TÊRÊSA AVILA, TÂM HỒN NHẠY CẢM

TÊRÊSA AVILA, TÂM HỒN NHẠY CẢM

Trong kho tàng truyện kể về đời thánh nữ Têrêsa Avila, có một truyện được nhiều tác giả nhắc đến, vừa như một điển hình đời sống thiêng liêng, vừa như một tính cách rất riêng của thánh nữ.  Đó là truyện “Hèn chi Chúa có ít bạn.”   Chắc nhiều người đã biết?  Truyện kể: Trong lần xuất thần, thánh nữ nhìn thấy tình trạng tội lỗi con người xúc phạm đến Chúa ghê gớm quá, nặng nề quá.  Thế là thánh nữ buồn bã vật vã ba ngày liên tiếp không ăn uống gì.  Cuối ngày thứ ba, Chúa Giêsu hiện ra, dáng vẻ dịu hiền, an ủi bằng cách trao cho thánh nữ một miếng bánh và một ly nước.  Nhưng thánh nữ làm mặt giận chối từ.  Chúa Giêsu dỗ dành: “Con không biết rằng Cha thường đối xử với bạn bè bằng cách gửi cho họ Thánh giá sao?” Và thánh nữ trả lời: “Hèn chi Chúa có ít bạn.”   Vâng, chỉ với mẩu truyện đó thôi, có lẽ người ta cũng nhận ra tính cách của Têrêsa Avila.  Đó là sự nhạy cảm.

  1.  Nhạy cảm trước tình yêu bao la của Thiên Chúa.

Đọc Phúc Âm, ai trong chúng ta cũng biết định nghĩa nổi tiếng của thánh Gioan “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8), nhưng để cảm nghiệm thế nào là sức nặng của định nghĩa vắn gọn và tầm cỡ này, đó lại là chuyện không chỉ dừng lại trong ngôn từ sách vở một thời, mà còn cần đến cả một đời dấn bước kiếm tìm, thậm chí vào sinh ra tử nữa kìa.  Thánh Gioan Tông đồ được Chúa Giêsu yêu dấu, nên từ cảm nhận tới cảm nghiệm có thể là vắn gọn như chính định nghĩa về Thiên Chúa của ông, nhưng với Têrêsa Avila lại là cả một sự vật lộn giữa sóng gió cuộc đời vừa hoạt động để kiếm tìm, vừa chiêm niệm để chiêm ngưỡng.

Trên bức tượng “Ecce Homo – Này là Người” (Ga 19,5) trình bày Chúa Giêsu vì yêu thương loài người mà chịu khổ nạn, để nên tình yêu lớn nhất của người dám chết vì người mình yêu, Têrêsa đã gặp được “tiếng sét ái tình” vào năm 1545, để nghiệm ra rằng: nếu Chúa vì yêu con người mà phải chịu khổ, thì con người cũng phải làm sao đáp lại cho cân xứng, với tình yêu của Chúa dành cho mình.  Và thế là khởi đi từ sự nhạy cảm trong nhận thức ấy, thánh nữ đã tìm ra nẻo đi của riêng mình là “lấy tình yêu đáp trả tình yêu,” và cứ thế, như ngọn lửa một khi đã bừng lên thì không gì có thể dập tắt được nữa, thánh nữ làm tất cả mọi sự do tình yêu thúc đẩy và dâng hiến tất cả cho tình yêu.

Chả thế mà người ta vẫn bảo: đường nên thánh của Têrêsa là con đường “bốc lửa”: lửa chiêm niệm tìm ra ý Chúa mãnh liệt đến độ thường xuyên xuất thần mỗi khi cầu nguyện, và lửa yêu thương tìm gặp gỡ Chúa khít khao như lòng với lòng, đến nỗi có cảm tưởng rằng cuộc đối thoại giữa thánh nữ với Chúa không khác chi những lời gần gũi giữa cánh bạn bè, của người bạn dành cho bạn mình.

  1.  Nhạy cảm trước tội lỗi của con người.

Một khi đã coi “phải làm sao cho xứng với tình yêu của Chúa” như một hướng sống, một hướng nên thánh, một hướng cải cách đời tu, thì tâm hồn Têrêsa Avila bỗng trở nên nhạy cảm vô cùng trước những gì được xem là không xứng với tình yêu ấy, trong đó tội lỗi là điều đáng buồn nhất, không phải vì nó xúc phạm tới Thiên Chúa tối cao cho bằng nó phản bội lại Thiên Chúa tình yêu, Đấng đã làm tất cả vì con người và cho con người.

Phản bội trong chính trường được xem là mưu mô, phản bội trong thương trường được coi là mánh mung, nhưng phản bội trong tình trường, dù là tình Chúa hay tình người đi nữa, cũng vẫn là điều đáng buồn nhất.  Chính Chúa Giêsu đã buồn rầu hỏi Giuđa trong vườn Cây Dầu là “anh lấy cái hôn mà nộp Con Người sao?” (Lc 22,48) vì Giuđa là kẻ phản bội.  Và trong truyện “Hèn chi Chúa có ít bạn” kể trên, Têrêsa buồn bã những ba ngày liền, không phải vì tội mình mà vì tội tình của người khác, đã cho thấy một con tim nhạy cảm, không rỗi hơi thương vay khóc mướn, mà chỉ vì tê tái quặn đau thấy người ta phản bội tình yêu của Chúa, còn mình trong tư cách là bạn tâm giao lại chẳng có cách nào mà can ngăn.

Rõ ràng, Têrêsa là một tâm hồn nhạy cảm.  Từ nhạy cảm ngây ngất trước tình thương xót khôn cùng của Chúa, một tình yêu dám từ bỏ “lá ngọc cành vàng” để đành đoạn ôm lấy “phận cỏ mình rơm” cho rặm bụng một đời cứu thế, Têrêsa tự nhiên nhạy cảm khổ đau trước sự khốn cùng của tội lỗi nhân sinh, tội bạc tình, một thứ tội làm tê dại cõi lòng.  Hoá ra, ai càng nhạy cảm với tình thương xót của tấm lòng Thiên Chúa, càng nhạy cảm hơn với sự khốn cùng của tội lỗi con người.

  1.  Nhạy cảm trước đường nên thánh là đường Thánh giá.

Đã có lần Chúa Giêsu bảo “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người dám thí mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15,13), để rồi từ đó trở thành quy luật của muôn đời cho những ai dám gán đời mình cho tình yêu Thiên Chúa hoặc mon men muốn nên bạn hữu của Ngài.  Vâng, “yêu ai yêu cả đường đi”, yêu Chúa cũng yêu cả con đường Chúa đi năm xưa là đường Thánh giá, không phải là “mười bốn chặng đường” ngắn ngủi êm ả dễ chịu trong giáo đường, mà là những cảnh đời thường lặp đi lặp lại mỗi ngày, ở đó ý Chúa như búa đập trên ý mình và ý mình như kình chống lại ý Chúa.

Nếu “yêu là chết ở trong lòng một ít”, thì yêu Chúa cũng là phải chết đi ít một trong ý riêng để ý Chúa được thể hiện từng ngày.  Như lương thực hằng ngày của “Kinh Lạy Cha” mà người theo Chúa phải làm quen dần dần từ những bước chập chững đầu tiên cho đến khi thuần thục nhuần nhị để có thể hiên ngang tiến tới trên đường trọn hảo.  Đó là đường tình yêu.  Mênh mông tình Chúa, mong manh tình người, nên cũng là đường Thánh giá, đường Thương khó.

Đó, “yêu Chúa” nói và hát thì dễ, nhưng khi dấn bước vào, người ta mới thấy những nỗi đa đoan vất vả không bao giờ hết, mà chỉ có những tâm hồn nhạy cảm mới có thể dự đoán và an tâm bước đều.  Chúa chúng ta kỳ lắm.  Người yêu những kẻ đóng đinh Người và tha thứ cho họ dễ dàng, nhưng Người lại đóng đinh những kẻ Người yêu và tặng những kẻ yêu Người Thánh giá, không chỉ một lần mà xem ra còn dai dẳng hoài hoài trong đời.  Bằng một tâm hồn nhạy cảm thánh đức, Têrêsa đã hiểu đó là lộ trình nên thánh cho bất cứ ai chọn đi theo Chúa.

Tóm lại, ba nét nhạy cảm: với tình yêu vô biên của Thiên Chúa, với tội lỗi thấp hèn của nhân loại và với bước đường Thánh giá, với tội lỗi thấp hèn của nhân loại và với bước đường Thánh giá, hy vọng đã một phần nào phác vẽ lên cách đơn giản chân dung của một vị thánh lớn, thánh Têrêsa mẹ, vị anh thư cải cách dòng Cát Minh thế kỷ XVI tại Tây Ban Nha, vị tiến sĩ đã để lại cho Hội Thánh bí quyết chinh phục đỉnh cao tình yêu Thiên Chúa, và cũng còn là vị thánh thân thương có một tâm hồn nhạy cảm phi thường muốn đem tình yêu Thiên Chúa nhân rộng đến hết mọi người.

Xin nhờ lời chuyển cầu của ngài, cho cộng đoàn Cát Minh và cho những ai chân thành yêu mến thánh nữ, được luôn nhạy cảm bền bỉ khơi lên ánh lửa yêu mến trước tình yêu Chúa, để đến khi Chúa muốn, Người sẽ cho biến thành những đám cháy kỳ diệu có khả năng thiêu huỷ tội lỗi, thanh tẩy tâm hồn và lôi cuốn người ta đến với tình yêu thánh hoá, cho dẫu trước mắt vẫn còn là ngổn ngang những Thánh giá của mùa xây dựng, nhưng trong lòng đã nóng bừng hy vọng.  Mong rằng câu nói “Hèn chi Chúa có ít bạn” không phải là một chân lý bất biến, nhưng là một câu nói đang chờ sự đáp ứng, để một khi mọi người đều nhạy cảm quan tâm trở nên bạn hữu của Chúa, thì thay vì ba ngày buồn bã, có lẽ Têrêsa Avila sẽ có nhiều lần ba ngày vui vẻ vì ngỡ ngàng thấy Chúa luôn có nhiều bạn mới.

Vũ Duy Thống, Gm

From: suyniemhangngay1 & NguyenNThu

CÁC TỔNG LÃNH THIÊN THẦN MICHAEL, GABRIEL, RAPHAEL 

CÁC TỔNG LÃNH THIÊN THẦN MICHAEL, GABRIEL, RAPHAEL 

 Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ

Trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng dựng nên muôn vật hữu hình cùng vô hình.  Các thụ tạo vô hình ở đây chính là chư vị thiên thần.  Chư vị này sống gần bên Thiên Chúa để phục vụ Ngài và nhân loại.  Hơn nữa, các thiên thần là những người đã phục vụ Đức Giêsu Kitô, từ khi Ngài chào đời đến khi Ngài quang lâm.

Sứ thần Gabrien được Thiên Chúa sai đến với trinh nữ Maria để loan báo về sự hạ sinh của Đấng Cứu Độ (Lc 1, 26).  Ta nghe tiếng ngợi khen của muôn vàn thiên binh cùng với sứ thần trong đêm Con Thiên Chúa giáng sinh trên trái đất (Lc 2, 13).  Ta cũng thấy các thiên thần hiện ra để phục vụ Đức Giêsu (Mt 4, 11), sau khi Ngài chiến thắng những cám dỗ của quỷ dữ nơi hoang địa.  Khi Đức Giêsu bị xao xuyến trước cái chết sắp đến, một thiên thần từ trời đã đến tăng sức cho Ngài (Lc 22, 43).  Ngài đã không tránh né cái chết bằng cách xin Cha cấp cho mình mười hai đạo binh thiên thần (Mt 26, 53).

Tin Vui Phục sinh được loan báo bởi các thiên thần từ mộ trống (Lc 24, 6).  Vào ngày tận thế, các thiên thần của Đức Giêsu sẽ đi theo Ngài khi Ngài trở lại trong vinh quang để phán xét cả thế giới (Mt 16, 27).  Đức Giêsu nay ngự bên hữu Thiên Chúa trên trời, trổi vượt trên các thiên thần và được các thiên thần thờ lạy (Dt 1, 4. 6).

Câu cuối của bài Tin Mừng hôm nay cũng nói đến tương quan giữa Đức Giêsu và các thiên thần.  Trong lần gặp gỡ với Nathanaen và các bạn của ông Đức Giêsu đã long trọng hứa là họ sẽ thấy trời rộng mở, và “các thiên thần lên lên xuống xuống trên Con Người” (c. 51).

Trong một giấc mộng, Giacóp đã chiêm bao thấy “một chiếc thang dựng dưới đất, đầu thang chạm tới trời, trên đó có các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống” (St 28, 12).

Đức Giêsu nhận mình chính là chiếc thang đó, là Đấng Trung Gian nối đất với trời, nối Thiên Chúa với nhân loại.  Các thiên thần cũng phải qua Ngài mà đến phục vụ con người.  Các thiên thần cũng là những đấng trung gian được sai đi, nhưng họ phải qua Đấng Trung Gian duy nhất và đích thực, vì Đấng đó vừa trọn vẹn là người, vừa trọn vẹn là Thiên Chúa.

Lên lên xuống xuống trên thang Giêsu là việc của các thiên thần.  Lên với Thiên Chúa để dâng cho Ngài nỗi thống khổ của nhân loại.  Xuống với nhân loại để mang cho họ ân lộc và sứ điệp từ trời.  Thiên thần vừa gần với con người, vừa gần với Thiên Chúa, vừa tựa trên đất, vừa đụng tới trời, nên kéo trời xuống đất và đưa đất lên trời.

Xin được quyền năng của Sứ thần Micae: Ai bằng Thiên Chúa.
Xin được sức mạnh của Sứ thần Gabrien: Thiên Chúa hùng dũng.
Xin được ơn lành mạnh của Sứ thần Raphaen: Thiên Chúa chữa lành.
Kitô hữu là người hạnh phúc vì biết mình được nâng đỡ chở che.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ

**************************************

Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng con tôn thờ, xin giúp con quên mình hoàn toàn để ở lại trong Chúa, lặng lẽ và an bình như thể hồn con đã sống trong vĩnh cửu.  Lạy Đấng thường hằng bất biến, mong sao không gì có thể khuấy động sự bình an của con, hay làm cho con ra khỏi Chúa; nhưng ước chi mỗi phút lại đưa con tiến xa hơn vào chiều sâu của mầu nhiệm Chúa!  Xin làm cho hồn con bình an thanh thản, xin biến hồn con thành chốn trời cao, thành nơi cư ngụ dấu yêu của Chúa, nơi Chúa nghỉ ngơi. 
Ước chi con không bao giờ để Chúa ở đó một mình nhưng con luôn có mặt, với trọn cả con người, với thái độ nhạy bén trong đức tin, cung kính tôn thờ và phó mình cho Chúa sáng tạo. 

Lời nguyện của chân phước Elisabeth de Trinité

From: Langthangchieutim

Mẹ Têrêsa Calcutta

https://www.facebook.com/dongten/videos/1572890696186082/?t=39

https://www.facebook.com/dongten/videos/1572890696186082/?t=39

Dòng Tên Việt Nam

Vào ngày 10/9/1946, trên chuyến xe lửa từ Calcutta đến Darjeeling, Mẹ Têrêsa đã nhận được điều Mẹ gọi là “ơn gọi trong ơn gọi”, một ơn gọi làm phát sinh ra gia đình Thừa Sai Bác Ái của các Sư Muội, Sư Huynh, Linh Mục và Cộng Tác Viên. Nội dung của ơn soi động này được thể hiện nơi mục đích và sứ vụ Mẹ phác họa cho cơ cấu mới của Mẹ, đó là “làm giản cơn khát vô cùng của Chúa Giêsu trên thập giá vì yêu thương vì các linh hồn”, bằng “việc tận lực hoạt động cho phần rỗi và sự thánh hóa của thành phần nghèo nhất trong các người nghèo”. Vào ngày 7/10/1950, hội dòng mới Thừa Sai Bác Ái được chính thức thành lập như là một tổ chức tu trì đối với Tổng Giáo Phận Calcutta.

THÁNH GRÊGÔRIÔ CẢ GIÁO HOÀNG, TIẾN SĨ HỘI THÁNH (540-604)

THÁNH GRÊGÔRIÔ CẢ GIÁO HOÀNG, TIẾN SĨ HỘI THÁNH (540-604)

Trong lịch sử, ít có người được mang danh Cả, và đáng được danh dự ấy một cách hoàn toàn như thánh Grêgôriô, Giáo Hoàng và tiến sĩ Hội Thánh.  Ngài sinh tại Roma, khoảng năm 540, là con của một nghị viên danh giá và giầu có, ông Gordianô.  Chúng ta không biết gì về thời thơ ấu của Ngài, nhưng ít ra là Ngài đã phải kinh nghiệm về những hậu quả do những cuộc chiến của vua Cothic với các tướng lãnh của hoàng đế Lussinianô, mà chính thức Roma đã bị cướp phá.

Thánh Grêgôriô đã thủ giữ một chức vụ trong xã hội.  Năm 573, Ngài được đặt làm tổng trấn thành phố, nhưng Ngài luôn nuôi lý tưởng tu trì.  Đó là lý do khiến Ngài không lập gia đình, và năm 574 Ngài đã rút lui khỏi đời sống công cộng để mặc áo tu sĩ.

Ông Gordianô từ trần, thánh Grêgôriô thừa kế gia tài, nhờ thế Ngài đã có thể thiết lập 6 tu viện tại Sicily và biến nhà trên đồi Copelia thành tu viện thứ 7 dâng kính thánh Andre.  Tại đây Ngài sống như một thầy đơn sơ.  Có lẽ bộ luật Ngài thiết lập chính là luật dòng Bênedicto.  Đây là những năm hạnh phúc nhất mà Ngài không bao giờ quên được, nhưng lại chẳng kéo dài được lâu.

Năm 578, Ngài được phong chức phó tế cai quản một trong bảy miền ở Romas.  Năm 579 Ngài được gởi đi Constantinopple làm đại diện Đức Giáo Hoàng.  Ngài mang theo một ít thày dòng và có rộng thì giờ để giảng cho họ về sách Giop, những bài giảng được thu góp lại thành cuốn luân lý.

Thánh Grêgôriô làm đại sứ trong khoảng 7 năm.  Sau đó trở về Roma, Ngài trở lại tu viện thánh Andrê làm viện trưởng (50 tuổi).  Năm 590 Pêlagiô II từ trần và thánh Grêgôriô được chọn lên kế vị.  Roma lúc ấy bị một cơn dịch tàn phá.  Vị Giáo Hoàng được chọn tổ chức những cuộc hành hương trong thành phố, Ngài thấy tổng lãnh thiên thần hiện ra ở một địa điểm nay gọi là Custel Saint Angele, đứng tuốt gươm ra, cơn dịch tự nhiên bị chặn lại và dân Roma chào mừng Đức Giáo Hoàng mới, như một người làm phép lạ.

Triều đại Đức Giáo Hoàng Grêgôriô kéo dài trong mười bốn năm, đòi hỏi trọn sức mạnh tinh thần và ý chí lẫn kinh nghiệm quản trị và ngoại giao của Ngài.  Đế quốc Roma đang suy sụp.  Dầu vậy hoàng đế ở Constantinople chỉ hiện diện tại Ý bởi một phó vương với một triều đình nhỏ, Ravenna có rất ít quyền lực về luân lý và vật chất.  Quân đội Bonabardô cướp phá bán đảo và Roma bị chiếm đóng năm 593.  Đức Grêgôriô thấy phải lập quân đội để bảo vệ Roma và đặt điều kiện với quân xâm lược.  Mọi việc thuộc đủ mọi phương diện trong quốc gia đang suy đồi đều đổ trên đức Giáo hoàng.

Trong khi đó đức Grêgôriô lo chấn chỉnh Giáo hội.  Các địa phận lộn xộn, Ngài ấn định lại ranh giới.  Các đất đai thuộc giáo hoàng được quản trị hữu hiệu.  Chính nhà ở của Đức Giáo Hoàng cũng cần phải tái thiết.  Nhưng không có gì đáng ghi nhớ hơn trong cách Đức Giáo Hoàng đương đầu với các vấn đề Giáo hội Đông và Tây, là việc Ngài nhấn mạnh đến quyền tối thượng của tòa thánh Roma.  Rất tôn trọng quyền của các Giám Mục trong các giáo phận, Ngài kiên quyết bênh vực nguyên tắc tối thượng của thánh Phêrô.  Đối với Hoàng Đế, Ngài rất tôn trọng uy quyền dân chính, nhưng cũng bảo vệ quyền lợi mình và của các dòng trong Giáo Hội.

Thánh Grêgôriô canh tân phụng vụ rất nhiều.  Ít nhất là Ngài đã đặt các “điểm” hành hương.  Dầu qua nhiều lần tranh cãi, nhưng dưới ảnh hưởng của Ngài, ngày nay nhạc và nghi lễ Giáo hội vẫn còn mang danh Ngài: nhạc Grêgôriô, lễ Grêgôriô.

Thánh nhân còn là văn sĩ rất phong phú.  Ngoài cuốn luân lý Ngài còn viết hai cuốn gồm những bài giảng về sách Ezechiel, một cuốn khác về những bài Phúc âm trong ngày, 4 cuốn đối thoại và một cuốn sau tập các phép lạ do các thánh người Ý thực hiện.  Cuốn sách chăm lo mục vụ trình bày những điều mà cuộc sống một giám mục và một linh mục phải làm. S au cùng là một sưu tập thư tín.

Thánh Grêgôriô còn được gọi là tông đồ nước Anh.  Chính Ngài đã muốn đi truyền giáo để cải hóa luơng dân Saxon.  Nhưng không đi được, năm 596 Ngài đã trao phó nhiệm vụ cho các tu sĩ dòng thánh Andrê do thánh Augustinô Conterbury dẫn đầu.

Thánh Grêgôriô cả qua đời ngày 12 tháng 3 năm 604.  Ngài được mai táng trong đại giáo đường thánh Phêrô.  Nấm mộ đầu tiên của Ngài mang bản chữ Latinh tóm gọn đời Ngài, Ngài được gọi là “chánh án của Chúa.”  Các chánh án của Roma đã qua đi.  Chính đế quốc Roma đang hồi hấp hối nhưng thánh Grêgôriô là điểm nối giữa thời các giáo phụ với thời các giáo hoàng, giữa vinh quang của thành Roma lịch sử với vinh quang của kinh thành Thiên Chúa.

Nguồn http://conggiao.info/

 From: Langthangchieutim

PHÓ TẾ TỬ ĐẠO (+258)

 PHÓ TẾ TỬ ĐẠO (+258)

Thánh Laurensô là vị thánh tử đạo Roma được biết đến nhiều nhất. Từ thế kỷ thứ IV, một mình Ngài ngoài các thánh tông đồ, được kính nhớ với thánh lễ vọng. Sách nghi thức Đức giáo hoàng Lêô thế kỷ VI có không dưới 14 lễ kính Ngài. Sau Công Đồng Vatican vào thập niên 1960, phụng vụ được canh tân chỉ còn 3 bậc lễ: Lễ Trọng (solemnity), Lễ Kính (feast) và Lễ Nhớ (memorial), trong đó các Thánh Tông Đồ mới được ở bậc lễ kính, trừ 2 Thánh Sử Luca và Marco, Thánh Tử Đạo Tiên Khởi Stephano, Thánh Mai Đệ Liên là tông đồ của các tông đồ, còn có lễ Thánh Phó Tế Tử Đạo Laurensô ở thế kỷ thứ 4 này. Ở vào thời Trung Cổ đã có ít là 34 thánh đường ở Roma dâng kính thánh nhân. Ngài là vị thánh bổn mạng thứ ba của thành Roma. 

Laurensô là ai mà được tôn kính cách đặc biệt như vậy? -Phải chăng là vì chủ trương độc đáo của ngài cho rằng người nghèo là tài sản của Giáo Hội, nhất là vì lòng ham ước được phúc tử đạo đến độ chịu tử đạo một cách khủng khiếp chưa từng có mà vẫn hiên ngang thách thức quyền bính thế gian, và vì ngài được dân Chúa đặc biệt sùng kính? Bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho thánh nhân rất thích hợp với vai trò phó tế tử đạo được hiển vinh của ngài: “Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó”.

Laurensô được cho là sinh tại Huesca – một thị trấn ở Aragon (nay thuộc Tây Ban Nha), gần chân dãy núi Pyrenees. Ngay từ khi còn trẻ, Laurensô đã được gửi đến Zaragoza để học văn hóa và thần học. Tại đây mang cơ duyên cho Laurensô gặp được Giáo hoàng tương lai là Xíttô II (Sixtus II), một người gốc Hy Lạp khi đó là một trong những giáo viên nổi tiếng nhất trong học viện. Khi trở thành Giáo hoàng Xíttô vào năm 257, ông đã truyền chức phó tế cho Laurensô, mặc dù Laurensô khi đó vẫn còn khá trẻ nhưng giáo hoàng đã bổ nhiệm đứng đầu trong số bảy phó tế phục vụ trong nhà thờ Giáo hoàng. Kể từ đó, Laurensô được gọi là “tổng trưởng phó tế thành Roma”. Đây là một vị trí rất được tin tưởng, chịu trách nhiệm giúp đỡ người nghèo túng và Ngài được giao cho trách nhiệm “quản lý tài sản của Giáo hội.  

Khi sự cấm đạo dưới thời Hoàng đế Valerianus bùng nổ, Giáo hoàng Xíttô II và 7 phó tế bị bắt. Giáo hoàng bị kết án tử hình cùng với sáu phó tế vào ngày 6 tháng 8 năm 258.  Khi Đức Giáo hoàng bị điệu ra pháp trường, Laurensô đi theo khóc lóc nức nở, ngài hỏi: “Cha ơi, cha đi đâu mà không cho nô bộc này theo?”. Ðức giáo hoàng trả lời: “Con ơi, ta không bỏ con đâu. Trong ba ngày nữa, con sẽ theo ta.” Nghe thấy thế, Laurensô thật vui mừng, ngài về phân phát hết tiền của trong kho cho người nghèo, và còn bán cả các phẩm phục đắt tiền để có thêm của cải mà phân phát.

Sau đó, viên tổng trấn Roma yêu cầu phó tế trưởng Laurensô giao tất cả tài sản của giáo hội cho đế quốc trong 3 ngày. Tuy nhiên, nghe theo lệnh Giáo hoàng khi ngài ra pháp trường, Laurensô đã kịp phân phát hết tiền của, tài sản của giáo hội cho người nghèo, và còn bán cả các phẩm phục quý giá để có thêm tiền mà phân phát. 

 Viên tổng trấn nổi giận, buộc ngài phải dâng lễ tiến các thần minh. Từ khước, Laurensô phải chịu mọi cực hình, bị nướng trên sắt nung đỏ, khi bị nướng ngài còn nói với tổng trấn:”Một mặt đã chín thì nướng luôn mặt còn lại mà ăn đi.”. Ông mất ngày 10 tháng 8 năm 258 và được coi là tử vì đạo.  

Hết hạn Ngài dẫn họ tới trình với tổng trấn Valêrianô, như là tài sản của Giáo hội. Khi tổng trấn chất vấn về số tài sản ấy của giáo hội đang ở đâu thì Laurensô đã nói rằng người nghèo, người khuyết tật, người mù lòa và đau khổ là những ‘tài sản’ thực sự của giáo hội. Viên tổng trấn nổi giận, buộc thánh nhân phải dâng lễ tiến các thần minh. Từ khước, thánh nhân phải chịu mọi cực hình, đặc biệt là khi bị nướng ngài còn nói với viên tổng trấn:”Một mặt đã chín thì nướng luôn mặt còn lại mà ăn đi.”. Sau đó ngài cầu xin cho thành phố Rôma được trở lại với Ðức Kitô và cho Ðức Tin Công Giáo được lan tràn khắp thế giới. Ngài lãnh nhận triều thiên tử đạo vào năm 258, ngày 10 tháng 8.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, tổng hợp

Chân Phước Gregory Grassi và Các Bạn

8 Tháng Bảy

Chân Phước Gregory Grassi và Các Bạn
(k. 1900)

Các nhà thừa sai Kitô Giáo thường bị bắt trong các cuộc chiến chống với chính quốc gia của mình. Khi các chính phủ Anh, Ðức, Nga và Pháp buộc nhà cầm quyền Trung Hoa phải nhượng bộ đất đai vào năm 1898, cả một phong trào chống người ngoại quốc nổi dậy ở Trung Hoa.

Gregory Grassi sinh ở Ý năm 1833, thụ phong linh mục năm 1856 và năm năm sau ngài được sai đến Trung Hoa Lục Ðịa. Sau đó Cha Gregory được tấn phong làm Giám Mục của giáo phận Bắc Shanxi. Vào năm 1900, trong cuộc nổi dậy của các võ sĩ, cùng với 14 nhà truyền giáo Âu Châu và 14 tu sĩ Trung Hoa, ngài chịu tử đạo vào thời kỳ bách hại ngắn ngủi nhưng đẫm máu ấy.

Hai mươi sáu vị tử đạo bị bắt theo lệnh của Yu Hsien, quan đầu tỉnh Shanxi. Tất cả bị chết chém vào ngày 9 tháng Bảy 1900. Năm vị thuộc dòng Phanxicô Hèn Mọn; bảy vị thuộc tu hội Phanxicô Truyền Giáo của Ðức Maria — là các vị tử đạo tiên khởi của tu hội. Về phía người Trung Hoa có bảy chủng sinh và bốn giáo dân, tất cả đều thuộc dòng Ba Phanxicô. Ba giáo dân Trung Hoa khác bị giết ở Shanxi chỉ vì làm việc cho các tu sĩ Phanxicô và bị bắt cùng với các người khác. Ba tu sĩ Phanxicô người Ý cũng được tử đạo trong tuần đó ở tỉnh Hunan.

Tất cả các vị tử đạo được phong chân phước vào năm 1946.

Lời Bàn

Tử đạo là sự nguy hiểm nghề nghiệp của các nhà truyền giáo. Trong cuộc nổi dậy của các võ sĩ ở Trung Hoa Lục Ðịa, năm giám mục, 50 linh mục, hai trợ sĩ, 15 nữ tu và 40,000 Kitô Hữu Trung Hoa đã bị giết. Tuy nhiên, số giáo dân Công Giáo Trung Hoa vào năm 1906 là 146,575 đã tăng lên đến 303,760 vào năm 1924. Sự hy sinh lớn lao đã đem lại kết quả lớn lao.

Lời Trích

“Tử đạo là một phần của bản chất Giáo Hội, vì nó biểu lộ cái chết của Kitô Hữu trong hình thức tinh tuyền, là một cái chết vì đức tin không chịu kiềm chế. Qua sự tử đạo, sự thánh thiện của Giáo Hội, thay vì thuần tuý vẫn chỉ có tính cách không tưởng, đã thể hiện một diễn đạt tỏ tường cần thiết nhờ ơn sủng của Thiên Chúa. Ngay từ thế kỷ thứ hai, người chấp nhận cái chết vì đức tin Kitô Giáo hoặc luân lý Kitô Giáo được coi là một ‘chứng nhân'” Danh từ này xuất phát từ Phúc Âm, vì Ðức Giêsu Kitô là ‘chứng nhân trung tín’ tuyệt đối (Khải Huyền 1:5; 3:14)” (Karl Rahner, Tự Ðiển Thần Học, tập 2, trang 108-109).

  *    *   *    *

Sự Hiện Diện Của Con Dê

Ðể khuyên chúng ta chấp nhận cuộc sống, người Ðức thường kể câu chuyện sau đây:

Có một nhà hiền triết nọ chuyên cố vấn giúp đỡ cho những ai gặp buồn phiền, chán nản trong cuộc sống. Bất cá ai đến xin chỉ bảo cũng đều nhận được lời khuyên thiết thực… Một hôm, có một người thợ may mặt mày thiểu não chạy đến xin cầu cứu. Gia đình ông gồm có ông, vợ ông và bảy đứa con trai nhỏ. Tất cả chen chúc nhau trong một căn nhà gần như đổ nát. Người vợ phải la hét suốt ngày vì bị sự quấy phá của bảy đứa con. Xưởng may của ông lúc nào cũng lộn xộn, bẩn thỉu vì những nghịch ngợm của lũ con. Thêm vào đó là những tiếng la hét, khóc nhè suốt ngày, khiến người thợ may không thể chú tâm làm việc được.

Nghe xong câu chuyện, nhà hiền triết mới đề nghị với người thợ may như sau: “Anh hãy ra chợ mua cho kỳ được một con dê, rồi dắt nó về cột ngay trong xưởng may của anh”. Người đàn ông đàng thương không đoán được ẩn ý của nhà hiền triết, nhưng đặt tất cả tin tưởng vào ông, cho nên anh về thu gom hết tiền của trong nhà để ra chợ mua cho kỳ được con dê.

Chúng ta hãy tưởng tượng: sự hiện diện của con dê trong xưởng may sẽ giúp được gì cho anh ta? Con vật hôi hám ấy không những phóng uế nhơ bẩn lại suốt ngày còn kêu những tiếng không êm tai chút nào. Cái xưởng may chỉ trong một ngày đã biến thành một chuồng súc vật bẩn thỉu không thể chịu đựng được… Người thợ may lại đến than phiền với nhà hiền triết vì sự hiện diện của con dê. Lúc bấy giờ, nhà hiền triết mới bảo anh: “Anh hãy tức khắc mang nó ra chợ và bán lại cho người khác”. Người đàn ông cảm thấy như nhẹ nhõm cả người. Anh dắt con vật ra chợ. Trong khi đó, ở nhà, vợ anh mang nước vào tẩy uế cái xưởng may. Bảy đứa nhóc con của anh bắt đầu trở lại xưởng may và hò hét trở lại. Người đàn ông nhìn xuống xưởng may rồi mỉm cười nhìn mấy cậu con trai của anh đang chạy nhảy la hét. Anh tự nhủ: dù sao, tiếng la hét của mấy đứa con của anh, so với tiếng kêu của con vật dơ bẩn, vẫn dễ chịu hơn… Và chưa bao giờ anh cảm thấy hạnh phúc hơn ngày hôm đó.

Tâm lý thông thường, chúng ta dễ có thái độ “đứng núi này nhìn núi nọ”. Những cái quen thuộc, những cái trước mặt, những cái thường ngày, những cái nhỏ bé thường dễ bị khinh thường…

Mang lấy thân phận con người, sống trọn vẹn kiếp người, Chúa Giêsu mặc cho tất cả mọi thực tại của cuộc sống một ý nghĩa mới, một giá trị mới. Chỉ qua những thực tại từng ngày, chỉ qua các sinh hoạt hàng ngày con người mới có thể gặp gỡ được Thiên Chúa.

Giá trị của mỗi một phút giây hiện tại chính là mang nặng sự hiện diện của chính Chúa. Giá trị của cuộc sống chính là được dệt bằng những gặp gỡ triền miên giữa Thiên Chúa và con người…

Không ai trong chúng ta chọn lựa để được sinh ra. Không ai trong chúng ta chọn lựa cha mẹ và gia đình để được sinh ra. Có người sinh ra trong cảnh giàu sang phú quý. Có người sinh ra trong cảnh nghèo nàn. Có người thông minh. Có ngưòi đần độn… Mỗi người chúng ta đến trong cuộc đời với một hành trang có sẵn. Chúa mời gọi chúng ta đón nhận cuộc đời như một Hồng Ân của Chúa. Ngài mời gọi chúng ta đón nhận từng phút giây của cuộc sống như một ân huệ… Nói như Thánh Phaolô: “Tất cả đều là ân sủng của Chúa”: tất cả đều phải được đón nhận với lòng biết ơn và tín thác.

Trích sách Lẽ Sống

From: hnkimnga & NguyenNThu

THÁNH NỮ MARIA GORETTI BÔNG HUỆ NHỎ NHUỐM MÁU


THÁNH NỮ MARIA GORETTI BÔNG HUỆ NHỎ NHUỐM MÁU

 

*Bông Huệ nhỏ tuyết trinh nơi đồng nội,

Vượt lên cao tràn ngập nắng hồng ân,

Gió mưa lay, không vương mắc bụi trần,

Đẹp lòng Chúa, đem về vườn Thiên quốc.

 

“Xin kính chào Vị Nữ Thánh khả ái!  Hỡi Vị Tử Đạo dưới đất và Thiên Thần trên trời!

 

Từ nơi vinh quang, xin ghé mắt nhìn xuống đoàn con đây, đang yêu mến, tung hô và chúc tụng Ngài.  Trên vầng trán Ngài ghi rõ danh tánh chói sáng hiển vinh của Chúa Kitô chiến thắng.  Trên khuôn mặt tinh khiết Ngài tỏa sáng sức mạnh tình yêu và lòng kiên trung với Đức Lang Quân Chí Thánh.  Ngài là Vị Hiền Thê dùng chính máu đào mình họa lại hình ảnh Chúa Kitô.  Hỡi vị Nữ Thánh quyền uy cạnh ngai tòa Chiên Thiên Chúa, xin phó dâng lên Ngài những người đang có mặt nơi đây, cũng như những người đang kết hợp cách thiêng liêng với chúng tôi.  Tất cả đều ngưỡng phục lòng anh hùng của Ngài, nhất là muốn bắt chước Ngài trong nhiệt tâm giữ vững đức tin và bảo toàn phong hóa cao quí.

 

Từ nay các bậc làm cha mẹ chạy đến kêu cầu, xin Ngài trợ giúp trong nhiệm vụ giáo dục con cái.

 

Xin đặt vào vòng tay Ngài một trẻ thơ, cùng thanh thiếu nữ, hầu Ngài bảo vệ chúng thoát khỏi mọi hiểm độc và an vui bước trên đường đời trong niềm hoan lạc của những con tim trong trắng.

 

Ước gì được như vậy.”

 

Đó là lời Đức Thánh Cha Piô 12 vào chiều thứ bảy 24/6/1950 trong khung cảnh Năm Thánh, khi tuyên phong Hiển Thánh cho thiếu nữ đồng quê 12 tuổi MARIA GORETTI, trước sự hân hoan nồng nhiệt của 500 ngàn khách hành hương từ khắp nơi đổ về, cùng sự hiện diện của thân mẫu và gia đình cô.

 

Maria Goretti sinh 16/10/1890 tại vùng đồi thơ mộng gần thành phố Corinaldo, nước Ý.  Nhưng vì sinh kế cả gia đình phải chuyển đến vùng thôn quê sình lầy Ferriere di Conca.  Là chị cả trong một gia đình 6 anh chị em, cô luôn noi gương cha mẹ là người đạo hạnh và cần mẫn.

 

Sống trong cảnh nghèo túng, Goretti không được đi học, nhưng có lòng sùng kính đặc biệt Thánh Tâm Chúa và Mẹ Maria Đồng Trinh.  Mồ côi cha từ năm lên 10, nhưng mỗi lần đi ngang mộ cha đều dừng lại cầu nguyện cho cha.

 

Gia đình sau khi cha mất trở nên túng quẫn hơn, cô luôn nâng đỡ tinh thần cho mẹ, xốc vác mọi việc trong nhà, đóng vai người mẹ thứ hai đối với các em, luôn săn sóc, dạy bảo và thúc giục các em cầu nguyện.  Mỗi lần đi dự lễ, cô phải đi bộ 2 giờ đồng hồ, luôn là người đến sớm nhất và về sau cùng.  Cô rẩt cẩn thận trong cách ăn mặc, nói năng hòa nhã khiêm tốn, tránh truyện trò thô tục… nổi bật nhất là nhân đức khiết tịnh như bông huệ tuyết trinh.

 

Từ ngày ba ngã bệnh rồi mất, để có người giúp đỡ công việc đồng áng và chia sẻ hoa lợi, gia đình cô phải đón nhận một gia đình khác gồm 2 bố con đến ở chung.  Người con trai 19 tuổi tên Alessandro, đầu óc tràn đầy ý tưởng xấu, nên luôn nhìn Goretti với con mắt dục vọng.  Cô luôn ở nhà săn sóc các em khi mẹ làm việc ngoài đồng.

 

Nên một hôm, Alessandro đến cám dỗ cô phạm tội, nhưng cô rất sợ hãi và từ chối rồi tìm cách tránh xa chàng.  Rồi 10 ngày sau, chàng ta lại dở trò cũ, cô khiếp sợ và nói: “Nếu anh làm điều đó, anh sẽ phải xuống hỏa ngục!”  Chàng ta túm lấy cô, nhưng cô dùng hết sức để vượt thoát và chàng đe dọa giết nếu tiết lộ với người khác.

 

Trưa ngày 5/7/1902, dưới nắng hè chói chang mọi người đang thu hoặch mùa đậu.  Chàng ngưng việc đi thẳng về nhà, thấy Goretti ngồi dưới chân cầu thang vá áo và trông chừng em ngủ.  Chàng ta mặt hầm hầm bước lên cầu thang vào phòng lấy một thanh sắt đã mài nhọn, quay xuống gọi: “Goretti vào đây nhờ một tí!”  Cô vẫn ngồi không nhúc nhích và không trả lời.  

 

Anh ta nhào tới nắm tay cô kéo vào trong nhà.  Cô la lên: “Nếu làm điều đó anh sẽ phải xuống hỏa ngục.  Buông tôi ra!”

 

Điên lên vì bị từ chối, anh ta một tay nắm chặt tay cô, một tay cầm dao đâm túi bụi vào thân hình liễu yếu của cô bé.  Cô gào to kêu cứu, nhưng không ai bên ngoài nghe thấy.  Máu chảy thành dòng, tràn trên sàn nhà và cô gục ngã.  Nhưng cô còn tỉnh, cố lết tấm thân nát nhừ ra gần cửa kêu cứu.  Nghe tiếng kêu anh ta vội chạy lại, túm cổ cô đâm thêm nhiều nhát chí tử.  Cô bé bất hạnh phều phào kêu:

 

       “Lạy Chúa tôi!  Lạy Chúa tôi!  Má ơi con chết mất!”  Rồi thiếp đi bất tỉnh…

 

Trong những giờ phút đau thương hấp hối, Goretti âm thầm cầu nguyện cùng Thánh Tâm Chúa và Mẹ Maria.  Cô sẵn sàng chờ đón giờ chết và tha thứ cho kẻ giết mình.  Khi Linh mục mang Mình Thánh Chúa đến, cô hớn hở đón nhận của ăn đàng trước khi về Thiên Quốc.  Ôm ghì Thánh Giá và ảnh Đức Mẹ hôn kính rồi thiếp dần.  Những giây phút cuối đời, Goretti hơi thở bị tắt nghẽn vị bị ám ảnh những giây phút kinh hoàng phải đối phó với hành động xấu xa của Alessandro.  Cử chỉ vô cùng mệt nhọc chống cự với một người vô hình.  Sau cùng bằng sức tàn mong manh, cô vùng dậy như muốn trốn thoát, rồi trong giây lát lại buông mình nằm xuống bất động.  Linh hồn trinh trong và xinh đẹp của Goretti từ từ ra khỏi xác bay về Thiên Quốc.  Lúc đó là chiều Chúa nhật ngày 6/7/1902, một ngày sau khi cô bị đâm 14 nhát dao.

 

Sau khi qua đời, Maria Goretti đã làm nhiều phép lạ.  Nhưng phép lạ to lớn nhất là hoán cải được Alessandro, cô đã hiện về trong tù trao tặng chàng những bông huệ trắng tinh.  Từ ngày đó chàng sống khiêm nhường thống hối tội lỗi mình.  Chàng được phóng thích sau 30 năm tù và suốt đời sống độc thân.

 

Về sau chàng xin vào tu viện Dòng Phan Sinh Hèn Mọn Capuchin, miền bắc Ý, trở thành phần tử Dòng Ba, ngày ngày cần mẫn làm những việc hèn mọn cùng chay tịnh để đền tội đến trọn đời, hưởng thọ 89 tuổi.

 

Ngày 28/4/1947, ĐTC Piô 12 phong Chân Phước cho Maria Goretti.

Ngày 24/6/1950, Ngài lại nâng lên bậc Hiển Thánh.

Rồi đặt Thánh Nữ làm Quan Thày và gương mẫu cho giới trẻ.

Hiện diện trong Lễ Phong Thánh, thân mẫu Thánh đã ngoài 80 tuổi và các em.

Maria Goretti trở thành vị Thánh tử Đạo vì bảo vệ đức Trinh Khiết khi mới 12 tuổi.

Hàng năm Giáo Hội mừng kính thánh Nữ vào ngày 6 tháng 7.

 

Lời kinh Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 dâng kính Thánh Nữ:

 

“Hỡi Cô Bé của Thiên Chúa!

 

Cô đã sớm biết thế nào là khổ cực, nhọc mệt, đau thương, cùng những niềm vui ngắn ngủi của cuộc sống.  Cô cũng biết thế nào là nghèo đói, mồ côi và đã không ngừng yêu mến tha nhân, tự làm người hầu hạ khiêm tốn, ân cần.  Cô sống tốt lành không khoe khoang và yêu mến Tình Yêu Chúa trên mọi sự, đã đổ máu đào để khỏi phản bội Chúa và tha thứ cho người đã giết mình, cầu mong hạnh phúc Thiên đàng cho anh ta.

 

Xin hãy bầu cử cho chúng tôi bên tòa Thiên Chúa Cha, cùng biết thưa vâng theo chương trình Thiên Chúa định liệu trên chúng tôi.

 

Hỡi Đấng là bạn hữu Thiên Chúa đang chiêm ngắm Chúa.  Xin cầu cùng Chúa ban cho chúng tôi những ơn xin cùng Ngài.  Chúng tôi cảm tạ Ngài, hỡi Maria Goretti vì tình yêu Ngài dành cho Thiên Chúa và cho anh chị em đồng loại, mà Ngài đã gieo vãi trong lòng chúng tôi- Amen.”

 

Đinh Văn Tiến Hùng

 

*Ghi chú: Dựa theo tài liệu của Raymond Thư, CMC

    Thánh Bernardino Realino

2 Tháng Bảy

    Thánh Bernardino Realino
    (1530-1616)

    Thánh Bernardino Realino sinh trong một gia đình quyền quý ở Capri, nước Ý. Sau khi được người mẹ chăm sóc, dạy bảo kỹ lưỡng về đạo giáo, lớn lên ngài theo học y khoa và học luật ở Ðại Học Bologna. Ngài lấy bằng tiến sĩ luật và làm thị trưởng Felizzano khi mới 26 tuổi. Ngài còn là chánh án của thành phố. Sau hai nhiệm kỳ, ngài được bổ nhiệm chức vụ trưởng ty quan thuế ở Alesandria, và sau đó làm thị trưởng của Cassine, và Castelleone.

    Năm 32 tuổi, ngài được triệu về Naples để giữ chức phó toàn quyền. Ở đây ngài tham dự cuộc tĩnh tâm 8 ngày của các linh mục dòng Tên và đã xin gia nhập dòng này khi 34 tuổi. Ba năm sau, ngài được chỉ định làm Giám Ðốc Ðệ Tử Viện ở Naples.

    Ngài làm việc cật lực ở Naples, tận tụy phục vụ người nghèo và giới trẻ. Sau đó, ngài được sai đến Lecce là nơi ngài sống bốn mươi năm cuối cùng của cuộc đời.

    Ngài nổi tiếng vì công cuộc tông đồ không ngừng nghỉ. Ngài là một cha giải tội gương mẫu, một vị thuyết giảng lôi cuốn, một thầy giáo cần cù của Ðức Tin cho người trẻ, một chủ chiên tận tụy cho các linh hồn, cũng như là Giám Ðốc trường Dòng Tên ở Lecce và là cha sở ở đây. Lòng bác ái của ngài dành cho người nghèo và người đau yếu dường như vô bờ bến, và sự nhân hậu của ngài đã giúp chấm dứt các mối thù truyền kiếp của nhiều người trong thành phố.

    Sự trân quý của người dân Lecce đối với ngài quá lớn lao đến độ vào năm 1616, khi ngài đang hấp hối trên giường thì vị đại diện thành phố đã chính thức xin ngài bảo vệ cho người dân sau khi ngài từ trần. Không thể nói nên lời, Thánh Bernardino chỉ gật đầu chấp thuận. Ngài từ trần với lời cầu khẩn danh thánh Ðức Giêsu và Ðức Maria.

    Ngài được Ðức Giáo Hoàng Piô XII phong thánh năm 1947.

    Trích từ NguoiTinHuu.com

……………………………………………………………………………………………………………….

 2 Tháng Bảy

Ðấng Cứu Thế Ðang Có Mặt

Ngày kia, có một đan viện phụ Công giáo tìm đến một vị tu sĩ Ấn Giáo tại chân núi Himalaya. Với tất cả ưu tư phiền muộn, vị đan viện phụ trình bày về tình trạng bi đát của tu viện do ông điều khiển. Trước kia, tu viện này là một trong những trung tâm Công giáo thu hút không biết bao nhiêu khách hành hương. Nhà nguyện lúc nào cũng vang lên tiếng ca hát của các tu sĩ và giáo dân đến từ khắp nơi. Các căn phòng lúc nào cũng có người ở… Nay tu viện gần như trở thành một ngôi chùa trống vắng. Làn sóng những người trẻ tìm đến tu viện hầu như tắt lịm. Nhà nguyện vắng kẻ ra người vào. Một số nhỏ tu sĩ còn lại sống trong uể oải, buông thả… Vị viện phụ muốn hỏi nhà tu sĩ Ấn Giáo: đâu là nguyên nhân đã đưa đến tình trạng này? Phải chăng vì một tội lỗi tày đình nào đó mà bàn tay Chúa đã đè nặng trên cộng đoàn?

Sau khi nghe đức viện phụ kể lể, vị tu sĩ Ấn Giáo mới ôn tồn nói: “Cái tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn: đó là tội vô tình”. Vị tu sĩ Ấn Giáo mới giải thích như sau: “Ðấng Cứu Thế đã cải trang thành một người giữa chư vị, nhưng chư vị đã vô tình không nhận ra Ngài”.

Nhận được lời giải thích của vị tu sĩ Ấn Giáo, đức viện phụ mới hối hả trở về tu viện, trong lòng ông không khỏi miên man đặt câu hỏi: “Ai là người được Ðấng Cứu Thế đang mượn hình dáng để trở lại với loài người?”. Cả tu viện chỉ có tất cả không đầy mười người. Ðấng Cứu Thế không thể là chính ông, vì ông tự biết mình là một con người tội lỗi yếu hèn. Nhưng ông cũng biết rõ các tu sĩ khác trong tu viện: có người nào toàn vẹn để Ðấng Cứu Thế mượn lấy hình dáng? Thế nhưng, ông vẫn tin theo lời của vị tu sĩ Ấn Giáo để xác quyết rằng Ðấng Cứu Thế đang cải trang thành một người nào đó trong cộng đoàn…

Với niềm xác tín ấy, ông quy tu tất cả các tu sĩ lại và loan báo cho mọi người biết rằng Ðấng Cứu Thế đang cải trang thành một người trong nhà. Ðôi mắt của mỗi người mở to ra và ai cũng bắt đầu dò xét từng người trong nhà. Chỉ có điều chắc chắn là: bởi vì Ðấng Cứu Thế đã cải trang, cho nên, không ai có thể nhận ra Ngài được. Thành ra mỗi người trong nhà đều có thể là Ðấng Cứu Thế… Từ đó, ai ai cũng đối xử với nhau như đối xử với chính Ðấng Cứu Thế. Không mấy chốc, bầu khí yêu thương, huynh đệ, sức sống và niềm vui đã trở lại với tu viện. Sự thánh thiện ấy không mấy chốc được đồn thổi đi khắp nơi. Các tín hữu từ khắp nơi trở lại tu viện để tĩnh tâm và cầu nguyện. Nhiều ngưởi trẻ cũng đến gõ cửa Nhà Dòng…

Nếu người người, ai ai cũng nhìn nhau và đối xử với nhau như đối xử với chính Chúa Giêsu, thì có lẽ hận thù, chiến tranh sẽ không bao giờ có lý do để tồn tại trên mặt đất này. Sự vắng bóng của Thiên Chúa trong xã hội, hay đúng hơn sự vô tình của con người để không nhận ra Thiên Chúa trong cuộc sống: đó là đầu mối của mọi thứ bất hòa, chiến tranh, xáo trộn trong xã hội.

Chối bỏ Thiên Chúa cũng có nghĩa là chối bỏ con người. Sự băng hoại của những xã hội xây dựng trên chủ thuyết vô thần là một bằng chứng hùng hồn về hậu quả của sự chối bỏ Thiên Chúa. Khi con người chối bỏ Thiên Chúa, con người cũng chà đạp con người…

Con người là hình ảnh cao quý của Thiên Chúa đến độ Ngài đã trở thành con người và tự đồng hóa với con người. Từ nay, con người chỉ có thể nhận ra Ngài trong mỗi người anh em của mình mà thôi. Thánh thiện hay tội lỗi, giàu sang hay nghèo hèn, bạn hữu hay thù địch: mỗi một con người đều là hình ảnh của Thiên Chúa và chỉ có xuyên qua tình yêu đối với con người, con người mới có thể đến với Thiên Chúa…

Trích sách Lẽ Sống

From: hnkimnga & NguyenNThu

THÁNH THOMAS MORE

THÁNH THOMAS MORE

Thánh Thomas More sinh ngày 7/2/1478 tại London trong một gia đình trí thức quý tộc mà chính Ngài đã nói: “Không danh giá nhưng lại lương thiện.”

Ngay sau khi cha ông qua đời, mẹ ông gửi ông đến trường đại học danh tiếng là Oxford để theo học ngành luật.  Ông đạt kết quả xuất sắc và sớm trở thành nghị sĩ khi mới 22 tuổi.  Ông lập gia đình với bà Jane Colt và sinh được 4 người con.  Sự nghiệp của ông tiến nhanh vì ông không những là luật gia, triết gia mà còn là nhà trí thức bách khoa thời Phục Hưng ở Anh.  Ông được bầu làm Chủ tịch Hạ viện Anh năm 1523 và sau đó lên tới chức Tể tướng từ năm 1529-1532.  Nhưng với đức tin Công giáo và tấm lòng vì Tổ quốc Anh, ông đã không đồng tình với những quyết định của vua Henry VIII nên ông đã bị đẩy vào đối tượng thù ghét của chính nhà vua.

Trước hết là khi vua Henry VIII muốn phế bỏ bà vợ hợp pháp của mình là Catherine ở Aragon để cưới cô Anna Boleyn vì bà Catherine không sinh được con cho vua.  Vua gửi đề nghị sang Giáo hoàng ở Roma nhưng không được chấp nhận.  Bà Catherine nguyên là vợ của ông Anthus –anh vua Henry VIII. Đức Giáo hoàng đã chuẩn cho vua Henry được cưới bà Catherine khi chồng bà qua đời.  Viện cớ phép chuẩn này không thành, vua hủy bỏ hôn ước và yêu cầu Tể tướng Thomas More tổ chức lễ cưới cho mình nhưng bị từ chối.  Vua Henry quyết định lập giáo hội Anh giáo tự trị, độc lập với Công giáo Roma và định phong cho Thomas More làm Giáo chủ.  Thomas More và Đức Giám mục John Fisher đã cực lực phản đối và xin từ chức.  Thomas More là người kiên quyết phản đối sự chia rẽ giáo hội nên ông cũng cực lực phản đối Tin lành Luther.  Thomas More viết cuốn sách nổi tiếng Utophia, nói về một hòn đảo hạnh phúc đầy tưởng tượng.  Ngài cũng viết cuốn “Dialogue concerning Heresies” (Đối thoại về các lạc thuyết).  Trong đó, ông phản đối chế độ quân chủ phong kiến mà muốn xác lập quyền tư hữu nhất là quyền tư hữu về ruộng đất.  

Thomas More bị kết tội phản quốc và bị bắt giam ở ngục London 15 tháng.  Vua hy vọng ông sẽ hối cải quan điểm của mình.  Nhưng ông nói với quan canh ngục rằng, ông vẫn luôn luôn trung thành với vua, nhưng ông cũng phải trước hết trung thành với Thiên Chúa nên không thể thay đổi lập trường được.  Ông bị vua ra lệnh xử chém đầu.  Ra pháp trường, ông vẫn vui vẻ chào các quan và hẹn họ gặp nhau ở chốn vĩnh hằng.  Ông moi túi lấy một đồng tiền vàng đưa cho người lính hành quyết và nói: Làm ơn nhắm cho trúng nhé vì cổ của tôi hơi ngắn.  Lính canh bịt mắt ông, ông nói không cần đâu.  Rồi ông bình tĩnh ngả đầu trên thớt, lấy tay vuốt ngược chòm râu lên kẻo bị đứt và hài hước bảo: Chòm râu của tôi có tội gì với vua đâu mà bị xử trảm.  Ông bị chém đầu ngày 6/7/1535 khi mới 57 tuổi.

Năm 1935, Đức Giáo hoàng Piô XI đã phong thánh cho Thomas More và đặt ông làm quan thày của các luật gia.  Ngày 27/11/2000, Đức Gioan Phaolô II lại đặt thánh nhân là đấng bảo trợ các chính trị gia trên thế giới.  Ngài nói: “Thánh Thomas More là người thông minh, sáng suốt và rất mộ đạo.  Thánh nhân đã biết dùng quyền hành trần thế để thể hiện lý tưởng Phúc âm.  Thomas More đã lên đến chức vụ rất cao là Thủ tướng Chính phủ Hoàng gia Anh, nhưng ngài sẵn sàng từ bỏ quyền lực, của cải và sinh mạng, kể cả việc tử đạo khi lương tâm Công giáo đòi buộc ngài phản đối những ý đồ sai trái của vua Henry VIII.”  

Vì thánh nhân có tính hài hước vui vẻ nên rất nhiều người kể cả Đức Giáo hoàng Phanxicô cũng luôn cầu khẩn cho được tính hài hước như ngài.  Trong bài diễn văn trước Giáo triều cuối năm 2014, Đức Phanxicô cho biết mình cầu nguyện với Thánh tử đạo người Anh Thomas More mỗi ngày.  Ngài xin thánh nhân cho mình được ơn hài hước vui vẻ.  Một liều hài hước lành mạnh trong cuộc sống hàng ngày giúp chúng ta rất nhiều.

Kinh của thánh Thomas Moore xin ơn hài hước vui vẻ

Lạy Chúa, xin ban cho con trí lĩnh hội, và cả điều để lĩnh hội.  Xin cho con thân thể khỏe mạnh, và tính hài hước tốt đẹp cần thiết để giữ sức khỏe đó.  Xin cho con một linh hồn đơn sơ biết quý tất cả những gì tốt đẹp, đừng dễ dàng sợ hãi trước mặt sự dữ, nhưng biết tìm cách đặt lại mọi chuyện vào đúng chỗ của nó.

 Xin cho con một linh hồn không buồn chán, không càu nhàu, thở dài hay than van, cũng không căng thẳng quá độ, vì những điều này ngăn cản một chuyện: Con chính là Con.”  Lạy Chúa, xin cho con một trí hài hước tốt đẹp.  Xin cho con ơn có thể nói một câu đùa để tìm được chút vui vẻ trong đời, và có thể chia sẻ niềm vui đó với người khác.’

Bích Hải

From: Langthangchieutim

Thánh Maria Mađalêna Pazzi & Lòng Tham Không Ðáy

Thánh Maria Mađalêna Pazzi & Lòng Tham Không Ðáy

24 Tháng Năm

Thánh Maria Mađalêna Pazzi

 (1566 — 1607)

Sự ngây ngất huyền bí là nâng tâm hồn lên đến Chúa trong một phương cách có ý thức về sự kết hợp này, đồng thời, các giác quan nội tại và ngoại vi đều tách biệt khỏi thế giới cảm xúc. Thánh Maria Mađalêna Pazzi được Chúa ban cho ơn đặc biệt này thật nhiều đến nỗi người ta gọi ngài là “thánh ngây ngất.”

    Ngài tên thật là Catarina “de’ Pazzi”, sinh trong một gia đình quyền quý ở Florence năm 1566. Bình thường, ngài đã có thể lấy một người chồng giầu sang và an hưởng cuộc đời nhàn hạ, nhưng ngài đã chọn một con đường đặc biệt cho chính mình. Ngay từ khi chín tuổi, ngài đã tập suy niệm qua sự chỉ bảo của cha giải tội cho gia đình. Lúc 10 tuổi ngài được rước lễ lần đầu và một tháng sau đó ngài thề giữ mình đồng trinh. Khi 16 tuổi, ngài gia nhập Dòng Camêlô ở Florence chỉ vì muốn rước Mình Thánh Chúa hằng ngày (là một điều ngoại lệ vào thời ấy).

    Vào dòng, Catarina lấy tên là Maria Mađalêna và khi bị từ chối không cho khấn trọn vì còn nhỏ tuổi, ngài lâm bệnh nặng. Tưởng ngài sắp chết, mẹ bề trên cho ngài khấn trọn khi còn nằm trên giường bệnh trong một nghi thức đặc biệt. Nhưng ngay sau đó, ngài rơi vào trạng thái ngây ngất (xuất thần) và kéo dài khoảng hai giờ đồng hồ. Trong vòng 40 ngày kế tiếp, trạng thái này liên tục xảy ra sau mỗi lần rước Mình Thánh Chúa. Những lần ngây ngất này đầy dẫy những cảm nghiệm hợp nhất với Thiên Chúa và chứa đựng những hiểu biết lạ lùng về chân lý của Thiên Chúa.

    Ðể khỏi bị lừa gạt và để giữ lại các điều mặc khải, cha giải tội yêu cầu ngài kể lại các điều được cảm nghiệm để các nữ tu thư ký ghi chép lại. Chỉ trong vòng sáu năm, các trang giấy ghi chép ấy đã tổng hợp thành năm bộ sách lớn.

    Những gì chúng ta cho là phi thường thì đối với thánh nữ lại là điều bình thường. Ngài có thể đọc được tư tưởng của người khác, và tiên đoán các biến cố tương lai. Ngay khi còn sống, ngài đã xuất hiện với vài người ở cách xa nhau và đã chữa nhiều người khỏi bệnh.

    Qua những ơn sủng kỳ lạ của thánh nữ, chúng ta tưởng rằng ngài luôn luôn sống trong trạng thái tinh thần cao độ. Sự thật thì khác hẳn. Dường như Thiên Chúa cho phép ngài được gần gũi với Chúa một cách đặc biệt là để chuẩn bị cho thời gian cô độc khi thánh nữ cảm thấy đời sống tâm linh khô khan một cách kỳ lạ. Vào năm mười chín tuổi ngài bắt đầu thời kỳ năm năm dài thật khô khan và lẻ loi, bị cám dỗ đủ mọi mặt. Tâm hồn ngài lúc ấy như một căn phòng tối đen với chút ánh sáng thật yếu ớt mà chỉ làm bóng đêm thêm dầy đặc. Ngài thật buồn sầu đến nỗi đã hai lần toan tự tử. Tất cả những gì ngài có thể làm để chống trả các cám dỗ là kiên trì cầu nguyện, hãm mình, phục vụ tha nhân dù rằng tất cả những điều ấy dường như vô nghĩa.

    Vào năm 1604, bệnh nhức đầu và tê bại khiến ngài phải nằm liệt giường. Tất cả các giác quan của ngài thật nhạy ứng đến độ bất cứ đụng đến đâu, thân thể ngài đau khủng khiếp. Sau ba năm chịu đựng, ngài từ trần năm 1607 khi 41 tuổi, và được phong thánh năm 1669.

    Lời Bàn

    Sự kết hợp mật thiết, mà Chúa ban cho các vị thần nghiệm, là một nhắc nhở cho tất cả chúng ta về sự kết hợp vinh phúc đời đời mà Người muốn ban cho chúng ta. Trong cuộc đời trần thế, Chúa Thánh Thần là động lực tạo nên sự ngây ngất huyền nhiệm qua các ơn sủng thiêng liêng. Sự ngây ngất xảy ra là vì thân xác quá yếu đuối, không thể chịu đựng nổi sức khai minh thánh thiêng, nhưng khi thân xác được thanh tẩy và vững mạnh, sự ngây ngất không còn xảy ra nữa. (Muốn biết thêm về sự ngây ngất, tìm đọc cuốn Interior Castle [Thành Trì Nội Tâm] của Thánh Têrêsa Avila, và cuốn Dark Night of the Soul [Ðêm Tối của Linh Hồn] của Thánh Gioan Thánh Giá.)

    Lời Trích

    Nhiều người ngay nay không thấy giá trị của sự đau khổ. Thánh Maria Mađalêna Pazzi khám phá ra ơn cứu độ trong sự đau khổ. Khi đi tu, ngài ao ước chịu đau khổ vì Ðức Kitô trong suốt cuộc đời. Lời di chúc của thánh nữ để lại cho các nữ tu trong dòng là: “Ðiều sau cùng tôi muốn xin các chị — và tôi xin vì danh Chúa Giêsu Kitô — đó là các chị chỉ yêu thương một mình Người, hoàn toàn tín thác vào Người và khuyến khích lẫn nhau tiếp tục chịu đau khổ vì yêu thương Người.”

    Trích từ NguoiTinHuu.com

 ———————————————————————————————–

24 Tháng Năm

    Lòng Tham Không Ðáy

    Hôm ấy, trời vừa rạng đông, một ông hoàng nói với tên đầy tớ: “Xem chừng anh mơ ước giàu lắm. Vậy từ giờ này cho tới lúc mặt trời lặn, anh có sức ngần nào thì cứ chạy. Tất cả những ruộng vườn anh chạy vòng quanh được, tôi vui lòng nhường lại cho anh hết”.

    Sướng quá! Cha chết sống lại cũng không bằng.

    Tức thì chàng cắm đầu chạy, chạy vùn vụt như Hạng Vũ trên lưng con ngựa Ô-Truy. Chín mười tiếng đồng hồ qua, chàng ta làm chủ được mấy cánh đồng bao la mù mịt. Chàng vừa dừng chân, thì một khu rừng mơn mởn hiện ra trước mắt cám dỗ chàng. Không kịp thở, chàng lại cắm đầu chạy tiếp, chạy một vòng dài nữa.

    Vừa dừng chân, lại một hồ cá mênh mông, với mặt nước trong ngần, huyền ảo phản chiếu ánh mặt trời đã xế chiều. Lại một vòng nữa… Sau cùng, màn đêm đã phủ xuống trên nẻo đường đi. Chàng hổn hển quay bước trở về nhà, để làm bậc tỉ phú với “Ruộng vườn mặc sức chim bay, biển hồ lai láng mặc bầy cá đua”.

    Nhưng vừa bước chân qua ngưỡng cửa, chàng ngã lăn xuống đất bất tỉnh. Vợ con vội vàng thuốc thang săn sóc… Nhưng vô hiệu. Nhà tỉ phú đã trút linh hồn sau một ngày dài lao lực quá sức. Người ta đào cho chàng một chỗ nghỉ trong lòng địa cầu, vừa dài vừa rộng, nhưng không quá ba tấc đất.

    Ðiểm qua những câu chuyện cổ kim về lòng tham, chúng ta rút ra được bài học gì?… Chắc có người tự hỏi: sống trong thời củi quế gạo châu, chạy ăn từng bữa này làm gì có nhiều của mà tham với lam. Như những anh ăn mày cũng gắn bó với manh chiếu rách, với chiếc áo tơi đến độ có thể “ăn thua đủ” với những ai đánh cắp.

    Lòng tham không cần bị nhiều cám dỗ mới nổi tính tham. Vì thế đức tính đầu tiên chúng ta cần phải tập là tinh thần từ bỏ, dùng của cải như những phương tiện chứ không phải như mục đích. Bước thứ hai là tập cho có quan niệm: chúng ta chỉ là những người quản lý chứ không phải là chủ nhân những của cải vật chất và có như thế chúng ta mới dễ dàng tiến thêm bước thứ ba: sẵn sàng chia sẻ với những người cần thiết hơn. Không cần phải đợi có tiền muôn bạc vạn mới chia sẻ. Hạt muối cắn hai mới thật sự sưởi ấm lòng người và công đức trước mặt Thiên Chúa.    

    Trích sách Lẽ Sống

From: hnkimnga & NguyenNThu

Thánh Bernardine ở Siena & Kẻ Ăn Cắp Một Ổ Bánh Mì

Thánh Bernardine ở Siena & Kẻ Ăn Cắp Một Ổ Bánh Mì

20 Tháng Năm

Thánh Bernardine ở Siena

(1380 — 1444)

    Nếu Thánh Phaolô Tông Ðồ nổi tiếng là người hăng say rao giảng thời tiên khởi, thì Thánh Bernardine là người thuyết giảng nhiệt thành của thế kỷ 15.

    Thánh Bernardine sinh ở Massa Marittima (gần Siena) và là con của thống đốc tỉnh, nhưng khi lên bảy tuổi ngài đã mồ côi cha mẹ và được bà dì chăm sóc, dạy dỗ thật chu đáo.

    Khi ngài 20 tuổi, trận dịch hạch lan tràn khắp thành phố Siena. Nhiều khi, ở bệnh viện có đến 20 người chết trong một ngày. Với sự tiếp tay của các thanh niên thiện chí khác, Bernardine tình nguyện điều hành toàn thể bệnh viện, tận tụy chăm sóc bệnh nhân trong bốn tháng.

    Khi 22 tuổi, ngài gia nhập Dòng Phanxicô và hai năm sau đó được thụ phong linh mục. Các tu sĩ Phanxicô thường nổi tiếng là các nhà truyền giáo, nhưng Bernardine rao giảng rất ít vì giọng nói của ngài thật yếu và khàn khàn. Trong hai mươi năm ngài sống âm thầm trong bóng tối, dành thời giờ và năng lực để cầu nguyện và rèn luyện tâm linh. Vào lúc ấy, ngài được sai đi Milan trong công tác truyền giáo. Khi đứng lên rao giảng, giọng nói của ngài mạnh mẽ và có sức thuyết phục đến nỗi giáo đoàn không để ngài ra về nếu ngài không hứa sẽ trở lại.

    Từ đó, ngài bắt đầu cuộc đời truyền giáo mà Ðức Giáo Hoàng Piô II gọi ngài là Thánh Phaolô thứ hai. Cũng như khi chăm sóc bệnh nhân trận dịch hạch, ngài nhiệt thành lăn xả vào hoạt động truyền giáo. Ngài ngang dọc khắp nước Ý, thường là đi bộ, rao giảng hai ba giờ đồng hồ và nhiều lần trong một ngày.

    Ngài nổi tiếng là sùng kính Thánh Danh Ðức Giêsu, ngài nghĩ ra dấu hiệu — IHS, là ba chữ đầu của tên Ðức Giêsu bằng tiếng Hy Lạp để thay cho những dấu hiệu dị đoan thời ấy. Việc sùng kính Thánh Danh lan dần, và dấu hiệu ấy bắt đầu xuất hiện trong các nhà thờ, tư gia và nơi công cộng. Nhiều người ghen tức đã vu khống ngài, cho rằng đó là sự đổi mới nguy hiểm và dị đoan. Họ đưa vấn đề lên đức giáo hoàng để chống đối ngài, nhưng sự thánh thiện, sự chính truyền và lời rao giảng là bằng cớ cho sự trung tín của ngài.

    Năm 1427, Ðức Giáo Hoàng Martin V đề nghị ngài làm giám mục Siena nhưng ngài từ chối, sau đó ngài cũng từ chối làm giám mục của Ferrara và Urbino. Năm 1430, ngài làm bề trên một chi nhánh Dòng Phanxicô, các Tu Sĩ Sống Nghiêm Nhặt, ngài đặc biệt chú trọng đến kiến thức và nghiên cứu thần học cũng như giáo luật. Lúc đầu chi nhánh này chỉ có 300 tu sĩ; khi ngài từ trần số tu sĩ ấy lên đến 4,000 người.

    Ngài cũng viết một số luận án thần học bằng tiếng Latinh và tiếng Ý đề cập đến các học thuyết căn bản của Kitô Giáo, cũng như luận án về Ðức Maria. Ngài thiết lập phân khoa thần học ở Perugia và Monteripido.

    Trong hai năm cuối cuộc đời, ngài trở về đời sống rao giảng và đã từ trần “trên đường công tác,” lúc ấy ngài gần 64 tuổi.

    Ngôi mộ của ngài ở Aquila trở nên trung tâm hành hương. Ngài là người truyền giáo lỗi lạc của thế kỷ 15, và được Ðức Giáo Hoàng Nicôla V phong thánh năm 1450, chỉ có sáu năm sau khi ngài từ trần.

    Trích từ: Nguoi Tin Huu

……………………………….

    Kẻ Ăn Cắp Một Ổ Bánh Mì 

    Người ta thường kể về một trong những ông thị trưởng đầu tiên của thành phố New York bên Hoa Kỳ giai thoại như sau: một ngày mùa đông lạnh buốt nọ, ông thị trưởng phải chủ tọa các phiên tòa. Người ta điệu đến trước mặt ông một ông lão quần áo tả tơi. Người đàn ông này bị tố cáo là đã ăn cắp một mẩu bánh mì. Lời tự biện hộ duy nhất mà người đàn ông khốn khổ đưa ra là: “Gia đình tôi đang chết đói”.

    Nghe xong lời cáo buộc của cử tọa cũng như lời biẹn bạch của ông lão, viên thị trưởng đưa ra phán quyết như sau: “Luật pháp không tha thứ cho bất cứ một hành động xấu nào. Tôi thấy cần phải trừng phạt ông, và hình phạt cho tội ăn cắp là ông phải đóng 10 đô la”. Vừa công bố bản án, ông thỉntưởng rút trong túi của mình ra 10 đô la và trao cho ngwòi đàn ông khốn khổ. Quay xuống cử tọa ông nói tiếp: “Ông lão đã bồi thường vì tội ăn cắp của ông. Còn phần quý vị, tôi yêu cầu mỗi người phải đóng 50 xu tiền phạt vì sống dửng dưng đến độ để cho trong thành phố của chúng ta còn có một người nghèo phải đi ăn cắp”. Nói xong, ông ra lệnh cho viên biện lý đi thu tiền vảtao tất cả cho ông lão.

    Khi chiếc mũ đã được truyền một vòng tòa án và trở về tay mình, ông lão đếm được tất cả 47 đô la 50 xu.

    Trong sứ điệp Mùa Chay năm 1991, Ðức thánh Cha Gioan Phaolô II mời gọi chúng ta hãy đọc và suy ngẫm về bài dụ ngôn người giàu có và Lazarô.

    Mới nghe qua, chúng ta có cảm tưởng người giàu có trong bài dụ ngôn đã không làm điều gian ác nào để đến độ phải bị trầm luân. Chúa Giêsu đã không nói: ông đã trộm cướp, hay biển lận hoặc gian xảo trong việc làm ăn. Ngài cũng không kết án việc ông ngày ngày yến tiệc linh đình.

    Vậy thì đâu là tội của người phú hộ? Thưa đó là tội dửng dưng trước nỗi khổ của người khác. Chúa Giêsu nói đến sự hiện diện ngày qua ngày của một người khốn khổ trước cửa nhà ông để cho chúng ta thấy sự đang tâm làm ngơ của người giàu có… Máu chảy, ruột mềm. Trước cảnh khốn khổ của người đồng loại, mà người giàu có ấy vẫn không biểu lộ một chút xúc động hoặc làm như không nhìn thấy, thì quả thật không gì đáng trách bằng, bởi vì người giàu có đã làm cho trái tim của mình khô cứng.

    Dửng dưng trước nỗi khổ của người khác không là một thái độ vô thưởng vô phạt, mà là một hành động tội ác. Ông thị trưởng thành phố New York trong câu chuyện trên đây quả thực đã thấy được tội ác của chính ông và của thị dân của ông đối với lão ông ăn cắp bánh mì.

    Trích sách Lẽ Sống

THÁNH MATTHIAS TÔNG ĐỒ

THÁNH MATTHIAS TÔNG ĐỒ

Sau khi Chúa lên trời, các Tông Đồ đón chờ Chúa Thánh Thần hiện xuống.  Các ngài đã chọn thánh Matthias vào nhóm Mười Hai, thay thế cho Giuđa, để làm trọn con số tượng trưng của mười hai chi tộc Israel.  Thánh Matthias vốn là một môn đệ của Chúa và nhân chứng của sự kiện Chúa sống lại.  Theo truyền tụng, ngài đã giảng đạo và tử đạo tại Ethiopia.  Nhờ sự vận động của thánh nữ Helena, di hài của thánh nhân đã được chuyển về Trier nước Đức, và được tôn nhận làm bổn mạng của thành phố này.

  1. Thiên Chúa tuyển chọn.

Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn và cắt đặt các con đi hầu đem lại hoa trái, ngõ hầu hoa trái các con tồn tại.

Sau khi Giuđa phản bội, chỗ của ông trong nhóm Mười Hai bị bỏ trống.  Cuộc tuyển chọn người thay thế Giuđa đã làm trọn lời Chúa Thánh Thần tiên báo, và Chúa Giêsu đã thiết định rõ ràng: Chúa muốn có mười hai Tông Đồ, bởi vì Dân Mới của Chúa cũng phải có mười hai trụ cột, giống như dân Israel có mười hai chi tộc.  Thánh Phêrô đã dùng quyền tối cao trong cộng đoàn gồm 120 môn đệ, nêu lên những điều kiện Thầy Chí Thánh đã đặt ra.  Ai hội đủ những điều kiện ấy sẽ được đứng vào Tông Đồ đoàn: người ấy phải quen biết Chúa Giêsu, và phải làm chứng cho Người.  Thánh Phêrô đã giải thích cho cộng đoàn: Trong số những anh em cùng chúng tôi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được Gioan làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời, phải có một người trở thành chứng nhân cùng với chúng tôi để làm chứng Người đã phục sinh.  Thánh Phêrô nhấn mạnh người được tuyển chọn phải là một chứng nhân về những lời giảng dạy và những sự kiện trong toàn bộ cuộc đời công khai của Chúa Giêsu, nhất là sự kiện phục sinh.  Ba mươi năm sau, chúng ta thấy thánh nhân cũng lặp lại điều ấy trong chứng từ sau cùng cho các tín hữu: Khi chúng tôi nói cho anh em biết quyền năng và cuộc quang lâm của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, thì không phải chúng tôi dựa theo những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo, nhưng là vì chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người.

Thánh Phêrô không tự mình tuyển chọn, nhưng trao phó việc ấy cho Thiên Chúa, như tập tục thỉnh thoảng vẫn gặp trong Cựu Ước.  Chúng ta đọc trong sách Châm Ngôn, Người ta gieo quẻ trong nếp áo, nhưng mọi quyết định đều do nơi Giavê.  Vậy họ đề cử hai người: ông Giuse, biệt danh là Barsabbas, cũng gọi là Công Chính, và ông Matthias – tên đầy đủ là Mattathias, nghĩa là “quà tặng của Thiên Chúa.”  Họ rút thăm, và ông Matthias đã trúng thăm: ông được kể thêm vào số mười một Tông Đồ.  Tài liệu lịch sử cổ xưa ghi lại một truyền tụng, cho biết vị Tông Đồ này thuộc nhóm bảy mươi hai môn đệ Chúa Giêsu đã sai đi rao giảng tại các thành nước Israel.

Trước khi bầu chọn, thánh Phêrô và toàn thể cộng đoàn đã cầu nguyện, bởi vì sự lựa chọn không phải là của các ngài: ơn gọi luôn luôn là một sự lựa chọn của Thiên Chúa.  Vậy các ngài cầu nguyện: Lạy Chúa, chính Chúa thấu suốt lòng mọi người, xin chỉ cho thấy Chúa chọn ai trong hai người này.  Mười một Tông Đồ và các môn đệ không dám đảm nhận hoặc từ chối trách nhiệm tuyển chọn người thay thế Giuđa, nhưng trao phó cho Thiên Chúa.  Về sau, thánh Phaolô cũng nói ngài được cắt đặt không bởi người đời hay nhờ người đời, nhưng là nhờ Chúa Giêsu Kitô và Thiên Chúa là Cha.  Chính Thiên Chúa đã tuyển chọn và sai đi, ngày nay cũng như ngày xưa.

Mỗi người chúng ta có một ơn gọi nên thánh và tông đồ.  Chúng ta lãnh nhận ơn gọi ấy trong bí tích Thánh Tẩy.  Và ơn gọi ấy đã được Thiên Chúa xác nhận qua những lần can thiệp vào đời sống chúng ta.  Có những giờ phút trong cuộc đời, lời mời gọi theo Chúa Giêsu trở nên đặc biệt căng thẳng và rõ rệt.  Tôi không nghĩ Thiên Chúa cưỡng ép tôi.  Nhưng… Thiên Chúa không cần sự đồng ý của chúng ta để làm “rắc rối” cuộc đời chúng ta.  Người cứ vào: và việc là thế đấy!  Lúc đó, chúng ta có đáp ứng hay không là tùy chúng ta.  Hôm nay, chúng ta hãy tự hỏi trong giờ cầu nguyện: Tôi có trung tín với những gì Thiên Chúa muốn về tôi hay không?  Tôi có cố gắng thực thi thánh ý Chúa trong mọi công việc của tôi hay không?  Tôi có sẵn sàng đáp lại những điều Thiên Chúa đòi hỏi tôi trong cuộc đời hay không?

  1. Ơn thánh luôn đầy đủ để đáp ứng ơn gọi.

…Và lá thăm chỉ đúng Matthias.  Ơn gọi của thánh Matthias nhắc cho chúng ta rằng, ơn gọi luôn luôn là một tặng ân nhưng không.  Thiên Chúa tiền định cho chúng ta được nên giống Con của Người và được thông phần đời sống thần linh của Người.  Thiên Chúa ban cho chúng ta một sứ mạng trên trần gian, để rồi muôn đời được hưởng hạnh phúc thiên đàng với Người.  Thiên Chúa mời gọi chúng ta sống thân mật với Người và mở rộng vương quốc của Người, ai nấy trong hoàn cảnh và địa vị riêng.  Ngoài ơn gọi nên thánh phổ quát, Chúa Giêsu còn đặc biệt mời gọi riêng nhiều cá nhân: một số làm nhân chứng bằng nếp sống xa lìa trần thế; một số khác phụng sự Người qua thiên chức linh mục.  Nhưng với đại đa số, Chúa để họ sống giữa trần thế và thánh hóa trần thế từ bên trong, hoặc trong bậc hôn nhân, như một con đường nên thánh, hoặc trong bậc độc thân, để hiến dâng trọn vẹn trái tim tình yêu cho Thiên Chúa và các linh hồn.

Ơn gọi không phát xuất từ những khát vọng hay ước muốn tốt lành.  Các thánh Tông Đồ, và hôm nay là thánh Matthia, đã không chọn Chúa Giêsu làm Tôn Sư như kiểu những người Do Thái thường chọn một rabbi nào đó làm tôn sư.  Chính Chúa Giêsu đã tuyển lựa – một số trực tiếp – số khác, như thánh Matthias, qua việc bầu chọn mà Giáo Hội phó thác trong tay Chúa.  Không phải các con đã chọn Thầy, Chúa Giêsu nhắc nhở các Tông Đồ trong bữa Tiệc Ly, nhưng chính Thầy đã chọn các con và đã cắt đặt để các con đi và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại.  Những người này diễm phúc biết bao khi được lãnh nhận đặc ân lớn lao?  Thực sự không có gì để thắc mắc tại sao những người này lại được tuyển chọn.  Đơn giản vì Chúa đã gọi họ, chứ không gọi những người khác: Chúa gọi đến với Người những kẻ Người muốn.  Đó là toàn bộ phận phúc và mục đích của cuộc sống.

Từ giây phút Chúa Giêsu tuyển chọn và mời gọi một linh hồn theo Người, sau đó còn nhiều lời mời gọi khác nữa, có thể lặng lẽ, nhưng đánh dấu con đường cho linh hồn bước đi trong cuộc sống.  Thiên Chúa ban cho linh hồn những tri thức và ân sủng đặc biệt để nâng linh hồn lên cao, làm cho linh hồn khao khát sự hoàn thiện, muốn phục vụ toàn thể nhân loại, nhất là những người chung quanh.  Ơn Chúa không bao giờ thiếu cho chúng ta.

Truyền tụng kể lại, như các Tông Đồ khác, thánh Matthias cũng đã chịu tử đạo.  Thánh nhân đã làm trọn nhiệm vụ vinh quang, nhưng đôi khi rất gian nan mà Chúa Thánh Thần đã ủy thác cho ngài từ ngày ấy.  Trong trường hợp chúng ta, việc trung thành với ơn gọi sẽ giúp chúng ta tìm được hạnh phúc và ý nghĩa của cuộc đời.

  1. Hạnh phúc và ý nghĩa của đời tín hữu.

Chúa Giêsu đã tuyển chọn những kẻ thuộc về Người: Người kêu gọi họ.  Ơn gọi là một vinh dự lớn lao, cho họ được hợp nhất thân thiết với Thầy Chí Thánh, với những quyền lợi đặc biệt để đáng được nhậm lời khi cầu nguyện.  Trên một số điểm nào đó, ơn gọi mỗi người dựa trên con người của họ: có thể nói ơn gọi và đương sự nên một với nhau, hợp nhất với nhau.  Điều này nghĩa là – trong sáng kiến của Thiên Chúa – có một ưu ái đặc biệt dành cho những người được gọi, không những được ơn cứu độ, mà còn phân phát ơn cứu độ nữa.  Và vì thế, từ đời đời, từ khi chúng ta bắt đầu xuất hiện trong chương trình của Đấng Tạo Hóa và Người muốn chúng ta được hiện hữu, Người cũng muốn chúng ta được mời gọi, qua việc an bài cho chúng ta tất cả những ân huệ và điều kiện, để chúng ta tự tình và ý thức đáp lại lời mời gọi của Chúa Kitô hoặc của Giáo Hội.  Thiên Chúa là Đấng yêu thương chúng ta, chính Người là Tình Yêu, là Đấng đã kêu gọi chúng ta (cf Rm 9:11).

Thánh Phaolô hầu như bao giờ cũng khởi đầu các bức thư bằng những câu như sau: Phaolô, tôi tớ của Đức Giêsu Kitô, được mời gọi là Tông Đồ, được dành riêng cho Phúc Âm của Chúa…  Thánh nhân được kêu gọi và tuyển chọn không phải bởi con người hoặc nhờ con người, nhưng nhờ Đức Giêsu Kitô và Thiên Chúa là Cha.  Thiên Chúa kêu gọi chúng ta như Người đã kêu gọi Moses, Samuel, Isaia.  Đó là một ơn gọi không dựa trên công trạng cá nhân: Thiên Chúa đã gọi tôi từ lòng mẹ.  Thánh Phaolô còn trình bày rõ ràng hơn: Người đã cứu độ chúng ta và đã kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người, không phải vì công kia việc nọ chúng ta đã làm, nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Người.

Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ hãy chia sẻ chén đắng, tức là cuộc sống và sứ mạng của Người.  Giờ đây Chúa cũng mời gọi chúng ta như thế: chúng ta phải cẩn thận đừng để tiếng Chúa bị mất hút giữa những náo động.  Nếu không ở trong Chúa hoặc không phải vì Chúa, thực sự chẳng có gì là niềm vui.  Một khi chúng ta đã nhận ra tiếng Chúa Kitô mời gọi chúng ta theo Người, thì không còn gì là quan trọng nữa so với việc theo Chúa.  Về phần Chúa Kitô, Người sẽ dần dần tỏ cho chúng ta – trong suốt cuộc đời chúng ta – những kho tàng phong phú của ơn gọi mà chúng ta lần đầu tiên đã nghe thấy, khi Người đi qua bên cạnh chúng ta.

Sau khi được tuyển chọn, thánh Matthias không còn được Thánh Kinh nhắc đến nữa.  Cùng với các Tông Đồ khác, ngài đã nghiệm được niềm vui bừng cháy trong ngày Hiện Xuống.  Thánh nhân đã đi rao giảng và chữa lành bệnh tật.  Ngài để lại một di sản đức tin không thể phai nhoà, một đức tin bền vững mãi đến thời kỳ của chúng ta.  Ngài cũng là một ngọn đèn cháy sáng trên thiên đàng cho Thiên Chúa vui hưởng.

Sưu tầm

From: suyniemhangngay1 & NguyenNThu