Thánh Lêô I – Giáo Hoàng thứ 45

Nguyện xin sự bình an của Thiên Chúa luôn ở cùng bạn và gia đình. Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Lêo Cả, Giáo hoàng, Tiến sĩ Hội Thánh (390-461). Mừng quan thầy đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Sinh năm 400 tại Tuscany, nước Ý. Ngài là đại phó tế và phụ tá của giáo đoàn Roma, một chức vụ quan trọng đại diện Đức Thánh Cha trong các công việc hành chánh… Ðược chọn làm Giáo Hoàng thứ 45 kế vị Thánh Phêrô vào ngày 29 tháng 9 năm 440, ngài làm việc không ngừng, hướng dẫn các giám mục dưới quyền như “những người ngang hàng về quyền bính cũng như sự yếu đuối con người.”

Thánh Lêô I nổi tiếng là một trong các giáo hoàng giỏi về quản trị trong thời Giáo Hội xưa. Sự nghiệp của ngài được chia ra làm bốn lãnh vực chính, chứng tỏ ngài có cái nhìn chính xác về trách nhiệm tổng quát của một giáo hoàng đối với đàn chiên của Ðức Kitô. Thứ nhất, ngài kiên trì chống với bè rối Pelagian, Manichae và các bè rối khác, ngoài ra ngài cũng áp đặt các quy luật để duy trì sự chân thực của đức tin Kitô Giáo. Lãnh vực thứ hai mà ngài lưu tâm là sự mâu thuẫn với Giáo Hội Ðông Phương về bản tính của Ðức Kitô mà ngài đã giải quyết bằng thư từ. Thứ ba, với đức tin mạnh mẽ, ngài còn lãnh đạo Rôma chống lại sự tấn công của quân man rợ, xứng đáng với vai trò bảo vệ hòa bình.

Ngài triệu tập Công Đồng Chung năm 541 tại Chalcedone với sự tham dự của hơn 630 Giám Mục để công bố về giáo lý song tính của Chúa Kitô [Đức Tin về mầu nhiệm Nhập Thể]

Sự  nghiệp của Thánh Lêô I luôn được đề cao trong ba lãnh vực này. Ngoài ra, sự thánh thiện của ngài dựa trên nền tảng tinh thần sâu xa mà qua đó ngài thi hành công tác mục vụ cho đoàn chiên là lãnh vực thứ tư mà ngài hằng lưu tâm. Ngài nổi tiếng về những bài giảng thật sâu xắc. Là một khí cụ mời gọi mọi người nên thánh, được thấm nhuần Phúc Âm và luôn ý thức đến Giáo Hội, Thánh Lêô I đã đáp ứng được những nhu cầu tinh thần của tín hữu thời ấy.

Ngài từ trần ngày 11 tháng 4 năm 461 tại Roma, để lại nhiều văn bản và thư từ có giá trị lịch sử. Cùng với Đức Gregory I, ngài được lịch sử gọi là Giáo Hoàng Cả vì có công lớn trong việc giữ gìn sự hợp nhất trong Giáo Hội. Đức Giáo Hoàng Benedictus XIV đã tuyên xưng Thánh Giáo Hoàng Leo I là Tiến Sĩ Hội Thánh ngày 15 tháng 10 năm 1754. (Ns Người Tín Hữu online)

Mời bạn suy niệm những câu nói của ngài sau đây để sống xứng đáng là con của Chúa nhé:

❦  Chúa đã đặt gánh nặng cho con, xin Chúa gánh với con, xin Chúa hãy là người hướng dẫn và nâng đỡ con.

❦  Trên bia mộ của Ngài: “Tôi canh chừng kẻo lang sói luôn rình mò phá phách đoàn chiên”.

❦  Các con được thấm nhập vào Chúa.

❦ Trong tâm hồn mỗi tín hữu còn có cái trên trời mà người ta thán phục”.

❦ Nước Trời không đến với những người ngủ mê.

Câu nào đánh động bạn nhất?

Thánh Martinô Porres

Thánh Martinô Porres

Mến chào, hôm nay 3/11 Giáo hội mừng kính Thánh Martinô Porres—1579-1639 (St. Martin de Porres) Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy. 

Cha Vương

Thư 3: 03/11/2020

  Thánh Martin sinh ngày 09 tháng 12 năm 1579 tại Peru, Lima. Ngài là đứa con bất hợp pháp của một nhà quý tộc Tây Ban Nha ở Lima, Peru và một phụ nữ Panama. Martin giống mẹ nên có nước da ngăm ngăm, và điều này làm cha ngài khó chịu, do đó mãi tám năm sau ông mới chịu nhận Martin là con.

Sau khi sinh đứa thứ hai, ông bỏ rơi gia đình. Martin lớn lên trong cảnh nghèo nàn, thuộc giai cấp bần cùng của xã hội Lima. Lúc 12 tuổi, mẹ ngài cho theo học nghề cắt tóc và giải phẫu, nên ngoài việc cắt tóc, ngài còn biết cách lấy máu (sự chữa trị rất phổ thông thời ấy), biết chăm sóc vết thương và biết chích thuốc.

Sau vài năm hành nghề, Martin xin vào dòng Ða Minh làm “người giúp việc,” vì ngài cảm thấy không xứng đáng để làm thầy dòng. Sau chín năm, gương mẫu đời sống cầu nguyện và hãm mình, bác ái và khiêm nhường của ngài khiến cộng đoàn phải yêu cầu ngài khấn trọn.

Ngài cầu nguyện hằng đêm và sống khắc khổ; công việc hàng ngày của ngài là chăm sóc bệnh nhân và người nghèo. Ngài coi mọi người như nhau, bất kể mầu da, sắc tộc hay địa vị xã hội. Ngài là cột trụ trong việc thành lập cô nhi viện, chăm sóc người nô lệ từ Phi Châu và trông coi việc bố thí của nhà dòng. Ngài trở nên nổi tiếng trong nhà dòng cũng như ngoài thành phố, dù đó là vấn đề “chăn màn, quần áo, đèn nến, bánh kẹo, phép lạ hay lời cầu nguyện!” Khi nhà dòng bị nợ quá nhiều, ngài nói với cha bề trên, “Con chỉ là một đứa con lai nghèo hèn. Cha hãy bán con đi. Con là sở hữu của nhà dòng. Hãy bán con đi để trả nợ.”

     Ngoài những công việc hàng ngày như nấu ăn, giặt giũ và chăm sóc bệnh nhân, Thiên Chúa còn ban cho ngài những ơn sủng đặc biệt: được xuất thần bay bổng trên không, căn phòng rực sáng khi ngài cầu nguyện, ơn lưỡng tại (ở hai nơi cùng một lúc), ơn hiểu biết cách lạ lùng, ơn chữa bệnh và chế ngự các thú vật cách tài tình. Lòng bác ái của ngài còn nới rộng đến các thú vật ở ngoài đồng hay chó mèo trong phố và ngay cả chuột bọ trong bếp.

      Nhiều tu sĩ thời ấy coi ngài như vị linh hướng, nhưng ngài vẫn tự coi mình là “người nô lệ nghèo hèn.” Ngài còn là bạn của Thánh Rosa ở Lima. Ngài qua đời ngày 3 tháng 11 năm 1639. Tất cả dân chúng thành phố Lima, từ vị Phó vương đến những người ăn xin đều sững sốt và buồn bã khi nghe tin ngài từ trần. 

     Ngài được Đức Giáo Hoàng Pius IX tôn phong Chân Phúc năm 1873. Thủ tục phong thánh rất chậm chạp, mãi cho đến ngày 19 tháng 5 năm 1962 Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII mới tuyên phong thầy Martin lên hàng hiển thánh và là vị thánh da đen đầu tiên của Châu Mỹ, quan thầy của những người tranh đấu cho công bình xã hội.

     Lạy Thánh Martino rất khiêm nhường, lòng thương yêu nồng nhiệt của Người chẳng những che chở các anh em túng nghèo, mà lại cả những thú vật ngoài đồng, thật là gương huy hoàng của đức bác ái, chúng tôi kính mừng và cầu khấn Người. Từ tòa cao Người ngự, xin đoái thương nhậm lời anh em túng nghèo kêu xin, để chúng tôi được bắt chước nhân đức Người mà yên vui trong địa vị Chúa đã đặt, và được mạnh mẽ, can đảm vác Thánh Giá theo chân Chúa Cứu Thế và Mẹ Sầu Bi, sau hết được về nước Thiên Ðàng. Vì công nghiệp Chúa Giêsu Kitô là Chúa chúng tôi – Amen.

(Kinh Thánh Martinô Porres)

Thánh Maria Faustina sứ điệp của lòng thương xót Chúa

Thánh Maria Faustina sứ điệp của lòng thương xót Chúa

Hôm nay 05/10, Giáo hội mừng kính Thánh Maria Faustina sứ điệp của lòng thương xót Chúa, ước mong bạn cảm nhận được tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Mừng quan thầy đến những ai chọn ngài làm bổn mạng nhé.

Cha Vương

***

Thánh Nữ Faustina Kowalska (05/10)

Khi vị thánh nữ này cất tiếng khóc chào đời tại Ba Lan ngày 25 tháng Tám năm 1905, thì song thân thánh nữ đã đặt tên cho ngài là Helen. Trong cuộc đời ngắn ngủi tại thế, Helen đã thực hiện một sứ vụ quan trọng là dạy cho thế giới biết về Lòng Thương Xót của Đức Chúa Giêsu. Ngay từ lúc lên 7, Helen đã muốn sống cuộc đời tận hiến cho Thiên Chúa như một nữ tu. Khi được 25 tuổi, Helen vào tu trong dòng Chị Em Con Đức Mẹ Thương Xót, và nhận tên là sơ Maria Faustina.

     Công việc của sơ Maria Faustina thật giản dị. Sơ nấu ăn, làm vườn và giữ cửa cho tu viện. Chỉ có sự tốt bụng, trầm lặng và hồi tâm là đáng lưu ý. Và ít có người biết được những chiều sâu đích thực về đời sống tâm linh của sơ Faustina. Thiên Chúa đã chúc lành cho sơ Faustina Maria bằng nhiều ân sủng đặc biệt, kể cả ơn thị kiến, ơn tiên tri và ơn được nhận năm Dấu Thánh cách vô hình.

     Trong một thị kiến mà sơ Maria Faustina nhận được, Chúa Giêsu đã hiện ra trong y phục màu trắng. Người giơ cao một tay để chúc lành và tay kia thì chạm vào Thánh Tâm Người. Có hai tia sáng phát ra từ Thánh Tâm Chúa Giêsu, một màu đỏ và một màu nhạt. Tia sáng đỏ tượng trưng cho Máu cứu chuộc của Chúa Kitô, còn tia xanh nhạt biểu trưng nước thanh tẩy trong bí tích Rửa tội. Chúa Giêsu nói: “Con hãy cho vẽ lại bức ảnh như con xem thấy Cha, kèm theo dòng chữ: Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa!” Chúa Giêsu đã nói với sơ Maria Faustina rằng Chúa nhật sau lễ Chúa Phục Sinh sẽ được gọi là Chúa nhật kính Lòng Thương Xót.

      Sơ Maria Faustina đã viết nhật ký, chép lại mọi điều Chúa Giêsu muốn cho thế giới biết về Lòng Thương Xót của Người. Trong đó, Maria Faustina đã viết những lời cầu nguyện thật dễ thương, biểu lộ mối tương quan rất mực thân thiết đối với Đức Chúa Giêsu. Và Đức Chúa Giêsu nói với Maria Faustina rằng thánh nữ chính là thư ký nhỏ của Người. Chính công việc đặc biệt của thánh nữ Maria Faustina đã khích lệ nhiều người tin tưởng vào Lòng Thương Xót vô hạn lượng của Thiên Chúa.

     Chúa Giêsu hứa ban ơn tha thứ và ân sủng dư tràn cho bất cứ ai tôn sùng lễ kính Lòng Thương Xót Chúa. Tận hiến cho Lòng Thương Xót Chúa bao gồm tin tưởng vào lòng nhân hậu Chúa, yêu thương tha nhân, năng lãnh nhận bí tích Hòa giải để luôn ở trong tình trạng có ân sủng và rước lễ ngày Chúa nhật kính Lòng Thương Xót Chúa.

     Chỉ sau 13 năm sống trong bậc tu trì, sơ Maria Faustina Kowalska đã về trời vào ngày mùng 5 tháng Mười năm 1938 vì bệnh lao phổi, vừa tròn 33 tuổi.

     Chúa Giêsu đã nói với thánh nữ Maria Faustina Kowalska: “Cha mong muốn con hãy luôn bày tỏ lòng thương xót ra khắp mọi nơi. Con không thể tự biện minh gì về điều này!” Phương thế tốt nhất để chứng tỏ chúng ta tin cậy vào Lòng Thương Xót của Đức Chúa Giêsu là biết tỏ bày lòng thương xót và luôn tha thứ cho những người xúc phạm đến chúng ta. Chúng ta có sẵn lòng cùng nhau thực hiện như vậy không? Vậy hôm nay mời bạn dành thời gian lần chuỗi Lòng Thương Xót Chúa để đền tội mình và tội lỗi của toàn thế giới. Sau đây là câu nói của ngài:

❦ Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh! Bao nhiêu lần hít thở, bao nhiêu lần nhịp tim đập, bao nhiêu lần dòng máu luân chuyển trong cơ thể con là bấy nhiêu ngàn lần con muốn tôn vinh Lòng Thương Xót Chúa. (Thánh Faustina)

❦ Chúa Thánh Thần không nói với một linh hồn chia trí và lắm lời. Chúa Thánh Thần nói qua những soi động lặng lẽ của người với một linh hồn tịnh tâm, một linh hồn biết giữ thinh lặng. (Thánh Faustina)

Câu nào đánh động bạn nhất?

Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu và mối tình mang tên Việt Nam

 Ngoc Bich

Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu và mối tình mang tên Việt Nam

Trong căn nhà nhỏ đượm nét Pháp, khách hành hương ghé thăm chị Thánh Têrêsa có thể tìm bản hướng dẫn bằng Tiếng Việt. Tôi không rõ cô quản lý nhà biết rằng có nhiều đoàn Việt đến thăm quan hay không nhưng nếu được hỏi, người Công giáo Pháp đạo hạnh ấy sẽ thủ thỉ cho bạn đôi điều về mối tình của chị Thánh với đất nước Việt Nam.

An Duyên – TNV Vatican News

 Ước muốn đến Việt Nam

Ơn gọi của con là tình yêu’’, câu nói ấy của chị Thánh Têrêsa đã chạm vào lòng Hội Thánh. Một cô gái sống 24 năm trên cuộc đời nhưng lại là một vị đại thánh, Tiến sĩ của Hội Thánh nhờ những cánh hoa tốt lành nhỏ bé. Chị là một trong vị thánh nổi tiếng nhất trong lịch sử Giáo hội Công giáo. Từ năm bốn tuổi, chị sống cùng gia đình tại Lisieux thuộc vùng Normandie nước Pháp. Vì thế mà người ta vẫn gọi chị là Thánh Têrêsa thành Lisieux ngoài cái tên kính trọng, Têrêsa Hài Đồng Giê-su và Nhan Thánh (1873-1897).

Lớn lên trong một gia đình thánh đức, cha mẹ chị là ông Louis Martin và bà Zélie-Marie Guérin đã được ĐTC Phanxicô tuyên thánh ngày 18/10/2015. Năm 16 tuổi, chị bắt đầu cuộc sống của mình tại tu viện dòng Kín Cát Minh. Từ những tháng ngày đó, chị bắt đầu viết cuộc đời nên thánh của mình bằng những hy sinh nhỏ nhặt của mình. Vào mùa Chay năm 1896, Têrêsa có triệu chứng ho ra máu. Từ đó, bệnh tật là một Thánh giá mà Têrêsa đeo trên mình. Và, Thánh giá ấy đã trổ hoa.

Trong cái đau của bệnh tật, chị ước ao trở thành linh mục, được bước chân đi truyền giáo. Trong sách “Histoire d’une ame” (Truyện một tâm hồn), chị đã ghi lại thao thức của mình: “… si la sainte Vierge me guérit, je desire répondre à l’appel de nos Mères d’Hanoi’’ (Nếu Thánh nữ Đồng trinh chữa con lành bệnh, con ước ao đáp lời mời gọi của Mẹ tại Hà Nội) – trích chương IX trong Truyện một tâm hồn.  Nguyên trang trên ghi lại những nguyện ước của chị Thánh nếu người được chữa khỏi bệnh. Nhưng, những ước ao ấy đã được Chúa cất giữ và cho chị ra đi vào năm 24 tuổi, để câu chuyện tình yêu ấy được viết tiếp bởi người em thiêng liêng, Marcel Văn. 

Truyện một tâm hồn – cuốn sách được xuất bản năm 1898 ngay sau chị Thánh qua đời. Hiện nay, sách được dịch ra hơn 50 ngôn ngữ khác nhau. Ảnh: An Duyên

 Marcel Văn, người em thiêng liêng tại nước Việt

Nếu bạn may mắn gặp một người Công giáo Pháp, họ sẽ nhắc với bạn một cái tên mà người Pháp yêu mến: Marcel Văn. Sau những vụ tấn công khủng bố xảy ra tại Pháp năm 2015, một lời nguyện cho nước Pháp được “râm ran” hơn: “Lạy Chúa Giê-su, Người giàu lòng trắc ẩn với nước Pháp…”. Những lời nguyện này được thầy Marcel Văn, người Việt viết ra cho dù chưa một lần đặt chân đến nước Pháp. Đó là lời nguyện, là câu chuyện “tình thánh” giữa Têrêsa và Marcel Văn.

Thầy Marcel Văn có tên là Gioakim Nguyễn Tân Văn, sinh ra tại làng Ngăm Giáo, thuộc giáo phận Bắc Ninh, Việt Nam. Từ nhỏ, thầy đã có một ước ao mãnh liệt được trở thành linh mục và được nên thánh. Thầy đã được người mẹ đức hạnh Anna Maria Tế gửi vào nhà Chúa. Thầy đã từng sống tại giáo xứ Hữu Bằng (1935-1941) và sau đó theo học Tiểu chủng viện tại Lạng Sơn. Tại đây, câu chuyện “chị thiêng liêng” bắt đầu.

Trong giờ Chầu tại chủng viện, Văn bắt đầu tìm kiếm cuốn sách thiêng liêng về vị Thánh mà mình có thể theo bước. Và cuốn sách trong linh hứng của Chúa là Truyện một tâm hồn. Trong nhật ký của mình, thầy viết “… Con lại cả dám ước ao xin Mẹ một điều là chớ chi con được Mẹ yêu thương đùm gối như bông hoa trắng tuyết Têrêsa của Mẹ hồi xưa. Con cũng ao ước giá Mẹ ban cho con bà thánh ấy để làm thầy dạy dỗ con trên con đường nhỏ bé của Người thì Mẹ biết con sung sướng dường nào”. “Con vào nhà thờ, đến quỳ trước tượng thánh Têrêsa và chân thành nói với thánh nữ: Têrêsa, từ nay chị là chị của em” [1] [1] Marie-Chichel: Tình yêu không thể chết– Tr. 162-163. 

Nhóm thân hữu Marcel Văn đã xuất bản rất nhiều sách, truyện tranh thiếu nhi về cuộc đời của thầy Marcel Văn. Ảnh: Les amis de Van

Khi dòng người di cư vào Nam sau năm 1954, thầy Văn quyết định trở lại miền Bắc. Ngày 7/7/1955, thầy Marcel bị bắt, phải đi cải tạo trong nhà tù và chết tại đây năm 1959, khi thầy mới 31 tuổi. Thầy Marcel đã được nâng lên hàng tôi tớ Chúa nhờ con đường nên thánh nhỏ bé cùng chị Têrêsa. Hiện nay, quá trình phong thánh vẫn đang được tiến hành bởi nhóm thân hữu Marcel Văn “Les amis de Van” tại Pháp.

Mượn lời nguyện của thầy Marcel để tạm kết cho câu chuyện “tình yêu” của vị Thánh nữ Têrêsa qua chính ước nguyện tiếp tục được thực hiện trên đất Việt:

“Tôi không nhìn đâu xa

Cũng chẳng nhìn quanh quẩn…

Tôi chỉ ngắm nhìn Người tôi yêu…

Chính lúc lòng tôi yêu mến

Tôi tìm thấy hạnh phúc vô tận…

Tình yêu không thể chết”.

Văn

From: KimBằngNguyễn 

Thánh Têrêsa Hài Ðồng Giêsu (1873-1897)

01/10/2021

1 Tháng Mười

Thánh Têrêsa Hài Ðồng Giêsu
(1873-1897)

“Tôi thích sự buồn tẻ của việc hy sinh âm thầm hơn là những trạng thái xuất thần. Nhặt một cây kim vì tình yêu cũng có thể hoán cải một linh hồn.” Ðó là những lời của Thánh Têrêsa Hài Ðồng Giêsu, một nữ tu dòng Camêlô thường được gọi là “Bông Hoa Nhỏ,” người đã sống một đời âm thầm trong tu viện ở Lisieux, nước Pháp. Và quả thật, những hy sinh âm thầm của ngài đã hoán cải các linh hồn. Không mấy vị thánh của Thiên Chúa nổi tiếng như vị thánh trẻ trung này. Cuốn tự truyện của ngài, Chuyện Một Linh Hồn, được cả thế giới đọc và yêu chuộng. Tên thật của ngài là Thérèse Martin, gia nhập tu viện năm 15 tuổi và từ trần năm 1897 lúc 24 tuổi.

 Ðời sống tu viện dòng kín Camelô thật buồn tẻ và phần lớn chỉ gồm sự cầu nguyện và làm các công việc trong nhà. Nhưng Thánh Têrêsa có được sự hiểu biết sâu sắc thánh thiện để chuộc lại quãng thời gian ấy, bất kể có nhàm chán đến đâu. Ngài nhìn thấy sự đau khổ cứu chuộc trong sự đau khổ âm thầm, sự đau khổ là đời sống tông đồ của ngài. Thánh nữ nói ngài gia nhập tu viện Camêlô là “để cứu vớt các linh hồn và cầu nguyện cho các linh mục.” Và không lâu trước khi chết, ngài viết: “Tôi muốn dùng thời gian ở thiên đàng để làm những điều tốt lành cho trần gian.”

Vào ngày 19-10-1997, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II tuyên xưng ngài là Tiến Sĩ Hội Thánh, là người phụ nữ thứ ba trong Giáo Hội được công nhận về sự thánh thiện và về ảnh hưởng tinh thần của những gì ngài viết.

Lời Bàn

Thánh Têrêsa có nhiều điều để dạy chúng ta về quan niệm, về thể diện, về cái “tôi.” Chúng ta bị nguy hiểm khi nghĩ nhiều về bản thân mình, bị đau khổ khi nhận thức những nhu cầu cần phải thỏa lấp, dù biết rằng không bao giờ chúng ta thỏa mãn. Thánh Têrêsa, cũng như bao vị thánh khác, đã tìm cách phục vụ người khác, thực hiện những gì không phải cho chính mình, và quên mình trong những hành động âm thầm của tình yêu. Ngài là một trong những thí dụ điển hình của sự mâu thuẫn trong phúc âm mà khi hiến thân là khi được nhận lãnh, khi chết đi là khi vui sống muôn đời.

Sự bận rộn với bản thân đã tách biệt con người thời nay với Thiên Chúa, với đồng loại và thực sự xa rời với bản thể. Chúng ta phải học cách quên mình, để suy niệm về một Thiên Chúa là Ðấng mời gọi chúng ta thoát ra khỏi sự ích kỷ để phục vụ người khác. Ðây là cái nhìn sáng suốt của Thánh Têrêsa Lisieux, và ngày nay cái nhìn ấy có giá trị hơn bao giờ hết.

Lời Trích

Thánh Têrêsa phải chịu đau khổ vì bệnh hoạn trong suốt cả cuộc đời. Khi còn nhỏ, ngài phải trải qua ba tháng đau từng cơn, mê sảng và ngất xỉu. Sau đó, dù yếu ớt nhưng ngài làm việc vất vả trong phòng giặt quần áo và phòng ăn của tu viện. Về phương diện tâm linh, ngài phải trải qua một thời kỳ tăm tối khi ánh sáng đức tin dường như tắt ngúm. Năm cuối cùng của cuộc đời, ngài chết dần vì ho lao. Tuy nhiên, không lâu trước khi chết vào ngày 30-9, ngài thì thào, “Tôi không muốn bớt đau khổ.”

Thực sự ngài là một phụ nữ dũng cảm, không rên rỉ vì bệnh tật và lo âu. Ðây là một người nhìn thấy sức mạnh của tình yêu, mà sự biến đổi của Thiên Chúa có thể thay đổi mọi sự–kể cả sự yếu đuối và bệnh tật–thành sức mạnh phục vụ và cứu chuộc cho người khác. Không lạ gì ngài là quan thầy của công cuộc truyền giáo. Còn ai có thể thay đổi thế giới ngoài những người ôm ấp sự đau khổ của mình với tình yêu?

Trích từ NguoiTinHuu.com

THÁNH MATTHÊU TÔNG ĐỒ THÁNH SỬ

THÁNH MATTHÊU TÔNG ĐỒ THÁNH SỬ

Lm. Phaolô Phạm Quốc Tuý

Ít có ai chuộng người thu thuế.  Vào thế kỷ thứ I tại Palestine điều này còn rõ hơn nữa, khi mà họ thủ lợi được nhờ dọa dẫm và gian dối.  Nhưng dù có lương thiện đi nữa nhân viên thu thuế cũng không được cấp lãnh đạo Do thái chấp nhận vì họ làm việc cho lương dân.  Họ là người nhơ uế theo luật pháp và bị loại khỏi xã hội.  Khi nhận một người thu thuế vào môn đồ của Người, Chúa Giêsu quả đã khinh thường tiên kiến của dân chúng.

Điều cần ghi nhận là Matthêô không phải đi từ cửa nhà này tới cửa nhà khác để thu thuế.  Ông có một văn phòng tại Capharnaum, thành phố quê hương của Phêrô và đại bản doanh của Chúa Giêsu khi thi hành sứ vụ tại Galilê.

“Đi ngang qua, Ngài thấy Lêvi con của Alphê ngồi nơi sở thu thuế và Ngài nói: ‘Hãy theo Ta’ và ông đứng dậy đi theo Ngài” (Mc 2,14).

Đó là lời mời gọi làm tông đồ, rất giống lời gọi dành cho Simon và Anrê (Mc 1,16t).  Dầu vậy Lêvi không có tên trong danh sách mười hai (Mc 3,16; Mt 10,3; Lc 6,14t; Cv 113).  Ơn gọi người thu thuế được ghi lại trong Tin Mừng thứ nhất, trong đó ông được gọi là Matthêô (Mt 9,9t).  Như vậy tông đồ đồng hoá mình với Mathêô có trong danh sách các tông đồ.  Lời giải thích tự nhiên được tiếp nhận rộng rãi là Matthêô với Lêvi chỉ là một người với hai tên gọi khác nhau.  (Chẳng hạn anh em Macabê, 1Mcb 2, 2-5).  Cũng có thể chính Chúa Giêsu đã đặt tên cho Matthêô như đã đặt tên Phêrô cho Simon (Mattai theo tiếng Aramêô có nghĩa là ấn bản của Thiên Chúa).

Từ đó Matthêô bỏ sổ sách và học theo hoa đồng và chim trời, những thứ không thể tính toán cho đời sống mình (Mt 6, 25t).  Chủ nhân của ông không còn là Antipas, con cáo gian xảo (Lc 13,32) mà là một Đấng khác hẳn loài cáo, lại chẳng có lấy một căn nhà (Mt 8,20).  Sự thay đổi đã hủy diệt trọn tương lai trần gian của Matthêô.  Simon và Andrê còn có thể trở lại với nghề chài lưới, còn Matthêô bị tống khứ khỏi nghề cũ và không thể trở lại được nữa.  Trong cộng đoàn tông đồ không phải ông mà là Giuda giữ quỹ của nhóm (Ga 13, 29).

Sau khi được gọi, Matthêô biến dạng khỏi Tân ước và chỉ còn để lại tên trong danh sách các vị tông đồ.  Ngài đã ra thế nào?  Chúng ta có được một câu văn của giám mục Papias trong cuốn giải thích Lời Chúa (khoảng năm 125): “Matthêô viết một tường thuật có thứ tự về lời Chúa, theo năng khiếu của Ngài” (Eusebiô lịch sử Giáo hội III, 39).  Cuốn Tin Mừng Matthêô viết bằng tiếng Aramêô cho người Do thái trở lại.  Khi thời thế đòi hỏi, con người Matthêô bị xã hội loại bỏ ấy đã cầm lấy viết để trước tác cuốn “Tin Mừng theo thánh Matthêô.”

Theo bản văn tiếng Hy lạp còn lại, chúng ta thấy tính khí theo toán học với những con số rõ rệt: 7 dụ ngôn về nước trời, 7 lời nguyền rủa bọn biệt phái, 7 lời cầu trong kinh Lạy Cha, và có lẽ 7 mối phúc thật.  Cả con số 5 nữa: 5 cuộc tranh luận với biệt phái, 5 chiếc bánh, 5 lượng vàng, nhất là 5 phần của cuốn sách.  Sau cùng như chúng ta mong đợi có dấu chỉ về sự hiểu biết tinh tường về phương diện tài chánh như đồng bạc nộp thuế thay vì đồng “denarius” trong Mác-cô và Luca hay như thuế đền thờ, với những loại thuế gián thu, thuế phân…

Như vậy Matthêô đã chuyển nghề nghiệp cũ vào một việc phụng sự mới, từ người kế toán thành người viết Tin Mừng.  Thật không ngạc nhiên gì khi một mình Ngài ghi lại lời này của Chúa: “Phàm ký lục nào đã được thụ giáo về nước Trời thì cũng giống như gia chủ biết rút từ trong kho của ông ra điều mới và điều cũ” (Mt 13, 52).

Không có khí cụ hèn hạ nào của chúng ta mà lại không được dùng một cách hoàn hảo và xứng đáng vào việc phụng sự Chúa.

Cuốn Tin Mừng thứ nhất là một kỷ vật của thánh Matthêô được Giáo hội ưa chuộng.  Nhưng công cuộc tông đồ sau này của Ngài lại bị mai một.  Ngài đã rao giảng Tin Mừng cho người Do thái tại Palestina có lẽ trong 15 năm (Eusebiô, Lịch sử Giáo hội III, 24, 265) nhưng sự lầm lẫn giữa tên Ngài với thánh Matthias (Cv 1,26) làm chúng ta luõng lự giữa những truyền thống khác nhau.  Ethiopia, Parthia, Macedonia và cả những xứ của những kẻ ăn thịt người đều được ghi nhận là nơi thánh nhân đã làm việc tông đồ.

Thường người ta cho rằng: Ngài chịu tử đạo, nhưng ý kiến cũng không được đồng nhất.  Điều chắc chắn là Ngài đã sống đời của một vị tử đạo và thế là đủ.  Đối với chúng ta Ngài luôn luôn là một người đã biết được tiền của là gì, lẫn việc không có tiền của là gì.

Lm. Phaolô Phạm Quốc Tuý

From: Langthangchieutim

Thánh Gioan Kim Khẩu

Thánh Gioan Kim Khẩu

Mến chúc Bạn và gia đình một ngày an lành. Mời bạn thưởng thức bản nhạc điệu Tango vào buổi sáng để lấy sinh lực mà phục vụ nhé.

Cha Vương

Hôm nay 13/9, Giáo Hội mừng kính Thánh Gioan Kim Khẩu. Thánh nhân sinh tại nước Thổ nhĩ Kỳ vào năm 334 tại Antiokia. Người ta gọi Ngài là Gioan thành Antiokia, được mệnh danh là Kim Khẩu: Chrysostome. Miệng tuôn toàn những lời quí như vàng. Thánh nhân có tài hùng biện và trí khôn ngoan minh mẫn hiếm có. Gioan thành Antiokia ngay từ khi còn nhỏ đã được mẹ Ngài giáo dục với một lòng nhân ái bao la, truyền đạt cho Ngài một đức tin sắt đá và lòng hy sinh hào hiệp. Năm 373, thánh nhân được tuyển vào chức đọc sách, nhưng tài lợi khẩu, hoạt bát của Ngài đã làm say mê bao người, từ đó danh tiếng Ngài vang dội khắp nơi. Vì danh tiếng lẫy lừng nổi bật do lòng đạo đức thánh thiện và tài hùng biện có sức thuyết phục nhiều người trở về với Chúa, người ta nhất loạt tôn thánh nhân lên chức giám mục, nhưng Ngài khiêm tốn khước từ và chỉ thích ẩn mình, ăn chay, cầu nguyện. Ý Chúa lạ lùng không ai hiểu thấu, sau bốn năm sống khắc khổ, Ngài lâm bệnh dạ dầy nặng, buộc Ngài phải trở về Antiokia. Năm 386, thánh nhân lãnh nhận sứ vụ linh mục và trong cương vị linh mục, suốt 12 năm, thánh nhân đã làm say mê dân thành Antiokia nhờ lòng sốt sắng, tài ăn nói thuyết phục, miệng tuôn những lời quí như vàng và đưa rất nhiều người quay về với Chúa do lời giảng dậy của Ngài.

Thánh nhân đả phá những cổ tục mê tín, cuộc sống hào phóng, xa hoa, trụy lạc của những người giầu và kêu gọi mọi người lưu tâm đến những người nghèo. Chính thánh nhân nêu gương sáng sống nghèo và giúp đỡ người nghèo. Năm 397, Ngài được bầu làm giám mục thành Constantinople, thánh nhân lưu tâm nghiên cứu về thánh Phaolô tông đồ, cải tổ hàng giáo sĩ, thiết lập một số qui chế để thánh hóa bản thân, hủy bỏ tận căn mọi tập tục xa xỉ gây tốn phí tiền bạc, của cải, vật chất. Ngài chống đối kịch liệt các bè rối Ariô, Novatio vv. (Nguồn: Hạnh Các Thánh)

Thánh nhân qua đời vào ngày 14/7/407, Chúa thưởng công Ngài bằng vô số phép lạ sau khi Ngài chết. Ðức Thánh cha Piô X đã nâng Ngài lên bậc tiến sĩ Hội Thánh và đặt Ngài làm bổn mạng của những nhà giảng thuyết.

Mời Bạn suy niệm những câu nói vàng ngọc của Ngài sau đây nhé:

(1) Nếu bạn không tìm thấy Chúa Kitô nơi người ăn mày này, thì bạn sẽ không tìm thấy Ngài nơi chén thánh.

(2) Tội lỗi là một vết thương. Ăn năn là thuốc chữa.

(3) Cầu nguyện cho chính mình là bản năng tự nhiên; cầu nguyện cho người khác là bản năng của ân sủng.

(4) Yêu tiền bạc là một điều kinh khủng! Nó làm cho con mắt và lỗ tai không còn nghe thấy gì, khi đó con người tệ như con thú hoang dã.

(5) Tình yêu của người chồng và người vợ là sức mạnh gắn bó toàn xã hội.

(6) Dù lời của bạn có đúng cách nào, nó sẽ mất tất cả hiệu lực nếu bạn nói khi bạn giận.

Câu nào đánh động bạn nhất? (Câu 3 & 6 đánh động mình nhất)

Lạy thánh Gioan Kim Khẩu, xin ban cho chúng con biết dùng miệng lưỡi để ca tụng và cảm tạ tri ân Thiên Chúa

From: Mr Print (Dzung Do) gởi

  05-09 Thánh Têrêsa Calcutta

  05-09 Thánh Têrêsa Calcutta

httpv://www.youtube.com/watch?v=E7Gzaib7dsY&t=105s

Thánh Teresa Calcutta
(1910-1997)

Agnes Gonxha Bojaxhiu, sau này là Mẹ Têrêsa, vào đời ngày 26/8/1910 ở Skopje, Macedonia, theo huyết tộc Alnania. Cha của bé là một thương gia được trọng vọng ở địa phương, qua đời khi bé mới được 8 tuổi, để lại mẹ của bé, một người phụ nữ sốt sắng đạo hạnh, làm nghề thêu thùa như kế sinh nhai cho gia đình. Sau thời gian niên thiếu hết sức tham gia các hoạt động giáo xứ, Agnes đã rời gia đình vào tháng 9/1928 để nhập Nữ Tu Viện Loreto ở Rathfarnam (Dublin), Ái Nhĩ Lan, nơi cô đã được trở thành thử sinh ngày 12/10 và mang tên Têrêsa, tên của vị thánh quan thày là Thánh Têrêsa Hài Ðồng Giêsu.

Thử sinh Agnes đã được nhà dòng Loreto sai đến Ấn Ðộ, tới Calcutta ngày 6/1/1929. Khi đến nơi, chị thử sinh này nhập tập viện ở Darjeeling. Chị tập sinh này đã khấn trọn đời như là một sơ dòng Loreto ngày 24/5/1937, và sau đó sơ được gọi là Mẹ Têrêsa. Trong thời gian sống ở Calcutta vào thập niên 1930 và 1940, sơ đã dạy ở Trường Trung Học đệ nhất cấp Bengali Thánh Mary.

Vào ngày 10/9/1946, trên chuyến xe lửa từ Calcutta đến Darjeeling, Mẹ Têrêsa đã nhận được điều Mẹ gọi là “ơn gọi trong ơn gọi”, một ơn gọi làm phát sinh ra gia đình Thừa Sai Bác Ái của các Sư Muội, Sư Huynh, Linh Mục và Cộng Tác Viên. Nội dung của ơn soi động này được thể hiện nơi mục đích và sứ vụ Mẹ phác họa cho cơ cấu mới của Mẹ, đó là “làm giản cơn khát vô cùng của Chúa Giêsu trên thập giá vì yêu thương vì các linh hồn”, bằng “việc tận lực hoạt động cho phần rỗi và sự thánh hóa của thành phần nghèo nhất trong các người nghèo”. Vào ngày 7/10/1950, hội dòng mới Thừa Sai Bác Ái được chính thức thành lập như là một tổ chức tu trì đối với Tổng Giáo Phận Calcutta.

Suốt thập niên 1950 và 1960, Mẹ Têrêsa đã phát triển công cuộc của hội dòng Thừa Sai Bác Ái cả ở Calcutta lẫn khắp Ấn quốc. Ngày 1/2/1965, Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI đã ban Sắc Lệnh Khen Tặng cho Hội Dòng này bằng việc nâng hội dòng này lên cấp trực thuộc Tòa Thánh. Cơ sở đầu tiên được thành lập ngoài Ấn Ðộ ở Cocorote, Venezuela năm 1965. Hội dòng này lan tới Âu Châu (ở Tor Fiscale ngoại ô Rôma) và Phi Châu (Tabora, Tanzania) năm 1968.

Từ hậu bán thập niên 1960 cho đến năm 1980, hội dòng Thừa Sai Bác Ái phát triển cả về địa dư khắp thế giới lẫn về nhân số phần tử. Mẹ Têrêsa đã thành lập những nhà ở Úc Ðại Lợi, ở Trung Ðông và Bắc Mỹ Châu, cũng như mở nhà tập đầu tiên ở Luân Ðôn ngoài Calcutta. Năm 1979, Mẹ được giải thưởng Nobel Hòa Bình. Cũng trong năm nay đã có tới 158 cơ sở của hội dòng Thừa Sai Bác Ái.

Hội dòng Thừa Sai Bác Ái lan tới các nước Cộng sản vào năm 1979, với một nhà ở Zagreb, Croatia, và vào năm 1980 một nhà ở Ðông Bá Linh, cứ thể tiếp tục phát triển suốt thập niên 1980 và 1990 với những nhà ở hầu như tất cả mọi quốc gia Cộng sản, kể cả 15 cơ sở ở Liên Sô trước đây. Tuy nhiên, cho dù đã nhiều lần cố gắng, Mẹ Têrêsa cũng không thể thiết lập một cơ sở nào ở Trung Hoa.

Mẹ Têrêsa đã nói trước Tổng Hội Ðồng Liên Hiệp Quốc vào tháng 10/1985, dịp kỷ niệm thành lập 40 năm của tổ chức này. Vào ngày áp Lễ Giáng Sinh cùng năm, Mẹ đã mở “Món Quà Yêu Thương” ở Nữu Ước, nhà đầu tiên Mẹ đã thiết lập cho các bệnh nhân bị chứng liệt kháng AIDS. Những năm sau đó các nhà khác theo nhau xuất hiện, ở Hiệp Chủng Quốc cũng như ở các nơi khác, đặc biệt dấn thân cho những ai mắc hội chứng liệt kháng này.

Từ cuối thập niên 1980 tới hết thập niên 1990, mặc dù tăng phát vấn đề sức khỏe, Mẹ Têrêsa cũng du hành khắp thế giới về vấn đề khấn hứa của các tập sinh, vấn đề mở các nhà mới, cũng như vấn đề phục vụ thành phần nghèo khổ và gặp tai ương hoạn nạn. Những cộng đồng mới được thành lập ở Nam Phi Châu, ở Albania, Cuba và Iraq tàn khốc chiến tranh. Cho tới năm 1997, con số Nữ Tu lên đến gần 4 ngàn phần tử, và được thiết lập ở hầu hết 600 cơ sở ở 123 quốc gia trên thế giới.

Sau một mùa thu đi đến Rôma, Nữu Ước và Washington, với tình trạng sức khỏe suy yếu, Mẹ Têrêsa trở lại Calcutta vào tháng 7/1997. Vào lúc 9 giờ 30 tối ngày 5/9, Mẹ Têrêsa qua đời ở Nhà Mẹ của Hội Dòng. Thân thể của Mẹ được chuyển đến Nhà Thờ Thánh Tôma, gần nữ tu viện Loreto, nơi đầu tiên Mẹ đã đến Ấn Ðộ gần 69 năm trước. Hằng trăm ngàn người thuộc tất cả mọi tầng lớp và mọi tôn giáo, từ Ấn Ðộ cũng như ngoại quốc đã tỏ lòng ngưỡng mộ Mẹ. Mẹ đã được quốc táng vào Ngày Thứ Bảy 13/9/1997, thi thể của Mẹ đã được rước trên chiếc xe đã từng chở thi thể của Mahandas K. Gandhi và Jawaharlal Nehru, qua các đường phố Calcutta. Các vị tổng thống, thủ tướng, nữ hoàng và đặc sứ thay mặt quốc gia trên khắp thế giới đã hiện diện trong cuộc lễ an táng Mẹ.

Không đầy hai năm sau ngày qua đời, do sự thánh thiện mà mọi người đã đồng thanh ca ngợi và những báo cáo về các ơn thiêng nhận được qua Mẹ, nên Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã cho phép tiến hành xem xét hồ sơ phong thánh cho Mẹ. Ngày 20 tháng 12 năm 2002, ngài phê chuẩn sắc lệnh công nhận nhân đức anh hùng và các phép lạ của Mẹ.

Ngày 19 tháng 10 năm 2003, Mẹ được nâng lên hàng chân phước. Mẹ là người được phong chân phước nhanh nhất trong lịch sử giáo hội từ trước đến nay: chỉ 6 năm sau ngày qua đời. Trước Mẹ, thánh Gioan Bosco và thánh Maximilian Kolbe được phong chân phước 30 năm sau ngày qua đời và là những người được phong chân phước nhanh nhất Ngày 4 tháng 9 năm 2016, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã chủ sự thánh lễ tuyên thánh cho Mẹ.

https://dongten.net/2019/09/04/hanh-cac-thanh-05-09-thanh-teresa-calcutta/

LIÊN HỢP QUỐC PHÁT HÀNH CON TEM ĐỂ TÔN VINH MẸ TÊRÊSA

Make Christianity Great As Always is at United Nations.

 New York, NY 

LIÊN HỢP QUỐC PHÁT HÀNH CON TEM ĐỂ TÔN VINH MẸ TÊRÊSA

Một con tem của Liên Hợp Quốc dùng để tôn vinh một vị thánh Công giáo?

Đúng vậy. Vào ngày 12 tháng 8, Liên Hợp Quốc đã phát hành một con tem tưởng niệm tôn vinh Mẹ Têrêsa, một trong những người phụ nữ và nhà truyền giáo Công giáo nổi tiếng nhất trong thế kỷ 20. Ở bên phải con tem xuất hiện một trong những lời trích dẫn nổi tiếng nhất của Mẹ Têrêsa: “Không phải ai trong chúng ta cũng có thể làm được những điều lớn lao. Nhưng chúng ta có thể làm những điều nhỏ bé với tình yêu lớn lao.”

Như đã được viết trong lời mô tả của Liên Hợp Quốc:

“Trong hơn 45 năm, Mẹ đã phục vụ người nghèo, bệnh tật, mồ côi và hấp hối, đồng thời hướng dẫn việc mở rộng Hội Thừa Sai Bác Ái, đầu tiên là ở Ấn Độ và sau đó là ở các quốc gia khác, bao gồm cả việc xây dựng các nhà tế bần và nhà ở cho người nghèo và người vô gia cư.”

Liên Hợp Quốc là tổ chức phi nhà nước duy nhất trên thế giới có đặc quyền phát hành tem của riêng mình. Kể từ năm 1951, Cơ quan Bưu chính Liên Hợp Quốc đã phát hành tem, theo đề xuất năm 1947 của Argentina. Một thỏa thuận đã đạt được với các cơ quan bưu chính Hoa Kỳ yêu cầu tem phải có mệnh giá bằng tiền của Hoa Kỳ và chỉ được sử dụng tại Trụ sở Liên Hợp Quốc.

Các thỏa thuận sau đó giữa Liên Hợp Quốc, Thụy Sĩ và Áo đã cho phép tem của Liên Hợp Quốc được phát hành bằng đồng franc Thụy Sĩ và schillings của Áo (sau này là đồng Euro). Do đó, Liên Hợp Quốc là cơ quan bưu chính duy nhất phát hành tem bằng ba loại tiền tệ khác nhau – đôla Mỹ, franc Thụy Sĩ và Euro.

Dựa trên các mục tiêu của mình, những con tem của Liên Hợp Quốc chính là những thông điệp về các chủ đề phổ biến hoặc về các ngày lễ tưởng niệm dành cho những người đàn ông và phụ nữ có ảnh hưởng trong lịch sử.

Đây không phải là lần đầu tiên Liên Hợp Quốc tôn vinh Mẹ Têrêsa vì đã phục vụ những người nghèo nhất trong số những người nghèo. Năm 2012, Liên Hợp Quốc đã thiết lập ngày 5 tháng 9 là Ngày Quốc tế về Bác ái, với trọng tâm là giúp đỡ những người gặp khó khăn thông qua hoạt động từ thiện và tình nguyện. Việc lựa chọn ngày đó không phải là ngẫu nhiên, Liên Hợp Quốc giải thích:

“Ngày 5 tháng 9 được chọn để kỷ niệm là ngày mất của Mẹ Têrêsa thành Calcutta… Trong hơn 45 năm, Mẹ đã phục vụ những người nghèo, bệnh tật, mồ côi và hấp hối, đồng thời hướng dẫn việc mở rộng Hội Thừa Sai Bác ái, đầu tiên bên trong Ấn Độ và sau đó là ở các quốc gia khác, bao gồm các nhà tế bần và nhà ở cho những người nghèo nhất và vô gia cư. Công việc của Mẹ Têrêsa đã được nhìn nhận và ca ngợi trên khắp thế giới và Mẹ đã nhận được một số giải thưởng và danh hiệu, bao gồm cả giải Nobel Hòa bình. Mẹ Têrêsa qua đời vào ngày 5 tháng 9 năm 1997, hưởng thọ 87 tuổi.”

Hai sự công nhận của Liên Hợp Quốc về Mẹ Têrêsa – con tem “Làm những việc nhỏ bé với tình yêu lớn lao” và sự công nhận Ngày Quốc tế về Bác ái – bổ sung cho nhau. Hãy để tôi giải thích.

Đối với Mẹ Têrêsa, yếu tố quan trọng nhất chính là tình yêu và sự cống hiến mà một người dành để bước theo lời mời gọi của một người khác, và đây là điểm mấu chốt trong thông điệp và công việc đời sống của Mẹ. Trong khi có một lời mời gọi với nhiều cách diễn đạt khác nhau, nhưng phương châm của Mẹ luôn giống nhau – làm những việc nhỏ bé với một tình yêu lớn lao và sống lời mời gọi của mình ở bất kỳ nơi nào với sự cống hiến to lớn. Mẹ đã trải qua cái khao khát mãnh liệt đó bằng một tình yêu giống như vậy – tình yêu vô bờ của Mẹ dành cho những người nghèo nhất trong số những người nghèo, dành cho anh chị em và những thành viên trong gia đình của Mẹ thật mãnh liệt. Mẹ đã yêu cho đến đau đớn, và trong cuộc đời của Mẹ, Mẹ đã làm thỏa lòng tất cả những tình yêu này bằng cách phản chiếu nguyên mẫu – là Chúa Giêsu.

Phương châm “Làm những việc nhỏ bé với tình yêu lớn lao” nói lên lòng tôn kính suốt đời của Mẹ dành cho Thánh Têrêsa thành Lisieux (1873-1897), người cùng tên với Mẹ Têrêsa. Phương cách “con đường nhỏ” của Thánh Têrêsa Hài đồng – điều nhắc nhớ chúng ta rằng những điều bình thường của cuộc sống, khi được thực hiện với tình yêu thương phi thường, sẽ được biến đổi thành một điều gì đó phi thường – đã trở thành nguyên tắc sống của Mẹ Têrêsa. Mẹ luôn sẵn sàng đóng góp phần nhỏ bé của mình để làm vơi đi nỗi đau và vác lấy thập giá, như mẹ đã nói trong chuyến thăm năm 1984 đến đất nước Ethiopia đang bị nạn đói hoành hành. Mẹ đã không ngần ngại thực hiện phần việc nhỏ bé của mình để giúp đỡ quốc gia đói khát nhất thế giới:

“Ethiopia là một đồi Canvê mở rộng, chứ không phải là một địa ngục rộng mở. Bạn và tôi có thể làm phần việc nhỏ của mình và rồi sự sống sẽ được cứu nguy.”

Trong khi làm “những việc nhỏ bé với tình yêu lớn lao”, Mẹ Têrêsa đã trở thành một trong những người ủng hộ nồng nhiệt nhất về quyền con người mà đối với Mẹ, bắt đầu bằng quyền sống, quyền cơ bản nhất trong số các quyền con người. Đối với Mẹ, Chúa Giêsu đã tự đồng hóa mình với những người nghèo, người bên lề, người phong cùi, người chưa được sinh ra, người nhỏ bé và không có tiếng nói – những quyền mà Mẹ đang ở tuyến đầu bảo vệ. Vì vậy, sự bảo vệ mạnh mẽ của Mẹ đối với sự sống từ khi thụ thai cho đến khi chết tự nhiên là một vấn đề nhân phẩm và nhân quyền mang tính Kitô học và quy hướng Kitô giáo sâu sắc. Mẹ biết rằng những người nam, người nữ và trẻ em (được sinh ra và chưa được sinh ra) đều được tạo dựng vì những điều tuyệt diệu – để yêu và được yêu – và Chúa Giêsu Kitô vừa là nền tảng vừa là nguồn gốc của mọi quyền đó.

Sự bảo vệ nhân quyền và phẩm giá con người của Mẹ Têrêsa đã đem về cho Mẹ một vị trí danh dự tại Hành lang Nhân quyền của Nhà thờ Chánh toà Quốc gia ở Washington D.C. (thuộc Giáo hội Giám nhiệm). Hành lang Nhân quyền của Nhà thờ Chánh toà được dành riêng cho những cá nhân “đã có những hành động đầy ý nghĩa, sâu sắc và có tính thay đổi đời sống trong cuộc đấu tranh vì nhân quyền, công bằng xã hội, dân quyền và hạnh phúc của những người khác”.

Ngoài ra, đức mến đối thần là một bước tiến tới sự hoàn thiện Kitô giáo. Tình yêu và lòng bác ái song hành cùng nhau. Bác ái là tình yêu của Thiên Chúa, mà trong đó con người tham dự vào công việc của Thiên Chúa, hay có được sở thích để yêu thương như Thiên Chúa.

Nếu phương châm của Mẹ Têrêsa được áp dụng cho đức mến, thì Mẹ đã làm những việc nhỏ bé với lòng mến cao cả, đã yêu thương những người mình phục vụ và noi gương tình yêu quên mình hy sinh của Chúa Kitô. Mẹ đã trân trọng Thiên Chúa trên tất cả mọi sự vì chính Người và trân trọng nhân loại vì chính Chúa. Mọi người đều có thể trở thành một nhà thừa sai bác ái chỉ cần qua tình yêu và sự phục vụ khiêm nhường, đều có thể khám phá ra khuôn mặt của Chúa Giêsu dưới lớp cải trang sầu khổ của người nghèo. Do đó, tình yêu và lòng bác ái gắn kết với nhau và trở thành dấu chỉ xác định sứ mệnh của Thánh Têrêsa thành Calcutta là làm những việc nhỏ bé với tình yêu và lòng bác ái lớn lao. Cả cuộc đời, Mẹ đã kiên vững cho cả hai điều trên.

Con tem tưởng niệm của Liên Hợp Quốc mang đến một cơ hội cho thế giới – nơi vốn đang rất cần những điều nhỏ bé được thực hiện với tình yêu thương và lòng bác ái lớn lao – để ngẫm nghĩ về phương châm và Sứ mệnh của Mẹ Têrêsa. Có lẽ con tem sẽ giúp chúng ta thức tỉnh khỏi mọi điều tự mãn để làm những việc nhỏ bé – nhỏ như viết một bức thư, dán một con tem và gửi đi bức thư đó – với tình yêu lớn lao.

———-

Tác giả: Ines Murzaku

Nguồn: National Catholic Register (ncregister.com) (26/8/2021)

Chuyển ngữ: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên  

THÁNH MONICA VÀ THÁNH AUGUSTINÔ

THÁNH MONICA VÀ THÁNH AUGUSTINÔ

Trầm Thiên Thu 

Chắc hẳn chẳng ai xa lạ gì với hai vị thánh là mẹ con, đó là thánh mẹ Monica và thánh con Augustinô – Giám mục Tiến sĩ.  Hằng năm, ngày 27-8 là lễ kính nhớ người mẹ, và ngày 28-8 là lễ kính nhớ người con. 

Thánh Monica (331-387) là bổn mạng của những cha mẹ chịu đựng đau khổ vì gánh nặng gia đình, đặc biệt là những người mẹ Công giáo.  Bà được mệnh danh là “Người Bạn của Thánh Giá.” 

Thánh Monica sinh năm 332 tại Tagaste, Bắc Phi (nay là Souk Ahras, thuộc Algeria).  Bà sống các nhân đức Kitô giáo nổi bật, nhất là chịu đựng sự ngoại tình của người chồng, bà khóc hằng đêm vì thương “cậu ấm” Augustinô, chuyên cần cầu nguyện cho con hoán cải, điều mà chính thánh Augustinô đã viết trong cuốn Tự Thuật (Confession).

Dù bà là một Kitô hữu, cha mẹ vẫn bắt bà sớm kết hôn với một người ngoại giáo tên là Patrixiô, dân thành phố Tagaste, một người chồng có tính nóng như lửa, nghiện rượu, ngoại tình, phóng đãng, luôn khó chịu vì vợ hay làm việc từ thiện và cầu nguyện. 

Thánh Monica có 3 người con: Augustinô là con trai trưởng, Navigius là con trai thứ hai, và Perpetua là con gái út.  Thánh Augustinô bướng bỉnh, lười biếng, và được gởi vào học tại trường Madaurus.  Thánh Monica bị coi là một người vợ hay bị cằn nhằn, là con dâu đau khổ và là người mẹ thất vọng, nhưng bà không đầu hàng trước mọi nghịch cảnh.  Thánh Monica còn phải chịu đựng bà mẹ chồng cực kỳ khó tính.  Nhưng lời cầu nguyện và gương lành của thánh Monica đã khiến chồng và mẹ chồng trở lại Công giáo.  Patrixiô mất năm 371, sau khi đã được rửa tội một năm, lúc này Augustinô 17 tuổi.  Thánh Monica ở vậy nuôi dạy các con.  Augustinô tiếp tục theo học tại trường Carthage, và tại đây chàng Augustinô bắt đầu ăn chơi trác táng.

Tại Carthage, biết Augustinô theo tà thuyết Manichean (*), thánh Monica đã thẳng thắn đuổi Augustinô đi chỗ khác, không được ăn uống và không được ngủ trong nhà.  Đêm đó, thánh Monica đã có thị kiến lạ là “đứa con trời đánh” sẽ trở lại, thế nên bà giải hòa với con.  Từ đó, bà luôn theo sát con mọi nơi mọi lúc, đêm ngày cầu nguyện và ăn chay vì con.

Rồi bà đã gặp một giám mục thánh thiện là thánh Ambrôsiô, giám mục này khuyên bà và nói tiên tri: “Đứa con của nước mắt sẽ không hư mất. Thánh Monica bí mật theo con đi khắp nơi để tìm cách cứu con ra khỏi vũng lầy tội lỗi.  Tại Manila (Ý), thánh monica đã gặp thánh Ambrôsiô và được chứng kiến con trai Augustinô trở lại sau nhiều năm ròng rã 

Lúc 29 tuổi, Augustinô quyết định đi Rôma để dạy khoa hùng biện.  Thánh Monica cũng quyết định đi theo con.  Một đêm nọ, Augustinô nói với mẹ là sắp đi tạm biệt một người bạn.  Nhưng không, Augustinô lại lên tàu đi Rôma.  Thánh Monica rất đau khổ khi biết con lừa dối mình, nhưng bà vẫn âm thầm đi theo.  Bà vừa đến Rôma thì biết tin con trai “trời đánh” Augustinô đã đi Milan.  Dù việc đi lại khó khăn, thánh Monica vẫn theo con tới Milan và bất cứ nơi nào khác.

Tại Milan, Augustinô chịu ảnh hưởng thánh giám mục Ambrôsiô, đồng thời là linh hướng của thánh Monica.  Bà nghe lời khuyên của thánh Ambrôsiô và khiêm nhường từ bỏ mọi sự.  Thánh Monica trở thành trưởng nhóm của các phụ nữ đạo đức ở Milan cũng như khi bà ở Tagaste.  Bà vẫn tiếp tục cầu nguyện cho Augustinô.

Lễ Phục Sinh năm 387, thánh Ambrôsiô đã rửa tội cho Augustinô và vài người bạn của Augustinô tại Nhà thờ Thánh Gioan Tẩy Giả ở Milan (Ý quốc).  Ngay sau đó, nhóm của Augustinô đi Phi châu.  Biết mình không còn sống bao lâu nữa, thánh Monica nói với Augustinô: “Con ơi, không gì trên thế gian này làm mẹ vui.  Mẹ không biết có gì còn lại cho mẹ làm hoặc tại sao mẹ lại vẫn ở đây, mọi hy vọng trên thế gian này mẹ đã được mãn nguyện.  Sau đó bà lâm bệnh, và sau 9 ngày bệnh nặng thì bà qua đời.  Hầu như những gì chúng ta biết về thánh Monica là nhờ các tác phẩm của thánh Augustinô, đặc biệt là cuốn Tự Thuật. 

Thánh Augustinô được rửa tội lúc 33 tuổi, rồi làm linh mục lúc 36 tuổi, và làm giám mục lúc 41 tuổi.  Ngài là một tội nhân trở thành thánh nhân.  Đó là nhờ nước mắt và sự kiên trì cầu nguyện của người mẹ là thánh Monica, sự hướng dẫn của thánh giám mục Ambrôsiô, và nhất là chính Thiên Chúa đã nói với thánh Augustinô qua Kinh thánh để soi dẫn Augustinô từ tình-yêu-cuộc-sống đến cuộc-sống-tình-yêu. 

Trong những năm đầu đời, thánh Augustinô đắm chìm trong kiêu ngạo, hoang đàng và tội lỗi, nhưng ngài đã trở lại và sống thánh thiện, chống lại mọi thủ đoạn của ma quỷ thời đó – suy đồi về chính trị, xã hội và luân lý.  Chính kinh nghiệm “xương máu” của đời mình mà ngài đã để lại cho chúng ta những câu nói bất hủ, chẳng hạn: “Ngài có đó khi ta tưởng mình đơn côi, Ngài nghe ta khi chẳng ai đáp lại, Ngài thương ta khi tất cả hững hờ; hoặc:“Hát hay là cầu nguyện hai lần; hoặc:“Chúa dựng nên con thì Ngài không cần đến con, nhưng để cứu độ con thì Ngài cần đến con. 

Thánh Augustinô không thể im lặng, như ngôn sứ Giêrêmia xưa đã phải thú nhận: “Có lần con tự nhủ: ‘Tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa.  Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt.  Con nén chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được!” (Gr 20:9).

Thánh Augustinô viết về người mẹ của mình: “Trong chiếc rổ đầy trái cây, mẹ tôi biết đem cả một trái tim đầy ắp lời cầu xin thuần khiết tới nhà thờ Các Thánh Tử Đạo, và trao hết cho người nghèo – để việc rước Mình Thánh Chúa được cử hành ở đúng vị trí.  Noi gương Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, các thánh Tử Đạo đã hy sinh và đã nhận triều thiên” (Tự Thuật 6.2.2)

Khi con trai Augustinô trở lại, hai mẹ con sống bên nhau sáu tháng an bình tại Rus Cassiciacum (ngày nay là Cassago Brianza).  Thánh Monica qua đời ở tuổi 55.  Sau khi an nghỉ trong Lòng Thương Xót bao la của Thiên Chúa, thánh Monica được an táng tại Ostia, và hầu như chẳng còn ai nhớ đến bà. 

Thế kỷ XIII, lòng sùng kính thánh Monica bắt đầu lan rộng.  Lúc đó, lễ thánh Monica vào ngày 4-5.  Năm 1430, dưới thời Đức Giáo Hoàng Martin V, hài cốt thánh Monica được dời tới Nhà thờ thánh Augustinô ở Rôma, đặt ngay bên phải bàn thờ.  Nhà thờ này do Đức Hồng Y Estouteville của Tổng Giáo Phận Rouen đã cho xây dựng.  Nhiều phép lạ đã xảy ra trong tháng Năm.  Mãi đến thế kỷ XVI, lễ thánh Monica mới được ấn định trong Lịch Phụng Vụ.

Thành phố Santa Monica ở California (Hoa Kỳ) là đặt theo tên thánh Monica.  Tương truyền rằng, hồi thế kỷ XVIII, linh mục Juan Crespí đặt tên cho một dòng suối là Las Lagrimas de Santa Monica (Nước mắt của thánh Monica), ngày nay gọi là Serra Springs, gợi nhớ những giọt nước mắt mà thánh Monica đã nhiều năm ròng rã khóc vì nghịch tử Augustinô.  Tượng thánh Monica được dựng tại Santa Monica’s Palisades Park (Công viên Hàng rào Thánh Monica), tượng do điêu khắc gia Eugene Morahan hoàn tất vào năm 1934.

Lạy Thánh Monica và Thánh Augustinô, xin cầu thay nguyện giúp.  Amen!  

Trầm Thiên Thu 

(*) Manichaeism: Mani giáo, hệ thống tôn giáo nhị nguyên do tiên tri Manes (khoảng 216–276) sáng lập ở Ba Tư hồi thế kỷ III, dựa trên vụ xung đột nguyên thủy giữa ánh sáng và bóng tối, kết hợp với các yếu tố của Kitô giáo ngộ đạo (Gnostic Christianity), Phật giáo (Buddhism), Bái hỏa giáo (Zoroastrianism), và các yếu tố ngoại giáo khác.  Thuyết này bị chống đối từ phía Hoàng đế La mã, các triết gia tân Platon (Neo-Platonist) và các Kitô hữu chính thống.

 From: langthangchieutim

Thánh Augustine (354-430)

28/08/2021

28 Tháng Tám
Thánh Augustine
(354-430)

Là Kitô Hữu lúc 33 tuổi, làm linh mục lúc 36 tuổi, được tấn phong giám mục lúc 41 tuổi: ai ai cũng quen thuộc với tiểu sử tóm lược của Thánh Augustine Hippo, một tội-nhân-trở-thành-thánh-nhân. Nhưng có thực sự biết về cuộc đời thánh nhân thì điều đó mới có giá trị.

Dù khi xa cách Thiên Chúa hay hướng về Thiên Chúa, đời sống của ngài mau chóng đạt đến mức độ mãnh liệt. Nước mắt của mẹ ngài, những lời huấn đức của Thánh Ambrôsiô và, trên hết mọi sự, chính Thiên Chúa nói với ngài qua Kinh Thánh đã thay đổi tính đam mê thế gian của Augustine thành một cuộc đời đầy bác ái.

Từng đắm chìm trong sự cao ngạo về cuộc đời mình trong thời niên thiếu và từng say sưa cặn bã cay đắng của cuộc đời, nên người ta không ngạc nhiên khi thấy Augustine, khi quay trở về, ngài đã phải chống trả với sự tấn công của ma quỷ bằng sự thánh thiện quyết liệt. Thời đại của ngài thực sự sa sút — về chính trị, xã hội và luân lý. Người ta vừa sợ và vừa mến ngài, giống như Thầy Giêsu. Ngài bị chỉ trích không bao giờ cùng: là bản tính khắt khe của loài người.

Cuộc đời ngài, do thiên ý, ngài đã chu toàn nhiệm vụ của một ngôn sứ. Như ngôn sứ Giêrêmia và các vị đại ngôn sứ khác, ngài bị bó buộc nhưng không thể giữ im lặng. “Tôi tự nhủ, tôi sẽ không nhắc đến Người, tôi sẽ không nhân danh Người mà lên tiếng nữa. Nhưng rồi như lửa bừng cháy trong tim, giam hãm thân thể tôi; và tôi cầm hãm không nổi, chịu đựng không thấu” (Giêrêmia 20:9).

Lời Bàn

Trong thời đại chúng ta, Thánh Augustine vẫn còn được xưng tụng và vẫn còn bị kết án. Ngài là vị ngôn sứ của thời đại ngày nay, thúc giục chúng ta phải từ bỏ khuynh hướng thoát ly thực tế và can đảm đối diện với trách nhiệm và phẩm giá của mỗi một người.

Lời Trích

“Thật quá trễ để con yêu mến Ngài, ôi Ðấng Tuyệt Mỹ của ngày xa xưa ấy, nhưng mới lạ hơn bao giờ hết! Thật quá muộn để con yêu mến Ngài! Và đây, Ngài ở bên trong, con ở bên ngoài, và con đi tìm Ngài; con bị méo mó, đắm chìm trong những hình dáng đẹp đẽ mà Ngài đã dựng nên. Ngài ở với con, nhưng con không ở với Ngài. Nhiều thứ đã giữ con xa Ngài – những thứ mà nếu chúng không ở trong Ngài, thì chẳng là gì cả. Ngài kêu lớn và gào thét vào sự ngơ điếc của con. Ngài lấp lánh và chiếu sáng vào sự mù quáng của con. Ngài thở hương thơm và con bị lôi cuốn – và con khao khát Ngài. Con đã nếm thử, và con đói khát. Ngài chạm đến con, và con đã bừng cháy vì sự bình an của Ngài” (Tự Thú của Thánh Augustine).

Trích từ NguoiTinHuu.com