Thánh Nicôla giám mục, Turkey (- 343)-Cha Vương

Mừng quan thầy đến những ai mang tên Nick nhé!

Cha Vương

Thư 6: 06/12/2024

Hôm nay 06/12 Giáo Hội mừng kính Thánh Nicôla giám mục, Turkey (- 343) Vị thánh bênh vực công lý, bênh vực người nghèo, cho quà con nít: Nicholas sinh tại Patara thuộc tỉnh Lycia, thuộc Tiểu Á (Asia Minor), ngày nay gọi là nước Turkey (Thổ nhĩ kỳ). Sau khi cha mẹ chết, cậu đem hết tiền của cho người nghèo. Ông đi tới tỉnh Myra (ngày nay là Demre) khi giáo sĩ và giáo dân đang chọn giám mục mới. Người dân chọn Ông giữ chức vụ  giám mục thành Myra.

Vào đầu thế kỷ 4 này, đạo Công giáo đang bị bắt bớ dưới thời hoàng đế Dioletia. Giám mục Nicola cùng nhiều tín hữu bị quan tỉnh bắt giam, bị đánh đập, xiềng xích, vì ngài mạnh dạn giảng về chân lý đức tin  và sự tự do của đạo thánh. Tới khi vua Constantinô lên cầm quyền tha bắt đạo, ngài và giáo dân mới được tha về Myra… Ngài rất tốt lành và tử tế. Mọi hoạt động của đời ngài nhằm tôn vinh Chúa Giêsu Kitô, bênh vực cho công lí và người nghèo khó. Trẻ em khắp nơi quí mến Ngài.

Nhiều câu truyện nói về ngài khiến người ta khó biết chính xác giám mục Nicola đã giúp giáo dân trong địa phận Myra để tỏ lòng kính mến Chúa và phục vụ Chúa nơi tha nhân thế nào.

-Người ta kể, có 3 người bị kết án tử hình sai lầm, Ngài đã tìm đến quan kết án, cho ông biết rằng, vì nhận tiền hối lộ mà ông kết án sai, nên 3 người đã được tha về.

-Truyện khác nói: ngài cứu 3 em bé vô tội đã chết, được sống lại.

-Nhưng có một truyện nổi tiếng về một gia đình ở Myra, ông bố bị mất hết tiền bạc, không có đủ tiền cho 3 người con gái lập gia đình. Vào thời đó, người thiếu nữ phải có một số tiền hồi môn khi lấy chồng. Ông định tống con vào nhà tội lỗi. Giám mục Nicola nghe chuyện cảm thấy buồn cho cha con ông, ngài tìm cách giúp đỡ. Đêm kia, ngài xách túi vàng ném qua cửa sổ đang mở, nơi ông ta nằm, rồi ngài vội đi ngay, để ông ta không biết ai cho vàng. Ít lâu sau, ngài nghe tin cô lớn nhất đi lấy chồng.

Giám mục Nicola lại đến cho ít vàng nữa, lần này cô thứ hai lấy chồng. Thời gian sau, ngài lại đến ném túi vàng nữa qua cửa sổ rồi đi ngay, nhưng ông chủ nhà nghèo kia đã chờ sẵn, đuổi theo, bắt gặp ngài. Ông ta cám ơn rối rít về nghĩa cử cao đẹp của giám mục. Rồi người con thứ ba cũng được lên xe hoa nhờ món vàng đó.

Giám mục Nicola đã qua đời vào ngày 6 tháng 12 năm 343. Xác ngài được chôn trong nhà thờ lớn xây trên mộ Ngài tại Myra. Rất nhiều khách hành hương đã tới viếng mộ để cầu khấn vị thánh của tình bác ái. Nhiều bàn thờ, thánh đường trên thế giới mang tên thánh Nicola.   Chỉ riêng nước Anh đã có chừng 400 nhà thờ mang tên Nicola. Thánh Nicola là bổn mạng các thủy thủ và tù nhân.

Từ thế kỷ thứ 5, giáo hội phương Đông đã tôn kính vị thánh làm nhiều phép lạ này. Năm 987, vua Vladimir đã cổ động lòng sùng kính thánh Nicola cho dân Nga (Russia). Cùng với thánh Anrê, Ngài cũng là bổn mạng nước Nga.

Năm 1087, thủy thủ người Ý đã đem xương thánh ngài về thành Bari. Hàng năm tổ chức mừng Ngài. Thành Bari từ đó trở nên nổi tiếng, và là nơi hành hương cho cả  u châu. Năm 1100, các Xơ người Pháp phát bánh quà cho trẻ em nghèo vào lễ kính thánh Nicola (6-12), dần dần lan ra nhiều nơi trong  u châu. Thế kỷ 13, trẻ em Công giáo  u châu thích đóng vai “giám mục Nicola” và xin quà phát cho trẻ nghèo. Ngay cả thời nay, vào chiều áp lễ kính ngài, tại nước Hoà lan, Đức, Thuỵ sĩ, trẻ em đặt chiếc giầy ở một chỗ để lãnh quà, mong thánh Nicola bí mật đem quà đến cho.

Tại nước Mỹ và Anh, thánh Nicola được biết dưới danh hiệu Santa Claus. Người Công giáo Việt nam do ảnh hưởng tiếng Pháp, gọi là ông già Noel. (Nguồn: Dân Chúa)

Noi gương Thánh Nicholas đầy lòng bác ái từ nhân, mời Bạn hôm nay hãy làm một việc đúng theo tinh thần của Ngài nhé.

From:Do Dzung

**************************

TÂM TÌNH YÊU MẾN – Tuyệt Phẩm Thánh Ca Để Đời – Dành Cho Đời Sống Dâng Hiến

Tìm hiểu tiến trình tuyên thánh. Trường hợp của Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp

Tìm hiểu tiến trình tuyên thánh. Trường hợp của Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp

Đức Ông Robert Sarno, chuyên gia phục vụ trong Bộ Tuyên Thánh suốt 38 năm, sau khi đã là linh mục của giáo phận Brooklyn Hoa Kỳ, có bài viết nhan đề “Saints”, nghĩa là “Các Thánh” được đăng trên web site của Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ. Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.

Trong năm thế kỷ đầu tiên của Giáo hội, quá trình công nhận một vị thánh dựa trên sự tung hô của công chúng, nghĩa là dựa trên nguyên tắc vox populi, vox Dei – tiếng nói của người dân, tiếng nói của Chúa. Không có quá trình chính thức nào giống với các tiêu chuẩn chúng ta thấy ngày nay. Bắt đầu từ thế kỷ thứ sáu và kéo dài đến thế kỷ thứ mười hai, cần có sự can thiệp của giám mục địa phương trước khi một ai đó có thể được tuyên thánh. Sự can thiệp của Đức Giám Mục bản quyền thường bắt đầu bằng yêu cầu của cộng đồng địa phương xin Đức Giám Mục địa phương công nhận một ai đó là thánh. Sau khi nghiên cứu yêu cầu và tiểu sử viết tay, nếu thấy thuận lợi, Đức Giám Mục thường sẽ ban hành sắc lệnh, hợp pháp hóa nghi lễ phụng vụ và do đó tuyên thánh cho người đó.

Bắt đầu từ thế kỷ thứ mười, án tuyên thánh được tiến hành theo các bước như sau: danh tiếng của người đó lan rộng, có yêu cầu từ người dân xin giám mục địa phương tuyên bố người đó là thánh, và tiểu sử được viết ra để giám mục xem xét. Tuy nhiên, hiện nay, giám mục sẽ thu thập lời khai của những người biết người đó và những người đã chứng kiến phép lạ, và ngài sẽ cung cấp tóm tắt về vụ việc cho Đức Giáo Hoàng để vị mục tử toàn thể Hội Thánh chấp thuận. Sau đó, Đức Giáo Hoàng xem xét nguyên nhân, và nếu chấp thuận, ngài sẽ ban hành sắc lệnh tuyên bố người đó là thánh. Trường hợp đầu tiên được ghi chép về án tuyên thánh do một Giáo Hoàng chuẩn y là khi Đức Giáo Hoàng Gioan 15 vào ngày 31 Tháng Giêng năm 993 tuyên thánh cho Thánh Ulric. Khi Đức Giáo Hoàng Sixtô Đệ Ngũ tổ chức lại Giáo triều Rôma vào năm 1588, ngài đã thành lập Bộ Nghi lễ Thánh. Một trong những chức năng của bộ này là hỗ trợ Đức Giáo Hoàng xem xét các án tuyên thánh. Ngoại trừ một số cập nhật cho phù hợp với giáo luật, từ năm 1588, quá trình tuyên thánh vẫn như vậy cho đến năm 1917 khi Bộ Giáo luật phổ quát được ban hành.

Bộ luật năm 1917 bao gồm 145 điều luật (từ số 1999 đến số 2144) về án tuyên thánh, và yêu cầu phải tiến hành một quá trình giám mục và một quá trình tông tòa. Tiến trình giám mục bao gồm giám mục địa phương xác minh danh tiếng của người đó, bảo đảm rằng có tiểu sử rõ ràng, thu thập lời khai của nhân chứng và các tác phẩm do người đó viết ra. Tất cả những điều này sau đó được chuyển đến Bộ Nghi lễ Thánh. Tiến trình tông tòa bao gồm xem xét các bằng chứng được nộp, thu thập thêm bằng chứng, nghiên cứu án tuyên thánh, điều tra bất kỳ phép lạ nào được cho là đã xảy ra và cuối cùng chuyển án tuyên thánh lên Đức Giáo Hoàng để ngài chấp thuận.

Tiến trình này vẫn có hiệu lực cho đến năm 1983 với việc ban hành Bộ Giáo luật năm 1983 và các chuẩn mực mới cho các nguyên nhân tuyên thánh: Divinus Perfectionis Magister, Normae Servandae in Inquisitionibus ab Episcopis Faciendis in Causis Sanctorum và Sanctorum Mater, hay 2007. Tiến trình sửa đổi vào năm 1983 này cho các án tuyên thánh vẫn có hiệu lực cho đến nay và được trình bày chi tiết bên dưới.

Không có số lượng chính xác những người đã được tuyên thánh kể từ những thế kỷ đầu tiên. Tuy nhiên, vào năm 1988, để đánh dấu 400 năm thành lập, Bộ Tuyên Thánh đã xuất bản “Index ac Status Causarum” đầu tiên. Cuốn sách này và các phần bổ sung sau đó, được viết hoàn toàn bằng tiếng Latin, được coi là chỉ mục chính thức của tất cả các vụ án đã được trình lên Bộ kể từ khi thành lập.

Tiến trình tuyên thánh từ năm 1983 bao gồm các bước sau:

Giai đoạn I – Khảo sát cuộc đời của một ứng viên tuyên thánh ở cấp Giáo phận (hoặc Giáo phận chính thống Đông phương)

Phải mất năm năm kể từ thời điểm ứng viên qua đời trước khi án tuyên thánh có thể bắt đầu. Điều này là để cho phép cân bằng và khách quan hơn trong việc đánh giá trường hợp và để cho cảm xúc của thời điểm người ấy qua đời tan biến. Đức Giáo Hoàng có thể miễn trừ thời gian chờ đợi này.

Giám mục của giáo phận nơi người đó qua đời có trách nhiệm bắt đầu cuộc điều tra. Người thỉnh cầu (có thể là giáo phận, giám mục, dòng tu hoặc hiệp hội tín hữu) yêu cầu giám mục thông qua một người được gọi là Postulator hay cáo thỉnh viên, là người đề nghị mở cuộc điều tra.

Sau đó, giám mục bắt đầu một loạt các cuộc tham khảo ý kiến với hội đồng giám mục, các tín hữu trong giáo phận của mình và Tòa thánh. Sau khi các cuộc tham khảo ý kiến này hoàn tất và ngài đã nhận được ý kiến “nihil obstat”, nghĩa là “không có gì ngăn trở” từ Tòa thánh, ngài sẽ thành lập một tòa án cấp giáo phận cho án tuyên thánh. Tòa án sẽ điều tra về sự tử đạo hoặc cách ứng viên sống một cuộc sống với các nhân đức anh hùng, tức là các nhân đức đối thần về đức tin, đức cậy và đức mến, và các nhân đức cốt yếu về sự khôn ngoan, công bằng, tiết độ và lòng dũng cảm, và những nhân đức khác cụ thể đối với tình trạng sống của ứng viên. Các nhân chứng sẽ được triệu tập và các tài liệu do ứng viên viết và các tài liệu về ứng viên phải được thu thập và xem xét.

Giai đoạn II: Bộ Tuyên thánh

Sau khi cuộc điều tra của giáo phận hoàn tất, tài liệu sẽ được gửi đến Bộ Tuyên thánh. Ứng viên có thể được gọi là “Servus Dei” hay vị “Tôi Tớ Chúa”.

Người thỉnh nguyện cho giai đoạn này, cư trú tại Rôma, dưới sự chỉ đạo của một thành viên trong đội ngũ nhân viên của Bộ. Người thỉnh nguyện sống ở Rôma này cũng được gọi là Postulator hay cáo thỉnh viên ở cấp Tòa Thánh, chuẩn bị một ‘Positio’, nghĩa là một bản tóm tắt bằng chứng tài liệu từ giai đoạn giáo phận để chứng minh việc thực hành đức hạnh anh hùng hoặc sự tử đạo.

‘Positio’ trải qua một cuộc kiểm tra của chín nhà thần học bỏ phiếu về việc ứng viên có sống một cuộc sống anh hùng hay chịu tử đạo hay không. Nếu phần lớn các nhà thần học ủng hộ, thì án tuyên thánh được chuyển lên để các Hồng Y và giám mục là thành viên của Hội đồng thẩm định. Nếu phán quyết của các ngài là thuận lợi, thì vị trưởng Hội đồng sẽ trình bày kết quả của toàn bộ quá trình của án tuyên thánh lên Đức Giáo Hoàng, là người sẽ chấp thuận và ủy quyền cho Hội đồng soạn thảo một sắc lệnh tuyên bố một người là Venerabilis – hay Bậc đáng kính nếu họ đã sống một cuộc sống đức hạnh. Trong trường hợp tử đạo, như trường hợp Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp, ứng viên được tuyên bố là một Beatus hay Chân phước.

Giai đoạn III – Phong chân phước

Đối với việc phong chân phước cho một vị đáng kính, cần phải có một phép lạ được cho là do sự chuyển cầu của ngài, được xác minh sau khi ngài qua đời. Phép lạ cần thiết phải được chứng minh thông qua cuộc điều tra giáo luật thích hợp, theo một thủ tục tương tự như đối với các nhân đức anh hùng. Cuộc điều tra này cũng được kết thúc bằng sắc lệnh thích hợp. Sau khi sắc lệnh về phép lạ được công bố, Đức Giáo Hoàng sẽ ban hành lệnh phong chân phước, tức là cho phép việc tôn kính công khai có giới hạn – thường chỉ trong phạm vi quốc gia, giáo phận, vùng hoặc cộng đồng tôn giáo nơi vị chân phước đã sống. Với quyết định này, ứng viên sẽ nhận được danh hiệu Chân phước hay Á Thánh.

Đối với một vị tử đạo, không cần phép lạ. Do đó, khi Đức Giáo Hoàng chấp thuận positio tuyên bố rằng người đó đã tử đạo vì đức tin, thì danh hiệu Chân phước sẽ được ban cho vị tử đạo tại thời điểm đó.

Như thế từ ngày Thứ Hai, 25 Tháng Mười Một, sau khi Đức Thánh Cha nhìn nhận cuộc tử đạo của Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp, ngài được gọi là Chân Phước Tử Đạo Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp.

Giai đoạn IV – Tuyên thánh

Để tuyên thánh, cần có một phép lạ khác cho cả các vị chân phước tử đạo và các vị chân phước đã sống một cuộc đời đức hạnh. Phép lạ này được cho là nhờ sự chuyển cầu của vị chân phước và đã xảy ra sau khi được phong chân phước.

Như thế, trong trường hợp của Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp, cần có một phép lạ xảy ra nhờ lời cầu bầu của ngài sau ngày 25 Tháng Mười Một, 2024.

Các phương pháp để khẳng định phép lạ cũng giống như các phương pháp được áp dụng để phong chân phước. Việc tuyên thánh cho phép Giáo hội hoàn vũ tôn kính vị thánh một cách công khai. Với việc tuyên thánh, vị chân phước sẽ có được danh hiệu là Sanctus hay là Thánh.

Đức Ông Robert Sarno

Bộ Tuyên thánh

Thành phố Vatican


 

PHANXICÔ XAVIÊ – VỊ THÁNH SAY MÊ CHINH PHỤC CÁC LINH HỒN – Fx. Hồng Ân

 Fx. Hồng Ân

Được mệnh danh là Phaolô của thế kỷ XVI, thánh Phanxicô Xaviê luôn luôn thao thức về số phận của những linh hồn chưa bao giờ được nghe Tin Mừng.  Lời Chúa Giêsu: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” (Lc 10, 20) luôn vang vọng và thôi thúc trong tâm trí thánh nhân.  Thánh nhân đã xúc động cực độ khi thấy có rất nhiều người không được làm Kitô hữu chỉ vì không có ai làm cho họ trở thành Kitô hữu.

Phanxicô chào đời ngày 07/04/1506 tại lâu đài Javier (Javier Castillo) gần thành phố Pamplona, miền Navarra, Tây Ban Nha, trong một gia đình danh giá và giàu có.  Ngài là con út trong gia đình có năm người con.  Năm lên 19 tuổi, Phanxicô được gửi đến Paris học tại học viện Sainte – Barbe thuộc đại học Paris.  Sau khi tốt nghiệp văn chương và triết lý, Phanxicô được bổ nhiệm làm giáo sư triết lý tại đại học Paris.  Vị giáo sư trẻ Phanxicô sớm nổi tiếng và được ca tụng trong giới sinh viên đại học thời bấy giờ.

Những tưởng vị giáo sư trẻ Phanxicô sẽ còn tiến xa hơn trên con đường công danh và sự nghiệp, thế nhưng, qua trung gian của một người bạn chí thân – thánh Inhaxiô, câu Lời Chúa: “nếu được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào có ích gì?” (Mt 16,16) đã chinh phục và làm thay đổi hoàn toàn nơi vị giáo sư trẻ vốn thông minh và đầy tham vọng.  Kể từ đó, Phanxicô đã tùy thuộc hoàn toàn vào kế hoạch nhiệm mầu của Chúa và trở nên khí cụ đắc lực của Tin Mừng.

Ngày 15/08/1534, cùng với Inhaxiô và năm anh em khác, Phanxicô đã dâng lời khấn khó nghèo, trinh khiết và sống cộng đoàn để “cùng nhau phục vụ Chúa,” khai nguyên Dòng Tên (Société de Jésus).  Ngày lễ thánh Gioan Tẩy Giả 24/06/1537, tại Venise, Phanxicô được chịu chức linh mục.  Kể từ đó, ngài gia tăng việc ăn chay, hãm mình, suy niệm và thực hành bác ái nhằm không ngừng thánh hóa bản thân và chuẩn bị hành trang cho sứ vụ mà Chúa sắp trao phó cho ngài.

Được thúc đẩy và hun nóng bởi khát vọng và lòng say mê cho Danh Chúa được cả sáng (Ad majorem gloriam Dei) và cho nhiều linh hồn được cứu rỗi (Ad salutem aminarum), vị linh mục trẻ Phanxicô Xaviê đã khao khát được đến với khắp mọi nơi để đem Chúa đến cho mọi người.  Với con tim rực cháy lửa mến Chúa và cháy bỏng khát khao thu phục các linh hồn đã đưa Phanxicô Xaviê vượt đại dương đến với miền Viễn Đông xa xôi, đầy khó khăn và nhiều khác biệt.  Cũng nhờ lòng nhiệt thành truyền giáo đó, Phanxicô Xaviê đã can đảm gặp gỡ các vị lãnh chúa miền Á Đông, tiếp xúc với các tôn giáo truyền thống như Ấn giáo, Hồi giáo, Phật giáo và Khổng giáo.  Trên tất cả, ngài luôn trăn trở làm sao đem Chúa Giêsu và Tin Mừng tình yêu của Người đến với tất cả những ai chưa có cơ hội nhận biết Người.

Ngày 07/07/1543, thánh Phanxicô Xaviê lần đầu tiên đặt chân lên thành phố Goa, miền tây nam Ấn Độ – một vùng đất hoàn toàn xa lạ đối với ngài, nhưng thánh nhân đã ngày đêm thăm viếng và nâng đỡ đức tin cho những người nghèo, giúp đỡ những người thuộc đẳng cấp thấp nhất trong xã hội Ấn thời bấy giờ.  Ngài dành nhiều thời gian để di đến các làng mạc thăm viếng, khích lệ những người ốm đau bệnh tật, rửa tội cho trẻ em, dạy giáo lý cho người lớn và tổ chức các giờ kinh lễ.  Trong một lá thư viết từ Ấn Độ gửi cho thánh Inhaxio ở Rôma, thánh Phanxicô viết rằng: “Tại các miền ấy, có nhiều người không được làm Kitô hữu chỉ vì không có ai làm cho họ trở thành Kitô hữu.  Nhiều lần tôi đã có ý định đi tới các đại học Châu Âu, trước hết là đại học Paris, mà kêu gào khắp nơi như một kẻ mất trí và thúc đẩy những người chỉ nghiên cứu học thuyết hơn là thực hành bác ái rằng: tiếc thay, chỉ vì lỗi của các ông mà biết bao linh hồn không được cứu rỗi!” [1]

Nhờ sức mạnh của lòng mến, thánh Phanxicô Xaviê đã ngày đêm hăng say chinh phục các linh hồn, mặc dù ngài luôn bị những người theo Ấn giáo và Hồi giáo chống đối.  Trong thư gửi về Rôma cho các anh em Dòng Tên, ngài viết: “Tôi tin rằng, ai thực lòng yêu mến thánh giá Chúa Kitô sẽ tìm thấy an bình khi đương đầu với những thử thách” [2].  Trong một thư khác, thánh nhân viết: “Xin Chúa ban cho chúng ta được biết và nhận ra ý muốn rất thánh của Chúa, và khi đã nhận ra, xin Chúa ban dồi dào sức lực và ân sủng, để với đức mến, chúng ta chu toàn thánh ý Chúa ngay ở đời này” [3].  Và để sức mạnh của lòng mến sinh hiệu quả, theo thánh Phanxicô, lòng mến phải được cụ thể trong hành động ngay ở đời này, và sẵn sàng “đi đến bất cứ nơi đâu để có thể phục vụ Chúa” [4].

Là một nhà truyền giáo Tây phương, bị đặt vào thế lưỡng nan, hoặc phải bảo vệ quyền lợi của thực dân Bồ Đào Nha hay bênh vực cho người bản xứ Ấn Độ, nhưng nhờ ơn Chúa, thánh Phanxicô đã chọn con đường khác: liên kết ý muốn của con người theo ý muốn của Thiên Chúa, kết hợp phương tiện với mục tiêu hướng đến tình yêu đích thực và nhắm lợi ích các linh hồn.  Trọn vẹn ý muốn của thánh nhân để chỉ hoàn toàn phục vụ thánh ý Chúa và mưu ích cho các linh hồn, như trong lá thư gửi về Rôma đề ngày 20/09/1542, ngài viết: “xin Chúa ban sức mạnh cho chúng ta ở đời này để chúng ta phục vụ Chúa trong mọi sự như Chúa truyền dạy, và chu toàn thánh ý Chúa ở đời này” [5].

Niềm đam mê các linh hồn đã dẫn đưa thánh nhân mạo hiểm dấn thân vào những hoàn cảnh tối tăm bao trùm và dường như bị Chúa bỏ rơi, nhưng sau khi trải qua kinh nghiệm về “sự thing lặng của Thánh Thần” đó, thánh nhân đã đạt đến điểm tận cùng của ý Chúa và khám phá ra niềm an ủi thiêng liêng lớn lao từ bên trong tâm hồn nhờ chu toàn ý muốn rất thánh của Người.  Khi đến quần đảo Môrô ở Nam Dương (Indonesia ngày nay), ngài đã viết thư cho các anh em Dòng Tên ở Rôma đề ngày 20/01/1548, rằng: “Tôi nhớ ngày xưa chưa từng được an ủi thiêng liêng lớn lao và liên tiếp như trên đảo này, lại ít cảm thấy phải cực nhọc về phần xác […].  Thay vì gọi đó là Các Đảo Môrô, có lẽ nên gọi là Các Đảo Hi Vọng Vào Chúa thì hơn” [6].

Hăng say dấn thân vì đức tin nơi các vùng đất xa lạ và khắc nghiệt, thánh nhân luôn ước ao nên giống Đức Kitô nhằm phục vụ các linh hồn được nhiều hơn.  Trong tâm trí thánh nhân, điều làm ngài thao thức mãnh liệt và thường trực nhất là những vùng đất và những con người chưa được nhận biết Đức Kitô.  Dù nhận thấy đầy dẫy những hiểm nguy phía trước, như ngài viết: “những nỗi sợ, những hiểm nguy, những đau khổ mà bạn bè nói tới, tôi kể là số không; tôi chỉ còn sợ Thiên Chúa” [7], nhưng thánh nhân vẫn một lòng tận hiến cho kế hoạch của Chúa qua những thúc bách trong chính tâm hồn ngài.  Trong một lá thư viết cho thánh Inhaxiô, đề ngày 01/02/1549, ngài viết: “Con thấy tâm hồn rất phấn khởi.  Con không ngại đi Nhật Bản, vì con cảm nhận trong tâm hồn mình cái gì đó dạt dào, mặc dầu con hầu như chắc chắn sẽ gặp nhiều hiểm nguy lớn lao hơn những gì con từng gặp xưa nay” [8].

Chuyện kể lại rằng, một đêm kia, trong lúc ngủ, thánh Phanxicô đã kêu lên: “mas, mas, mas.”  Và sau này, chính ngài giải thích: “Tôi thấy công việc truyền giáo quá mênh mông, nhiều mệt nhọc và nhiều ưu phiền gây nên bởi đói khát, giá lạnh, các chuyến ra đi, những vụ đắm tàu, những cuộc bách hại, những phản bội và nhiều hiểm nguy khác… được gửi đến cho tôi; vì lòng yêu mến mà chính Chúa ban cho tôi và với ơn trợ giúp của Người, tôi chịu đựng được.  Vì thấy chưa đủ, tôi xin Người ban thêm và luôn luôn thêm mãi; nên tôi đã thốt lên những lời ‘mas, mas, mas’, có nghĩa là: ‘nhiều hơn nữa, nhiều hơn nữa, nhiều hơn nữa.’”  Những lời “nhiều hơn nữa” của Thánh Phanxicô dường như là những thúc đẩy thần bí làm cho thánh nhân hoàn toàn tận hiến cho Chúa Kitô để ơn cứu độ của Người đến được với các linh hồn.

Lòng say mê các linh hồn không bao giờ vơi cạn nơi thánh Phanxicô, với ý Chúa nhiệm mầu, thánh nhân đã phải nhìn về đại lục Trung Hoa mênh mông với tình yêu lai láng và ước nguyện lớn lao, nhưng chưa thành hiện thực.  Rạng sáng ngày 03/12/1552, thánh nhân qua đời tại đảo Shanchuan (Trường Xuyên) nơi cửa ngõ của đất Trung Hoa.  Tháng 03/1553, xác ngài được đưa về Malacca (Malaysia) trong tình trạng vẫn tươi nguyên.  Và mùa Chay năm 1554, xác ngài được đưa về Goa (Ấn Độ), một lần nữa, quan tài được mở ra và xác ngài vẫn tươi nguyên như đang ngủ. 

Ngày 25/10/1619 Phanxicô Xaviê được Đức Phaolô V phong chân phước, và đến ngày 12/03/1622, Đức Grêgôriô XV nâng ngài lên bậc hiển thánh.  Năm 1748, thánh nhân được tôn phong làm Bổn Mạng của Phương Đông; và đến năm 1904, ngài được tôn phong làm Bổn Mạng công cuộc truyền bá Đức Tin.  Năm 1927, Đức Piô XI tôn phong ngài làm Bổn Mạng các xứ truyền giáo.

Chỉ với 46 năm tuổi đời, 15 năm linh mục, thánh Phanxicô Xaviê dù không sống lâu, nhưng ngài đã sống nhiều, sống hết và sống hoàn toàn cho Chúa và vì các linh hồn.  Cũng chỉ có hơn 10 năm ra đi truyền giáo, nhưng thánh nhân đã đi tới hơn 100 ngàn cây số, rửa tội cho khoảng 30 ngàn người tại Á Châu.

Thánh Phanxicô Xaviê là một Phaolô mới – một Ðại Tông Ðồ, là mẫu gương cho những người trẻ, đặc biệt cho các chủng sinh, linh mục và tu sĩ trong thời đại hôm nay về lòng khao khát đem Tin Mừng đến cho những người chưa nhận biết Đức Kitô.  Đã có rất nhiều nhà truyền giáo can đảm lên đường nhờ gương sáng và lời chuyển cầu của thánh Phanxicô Xaviê.  Trong chuyến viếng thăm mục vụ tại Ấn Ðộ tháng 02/1986, khi huấn từ cho các linh mục và nam nữ tu sĩ tại nhà thờ chính tòa Goa, nơi giữ xác không bị hư nát của Thánh Phanxicô Xaviê, sau khi thuật lại những chặng đường truyền giáo của thánh nhân, vị tông đồ không biết mỏi mệt của miền duyên hải Ấn Ðộ, của quần đảo Maluku (Indonesia), của Nhật Bản và của Trường Xuyên (đảo Shanchuan, Trung Hoa), Đức Gioan Phaolô II nói: “Ngày nay, các tông đồ của Tin Mừng phải theo bước chân của Nhà Truyền Giáo thời danh và nhiệt thành này để chiếu dọi ánh sáng Chúa Kitô cho mọi người dân của Lục Ðịa Á Châu này.”

 Fx. Hồng Ân
______________

[1] X. Bài đọc Kinh Sách, lễ kính thánh Phanxicô Xaviê, bài đọc 2.
[2] Bt 15, 15: Bút tích thánh Phanxicô Xaviê, tài liệu 15, đoạn 15.  Tất cả những điều thánh Phanxicô Xavier đã viết, và còn lưu lại, được gom trong bộ Bút tích thánh Phanxicô Xavier, (bản tiếng Việt của Hoàng Sóc Sơn, S.J.)
[3] Bt 48, câu kết.
[4] Bt 50, 2.
[5] Bt 15, câu kết.
[6] Bt 59, 4.
[7] Bt 78, 2.
[8] Bt 70, 10.


 

NHỮNG ĐẤNG BẬC ANH HÙNG – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Không kể 117 vị tử đạo tại Việt Nam được phong thánh năm 1988 và Anrê Phú Yên được phong chân phước năm 1999, còn hơn một trăm ngàn vị đã anh dũng dâng hiến đời mình, chấp nhận cái chết để làm chứng lòng trung thành và gắn bó với Đức Yêsu, Đấng yêu thương con người dầu phải chết.

Họ là ai?

Họ là những người cha người mẹ, họ là những người con, họ là những người chồng người vợ, họ là thanh niên thanh nữ, là tráng niên, là bô lão, là chủng sinh, là binh sĩ, là quan là dân, là dì phước là linh mục.  Họ là những bậc tiền bối của dân con Việt Nam hiện nay.  Họ là những người “dường như” không sợ chết.  Họ chấp nhận gông cùm tra tấn, chấp nhận đòn vọt, đói khát, nắng mưa, bệnh tật, và sẵn sàng chấp nhận cái chết.

Họ là ai?  Phải chăng họ là những người điên nên không sợ chết?  Phải chăng họ là những người không còn biết trách nhiệm làm chồng làm cha làm con làm mẹ làm vợ làm dâu?  Phải chăng họ không biết trách nhiệm với vợ dại con thơ?  Phải chăng họ không còn ý thức bổn phận làm con phải sống để báo hiếu cha mẹ già yếu cần nương nhờ nơi họ?  Phải chăng họ không còn rung động trước tình cảm bao người thân dành cho họ, mà “ngoan cố” không chịu bỏ đạo để phải chết?

Không!  Họ là những người cha người chồng người vợ, vô cùng thương con thương vợ thương chồng.  Họ là những người con rất có hiếu và rất ao ước được sống để phụng dưỡng báo hiếu cha già mẹ yếu.  Họ là những người thông minh có thể làm quan, là những “anh hùng” sẵn sàng hiến mạng cho quê hương tổ quốc.  Họ là những người bình thường chứ không phải là những người điên, họ rất nặng “tình người” chứ không phải là những người “vô cảm.”  Họ chết vì người ta muốn giết họ, chứ không phải tự họ muốn chết; tuy vậy họ sẵn sàng đón nhận cái chết chứ không thể chối bỏ Thiên Chúa.

Tại sao họ kiên cường và anh dũng như vậy?

Họ là những người rất bình thường, nhưng Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu nơi những con người yếu đuối mỏng manh.

Ai không sợ chết?  Ai không sợ đòn vọt, tù đầy, gông cùm xiềng xích?  Nhưng những bậc tử đạo “dường như” không sợ, vì có một giá trị nào đó cao hơn, một cái gì đó quý hơn mà cho dù tình yêu gia đình, cha mẹ, vợ con, và ngay cả mạng sống cũng không đánh đổi được.  Với họ, Thiên Chúa là nhất, Thiên Chúa trên tất cả, trên tình yêu gia đình, trên tương quan ruột thịt, và trên cả mạng sống mình.

Qua các bậc anh hùng tử đạo, người ta đọc thấy không phải “con người” anh hùng, nhưng chính “Thiên Chúa” đang thực hiện những điều kỳ diệu nơi những con người đơn sơ mong manh chất phác, làm họ như những “bức tường bằng sắt, như những bức vách bằng đồng” và kiên vững không gì khuất phục được.  Người ta có thể hủy diệt mạng sống các ngài, có thể giết các ngài, có thể nghiền nát xương thịt các ngài, nhưng không thể bắt các ngài làm theo ý họ.  Thiên Chúa vô hình đang hiện diện qua thực tại hữu hình.  Thiên Chúa hiện diện đó, rất rõ, dù người ta không nhìn thấy Ngài bằng mắt trần.

Sống cho đúng là con cháu của những bậc anh hùng

Chúng ta là con dân đất Việt, là con cháu của các đấng bậc anh hùng.  Phải sống sao để “con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh.”  Xin cho chúng ta có tình yêu đối với Thiên Chúa, đối với Đức Yêsu, và sẵn sàng hy sinh tất cả vì Thiên Chúa.

Ngày nay người ta không còn nhiều dịp để “tử đạo” như ngày xưa, nhưng ngày nay người ta vẫn còn phải chọn giữa Thiên Chúa và tiền bạc danh vọng chức quyền; người ta vẫn phải chọn ưu tiên tương quan với Chúa trên những tương quan khác v.v…  Ngày xưa phải đổ máu để sống đúng, để làm chứng; ngày nay không còn dịp đổ máu thể lý, nhưng để sống đúng như những người con của Thiên Chúa, người ta vẫn phải đổ máu “vô hình,” vẫn phải hy sinh, phải chết “chính con người của mình” thì mới có thể sống trọn vẹn cho Thiên Chúa được.

 Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

From: Langthangchieutim


 

Thánh Nữ Frances Xavier Cabrini (1850-1917)-Cha Vương

Chúc Bạn có một tâm hồn trong sạch để được thấy mặt Thiên Chúa nhé. Hôm nay 13/11 Giáo hội mừng kính Thánh Nữ Frances Xavier Cabrini, bổn mạng của những người tị nạn và di dân. Mừng quan thầy đến những ai chọn ngài làm bổn mạng nhé. Chúc mừng người Việt tị nạn định cư tại Mỹ!

Cha Vương

Thứ 4: 13/11/2024

Thánh Frances Xavier Cabrini là công dân Hoa Kỳ đầu tiên được phong thánh. Chính lòng tin tưởng mãnh liệt vào sự chăm sóc yêu thương của Thiên Chúa đã ban cho thánh nữ sức mạnh để trở nên một phụ nữ dũng cảm làm việc cho Ðức Kitô.

Francesca Cabrini sinh năm 1850 ở Sant’Angelo Lodigiano, Lombardi, nước Ý trong một gia đình có đến 13 người con. Khi 18 tuổi, ngài ao ước trở thành một nữ tu nơi ngài theo học sư phạm, nhưng vì sức khỏe yếu kém nên bị từ chối. Sau đó thánh nữ làm việc bác ái ở Cô Nhi Viện Ðấng Quan Phòng ở Cadogne, nước Ý. Vào tháng 9 năm 1877, ngài tuyên khấn và mặc áo dòng.

Khi đức giám mục đóng cửa cô nhi viện vào năm 1880, ngài đặt sơ Frances làm tu viện trưởng tu hội Nữ Tu Thánh Tâm Truyền Giáo (the Missionary Sisters ở the Sacred Heart) và bảy phụ nữ khác làm việc ở cô nhi viện cũng đã gia nhập tu hội này.

Ngay từ khi còn nhỏ, Thánh Frances đã có ý định đi truyền giáo ở Trung Cộng, nhưng theo sự khuyên bảo của Ðức Giáo Hoàng Lêo XIII, cùng với sáu nữ tu khác, ngài đến thành phố Nữu Ước để phục vụ hàng ngàn người Ý di dân đang sinh sống ở đây.

Ngài gặp nhiều chán nản và khó khăn trên bước hành trình. Khi đến thành phố Nữu Ước năm 1889, căn nhà được hứa để làm cô nhi viện đầu tiên ở Hoa Kỳ thì lại không có. Ðức tổng giám mục khuyên ngài trở về Ý. Nhưng Frances, một phụ nữ can đảm có thừa, đã rời bỏ tư dinh của đức Tổng và tự tay gầy dựng cô nhi viện. Và ngài đã thành công.

Trong 35 năm, mẹ Frances Xavier Cabrini đã thành lập 67 trung tâm để chăm sóc người nghèo, trẻ mồ côi, người ít học và bệnh nhân. Nhận thấy nhu cầu cần thiết của người di dân Ý trước viễn ảnh bị mất đức tin, ngài mở trường học và các lớp dạy giáo lý người lớn.

Mẹ Francesca Cabrini qua đời vì bệnh sốt rét ngày 22 tháng 12 năm 1917 tại Chicago, Illinois, USA . Thi hài của mẹ được chuyển về nhà thờ ở New York kế cận “Mother Cabrini High School” do mẹ sáng lập. Tu hội của Mẹ ngày nay đã có mặt tại các nước Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Hoa Kỳ và Nam Mỹ.

Đức Chân Phước Giáo Hoàng Pius XI đã tôn phong Chân Phước cho mẹ Frances Xavier Cabrini ngày 13 tháng 11 năm 1938 liên quan đến một phép lạ chữa lành đôi mắt của một cậu bé do sự chuyển cầu của Đấng Đáng Kính Frances Xavier Cabrini.

Tám năm sau, Đức Giáo Hoàng Pius XII đã tuyên phong Mẹ Frances Xavier Cabrini lên hàng hiển thánh ngày 07 tháng 7 năm 1946 liên quan đến một phép lạ chữa lành căn bệnh lâu năm của một nữ tu và đặt Thánh Frances Xavier Cabrini là quan thầy của người di dân.

Trong nghi lễ phong thánh cho Mẹ Cabrini Ðức Giáo Hoàng Piô XII tuyên bố: “Mặc dù hiến pháp của tu hội ngài rất đơn sơ, nhưng ngài được ban cho một tinh thần phi thường đến nỗi, một khi tin rằng đó là ý Chúa, ngài không để bất cứ điều gì cản trở việc thực hiện mà những công trình ấy vượt quá sức lực của một phụ nữ.” (Nguồn: Người Tín Hữu)

Sau đây là những cầu nói của ngài:

(1) Xin cho con một trái tim rộng lớn như vũ trụ.

(2) Nếu bạn gặp nguy hiểm, nếu lòng bạn bối rối, hãy hướng về Mẹ Maria; Mẹ là niềm an ủi và sự giúp đỡ của bạn; hãy chạy đến Mẹ bạn sẽ được cứu.

(3) Nếu bạn sẵn lòng vác Thánh Giá thì Thánh Giá sẽ vác bạn.

(4) Chúng ta phải cầu nguyện không mệt mỏi, vì sự cứu rỗi của nhân loại không phụ thuộc vào thành công vật chất. . . nhưng trên một mình Chúa Giê-su mà thôi.

(5) Tôi sẽ đi bất cứ đâu và làm bất cứ điều gì để loan truyền tình yêu của Chúa Giê-su cho những người chưa biết Ngài hoặc đã quên Ngài.

***Câu nào đánh động bạn nhất? Đối với mình là câu số 3.

From: Do Dzung

*******************

Chúa sai tôi đi -tinmung.net 

2 thánh Simon và Giu-đê-Cha Vương

2 thánh Simon và Giu-đê

Hôm nay Giáo hội mừng kính trọng thể 2 thánh Simon và Giu-đê, uớc mong bạn là một người dũng cảm với một quả tim nhiệt thành trong mọi lãnh vực. Mừng quan thầy đến những ai chọn các ngài làm bổn mạng nhé.

Cha Vương

Thứ 2: 28/10/2024

THÁNH SIMON được tất cả bốn Phúc Âm nhắc đến. Trong hai Phúc  am, ngài được gọi là “người Nhiệt Thành” (Zealot). Phái Zealot là một nhánh Do Thái Giáo, đại diện cho chủ nghĩa dân tộc Do Thái. Ðối với họ, lời hứa cứu tinh trong Cựu Ước, có nghĩa là người Do Thái sẽ được tự do và có được một quốc gia độc lập. Chỉ có Thiên Chúa là vua của họ, nên việc nộp thuế cho người La Mã – là người đang đô hộ – được coi là xúc phạm đến Thiên Chúa. Chắc chắn rằng, một số người Zealot là miêu duệ tinh thần của người Maccabee, muốn tiếp tục lý tưởng tôn giáo và tranh đấu cho độc lập. Nhưng nhiều người trong nhóm họ cũng giống như quân khủng bố ngày nay. Họ lùng bắt để giết những người ngoại quốc và người Do Thái “cộng tác với địch”. Họ là những người chủ chốt trong vụ nổi loạn chống La Mã, và kết thúc bằng việc tiêu hủy thành Giêrusalem vào năm 70.

THÁNH GIU-ĐÊ  (Jude) là một nhân vật được đề cập đến trong Phúc Âm theo Thánh Luca, cũng như trong Công Vụ Tông Ðồ Thánh Mátthêu và Thánh Máccô gọi ngài là Thadeus (Ta-đê-ô), có nghĩa là “người dũng cảm”.  Sau ngày phục sinh Ta-đê-ô hỏi Chúa Giêsu: “Vì sao Thầy tỏ cho chúng tôi và không cho thế gian?” Và Chúa trả lời cho ông rằng Ngài tỏ mình qua những ai yêu mến Ngài. Ngoài ra, ngài không được nhắc đến ở chỗ nào khác trong các Phúc  m, ngoại trừ, khi kể tên các tông đổ. Các học giả cho rằng ngài không phải là tác giả của các thư Thánh Giu-đa. Thực ra, Giu-đê cùng tên với Giu-đa Ítcariốt (Judas Iscariot). Do đó, vì sự bất xứng của tên Giu-đa (bán Chúa), nên người ta đã gọi tắt là “Giu-đê”. Tương truyền sau đó cho biết người giảng đạo ở xứ Mesopotamia và đã chết vì đạo tại đó. Thánh tích của người hiện ở đền thờ Thánh Phêrô – Rome, Rheims và Toulouse nước Pháp. Người ta tôn kính Thánh Giu-đê như quan thầy “những hoàn cảnh thất vọng”. Trong kinh kính người có câu: “Lạy thánh tông đồ Giuđa Taddeo được cầu khẩn như vị trạng sư của những hoàn cảnh đau thương, gần như thất vọng, xin nghe lời những kẻ đang gặp khó khăn…”

Có tương truyền khác cho rằng người chịu tử đạo cùng lúc với thánh Simon Tông Đồ tại Persia (Ba Tư). Cả hai cùng được mừng lễ kính chung trong một ngày. Hôm nay mời bạn hãy xin Chúa ban cho hai ơn:

(1) Ơn “nhiệt thành” để rao giảng Tin Mừng trong mọi hoàn cảnh,

(2) Ơn “dũng cảm” để minh chứng cho đức tin của mình trong một thế giới đang bị sa đọa.

From: Do Dzung

**********************

Giêsu Bên Đời (Sáng tác: Sr. Maria Tigon) – Gia Ân

THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II: NHẬN DIỆN SỰ THÁNH THIỆN

THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II: NHẬN DIỆN SỰ THÁNH THIỆN

Tổng Giám mục Angelo Comastri

22/10/2024

Đức Tổng Giám mục Angelo Comastri là Chủ tịch Văn phòng Quản lý Cơ sở kiêm Tổng Đại diện của Đức Thánh Cha ở Vatican. Bài viết được trích trong: Stanislaw Dziwisz, Czeslaw Drazek, SJ, Renato Buzzonetti; Angelo Comastri, Cứ để tôi đi về nha Cha (Học viện Đa Minh, 2014), tr. 99-118.

Tôi không có ý định dự đoán phán quyết của Giáo Hội về Đức Gioan Phaolô II, vì chỉ mình Giáo Hội mới có thể làm điều này mà thôi. Dưới đây đơn giản là một vài gợi ý của tôi rút ra từ những quan sát và suy tư về cuộc đời của ngài.

Trước hết là sự quan tâm của công chúng dành cho Đức Gioan Phaolô II. Theo dòng thời gian, nhiều người, bao gồm cả những nhân vật nổi tiếng đều bị quên lãng. Nếu các bạn muốn, một ngày nào đó, hãy cố gắng ngừng lại trước đống đổ nát ở Palatine (một lâu đài cổ xưa nguy nga, tráng lệ) ở Rôma. Đây từng là nơi sinh sống của những người tự cho mình là thần thánh, làm rung chuyển thế giới, những con người chỉ với một cử chỉ có thể buộc quân đội động binh và nhiều người phải thay đổi chỗ ở (ví dụ như cuộc kiểm tra dân số của Caesar Augustô thời Chúa Giêsu đã làm cho cả Đế quốc phải di chuyển). Ngày hôm nay, Palatine không còn gì hết, ngoại trừ đống hoang phế bị tàn phá bởi lịch sử và lãng quên của con người. Nhưng điều khác thường lại xảy ra với Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ngày tháng trôi qua, ký ức và tình cảm đối với ngài vẫn tiến triển, lòng ngưỡng mộ và thái độ biết ơn ngài vẫn gia tăng. Nhiều con đường và quảng trường được mang tên ngài. Trong khi ấy, các sử gia và chuyên viên lưu trữ văn thư nỗ lực hết sức để biên soạn một bản đánh giá, dù tạm thời và chưa đầy đủ, về cuộc đời của ngài. Từng đoàn tín hữu mộ mến vẫn lũ lượt kéo đến ngôi mộ khiêm tốn của ngài trong lòng đất trên đồi Vatican, giống như ngôi mộ của Đức Phaolô VI và của thánh Phêrô, vị Giáo Hoàng đầu tiên. Những chuyện đang xảy ra ở đây không thể phủ nhận được.

Liệu chúng ta có thể phác hoạ những điểm nổi bật cho thấy sự thánh thiện của Đức Gioan Phaolô II hay không?

Theo tôi, Đức Giáo Hoàng là người cam đảm trong một thời đại đầy sợ hãi, và ngài phải được nhìn nhận vì nhân đức trổi vượt này. Luôn tỏ ra quyết đoán và kiên định giữa một kỷ nguyên đầy sự thoả hiệp và bất ổn trường kỳ, ngài thực sự noi theo giáo huấn của Đức Giêsu:

Điều Thầy nói với anh em trong bóng tối, thì hãy nói ra giữa ánh sáng; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy rao giảng trên mái nhà (x. Mt 10, 27). Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục. Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Phần anh em, ngay đến tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, chính anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ. Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối bỏ Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối bỏ người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. (x. Mt 10, 27- 33)

Đức Giáo Hoàng là người can đảm bảo vệ hoà bình trước những sóng gió chiến tranh dồn dập. Ai lại không nhớ những lời lẽ tha thiết thường được Đức Gioan Phaolô II nhắc lại, bất kể người ta có chấp nhận lắng nghe hay không? Đôi khi, ngài giống như một ngôn sứ lên tiếng trong một sa mạc đầy dửng dưng. Tuy nhiên, Đức Giáo Hoàng không thoái chí, ngài vẫn tiếp tục lên tiếng như thể được Thần Khí của Chúa Giêsu thúc đẩy từ sâu thẳm tâm hồn.

Chúng ta không khỏi ngưỡng mộ và xúc động trước lời kêu gọi của Đức Thánh Cha ngày 16 tháng 03 năm 2003 khi ngài kết thúc kỳ tĩnh tâm vào đầu Mùa Chay. Từ cửa sổ phòng làm việc, ngài đã lớn tiếng kêu gọi, không chút sợ hãi:

Tôi biết! Tôi biết chiến tranh khủng khiếp dường nào! Do đó, bổn phận của tôi là phải nói cho những người [tin vào chiến tranh] rằng: chiến tranh làm tăng sự hận thù và không thể giải quyết được vấn đề.

Thật can đảm! Vào giây phút đó, cách thức phát biểu của Đức Thánh Cha đã đi ngược lại với một xu thế rất mạnh trong xã hội, nhưng Đức Gioan Phaolô II nhiều lần không ngại đi ngược với xu hướng của đám đông. Ngài luôn hiên ngang và trung thành với bổn phận với tư cách là người Tôi Tớ của Chân lý, Chân lý mà Chúa Giêsu trao lại cho Hội Thánh, và đặc biệt, cho người được mệnh danh là Đá Tảng.

Đã hơn một lần, khi nghe những lời nói của Đức Gioan Phaolô II, trong đầu tôi xuất hiện lời khẳng định từ vị Tông đồ Phaolô: “Vì chúng tôi không có thể làm gì chống lại sự thật, nhưng chỉ có thể hoạt động cho sự thật” (2 Cr 13, 8). Tôi cũng áp dụng cho triều đại giáo hoàng của Đức Gioan Phaolô II những điều mà vị tông đồ Dân Ngoại đã nói về những khó khăn trong sứ vụ:

Hành trình nhiều chuyến, nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, nguy hiểm trong sa mạc, nguy hiểm ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em. Vất vả mệt nhọc, thức đêm thường xuyên, đói khát, ăn chay thường xuyên, chịu rét mướt trần truồng. Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh! Có ai yếu đuối mà tôi không yếu đuối? Có ai vấp ngã mà lòng tôi không cháy bừng? (x. 2 Cr 11, 26-29)

Đức Gioan Phaolô II là người can đảm bảo vệ gia đình trong một thời đại đã đánh mất ý thức về sự phối hợp không thể thay thế giữa vợ-chồng và cha-mẹ. Với cái nhìn ngôn sứ, Đức Wojtyla nhạy bén nhận ra rằng ngày hôm nay phẩm giá của gia đình đang bị đe doạ. Qua tình yêu thuỷ chung, người nam và người nữ làm thành một gia đình, trở thành chiếc nôi cho sự sống và là môi trường không thể thay thế để đời sống con người được lớn lên và phát triển.

Tôi nghĩ rằng Đức Gioan Phaolô II cảm thấy bị tổn thương sâu sắc khi được tin Nghị viện Châu Âu không đi đến được sự đồng thuận về giá trị của gia đình. Đây là một vấn đề rất nghiêm trọng, nó cho thấy thái độ mất nhận thức ở Châu Âu. Có lẽ được thúc đẩy bởi vấn đề khẩn cấp này, Đức Giáo Hoàng đã cho mọi người thấy ngài là vận động viên bảo vệ gia đình. Ngày Quốc tế các gia đình, Năm Thánh Gia đình, những thông điệp thường xuyên được gửi đến cho các cặp vợ chồng là hoa trái của tình yêu không gì lay chuyển ấy. Đồng thời, đây cũng là những cách thức nhằm tái thông truyền cho con người và chính phủ các quốc gia về những giá trị để hình thành một nền văn minh đích thực. Nếu gia đình tan vỡ, xã hội còn lại gì. Nếu gia đình biến mất, con đường nào sẽ hướng dẫn những đứa con trong hành trình cuộc đời của chúng?

Đức Gioan Phaolô II hiểu tất cả điều này, vì thế ngài kiên tâm giảng dạy và đào sâu những giá trị của gia đình. Có thể trong một vài năm hay nhiều thập kỷ, chúng ta mới có thể đánh giá rõ hơn công trình mà Đức Gioan Phaolô II đã thực hiện để phục hồi phẩm giá của gia đình giữa bóng tối của tâm thức hiện đại.

Đức Giáo Hoàng là người can đảm bảo vệ phẩm giá của sự sống. Mọi con người dù thuộc màu da nào – màu trắng, màu đen hay màu vàng, dù mạnh khỏe hay khiếm khuyết, dù giàu sang hay đơn nghèo, đều phải được bảo vệ từ lúc thụ thai cho đến khi lìa đời. Tông huấn Evangelium Vitae là một văn kiện đặc biệt về cả ý tưởng và lẫn tâm tình. Đức Gioan Phaolô II luôn luôn tìm mọi cách có thể để cho thấy bảo vệ sự sống không phải chỉ là nguyên tắc của tôn giáo, không phải là một sự can thiệp tôn giáo trong lĩnh vực hoạt động chính trị; nhưng là một lý lẽ tinh tế và chặt chẽ như là nền tảng cho sự đồng hiện hữu dân sự. Thêm nữa, nếu quyền sống không được đảm bảo, thì liệu rằng các quyền khác có được đảm bảo hay không? Đức Gioan Phaolô II đặc biệt chú trọng đến chủ đề này, và trái tim cao thượng của ngài luôn luôn sẵn sàng bảo vệ bất cứ khi nào quyền sống bị lâm nguy.

Chúng ta hẳn còn nhớ Đức Giáo Hoàng đã bất ngờ nổi giận tại Thung lũng Temple gần Agrigento[1]. Bằng lời lẽ đáng kính như Amốt, cung giọng hùng hồn như Hôsê và ngôn ngữ sống động như Isaia, ngài đã hô lớn trước sự kinh ngạc của đám đông đang hiện diện: “Hỡi những người Mafia, hãy sửa đổi lại cuộc sống của quý vị. Một ngày nào đó quý vị sẽ phải tính sổ trước mặt Thiên Chúa vì những việc mình làm.” Vào lúc đó, mọi người nhận ra rằng ngài đang đối diện với hiểm nguy; và có thể sẽ ảnh hưởng đến tính mạng. Nhưng Đức Gioan Phaolô II luôn sẵn sàng hy sinh mạng sống của ngài. Trong suốt triều đại giáo hoàng, ngài thường giẫm nát đầu rắn độc và thuồng luồng[2], nhưng hoàn toàn tín thác vào sự nâng đỡ và che chở của Chúa.

Cùng lúc, Đức Giáo Hoàng cũng lên tiếng bảo vệ sự sống huyền nhiệm và bất khả xâm phạm của con người. Ngài nhắc lại cho chúng ta rằng biện minh cho việc tấn công vào sự sống con người ngay từ khi chào đời hoặc khi chết là mở lối biện minh cho bất cứ một bạo lực nào trong mọi giây phút hiện hữu của con người.

Ngài hiểu rất rõ và thường lặp lại nhiều lần với cảm xúc đau xót: Sự xúc phạm ghê gớm đối với sự sống con người do chế độ độc tài thế kỷ XX gây ra là hậu quả của sự nhận thức sai lầm về bản chất con người. Điều này có nghĩa là các nhận thức này xuất phát từ những sai trái về giá trị nhân vị. Chính điều này dẫn đến phân biệt đối xử con người, quyết định ai nên sống hay phải chết, ai có nhiều nhân phẩm hay ít hơn bằng một cách thức hiểm ác và độc đoán. Cũng trong lĩnh vực này, chúng ta sẽ dần dần nhận ra hoạt động của Đức Thánh Cha thật sáng suốt và dưới sự quan phòng của Thiên Chúa.

Đức Giáo Hoàng là người can đảm tìm kiếm người trẻ và trò chuyện với họ. Khởi đầu triều đại giáo hoàng của ngài, dường như Giáo Hội không còn nói ngôn ngữ của giới trẻ và không tín nhiệm thế hệ trẻ nữa. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã không chấp nhận quan điểm này. Ngài biết rằng nếu không có Chúa Kitô, người trẻ sẽ không bao giờ tìm thấy ý nghĩa trong cuộc đời, và sẽ không bao giờ cảm nghiệm được thực tại quyến rũ của tình yêu vốn là hồng ân, chứ không phải là một ý tưởng thoáng qua buộc mỗi vật và mỗi người dành lấy cho riêng mình. Đức Giáo Hoàng tìm kiếm người trẻ, và các bạn trẻ nhận ra ngài là một người bạn, một người bạn đích thực và chân thành, không hy sinh những chuẩn mực nhằm mục đích lôi kéo người nghe, một người bạn không giảm thiếu thách đố của Tin Mừng để được người ta ưu thích, một người bạn không dùng thuật hùng biện để dành được những tràng vỗ tay tán thưởng của người trẻ.

Tuy nhiên, người trẻ lại luôn dành cho ngài những tràng vỗ tay tự phát và nồng nhiệt – một sự ủng hộ mạnh mẽ làm nhụt chí những người dự đoán về sự sụp đổ của Giáo Hội và biến mất của Kitô giáo.

Những người trẻ rất yêu mến Đức Giáo Hoàng. Họ xem ngài như một người cha luôn biết cách sửa dạy con cái vào những thời điểm thích hợp, bởi vì ngài biết cách yêu thương chân thật và trung tín.

Tôi thật ngây thơ khi lo lắng rằng làm thế nào ngài có thể chào đón những người trẻ đang có mặt tại quảng trường thánh Phêrô để khai mạc ngày Quốc tế Giới Trẻ giữa cái nóng tháng 8 năm 2000! Một giọng nói âm vang nội lực bất ngờ cất lên: “Các con tìm ai?” Tôi nhớ rằng cả những giám mục chúng tôi cũng ngạc nhiên và bị lôi cuốn bởi sức hút của vấn nạn đầy thách thức này. Đức Giáo Hoàng giải thích rằng ngài không muốn hạ thấp những chuẩn mực nhằm lôi kéo giới trẻ, nhưng mời gọi các bạn trẻ hãy vươn lên để theo đuổi những giá trị và ý nghĩa cao cả của cuộc sống.

Về phần họ, giới trẻ hiểu rằng con người cao niên này biết được bí quyết cho cuộc sống của tuổi trẻ và họ đã bắt đầu lưu tâm và suy nghĩ.

Vào buổi tối trong giờ canh thức cầu nguyện trên cánh đồng rộng lớn ở Tor Vergata, một điều khác nữa đã xảy ra sẽ không bao giờ bị quên lãng, bởi vì nó là một dấu hiệu về mối tương quan đặc biệt giữa Đức Giáo Hoàng và người trẻ. Trong khi bầu trời bình yên của Rôma vang lên những bài hát của những cộng đoàn giới trẻ đến từ khắp năm châu, thì một thanh niên bất ngờ nhảy qua hàng rào bảo vệ, thoát khỏi sự truy bắt của cảnh sát, và chạy nhanh tới Đức Giáo Hoàng. Cụ già và một người trẻ nhìn nhau hồi lâu, sau đó họ ôm chầm lấy nhau giống như người cha ôm lấy con mình. Một cảm xúc dâng trào trong tim mọi người ở đó – Tôi đã khóc.

Cuối cùng, Đức Giáo Hoàng là người can đảm trong lúc bệnh tật và cả khi cận kề cái chết. Trong lúc bệnh tật, Đức Giáo Hoàng mất dần đi phẩm chất xuất sắc của mình, nhưng ngài không bao giờ che giấu điều ấy. Chắc hẳn ngài sẽ phải trả giá rất nhiều, nhưng ngài không muốn được bảo vệ để tránh cái nhìn của người khác. Ngài sống bệnh tật cách công khai và biến nó thành một bài giảng gây xúc động trái tim nhân loại.

Từ nhiều nơi đã xuất hiện nhiều lời yêu cầu thiếu tôn trọng và cố chấp đòi Đức Thánh Cha phải từ chức, và tôi nghĩ điều này thực sự làm ngài bị tổn thương.

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II quyết định không bước xuống khỏi thập giá; tuy nhiên, ngài phải sử dụng đến chút sức lực cuối cùng. Tôi còn có thể nhìn thấy Đức Thánh Cha xuất hiện tại cửa sổ phòng riêng vào ngày thứ Tư cuối cùng của cuộc đời ngài. Ngài cố gắng nhiều lần, tập trung sức lực để bộc bạch vài lời tâm tư, nhưng không có âm thanh phát ra từ đôi môi run rẩy. Tuy nhiên, trong triều Giáo Hoàng dài của ngài, thứ Tư đó lại là một trong những khoảnh khắc xúc động nhất, sâu sắc nhất, lay động lòng người nhất. Đức Thánh Cha đã nói với mọi người bằng ngôn ngữ thinh lặng đầy sức thuyết phục: Để nên giống Chúa Giêsu, chúng ta phải yêu thương cho đến giây phút cuối cùng, đến độ trao cả mạng sống cho Người, Đấng ban sự sống của Người cho chúng ta.

Đức Giáo Hoàng tìm ở đâu nguồn sức mạnh này?

Ngài tìm thấy trong một Đức tin luôn được nuôi dưỡng bằng cầu nguyện liên lỉ. Người ta đã nói với tôi rằng trong những chuyến tông du đầy vất vả và thường xuyên trên khắp thế giới, Đức Gioan Phaolô II thường thức dậy sớm hơn mọi người và phủ phục cầu nguyện trước Nhà Tạm. Giống như ông Môsê, khuôn mặt của ngài toả ra ánh sáng.

Đức hồng y Andrea Deskur, một người bạn của Đức Giáo Hoàng từ thuở thiếu thời, đã từng nói với tôi rằng cần phải giúp đỡ Hồng y Wojtyla trong những chuyến thăm thường xuyên của vị này ở Roma, ngài cho rằng cần phải thay đổi sàn nhà nguyện. Thật vậy, Hồng y Andrea Deskur đã nhiều lần trông thấy vị Giáo Hoàng tương lai phủ phục cầu nguyện dưới sàn nhà lạnh lẽo. Để tránh ảnh hưởng sức khỏe cho con người đạo đức này, ngài đã thay thế đá lát cứng bằng chất liệu gỗ.

Tôi xin tóm kết bằng cách phải nói đến lòng sùng kính Đức Mẹ của Đức Gioan Phaolô II. Những năm 1965 – 1975 tựa như một “mùa đông lạnh lẽo” đối với Mẹ Maria. Dường như nhiều người đang cố làm sao đẩy Đức Mẹ ra bên lề, (theo cách họ nói) nhằm phục hồi vai trò trung tâm cho Đức Kitô. Lập luận này không đúng đắn, bởi vì Con và Mẹ không thể có tính loại trừ, nhưng luôn đi cùng nhau. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã làm sáng tỏ vai trò của Đức Maria trong Giáo Hội bên cạnh Đức Kitô. Thật vậy, chính bằng cách bắt đầu với Đức Giêsu mà người ta đến với Mẹ Maria. Chính bằng cách bắt đầu với Đức Giêsu mà người ta khám phá sự hiện diện của Mẹ và sứ vụ không thể nào thay thế của Mẹ. Đây không phải là thay chỗ cho Con, nhưng là sứ vụ mang chúng ta đến với Con của Mẹ.

Đức Gioan Phaolô II luôn tinh tế, thấu hiểu và có trực giác trong mối tương quan đối với sự hiện diện và sứ mệnh của Mẹ Maria.

Huy hiệu giám mục và giáo hoàng của ngài đã thể hiện lòng sùng kính này: chữ M nổi bật lên trên nền xanh, theo sau là tiếng thưa của người con đối với Mẹ: Totus tuus.

Thật là đẹp biết bao, đẹp theo cách nói của con người và đẹp theo cách nói của Kitô giáo.

Khi xem xét lại các hoạt động và cử chỉ của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, suy niệm những bài diễn văn và tài liệu của ngài, người ta nhận ra rằng tâm tình của ngài dành cho Mẹ Maria là nguồn cảm hứng đặc trưng cho cuộc hành trình của ngài theo Chúa Giêsu.

Ngày 04 tháng 06 năm 1979, khi thực hiện chuyến hành hương đầu tiên đến Jasna Góra, Đức Giáo Hoàng đã phó thác Giáo Hội cho Mẹ Maria. Với những lời đầy xúc động, ngài nói:

Có biết bao nhiêu vấn đề! Thưa Mẹ, chắc hẳn con phải dâng lên cho Mẹ trong cuộc gặp gỡ này, con xin liệt kê từng vấn đề một. Con phó thác tất cả cho Mẹ, bởi vì Mẹ biết rõ hơn chúng con và Mẹ có thể chăm nom tất cả.

Thưa Mẹ! Vì thế, con đã hiện diện trong nơi thánh thiêng này. Nơi đây ôm ấp không chỉ nước Ba Lan mà còn toàn thế giới, mở rộng đến mọi quốc gia và châu lục trong trái tim từ mẫu của Mẹ. Con xin dâng lên Mẹ toàn thể Giáo Hội mà trong ấy trước hết, con là tôi tớ đầu tiên, và con phó thác Giáo Hội cho Mẹ với một sự tin tưởng không hề lay chuyển!

Trong những chuyến tông du không mệt mỏi qua nhiều châu lục, Đức Giáo Hoàng luôn chiêm ngắm Đức Maria. Chính từ Mẹ mà ngài học biết và công bố vẻ đẹp của lòng trung tín với Chúa và với Tin Mừng của Người. Cũng từ nơi Mẹ, ngài học cách lắng nghe và chuyển trao niềm hy vọng của lời kinh Magnificat. Nhờ Mẹ, ngài học cách làm cho Chúa Kitô trở thành trung tâm điểm toàn bộ hoạt động mục vụ của ngài, bởi vì Đức Maria luôn nói với chúng ta: “Người bảo gì, thì hãy làm theo” (Ga 2, 5).

Chính lòng sùng kính này đã làm cho cử chỉ của Đức Giáo Hoàng thêm rõ ràng và cảm động khi ngài đã tới Fatima để tạ ơn Đức Maria sau vụ tấn công bi thương ngày 13 tháng 05 năm1981. Trong tâm tình ấy, ngài dâng lên Mẹ viên đạn đã không giết chết ngài. Tâm tình con thảo đối với Mẹ đã giải thích cho những cuộc hành hương thường xuyên của ngài đến những đền thánh của Mẹ Maria, nơi đó “chúng ta được kín múc Đức tin từ Mẹ” (Thư kỷ niệm 700 năm Đền thánh Loreto). Đồng thời, lòng sùng kính đó cũng phản ánh lý do Đức thánh Cha luôn nắm chặt chuỗi Mân côi trong tay như giúp ngài cảm thấy sự vững vàng và dịu hiền của Mẹ Maria. Lòng sùng kính làm rõ hơn cho sự trung tín của ngài với buổi đọc kinh Truyền tin, nhờ đó, lời kinh được đưa đến các đường phố, quảng trường và mọi vùng thôn quê trên toàn thế giới. Ngày 13 tháng 05 năm 2000, tôi đã hiện diện ở Fatima, và luôn ghi khắc trong tâm hồn mình khoảnh khắc Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tuyên phong chân phước cho hai trẻ chăn chiên ở Fatima là Jacinta và Francisco, trước sự hiện diện của Lucia, cô gái chăn chiên thứ ba và cùng với đám đông rất lớn (trong đó có nhiều người đi bộ) đến từ khắp nơi trong đất nước Bồ Đào Nha và những nơi xa xôi trên thế giới.

Lời kinh Magnificat lúc ấy thật tuyệt diệu. Lời ngợi khen trải qua bao thế hệ dường như đang trực tiếp có thể đụng chạm được và như mới tức thì. Trên cánh đồng rộng lớn Cova da Iria, muôn ngàn khuôn mặt được mặt trời chiếu sáng đang di chuyển như một con sóng được hơi thở thần khí của Thiên Chúa thổi vào. Đó là những con người nhỏ bé thuộc về Mẹ Maria và là những người bé nhỏ mà Mẹ nói đến trong lời kinh Magnificat. Họ là những người hèn mọn phải ngủ ngoài trời vì không đủ tiền vào khách sạn sang trọng. Trong giây phút đó, những người hèn mọn này cảm thấy họ là hiện thân trong lời kinh của Đức Mẹ.

Từ cảm xúc đổi thành ngạc nhiên khi cuối nghi thức tuyên phong chân phước cho hai mục đồng, Đức hồng y Angelo Sodano, Quốc Vụ Khanh Toà thánh, đã nhân danh Đức Giáo Hoàng phát biểu:

Như anh chị em đã biết, mục đích của chuyến viếng thăm Fatima là để phong chân phước cho hai trẻ mục đồng. Tuy nhiên, ngài cũng muốn chuyến hành hương này là một cử chỉ biết ơn đối với Đức Trinh Nữ Maria vì Mẹ đã bảo vệ ngài trong những năm trên cương vị giáo hoàng. Sự bảo vệ này dường như cũng được nối kết với phần ba của bí mật Fatima.

Bản văn chứa đựng một thị kiến tiên tri tương tự như những sự kiện được miêu tả trong Kinh Thánh. Tuy nhiên, bản văn không miêu tả rõ ràng, chi tiết các sự kiện trong tương lai, nhưng tổng hợp và cô đọng những sự kiện nền tảng thống nhất trải dài qua thời gian trong một sự tiếp nối, lâu dài và không rõ ràng. Kết quả là văn bản này phải được giải thích dưới khía cạnh biểu tượng.

Trước hết, thị kiến Fatima liên quan đến cuộc chiến tranh do hệ thống vô thần khơi lên nhằm chống lại Giáo Hội và Kitô giáo. Thị kiến miêu tả những đau đớn mà những chứng nhân của Đức tin đã phải chịu trong những năm cuối của thiên nhiên kỷ thứ hai. Đây chính là Đàng Thánh giá dài vô tận được hướng dẫn bởi các vị Giáo Hoàng thế kỷ XX.

Theo lời giải thích của những mục đồng mà sau này được xác định bởi sơ Lucia, “vị Giám Mục áo trắng” cầu nguyện cho các tín hữu chính là Đức giáo Hoàng. Khi ngài đem tất cả sức lực để đi con đường thập giá của mình trước những thi thể của các anh hùng tử đạo, thì chính ngài cũng đã ngã xuống đất, dường như đã chết, dưới loạt đạn nổ.

Sau vụ ám sát ngày 13 tháng 05 năm 1981, đối với Đức Thánh Cha, rõ ràng là cánh tay hiền mẫu đã hướng đường đi của viên đạn, bàn tay ấy có thể làm cho Đức Giáo Hoàng “đang gần kề cái chết” được dừng lại trước ngưỡng cửa cái chết[3]. Trong một dịp viếng thăm Rôma của một vị sau này là giám mục giáo phận Leiria Fatima, Đức Giáo Hoàng đã quyết định trao cho vị này viên đạn vẫn găm lại trong xe Jeep sau vụ tấn công, để được lưu giữ trong đền thánh. Theo lệnh của vị giám mục, sau này viên đạn đã được đính vào vương miện tượng Đức Mẹ Fatima.

Những sự kiện tiếp nối năm 1989 đã dẫn đến sự sụp đổ của chế độ cộng sản vốn chủ trương đẩy mạnh chủ nghĩa vô thần ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu. Vì điều này, Đức Thánh Cha thành tâm cảm tạ Đức Mẹ. Trong nhiều nơi khác trên thế giới, những vụ tấn công chống lại Giáo Hội, chống lại các Kitô hữu cùng với gánh nặng đau khổ vẫn tiếp diễn một cách bi thảm. Thậm chí nếu những biến cố liên quan đến phần ba bí mật Fatima bây giờ dường như là một phần của quá khứ thì lời kêu gọi ăn năn sám hối của Đức Trinh Nữ Maria vào đầu thế kỷ XX vẫn còn hợp thời và cấp bách cho đến ngày nay. Đức Trinh Nữ của sứ điệp dường như đã đọc dấu hiệu của thời đại chúng ta với một sự thấu hiểu đặc biệt. Lời mời gọi ăn năn khẩn thiết của Mẹ Maria Rất Thánh không là gì ngoài việc biểu lộ sự quan tâm hiền mẫu của Mẹ đối với số phận gia đình nhân loại, luôn cần phải ăn năn và xin ơn tha thứ.[4]

Để các tín hữu có thể biết rõ hơn sứ điệp của Đức Trinh Nữ Fatima, Đức Giáo Hoàng đã trao cho Bộ Giáo lý và đức Tin công bố phần ba bí mật Fatima kèm theo một lời giải thích hợp lý.

Vào lúc đó, tôi đã nhận thức rõ ràng biến cố Fatima không phải là lý do sùng kính Đức Trinh Nữ Maria của Đức Gioan Phaolô II. Thật là sai trái khi nghĩ điều này bởi vì chân lý đi theo một đường lối khác. Lòng sùng kính Đức Maria là lý do và là lời giải thích cho những sự kiện của Fatima. Bởi vì Đức Giáo Hoàng rất yêu mến Đức Maria và đã thưa với Mẹ Totus tuus. Qua biến cố Fatima, Mẹ đã làm cho ngài cảm thấy tất cả chân lý và sự dịu dàng từ mẫu của Mẹ.’

Vì thế, lòng sùng kính Đức Maria của Đức Gioan Phaolô II đã xuất hiện trước biến cố ngài bị tấn công và sứ điệp Đức Maria ban cho các mục đồng được nối kết với nhau; do đó, không phụ thuộc vào biến cố Fatima. Lòng sùng kính Đức Trinh Nữ hoàn toàn được đặt trên nền tảng Tin Mừng, trên Lời Chúa. Trong tông thư Tertio Millennio Adveniente – Ngàn năm thứ Ba đang tới, ngài viết:

Lời đáp của Mẹ Maria đối với Sứ thần không chút lưỡng lự: “Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: ‘Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời thiên sứ nói.’ Rồi thiên sứ từ biệt ra đi.” (Lc 1,38). Chưa bao giờ trong lịch sử nhân loại, lời đáp trả lại phụ thuộc vào lời đồng thuận của một thụ tạo đến như vậy (số 2).

Trong việc sùng kính Đức Trinh Nữ Maria, Đức Gioan Phaolô II đã cho thấy ngài là một người trung tín, một tôi tớ can đảm và đích thực của Chân lý như sách Khải Huyền đã nói.

Vì lý do này, lòng biết ơn của chúng ta ngày hôm này phải mạnh mẽ hơn và được bảo đảm hơn. Mỗi khi suy niệm kinh Mân côi và đọc kinh Kính mừng, một lời tung hô tự phát nảy ra từ tâm hồn của chúng ta: Totus tuus, Maria.

Đây chính là di sản về Đức Maria mà Đức Gioan Phaolô II đã để lại cho chúng ta.

Nguồn: daminhvn.net (22/10/2024)

_______

[1] Đảo Sicily, trung tâm hoạt động của Mafia.

[2] x. Tv 91, 13.

[3] Đức Gioan Phaolô II, Suy niệm với các giám mục Ý từ bệnh viện Gemelli (Insegnamenti, tập 17/1,1994, tr. 1061).

[4] Đức Gioan Phaolô II, Sứ điệp ngày Quốc tế Bệnh nhân 1997, số 1.

 

 

 

Thánh Gioan Capistranô (St. John of Capistrano) (1385-1456).-Cha Vương

Một ngày an lành nhé. Đừng quên đi bầu sớm hả. Hôm 23/10, Giáo Hội mừng kính Thánh Gioan Capistranô (St. John of Capistrano) (1385-1456). Ngài là quan thầy của các binh sĩ, luật sư và chánh án.

Cha Vương

Thứ 4: 23/10/2024

Thánh Gioan Capistranô Thánh Gioan sinh ở Capistrano, nước Ý năm 1385. Ngài là con của một cựu hiệp sĩ người Ðức sống trong thành phố. Ngài học luật ở Ðại Học Perugia và hành nghề luật sư ở các tòa án Naples. Khi 26 tuổi, ngài được Hoàng Ðế Ladislas của Naples bổ nhiệm làm thủ hiến xứ Perugia. Trong cuộc chiến tranh với người Malatestas ở lân cận, ngài bị phản bội và bị cầm tù. Sau khi được thả về, ngài quyết tâm thay đổi cuộc đời và gia nhập dòng Phanxicô ở Perugia năm ngài 31 tuổi.

Sau khi được thụ phong linh mục vào bốn năm sau, ngài đi rao giảng khắp các nước Ý, Ðức, Bohemia, Áo, Hungary, Ba Lan và Nga. Vào lúc người ta thờ ơ và nghi ngờ tôn giáo thì ngài đã lôi cuốn được nhiều người trở về với Giáo Hội. Các quốc gia miền trung Âu Châu đã tiếp đón ngài cùng với các tu sĩ Phanxicô như các thiên thần của Thiên Chúa. Họ là những khí cụ để hồi phục niềm tin đang dẫy chết.

Chính dòng Phanxicô cũng trong tình trạng xáo trộn về việc giải thích và tuân giữ quy luật của Thánh Phanxicô. Qua các nỗ lực không ngừng của Cha Gioan Capistrano và nhờ kinh nghiệm luật pháp của ngài, tà giáo Fraticelli bị cấm hoạt động và Tinh Thần Phanxicô tinh tuyền lại được nêu cao.

Khi vua Hồi Giáo là Mohammed II đe dọa tấn công Vienna và Rôma, Cha Gioan Capistrano, dù đã bảy mươi tuổi, được Ðức Giáo Hoàng Callistus II giao cho công việc rao giảng và chỉ huy thập tự quân chống với sự xâm lăng của người Thổ Nhĩ Kỳ. Cùng với đoàn quân bảy mươi ngàn Kitô Hữu, ngài đã chiến thắng người Thổ Nhĩ Kỳ trong cuộc chiến sau cùng ở Belgrade năm 1456.

Ba tháng sau ngài từ trần ở Villach, Hungary ngày 23 tháng 10 năm 1456. Trên mộ của ngài ở làng Villach, Hungary, quan đầu tỉnh đã cho khắc những hàng chữ sau: “Ngôi mộ này là nơi chôn cất Thánh Gioan, sinh ở Capistrano, một người đáng được ca tụng, người biện hộ và cổ võ đức tin, người bảo vệ Giáo Hội, người hăng say che chở nhà dòng, niềm vinh dự cho cả thế giới, người yêu quý sự thật và công bình, phản ánh đời sống, vững chắc trong giáo lý; được bao người đời ca tụng, ngài đang sung sướng ngự trên thiên đàng.”

Đức Giáo Hoàng Innocent X tôn phong Chân Phước cho ngài ngày 19 tháng 12 năm 1650 và Đức Giáo Hoàng Alexander VIII đã nâng Chân Phước Gioan ở Capistrano lên bậc hiển thánh ngày 16 tháng 10 năm 1690.  Ngài được đặt làm quan thầy của các luật gia. (Trích Gương Thánh Nhân – ns Người Tín Hữu online & Nhóm Tinh Thần nhuận chính lại theo Patron Saint và Santi-Beati-Testimoni)

*** Nếu bạn là công dân Hoa Kỳ, mời bạn hãy noi gương ngài, dùng vé phiếu của mình để biện hộ, cổ võ đức tin và bảo vệ quyền sống cơ bản của con người nhé.

From: Do Dzung

***********************

Con Tin Chúa Ơi | Sáng Tác: Lm. Duy Thiên | Trình Bày: Gia Ân

Thánh Gioan Phaolô đệ nhị, Giáo Hoàng-Cha Vương

Chúc bình an đến bạn và gia đình. Hôm nay 22/10 Giáo Hội mừng kính Thánh Gioan Phaolô đệ nhị, Giáo Hoàng. Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

TÓM TẮT TIỂU SỬ: Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tên thật là Karol Józef Wojtyła sinh vào ngày 18 tháng 5 năm 1920 tại Wadowice, miền nam Ba Lan. Là con của một cựu sĩ quan trong quân đội Habsburg. Lúc nhỏ tuổi Ngài có tiếp xúc nhiều lần với nhóm người Do Thái tại Kraków. Trong thời Đức quốc xã chiếm Ba Lan trong Đệ nhị thế chiến, Ngài đã làm việc trong một mỏ đá và một nhà máy hóa học. Khi Ngài còn trẻ Ngài đã là một vận động viên, một diễn viên, một nhà soạn kịch, và một nhà ngôn ngữ học (Ngài biết đến 11 ngôn ngữ). Karol Wojtyła được phong chức linh mục vào ngày 1 tháng 11 năm 1946. Ngài dạy môn luân lý tại Đại học bách khoa Jagiellonian và sau này tại Đại học Công giáo Lublin. Vào năm 1958 Ngài được phong chức làm Giám mục Phụ tá Địa Phận Kraków và bốn năm sau Ngài làm Giám Quản Địa Phận (Vicar Capitular).

– Chịu Phép rửa tội ngày 20/6/1920. Ngài lớn lên với cha mẹ ngài ở Rynek. Sau đó gia đình dọn tới Krak Via Tyniecka.

– Ngài rước lễ lần đầu lúc 9 tuổi và lãnh phép Thêm Sức lúc 18 tuổi.

– Thụ phong linh mục năm 1946 tại Krakow lúc 26 tuổi.

– Làm Giám mục năm 1958 tại nhà thờ chính tòa Wavel lúc 38 tuổi.

– Làm Tổng Giám mục Krakow năm 1964, lúc 46 tuổi

– Được phong làm Hồng Y do Đức Giáo Hoàng Phaolô VI vào năm 1967, lúc 47 tuổi.

– Được bầu làm vị Giáo hoàng thứ 246 ngày 16/10/1978 lúc 5:15 chiều là vị thứ 263 kế vị Thánh Phêrô ở tuổi 58. -Ngài là vị giáo hoàng trị vì lâu thứ ba trong lịch sử Giáo Hội. (26 năm và 4 ngày)

❦ Phương châm Giáo Hoàng là: “Totus Tuus” (tất cả cho Chúa qua Mẹ Maria).

❦ “Câu nói bất hủ của Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô Đệ Nhị trong lễ đăng quang đã đánh dấu cả triều đại của ngài: “Anh em đừng sợ !”. Câu nói đó đã vượt ra khỏi quảng trường Thánh Phêrô, ra khỏi Vatican để đến tận chân trời góc biển, đặc biệt là đến tận những nước còn bị thống trị bởi chủ nghĩa và các chế độ cộng sản, trong đó có quê hương Balan của ngài.”

❦ “Anh em đừng sợ! Hãy mở tung cánh cửa rộng ra cho Chúa Giêsu Kitô!“

❦ Ngày cuối đời của ngài, ngài nói: “Anh em hãy để tôi đi về nhà Cha.”

Câu nào đánh động bạn nhất?

Xin Thánh Gioan Phaolô đệ nhị cầu bầu cho người dân nước Việt được an cư lạc nghiệp và vui hưởng tự do.

From: Do Dzung

***************************

CON ĐỪNG SỢ || TCVPV

Thánh GIOAN BRÊBEUF, linh mục, thánh ISAAC JOGUES, linh mục, và các bạn tử đạo-Cha Vương

Thứ 7 Mùa Thu ấm ám và mạnh mẽ trong Chúa và Mẹ nhé. Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh GIOAN BRÊBEUF, linh mục, thánh ISAAC JOGUES, linh mục, và các bạn tử đạo.

Cha Vương

Thứ 7: 19/10/2024

Thánh Isaac Jogues sinh năm 1607 tại thành phố Ôlins, nước Pháp. Thánh nhân gia nhập dòng Tên năm 1624. Là nhà thừa sai dòng Tên, Isaac Jogues tới Quêbéc, nước Canađa. Ở đó, thánh nhân làm việc giữa những người Huron, giải thích cho họ biết về sứ điệp Tin mừng của Đức Chúa Giêsu và rửa tội cho những người xin gia nhập Công giáo. Năm 1642, một số chiến binh thuộc bộ tộc Irôquơ đã bắt giữ ngài cùng với 5 tu sĩ dòng Tên người Pháp và 2 tông đồ giáo dân Pháp khác.

Trong suốt một năm, Thánh Isaac Jogues và các bạn của ngài đã bị tra tấn kinh khủng. Nhưng một người Hà Lan đã giúp Isaac Jogues trốn thoát và ngài đã trở về Pháp. Đến năm 1644, Isaac Jogues lại xin được tới Quêbéc. Đang lúc trên đường đến với những người Irôquơ, sau một hiệp ước hòa bình ngài đã ký với bộ tộc ấy, Isaac Jogues đã bị những người Mahawk bắt giữ và giết chết.

Thánh Gioan Brebeuf trở thành tu sĩ dòng Tên sau một cơn lao phổi dữ dội. Ngài và thánh Gabriel Lallơmông là những thành viên thuộc nhóm các tu sĩ dòng Tên can đảm bị những người Irôquơ bắt giữ và giết chết. Cha Antôn Đanien vừa mới cử hành xong thánh lễ cho những tân tòng thuộc làng Huron thì những người Irôquơ tới tấn công ngôi làng. Những người tín hữu Anhđiêng năn nỉ cha bỏ trốn, nhưng cha Đanien đã ở lại để rửa tội cho tất cả những người đang khóc lóc xin cha ban bí tích Thanh tẩy cho họ trước khi tất cả đều bị giết. Những người Irôquơ đã thiêu sống cha trong nguyện đường nhỏ bé của ngài. Thánh Carôlô Garniê, tuy bị bắn bởi phát súng hỏa mai Irôquơ trong một vụ tấn công đột xuất, vẫn cố gắng bò tới giúp một người bạn đang hấp hối. Sau đó, ngài bị chém chết bởi một nhát rìu. Cha Nôel Cabanel cảm thấy cuộc sống truyền giáo tại Tân Thế Giới thật khó khăn, nhưng cha đã thề nguyền sẽ ở lại Bắc Mỹ. Cha bị một kẻ phản bội thuộc bộ tộc Huron giết hại. Hai vị tông đồ giáo dân, Rênê Gupin và Gioan Laland, đều bị giết bởi những nhát rìu của người da đỏ. Tất cả các vị anh hùng của Chúa Kitô này đã can đảm hiến dâng mạng sống mình vì những người dân bản địa vùng Bắc Mỹ. Người ta thường gọi các ngài là các thánh tử đạo tại Bắc Mỹ. Các ngài được Đức Thánh Cha Piô XI tôn phong lên bậc Hiển thánh năm 1931.

Lược qua đôi dòng lịch sử của các ngài, mình thấy mình còn nhút nhát, hèn hạ quá bạn ạ. Các ngài can trường làm chứng, lấy máu đào của mình minh chứng rằng Chúa Kitô hôm qua, hôm nay, ngày mai còn mình thì chỉ tìm kiếm sự an toàn trong cái vỏ sò của năm ba kinh quen thuộc đọc đi đọc lại, ngủ gà ngủ gật. Các ngài đã để lại cho thế hệ mai sau một tấm gương sáng chói và lòng TRUNG THÀNH với niềm tin cho dù có phải đem cả mạng sống ra để đánh đổi, còn mình thì tìm cách bảo vệ mạng sống của mình bằng cách triệt hạ và chà đạp nhân phẩm của người khác.

Nguyện xin Thánh GIOAN BRÊBEUF, thánh ISAAC JOGUES, và các bạn tử đạo cầu bầu cho con và giúp con biết thăng tiến trong đời sống đức tin.

From: Do Dzung

*************************

Thánh Giá Đời Con – Ns. Thế Thông – Uyên Di

THÁNH LUCA TÔNG ĐỒ, Antiochia, Greece (thế kỷ I)- Cha Vương

Chào bình an! Hôm nay giáo hội mừng kính THÁNH LUCA TÔNG ĐỒ, Antiochia, Greece (thế kỷ I). Mừng quan thầy đến những ai chọn thánh Luca làm bổn mạng nhé.

Cha Vương

Thứ 6: 18/10/2024

Thánh Luca là một người Hy lạp, ngoại giáo. Khi Thánh Phaolô loan báo Tin Mừng ở thành Troa, Luca đã tin, đã nhập đạo và đã đi theo làm môn đệ của thánh Phaolô nhiều năm.

Thánh Luca là một thầy thuốc. Người ta biết đến ngài vì ngài viết Tin Mừng Chúa Giêsu. Tin mừng theo ngài viết, qua cách diễn tả tài tình,  cách hành văn lưu loát và truyền cảm, cho ta thấy

-Chúa Giêsu nhân từ: cảm thương, tha thứ qua những truyện: người con phung phá, ông Giakêu thu thuế, người Samaritanô nhân hậu, người trộm lành.

-Chúa Giêsu thương người nghèo.

-Chúa Giêsu cầu nguyện và dạy cầu nguyện. Tin mừng theo Luca là  Tin mừng về niềm vui, Tin mừng về cứu rỗi, Tin mừng về Chúa Thánh Thần và Ðức Mẹ Maria. Nhờ ngài sưu tầm và viết lại mà người ta biết Ðức Mẹ khiêm tốn “Xin vâng” nhận làm Mẹ Con Chúa nhập thể trong ngày thiên thần truyền tin ngôi hai làm người. Ðức Mẹ đi thăm bà Isave, xướng kinh “Ngợi khen tuyệt vời”. Ðức Mẹ sinh Chúa Cứu thế, Ðức Mẹ dâng Chúa trong đền thánh, Ðức Mẹ tìm thấy Chúa trong đền thờ, Ðức Mẹ cầu nguyện với các tông đồ chờ Chúa Thánh Thần.

Thánh Luca còn viết sách Tông đồ Công vụ nói lên sự hiệp nhất, sinh hoạt của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Nhờ ngòi bút của Ngài, mọi người hiểu rằng Giáo Hội của Chúa ngay từ lúc ban đầu luôn có Chúa Thánh Thần luôn thúc đẩy mọi hoạt động.

Thánh Luca đã lãnh nhận triều thiên tử đạo lúc 84 tuổi cùng với thánh Tông đồ Anrê tại vùng Achai. Người ta vẽ con bò chỉ về người, con bò là một trong bốn con vật theo thị kiến của ngôn sứ Egiekien đã thấy. Tin mừng theo Luca bắt đầu bằng chuyện ông Giacaria dâng lễ vật trong đền thờ Giêrusalem.

(Nguồn: mạng Dân Chúa)

Thánh Luca là người tận tuỵ làm việc trong việc rao giảng Phúc  âm, đặc biệt là giúp đỡ Thánh Phaolô. Do đó, biểu tượng Con Bò thể hiện sức lao động của con bò trong Phúc  âm và sự chịu đau khổ vì danh Đức Giêsu Kitô.

Bạn đã và đang làm gì để công tác vào việc giao giảng Lời Chúa? Hôm nay mời Bạn hãy dùng những phương tiện truyền thông hiện đại sẵn có trong tầm tay để rao giảng Tin Mừng bằng mọi cách (Facebook, text, email…) gởi đi cho bạn bè và người thân những câu Kinh Thánh và bài suy niệm hàng ngày. Công việc tuy nhỏ bé nhưng nó cũng đóng một vai trò quan trọng trong công việc giao giảng Lời Chúa.

From: Do Dzung

*********************

LỜI CHÚA LÀ THẦN TRÍ VÀ SỰ SỐNG ( TV 18 ) | Quang Thái | Sáng tác : Tường Ân

Thánh Magarita Maria Alacoque, đồng trinh (1647-1690).- Cha Vương

Chúc bạn và gia đình một ngày bình an và hạnh phúc trong Trái Tim Chúa. Hôm nay Giáo hội mừng kính Thánh Magarita Maria Alacoque, đồng trinh (1647-1690). Mừng quan thầy đến những ai chọn ngài làm bổn mạng nhé.

***THÀNH THẬT CẢM ƠN BẠN NHIỀU LẮM LẮM ĐÃ CẦU NGUYỆN CHO MÌNH. MÌNH MỚI XUẤT VIỆN VÀ ĐANG NGHỈ DƯỠNG ĐỂ CHUẨN BỊ CHO KẾ HOẠCH ĐIỀU TRỊ.

Cha Vương

Thứ 4 / 16-10-2024

Magarita Maria sinh ngày 22 tháng 7 năm 1647 ở L’Hautecour, Burgundy, nước Pháp. Sau khi cha chết vào lúc tám tuổi, ngài được gửi vào trường nữ tu Thánh Clara Khó Nghèo ở Charolles. Ngài phải nằm liệt giường vì bệnh sốt thấp khớp cho đến năm mười lăm tuổi, và lúc ấy ngài đã có lòng sùng kính Thánh Thể đặc biệt.

Ngài từ chối việc lập gia đình và gia nhập dòng Thăm Viếng (the Order of the Visitation) ở Paray-le-Monial năm 1671 và khấn trọn vào năm tiếp đó. Một nữ tu dòng Thăm Viếng “không cần phải trở nên phi thường ngoại trừ là một người bình thường,” nhưng người nữ tu trẻ tuổi này thật khác lạ. Một đệ tử sinh (thích chỉ trích) cũng phải công nhận Magarita là người khiêm tốn, đơn sơ và thành thật, nhưng trên tất cả Magarita hiền lành và kiên nhẫn khi bị sửa sai và chỉ trích.

Khi hai mươi tuổi, ngài được thấy Ðức Kitô, và từ ngày 27 tháng 12 năm 1673, cho đến một năm rưỡi sau đó, ngài nhận được một chuỗi những thụ khải. Ðức Kitô nói với Thánh Magarita Maria: “Ðây là Trái Tim đã quá yêu thế gian đến nỗi không còn giữ lại chút gì, cho đến khi kiệt quệ và héo hon, để chứng minh tình yêu của trái tim Thầy. Ðền đáp lại, Thầy chỉ nhận được sự vô ơn bạc nghĩa, qua sự bất kính và phạm thượng của chúng, và qua sự lạnh nhạt và khinh miệt của chúng trong bí tích tình yêu này… Thầy đến trong trái tim mà Thầy đã ban cho con để qua sự nhiệt thành của con, con sẽ đền bù cho những xúc phạm đến Thầy vì những tâm hồn thờ ơ và lười biếng đã làm ô danh Thầy trong Bí Tích Thánh Thể” (lần thụ khải thứ ba).

Qua đó, Ðức Kitô cho biết thánh nữ được chọn làm khí cụ của Ngài để lan truyền việc sùng kính Thánh Tâm Chúa, và qua tình yêu của chính mình, thánh nữ sẽ đền bù cho sự lạnh nhạt và vô ơn của thế gian – qua sự thường xuyên và quý trọng việc Rước Lễ, nhất là trong các thứ Sáu đầu tháng, và qua một giờ cầu nguyện mỗi tối thứ Năm để tưởng nhớ sự thống khổ và cô đơn của Chúa khi trong vườn Cây Dầu. Chúa cũng yêu cầu thiết lập một ngày lễ để kính Thánh Tâm Chúa.

Như tất cả các thánh khác, sơ Magarita đã phải trả giá cho sự thánh thiện của mình. Một số các sơ trong dòng chống đối ra mặt. Các thần học gia được triệu tập để tuyên bố những gì ngài được thụ khải chỉ là ảo tưởng và họ đề nghị ngài ăn uống điều độ hơn. Sau này một cha giải tội của nhà dòng, Chân Phước Claude de la Colombiere, dòng Tên, nhận ra giá trị thực của điều thụ khải và đã hỗ trợ ngài. Bất kể sự chống đối mãnh liệt, Ðức Kitô kêu gọi ngài hãy hy sinh để đền bù cho những thiếu sót của các sơ trong dòng, và để sứ điệp của Chúa được lan rộng.

Cho đến năm 1683, sự chống đối chấm dứt khi Mẹ Melin được chọn làm Bề Trên và bổ nhiệm Sơ Magarita Maria làm phụ tá. Sau này sơ làm Giám Ðốc Ðệ Tử Viện, và được nhìn thấy lễ Thánh Tâm Chúa được nhà dòng cử mừng một cách riêng tư vào năm 1686, và hai năm sau, một nhà nguyện được xây cất ở Paray-le-Monial để kính Thánh Tâm Chúa.

Ngày 08 tháng 10 năm 1690, Magarita mang bệnh và ngày 17 tháng 10 năm đó Ngài từ trần, lúc 43 tuổi. Các nữ tu thấy Ngài trở nên xinh đẹp lạ lùng. Ngài được phong chân phước năm 1864 và tuyên thánh 1920.

Để mừng kính thánh nhân, mời bạn hãy dâng mình cho Rất Thánh Trái Tim Chúa hôm nay nhé:

Lạy Chúa Giêsu, con nhờ Trái Tim Vẹn Sạch Đức Bà Maria mà dâng cho Trái Tim Chúa mọi lời con cầu xin, mọi việc con làm, mọi sự khó con chịu trong ngày hôm nay, cho được đền vì tội lỗi con và cầu nguyện theo ý Chúa, khi dâng mình tế lễ trên bàn thờ. Con lại dâng các sự ấy cho Trái Tim Chúa có ý cầu nguyện cách riêng theo ý Ðức Giáo Hoàng, cho Hội Thánh và các linh hồn trong lửa luyện ngục.

(Kinh Dâng Mình Cho Rất Thánh Trái Tim Chúa)

Xin cảm tạ Chúa vì những ơn sủng và phúc lành Chúa ban cho con. Xin gìn giữ con hồn an xác mạnh trong ngày hôm nay trong tình yêu và ơn thánh của Chúa, qua lời cầu bầu của Mẹ Maria, các thiên thần và các thánh. Amen.

From: Do Dzung

***************************

Trong Trái Tim Chúa – Phan Đình Tùng