Thánh Gioan Neumann (1811-1860)

Thánh Gioan Neumann (1811-1860)

Tạ ơn Chúa Houston hôm nay trời hơi ấm, chúc bạn ngày thứ 4 an lành và thật khoẻ để chiến đấu với con vi rút Omicron nhé.

Cha Vương

Hôm nay 5/1 Giáo Hội mừng kính Thánh Gioan Neumann (1811-1860). Gioan Nepomucene Neumann sinh ngày 28 tháng 3 năm 1811 tại Prachititz, Bohemia (Czech Republic). Vào năm 1835, ngài trông đợi để được thụ phong linh mục nhưng đức giám mục sở tại quyết định không phong chức thêm. Thật khó để ngày nay chúng ta tưởng tượng rằng Bohemia dư thừa linh mục, nhưng thực sự là như vậy. Gioan viết thư cho các giám mục khắp Âu Châu, nhưng câu trả lời ở đâu đâu cũng giống nhau. Tin rằng mình có ơn thiên triệu nhưng mọi cơ hội dẫn đến sứ vụ ấy dường như đều đóng kín.

    Không nản chí, và nhờ biết tiếng Anh khi làm việc trong xưởng thợ của người Anh, ngài viết thư cho các giám mục ở Mỹ Châu. Sau cùng, vị giám mục ở Nữu Ước đồng ý truyền chức linh mục cho ngài. Ðể theo tiếng Chúa gọi, ngài phải từ giã quê nhà vĩnh viễn và vượt đại dương ngàn trùng để đến một vùng đất thật mới mẻ và xa lạ.

     Ở Nữu Ước, thầy John được thụ phong linh mục ngày 28 tháng 6 năm 1836. Cha Gioan là một trong 36 linh mục trông coi 200,000 người Công Giáo. Giáo xứ của ngài ở phía tây Nữu Ước, kéo dài từ Hồ Ontario đến Pennsylvania. Nhà thờ của ngài không có tháp chuông nhưng điều đó không quan trọng, vì hầu như lúc nào Cha Gioan cũng di chuyển, từ làng này sang làng khác, lúc thì lên núi để thăm bệnh nhân, lúc thì trong quán trọ hoặc gác xếp để giảng dạy, và cử hành Thánh Lễ ngay trên bàn ăn.

    Vì sự nặng nhọc của công việc và vì sự đơn độc của giáo xứ, Cha Gioan khao khát có một cộng đoàn, và đã ngài gia nhập dòng Chúa Cứu Thế tại Pittsburgh, Pennsylvania năm 1840, là một tu hội chuyên giúp người nghèo và những người bị bỏ rơi.

    Vào năm 1852, Cha Gioan được bổ nhiệm làm giám mục Philadelphia. Việc đầu tiên khi làm giám mục là ngài tổ chức trường Công Giáo trong giáo phận. Là một nhà tiên phong trong việc giáo dục, ngài nâng số trường Công Giáo từ con số đơn vị lên đến 100 trường.

    Ðức Giám Mục Gioan không bao giờ lãng quên sự lưu tâm đến dân chúng — đó là điều làm giới trưởng giả ở Philadelphia khó chịu. Trong một chuyến thăm viếng giáo xứ ở thôn quê, cha xứ thấy ngài ngồi trên chiếc xe bò chở phân hôi hám. Ngất ngưởng ngồi trên mảnh ván bắc ngang trên xe, Ðức Gioan khôi hài, “Có bao giờ cha thấy đoàn tùy tùng của một giám mục như vậy chưa!”

     Khả năng biết tiếng ngoại quốc đã đưa ngài đến Hoa Kỳ thì nay lại giúp Ðức Gioan học tiếng Tây Ban Nha, Pháp, Ý, và Ðức để nghe giải tội bằng sáu thứ tiếng. Khi phong trào di dân người Ái Nhĩ Lan bắt đầu, ngài lại học tiếng Gaelic và sành sõi đến nỗi một bà Ái Nhĩ Lan cũng phải lầm, “Thật tuyệt là chừng nào khi chúng ta có được vị giám mục người đồng hương!”

     Trong chuyến công tác mục vụ sang nước Ðức, đến nơi ngài ướt đẫm dưới cơn mưa tầm tã. Khi gia chủ đề nghị ngài thay đôi giầy sũng nước, ngài trả lời, “Tôi chỉ có cách đổi giầy từ chân trái sang chân phải thôi. Chứ có một đôi giầy thì làm gì được.”

     Đức Gioan Neumann qua đời ngày 05 tháng 1 năm 1860 vì tai biến mạch máu nảo tại nhà số 13th và Vine Streets, Philadephia, Pennsylvania, USA, khi mới 48 tuổi. Ngài nổi tiếng về sự thánh thiện và sở học cũng như các trước tác tôn giáo và bài giảng. 

    Đức Giáo Hoàng Paul VI đã tôn phong ngài lên bậc Chân Phước ngày 13 tháng 10 năm 1963 rồi mười bốn năm sau chính Đức Thánh Cha đã nâng Đức Giám Mục John Neumann lên hàng hiển thánh ngày 19 tháng 6 năm 1977. Ngài là Giám Mục người Hoa Kỳ đầu tiên được phong thánh. (Nguồn: Người Tín Hữu)

Để tưởng nhớ ngài mời bạn suy niệm câu nói của ngài để sống gần với Chúa hơn mỗi ngày:

❦  Trên thượng giới thì khác, còn dưới đây, sống là biến đổi, và nên hoàn thiện là phải biến đổi thường xuyên.

❦  Những người ham muốn vinh dự – tôi có ý nói những danh giá cao sang – là ham muốn một điều thực sự không có thực chất chút nào.

From: Đỗ Dzũng

Thánh Elizabeth Ann Seton Nữ Tu Hoa Kỳ (1774-1821)

Thánh Elizabeth Ann Seton Nữ Tu Hoa Kỳ (1774-1821)

Một ngày mới thật tốt lành và hạnh phúc trong tình yêu Thiên Chúa nhé.

Cha Vương

Thứ 3: 01/04/2022

Hôm nay 04/01 Giáo Hội mừng kính Thánh Elizabeth Ann Seton Nữ Tu Hoa Kỳ (1774-1821).

– Là người thứ nhất sinh tại Mỹ được phong thánh năm 1975.

– Là người đầu tiên mở trường học Công giáo cho giáo xứ,

– Là người đầu tiên lập nhà mồ côi trong giáo xứ.

– Là người đầu tiên lập nữ tu viện cho phụ nữ Hoa kỳ

Trong 46 năm, bà vừa nuôi con vừa làm các việc trên.

  1. Thân thế: Thánh Elizabeth Ann Seton có cha mẹ theo đạo Episcopan (Anh giáo). Mẹ bà và mẹ nuôi đã dạy bà cầu nguyện và đọc Kinh Thánh. Cha bà là một bác sĩ đã dạy bà yêu thương và giúp đỡ người nghèo.

Khi còn là thiếu nữ, Seton thường đem đồ ăn cho những người nghèo gần nhà cô. Sau khi lập gia đình, bà và người chị dâu thường thăm viếng người nghèo và người đau yếu trong xóm nghèo. Lấy chồng lúc 19 tuổi là ông Wil Seton ở New york, con nhà giầu có. Hai người rất yêu nhau và sinh được 3 gái 2 trai.

         Mọi sự tốt đẹp cho tới năm 1803, chồng bà bị phá sản (bankrupt) và yếu đau. Ông đã qua đời khi đi thăm người bạn bên nước Ý. Gia đình Ý này đã giúp bà Elizabeth và các con trở thành những người Công giáo. Bà tin Chúa trong Thánh Thể, lòng sùng kính Đức Mẹ, Giáo hội tông truyền từ các thánh Tông đồ. Vì việc này bà và các con bị họ hàng ghét bỏ. Bà Seton trở thành bà góa chồng lúc 30 tuổi. Để có tiền nuôi con, bà đã mở trường nội trú Công giáo cho các thiếu nữ tại Baltimore, bang Maryland. Mấy bà khác đến giúp đỡ và nhà nội trú phát triển.

        Ít lâu sau, bà thấy tiếng Chúa gọi trong lòng, hiến mình cho Chúa, nên bà và mấy bà bạn cùng nhau lập tu viện, sau này trở thành Dòng Nữ tử Bác ái (Daughters of Charity). Hai con trai bà nhập lính hải quân, 2 con gái đi tu, một người chết trẻ, một người làm việc cho tù nhân. Ngày nay, hàng ngàn ngàn nữ tu Bác ái đang phục vụ trong các bệnh viện, nhà dưỡng lão, và nhà trường.

  1. Hoàn toàn phó mình theo ý Chúa, vui chịu đau khổ, tôn kính Mình Thánh: Thánh Elizabeth Ann Seton không có ơn khác thường như làm phép lạ, nói tiên tri, in dấu thánh…nhưng bà có 2 điều đặc biệt là:  hoàn toàn phó mình làm trọn Ý Chúa, vui chịu đau khổ: mẹ chết, chồng chết, con chết, họ hàng ghét bỏ… Thánh nữ nổi bật về lòng tôn kính Mình Thánh Chúa, yêu mến Đức Mẹ… (Nguồn: Dân Chúa)

Noi gương Thánh nhân, mời Bạn hãy tập sống câu nói sau đây của Ngài: “Tôi thiết nghĩ mục đích trước nhất trong công việc hằng ngày của chúng ta là:

(1) Thi hành thánh ý Thiên Chúa

(2) thứ đến, thi hành điều ấy trong phương cách mà Ngài muốn

(3) và thứ ba, thi hành điều ấy vì đó là ý Chúa.”

From: Đỗ Dzũng

Thánh Stêphanô

 26 Tháng Mười Hai

Thánh Stêphanô

(c. 36?)

Những gì chúng ta biết về Thánh Stêphanô thì được viết trong sách Công Vụ Tông Ðồ 6 và 7. Ðiều đó đã đủ để biết về con người của ngài.

“Thời đó, khi số môn đệ thêm đông, thì các tín hữu Do-thái theo văn hoá Hy-lạp kêu trách những tín hữu Do-thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên. Bởi thế, Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và nói: ‘Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải. Vậy, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy thần khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa.’ Ðề nghị trên được mọi người tán thành. Họ chọn ông Stêphanô, một người đầy lòng tin và đầy Thánh Thần,…” (CVTÐ 6:1-5)

Sách Công Vụ kể tiếp Stêphanô là một người đầy ơn sủng và sức mạnh, đã làm nhiều việc phi thường trong dân chúng. Một vài người Do Thái thời ấy, là thành viên của hội đường nhóm nô lệ được giải phóng, tranh luận với Stêphanô nhưng không thể địch nổi sự khôn ngoan và thần khí của ngài. Họ xúi giục người khác lên án ngài là lộng ngôn, xúc phạm đến Thiên Chúa. Ngài bị bắt và bị đưa ra trước Thượng Hội Ðồng.

Trong phần trình bày, ngài nhắc lại sự dẫn dắt của Thiên Chúa trong lịch sử dân Do Thái, cũng như việc thờ tà thần và bất tuân phục Thiên Chúa của dân này. Sau đó ngài cho rằng những người bách hại ngài cũng giống như vậy. “Cha ông các ông thế nào, thì các ông cũng vậy” (CVTÐ 7:51b).

Lời ngài nói đã làm họ tức giận. “Nhưng [Stêphanô], tràn đầy Thánh Thần, đăm đăm nhìn lên trời và thấy vinh hiển của Thiên Chúa và Ðức Giêsu Kitô đứng bên hữu Thiên Chúa, và thánh nhân nói, ‘Kìa, tôi nhìn thấy thiên đàng mở ra và Con Người đang đứng bên hữu Thiên Chúa.’… Họ đưa ngài ra ngoài thành và bắt đầu ném đá ngài… Trong khi họ ném đá ngài, thánh nhân kêu lớn, ‘Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con… Lạy Chúa, xin đừng nhớ tội của họ'” (CVTÐ 7:55-56, 58a, 59, 60b).

Lời Bàn

Thánh Stêphanô đã chết như Ðức Kitô: bị kết tội cách sai lầm, bị kết án cách bất công vì ngài dám nói lên sự thật. Ngài chết trong khi mắt nhìn lên Thiên Chúa, và với lời xin tha thứ cho kẻ xúc phạm. Một cái chết “sung sướng” lúc nào cũng giống nhau, dù chết âm thầm như Thánh Giuse hay chết đau khổ như Thánh Stêphanô, đó là cái chết với sự can đảm, sự tín thác hoàn toàn và với tình yêu tha thứ.

Trích từ NguoiTinHuu.com

Thánh Gioan Thánh Giá

Thánh Gioan Thánh Giá

Chúc bạn ngày Thứ 3 bình an và cảm nhận được sự ấm áp của Chúa đang ôm ấp bạn nhé.

Cha Vương

Hôm nay 14/12, Giáo hội mừng kính thánh Gioan Thánh Giá, Linh mục, Tiến sĩ. Thánh Gioan Thánh Giá sinh tại Tây Ban Nha năm 1542. Ngài thừa hưởng tinh thần nghèo khó và hy sinh từ cha mẹ. Cha ngài đã từ bỏ địa vị quí tộc cao sang, tiện nghi và giàu có dể kết hôn với cô gái nghèo con của một người thợ dệt vải. Khi cha ngài qua đời mẹ ngài đã sống vất vả nghèo đói, quên mình để làm tất mọi công việc thấp kém hèn mọn để nuôi con. Thánh Gioan đã noi gương cha mẹ mình dấn thân vào một cuộc tình ái bao la rộng lớn hơn: yêu mến Thiên Chúa và tha nhân.

Ðã có những lần Gioan phải nhịn đói vì thiếu ăn. Mới 14 tuổi Gioan đã phải đi làm lao công trong bệnh viện, nhìn thấy cảnh đau đớn khốn khổ của bệnh nhân nên Gioan nhận biết niềm vui và hạnh phúc thật không phải ở cuộc đời này mà chỉ có nơi Thiên Chúa.

Tuy vậy Gioan cũng cố gắng học hành và năm 21 tuổi, Gioan gia nhập Dòng Carmel, và đến năm 1567 thì dược lãnh nhận chức linh mục. Ðây là khúc quanh lớn lao trong cuộc đời, chính khi được gặp gỡ thánh Têrêxa Avila trong lúc Bà đang điều khiển Dòng nữ Carmel. Bà yêu cầu thánh Gioan giúp Bà cải tổ lại Nhà Dòng. Thánh Gioan đồng ý là nhà Dòng phải trở lại đời sống cầu nguyện và chiêm niệm. Nhưng có nhiều thầy tu không muốn cải tổ vì phải sống kỷ luật và khắc khổ nên đã đem thánh Gioan giam tù. Ngài bị nhốt vào một buồng giam chật hẹp và mỗi tuần bị các thầy tu khác vào đánh tội ba lần. Trong căn buồng chập hẹp lạnh lẽo tối tăm, thánh Gioan đã tìm thấy niềm tin yêu Thiên Chúa thiêu đốt và bừng cháy trong tâm hồn. Trên đời này thánh Gioan không còn gì nữa chỉ còn có một mình Chúa mà thôi. Trong hoàn cảnh bi đát này, Chúa đã mang lại cho Thánh Gioan một niềm vui vô tận.

Sau 9 tháng bị giam giữ, thánh Gioan trốn ra được lúc đêm tối mang theo tập thơ thần bí mà ngài đã viết trong buồng giam. Thánh Gioan đến ẩn náu trong một phòng thuốc của một tu viện và đem những bài thơ ra đọc cho các nữ tu nghe. Các bà yêu mến các bài thơ nên xin Thánh Gioan chia sẻ và hướng dẫn chiêm niệm trên con đường thánh thiện tu trì. Ðời sống nghèo khó và chịu đựng bất công đã hướng dẫn thánh Gioan đến lòng thương xót bí nhiệm và thánh Gioan tìm được chân lý là “đau khổ khốn khó là thử thách để được gần Chúa hơn và đem Tình yêu đến chỗ nào vắng bóng Tình Yêu thì Tình Yêu sẽ trở nên phong phú và viên mãn.”…

Thánh Gioan Thánh Giá là một nhà linh đạo thần bí, chịu đựng đau khổ hành hạ không phải do kẻ thù mà do chính anh em đồng đạo mình; nhưng chính nhờ vậy mà ngài đã có một cái nhìn thật sâu xa và huyền bí về Tình Yêu của Thiên Chúa. (Nguồn: Dân Chúa)

Sau đây là những câu danh ngôn của ngài. Mời bạn đọc và hình dung ra như ngài đang muốn nói vời bạn điều gì đó…:

1/ Tin bằng nào được bằng đó.

2/ Linh hồn người say yêu Thiên Chúa lúc nào cũng đắm đuối trong hoan lạc, lúc nào cũng mừng lễ và lúc nào cũng hứng khởi hát ca.

3/ Trong tinh thần siêu thoát, linh hồn tìm được sự tĩnh lặng và thảnh thơi vì không còn ham hố sự gì. Nó không mỏi mệt vì tự cao, cũng không chán chường vì ngã lòng, bởi vì nó đứng ở tâm điểm sự khiêm nhượng.

4/ Mỗi khi có điều gì bất mãn hoặc khó chịu xảy đến anh em hãy nhớ lại Chúa Kitô đã chịu đóng đinh và hãy nín lặng.

5/ Ma quỷ sợ hãi linh hồn nào kết hiệp với Thiên Chúa bởi vì linh hồn ấy chính là nơi Thiên Chúa ngự.

6/ Lúc cuối đời, chúng ta sẽ bị phán xét về đức ái.

7/ Thập giá dẫn đến sự cứu chuộc, đau khổ dẫn đến sự ngất ngây, tăm tối dẫn đến sự sáng, khi từ bỏ là lúc làm sở hữu, hy sinh bản thân để kết hợp với Thiên Chúa.

Câu nào đánh động bạn nhất vậy? Đối với mình, câu số 4 & 6

Thánh Gioan Thánh Giá, cầu cho chúng con.

Thánh Lucia

Ngày thứ 2 “Hồng” thật bình an và tràn đầy niềm zui nhé! Hôm nay 13/12 Giáo Hội mừng kính Thánh nữ Luxia, Người Ý (- 304), Đồng Trinh tử đạo. Mừng Lễ Bổn Mạng đến những ai chọn Thánh nữ làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Trong dụ ngôn 10 cô trinh nữ, chỉ có 5 cô được vào dự tiệc. Luxia, nghĩa là “Sáng”. Cô cầm đèn cháy sáng đến chết, giờ đây cô đang dự tiệc trên trời.

Như nhiều vị tử đạo ban đầu tại Rôma, người ta không biết nhiều về cô Sáng, nhưng biết quê cô ở đảo Sicily, và cô tử đạo đời vua Diocletianô. Tên cô được ghi trong kinh nguyện Thánh Thể I, chứng tỏ giáo hội rất tôn kính cô.

Người ta kể, cô khấn không lấy chồng, để giữ mình đồng trinh cho Chúa Kitô. Khi anh chàng ham muốn kết hôn với cô khám phá ra rằng, cô là người Công giáo, hắn tố cáo và cô bị bắt, đánh đập, nhưng cô quyết trung thành với người yêu của mình là Chúa Giêsu .

Người ta truyền tụng rằng: Khi quân lính đến bắt cô, người cô nặng như đống đá dính chặt vào đất. Quân lính sợ hãi, đổ dầu lên người cô mà đốt nhưng lửa cũng không hề đụng đến người cô. Chúng ngạc nhiên hỏi cô làm sao mà có sự lạ lùng như vậy, cô cho biết là Chúa Giêsu che chở cô. Cuối cùng chúng dùng gươm đâm vào cổ cô. Chúa Giêsu, Ðấng cô hằng yêu quí suốt đời đã đến đón cô lên Thiên đàng. Từ đó có nhiều huyền thoại được thêu dệt để ca tụng lòng can đảm của thánh nữ.

Lễ kính nữ thánh Sáng cử hành vào mùa Vọng, mùa trông đợi Chúa Giêsu là Ánh sáng muôn dân. Nơi quê hương người Scandinavian có lệ mừng lễ rất hay: một thiếu nữ mặc áo trắng, khăn quàng vai đỏ tượng trưng máu tử đạo, cô cầm cành lá dừa, đầu đội triều thiên có nhiều nến sáng. Tại Thuỵ điển, người con gái nhỏ nhất trong nhà mặc như thánh nữ Luxia xưa, đầu đội khay đèn dẫn đầu đám rước đi quanh nhà. Sau đó cả nhà quây quần vui vẻ ca hát, ăn bánh ngọt và uống cà phê. Tại Hungary, người ta trồng lúa mì trong một cái nồi nhỏ . Gần lễ Giáng Sinh, những mầm non trong nồi xuất hiện, nói lên sự sống sinh ra từ sự chết, sau đó nồi lúa mì được đem tới máng cỏ tượng trưng Chúa Kitô trong Thánh Thể. (Nguồn: Dân Chúa)

*** “Bây giờ tôi không còn gì để hy sinh, Tôi dâng hiến bản thân tôi làm của lễ sống động cho Thiên Chúa tối cao.” (Trích Hạnh thánh Lucia.)

Bạn có gì để dâng hiến Chúa hôm nay?

Thiết nghĩ làm một hy sinh nhỏ với hết con tim cũng đủ làm cho Chúa vui lắm đó.

Xin thánh nữ Lucia cầu bầu cho chúng con.

Thánh Phanxicô Xavie

Thánh Phanxicô Xavie

Hôm nay 3/12 Giáo Hội mừng kính Thánh Phanxicô Xavie Linh mục dòng Tên truyền giáo Tây-ba-nha (1506-1552). Ngài được mệnh danh là Phaolô thế kỷ XVI. Mừng quan thầy đến những ai chọn thánh nhân làm quan thầy nhé.

Cha Vương

    1- Gia đình, quê quán: Phanxicô Xavier sinh ngày 7 tháng Tư năm 1506, tại Tây Ban Nha trong một gia đình quý tộc trong lãnh địa dòng Navarre . Cậu là em út của 6 anh chị lớn. Cha cậu là Juan de Jasso, cố vấn vua John III dòng Navarre. Khi Xavier lên 9 thì cha cậu chết. Lên 19 tuổi, Xavier đi học tại đại học Paris. Cậu lãnh Cử nhân văn chương. Tại đây anh chung phòng với Ignatiô Loyola . Ban đầu Phanxicô không thích Ignatiô, nhưng chính Ignatio nhận ra tài năng của Phanxicô: đó là con người nhiều tham vọng, có thể thành giáo sư giỏi, lãnh đạo tốt. Ignatio thay đổi cuộc đời Phanxicô khi nhắc lại lời Chúa Giêsu :” Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào có ích gì?” (Mt 16, 26). Trong một thời gian lâu, chàng chiến đấu với tư tưởng: chọn danh vọng thú vui ở đời, hay chọn hi sinh. Cuối cùng (năm 1540) nhóm 7 người liên kết lập Tu hội Chúa Giêsu (Society of Jesus, viết tắt là S.J)  để phục vụ giáo hội. Phanxicô thụ phong linh mục năm 1537, khi anh được 31 tuổi.

    2- Làm linh mục và đi truyền giáo tại Ấn, Nhật: Ignatiô làm bề trên Tu hội, ông cử 2 người đi truyền giáo bên Ấn độ. Một trong hai đã ngã bệnh nặng, Phanxicô được cử đi thay. Trong 5 tháng vượt biển, Phanxicô luôn say sóng nằm mê man. Năm 1542, tại thành Goa nước Ấn, Phanxicô học tiếng để có thể dạy họ về giáo lý Chúa Kitô. Ngài dạy trẻ em trước rồi đến người nghèo, người bệnh, người bận rộn công việc, người trong tù.  Ông sống với người nghèo, chia sẻ đồ ăn, lều ở như họ. Ngài chinh phục được cả ngàn người trở lại đạo Chúa. Ông viết thư cho bề trên Ignatiô:

            ”Từ khi đến đây, tôi chẳng ngừng nghỉ lúc nào. Tôi rảo khắp các làng, rửa tội cho nhiều trẻ em…Khi tôi đến các làng ấy, trẻ em không để cho tôi đọc kinh nguyện, ăn uống, nghỉ ngơi, nếu tôi chưa dạy cho chúng một kinh cầu nguyện. Vì thế tôi hiểu tại sao nước trời lại là của những người giống như chúng”.

            Một lần kia Phanxicô Xavier rửa tội cho một em nhỏ gần chết, con của một người Ấn Độ nghèo nàn.  Khi em nhỏ chết, thánh nhân liền bật khóc trong nỗi hân hoan với lời tạ ơn Chúa. Lấy làm lạ, người ta hỏi tại sao khi thân nhân em bé đau đớn khóc than thì ngài lại khóc vì vui quá như vậy.  Thánh nhân đáp:

– Nay tôi đã được đền đáp đủ cho mọi cuộc hành trình gian khổ  từ ngày tôi đến xứ này tới giờ.  Tôi đã gởi về  trời thêm một con trẻ để tôn vinh Chúa!

            Năm 1548, Phanxicô vượt biển qua nước Nhật. Người Nhật giúp ngài làm nhà thờ, ngài dạy đạo và Rửa tội nhiều người trong đám họ.

            Chúng ta biết được nhiều điều về người Nhật, nhờ những thư ngài viết về cho bề trên Ignatiô và anh em dòng. Ngài bận rộn, cô đơn, khó khăn. Trên tất cả, Phanxicô vui trong niềm vui tinh thần. Ngài thích cầu với Chúa lời này:” Xin ban cho con các linh hồn”.

    3- Chết ở bờ biển nước Tàu: Mộng của ngài là tới Trung hoa, nước lớn nhất, để rao giảng Tin mừng. Sau những năm vất vả ở Nhật. Năm 1552, trên đường qua Trung hoa, ngài bị bệnh, thuỷ thủ cho ngài lên hòn đảo gần đấy để ngài có thể thấy được Trung hoa. Một người đánh cá gặp thấy ngài nằm gần chết trên bờ biển, đem ngài về lều.

            Ngày 3 tháng 12 năm 1552, Phanxicô qua đời vì bệnh sốt rét lúc 46 tuổi. Ngài được chôn nơi đất lạ quê người, nhưng rồi Chúa thưởng công lớn cho ngài.  Phanxicô Xavier được ĐTC Gregoriô 15 nâng lên hiển thánh ngày 12 tháng 3 năm 1622, cùng lúc với Bề trên Ignatio Loyola. Giáo hội coi thánh Xavier như Bổn mạng các xứ truyền giáo. Nhiều quốc gia và trường học do các linh mục Dòng Tên điều khiển kính thánh Phanxicô như Bổn mạng của mình. (Nguồn: Dân Chúa)

       Cha Barreto viết về Thánh Phanxicô Xaviê như sau: “Chân bước đi trên đất, miệng nói chuyện trên trời… hình như lúc nào cũng mỉm cười, nhưng lại cầm trí và thanh thoát đến nỗi có thể nói không bao giờ ngài cười.”

    Nhờ lời chuyển cầu của Thánh Phanxicô Xaviê, xin cho miệng con luôn nói những chuyện trên trời. Amen.

Mời bạn suy niệm những câu danh ngôn của ngài nhé:

❦ Càng là bạn tốt của nhau chừng nào, anh em càng nói thẳng với nhau chừng nấy… (Thánh Phanxicô Xavier)

❦ Tất cả đau khổ phiền muộn là nguồn vui sướng cho tôi. (Thánh Phanxicô Xavier)

❦ Nếu bạn đang gặp nguy hiểm, nếu trái tim bạn đang bối rối, chạy đến Mẹ Maria! (Thánh Phanxicô Xavier)

Câu nào đánh động bạn nhất? Tại sao?

Thánh Anrê (Andrew) tử đạo

Thánh Anrê (Andrew) tử đạo

Chúc bình an! Hôm nay Giáo Hội mừng trọng thể lễ thánh Anrê (Andrew). Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thứ 3: 30/11/2021

Thánh Anrê là anh của Thánh Phêrô, và cả hai được Chúa Giêsu gọi cùng một lúc. “Khi Ðức Giêsu đi trên bờ biển Galilee, Ngài trông thấy hai anh em, ông Simon mà bây giờ gọi là Phêrô, và anh của ông là Anrê, đang quăng lưới xuống biển; họ là các ngư dân. Ngài nói với họ, ‘Hãy đến theo tôi, và tôi sẽ làm cho các anh trở thành kẻ lưới người.’ Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người” (Mt 4:18-20).

CHẾT VÌ TIN: Theo truyền thống hai (chứng minh Hy lạp là nơi nhà truyền giáo sống, nhất là miền Macadonia. Tại đây thánh nhân đổ máu đào làm chứng cho Thầy Chí Thánh.) tại Achaia, André chữa bệnh cho vợ quan toàn quyền Aegeates là bà Maximilla. Bà này khỏi bệnh tin theo Chúa. Việc trên gây căm phẫn cho quan. Sự việc trở nên tồi tệ hơn khi anh quan là Stratolles mời André chữa bệnh. Ông này trở thành tín hữu nhiệt thành. Không thể nhịn hơn được Aegeates ra lệnh bỏ tù André cho hả giận. Vợ và anh quan cảnh cáo ông giết người vô tội, người của Thiên Chúa. Thâm tâm quan Aegeates muốn tha và năn nỉ André bỏ Chúa để cứu mạng sống; trái lại André khuyên quan nên nhận đức tin để Chúa cứu linh hồn.

    Biết thầy gặp khổ nạn, anh quan là Stratolles dùng uy tín của mình giúp André vượt ngục trốn đi. André đã không đi còn khuyên Stratolles đừng làm trái ý quan. Trong tù André vẫn tiếp tục rao giảng và số người tin theo ngày một nhiều. Tin này đến tai quan và quan ra lệnh giết André cho khuất mắt. Ngày xử án kề bên André xin cho được chết giống như Thầy Chí Thánh Giêsu. Lời yêu cầu được quan chấp thuận. André vui mừng hát lên bài ca ca tụng thánh giá. Chúa Kitô dùng chính cái chết mình thánh hiến Thập giá châu báu.

/ Thập giá được tay chân Chúa trang điểm thay nữ trang.

/ Tôi đến với thánh giá với tâm tư hoan lạc, thanh thản.

/ Thập giá hãy giang tay đón nhận tấm thân này.

/ Thánh giá trở nên đẹp, tốt lành nhờ tứ chi Chúa Kitô.

/ Ta mến chuộng, chờ đợi, ước mong và tìm kiếm ngươi.

/ Ta tìm được ngươi và linh hồn ta trông đợi sẵn sàng.

/ Hãy giang tay đón nhận thân này,

/ nâng ta lên khỏi kẻ phàm nhân và dâng Thầy Chí Thánh,

/ Đấng sẽ cứu chuộc ta.

    Bài ca tụng thập giá thứ hai có cùng tâm tình ngợi ca, hiến dâng. André hát xong gọi các kẻ hành hình tiến lại thi hành lệnh quan. Quân lính tỏ vẻ ái ngại vì lòng ngưỡng mộ và quý mến. Họ đứng xa tỏ vẻ tiếc thương André giục họ thi hành lệnh quan.

   Theo yêu cầu của André họ không đóng đinh nhưng cột chân tay ngài vào hai cột chéo hình chũ X. Từ ngày đó thập giá này có tên là thập giá André. Để kéo dài cái chết trong đau khổ, quan ra lệnh cho chổng ngược đầu xuống đất. Toàn quyền Aegeates muốn André là nạn nhân của chó hoang chắc chắn sẽ xé xác. André đầu dộng đất vẫn tươi cười và không ngừng giảng đạo. Hai ngày sau ông vẫn tỉnh táo, đầu óc vẫn minh mẫn và lời thuyết giảng vẫn mạch lạc. André đói khát nhưng những người đứng đó được cho ăn no nê Lời Chúa. Kẻ mến ông kéo nhau đến phủ quan làm áp lực xin tha cho người vô tội, người của Thiên Chúa. Aegeates rời phủ, ra pháp trường chứng kiến tận mắt. Ông đến gần thập giá cởi trói cho André nhưng André khẩn van đừng tha vì từ lâu ông ước ao được vinh phúc tử đạo, sống muôn đời bên Chúa. Lời xin tha thiết mong được chết trên giường thập giá được chấp thuận. Vợ và anh quan là Maximilla và Stratola nhận xác an táng. Không biết chính xác năm André qua đời nhưng các học giả đồng ý vào cuối tháng 11 năm 69. (Lm Vũ đình Tường, VietCatholic News, 25/11/2006)

***Quả thật đức tin của mình còn kém cỏi quá phải không bạn? Tuyên xưng đức tin không thì chưa đủ, bạn phải sống đức tin nữa, để sống đức tin trọn vẹn đôi khi bạn phải chết cho đức tin.

Thánh Cecilia

Thánh Cecilia

Mến chào bình an! Hôm nay 22/11 Giáo Hội mừng kính Thánh Nữ Cecilia, đồng trinh tử đạo, bổn mạng của những ai yêu thích nhạc. Mừng Bổn Mạng đến những ai chọn Ngài làm quan thầy nhé!

Cha Vương.

Trong thành Roma có một thiếu nữ đồng trinh rất xinh đẹp. Cha mẹ nàng gả cho một thanh niên con nhà giàu có danh vọng tên là Valerian. Dưới bộ áo quần xinh đẹp, nàng mang một bộ áo gai ngứa xót. Nàng thường ăn chay cầu nguyện xin các đấng thánh, các thiên thần, các thánh đồng trinh giữ gìn nàng được luôn trinh khiết.

Sau lễ cưới, nàng nói với chồng: “Em sẻ kể cho anh một bí mật nếu anh thề là không kể lại với ai.” Sau khi chồng thề hứa nàng nói tiếp: “Có một thiên thần gìn giữ em không cho phép ai được đụng tới người em.” Chồng nàng nói:”Nếu đúng như vậy thì em cho anh thấy thiên thần đó đi!” “Ðiều đó chỉ có thể xẩy ra nếu anh cũng tin vào Thiên Chúa và chịu phép rửa tội.”

Nàng đã nhờ Ðức Giáo Hoàng Urban rửa tội cho chồng và khi người chồng trở về nhà thì thấy vợ đang cầu kinh trong phòng và bên cạnh nàng có một thiên thần đang đứng, cánh rực như lửa, tay đang cầm hai vương niệm một bằng hoa hồng và một bằng hoa huệ sau đó đội lên đầu cho hai vợ chồng Cecilia và Valerian rồi biến mất. Một lúc sau Tibertius, em của Valerian bước vào ngửi thấy mùi hoa thơm dịu dàng và những bông hoa đẹp tuyệt vời, lấy làm lạ làm sao có thể có hoa đó trong mùa này.

Sau khi được nghe kể lại câu chuyện về vương niệm bằng hoa thì Tibertius xin được chịu phép rửa tội. Trong thời kỳ này các tín hữu bị bắt bớ và bị hành quyết rất dã man, hai anh em đã đi thâu lượm hài cốt các thánh tử đạo đem về chôn cất. Quan quân tìm bắt hai anh em và ra lệnh phải dâng hương quỳ lạy thần của họ nhưng hai anh em quyết liệt chối từ, nên chúng đã dùng gươm mà đâm chết các ngài.

Trong lúc đó thì Thánh Cecilia không ngừng rao giảng Tin Mừng, và hàng ngàn người đã xin gia nhập đạo Chúa. Cuối cùng thì thánh nhân cũng bị bắt và nhốt trong phòng tắm hơi nóng cho chết ngột, nhưng thánh nhân đã không chết, nên quan tổng trấn cho người đến chặt đầu. Tên đao phủ đã chặt đến ba nhát nhưng đầu vẫn chưa lìa khỏi cổ. Hoảng sợ hắn liền bỏ đi, và thánh nhân đã sống như vậy trong ba ngày. Dân chúng đem khăn vải đến tẩm máu của thánh nhân để tôn kính, trong lúc đó thánh nhân vẩn không ngừng rao giảng Lời Chúa cho họ.

Câu chuyện về thánh Cecilia đẹp như một bài tình ca cao thượng nên các nhạc sĩ chọn Cecilia làm bổn mạng và được trình bày như môt thiếu nữ xinh đẹp ngồi bên chiếc đàn thụ cầm. (Phó Tế JB Huỳnh Mai Trác)

Lạy thánh nữ Cecilia, xin cầu thay nguyện giúp cho chúng con để mọi người chúng con được mạnh mẽ, can đảm làm chứng cho Chúa như thánh nhân đã chứng minh cho mọi người.

Thưa Thầy, Thầy đi đâu

Giáo xứ Cần Giờ – DCCT

Thưa Thầy, Thầy đi đâu

Cách đây chừng 20 năm, người ta đã dựa vào cốt truyện trong tác phẩm “Quo vadis?” (Thầy đi đâu?) của văn hào Công giáo Ba Lan Sienkiewez (1846-1916), giải Nobel 1905 để đóng một cuốn phim nổi tiếng khắp thế giới cũng mang tựa đề ấy.

Từ đâu có cốt truyện ấy ? Ai đã nói tiếng Thầy đi đâu ?

Theo truyền khẩu giáo dân thời Hội Thánh sơ khai người ta biết được rằng, vào các thế kỷ I-IV, các hoàng đế Roma đã ra công bách hại đạo Chúa hết sức hung hãn: nào là đâm chém, nào là đóng đinh thập tự, nào là cho thú dữ ăn thịt ở nơi hí trường Colisê để nhân dân thỏa thích thưởng ngoạn, nào là buộc vào cột trụ, tẩm dầu rồi đến đêm châm lửa đốt cháy vùn vụt như bó đuốc. Thật muôn phần khủng khiếp !

Phêrô, thủ lãnh của Hội Thánh, lúc ấy cũng bị truy nã gắt gao theo lệnh của hoàng đế Nêron. Vì thế người có ý định tạm lẩn trốn ra khỏi thành Roma một thời gian, cho qua cơn sóng dữ. Một đêm nọ, người ta trông thấy một bóng dáng đàn ông đang hồi hộp lần bước trên con đường Appia. Lúc gần đến cửa Capena, bỗng nhiên ông ta đứng khựng lại ! Từ xa một người đang tiến thẳng về phía ông. Ông dụi mắt rồi quá đỗi vui mừng, Phêrô ôm chầm lấy người ấy và hỏi:

– “Thưa Thầy, Thầy đi đâu ?

Thì ra người ấy là Chúa Giêsu, tội nhân bị xử mấy mươi năm về trước. Đáp lại câu hỏi của Phêrô, Người ôn tồn nói:

– Phêrô vì con sợ gian khổ, con định đào tẩu, nên Thầy phải vào thành Roma để chết thay cho con”.

Nói xong Chúa Giêsu biến mất… Phêrô hiểu ý Thầy bèn quay gót trở lại thành Roma, chấp nhận mọi gian khổ, củng cố đức tin của anh em giáo hữu, xông pha giữa muôn nghìn nguy hiểm cho đến năm 67 thì bị bắt và bị tống giam ở nhà ngục Tullianum. Theo lưu truyền, Phêrô đã cảm hoá được hai người lính canh ngục tên là Processô và Martinian, cả hai đều được rửa tội và được tử vì đạo. Rồi sau đó, thánh nhân cũng được diễm phúc đi lại con đường thập giá của Thầy, không phải đường lên Núi Sọ ở Giêrusalem mà là đường đến hí trường Caligula, trên đồi Vatican. Nhưng khi đến nơi, vì cảm thấy mình không xứng đáng được chết như Thầy, nên ngài xin phép cho được đóng đinh ngược, đầu chúi xuống đất.

Để kỷ niệm nơi Chúa hiện ra cho Phêrô, giáo hữu đã xây cất ngay tại chỗ đó một nhà thờ mang tên: “Quo vadis, Domine?”

May be a meme of 2 people and text that says 'Thưa thầy, Thầy đi đâu? ałamy zlamy alamy'

Thánh Lêô I – Giáo Hoàng thứ 45

Nguyện xin sự bình an của Thiên Chúa luôn ở cùng bạn và gia đình. Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Lêo Cả, Giáo hoàng, Tiến sĩ Hội Thánh (390-461). Mừng quan thầy đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Sinh năm 400 tại Tuscany, nước Ý. Ngài là đại phó tế và phụ tá của giáo đoàn Roma, một chức vụ quan trọng đại diện Đức Thánh Cha trong các công việc hành chánh… Ðược chọn làm Giáo Hoàng thứ 45 kế vị Thánh Phêrô vào ngày 29 tháng 9 năm 440, ngài làm việc không ngừng, hướng dẫn các giám mục dưới quyền như “những người ngang hàng về quyền bính cũng như sự yếu đuối con người.”

Thánh Lêô I nổi tiếng là một trong các giáo hoàng giỏi về quản trị trong thời Giáo Hội xưa. Sự nghiệp của ngài được chia ra làm bốn lãnh vực chính, chứng tỏ ngài có cái nhìn chính xác về trách nhiệm tổng quát của một giáo hoàng đối với đàn chiên của Ðức Kitô. Thứ nhất, ngài kiên trì chống với bè rối Pelagian, Manichae và các bè rối khác, ngoài ra ngài cũng áp đặt các quy luật để duy trì sự chân thực của đức tin Kitô Giáo. Lãnh vực thứ hai mà ngài lưu tâm là sự mâu thuẫn với Giáo Hội Ðông Phương về bản tính của Ðức Kitô mà ngài đã giải quyết bằng thư từ. Thứ ba, với đức tin mạnh mẽ, ngài còn lãnh đạo Rôma chống lại sự tấn công của quân man rợ, xứng đáng với vai trò bảo vệ hòa bình.

Ngài triệu tập Công Đồng Chung năm 541 tại Chalcedone với sự tham dự của hơn 630 Giám Mục để công bố về giáo lý song tính của Chúa Kitô [Đức Tin về mầu nhiệm Nhập Thể]

Sự  nghiệp của Thánh Lêô I luôn được đề cao trong ba lãnh vực này. Ngoài ra, sự thánh thiện của ngài dựa trên nền tảng tinh thần sâu xa mà qua đó ngài thi hành công tác mục vụ cho đoàn chiên là lãnh vực thứ tư mà ngài hằng lưu tâm. Ngài nổi tiếng về những bài giảng thật sâu xắc. Là một khí cụ mời gọi mọi người nên thánh, được thấm nhuần Phúc Âm và luôn ý thức đến Giáo Hội, Thánh Lêô I đã đáp ứng được những nhu cầu tinh thần của tín hữu thời ấy.

Ngài từ trần ngày 11 tháng 4 năm 461 tại Roma, để lại nhiều văn bản và thư từ có giá trị lịch sử. Cùng với Đức Gregory I, ngài được lịch sử gọi là Giáo Hoàng Cả vì có công lớn trong việc giữ gìn sự hợp nhất trong Giáo Hội. Đức Giáo Hoàng Benedictus XIV đã tuyên xưng Thánh Giáo Hoàng Leo I là Tiến Sĩ Hội Thánh ngày 15 tháng 10 năm 1754. (Ns Người Tín Hữu online)

Mời bạn suy niệm những câu nói của ngài sau đây để sống xứng đáng là con của Chúa nhé:

❦  Chúa đã đặt gánh nặng cho con, xin Chúa gánh với con, xin Chúa hãy là người hướng dẫn và nâng đỡ con.

❦  Trên bia mộ của Ngài: “Tôi canh chừng kẻo lang sói luôn rình mò phá phách đoàn chiên”.

❦  Các con được thấm nhập vào Chúa.

❦ Trong tâm hồn mỗi tín hữu còn có cái trên trời mà người ta thán phục”.

❦ Nước Trời không đến với những người ngủ mê.

Câu nào đánh động bạn nhất?

Thánh Martinô Porres

Thánh Martinô Porres

Mến chào, hôm nay 3/11 Giáo hội mừng kính Thánh Martinô Porres—1579-1639 (St. Martin de Porres) Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy. 

Cha Vương

Thư 3: 03/11/2020

  Thánh Martin sinh ngày 09 tháng 12 năm 1579 tại Peru, Lima. Ngài là đứa con bất hợp pháp của một nhà quý tộc Tây Ban Nha ở Lima, Peru và một phụ nữ Panama. Martin giống mẹ nên có nước da ngăm ngăm, và điều này làm cha ngài khó chịu, do đó mãi tám năm sau ông mới chịu nhận Martin là con.

Sau khi sinh đứa thứ hai, ông bỏ rơi gia đình. Martin lớn lên trong cảnh nghèo nàn, thuộc giai cấp bần cùng của xã hội Lima. Lúc 12 tuổi, mẹ ngài cho theo học nghề cắt tóc và giải phẫu, nên ngoài việc cắt tóc, ngài còn biết cách lấy máu (sự chữa trị rất phổ thông thời ấy), biết chăm sóc vết thương và biết chích thuốc.

Sau vài năm hành nghề, Martin xin vào dòng Ða Minh làm “người giúp việc,” vì ngài cảm thấy không xứng đáng để làm thầy dòng. Sau chín năm, gương mẫu đời sống cầu nguyện và hãm mình, bác ái và khiêm nhường của ngài khiến cộng đoàn phải yêu cầu ngài khấn trọn.

Ngài cầu nguyện hằng đêm và sống khắc khổ; công việc hàng ngày của ngài là chăm sóc bệnh nhân và người nghèo. Ngài coi mọi người như nhau, bất kể mầu da, sắc tộc hay địa vị xã hội. Ngài là cột trụ trong việc thành lập cô nhi viện, chăm sóc người nô lệ từ Phi Châu và trông coi việc bố thí của nhà dòng. Ngài trở nên nổi tiếng trong nhà dòng cũng như ngoài thành phố, dù đó là vấn đề “chăn màn, quần áo, đèn nến, bánh kẹo, phép lạ hay lời cầu nguyện!” Khi nhà dòng bị nợ quá nhiều, ngài nói với cha bề trên, “Con chỉ là một đứa con lai nghèo hèn. Cha hãy bán con đi. Con là sở hữu của nhà dòng. Hãy bán con đi để trả nợ.”

     Ngoài những công việc hàng ngày như nấu ăn, giặt giũ và chăm sóc bệnh nhân, Thiên Chúa còn ban cho ngài những ơn sủng đặc biệt: được xuất thần bay bổng trên không, căn phòng rực sáng khi ngài cầu nguyện, ơn lưỡng tại (ở hai nơi cùng một lúc), ơn hiểu biết cách lạ lùng, ơn chữa bệnh và chế ngự các thú vật cách tài tình. Lòng bác ái của ngài còn nới rộng đến các thú vật ở ngoài đồng hay chó mèo trong phố và ngay cả chuột bọ trong bếp.

      Nhiều tu sĩ thời ấy coi ngài như vị linh hướng, nhưng ngài vẫn tự coi mình là “người nô lệ nghèo hèn.” Ngài còn là bạn của Thánh Rosa ở Lima. Ngài qua đời ngày 3 tháng 11 năm 1639. Tất cả dân chúng thành phố Lima, từ vị Phó vương đến những người ăn xin đều sững sốt và buồn bã khi nghe tin ngài từ trần. 

     Ngài được Đức Giáo Hoàng Pius IX tôn phong Chân Phúc năm 1873. Thủ tục phong thánh rất chậm chạp, mãi cho đến ngày 19 tháng 5 năm 1962 Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII mới tuyên phong thầy Martin lên hàng hiển thánh và là vị thánh da đen đầu tiên của Châu Mỹ, quan thầy của những người tranh đấu cho công bình xã hội.

     Lạy Thánh Martino rất khiêm nhường, lòng thương yêu nồng nhiệt của Người chẳng những che chở các anh em túng nghèo, mà lại cả những thú vật ngoài đồng, thật là gương huy hoàng của đức bác ái, chúng tôi kính mừng và cầu khấn Người. Từ tòa cao Người ngự, xin đoái thương nhậm lời anh em túng nghèo kêu xin, để chúng tôi được bắt chước nhân đức Người mà yên vui trong địa vị Chúa đã đặt, và được mạnh mẽ, can đảm vác Thánh Giá theo chân Chúa Cứu Thế và Mẹ Sầu Bi, sau hết được về nước Thiên Ðàng. Vì công nghiệp Chúa Giêsu Kitô là Chúa chúng tôi – Amen.

(Kinh Thánh Martinô Porres)

Thánh Maria Faustina sứ điệp của lòng thương xót Chúa

Thánh Maria Faustina sứ điệp của lòng thương xót Chúa

Hôm nay 05/10, Giáo hội mừng kính Thánh Maria Faustina sứ điệp của lòng thương xót Chúa, ước mong bạn cảm nhận được tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Mừng quan thầy đến những ai chọn ngài làm bổn mạng nhé.

Cha Vương

***

Thánh Nữ Faustina Kowalska (05/10)

Khi vị thánh nữ này cất tiếng khóc chào đời tại Ba Lan ngày 25 tháng Tám năm 1905, thì song thân thánh nữ đã đặt tên cho ngài là Helen. Trong cuộc đời ngắn ngủi tại thế, Helen đã thực hiện một sứ vụ quan trọng là dạy cho thế giới biết về Lòng Thương Xót của Đức Chúa Giêsu. Ngay từ lúc lên 7, Helen đã muốn sống cuộc đời tận hiến cho Thiên Chúa như một nữ tu. Khi được 25 tuổi, Helen vào tu trong dòng Chị Em Con Đức Mẹ Thương Xót, và nhận tên là sơ Maria Faustina.

     Công việc của sơ Maria Faustina thật giản dị. Sơ nấu ăn, làm vườn và giữ cửa cho tu viện. Chỉ có sự tốt bụng, trầm lặng và hồi tâm là đáng lưu ý. Và ít có người biết được những chiều sâu đích thực về đời sống tâm linh của sơ Faustina. Thiên Chúa đã chúc lành cho sơ Faustina Maria bằng nhiều ân sủng đặc biệt, kể cả ơn thị kiến, ơn tiên tri và ơn được nhận năm Dấu Thánh cách vô hình.

     Trong một thị kiến mà sơ Maria Faustina nhận được, Chúa Giêsu đã hiện ra trong y phục màu trắng. Người giơ cao một tay để chúc lành và tay kia thì chạm vào Thánh Tâm Người. Có hai tia sáng phát ra từ Thánh Tâm Chúa Giêsu, một màu đỏ và một màu nhạt. Tia sáng đỏ tượng trưng cho Máu cứu chuộc của Chúa Kitô, còn tia xanh nhạt biểu trưng nước thanh tẩy trong bí tích Rửa tội. Chúa Giêsu nói: “Con hãy cho vẽ lại bức ảnh như con xem thấy Cha, kèm theo dòng chữ: Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa!” Chúa Giêsu đã nói với sơ Maria Faustina rằng Chúa nhật sau lễ Chúa Phục Sinh sẽ được gọi là Chúa nhật kính Lòng Thương Xót.

      Sơ Maria Faustina đã viết nhật ký, chép lại mọi điều Chúa Giêsu muốn cho thế giới biết về Lòng Thương Xót của Người. Trong đó, Maria Faustina đã viết những lời cầu nguyện thật dễ thương, biểu lộ mối tương quan rất mực thân thiết đối với Đức Chúa Giêsu. Và Đức Chúa Giêsu nói với Maria Faustina rằng thánh nữ chính là thư ký nhỏ của Người. Chính công việc đặc biệt của thánh nữ Maria Faustina đã khích lệ nhiều người tin tưởng vào Lòng Thương Xót vô hạn lượng của Thiên Chúa.

     Chúa Giêsu hứa ban ơn tha thứ và ân sủng dư tràn cho bất cứ ai tôn sùng lễ kính Lòng Thương Xót Chúa. Tận hiến cho Lòng Thương Xót Chúa bao gồm tin tưởng vào lòng nhân hậu Chúa, yêu thương tha nhân, năng lãnh nhận bí tích Hòa giải để luôn ở trong tình trạng có ân sủng và rước lễ ngày Chúa nhật kính Lòng Thương Xót Chúa.

     Chỉ sau 13 năm sống trong bậc tu trì, sơ Maria Faustina Kowalska đã về trời vào ngày mùng 5 tháng Mười năm 1938 vì bệnh lao phổi, vừa tròn 33 tuổi.

     Chúa Giêsu đã nói với thánh nữ Maria Faustina Kowalska: “Cha mong muốn con hãy luôn bày tỏ lòng thương xót ra khắp mọi nơi. Con không thể tự biện minh gì về điều này!” Phương thế tốt nhất để chứng tỏ chúng ta tin cậy vào Lòng Thương Xót của Đức Chúa Giêsu là biết tỏ bày lòng thương xót và luôn tha thứ cho những người xúc phạm đến chúng ta. Chúng ta có sẵn lòng cùng nhau thực hiện như vậy không? Vậy hôm nay mời bạn dành thời gian lần chuỗi Lòng Thương Xót Chúa để đền tội mình và tội lỗi của toàn thế giới. Sau đây là câu nói của ngài:

❦ Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh! Bao nhiêu lần hít thở, bao nhiêu lần nhịp tim đập, bao nhiêu lần dòng máu luân chuyển trong cơ thể con là bấy nhiêu ngàn lần con muốn tôn vinh Lòng Thương Xót Chúa. (Thánh Faustina)

❦ Chúa Thánh Thần không nói với một linh hồn chia trí và lắm lời. Chúa Thánh Thần nói qua những soi động lặng lẽ của người với một linh hồn tịnh tâm, một linh hồn biết giữ thinh lặng. (Thánh Faustina)

Câu nào đánh động bạn nhất?