảng 216–276) sáng lập ở Ba Tư hồi thế kỷ III, dựa trên vụ xung đột nguyên thủy giữa ánh sáng và bóng tối, kết hợp với các yếu tố của Kitô giáo ngộ đạo, Phật giáo, Bái hỏa giáo, và các yếu tố ngoại giáo khác. Thuyết này bị chống đối từ phía Hoàng đế La mã, các triết gia tân Platon và các Kitô hữu chính thống). Ông và các đệ tử dạy thuyết thể thức về Tam vị Nhất thể (Modalist doctrine of the Trinity), từ chối thiên tính và nhân tính của Chúa Kitô, cho
rằng các thiên thần chỉ là thụ tạo phát xuất từ Thiên Chúa, các linh hồn được kết hợp với cơ thể khi chịu hình phạt vì tội lỗi, hôn nhân là xấu xa, dù tình yêu tự do khả dĩ chấp nhận. Hoàng đế Maximus đã bắt GM Priscillian bị công nghị các giám mục xét xử và thấy GM Priscillian phạm tội làm ma thuật. Dù được thánh Martin Tours xin tha, GM Priscillian và các đệ tử vẫn bị xử tử.

12/11 – Thánh Giosaphat, Giám mục (1580?-1623)

Năm 1967, những tấm hình trên báo chí chụp ĐGH Phaolô VI ôm Đức Athenagoras I, thượng phụ chính thống giáo ở Constantinople, đã đánh dấu một bước tiến quan trọng đối với việc hàn gắn sự chia rẽ suốt 9 thế kỷ.

Năm 1595, ĐGM Brest-Litovsk của Chính thống giáo (nổi tiếng thời Thế chiến I) ở
Belarus và 5 giám mục khác đã muốn đoàn tụ với Rôma. Gioan Kunsevich (Giosaphat
là tên dòng) dâng mình cho Chúa và chịu chết cùng một nguyên nhân. Ngài sinh
tại vùng mà nay là Ba Lan, làm việc tại Wilno và ảnh hưởng các giáo sĩ có liên quan Liên minh Brest (1596). Ngài trở thành tu sĩ Dòng Basilia, rồi thụ phong linh mục, ngài nổi tiếng về giảng thuyết và sống khổ hạnh.

Ngài được bổ nhiệm giám mục Vitebsk (nay là Nga) khi còn tương đối trẻ, và ngài phải đối mặt với tình huống khó khăn. Đa số các tu sĩ, vì sợ liên quan phụng vụ và tập tục, đã không muốn liên kết với Rôma. Nhờ các công nghị, hướng dẫn giáo lý, cải cách giáo sĩ và gương mẫu cá nhân, ngài thành công trong việc được lòng nhiều phần của Chính thống giáo trong vùng.

Nhưng năm sau, hệ thống chống đối được thành lập, số người chống đối ngài tăng lên và kết án ngài và ngài không được các giám mục Ba Lan ủng hộ.

Ngài vẫn tới Vitebsk, nhưng ngài bị đuổi ra khỏi giáo phận. Một linh mục được sai đến nguyền rủa ngài. Ngài bị đánh đập, bị bắn chết và thi hài ngài bị ném xuống sông. Về sau người ta tìm thấy xác ngài và hiện nay được an táng tại Đền thờ Thánh Phêrô ở Rôma. Ngài là vị thánh đầu tiên của Giáo hội Đông phương được Rôma phong thánh.

Cái chết của ngài dấy lên phong trào Công giáo và đoàn kết, nhưng vẫn tiếp tục có nhiều tranh luận. Sau khi phân chia Ba Lan, Nga đã ép buộc những người Ruthenia gia nhập Chính thống giáo Nga.

13/11 – Thánh Frances Xavier Cabrini, Trinh nữ (1850-1917)

Thánh Frances Xavier Cabrini là công dân Mỹ đầu tiên được phong thánh. Bà rất tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa đã cho bà sức mạnh để trở thành phụ nữ can đảm làm công việc của Đức Kitô.

Không được nhận vào dòng, bà làm việc từ thiện tại Cô nhi viện Chúa quan phòng ở Cadogno, Ý. Tháng 9-1877, bà được khấn dòng và nhận tu phục. Khi Đức giám mục
đóng cửa Cô nhi viện năm 1880, ngài bổ nhiệm bà Frances làm bề trên Dòng Tiểu
muội Truyền giáo Thánh Tâm (Missionary Sisters of the Sacred Heart). Bảy chị em
từ cô nhi viện cùng gia nhập với bà. Hồi còn nhỏ ở Ý, bà đã có ý đi truyền giáo
ở Trung quốc nhưng bà lại theo sự thúc giục của ĐGH Leo XIII. Bà tới New York
với 6 chị em khác và làm việc với hàng ngàn dân Ý nhập cư sống ở vùng đó.

Khi tới New York, bà muốn tìm cô nhi viện ở Mỹ nhưng không có. ĐGM khuyên bà
trở về Ý, nhưng bà vẫn quyết định thành lập cô nhi viện, và bà đã thành công.

Suốt 35 năm, bà thành lập 67 cơ sở để chăm sóc người nghèo, người bị bỏ rơi,
người thất học và người bệnh. Thấy dân Ý nhập cư có nhiều nhu cầu vì họ mất đức
tin, bà mở trường học và mở các lớp dạy người lớn. Hồi nhỏ bà rất sợ nước, chỉ
sợ chết đuối, nhưng bà đi khắp Đại Tây Dương hơn 30 lần. Bà qua đời vì bệnh sốt
rét ở bệnh viện Columbus tại Chicago.

14/11 – Thánh Gertrude, Trinh nữ (1256?-1302)

Thánh Gertrude là nữ tu Dòng Biển Đức ở Helfta (Saxony), là một trong những nhà thần bí vĩ đại của thế kỷ XIII. Cùng với bạn của bà là thánh Mechtild, bà thực hành tâm linh gọi là “thần bí hôn nhân” (nuptial mysticism), nghĩa là bà thấy mình là hôn thê của Chúa Kitô. Đời sống tâm linh của bà là sự kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu và Thánh Tâm, dẫn bà vào chính sự sống của Chúa Ba Ngôi.

Nhưng đây không là lòng sùng kính cá nhân. Bà sống theo nhịp phụng vụ, nơi bà
tìm thấy Chúa Kitô. Trong phụng vụ và Kinh thánh, bà thấy những chủ đề và những
hình ảnh làm phong phú lòng sùng kính đó. Không có sự xung đột giữa đời sống
cầu nguyện cá nhân và phụng vụ.

15/11 – Thánh Albertô Cả, Giáo hoàng Tiến sĩ Giáo hội (1206-1280)

Ngài là người Đức, là tu sĩ Dòng Đa Minh hồi thế kỷ XIII, và có ảnh hưởng vị thế của Giáo hội đối với triết học của Aristote (triết gia Hy Lạp nổi tiếng, 384-322 trước CN) đã đưa vào Âu châu bằng sự phát triển Hồi giáo.

Các sinh viên triết biết ngài là thầy của thánh Thomas Aquinas. Thánh Albertô cố gắng hiểu các bài viết của Aristote mà thánh Thomas Aquinas đã phát triển bản tổng phổ của sự khôn ngoan Hy Lạp và thần học Kitô giáo. Nhưng thánh Albertô nhận biết ngài là học giả cần mẫn.

Ngài là can cả trong một gia đình giàu có người Đức danh giá, được học về nghệ thuật tự do. Dù bị gia đình phản đối dữ dội, ngài vẫn vào Dòng Đa Minh.

Ngài đã viết bản tóm lược các kiến thức về khoa học tự nhiên, luận lý học, tu từ học, toán học, thiên văn học, đạo đức học, kinh tế học, chính trị và siêu hình học. Ngài phải mất 20 năm mới hoàn tất bản tóm lược này. Ngài nói: “Ý định của chúng tôi là tạo ra những
phần kiến thức dễ hiểu đối với người Latin”
.

Ngài đạt được mục đích khi còn đang dạy tại Paris và Cologne. Ngài là giám tỉnh Dòng Đa Minh và được bổ nhiệm làm gmmm GP Regensburg một thời gian. Ngài bảo vệ các dòng hành khất (mendicant orders) và giảng về Thập tự quân ở Đức và Bohemia. Ngài là Tiến sĩ Giáo hội và là thánh bổn mạng của các khoa học gia và triết gia.

16/11 – Thánh Margaret Tô Cách Lan (1050?-1093)

Thánh Margaret là một phụ nữ thực sự được tự do theo nghĩa tự do là chính mình. Đới với ba, điều đó nghĩa là tự do yêu mến Chúa và phục vụ tha nhân.

Bà không phải là người Tô Cách Lan. Bà là con gái của công nương Agatha nước Hungary và Hoàng tử Edward Atheling người Anglo-Saxon. Hồi nhỏ bà sống trong triều đình của ông chú Edward, vua nước Anh. Gia đình bà trốn William, kẻ xâm lăng, và bị đắm tàu ngoài khơi Tô Cách Lan. Vua Malcolm thân quen với họ và bị “hút hồn” vì mỹ nhân kiều diễm Margaret. Rồi họ kết hôn với nhau tại lâu đài Dunfermline năm 1070.

Vua Malcolm tốt bụng, nhưng cộc cằn và kém văn hóa. Vì tình yêu của vua Malcolm
dành cho mình, Margaret có thể thuần hóa chồng và giúp chồng trở thành vị vua
nhân đức. Bà cố gắng thúc đẩy nghệ thuật và giáo dục. Về việc cải cách tôn giáo, bà khuyến khích mở những công nghị và thảo luận để cố gắng chấn chỉnh các sự lạm dụng tôn
giáo trong giới giáo sĩ
– như mua bán chức thánh, cho vay nặng lãi và loạn luân. Bà còn cho xây dựng vài nhà thờ.

Bà không là nữ hoàng mà là một người mẹ. Vợ chồng bà có 6 con trai và 2 con gái. Bà đích thân giám sát các huấn thị tôn giáo và các việc nghiên cứu khác.

Bà giàu có nhưng sống khổ hạnh, mỗi ngày bà cầu nguyện và đọc Kinh thánh vài lần. Bà ăn ít và ngủ ít để có thời gian làm việc đạo đức. Vợ chồng bà có 2 mùa chay, một mùa chay trước lễ Phục sinh và một mùa chay trước lễ Giáng sinh. Trong những mùa đó, vợ chồng bà dậy từ nửa đêm để đi dự thánh lễ. Trên đường về nhà, bà thường rửa chân cho 6 người nghèo và bố thì cho họ. Xung quanh bà luôn có những người ăn xin, và bà không bao giờ từ chối họ. Bà không bao giờ ngồi ăn nếu chưa cho 9 trẻ mồ côi và 24 người nghèo có đồ ăn.

Năm 1093, vua William Rufus bất ngờ tấn công lâu đài Alnwick. Vua Malcolm và con trai cả là Edward đều bị giết. Lúc đó bà đang trong cơn hấp hối, bà qua đời vào 4 ngày sau.

17/11 – Thánh Elizabeth Hungary (1207-1231)

Tuy cuộc đời ngắn ngủi nhưng thánh Elizabeth đã chứng tỏ tình yêu vĩ đại dành cho người nghèo và người đau khổ. Bà là bổn mạng của Hội bác ái Công giáo và Dòng Ba Phanxicô. Là con gái của vua nước Hungary, nhưng bà lại sống khắc khổ và đền tội.

Lúc 14 tuổi, bà kết hôn với Louis của Thuringia (một quốc vương Đức quốc), người mà bà cũng rất yêu thương; họ có 3 người con. Được một tu sĩ Dòng Phanxicô linh hướng, bà sống đời cầu nguyện, hy sinh, phục vụ người nghèo và bệnh nhân. Để giống người nghèo, bà ăn mặc đơn giản. Hàng ngày bà đưa bánh cho hàng trăm người nghèo trong vùng đến xin bà.

Sau 6 năm kết hôn, chồng bà tử trận trong đoàn Thập tự quân, bà rất buồn. Gia đình chồng cho là bà lãng phí tiền bạc của hoàng gia nên đối xử tệ với bà, rồi đuổi bà ra khỏi hoàng cung. Những người bạn của chồng bà trở về từ đoàn Thập tự quân giúp bà được phục hồi cương vị, vì con trai bà là người thừa kế hợp pháp là kế vị phụ vương.

Năm 1228, bà vào Dòng Ba Phanxicô, dành thời gian chăm sóc người nghèo trong bệnh viện mà bà sáng lập để dâng kính thánh Phanxicô. Sức khỏe sa sút, bà qua đời trước ngày sinh nhật thứ 24 của bà vào năm 1231. Vì bà quá nổi tiếng thánh thiện, chỉ 4 năm sau bà được phong thánh.

18/11 – Cung hiến Đền thờ thánh Phêrô và Phaolô

Đền thờ thánh Phêrô có thể nổi tiếng nhất trong các nhà thờ. Đồi Vatican là một nghĩa trang mà các tín hữu tụ họp nhau cầu nguyện tại mộ thánh Phêrô. Năm 319, Constantine cho xây trên đồi đó một thánh đường tồn tại hơn 1.000 năm sau, nhưng cũng bị sụp đổ dù tu sửa nhiều lần. Năm 1506, ĐGH Julius II cho xây dựng lại, nhưng chưa hoàn thành và tồn tại 2 thế kỷ.

Đền thờ Thánh Phaolô Ngoại thành (St. Paul’s Outside the Walls) ở gần Abaazia delle
Tre Fontane, nơi thánh Phaolô bị chém đầu. Đó là nhà thờ lớn nhất Rôma cho đến khi Đền thờ Thánh Phêrô được tái thiết. Tòa nhà được tái xây dựng sau khi bị cháy năm 1823. Đền thờ đầu tiên cũng do Constantine xây dựng.

19/11 – Thánh Agnes Assisi, Trinh nữ (1197-1253)

Thánh Agnes là nữ tu đầu tiên của Dòng Thánh Clara. Agnes rời nhà 2 tuần, gia đình bắt ép bà về nhà, tìm cách lôi bà ra khỏi tu viện, nhưng cơ thể bà trở nên nặng đến nỗi không ai lôi nổi bà. Người chú Monaldo đánh bà nhưng cũng không thể lay chuyển ý bà. Mọi người đành để cho Agnes sống bình an với Clara.

Năm 1221, một nhóm nữ tu Biển Đức ở Monticelli (gần Florence) xin gia nhập Dòng Thánh Clara khó nghèo. Thánh Clara truyền cho nữ tu Agnes làm nẹ bề trên tu viện đó. Thánh Agnes đã viết một lá thư nói rất buồn vì nhớ thánh Clara và các chị em ở San Damiano. Sau khi lập Dòng Thánh Clara khó nghèo ở Bắc Ý, thánh Agnes được gọi trở lại San Damiano năm 1253 khi thánh Clara trong cơn hấp hối. Thánh Agnes qua đời sau thánh Clara 3 tháng, và được phong thánh năm 1753.

20/11 – Thánh Rose Philippine Duchesne (1769-1852)

Bà sinh tại Grenoble, Pháp, trong một gia đình mới giàu. Bà có ý chí mạnh mẽ và cương trực. Bà vào dòng lúc 19 tuổi mà không cho cha mẹ biết. Khi cuộc Cách mạng Pháp bùng nổ, tu viện bị đóng cửa, bà bắt đầu đi chăm sóc người nghèo và bệnh nhân, mở trường học cho ác trẻ em đường phố và liều mình giúp đở các linh mục đang phải lẩn trốn.

Khi tình hình lắng xuống, bà thuê một tu viện cũ và cố gắng khôi phục đời sống tu trì. Chỉ còn lại 4 nữ tu. Họ quy tụ thành Dòng Thánh Tâm, với bề trên trẻ là thánh Madeleine Sophie Barat. Một thời gian ngắn, Philippine làm bề trên và giáo tập, nhưng nữ tu này nhiều tham vọng. Vì nghe nói việc truyền giáo ở Louisiana từ hồi nhỏ, bà đi Mỹ và làm việc với dân Ấn Độ. Lúc 49 tuổi, bà nghĩ đây là công việc của bà. Với 4 nữ tu, bà vượt biển suốt 11 tuần để tới New Orleans, và đi 7 tuần vượt sông Mississippi nữa để tới St. Louis. Lúc đó bà cảm thấy thất vọng. Đức giám mục không có chỗ cho họ ở nên sai bà tới một ngôi làng
hẻo lánh là St. Charles, Missouri. Bà mở trường miễn phí cho nữ sinh ở phía Tây
sông Mississippi.

Lúc 72 tuổi, sức khỏe bà suy yếu. Người ta gọi bà bằng biệt danh “Bà Luôn Cầu Nguyện”.
Khi người khác dạy học, bà cầu nguyện. Bà qua đời lúc 83 tuổi.

21/11 – Đức Mẹ dâng mình

Lễ Đức Mẹ dâng mình được mừng kính tại Giêrusalem từ thế kỷ VI. Một nhà thờ được xây dựng tại đây với tước hiệu Đức Mẹ dâng mình. GGhh Đông phương quan tâm nhiều đến lễ này, nhưng mãi đến thế kỷ XI Giáo hội Tây phương mới mừng kính lễ này. Thế kỷ XVI, dù lễ này không có trong lịch phụng vụ nhưng đã được phổ biến trong Giáo hội hoàn vũ.

Cũng như sinh nhật Đức Mẹ, việc Đức Mẹ dâng mình trong đền thờ không thấy kể
lại rõ ràng. Trong tài liệu được coi là không có trong lịch sử là Protoevangelium (*) của Giacôbê cho chúng ta biết rằng bà Anna và ông Gioakim đã dâng bé gái Maria cho Thiên Chúa trong đền thờ khi bé Maria được 3 tuổi. Điều này để thực hiện lời hứa với Thiên Chúa khi bà Anna còn son sẻ.

Dù không được chứng minh trong lịch sử, việc dâng mình của Đức Mẹ vẫn có một mục đích thần học quan trọng, tiếp tục ảnh hưởng lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm và lễ Giáng sinh. Điều đó nhấn mạnh sự thánh thiện nơi Đức Mẹ từ khi mới sinh ra tới cả cuộc đời Đức Mẹ.

————————-

(*) Protoevangelium nghĩa là “Phúc âm đầu tiên”, tên mới của ngụy kinh (apocryphal Gospel), được biết đến là Sách Giacôbê (Book of James). Có thể có nguồn gốc từ tà thuyết
Docetist (thế kỷ XIX), cho thấy lòng sùng kính Đức Mẹ từ thế kỷ II. Protoevangelium là ngụy kinh cổ nhất được dùng đối với lời hứa của Đấng Cứu Thế sau khi nguyên tổ phạm tội. Nói về con rắn, Thiên Chúa nói: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3:15). Theo truyền thống, người phụ nữ và con cháu của bà được hiểu là Đức Mẹ và Chúa Con.

22/11 – Thánh Cecilia, Trinh nữ Tử đạo (thế kỷ III)

Dù thánh Cecilia là một trong các vị tử đạo nổi tiếng của Rôma, nhưng các câu chuyện về bà vẫn không được kể lại chính xác. Thời kỳ đầu không  thấy dấu hiêu nào cho thấy bà được tôn kính. Một câu được khắc hồi cuối thế kỷ IV nói đến một nhà thờ mang tên bà, và lễ mừng kính bà có từ năm 545.

Theo truyền thuyết, Cecilia là Kitô hữu thuộc dòng dõi quý tộc đính hôn với một người Rôma tên là Valerian. Nhờ ảnh hưởng từ bà, Valerian đã trở lại đạo và chịu tử đạo với người anh em của ông. Truyền thuyết về cái chết của thánh Cecilia nói rằng sau khi bị chém vào cổ 3 lần, bà vẫn sống thêm 3 ngày, và bà xin Đức giáo hoàng lấy nhà của bà làm nhà thờ. Từ thời Cải cách, bà thường được vẽ chân dung với cây đàn viola hoặc đàn organ.

23/11 – Chân phước Miguel Agustín Pro, Linh mục Tử đạo (1891-1927)

¡Viva Cristo Rey! (Vạn tuế Kitô Vua) là lời cuối cùng mà LM Pro nói trước khi bị hành quyết vì “tội” là linh mục Công giáo.

Ngài sinh trong một gia đình giàu có và sùng đạo ở Guadalupe de Zacatecas, vào Dòng Tên năm 1911, nhưng 3 năm sau phải trốn sang Granada, Tây Ban Nha, vì Công giáo bị bách hại ở Mexico. Ngài thụ phong linh mục tại Bỉ năm 1925.

Ngài liền trở lại Mexico và phục vụ Giáo hội “thầm lặng”. Ngài bí mật dâng lễ và trao Thánh Thể cho những nhóm người Công giáo.

Ngài và em trai Roberto bị bắt vì tội muốn ám sát tổng thồng Mexico. Roberto được tha nhưng chân phước Miguel bị kết án và bị giết ngày 23-11-1927. Đám tang của ngài trở thành đoàn biểu tình vì đức tin. Ngài được phong chân phước năm 1988.

24/11 – Các thánh tử đạo Việt Nam

Thánh Anrê Phú Yên là một trong hàng trăm ngàn vị tử đạo Việt Nam trong những năm từ 1820 tới 1862. Có 117 vị được phong chân phước vào 4 dịp trong những năm từ 1900 tới 1951. Và chân phước GH Gioan Phaolô II đã tôn phong 117 vị này lên bậc hiển thánh.

Công giáo đã đến Việt Nam qua người Bồ Đào Nha, lúc đó còn tách là Đàng trong và Đàng ngoài). Các linh mục Dòng Tên đã lập Hội truyền giáo đầu tiên tại Đà Nẵng năm 1615. các vị tử đạo đã bị nhà vua bắt bội giáo bằng cách đạp lên Thánh giá, nhưng tất cả đều son sắt niềm tin, không tham sống mà chối bỏ Chúa.

Có 3 đợt bách hại dữ dội hồi thế kỷ XIX. Trong 60 năm kể từ năm 1820, có khoảng từ 100.000 tới 300.000 người Công giáo bị giết hoặc chịu đau khổ. Các nhà truyền giáo ngoại quốc tử đạo trong đợt đầu gồm các linh mục thuộc Hội Truyền giáo Paris (Paris Mission Society), các linh mục Dòng Đa Minh Tây Ban Nha và  các thành viên Dòng Ba Đa Minh. Năm 1847, cuộc bách hại lải nổ ra khi nhà vua nghi ngờ các nhà truyền giáo ngoại quốc và các tín hữu Việt Nam Vietnamese muốn nổi loạn.

Các vị tử đạo cuối cùng là 17 giáo dân, có một vị mới 9 tuổi, bị hành quyết năm 1862. Cũng chính năm này có hiệp ước tự do tôn giáo giữa Pháp quốc và Việt Nam, nhưng vẫn chưa hết bách hại. Năm 1954, có hơn 1.500.000 người Công giáo miền Bắc – chiếm 7% dân số hồi đó. Phật giáo chiếm khoảng 60%. Cuộc bách hại dai dẳng khiến 670.000 người Công giáo phải rời bỏ quê hương xứ sở để vào miền Nam. Năm 1964, miền Bắc vẫn còn 833.000 người Công giáo nhưng nhiều người phải bị tù đày. Tại miền Nam, người Công giáo được tự do tôn giáo trong những thập niên đầu của những thế kỷ qua, họ sống như những người tỵ nạn. Trong thời chiến tranh Việt Nam, người Công giáo lại bị bách hại ở miền Bắc và lại phải chuyển vào miền Nam rất đông.

25/11 – Thánh Clêmentê I, Giáo hoàng Tử đạo (qua đời năm 100)

Theo truyền thống, thánh Clêmentê được chính thánh Phêrô phong chức linh mục. Theo một số tác giả, thánh GH Clêmentê là người kế vị thánh GH tiên khởi Phêrô, nhưng một số học giả hiện đại cho rằng thánh Clêmentê là giáo hoàng thứ 3.

Ngài được thánh Phaolô nhắc tới trong thư gởi giáo đoàn Philipphê, và ngài có lẽ là người Philipphê. Các học giả hiện đại cho rằng không biết thánh Clêmentê là người Do Thái hay dân ngoại. Một số học giả cho rằng ngài là người Do Thái vì lá thư nổi tiếng của ngài thấm sâu Cựu ước.

Có học giả cho rằng ngài là người La Mã, tử đạo ngoài thành Rôma. Trong “Công vụ Tử đạo” (Acts of the Martyrs, được viết hồi thế kỷ IV) có nhiều chi tiết thú vị. Thánh Clêmentê bị hoàng đế Trajan bắt đi đày ở Chersonese, Crimea hiện đại. Tại đây ngài tích cực giúp các tù nhân phải làm ở mỏ nên ngài bị kết án tử. Thi hài ngài bị ném xuống biển với chiếc neo gắn vào cổ. Sau đó người ta tìm thấy thi hài ngài và an táng trong mộ cẩm thạch.

Không biết có đúng xương ngài hay không, nhưng thánh tích ngài có giá trị trong thư gởi giáo đoàn Corintô. Các học giả vẫn đồng ý như vậy. Thư này được viết khi một trong các tông đồ còn sống, lá thư của thánh Clêmentê là tài liệu quan trọng đầu tiên hồi đó.

25/11 – Thánh Columban, Viện phụ (543?-615)

Ngài là một trong những nhà truyền giáo vĩ đại của Ai-len tại Âu  châu. Thời trẻ, ngài khổ sở vì bị cám dỗ về xác thịt, ngài tìm lời khuyên của một phụ nữ đã ẩn tu nhiều năm. Ngài thấy trong câu trả lời của bà là tiếng gọi rời bỏ thế gian. Ngài đến gặp một tu sĩ ở một hòn đảo tại Lough Erne.

Sau nhiều năm sống ẩn dật và cầu nguyện, ngài đến Gaul cùng với 12 nhà truyền giáo khác. Ngài được nhiều người kính trọng vì ngài sống kỷ luật nghiêm khắc, truyền giáo, và bác ái. Ngài thành lập vài tu viện ở Âu châu, các tu viện này đều trở thành các trung tâm tôn giáo và văn hóa.

Cũng như các thánh khác, ngài cũng bị chống đối. Cuối cùng ngài phải kêu gọi giáo hoàng chống lại những lời than phiền của các giám mục ở Frank, để được xác minh sự chính thống và phê chuẩn các thói quen của người Ai-len. Ngài khiển trách nhà vua về cách sống dâm loạn của ông vì ông đã kết hôn. Vì điều này đe dọa quyền lực của mẫu hậu, thánh Columban được lệnh về Ai-len. Tàu của ngài gặp  bão, ngài tiếp tục làm việc tại Âu châu, cuối cùng ngài đến Ý, tại đây ngài được vua Lombards ủng hộ. Trong những năm cuối đời, ngài thành lập tu viện Bobbio nổi tiếng, và ngài qua đời tại tu viện này. Các tác phẩm của ngài có một
chuyên luận về sám hối và chống tà thuyết Arian (*), các bài giảng, thi ca và tu luật.

————————-

(*) Arianism: thuyết của Arius, thế kỷ IV, cho rằng chỉ có Thiên Chúa là bất biến và tự hữu, nhưng Ngôi Con không là Thiên Chúa mà chỉ là phàm nhân. Thuyết này từ chối
thiên tính của Chúa Giêsu.
Công đồng Nicaea (AD 325) đã kết án Arius và tuyên bố “Ngôi Con đồng bản thể với Đức Chúa Cha”. Thuyết Arian được nhiều người bảo vệ tiếp 50 năm sau, nhưng cuối cùng cũng sụp đổ khi các hoàng đế Kitô giáo của Rome Gratian và Theodosius lên ngôi. Công đồng Constantinople đầu tiên (năm 381) phê chuẩn Tín điều của Công đồng Nicê và cấm thuyết Arian. Tà thuyết này vẫn tiếp tục trong các bộ lạc ở Đức suốt thế kỷ VII, và các niềm tin tương tự được duy trì đến ngày nay bởi tổ chức Nhân chứng của Giavê (Jehovah’s Witnesses) và bởi một số người theo thuyết Nhất Vi Luận
(Unitarianism), tương tự Tam Vị Nhất Thể, tức là Một Chúa Ba Ngôi.

26/11 – Thánh Catarina Alexandria, Tử đạo (qua đời khoảng năm 310)

Theo truyền thuyết, thánh Catarina trở lại Kitô giáo sau khi thấy một thị kiến. Lúc 18 tuổi, bà đã tranh luận với 50 triết gia ngoại giáo. Ngạc nhiên trước sự không ngoan và kỹ năng tranh luận của bà, họ đã gia nhập Kitô giáo – kể cả khoảng 200 binh sĩ và các thành viên của hoàng gia. Tất cả họ đều tử đạo.

Bị kết án tử và bị treo vào bánh xe, rồi bà bị chém đầu. Những thế kỷ sau, truyền thuyết cho rằng các thiên thần đã đem thi hài bà tới một tu viện ở chân Núi Sinai.

Lòng sùng kính bà phát triển thành Thập tự quân. Bà được coi là bổn mạng của học sinh, sinh viên, giáo viên, quản thủ thư viện và luật sư. Bà là một trong 14 người giúp việc tông đồ, rất được sùng kính ở Đức quốc và Hungary.

27/11 – Thánh Francesco Antonio Fasani, Linh mục (1681-1742)

Ngài sinh tại Lucera (Đông Nam Ý), vào Dòng Phanxicô năm 1695. Ssau khi thụ phong linh mục được 10 năm, ngài dạy triết học cho các tu sĩ trẻ, làm người gác cổng nhà dòng và được bầu làm giám tỉnh. Khi hết nhiệm kỳ, ngài làm giáo tập và linh hướng.

Ngài có lòng yêu thương, đạo đức và đền tội. Khi nghe án phong thánh, một nhân chứng làm chứng về sự thánh thiện của ngài: “Cách ngài giảng rất thân thiện, đầy tình yêu dành cho Chúa và cho tha nhân, đầy Chúa Thánh Thần, ngài nói và làm như Kinh thánh, đánh
động lòng người và khiến người nghe ăn năn đền tội”
.

Ngài luôn tỏ ra là người bạn trung thành của người nghèo, không bao giờ lưỡng lự giúp đỡ những gì người khác cần. Khi ngài qua đời, nhiều người than khóc ngài: “Thánh nhân đã qua đời! Thánh nhân đã qua đời!”. Ngài được phong thánh năm 1986.

28/11 – Thánh James Marche, Linh mục (1394-1476)

Ngài sinh tại Marche, thuộc Ancona, Trung Ý, dọc theo biển Adriatic. Sau khi đạt học vị tiến sĩ về giáo luật và dân luật tại ĐH Perugia, ngài vào Dòng Phanxicô và sống khổ hạnh. Ngài ăn chay 9 tháng trong năm, mỗi đêm chỉ ngủ 3 giờ. Thánh Bernardine Siena nói ngài đền tội vừa phải thôi.
Ngài học thần học với thánh Gioan Capistranô, thụ phong linh mục năm 1420, đi
rao giảng khắp nước Ý và ở 13 nước thuộc Trung Âu và Đông Âu. Ước tính ngài đã
làm cho khoảng 250.000 người trở lại đạo và giúp phổ biến lòng sùng kính Thánh
Danh Chúa Giêsu. Lời ngài giảng làm cho nhiều người Công giáo canh tân đời sống
và nhiều thanh niên gia nhập Dòng Phanxicô.

Cùng với các thánh Gioan Capistranô, Albertô Sarteanô and Bernardine Siena,
thánh James được coi là một trong 4 cột trụ của Phong trào Observant của Dòng
Phanxicô (theo đùng nghi lễ). Các tu sĩ này nổi tiếng giảng hay.

Để đấu tranh chống ăn lời cao, thánh James thành lập Hội montes pietatis (nghĩa
đen là Núi Bác ái) – một tổ chức phi lợi nhuận cho vay tiền và cầm đồ với mức
lời thấp. Ai cũng phấn khởi với việc ngài làm. Khi đối mặt ngài, 2 kẻ ám sát đã
không dám giết ngài. Ngài được phong thánh năm 1726.

29/11 – Tôi tớ Chúa Gioan Monte Corvinô, Giám mục (1247-1328)

Ngài rao giảng Phúc âm cho người Mông cổ, rồi tới Trung quốc vào khoảng thời gian Marco Polo trở lại.

Ngài đã từng là một binh sĩ, thẩm phán và bác sĩ, rồi đi tu. Năm 1278, ngài tới Tabriz, Persia (Iran ngày nay), ngài có tiếng giảng hay và dạy giỏi. Năm 1291, ngài rời Tabriz với tư cách là đại diện của ĐGH Nicholas IV tới triều đình của Kublai Khan. Ngài và một thương gia người Ý tới Trung quốc năm 1294, khi Kublai Khan đã băng hà.

Nhiều Kitô giáo phản đối giáo huấn của Công đồng Êphêsô về Chúa Giêsu Kitô.
Ngài đã hoán cải một số người và một số người Trung quốc, kể cả Hoàng tử George
của lảnh địa Tenduk, thuộc Tây Bắc của Bắc Kinh. Hoàng tử George đã đặt tên con
trai mình theo tên tu sĩ Gioan Monte Corvinô.

Ngài thành lập cơ quan chính ở Khanbalik (Bắc Kinh ngày nay), tại đây ngài đã
xây 2 nhà thờ. Năm 1304, ngài dịch các Thánh vịnh và Tân ước sang tiếng Tatar.

Trả lời 2 lá thư của ngài, ĐGH Clêmentô V đã bổ nhiệm ngài làm TGM GP Khanbalik
năm 1307, và tấn phong 7 tu sĩ khác làm giám mục các giáo phận khác. Một vị ở
lại Âu châu, 3 vị qua đời trên đường tới Trung quốc, 3 vị khác và các tu sĩ
theo bước họ tới Trung quốc năm 1308.

Khi ngài qua đời, nhiều người Kitô giáo và ngoài Kitô giáo đều thương tiếc. Mộ
ngài trở nên nơi hành hương. Năm 1368, Kitô giáo bị bách hại khi người Mông cổ
bị trục xuất khỏi Trung quốc, và đời nhà Minh bắt đầu.

30/11 – Thánh Anrê, Tông đồ

Khi Chúa Giêsu xuất hiện, thánh Gioan giới thiệu: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Thánh Anrê và một tông đồ nữa đã theo Chúa Giêsu. “Đức Giê-su quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi: “Các anh tìm gì thế?”. Họ đáp: “Thưa Ráp-bi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?”. Người bảo họ: “Đến mà xem”. Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy” (Ga 1:38-39).

Phúc âm ít nhắc đến thánh Anrê. “Một trong các môn đệ, là ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, thưa với Người: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” (x. Ga 6:8-9). “Trong số những người lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy Lạp. Họ đến gặp ông Philípphê, người Bếtxaiđa, miền Galilê, và xin rằng: “Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu”. Ông Philípphê đi nói với ông Anrê. Ông Anrê cùng với ông Philípphê đến thưa với Đức Giêsu” (x. Ga 12:20-22).

Truyền thuyết nói rằng thánh Anrê rao giảng Phúc âm ở nơi mà ngày nay là Hy Lạp
và Thổ NHĩ Kỳ, rồi bị đóng đinh theo hình chữ X tại Patras, thuộc Achaea, Hy Lạp. Thánh Anrê là một trong các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu. Ngài là em thánh Phêrô, sinh tại Bethsaida gần biển Galilê. Hai anh em làm nghề đánh cá. Khi ấy, Chúa Giêsu đang đi dọc theo biển hồ Galilê, thì thấy hai anh em kia, là ông Simôn, cũng gọi là Phêrô, và người anh là ông Anrê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. Người bảo các ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá. Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người” (Mt 4:18-20).

Sau khi Chúa Giêsu chịu chết và sống lại, thánh Anrê rao giảng Phúc âm ở Tiểu Á, ở Scythia và ở Kiev.

Thánh tích của ngài là một ngón tay, một mảnh xương sọ và vài mảnh thập giá. Những thứ này được giữ tại nhà thờ thánh Anrê ở Patras.

Thánh Anrê là thánh bổn mạng của nước Tô Cách Lan, Nga và Hy Lạp. Người Tô Cách
Lan mừng lễ thánh Anrê vào ngày 30-11. Lá cờ của nước Tô Cách Lan là Thập giá
của thánh Anrê.

Thomas Aquinas TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ BeliefNet.com, Saints.sqpn.com,
AmericanCatholic.org, Catholic.org)

LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ

1-11-2012
LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ
Công Đồng Vatican II dạy: «Mọi Kitô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được
Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo
con đường của mỗi người» (GH 11§3).
Lạy Chúa con xin hợp với cả triều thần thánh tung hô Chúa! Thánh, Thánh, Chí Thánh!
Chính Chúa dạy chúng con phải nên Thánh, nên trọn lành như Cha trên trời. Xin cho chúng con được bền gan theo chân Chúa gọi, nên Thánh cuối thời, làm con yêu dấu, và làm tông đồ của Trái Tim phép tắc từ bi Mẹ.
Vì ơn trọng đại này, xin Chúa ban cho nhiều người tội lỗi được ơn trở lại và sống thánh thiện. Amen!
Nihil Obstat Rev. Barnabas M. Thiệp, CMC
1 Tháng Mười Một
Lễ Các Thánh

Ngày lễ đầu tiên trong lịch sử để vinh danh các thánh là ngày tưởng niệm “các
vị tử đạo” được cử hành vào đầu thế kỷ thứ tư. Vào đầu thế kỷ thứ bảy, sau làn sóng trộm cắp đột nhập các hang toại đạo, Ðức Giáo Hoàng Boniface IV đã cho thu lượm khoảng 28 toa đầy những hài cốt và chôn cất lại bên trong đền Pantheon, là đền thờ các thần của người La Mã, và ngài thánh hiến đền thờ này như một đền thờ Kitô Giáo. Theo sử gia của Giáo Hội là Bede Ðáng Kính, đức giáo hoàng có ý định rằng “việc tưởng nhớ các thánh trong tương lai có thể thay  cho việc thờ phượng mà trước đây không được dành cho thần thánh nhưng thờ ma quỷ” (Về Việc Tính Toán Thời Giờ)
Nhưng việc thánh hiến đền Pantheon, cũng như ngày kính nhớ đầu tiên các vị tử đạo xảy
ra vào tháng Năm. Nhiều Giáo Hội Ðông Phương vẫn kính nhớ các thánh vào mùa
xuân, hoặc trong mùa Phục Sinh hoặc ngay sau lễ Hiện Xuống.
Tại sao Giáo Hội Tây Phương cử hành lễ này vào tháng Mười Một thì không ai hiểu.
Người ta chỉ biết vào năm 800, thần học gia Alcuin người Anglo-Saxon cử hành lễ
này vào ngày 1 tháng Mười Một, và người bạn của ông là Arno, Giám Mục của
Salzburg cũng theo như vậy. Sau cùng, trong thế kỷ chứ chín, Giáo Hội La Mã đã
chấp thuận ngày lễ này.

Lời Bàn
Ðầu tiên lễ này để kính nhớ các vị tử đạo. Sau này, khi Kitô Hữu được tự do tín ngưỡng, Giáo Hội đã dùng ngày lễ này để tỏ lòng kính trọng những người thánh thiện. Vào các thế kỷ đầu tiên, được coi là thánh thì chỉ cần một tiêu chuẩn là được nhiều người công nhận, ngay cả việc chấp thuận của vị giám mục cũng được coi là bước sau cùng để đưa vào niên lịch Giáo Hội. Việc phong thánh bởi đức giáo hoàng lần đầu tiên xảy ra vào năm 973; ngày nay việc phong thánh đòi hỏi cả một tiến trình lâu dài để chứng minh các đức tính thánh thiện. Bây giờ, lễ các thánh để kính nhớ các vị thánh vô danh cũng như nổi danh.
Lời Trích
“Sau đó, tôi thấy một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi
chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình
mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế…
Nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Thánh Têrêsa Avila

Thánh Têrêsa Avila

(1515-1582)

15 tháng 10
“Thánh Têrêsa Avila sống trong thời kỳ nhiều khai phá cũng như nhiều biến động chính
trị, xã hội và tôn giáo. Ðó là thế kỷ 16, thời của hỗn loạn và cải tổ. Cuộc đời của thánh nữ bắt đầu với sự cực thịnh của phong trào cải cách Tin Lành, và chấm dứt sau Công Ðồng Triđentinô ít lâu.
Ơn sủng mà Thiên Chúa ban cho Têrêsa mà qua đó ngài trở nên thánh thiện, để lại gương sáng cho Giáo Hội và hậu thế gồm có ba điểm: Ngài là một phụ nữ; ngài là người chiêm niệm; ngài là người tích cực sửa đổi.
Là một phụ nữ, nhưng Têrêsa giữ vững lập trường của mình trong một thế giới “trọng nam khinh nữ” vào thời đó. Ngài là người cương quyết, gia nhập dòng Camêlô bất kể sự chống đối kịch liệt của cha mình. Ngài không phải là một con người chìm trong sự thinh lặng cũng như sự huyền bí. Ðẹp, có tài, giỏi giao tế, dễ thích ứng, trìu mến, can đảm, hăng say, ngài thực sự là một con người. Cũng như Ðức Giêsu, ngài có những mâu thuẫn lạ lùng: khôn ngoan, nhưng thực tế; thông minh, nhưng đi đôi với kinh nghiệm; huyền bí, nhưng là người quyết liệt cải cách. Một phụ nữ thánh thiện, nhưng cũng đầy nữ tính.
Têrêsa là một phụ nữ “vì Chúa”, một phụ nữ của cầu nguyện, kỷ luật và giầu lòng thương. Tâm hồn ngài thuộc về Chúa. Sự hoán cải của ngài không chỉ là một công việc tức thời, nhưng đó là một tranh đấu gian khổ suốt cả đời, bao gồm sự trường kỳ thanh luyện và đau đớn. Ngài bị hiểu lầm, bị đánh giá sai, bị chống đối khi ngài nỗ lực cải cách. Tuy nhiên ngài vẫn tiếp tục, vẫn can đảm và trung tín; ngài chống trả với chính bản thân, với bệnh tật. Và trong cuộc chiến đấu ấy, ngài luôn bám víu lấy Thiên Chúa trong lời cầu nguyện. Những văn bản của ngài về sự cầu nguyện và chiêm niệm là chính những kinh nghiệm bản thân của ngài: thật mạnh mẽ, thật thiết thực và thanh cao. Một phụ nữ của cầu nguyện, một phụ nữ vì Chúa.
Têrêsa cũng là một phụ nữ “vì tha nhân.” Qua sự chiêm niệm, ngài dành nhiều thời giờ và sức lực để tìm cách thay đổi chính ngài và các nữ tu Camêlô, để đưa họ trở về với những quy tắc ban đầu của nhà dòng. Ngài sáng lập trên sáu tu viện mới. Ngài đi đây đó, viết lách, chiến đấu — luôn luôn để canh tân, để cải tổ. Trong chính bản thân ngài, trong lời cầu nguyện, trong đời sống, trong nỗ lực cải tổ, trong tất cả mọi người ngài gặp, ngài là người phụ nữ vì tha nhân, người phụ nữ làm phấn khởi cuộc đời.
Vào năm 1970, Giáo Hội ban cho ngài một danh hiệu mà người đời đã nghĩ đến từ lâu:
Tiến Sĩ Hội Thánh. Ngài là người phụ nữ đầu tiên được vinh dự này.
Lời Bàn
Ngày nay chúng ta sống trong một thời đại nhiều xáo trộn, thời đại cải tổ và thời đại giải phóng. Các phụ nữ thời đại có thể nhìn đến Thánh Têrêsa như một thách đố. Thúc giục canh tân, thúc giục cầu nguyện, tất cả đều có trong con người Thánh Têrêsa là người đáng khâm phục và noi gương.
Lời Trích
ThánhTêrêsa hiểu rõ giá trị của sự đau khổ liên tục (bệnh tật thể xác, không muốn cải tổ, khó khăn cầu nguyện), nhưng ngài đã luyện tập để có thể chịu đau khổ, ngay cả khao khát đau khổ: “Lạy Chúa, hoặc là đau khổ hoặc là chết.” Cho đến gần cuối đời, ngài đã kêu lên: “Ôi lạy Chúa! Thật đúng là bất cứ ai làm việc cho Ngài đều được trả bằng những khó khăn! Và đó thật đáng giá cho những ai yêu mến Ngài nếu chúng con hiểu được giá trị của nó.”
nguồn Maria Thanh Mai gởi