THÁNH GIOAN TẨY GIẢ BỊ TRẢM QUYẾT

THÁNH GIOAN TẨY GIẢ BỊ TRẢM QUYẾT

Có những cái chết để lại cho đời niềm thương nhớ khôn nguôi.  Có những sự ra đi làm cho con người thương nhớ, nhắc nhở tên người chết mãi mãi không ngơi.  Có những cái chết khiến người khác trề môi, phỉ nhổ.  Chết là trở về nơi cũ.  Chết là ra đi.  Chết là trở về với Thiên Chúa, Đấng tạo dựng và tác sinh.  Cái chết của thánh Gioan tẩy Giả mà Giáo Hội mừng kính hôm nay khiến nhân loại phải ghi nhớ, khiến nhiều người thương tiếc, nhưng cũng không khỏi nguyền rủa sự điên rồ, ngạo nghễ và dại gái, khôn nhà dại chợ của Hêrôđê, một vị vua tàn ác và thiếu tư cách làm người.

MỘT CÁI ĐẦU, MỘT SỰ TRẢ GIÁ VÔ BIÊN

Hêrôđê đã đi vào con đường tội lỗi.  Sự dại gái, khôn nhà dại chợ của Hêrôđê đã khiến vị vua này trở nên ngông cuồng điên dại.  Sống trong tội lỗi, tâm hồn của Hêrôđê đã trở nên mù quáng, tối tăm.  Ở trong bóng tối, Hêrôđê đã không còn biết phân biệt đâu là phải, đâu là trái.  Ông đã hành động tùy tiện việc nước, đã ăn chơi, chè chén trác táng.  Ông không còn biết nhận ra sự thật.  Hêrôđê đã cướp vợ của người em mình.  Sự loạn luân không thể tha thứ, đã làm cho Gioan Tẩy Giả phải lên tiếng quở trách nặng lời hành động vô luân của Hêrôđê và Hêrodias, vợ loạn luân của Hêrođê.  Đúng như lời Kinh Thánh nói: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan.  Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng…” ( Ga 1, 6-7 ).

Gioan không phải là ánh sáng, nhưng Gioan tới để minh chứng về ánh sáng.  Vì chứng minh cho Chúa Giêsu là sự thật, là ánh sáng, Gioan đã không bao giờ chịu khuất phục trước những việc chướng tai gai mắt của con người, của xã hội đương thời và của nhân loại.  Gioan đã có lần nói: “Có Đấng đến sau tôi và tôi không xứng đáng cởi giây dép của Ngài.”  Gioan quả thực đã tới trần gian để dọn đường cho Chúa cứu thế.  Làm công tác dọn đường, Gioan đã sống đích thực sứ mạng của vị tiên tri.  Ngôn sứ phải nói lên sự thật và không bao giờ sợ nguy hiểm cho dù công tác của vị ngôn sứ luôn gặp hiểm nguy.  Để làm chứng cho Đấng cứu thế, Ngài đã nói công khai với mọi người khi họ lầm tưởng Gioan là Đức Kitô: “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại.”  Gioan đã lớn lên trong sự minh chứng cho sự thật.  Chống lại hành động loạn luân và dâm dật của đôi dâm phụ Hêrôđê và Hêrodias.  Gioan Tẩy Giả đã phải chấp nhận cái bi đát nhất của cuộc đời ngôn sứ của mình: cái chết.  Hêrôdias vì không chấp nhận sự thật, không chịu nổi lời quở trách của vị tiên tri.  Nên đã căm thù tìm cơ hội khử trừ vị ngôn sứ đầy uy tín.  Với sự nhảy múa cuồng nhiệt nhân ngày sinh nhật, Hêrodiađê đã làm ngây ngất vua Cha.  Cái đầu, là kết quả sự căm tức ngông cuồng của Hêrôdias.  Đầu của vị ngôn sứ Gioan Tẩy Giả đã nằm gọn trong chiếc dĩa trước mặt Hêrôđê.

LỜI CHỨNG ĐÁNG GIÁ NHẤT CỦA NGÔN SỨ GIOAN TẨY GIẢ

Dù biết rằng mình sẽ phải chấp nhận cái bi đát nhất của cuộc đời, Gioan Tẩy Giả vẫn nói lên tiếng nói bất khuất của vị ngôn sứ.  Mọi tiên tri đều phải trả giá cho lời chứng của mình.  Gioan Tẩy  Giả đã sống anh dũng, can trường với lời nói của mình.  Cái đầu phải trả là giá nặng nề và đáng nguyền rủa nhất của vị ngôn sứ sau cái chết chịu đóng đinh nơi thập giá đối với người Do Thái lúc đó.  Gioan Tẩy Giả đã tự xóa nhòa mình để cho Đấng cứu độ lớn lên trong lịch sử nhân loại.  Lời chứng và cái chết của Ngài, đã nói lên sự thật muôn đời là Gioan đã hoàn toàn đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa: “Ngài không sợ hãi, lớn tiếng trước mặt các vua chúa.  Ngài đã hiến mạng sống cho công bình và chân lý.”

Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả xin ban cho chúng con lòng can đảm để chỉ biết nói lên sự thật và làm chứng cho sự thật.  Xin ban cho chúng con biết nhỏ lại với con người yếu hèn, tội lỗi của mình và luôn để Chúa lớn lên trong chúng con.  Xin ban cho chúng con tâm hồn và sức sống của các vị ngôn sứ của Chúa.

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT

THÁNH NỮ MONICA

THÁNH NỮ MONICA

(332-387)

Quan Thầy các bà mẹ Công Giáo)

Lễ Kính ngày 27 tháng 8 hàng năm

 Trần Mỹ Duyệt

Sinh năm 332, tại Thagaste, Numidia thuộc Đế Quốc Roma nay là Souk AhrasAlgeria. Qua đời năm 387 tại Ostia, Ý, Đế Quốc Roma. Thánh nhân được tôn kính trong Giáo Hội Công Giáo, Giáo Hội Chính Thống Tây Phương, Giáo Hội Chính Thống, Cộng Đồng Anh Giáo, và Tin Lành.

Monica cũng được biết tới như vị thánh nữ thành Hippo bởi vì ngài là mẹ của Thánh Augustine, Giám Mục Hippo. Thánh nữ được tôn kính vì nhân đức cao siêu Công Giáo, đặc biệt sự chịu đựng, hy sinh và trung thành với ơn gọi hôn nhân, gia đình.

Năm 22 tuổi, Monica đã kết hôn với Patricius Aurelius lớn hơn Monica 20 tuổi, và là người Roma ngoại đạo lúc bấy giờ nắm giữ một chức vụ hành chính tại Tagaste. Patricus được mô tả là người nóng nảy, có những hành vi ngang tàng, vô đạo, phản ảnh những gì của mẹ ông. ChínhAugustine cũng đã thuật lại rằng Patricius từng hành hung mẹ mình. Thêm vào đó, bà mẹ chồng không ưa gì Monica và thường gây cho thánh nữ không ít rắc rối. Mẹ chồng Monica là người thiếu nhân đức, luôn luôn làm đau khổ và thử thách đức nhẫn nhịn của Monica. Tuy nhiên, Monica vẫn ngày đêm cầu nguyện cho chồng, cho mẹ chồng. Những việc làm phúc, bố thí, cầu nguyện của thánh nữ tuy có làm chồng khó chịu, nhưng ông vẫn giữ được sự kính phục thánh nữ..

Nhờ sự hy sinh, hãm mình và cầu nguyện của thánh nữ, một năm trước khi qua đời, ông Patricius đã được ơn ăn năn trở lại. Qua kinh nghiệm của chính mình, Monica vẫn thường nói với  những phụ nữ không may mắn trong hôn nhân rằng, “Nếu có thể cầm giữ miệng lưỡi mình, chị em không chỉ tránh cho mình khỏi bị bạo hành, mà có thể, một ngày nào đó, hoán cải chồng mình trở nên một người tốt.

Monica có 3 người con, hai con trai là Augustine, Navigius, và một con gái là Perpetua. Khi còn bé, Augustine bệnh nặng, thập tử nhất sinh nên Monica đã xin chồng cho Augustine được rửa tội, nhưng khi Augustine khỏe lại, ông đã rút lại sự cho phép này. 

Niềm vui mừng và sự nhẹ nhàng của bà khi thấy con được khỏe lại, nhưng nó lại là điều khiến bà buồn vì sự lười biếng, bê tha của con mình. Còn nhỏ Augustine được gửi tới trường tại Madauros. Khi lên 17 tuổi, Augustine bắt đầu học về khoa tu từ học tại Carthage. Trong thời gian này, Augutine còn tin theo dị giáo Mani theo thuyết Nhị Nguyên (Macichaenism) và tằng tịu với một cô nhân tình. Biết điều này, Monica đã đuổi con ra khỏi nhà, tuy nhiên vẫn nghĩ đến tương lai con và hằng cầu cho con được trở lại và làm hòa với thánh nữ.   

Sau này Augustine đã trở nên một học giả và giáo sư, nhưng cuộc sống phóng đãng của ông mang đến cho người mẹ không ít tủi nhục. Một lần bà đã đến gặp một vị giám mục, và vị này đã khuyên bà: “Người con của những giọt nước mắt của mẹ sẽ không bị hư mất”. Trong suốt mười năm, Augustine sống với một cô nhân tình, Augustine đã trốn bà đến Roma, nghe vậy thánh nữ cũng đã đến Roma tìm con, nhưng khi đến nơi thì Augustine đã rời đi Milan. Không bỏ cuộc, thánh nữ lại tìm đến Milan. Trong thời gian dạy học tại Milan, Augustine đã gặp được Tổng Giám Mục Ambrosio, và với lới giảng khuyên của ngài, Augustine đã trở về với Giáo Hội sau 17 năm liên lỷ được mẹ luôn cầu cho mình. Lễ Phục sinh năm 387, Augustine cùng với con mình là Adeolatus được rửa tội tại thánh đường thánh Gioan tại Milan, lúc ấy Augustine được 33 tuổi.

Hai mẹ con vui mừng được 6 tháng tại Rus Cassiciacum (nay là Cassago Brianza). Sau ngày Augustine trở lại với niềm tin Phúa Âm và trở thành tín hữu Công Giáo, hai mẹ con đã lên đường về tại Phi Châu. Khi hai người dừng lại ở Civitavecchia và Ostia, thánh nhân đã qua đời tại Ostia hưởng dương 55 tuổi. Trước khi nhắm mắt, Monica đã nói với con là Augustine: “Hỡi con. Giờ đây không có gì trên thế gian có thể làm mẹ sung sướng. Mẹ không biết còn gì mẹ phải làm, hoặc tại sao mẹ vẫn còn ở đây, vì tất cả mọi điều hy vọng của mẹ giờ đây đã được thực hiện.”

Thánh nữ được an táng tại Ostia. Xác thánh của bà ở thế kỷ thế 6 đã được giữ kín tại thánh đường Santa Aurea ở Osta gần bên một thánh Aurea thành Ostia. Năm 1430, Giáo Hoàng Martin V ra lệnh đem hài cốt của Thánh nữ về Roma, và từ đó rất nhiều phép lạ do lời cầu bầu của thánh nhân.

Kinh cầu Thánh Monica

Lạy Thánh Monica,

Con cần lời cầu xin của người.

Con đang đau khổ, bị dày vò, và vô vọng.

Con rất ước mong con của con được trở về với Giáo Hội, được ơn ăn năn sửa mình, nhưng con biết con không thể làm được việc ấy một mình.

Con cần sự trợ giúp của Thiên Chúa.

Xin cùng với con cầu xin sức mạnh của Chúa ban tràn trên đời sống con của con.

Xin Chúa Giêsu biến đổi tâm hồn con của con, chuẩn bị một con đường trở về, và xin hoạt động của Chúa Thánh Thần tác động trong đời sống của con con.

Amen.   

From: Vuisongtrendoi gởi

Thánh nữ Mô-ni-ca

Thánh nữ Mô-ni-ca

Lễ nhớ bắt buộc

Tiểu sử 
Thánh nữ sinh năm 331 tại Ta-gát, Châu Phi, trong một gia đình theo Ki-tô giáo. Lúc còn thanh xuân, thánh nữ đã kết hôn với anh Pa-tri-xi-ô và sinh được những người con, trong đó có thánh Âu-tinh. Khi Âu-tinh mất đức tin, thánh nữ đã dâng những dòng lệ tựa những lời cầu nguyện âm thầm lên Thiên Chúa. Khi thấy Âu-tinh trở lại, thánh nữ đã tràn ngập vui mừng. Người không còn gì để chờ đợi ở trần gian này nữa, Thiên Chúa đã gọi người về ở Ốt-ti-a, năm 387, khi người đang sửa soạn trở về Châu Phi, quê hương của người. Thánh nữ là tấm gương sáng chói cho những người làm mẹ : nuôi dưỡng lòng tin bằng lời cầu nguyện và chiếu toả ra bên ngoài bằng các nhân đức.

Thầy Bạch gởi

THÁNH BÊNÊĐICTÔ, TU VIỆN TRƯỞNG 

THÁNH BÊNÊĐICTÔ, TU VIỆN TRƯỞNG 

Thánh Bênêđictô, tổ phụ các dòng tu bên tây phương, sinh khoảng năm 480 tại Nursia.  Hai nguồn chính về cuộc đời thánh Bênêđictô là cuốn Dialogne (đối thoại) của thánh Grêgôriô Cả và cuốn qui luật của chính thánh nhân.  Cuốn Dialogne thâu thập các phép lạ được coi là do thánh nhân thực hiện.  Giá trị của các phép lạ này tùy theo thẩm quan và theo cách thức phê phán của mỗi người, nhưng cung ứng cho chúng ta những sự kiện quí giá.  Cha mẹ Ngài có lẽ thuộc vào hàng quí tộc ở miền quê.  Ngài lớn lên tại gia đình.  Năm 14 tuổi, Ngài được gửi tới Roma để bổ túc việc học hành.  Các độc giả ngày nay có thể ngạc nhiên khi thấy có chị vú nuôi Cyrilla của Ngài đi theo.

Sự suy đồi của Roma làm cho người thiếu niên nhà quê này khiếp sợ.  Dầu có vú nuôi đi theo, thánh nhân trốn khỏi kinh thành hai hay ba năm sau đó.  Ngài biết rằng: Thiên Chúa muốn gọi mình sống đời tu trì.  Cùng với vài người đạo đức, Ngài lưu lại ít lâu ở Enfide, cách Roma 35 dặm.  Sau đó một mình lên đường, Ngài tìm sống đời ẩn dật.  Tại Subianô, Ngài gặp một ẩn sĩ tên là Rômanô, vị ẩn sĩ hỏi:

–          Bạn ơi, bạn đi đâu vậy ?

–          Tôi trốn thế gian và đi tìm cô tịch.

 Rômanô khen ngợi ý định đạo đức của thánh nhân, khuyên Ngài hãy kiên trì và ban cho những lời khuyên nhủ quí báu.  Thầy cho Ngài một bộ áo nhà tu là một tấm da cừu và chỉ cho Ngài một cái hang. Nhận bộ áo nhà tu, Bênêđictô lần mò tới cái hang ở giữa triền dốc Montê Calvô.  Ngài đã giam mình ở đó 3 năm, thinh lặng cầu nguyện, và ăn chay hãm mình.  Thực phẩm Ngài dùng là rễ cây và ít mẩu bánh thầy Romanô gởi tới bằng một cái thúng cột giây thả xuống.

Quỷ dữ tức giận vì các nhân đức của thầy dòng trẻ tuổi.  Chúng dùng nhiều chước cám dỗ để lôi kéo Ngài bỏ sa mạc trở về thế gian.  Ngài thường làm dấu thánh giá để xua đuổi các cơn cám dỗ.  Một lần kia bị cám dỗ nghịch với đức trong sạch, Ngài liền cởi áo và lăn mình vào bụi gai đến chảy máu ra.  Từ đó tư tưởng xấu hoàn toàn bị đè nén và không còn quấy rầy Ngài nữa.

Tuy nhiên, các mục đồng đã khám phá ra Ngài và danh thơm nhân đức của Ngài đã lan rộng.  Một tu viện gần đó mời Ngài về làm bề trên.  Nhưng khi muốn chỉnh đốn những lạm dụng và muốn áp dụng một qui luật, Ngài đã bị một số thầy dòng bực tức khó chịu.  Họ còn đi đến quyết định hãm hại người khác.  Đến bữa ăn thánh Bênêđictô làm dấu thánh giá trên chén rượu như thói quen, chén liền vỡ tan.  Ngài nói với họ:

–          Xin Chúa tha thứ cho các anh.  Tại sao các anh làm như vậy?  Tôi đã chẳng nói với các anh rằng: chúng ta không thể sống chung được với nhau là gì?  Vậy các anh hãy đi tìm một bề trên khác hợp ý các anh hơn. 

Rồi thánh nhân tìm lại cô tịch để sống thân mật một mình với Thiên Chúa.  Dầu vậy danh tiếng của thánh nhân lan rộng tới Roma.  Ngài không thể sống cô độc một mình được nữa.  Nhiều người tìm đến xin làm môn đệ Ngài.  Tiếp nhận họ, Ngài đã phải thiết lập 12 tu viện nhỏ.  Có những gia đình quí phái mang con đến gởi thánh nhân.  Chúng ta phải kể đến trong số này hai thiếu niên Placidê và Maurô là những người sau này đã trở nên các vị thánh.

Nhân đức các phép lạ của thầy dòng cao cả này đã gây nên nỗi ghen tức và cả đến việc vu oan nữa.  Thánh Grêgôriô cho chúng ta biết rằng: vì bị một linh mục ghen ghét xua đuổi, Bênêđictô phải dời bỏ Subianô.  Thi sĩ Marcô lại nói rằng: Ngài đã được Chúa gọi đến Cassinô.  Dầu sự thực có thế nào đi nữa, thì vào khoảng giữa năm 520-530, thánh Bênêditô cùng với vài người bạn đã rời bỏ Subiacô tới Cassinô.  Trên núi Cassinô có một ngôi đền cổ và một cánh rừng dâng kính thần Apollô.  Ngài rao giảng Tin Mừng cho dân cư vùng này và phá rừng khai hoang.  Sau khi triệt hạ ngôi đền cổ, Ngài đã thiết lập hai nhà nguyện kính thánh Gioan tẩy giả và thánh Martinô.  Đó là nguồn gốc của tu viện nổi danh Montê Cassinô.  Thánh Bênêđictô đã sống tại đây cho tới hết đời.  Cũng tại đây, Ngài đã trước tác một bộ luật dòng ảnh hưởng rất lớn trong đời sống tu trì của Giáo hội.  Theo luật sống này, một ngày của tu sĩ được phân phối cho ba hoạt động chính là cầu nguyện, học hành, và lao động.

Mọi hoạt động của thánh nhân đều nhằm thi ân.  Người ta còn kể lại nhiều phép lạ Ngài đã thực hiện.  Chẳng hạn như Ngài chữa cho nhiều người phong hủi, trừ quỉ và làm cho nhiều người chết sống lại, Ngài còn được ơn thấu suốt bí mật tâm hồn và bí mật về tương lai.  Chúng ta ghi lại giai thoại về cuộc tiếp xúc giữa thánh nhân với vua Tôtila.  Nhà vua muốn kiểm chứng tin đồn rằng: thánh nhân biết được những điều bí mật.  Ông cho biết mình sẽ đến thăm thánh nhân.  Nhưng thay vì đích thân đến, ông lại sai một viên chức tên là Riggon, ăn mặc như nhà vua và có đoàn tùy tùng đông đảo.  Thánh nhân vẫn ngồi khi thấy ông tới và nói với ông: 

–          Con ơi!  Cởi áo ra đi.  Nó không phải là của con. 

Đến lượt Tôtila, ông đến thăm người của Chúa, ông quỳ dưới chân thánh nhân, nhưng đã ngạc nhiên khi nghe Ngài nói: 

–          Hãy giảm bớt những bất công đi, bởi vì ông đã gây quá nhiều sự dữ.  Ông sẽ tiến vào Roma, cai trị trong chín năm.  Năm thứ 10 ông sẽ từ trần.

 Lời tiên báo của thánh nhân đã được thể hiện đầy đủ.  Ngài còn cho biết rằng tu viện Monte Cassinô sẽ bị tàn phá.  Lời tiên báo này cũng đã xảy ra.  Năm 590, tu viện bị người Combarde cướp phá.  Năm 1943, bọn đồng minh tàn phá dữ dội tu viện.

Thánh nhân tiếp tục làm nhiều phép lạ, do lòng bác ái thúc đẩy.  Vào cuối đời, Ngài được thị kiến, thấy địa cầu chói sáng và linh hồn của thánh Germain được các thiên thần đưa về trời.  Ngài cũng đã thấy linh hồn của em mình là thánh nữ Scolastica về trời như vậy.  Bốn mươi ngày sau cái chết của người em gái, thánh nhân cho biết về cái chết của em mình.  Sau khi đào mộ cho mình, thứ bảy ngày 21 tháng 3 năm 543 (hay 547) Ngài từ trần như lời loan báo trước.  Từ cuối thế kỷ VIII, Ngài đã được kính nhớ vào ngày 11 tháng 7.

Thánh Bênêđictô đã nêu gương cho chúng ta về đời sống đạo đức, nhiệm nhặt và âm thầm.  Ước gì chúng ta, những người mang danh Kitô hữu; chúng ta cũng biết hy sinh, thầm lặng trong công việc.  Nhất là những việc bác ái, giúp đỡ anh chị em xung quanh chúng ta.  Để nước Chúa được rạng rỡ vinh quang.

 Sưu tầm

Langthangchieutim gởi

THÁNH ANTÔN PADUA, LINH MỤC-TIẾN SĨ HỘI THÁNH

THÁNH ANTÔN PADUA, LINH MỤC-TIẾN SĨ HỘI THÁNH

Lòng tôn sùng rộng rãi và mạnh mẽ đối với thánh Antôn Padua thật lạ lùng so với những sự kiện đời Ngài. Ngài sinh năm 1195 có lẽ gần Lisbonne, với tên gọi là Fernandô. Cha Ngài là hiệp sĩ và viên chức tại triều đình hoàng đế Alphongsô thứ II, vua nước Bồ Đào Nha. Fernadô được gởi đi học trường nhà thờ chánh tòa tại Lisbonne. Nhưng vào tuổi 15, Ngài gia nhập dòng thánh Augustinô.

Sau hai năm tại nhà dòng, Ngài xin được chuyển về Coimbra vì bạn bè đến thăm quá đông. Tu viện Coimna có một trường dạy Thánh kinh rất danh tiếng. Tám năm trời Fernadô nỗ lực học hỏi và đã trở thành học giả sâu sắc về thần học và kinh thánh.

  1. Biến cố thay đổi

Ngày kia với nhiệm vụ tiếp khách, Ngài săn sóc cho 5 tu sĩ Phanxicô đang trên đường tới Morocco. Về sau họ bị tàn sát dã man và thi hài họ được đưa về Coimbra để tổ chức quốc táng. Fernadô mong ước hiến đời mình cho cánh đồng truyền giáo xa xăm. Nôn nóng với ước vọng mới, Fernadô phải tiến một bước bất thường đầy đau khổ là rời bỏ dòng Augustinô để nhập dòng Phanxicô. Nhà dòng đặt tên Ngài là Antôn và chấp thuận cho Ngài tới Moroccô. Nhưng vinh dự tử đạo không được dành riêng cho Ngài. Ngài ngã bệnh và phải trở về nhà, Trên đường về, con tàu bị bão thổi bạt tới Messina ở Sicyly. Thế là An tôn nhập đoàn với anh em Phanxicô nước Ý. Có lẽ thánh nhân có mặt trong cuộc họp ở Assisi. Năm 1221, và gặp thánh Phanxicô ở đây. Ít lâu sau Ngài được gởi tới viện tế bần ở Forli gần Emilia để làm những công việc hèn hạ.

  1. Biến cố tiếp theo

Dầu vậy một biến cố bất ngờ khiến người ta khám phá ra khả năng đặc biệt của thánh nhân. Trong một lễ nghi phong chức ở Forli nhà giảng thuyết đặc biệt vắng mặt. Không ai dám thay thế. Cha giám tỉnh truyền cho An tôn lên tòa giảng. Antôn làm cho khán giả kinh ngạc. Người ta thấy ngay trước được rằng: Ngài là một nhà giảng thuyết bậc nhất. Hậu quả tức thời Ngài được chỉ định làm nhà giảng thuyết trong cả Atalia. Đây là một thời mà Giáo hội cần đến những nhà giảng thuyết hơn bao giờ hết để chống lại các lạc thuyết. Kể từ đó nhà tế bần Forli không còn gặp lại Antôn nữa. Ngài du hành không ngừng bước từ miền nam nước Ý tới miên Bắc nước Pháp, hiến trọn thời gian và năng lực cho việc giảng dạy. Sự đáp ứng của dân chúng đã khích lệ Ngài nhiều, các nhà thờ không đủ chỗ cho người đến nghe. Người ta phải làm bục cho Ngài đứng ngòai cửa. Nhưng rồi đường phố và quảng trường đã lại chật hẹp quá và người ta lại phải mang bục ra khỏi thành phố tới những cánh đồng hay sườn đồi, nơi có thể dung nạp những 20, 30, 40 ngàn người đến nghe Ngài. Nghe tin Ngài đến đâu, thì nơi đó tiệm buôn đóng cửa, chợ hoãn phiên họp, tòa ngưng xử án. Suốt đêm dân chúng từ khắp hướng đốt đuốc tụ về. Dường như bất cứ ai một lần chịu ảnh hưởng của thánh Antôn thì không có gì chống lại được sự lôi cuốn bởi các bài giảng của Ngài.

Ngài thường mạnh mẽ chống lại sự yếu đuối của hàng tu sĩ qua những tội nổi bật trong xã hội đường thời như: tính tham lam, nếp sống xa hoa, sự độc đoán của họ. Đây là một giai thoại điển hình: khi Ngài được mời để giảng ở hội đồng họp tại Bourges, dưới sự chủ tọa của tổng giám mục Simon de Sully. Với những lời mở đầu “Tibi loquor cornute” (Tôi xin thưa cùng Ngài đang mang mũ giám mục trên đầu), thánh nhân tố giác vị giám mục mới tới, làm mọi thính giả phải kinh ngạc.

Cũng tại Bourges, nên ghi lại một phép lạ lừng danh về một con lừa thờ lạy bí tích cực trọng. Với một người Do thái không tin phép Bí tích Mình Thánh. Thánh nhân nói:

– Nếu con lừa ông cưỡi mà quỳ xuống và thờ lạy Chúa ẩn mình dưới hình bánh thì ông có tin không?

Người Do thái nhận lời thách thức.  Hai ngày ông ta không cho lừa ăn rồi dẫn tới chỗ họp chợ, giữa một bên là lúa mạch và bên kia thánh Antôn kiệu Mình Thánh Chúa đi qua, con vật quên đói quay sang thờ lạy Chúa.

Mùa chay cuối cùng thánh Antôn giảng ở Padua.  Và người ta còn nhớ mãi sự nhiệt tình mà thánh nhân đã khơi dậy.  Dân địa phương đã không thể nào tìm ra thức ăn lẫn chỗ ở cho đoàn người đông đảo kéo tới.  Nhưng sau mùa chay này, thánh nhân đã kiệt sức.  Ngài xin các bạn đồng hành đưa về nhà thờ Đức Maria ở Padua để khỏi làm phiền cho chủ nhà trọ.  Không nói được nữa.  Ngài dừng chân ở nhà dòng Đức Mẹ người nghèo ở Arcella.  Tại đây, người ta đặt Ngài ngồi dậy và giúp Ngài thở.  Ngài bắt đầu hát thánh thi Tạ ơn và qua đời giữa tiếng ca ngày 13 tháng 6 năm 1231 khi mới 36 tuổi.  Ngài được phong thánh một năm sau, ngày 30-5-1232.  Năm 1946, Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã tôn phong ngài làm Tiến Sĩ Hội Thánh.

Năm 1263, trong ngày lễ thánh nhân, hài cốt Thánh Antôn được đưa từ tu viện đến nhà thờ mới, dưới sự điều khiển của thánh Bonaventura.  Khi khai quật phần mộ, da thịt ngài đã tiêu tan hết, đặc biệt lưỡi thì còn y nguyên. Thánh Bonaventura hôn kính “lưỡi đáng kính trọng” ấy, rồi thốt lên: “Bởi lưỡi thánh này đã ngợi khen Thiên Chúa và khuyên dụ nhiều người ngợi khen Thiên Chúa, nên Ngài đã gìn giữ lưỡi này còn nguyên vẹn cho đến bây giờ.” Lưỡi ấy được đặt vào một bình bạc để trên cao cho mọi người tôn kính.  Từ đó, khách hành hương từ khắp nơi đến viếng nhà thờ và mộ thánh để cầu nguyện và xin ơn.  Thánh Antôn hằng ban ơn giáng phúc, chẳng những về thể xác mà nhất là về phần linh hồn.  Chính thánh Bonaventura đã chứng kiến và ca ngợi rằng: “Ai muốn nhờ phép lạ thì phải chạy đến cùng Thánh Antôn.  Người cứu chữa lúc gian nan, giúp đỡ khi túng cực.  Hãy hỏi dân thành Pađua, hãy hỏi các khách hành hương, họ sẽ nói lên sự thật ấy.” 

 Người ta thường vẽ Thánh Antôn bế Hài Nhi Giêsu vì Ðức Giêsu đã hiện ra với ngài.  Thánh Antôn là người hiểu biết thâm sâu, nhất là về Kinh Thánh, do đó Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã tuyên xưng ngài là “Tiến Sĩ Tin Mừng” hay Tiến Sĩ Kinh Thánh.

Thánh Antôn Padua đã hiến trọn thời gian và năng lực cho việc giảng dạy về tình yêu Chúa.  Ước gì mỗi chúng ta cũng biết noi gương thánh nhân, can đảm hiến thân cho tha nhân, cho Tin Mừng nước Cha.

Tổng hợp

Xin xem thêm sách Thánh Antôn Padua

http://suyniemhangngay.net/ 2016/09/04/thanh-anton-padua/

From: Langthangchieutim

THÁNH RITA CASCIA (1381-1457)

THÁNH RITA CASCIA (1381-1457)

(Trung thành trong đau khổ suốt đời qua nhiều giai đoạn: thiếu nữ, vợ, mẹ, góa, nữ tu)

Trong nhiều thế kỷ, Thánh Rita ở Cascia là một trong những vị thánh nổi tiếng của Giáo Hội Công Giáo. Người ta thường gọi ngài là “Vị Thánh Bất Khả,” vì bất cứ điều gì nhờ ngài cầu bầu đều được Thiên Chúa nhận lời.

Thánh Rita sinh năm 1381, tại thành Cascia thuộc tỉnh Umbria, nước Ý.  Cha mẹ có tinh thần đạo hạnh cảm ơn Chúa đã cho sinh con như món quà quí.

Cô muốn dâng mình đi tu, nhưng cha mẹ lại bắt cô lập gia đình.  Ban đầu cô hơi bực mình, nhưng Rita hiểu đây là Ý Chúa, nên cô bằng lòng.  Rita kết hôn năm 12 tuổi, với một thanh niên quý tộc.  Anh ta là người khô đạo, thường xuyên hành hạ vợ mình.  Tuy nhiên, với tâm hồn đạo hạnh, Rita vẫn yêu thương làm tròn bổn phận của người vợ.

Cuối cùng, vì đức hạnh của Rita, người chồng đã thay đổi nếp sống và tận tâm yêu mến bà.  Đời sống gia đình kéo dài được 18 năm.  Chúa đã chúc lành cho Rita và cho bà sinh 2 con trai.  Bà trở thành người vợ và người mẹ tốt lành tận tụy.

Vì có sự bất hòa trong đại gia đình dòng họ, một hôm, chồng bà đã bị kẻ thù giết chết, bà rất đau khổ, nhưng trong tinh thần Công giáo, bà tha thứ cho kẻ thù đã giết chồng.

Hai con trai của bà khi đến tuổi được phép mang khí giới, chúng không giống như mẹ, chúng quyết tâm nuôi mộng giết kẻ thù để trả hận cho cha mình.  Bà lại đau khổ, khuyên can các con và vì biết không thể làm lay chuyển được kế hoạch giết người của chúng, bà đã ngày đêm cầu xin Chúa cất chúng về khi chúng đang còn trong ân sủng của Chúa và chưa phạm tội ác.  Chúa đã nhận lời bà.  Trong một năm, cả hai đứa lìa đời.

Sau khi con chết, bà xin vào tu trong nhà dòng nữ Augustinô ở Cascia, nhưng nhà dòng đã ba lần từ chối không nhận bà vì không còn là trinh nữ.  Bà tha thiết cầu nguyện đêm ngày xin Chúa cho bà được thuộc về Chúa như người Bạn Trăm năm.  Người ta kể rằng, một đêm kia ba vị thánh (Gioan Tẩy giả, Augustinô, Nicholas Tolentino) hiện ra dẫn bà tới nhà Dòng Madalena, đưa bà vào trong khuôn viên của tu viện dù đã kín cổng cao tường. Thấy vậy, các nữ tu tin rằng ý Chúa muốn ngài được chấp nhận vào dòng.

Trong 40 năm ở nhà dòng, bà sống trong cầu nguyện và chiêm ngắm, hầu hạ người bệnh và người nghèo, làm việc tay chân được bề trên chỉ định.  Bà ước ao chia sẻ những khổ đau cùng Chúa Kitô nên sau 25 tu, Chúa đã ban cho bà được chia sẻ một chút là cho một cái gai trong mũ gai của Chúa cắm vào trán bà.  Từ đó, trên trán của bà có vết thương rướm máu.  Các bề trên của bà nghĩ rằng đó là hiện tượng bệnh phong cùi, nên tách riêng bà ra khỏi cộng đoàn nhà dòng và cho bà sống trong một căn phòng nhỏ trong góc tu viện.  Bà mang vết thương này trong 15 năm, âm thầm chịu đựng ngày đêm và cảm tạ những ơn Chúa Giêsu Kitô đã đặc biệt ban cho bà.  Bà bị đau đớn khổ sở cho đến lúc nhắm mắt lìa đời ngày 22 tháng Năm năm 1457 khi 76 tuổi.

Người ta gọi bà Rita là: Người đem hòa bình.  Thánh của những trường hợp vô vọng.  Bà thánh xin nhiều quá (“Peacemaker,” “Saint of the Impossible,” the “Saint Who Asks Too Much”).  Ngài đặc biệt được tôn kính ở nước Ý ngày nay, và được coi là quan thầy của những trường hợp khó khăn, nhất là có liên hệ đến hôn nhân.      

Ngài được phong chân phước năm 1626 và được phong thánh năm 1900, và được coi như “Viên ngọc quí của thành Umbria.”  Lòng sùng kính thánh nữ Rita không những lan ra khắp nước Italia mà còn ra nhiều nước khác, nêu gương cho phụ nữ mọi thời, mọi nơi, qua nhiều giai đoạn…

 Sưu tầm

From Langthangchieutim gởi

THÁNH MARCÔ, THÁNH SỬ

THÁNH MARCÔ, THÁNH SỬ

Thánh Marcô, mặc dù mang tên Roma, nhưng lại là người Do Thái, và còn được gọi theo tên Do Thái là Gioan.  Tuy không thuộc nhóm Mười Hai Tông Đồ, nhưng rất có thể ngài đã quen biết Chúa Giêsu.  Nhiều văn gia Giáo Hội phát hiện ra chữ ký kín ẩn của thánh Marcô trong Phúc Âm của ngài, trong trình thuật người thanh niên bỏ chạy với một mảnh vải trên người, khi Chúa Giêsu bị bắt trong vườn Cây Dầu: ý nghĩa ở đây là chỉ có mình thánh Marcô đề cập đến chi tiết ấy.  Điều này còn trùng hợp với một chi tiết khác: Marcô là con trai bà Maria, một góa phụ giàu có, sở hữu ngôi nhà, nơi các tín hữu Jerusalem tiên khởi thường tụ họp.  Theo một truyền thống cổ xưa, ngôi nhà này chính là ngôi nhà có phòng Tiệc Ly, nơi Chúa Giêsu đã ăn bữa Tiệc Ly và thiết lập bí tích Thánh Thể.

Marcô có bà con với thánh Barnabas; ngài đã đồng hành với thánh Phaolô trong cuộc truyền giáo lần thứ nhất, và ở bên cạnh vị Tông Đồ dân ngoại trong những ngày cuối đời của ngài.  Tại Roma, Marcô còn làm môn đệ của thánh Phêrô.  Trong Phúc Âm của ngài, với ơn linh hứng Chúa Thánh Thần, thánh Marcô đã trung thành trình bày giáo huấn của vị Tông Đồ trưởng.  Theo một truyền thống cổ xưa được thánh Jerome kể lại, sau khi hai thánh Phêrô và Phaolô chịu tử đạo, thánh Marcô đã sang Alexandria, giảng đạo, thành lập giáo đoàn và trở thành giám mục tiên khởi ở đó.  Vào năm 825, thánh tích của ngài được dời từ Alexandria về Venice, thành phố hiện nay nhận ngài làm quan thầy.

  1. Marcô, người phụ tá của thánh Phêrô.

Ngay từ khi còn rất trẻ, Marcô đã thuộc vào nhóm các tín hữu tiên khởi ở Jerusalem, những người quen biết và được sống bên cạnh Đức Mẹ và các Tông Đồ.  Mẹ của ngài là một trong những phụ nữ đã lấy tài sản chu cấp cho Chúa Giêsu và mười hai Tông Đồ.  Marcô cũng có bà con với thánh Barnabas, một trong những nhân vật chính yếu trong thời kỳ đầu, và là người đầu tiên dìu dắt ngài trong công cuộc rao giảng Phúc Âm.  Marcô đồng hành với thánh Phaolô và thánh Barnabas trong hành trình truyền giáo lần thứ nhất, nhưng khi đến đảo Cyprus, Marcô cảm thấy không thể tiếp tục được nữa nên đã từ giã và trở về Jerusalem.  Thánh Phaolô dường như rất thất vọng về tính thay đổi của Marcô.  Về sau, khi trù định cho hành trình truyền giáo lần thứ hai, thánh Barnabas muốn đem theo Marcô, nhưng thánh Phaolô nhất định không chịu vì nhớ lại sự việc trước đó.  Cuộc tranh luận giữa thánh Phaolô và thánh Barnabas căng thẳng đến nỗi sau cùng hai vị đã chia tay, mỗi người tiến hành chương trình của riêng mình.

Khoảng mười năm sau, chúng ta lại thấy Marcô tại Roma, lần này ngài giúp đỡ thánh Phêrô.  Lời thánh Phêrô đã viết trong thư: con tôi là Marcô, minh chứng mối liên hệ lâu bền và gần gũi giữa hai vị.  Thời gian ấy, Marcô là thông dịch viên cho vị Tông Đồ trưởng, việc này đem lại một lợi điểm mà chúng ta nhận ra trong Phúc Âm được ngài viết sau đó ít năm.  Mặc dù không ghi lại một bài giáo huấn dài nào của Chúa, nhưng bù lại, thánh Marcô đã mô tả rất sinh động về những biến cố trong cuộc sống của Chúa Giêsu với các Tông Đồ.  Trong các trình thuật của ngài, chúng ta thấy hiện lên những thị trấn nhỏ ven bờ biển Galilê; chúng ta cảm nhận được những lời bàn tán của đám đông đi theo Chúa Giêsu, chúng ta như thể tiếp xúc với những cư dân của các địa phương ấy, nhìn thấy những việc kỳ diệu của Chúa Giêsu, và những phản ứng tự phát của nhóm Mười Hai.  Tóm lại, chúng ta thấy mình như giữa đám đông dân chúng, được chứng kiến các biến cố Phúc Âm.  Qua những mô tả sinh động, thánh Marcô đã in đậm vào linh hồn chúng ta một hấp lực dịu dàng nhưng không sao cưỡng lại của Chúa Giêsu mà dân chúng và các Tông Đồ đã cảm nghiệm được trong cuộc sống với Thầy Chí Thánh.  Thánh Marcô đã trung thành ghi lại những hồi tưởng thân mật của thánh Phêrô với Thầy Chí Thánh: những ký ức ấy không phai nhòa theo năm tháng, nhưng càng ngày càng sâu đậm và sinh động hơn, càng thấm thía và hứng thú hơn.  Có thể nói Phúc Âm thánh Marcô là tấm gương sinh động về giáo huấn của thánh Phêrô.

Thánh Jerome cho chúng ta biết, theo thỉnh nguyện của các tín hữu Roma, Marcô, môn đệ và thông ngôn của thánh Phêrô, đã viết Phúc Âm theo những gì ngài đã được nghe thánh Phêrô giảng dạy.  Và chính thánh Phêrô, sau khi đã duyệt bản Phúc Âm ấy, đã dùng quyền bính chấp thuận cho sử dụng trong Giáo Hội.  Đây thực sự là sứ mệnh chính trong cuộc đời thánh Marcô: trung thành ghi lại những lời giảng của thánh Phêrô.  Ngài đã để lại cho hậu thế biết bao ích lợi!  Ngày nay, chúng ta thực sự phải mang ơn thánh Marcô vì nhiệt tâm ngài đã đặt vào công việc và lòng trung thành với ơn linh hứng của Chúa Thánh Thần!  Ngày lễ kính thánh Marcô là dịp để chúng ta xét lại việc hằng ngày chúng ta đọc Phúc Âm, lời Chúa nói trực tiếp với chúng ta, như thế nào.  Chúng ta có thể tự hỏi đã bao lần chúng ta đã sống như người con hoang đàng, hoặc áp dụng cho mình lời cầu khẩn của anh mù Bartimaeus: Lạy Chúa, xin cho con được nhìn thấy – Domine, ut videam!  Hoặc lời thỉnh nguyện của người cùi: Lạy Thầy, nếu Thầy muốn, xin cho tôi được sạch – Domine, si vis, potes me mundare!  Bao lần chúng ta cảm thấy tận đáy lòng rằng Chúa Kitô đang nhìn và mời gọi chúng ta hãy sát bước theo Người, kêu gọi chúng ta hãy vượt thắng một thói xấu nào đó làm chúng ta xa cách Người, hoặc như các môn đệ trung thành, hãy sống nhân ái hơn nữa với những người khó hòa hợp với chúng ta?

  1. Là khí cụ của Chúa, chúng ta phải luôn sẵn sàng thực hiện một cuộc khởi đầu mới.

Thánh Marcô đã giúp đỡ thánh Phêrô nhiều năm tại Roma, ở đó, chúng ta còn thấy ngài phụ giúp thánh Phaolô nữa.  Quả thế, con người mà thánh Phaolô thấy không thể sử dụng trong hành trình truyền giáo lần thứ hai thì nay lại là một niềm an ủi, và là một người bạn trung thành.  Vào khoảng năm 66, thánh Tông Đồ đã viết cho Timothy: Con hãy đem Marcô đi với con, vì anh ấy rất hữu ích cho công việc phục vụ của cha.  Sự kiện đảo Cyprus một thời hết sức ảm đạm, thì nay dường như đã bị quên lãng hoàn toàn.  Giờ đây, thánh Phaolô và thánh Marcô là bạn hữu và đồng sự của nhau trong công cuộc quan trọng là mở rộng vương quốc Chúa Kitô.  Thực sự đây là một tấm gương lớn lao và cũng là một bài học tuyệt vời cho chúng ta học biết: đừng bao giờ kết luận dứt khoát về một ai, khi nào cần thiết một ai, chúng ta hãy biết cách nối lại mối dây thân hữu mà đã có lúc xem như đã tan rã hoàn toàn! 

Giáo Hội hôm nay nêu lên mẫu gương thánh Marcô.  Thật là một hy vọng và ủi an khi chiêm ngưỡng đời sống vị sử gia thánh thiện này.  Mặc dù có những yếu đuối, nhưng chúng ta vẫn có thể như ngài, tin tưởng vào ơn Chúa và sự phù trợ của Mẹ Giáo Hội.  Những thất bại và những hành vi nhát đảm của chúng ta, dù lớn hoặc nhỏ, phải làm chúng ta khiêm tốn hơn, liên kết chúng ta mật thiết hơn với Chúa Giêsu, và kín múc từ nơi Chúa nguồn sức mạnh mà chúng ta đang thiếu thốn.

Chúng ta đừng để những bất toàn nên cớ làm chúng ta xa cách Chúa hoặc từ bỏ sứ mạng tông đồ, mặc dù đôi khi chúng ta đã không đáp ứng đúng mức với ơn Chúa, hoặc chúng ta đã ngần ngại khi được nhờ cậy.  Những hoàn cảnh như thế, nếu có khi nào xảy ra, chúng ta không nên ngạc nhiên, bởi vì như lời thánh Phanxicô Salê đã nói, Không có gì phải ngạc nhiên vì bệnh tật là bệnh tật, yếu đuối là yếu đuối, và gian ác là giac ác.  Tuy nhiên, hãy hết sức gớm ghét điều bạn đã xúc phạm đến Chúa, và với lòng tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa, hãy quảng đại quay lại con đường mà bạn đã từ bỏ.  

Những thất bại và những hành vi nhát đảm rất quan trọng.  Chúng khiến chúng ta trở về bên Chúa để nài xin ơn tha thứ và trợ giúp của Người.  Nhưng Chúa vẫn tin tưởng chúng ta, và chúng ta vẫn cậy trông ơn Chúa, nên chúng ta hãy lập tức làm lại và quyết tâm trung thành hơn trong tương lai.  Với ơn phù trợ của Đức Mẹ, chúng ta sẽ biết cách rút ra điều hữu ích từ những yếu đuối, nhất là khi kẻ thù, những kẻ không bao giờ nghỉ ngơi, ra sức làm chúng ta thất đảm và từ bỏ cuộc chiến.  Chúa Giêsu muốn chúng ta thuộc về Người mặc dù chúng ta đã có một lịch sử yếu đuối với những sai phạm.

  1. Sứ vụ tông đồ.

Hãy đi khắp thế gian và rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo.  Hôm nay, chúng ta đọc những lời này trong Ca Nhập Lễ.  Đây là sứ vụ tông đồ Chúa đã ban và thánh Marcô đã ghi lại.  Về sau, được ơn Chúa Thánh Thần thúc đẩy, thánh nhân đã minh chứng lệnh truyền ấy đã được thực hiện khi ngài chép Phúc Âm: Các tông đồ ra đi và rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố tin mừng bằng những phép lạ kèm theo.  Đó là những lời thánh Marcô kết thúc Phúc Âm của ngài. 
Thánh Marcô đã trung thành với sứ vụ tông đồ mà ngài đã nghe qua lời giảng của thánh Phêrô: Hãy đi khắp thế gian.  Chính thánh Marcô và Phúc Âm của ngài đã là một thứ men hiệu quả cho thời đại ngài.  Chúng ta cũng phải trở nên một thứ men tốt cho thời đại chúng ta.  Nếu sau lần nhát đảm, thánh nhân đã không khiêm nhượng và dũng cảm làm lại, có lẽ giờ đây chúng ta không có những kho tàng lời giảng và việc làm của Chúa Giêsu để thường xuyên suy gẫm, và nhiều người, nếu không nhờ ngài, chắc cũng chẳng bao giờ biết được Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ của nhân loại.

Sứ mạng của thánh Marcô – cũng như của các Tông Đồ, của các nhà truyền giáo, của các tín hữu tốt lành luôn ra sức sống đúng với ơn gọi của mình – chắc chắn không phải là một sứ mạng dễ dàng.  Chúng ta biết ngài đã chịu tử đạo.  Ắt hẳn thánh nhân đã trải qua kinh nghiệm chịu bách hại, mệt mỏi, và hiểm nguy trong việc theo bước Chúa.

Chúng ta hãy cám tạ Thiên Chúa, cũng như các tín hữu thời các Tông Đồ, vì sức mạnh và niềm vui Chúa Kitô đã được truyền lại đến ngày nay cho chúng ta.  Mọi thế hệ Kitô hữu, mọi cá nhân đều được mời gọi lãnh nhận sứ điệp Phúc Âm và truyền thụ lại cho người khác.  Ơn Chúa không bao giờ thiếu: Non est abbreviata manus Domini – Cánh tay Chúa không bị thu ngắn.  Người tín hữu biết Chúa đã thực hiện các phép lạ từ nhiều thế kỷ trước kia, và hiện nay Người vẫn đang thực hiện.  Với ơn Chúa giúp, mỗi người chúng ta cũng sẽ thực hiện những phép lạ nơi tâm hồn thân nhân, bạn bè, và những người quen biết, nếu chúng ta sống trong mối kết hợp với Chúa Kitô qua lời cầu nguyện.

****************************** *******

Lạy Chúa là Thiên Chúa của chúng con,

Có rất nhiều điều trong chúng con đã che lấp lời của Chúa

Và ngăn trở chúng con trở thành Giáo Hội thật sự của Chúa.

Hôm nay, chúng con cầu xin Chúa:

Xin hãy gọi chúng con, như Chúa đã gọi Máccô xưa kia,

Để chúng con nói và sống Lời Chúa.

Xin Chúa hãy linh ứng chúng con qua Chúa Thánh Thần

Và xin hãy dạy chúng con sống trong hy vọng

Rằng vương quốc của Chúa sẽ đến

Và ở lại giữa chúng con

Nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con

Bây giờ và muôn đời.

 

Sưu tầm

Chân Phước Luchesio và Buonadonna

Chân Phước Luchesio và Buonadonna

    (c. 1260)

    Ông Luchesio và bà Buonadonna là hai vợ chồng muốn sống theo gương Thánh Phanxicô. Do đó họ đã gia nhập Dòng Ba Phanxicô.

    Hai ông bà sống ở Poggibonzi, nơi họ hành nghề thương mãi và là con buôn tham lam. Nhưng sau khi gặp Thánh Phanxicô — có lẽ năm 1213 — họ đã thay đổi đời sống. Ông Luchesio bắt đầu thi hành nhiều việc bác ái.

    Lúc đầu, bà Buonadonna không nhiệt tình sống bác ái như ông Luchesio, và thường than phiền chồng là đã bố thí quá nhiều của cải cho các người lạ. Một ngày kia, khi có người gõ cửa xin được giúp đỡ, và ông Luchesio nhờ vợ lấy cho họ ít bánh mì. Bà nhăn mặt khó chịu nhưng cũng đi vào bếp, và lạ lùng thay, bà nhận thấy số bánh mì đang có thì nhiều hơn khi trước. Không bao lâu, bà cũng trở nên hăng say sống đời khó nghèo và thanh bạch như ông chồng. Cả hai bán cả tiệm buôn, chỉ giữ lại ít đất để cầy cấy trồng trọt đủ cho nhu cầu và phân phối đất đai còn lại cho các người nghèo.

    Vào thế kỷ thứ 13, với sự ưng thuận và sự cho phép của Giáo Hội, một số vợ chồng sống ly thân để người chồng vào dòng tu nam và người vợ vào dòng tu nữ. Nhưng điều này chỉ có thể xảy ra nếu họ son sẻ hoặc con cái đã trưởng thành. Ông bà Luchesio lại muốn kiểu khác, họ muốn sống đời tu trì, nhưng bên ngoài tu viện.

    Ðể đáp ứng nhu cầu này, Thánh Phanxicô đã lập Dòng Phanxicô Thế Tục. Ðầu tiên, thánh nhân viết một Quy Luật đơn giản cho Dòng Ba (Phanxicô Thế Tục), sau đó Ðức Giáo Hoàng Honorius III đã chấp thuận một quy luật chính thức vào năm 1221.

    Công việc bác ái của hai ông bà Luchesio đã thu hút người nghèo đến với họ, và cũng như các vị thánh khác, dường như hai ông bà không bao giờ thiếu của cải để giúp đỡ tha nhân.

    Một ngày kia, khi ông Luchesio đang cõng một người tàn tật mà ông bắt gặp bên vệ đường thì có một thanh niên đến hỏi ông, “Cái tên quỷ quái nào mà ông đang cõng trên lưng đó?” Ông Luchesio trả lời, “Tôi đang cõng Ðức Giêsu Kitô.” Ngay lập tức người thanh niên ấy đã phải xin lỗi ông.

    Hai ông bà Luchesio và Buonadonna đều từ trần vào ngày 28 tháng Tư 1260. Ông được phong chân phước năm 1273. Truyền thống địa phương cũng gọi bà Buonadonna là “chân phước” dù rằng Tòa Thánh chưa chính thức công bố.

    Lời Bàn

    Thật dễ để chế nhạo người nghèo, và chà đạp phẩm giá con người mà Thiên Chúa đã ban cho họ. Mẹ Têrêsa Calcutta thường đề cập đến sự nghèo túng như “sự đau khổ tiềm ẩn” của Ðức Kitô. Chúng ta dễ khiến người khác cảm thấy là họ vô ích — người nghèo, người bệnh hoạn, người tật nguyền thể xác cũng như tâm thần, người lớn tuổi, người thất nghiệp — do đó, chống lại sự cám dỗ ấy đòi hỏi một mức độ đại lượng trong cuộc sống chúng ta. Nếu ai nấy cũng đều nhìn thấy Ðức Kitô trong người nghèo như hai ông bà Luchesio, họ sẽ phong phú hóa Giáo Hội và giữ được sự trung tín với Thiên Chúa.

    Lời Trích

    Thánh Phanxicô thường nói, “Bất cứ ai nguyền rủa người nghèo là tổn thương đến Ðức Kitô, vì họ đang mang hình ảnh của Người, hình ảnh của Ðấng đã trở nên nghèo hèn vì chúng ta” (1 Celano, #76).    

    Trích từ NguoiTinHuu.com

Tạ Ơn Thánh Cả Giuse – Diệu Hiền

httpv://www.youtube.com/watch?v=gNDEz94Qyag&feature=youtu.be

Tạ Ơn Thánh Cả Giuse – Diệu Hiền

19 tháng 3 Lễ Mừng Kính Thánh Giuse

Tạ ơn Thánh Cả Giuse

Vì Ngài thương nhận lời con nguyện cầu.

Xin chia sẻ cùng quý cha, sơ và quý anh chị. 

Nhạc cảnh: “Tạ Ơn Thánh Cả Giuse”

Kính,

P. Trung

Cầu thang 33 bậc kỳ diệu của Thánh Giuse

Cầu thang 33 bậc kỳ diệu của Thánh Giuse

 

Tại thành phố Santa Fe, bang New Mexico, Hoa kỳ, một bí mật đã xảy ra hơn 130 năm, thu hút khoảng 250 ngàn du khách mỗi năm. Nơi đó là: Nhà Nguyện LORETTO.

* Điểm độc đáo của Nhà Nguyện này là: Nơi được cho là đã xảy ra phép lạ lại là một cái cầu thang.

* Nhà Nguyện được xây vào khoảng thế kỷ thứ 19. Khi hoàn thành, các nữ tu phát hiện thấy họ đã quên không làm cầu thang để đi lên sàn hát của Nhà nguyện.

* Họ làm Tuần Cửu Nhật để cầu xin Thánh Giuse, là một thợ mộc để Ngài giúp đỡ.

* Vào ngày cuối cùng (của Tuần Cửu Nhật), một người lạ mặt gõ cửa và tự xưng là một thợ mộc, muốn giúp các nữ tu làm cái cầu thang.

* Ông ta đã một mình làm xong cái cầu thang hình xoắn ốc, và nó đã trở thành một kiệt tác của nghề thợ mộc.

* Không ai hiểu được làm thế nào cây cầu thang có thể đứng vững được, vì nó không có cột trụ trung tâm để đỡ sức nặng của loại cầu thang này.

* Làm xong, ông thợ mộc ấy lặng lẽ biến mất mà không hề đòi thù lao. Ông đã làm xong cây cầu thang mà không sử dụng một keo dán hay một cây đinh nào, chỉ dùng mộng ghép các thanh gỗ lại với nhau.

Trong khắp cả thành phố Santa Fé, người ta cho rằng người thợ mộc ấy chính là Thánh Giuse… đã được Chúa Giêsu gởi đến để đáp lại lời nguyện xin của các nữ tu. Từ ngày ấy, chiếc cầu thang được coi là một Phép Lạ, và trở thành địa điểm hành hương.

Người đại diện ở Nhà Nguyện nói rằng có 3 điều bí ẩn ở đây:
– Thứ nhất là: Cho đến nay vẫn chưa ai biết được tên tuổi của người thợ mộc ấy.
– Thứ hai là: Mọi kiến trúc sư, kỹ sư và khoa học gia đều nói rằng không thể hiểu được làm thế nào chiếc cầu thang có thể đứng vững mà không có điểm tựa ở trung tâm (như thường thấy ỏ các cầu thang loại xoắn ốc này).
– Thứ ba là: Gỗ làm cầu thang lấy từ đâu? Họ đã kiểm tra và phát hiện rằng gỗ được sử dụng làm cầu thang không hề có trong toàn vùng ấy.
Thêm một chi tiết làm tăng niềm tin vào Phép Lạ là: Cầu thang có 33 bậc, là tuổi của Chúa Giêsu Kitô ở trần gian.

Joshep Vu

Nếu bạn thấy bài viết này bổ ích chính mình và người khác, hãy chia sẻ cho nhiều người khác nữa nhé! Nguyện xin Chúa chúc lành cho bạn và gia đình! 

TRUNG THÀNH VỚI THÁNH Ý THIÊN CHÚA

TRUNG THÀNH VỚI THÁNH Ý THIÊN CHÚA   

Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Cả Giuse, mặc dù thánh nhân chỉ xuất hiện vài lần trong các sách Tin Mừng.  Nhưng chừng ấy cũng đủ để Giáo Hội có cơ sở để tôn vinh Người trong vai trò cha nuôi của Chúa Giêsu và là bạn trăm năm của Ðức Maria.

Thánh Giuse là mẫu người thầm lặng ít nói.  Các sách Tin Mừng không ghi lại lời nào của Người, ngay cả lúc tìm gặp Chúa Giêsu trong đền thờ, thì cũng chính Ðức Maria là người lên tiếng nói với Chúa Giêsu.  Thánh Giuse ít nói nhưng người chăm chú lắng nghe các lệnh truyền của Chúa và mau mắn làm theo, nhiều khi các lệnh truyền ấy có vẻ ngang trái bất ngờ.  Khi nhận Ðức Maria làm vợ và đưa Mẹ về nhà mình; khi đem gia đình trốn sang Ai Cập; khi hồi hương trở về Nazareth, thánh Giuse luôn luôn trung thành với thánh ý Thiên Chúa mà không đòi hỏi một điều kiện nào.  Hễ Thiên Chúa gọi thì Người lắng nghe; Thiên Chúa nói thì Người vâng lời.  Thánh Giuse đúng là một người sống đức tin bằng hành động, không lý luận, không thắc mắc, tâm hồn và thân xác Người luôn sẵn sàng dâng hiến để thánh ý Thiên Chúa được thi hành.  Và quả thật, nhờ sự cộng tác đắc lực của thánh Giuse, mà kế hoạch nhập thể của Chúa Giêsu được diễn ra hết sức tốt đẹp.  Không đòi hỏi được tuyên dương, thánh Giuse đã làm trọn sứ mạng mà Thiên Chúa trao phó cho Người.

Lạy Thánh Cả Giuse, nhiều khi con ham nói mà ít chịu lắng nghe tiếng Thiên Chúa, ham suy luận mà ít chịu vâng phục cách triệt để thánh ý Thiên Chúa.  Xin thánh nhân dạy con biết noi gương Người, biết tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa trong thinh lặng và biết sống đức tin bằng hành động.  Xin thánh nhân nâng đỡ những người cha trong gia đình để họ sống trọn sứ mạng làm chồng, làm cha.  Xin thánh nhân phù trợ Giáo Hội Việt Nam trong vai trò hướng dẫn những người Kitô và làm chứng cho đức tin Kitô giữa lòng dân tộc.

Ðức Thánh Cha Nói Về Gương Thánh Giuse:

Anh chị em rất thân mến,

Ngày 19 tháng 3, chúng ta cử hành Lễ Thánh Giuse.  Vào trung tâm của Mùa Chay, Phụng vụ trình bày cho chúng ta vị thánh vĩ đại này như là gương mẫu để noi theo, và như là Ðấng bảo vệ để chúng ta cầu khẩn.

Trước hết, thánh Giuse là mẫu gương sống Ðức Tin cho chúng ta.  Như Tổ Phụ Abraham, thánh Giuse đã luôn sống trong thái độ hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa; vì thế Ngài là mẫu gương khích lệ, nhất là khi chúng ta được mời gọi tin tưởng vào Chúa, dựa trên “Lời Ngài” đã phán, mà không nhìn thấy được rõ ràng Ý Ðịnh của Chúa.

Hơn nữa, chúng ta được mời gọi noi gương Ngài, trong việc khiêm tốn thực thi sự vâng phục, một nhân đức chiếu sáng nơi Ngài trong nếp sống thinh lặng và trong việc làm ẩn khuất.  Trường học Nazareth quý giá biết bao cho con người thời nay, bị bao vây bởi một nền văn hóa rất thường đề cao vẻ bề ngoài và sự thành công, đề cao sự độc lập và một quan niệm sai lầm về tự do cá nhân.  Ngược lại, thật là cần thiết biết bao, việc phục hồi lại giá trị của sự đơn sơ và vâng phục, sự tôn trọng và yêu mến đi tìm thánh ý của Thiên Chúa.

Thánh Giuse đã sống phục vụ cho vị hôn thê của mình và cho Con Thiên Chúa; và như thế, đối với các tín hữu, thánh Giuse trở thành chứng tá hùng hồn cho biết phải cai trị hay phục vụ như thế nào.  Ðặc biệt, tất cả những ai, trong gia đình, trong trường học và trong giáo hội, có trách vụ sống làm cha, làm người hướng dẫn, đều có thể nhìn về thánh Giuse, để được huấn luyện sống tốt lành.  Nhất là tôi nghĩ đến những người cha, mừng lễ của họ vào đúng ngày lễ dành cho thánh Giuse.  Tôi cũng nghĩ đến tất cả những ai mà Thiên Chúa đã thiết lập trong giáo hội để thực hiện “tình cha thiêng liêng”.

Nguyện xin thánh Giuse, vị thánh mà dân Kitô tin tưởng khẩn cầu, luôn hướng dẫn những bước tiến của đại gia đình Thiên Chúa.  Xin thánh nhân hãy đặc biệt trợ giúp cho những ai đang chu toàn vai trò làm cha tự nhiên hoặc thiêng liêng.  Xin thánh Giuse hãy cùng đồng hành với những lời khẩn cầu của chúng ta và xin Mẹ Maria khẩn cầu cùng Chúa cho chúng ta, Mẹ là vị hôn thê đồng trinh của thánh Giuse và là Mẹ của Ðấng Cứu Chuộc.

Gioan Phaolô II

(Lễ Thánh Giuse 2002 – bản dịch của Nguyễn Việt Nam)

Langthangchieutim gởi

CẦU THANG LẠ TẠI NGUYỆN ĐƯỜNG LORETTO

CẦU THANG LẠ TẠI NGUYỆN ĐƯỜNG LORETTO

 (Tài liệu tổng hợp trên Internet)

 Trần Mỹ Duyệt

Phải chăng chiếc cầu thang tại nguyện đường Loretto tại Santa Fe, New Mexico đứng vững một cách lạ lùng mà không cần cột trụ chống đỡ?

Tôi đã đọc và đã nghe về câu truyện cầu thang lạ được cho là do Thánh Giuse làm tại nguyện đường Loretto, thuộc tiểu bang New Mexico từ lâu. Với lòng sùng kính, yêu mến Thánh Giuse, vị quan thầy đã giúp tôi vượt qua rất nhiều chặng đường chông gai trên hành trình đức tin cho đến ngày nay. Và trong tâm tình tạ ơn Ngài, tôi cũng ước ao có một lần được đến chiêm ngắm kỳ công được cho là do chính tay Ngài tác thành, cũng như để cảm ơn Ngài vì muôn ơn lành Ngài hằng bầu cử cho tôi.

Niềm ao ước ấy đã được thể hiện sau nhiều ngăn trở từ việc nhà, việc làm, việc giờ giấc, và việc di chuyển. Cuối cùng chúng tôi gồm 3 cặp, tôi và nhà tôi, Ngoan-Kim Mai, và Hải Sơn-Loan đã cùng ngồi chung một chuyến xe trực chỉ California-New Mexico, thứ Bẩy, ngày 10 tháng 2 năm 2018. Một đoạn đường không hề ngắn đòi hỏi 14 giờ lái xe. Dường như Thánh Giuse đãi ngộ những người lữ hành chưa một lần được thấy tuyết. Trên đường đi, 3 người lữ hành phái nữ đã tỏ ra rất vui vẻ, hào hứng khi xe bước vào địa phận New Mexico, và lần đầu họ nhìn thấy tuyết rơi. Phải kể là tuyệt đẹp nếu ai chưa một lần nhìn tuyết rơi, nhất là nhìn tuyết rơi qua ánh sáng mờ ảo của đèn đường, và đèn xe. Nhưng người tài xế thì không vui và hào hứng tí nào. Đường xa thăm thẳm, tuyết phủ trắng hai bên và trước mặt, chỉ cần sơ ý một tí là cả phái đoàn lăn xuống vệ đường! Nhưng rồi cũng đến nơi an toàn.

Sau một giấc ngủ vùi, sáng hôm sau, Chúa Nhật, việc đầu tiên khi vừa thức giấc là các bà rủ nhau ra chụp hình dưới tuyết và với tuyết quên cả điểm tâm sáng. Sau khi đã say sưa với tuyết, phái đoàn trực chỉ thánh đường Đức Mẹ Guadalupe, tham dự thánh lễ tại nhà thờ chính tòa Thánh Phanxicô, và điểm dừng chân quan trọng nhất là nhà nguyện Loretto, nơi có cầu thang của Thánh Giuse. Buổi chiều lại cùng nhau viếng tu viện cổ của các tu sỹ Phanxicô, nơi có nhà nguyện Hố Cát.  

SANTA FE VÀ HUYỀN THOẠI    

 Trong các nơi hành hương lần này, nhà nguyện Loretto nơi có “cầu thang Thánh Giuse” được lưu ý đặc biệt, vì đó là nơi phát xuất chiếc cầu thang lịch sử này.

  Vào năm 1610, người Tây Ban Nha đã thành lập một tỉnh gọi là Santa Fe – thủ phủ của tiểu bang New Mexico hiện giờ. Cư dân bao gồm người bản địa Da Đỏ, người Mễ, và người Tây Ban Nha. Một vùng đất với nhiều nền văn hóa khác nhau, như văn hóa thổ dân Da Đỏ, văn hóa Tây Ban Nha, văn hóa Mễ Tây Cơ, và văn hóa Anglo. Thành phố do người Tây Ban Nha thống trị. Sau 25 năm đặt dưới quyền của Tân Cộng Hòa Mễ Tây Cơ, năm 1848 miền đất này được sát nhập và trở thành một tiểu bang của Hiệp Chủng Quốc sau cuộc chiến với người Mễ Tây Cơ. Santa Fé từ 130 năm nay, qua huyền thoại chiếc cầu thang tại nguyện đường Loretto, đã thu hút khoảng 250.000 khách hành hương mỗi năm.

Lịch sử nhà nguyện Loretto bắt đầu từ khi Giám Mục Jean Baptisite Lamy được phái đến New Mexico năm 1850. Việc đầu tiên là ngài đã nghĩ đến việc quảng bá đức tin rộng rãi và nâng cao nền giáo dục cho dân chúng trong vùng. Để giúp hoàn thành trách nhiệm, ngài đã mời một số các nữ tu Loretto từ Kentucky đến giúp. Năm 1852, nhà dòng gửi 7 chị em đến Santa Fe theo lời yêu cầu của Đức Giám Mục Lamy. Trên đường tới nhiệm sở, với thời tiết khắc nghiệt, bệnh tật, và băng qua phần đất của người thổ dân, Mẹ Bề Trên đã qua đời, vài nữ tu quá cao tuổi không thể tiếp tục cuộc hành trình và phải về lại Kentucky. Các nữ tu đã đến nơi vào năm 1852 sau những ngày tháng vất vả trong đó gồm nữ tu Catherine, Hilaria, Roberta, và Magdalen. Tất cả đã lập thành một cộng đoàn, và Đức Giám Mục Lamy đã đặt nữ tu Magdalen làm Bề Trên. Nữ tu Magdalen được mô tả là người có lòng tin mạnh mẽ, quyết đoán, và biết đối phó với những tình huống khó khăn của các chị em lúc bấy giờ. Ngày nay Santa Fe đã được đổi mới, nó khác xa với quá khứ thời mà hầu hết ngừơi Công Giáo là người Mễ Tây Cơ và người Da Đỏ địa phương.

Năm 1853, các nữ tu bắt tay vào việc mở trường học (Academy of Our Lady of Light ‘Loretto’).  Những lớp học bắt đầu phát triển với 300 học sinh trong 10 ngôi nhà. Nhờ sự đóng góp của các phụ huynh, tiền học phí, các nữ tu bắt đầu xây trường và nhà nguyện. Đức cha Lamy đã nhờ kiến trúc sư Antoine Mouly và con ông là Projectus Mouly từ Paris qua Santa Fe để xây nhà nhà thờ chính toàn Thánh Phanxicô trong 10 năm. Trong thời gian này, Đức Giám Mục cũng nói với các nữ tu nhờ hai kiến trúc sư này xây cho một nguyện đường. Bởi vì nhà trường cũng cần có một nhà nguyện. Nhà nguyện được khởi công vào ngày 25 tháng 7 năm 1873.

CẦU THANG LẠ

Khi hoàn thành công việc thì kiến trúc sư đột ngột qua đời, và các nữ tu cũng khám phá ra rằng ngôi nhà nguyện tuy rất đẹp nhưng lại không có cầu thang để cho các nữ tu lên gác đàn. Có hai giải pháp được đưa ra lúc bấy giờ. Một là dùng thang để lên xuống, hai là phá phần gác đàn đi làm lại, nhưng cả hai đều bị Mẹ Bề Trên từ chối. Phá gác đàn xây lại là chuyện không khả thi. Lên xuống bằng thang thì bất tiện, vì các nữ tu mặc áo dòng lòa xòa lên xuống cầu thang rất nguy hiểm. Mẹ Bề Trên đã mời nhiều kiến trúc sư nhà nghề đến nhờ đóng cho chiếc cầu thang, nhưng tất cả đều từ chối vì không thể làm được. Do đó, cả tu viện đã quyết định làm Tuần Cửu Nhật kính Thánh Giuse, người thợ mộc thành Nazareth với hy vọng sẽ có sự hướng dẫn và giải quyết vấn nạn từ Ngài.  

Ngày cuối Tuần Cửu Nhật bỗng có một người lạ với mái tóc hoa râm đến gõ cửa tu viện và tự xưng là thợ mộc. Ông nói ông có thể giúp các nữ tu làm một chiếc cầu thang. Ông chỉ yêu cầu một điều duy nhất là ông sẽ tự khóa mình trong nhà nguyện trong vòng 3 tháng, và cung cấp cho ông nước ấm để ngâm gỗ. Đồ nghề của ông rất đơn sơ bao gồm một chiếc búa, một cái cưa và một thước thợ.

Chiếc cầu thang đã được hoàn tất mà cho đến nay được công nhận là một kỳ công của ngành kiến trúc. Nó là một chiếc cầu thang hình xoắn ốc 360 độ, thẳng đứng 20 feet mà không có trụ đỡ. Nó đứng vững trên nền nhà nguyện với sức nặng của ca đoàn lên xuống đúng theo luật sức hút của trái đất. Một chi tiết lý thú khác là chiếc cầu thang ấy được hình thành bằng 33 bậc, trùng hợp với tuổi của Chúa Cứu Thế.

Có ba điều lạ lùng của chiếc cầu thang này, đó là:

Thứ nhất, cho đến ngày hôm nay không biết ai là người đã làm nên nó, vì làm xong chiếc cầu thang thì người khách lạ kia cũng biến mất. Các nữ tu đã không có cơ hội cảm ơn và trả tiền công cho ông. Do đó, có lời đồn đãi khắp thành phố Santa Fé thời bấy giờ là người thợ mộc ấy chính là Thánh Giuse, người đã được Chúa Giêsu sai đến để giúp giải quyết khó khăn cho các nữ tu.  Kể từ đó, cầu thang này được gọi là “cầu thang Thánh Giuse” và đã thu hút từng đoàn khách hành hương mỗi ngày. 

Thứ hai, các kiến trúc sư, các kỹ sư và các nhà khoa học đều nói rằng, họ không thể hiểu nổi tại sao một chiếc cầu thang như vậy lại có thể đứng vững mà không cần đến trục trung tâm chống đỡ. Đặc biệt là không có một chiếc đinh nào, hoặc hồ keo nào được dùng để làm nên cầu thang ấy. Trong thời gian đầu, cầu thang không có những thang cản. Lan can được thêm vào sau này. Một trong những thiếu nữ học tại trường thời gian đó khoảng 13 tuổi, sau này trở thành nữ tu Loretto đã kể lại câu truyện mà chưa bao giờ nói cho ai biết trước đó. Đó là chị và vài người bạn là người đầu tiên lên cầu thang này. Nữ tu cho hay lúc đó rất sợ hãi khi từ trên gác xuống, nên cả bọn phải dùng tay và đầu gối để bò. 

Và sau cùng là, những gỗ làm cầu thang này mua ở đâu? Họ đã thí nghiệm và kết luận rằng đây là thứ gỗ mà họ không thể tìm thấy trong toàn cả vùng ấy.  Chính Bề Trên tu viện đã đến một tiệm bán gỗ trong vùng để trả tiền gỗ, nhưng hỏi ra không ai biết người mua gỗ, và cũng chẳng có gỗ nào được bán ra. Ông Urban Weidner, một kiến trúc sư và là một người chuyên môn về gỗ ở Santa Fe nói rằng, ông chưa bao giờ thấy một cầu thang nào xoắn 360 độ mà không có trụ giữa. Theo ông, gỗ được lát rất xít sao và không có một cái đinh nào được dùng để giữ chúng. Và ông tự hỏi làm cách nào một người thợ mộc vào năm 1870 với những dụng cụ thô sơ lại có thể hoàn tất một công trình như vậy. 

Nhiều nhà chuyên môn khác cũng đã cố phân tích về khả năng và chất liệu gỗ. Không ai có được câu trả lời thỏa đáng về sự kiện được cho là mầu nhiệm này. Một cầu thang được sử dụng ròng rã 80 năm mà gỗ không bị mòn. Cũng theo Ông Weidner khẳng định thì thứ gỗ ấy không có trong vùng New Mexico. Vậy câu hỏi là người thợ mộc ấy lấy những gỗ ấy từ đâu?

Ngôi nhà nguyện ngày nay, mang dấu ấn của nhiều lần trùng tu như đàng thánh giá, bàn thờ và những hình được vẽ trên tường hoặc trần nhà vào năm 1890. Nhưng The Loretto Academy đã đóng cửa năm 1968, và phần đất này được rao bán. Vào thời gian bán năm 1971, Our Lady of Light không còn được xem như một nguyện đường Công Giáo nữa. Hiện nay nó là một bảo tàng viện với chiếc cầu thang lịch sử trong đó.

ITE AD JOSEPH

Đối với tôi, Thánh Giuse chính người cha, đấng quan thầy thần thánh. Tôi vẫn hằng ngày cầu xin với Ngài, cố gắng noi theo gương mẫu của Ngài trong đời sống tâm linh và trong việc chu toàn những trách nhiệm người gia trưởng của một gia đình. Hơn bao giờ hết, đời sống hôn nhân, ơn gọi gia đình đang là một thách đố lớn lao cho những giá trị tinh thần, tôn giáo, văn hóa và xã hội. Theo chị Lucia, một trong ba trẻ Fatima, thì trận chiến sau cùng mà Satan đang mở ra để quyết tranh dành các linh hồn với Chúa là trận chiến gia đình. Chỉ cần nhìn thoáng qua hiện tượng các gia đình, những giá trị hôn nhân ngày nay là đã đủ thấy tầm mức quan trọng của một vị gia trưởng, nếu như họ muốn lèo lái, muốn hướng dẫn gia đình mình đi đúng hướng, tiến tới hạnh phúc và bình an.

Viếng Cầu Thang Thánh Giuse lần này đối với tôi không chỉ là một cuộc hành hương, một sự thỏa mãn tính tò mò, mà là một lần trở về với ngôi nhà Nazareth thuở xưa nơi Thánh Giuse, Mẹ Maria, Chúa Giêsu đã từng sinh sống qua hình ảnh một tác phẩm mà chính do tay Ngài đã làm với kinh nghiệm một người thợ mộc.

“Ite ad Joseph”. Xin Thánh Giuse hãy gìn giữ, thánh hóa và hướng dẫn các gia đình, đặc biệt, các người cha, người mẹ, và con cái khi họ đến với Ngài. Bởi vì xưa Thiên Chúa đã trao cho Ngài gìn giữ và săn sóc Thánh Gia, thì ngày nay cũng xin Ngài gìn giữ và săn sóc các thánh gia nhỏ bé là các gia đình đang đặt niềm tin nơi Ngài.

Tháng Ba, tháng kính Thánh Giuse

3/2018

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi