Thánh Antôn Padua (1195-1231)

Chúc bình an đến bạn và gia đình nhé, hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh An-tôn, mừng bổn mạng đến những ai nhận thánh Antôn làm quan thầy nhé.

Cha Vương 

Thứ 3: 13/06/2023

Thánh Antôn Padua (1195-1231) người Bồ Đào Nha và là tu sĩ Dòng Phanxicô. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu có ở Lisboa, Bồ Đào Nha nhưng mất tại Padua, Ý. Với kiến thức chuyên sâu về Kinh Thánh, ông đã rao giảng mạnh mẽ về đức tin Kitô giáo cho người khác, chính vì thế, ông được phong thánh rất sớm sau khi qua đời và được Giáo hội Công giáo Rôma phong làm tiến sĩ Hội thánh vào ngày 16 tháng 1 năm 1946. Antôn là một người làm việc không biết mệt mỏi. Ông thường được nhiều người ta gán cho tên “Hòm Bia giao ước” hoặc “Cái búa của bọn lạc giáo”.  Người ta thường gọi thánh Antôn Padua là “ông thánh hay làm phép lạ”. Tuy ngay lúc sinh thời Ngài đã làm rất nhiều phép lạ, nhưng Ngài một mực hạ mình khiêm nhu. Chính sự khiêm nhượng cùng với lòng mến Chúa yêu Ðức Mẹ say mê và thương người tha thiết của Ngài đã làm nên nhiều phép lạ…

Tại thành Tulu, nước Pháp, thầy Antôn tranh luận với nhóm rối đạo về mầu nhiệm Chúa Giêsu ngự thật trong Thánh Thể. Sau khi nghe thầy trình bày những luận cứ vững vàng, thì một người rối đạo nói:

– “Đã hay lời Chúa Giêsu thì rõ ràng lắm, song nếu con mắt tôi không tỏ tường, thì tôi không tin”.

Thầy Antôn liền hỏi:

– Vậy anh muốn tôi làm phép lạ nào?

– Tôi có một con ngựa. Ngày thứ bốn tôi sẽ dắt ra đây cùng một bó cỏ non. Còn thầy, thầy sẽ đưa Thánh Thể ra trước mặt nó. Nếu nó bỏ cỏ không ăn mà quỳ lạy Thánh Thể, thì tôi sẽ tin có Chúa Giêsu ngự thật trong đó.

Thầy Antôn nhận cuộc, rồi quay về tu viện ăn chay, cầu nguyện ba ngày ba đêm. Đến ngày hẹn, từ sáng sớm, dân chúng đã tuôn đến đầy chợ. Ông chủ dắt ngựa đi trước, đầy tớ đội cỏ theo sau. Đồng thời, thầy Antôn cũng kiệu Mình Thánh Chúa đến và nói lớn: “Hỡi con vật vô tri, nhân danh Chúa Giêsu đã dựng nên mi, và đang ngự trước mặt mi, ta truyền cho mi phải quỳ gối thờ lạy Chúa, để thiên hạ biết rằng vạn vật trên trời, dưới đất phải thờ lạy Ngài”.

Đang khi thầy nói, thì đầy tớ vâng lời chủ vội đem sọt cỏ đặt ngay trước mõm ngựa, nhưng nó chẳng thèm để ý tới: chỉ vội vàng quỳ hai chân trước xuống thờ lạy Chúa; dù tên đầy tớ ra sức ấn cỏ vào mồm, nhưng ngựa vẫn không thèm ăn, cứ quỳ yên cho đến khi thầy Antôn kiệu Mình Thánh Chúa về mới đứng lên ăn. Phần người rối đạo nói trên cùng cả dòng họ thì đã trở lại đạo thật và sống đạo nên gương. Ông lại còn bỏ tiền của xây một đền thờ tôn kính thánh Phêrô tại thành Tulu, đến nay hãy còn.

Lạy Chúa, vì lời cầu bầu của thánh Antôn, xin nâng đỡ chúng con, vì chúng con yếu đuối và bé mọn, trong cơn đau đớn phần hồn và xác,… (thinh lặng nói lên ý cầu xin) xin giúp chúng con trung thành với Chúa đến cùng. Lạy thánh Antôn hay làm phép lạ, cầu cho chúng con.  Lạy Thánh Antôn, xin cầu bầu cho chúng con.

From: Đỗ Dzũng

Theo Chúa -tinmung.net 

THÁNH ANTÔN PADUA, LINH MỤC – TIẾN SĨ HỘI THÁNH (1195 – 1231)

  1. CUỘC ĐỜI

Hôm nay Giáo hội cho chúng ta mừng lễ thánh Antôn Padua, một vị thánh rất gần gũi và quen thuộc với cuộc sống của chúng ta.  Ngài sinh năm 1195 có lẽ gần Lisbonne, với tên gọi là Fernandô.  Cha Ngài là hiệp sĩ và viên chức tại triều đình hoàng đế Alphongsô thứ II, vua nước Bồ Đào Nha.  Fernadô được gởi đi học trường nhà thờ Chánh tòa tại Lisbonne.  Nhưng vào tuổi 15, Ngài gia nhập dòng thánh Augustinô.

Sau hai năm tại nhà dòng, Ngài xin được chuyển về Coimbra vì bạn bè đến thăm quá đông.  Tu viện Coimbra có một trường dạy Thánh Kinh rất danh tiếng.  Tám năm trời Fernadô nỗ lực học hỏi và đã trở thành học giả sâu sắc về thần học và Kinh Thánh.

  1. Biến Cố Thay Đổi

Ngày kia với nhiệm vụ tiếp khách, Ngài săn sóc cho 5 tu sĩ Phanxicô đang trên đường tới Moroccô.  Về sau họ bị tàn sát dã man và thi hài họ được đưa về Coimbra để tổ chức quốc táng.  Fernadô mong ước hiến đời mình cho cánh đồng truyền giáo xa xăm.

Nôn nóng với ước vọng mới, Fernadô phải tiến một bước bất thường đầy đau khổ là rời bỏ dòng Augustinô để nhập dòng Phanxicô.  Nhà dòng đặt tên Ngài là Antôn và chấp thuận cho Ngài tới Moroccô.  Nhưng vinh dự tử đạo không được dành riêng cho Ngài.  Ngài ngã bệnh và phải trở về nhà, Trên đường về, con tàu bị bão thổi bạt tới Messina ở Sicily.  Thế là Antôn nhập đoàn với anh em Phanxicô nước Ý.  Có lẽ thánh nhân có mặt trong cuộc họp ở Assisi năm 1221, và gặp thánh Phanxicô ở đây.  Ít lâu sau Ngài được gởi tới viện tế bần ở Forli gần Emilia để làm những công việc hèn hạ.

  1. Biến cố 2

Dầu vậy một biến cố bất ngờ khiến người ta khám phá ra khả năng đặc biệt của thánh nhân.  Trong một lễ nghi phong chức ở Forli nhà giảng thuyết đặc biệt vắng mặt.  Không ai dám thay thế.  Cha Giám tỉnh truyền cho Antôn lên tòa giảng.  Antôn làm cho khán giả kinh ngạc.  Người ta thấy ngay trước được rằng: Ngài là một nhà giảng thuyết bậc nhất.  Hậu quả tức thời Ngài được chỉ định làm nhà giảng thuyết trong cả Italia.  Đây là một thời mà Giáo hội cần đến những nhà giảng thuyết hơn bao giờ hết để chống lại các lạc thuyết.

Kể từ đó nhà tế bần Forli không còn gặp lại Antôn nữa.  Ngài du hành không ngừng bước từ miền nam nước Ý tới miền Bắc nước Pháp, hiến trọn thời gian và năng lực cho việc giảng dạy.  Sự đáp ứng của dân chúng đã khích lệ Ngài nhiều, các nhà thờ không đủ chỗ cho người đến nghe.  Người ta phải làm bục cho Ngài đứng ngoài cửa.  Nhưng rồi đường phố và quảng trường chật hẹp quá và người ta lại phải mang bục ra khỏi thành phố tới những cánh đồng hay sườn đồi, nơi có thể dung nạp những 20, 30, 40 ngàn người đến nghe Ngài . Nghe tin Ngài đến đâu, thì nơi đó tiệm buôn đóng cửa, chợ hoãn phiên họp, tòa ngưng xử án.  Suốt đêm dân chúng từ khắp hướng đốt đuốc tụ về.  Dường như bất cứ ai một lần chịu ảnh hưởng của thánh Antôn thì không có gì chống lại được sự lôi cuốn bởi các bài giảng của Ngài.

  1. Và Ước Vọng

Ngài thường mạnh mẽ chống lại sự yếu đuối của hàng tu sĩ qua những tội nổi bật trong xã hội đương thời như: tính tham lam, nếp sống xa hoa, sự độc đoán của họ.  Đây là một giai thoại điển hình: khi Ngài được mời để giảng ở hội đồng họp tại Bourges, dưới sự chủ tọa của Tổng Giám mục Simon de Sully.  Với những lời mở đầu “Tibi loquor cornute” (Tôi xin thưa cùng Ngài đang mang mũ Giám mục trên đầu), thánh nhân tố giác vị Giám mục mới, làm mọi thính giả phải kinh ngạc.

Mùa Chay cuối cùng thánh Antôn giảng ở Padua.  Và người ta còn nhớ mãi về sau nhiệt tình mà thánh nhân đã khơi dậy.  Dân địa phương đã không thể nào tìm ra thức ăn lẫn chỗ ở cho đoàn người đông đảo kéo tới.  Nhưng sau mùa chay này, thánh nhân đã kiệt sức.  Ngài xin các bạn đồng hành đưa về nhà thờ Đức Maria ở Padua để khỏi làm phiền cho chủ nhà trọ.  Không nói được nữa.  Ngài dừng chân ở nhà dòng Đức Mẹ người nghèo ở Arcella.  Tại đây, người ta vực Ngài ngồi dậy và giúp Ngài thở.  Ngài bắt đầu hát Thánh Thi Tạ ơn và qua đời giữa tiếng ca ngày 13 tháng 6 năm 1231. (Internet)

  1. SỰ NGHIỆP

Cuộc đời của thánh Antôn là cuộc đời đẹp lòng Chúa.  Chính vì thế mà Chúa đã thưởng công cho ngài, cho ngài làm nhiều phép lạ.  Các phép lạ do lời ngài cầu thay nguyện giúp rất nhiều.  Các phép lạ nổi tiếng nhất được minh họa trên nhiều ảnh tượng: các bích họa, các phù điêu trên tường của Titien ở Padoua, các tác phẩm Perugin, của Corrège, Murillo, Donatello, Van Dyck… thánh Antôn được minh họa lần lượt bằng hình ảnh ngài cầm quyển sách, một ngọn lửa, một hoa huệ tươi nở, bồng Hài Nhi Giêsu, hay đang rao giảng cho các đàn cá..  Người ta cầu khẩn Antôn Padua để được tìm thấy các đồ vật bị lạc mất..  Bản thân tôi cũng đã nhiều lần cầu nguyện với ngài xin ngài giúp tôi tìm thấy những gì tôi đánh mất và đã được nhậm lời.

Phép lạ người ta hay nhắc đến nhất.  Đó là phép lạ về Bí tích Thánh Thể tại Bourges.  Đây là phép lạ lừng danh nhất về một con lừa thờ lạy Bí tích cực trọng.  Hôm đó ngài gặp một người Do thái không tin phép Bí tích Mình Thánh.  Người này tỏ ra thách thức trước mặt thánh Antôn.

Thánh nhân nói:

– Nếu con lừa ông cưỡi mà quỳ xuống và thờ lạy Chúa ẩn mình dưới hình bánh thì ông có tin không?  Người Do thái nhận lời thách thức.  Hai ngày ông ta không cho lừa ăn gì.  Ông để nó nhịn đói.  Sau đó ông dẫn tới chỗ họp chợ, giữa một bên là lúa mạch và bên kia thánh Antôn kiệu Mình Thánh Chúa đi qua.  Con vật quên đi cơn đói của mình, quay sang thờ lạy Chúa.

Xin được kết thúc bằng một câu chuyện vui.

Một bà mẹ già đau răng.  Bà đã làm tuần chín ngày để kính thánh Antôn, vì người ta nói lằng: Thánh nhân “chuyên trách” về bệnh này.

Ngày cuối của tuần chín ngày, bà vẫn còn đau.  Lúc đó một vị linh mục đến thăm bà.

– Xin cha nói cho con hay, có phải con lầm không?  Có phải thánh Antôn chuyên trách bệnh đau răng không?

– Thưa bà, hãy nghe tôi: Đây là địa chỉ của một nha sĩ.  Hãy đi tìm bà ta và nói là tôi giới thiệu đến và bà ta sẽ làm không công cho bà.

– Trời đất ơi!  Một ông linh mục vô thần!

Kể ra cũng đau lòng – thánh Antôn tự nói – để nhậm lời cầu của bà, chính ta đã gởi đến cho bà vị linh mục này.

Không phải lúc nào Chúa cũng phải can thiệp một cách trực tiếp, nhưng Người có nhiều phương cách khác nhau để thể hiện ý muốn của Người!

 Lm. Giuse Đinh Tất Quý

From: Langthangchieutim

Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu

Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu

Phim kể về cuộc đời thánh thiện từ nhỏ của Thánh Teresa Hài Đồng Giê Su

    • Cầu nguyện ơn hối cải cho kẻ cướp.
    • Ước ao gia nhập Dòng Kín từ lúc 15 tuổi.
    • Làm những việc nhỏ mọn bằng tình yêu lớn lao.
    • Những thử thách đức tin của thánh nữ.
    • Mưa Hoa Hồng.

Một linh mục bị Đức quốc xã giết sẽ được phong chân phước

Niềm Vui Tin Mừng

Một linh mục ở Ý, bị Đức quốc xã sát hại vì cứu người Do thái, sẽ được phong chân phước như một vị tử đạo.

Đó là cha Giuseppe Beotti, cha sở giáo xứ Sidolo thuộc tỉnh Parma, bắc Ý. Cha sinh ngày 02 tháng Tư năm 1912 trong một gia đình nông dân, thụ phong linh mục năm 1938, nổi bật về lòng bác ái cứu giúp người nghèo và dấn thân huấn luyện giới trẻ, và chăm chỉ cầu nguyện. Cha giúp đỡ mọi người, từ quân kháng chiến chống Đức, cho đến người Do thái, các binh sĩ và những người bị thương.

Trong thời quân Đức quốc xã chiếm nước Ý, cha bênh vực các giáo dân và bị bị xét xử, nhưng được trắng án.

Cha Giuseppe Beotti cũng đón nhận và cứu giúp các binh sĩ Ý trốn chạy, các tù nhân chiến tranh, những người bị bách hại, trong đó có hàng trăm người Do thái mà cha để ẩn náu trong những nhà tranh ở đồng quê, nhờ sự hỗ trợ của giáo dân. Cha không chạy trốn trước những cuộc càn quét và trả thù của quân Đức. Cha bị bắt và xử bắn, ngày 20 tháng Bảy năm 1944, tại Sidolo, lúc mới 32 tuổi.

Sắc lệnh nhìn nhận cuộc tử đạo của cha Beotti được Đức Thánh cha Phanxicô chấp thuận cho Bộ Phong thánh, ngày 20 tháng Năm vừa qua, cùng với các sắc lệnh nhìn nhận các nhân đức anh hùng của tám vị tôi tớ Chúa, trong đó có một linh mục người Cameroon bên Phi châu, là cha Simon Mpeke, người đã thành lập Liên hiệp Linh mục Chúa Giêsu Caritas tại Cameroon, do thánh Charles de Foucauld sáng lập.

Cha Mpeke sinh trưởng trong một gia đình ngoại giáo, nhưng trở lại Công giáo và trở thành linh mục năm 1935, nổi bật về đời sống thánh thiện, thăng tiến con người.

(Vatican News 20-5-2023)

G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA

 

Thánh Isidore. (St. Isidore of Madrid, 1070-1130)-Cha Vương

Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Isidore. (St. Isidore of Madrid, 1070-1130)

PrayerGraphics.com » St. Isidore the Farmer

Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé. Xin thánh nhân chuyển cầu cho chúng con được sống thánh giữa đời.

Cha Vương

Thứ 2: 15/05/2023

Thánh Isidore là quan thầy của các nông dân và làng quê. Ðặc biệt, ngài là quan thầy của Madrid, Tây Ban Nha, và của Hội Nghị Ðời Sống Công Giáo Thôn Quê Hoa Kỳ.

Khi lớn tuổi, ngài làm công cho gia đình ông Gioan de Vergas, một địa chủ giầu có ở Madrid, và trung thành làm việc cho đến mãn đời. Isidore kết hôn với một thiếu nữ đạo đức và chính trực mà sau này bà được tuyên xưng là thánh Maria de la Cabeza. Hai người có được một con trai nhưng chẳng may cậu chết sớm. Cả hai ông bà tin rằng ý Chúa không muốn hai người có con, do đó họ quyết định sống khiết tịnh cho đến suốt đời.

Isidore là người đạo đức thâm trầm bẩm sinh. Ngài thức dậy từ sáng sớm để đi lễ và dành thời giờ trong những dịp lễ lớn để đi viếng các nhà thờ ở Madrid và vùng phụ cận. Trong khi làm việc, ngài luôn chuyện trò với Thiên Chúa. Khi bị các đồng nghiệp cho rằng ngài trốn tránh nhiệm vụ qua việc tham dự Thánh Lễ hằng ngày, lấy nhiều thời giờ để cầu nguyện, v.v…,

Isidore trả lời rằng ngài không còn lựa chọn nào khác hơn là tuân theo Ông Chủ tối cao. Truyền thuyết kể rằng, một sáng kia khi ông chủ đến cánh đồng để bắt quả tang Isidore trốn việc đi nhà thờ, ông thấy các thiên thần đang cầy cấy nơi khu ruộng của Isidore.

Isidore còn nổi tiếng là thương người nghèo và cũng thường để ý đến việc chăm sóc loài vật.

Isidore từ trần ngày 15 tháng Năm 1130, và được phong thánh năm 1622, cùng với các Thánh I-nhã, Phanxicô Xaviê, Têrêsa và Philip Nêri.

Saint Isidore stock photo. Image of catholicism, interior - 115051924

Lời Bàn: Chúng ta có thể tìm thấy nhiều sự ứng dụng nơi vị lao công thánh thiện này: Công việc lao động có phẩm giá; sự thánh thiện không bắt nguồn từ địa vị xã hội; sự chiêm niệm không lệ thuộc vào học thức; đời sống thanh bạch là con đường dẫn đến sự thánh thiện và hạnh phúc. (Nguồn: GP Vĩnh Long)

Nguồn: Đỗ Dzũng

Nên Thánh Giữa Đời (Sáng tác: Sr. Têrêsa)- Xara Trần

Thánh Pancratiô (289 – 304)-Cha Vương

Một ngày trung tín trong việc nhỏ nhé. Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Pancratiô (289 – 304), vị tử đạo tí hon. Xin thánh nhân chuyển cầu cho chúng ta.

Cha Vương

Thứ 6: 12/05/2023

Oraciones A San Pancracio: Para Dinero, Trabajo, Ventas, Y Más

Chúng ta cần biết về một vị thánh tử đạo còn rất trẻ: Thánh Pancratiô. Ngài chết vào lúc mới 14 tuổi trong năm 304. Pancratiô là một thiếu niên rất đẹp trai và khỏe mạnh, luôn thắng các thiếu niên khác trong những trận đô vật. Một hôm Pancras thắng một thiếu niên ngoại đạo, người này rất tự phụ tự đắc. Để trả thù, hắn đi tố với hoàng đế rằng Pancras là người Công giáo. Thời đó, đạo Công giáo bị luật Rôma cấm đoàn.

Hoàng đế là bạn thân của cha Pancratiô (người cha này đã qua đời), nên muốn tha cho Pancratiô. Ông cố gắng làm mọi cách cho Pancratiô thay đổi ý . Hoàng đế nói:  Con chỉ cần dâng vài lời cầu nguyện với các thần của ta, và ta sẽ ban cho quyền bính trong đế quốc ta. Tuy Pancratiô sợ chết lắm, nhưng em không thể chối Chúa Giêsu. Pancratiô đáp lại: Nhờ phép rửa tội, tôi đã nên con Thiên Chúa. Tôi không bao giờ từ chối Chúa Giêsu, cho dù có được cả một đế quốc. Thế là Pancratiô đã bị xử tử hình.

Ngài đã tỏ ra can đảm biết bao khi bị điệu qua các đường phố như một một tên trọng tội. Ngài đã không hề kêu la khi quân lính đánh đòn, và không hề đổi ý khi nghe dân chúng chế nhạo. Trái lại, Pancratiô đã nghĩ đến Chúa Giêsu đang bị điệu qua các ngả đường Giêrusalem đến nơi Ngài bị đóng đinh. Trước khi Pancratiô bị một lưõi gươm chém đầu, Ngài đọc lời kinh này chứng tỏ sự bình an trong tâm hồn và sức mạnh Ngài có: “Lạy Chúa Giêsu, con cám ơn Chúa về đau khổ con sắp lãnh nhận. Con chấp nhận đau khổ này với lòng hân hoan, vì biết rằng cái chết của con sẽ đưa con về Thiên Đàng để ở với Chúa mãi mãi. Lạy Chúa Giêsu, xin cứu những kẻ sắp giết con!”

Ngài được chôn trong một nghĩa địa mà sau này mang tên của ngài. Thánh Pancratius được nước Anh đặc biệt sùng kính vì Thánh Augustine ở Canterbury đã dâng hiến một nhà thờ ở đây cho Thánh Pancratius, và thánh tích của ngài được tặng cho vua xứ Northumberland.

London's Must-Visit Historical Churches

Lời Trích: “Chúng sẽ bắt bớ và ngược đãi anh em, nộp anh em cho các hội đường và nhà tù, và chúng sẽ điệu anh em đến trước mặt vua quan vì danh Thầy. Ðó là cơ hội để anh em làm chứng. Hãy nhớ rằng, đừng lo nghĩ cách bào chữa, vì chính Thầy sẽ cho anh em tài ăn nói khôn ngoan khiến tất cả các địch thủ không tài nào chống đối hay bắt bẻ được” (Lc 21,12-15). (Nguồn: HĐĐMVN)

Lạy Thánh Pancratiô, xin cầu bầu cho con biết luôn luôn kiên trì trong đức tin.

Nguồn: Đỗ Dzũng


 

Thánh Đamien (3 -1-1840 – 15 – 4 -1889)

Chúc bình an đến bạn và gia đình nhé. Hôm nay Giáo Hội Hoa Kỳ mừng kính Thánh Đamien, vị anh hùng của người Hawaii. Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy.

Cha Vương (cũng là Sinh Nhật của Cha)

Thứ 4: 10/05/2023

Cha Đamien của hòn đảo Molokai, Hawaii, tên là Joseph de Veuster sinh tại Tremelo, Bỉ vào ngày 3 tháng 1 năm 1840. Khi anh của ngài vào tu dòng Thánh Tâm, cha của Ngài chuẩn bị để Ngài nối nghiệp buôn bán của gia đình. Tuy nhiên, Ngài quyết định hiến thân mình cho Chúa. Năm 1859, Ngài vào tu tại một chủng viện ở Louvain và lấy tên là Đamien.

St. Damien of Moloka'i

Năm 1863, anh của Ngài được sai đi truyền đạo ở quần đảo Hawaii nhưng không may bị bệnh rất nặng. Đamien xin bề trên và được phép đi thay cho anh của mình.

Experiencing old Hawaii on Moloka'i | Molokai, Molokai hawaii, Hawaii ...

Ngài đến Honolulu vào ngày 19 tháng 3 năm 1864 và được phong chức linh mục vào ngày 21 tháng 5 năm 1864. Ngài được sai đến Big Island để bắt đầu công việc của một vị linh mục.

Father Damien of Molokai - Hawaii's First Saint - YouTube

Vào thời gian đó, chính quyền Hawaii quyết định ngăn chặn sự lây lan của bịnh cùi bằng cách trục xuất những người bị nghi ngờ là mắc bệnh cùi tới Kalaupapa trên hòn đảo Molokai – một nơi rất xa xôi và hẻo lánh được bao quanh với núi và biển. Những người bị bỏ rơi này xin được có một bậc tu trì đến để giúp đỡ họ về những nhu cầu tinh thần. Đức Cha Louis Maigret nói cho các cha nghe về vấn đề này và có vài cha xung phong đi trong vòng vài tháng. Cha Đamien là người đầu tiên ra đi vào ngày 10 tháng 5 năm 1873. Với lời xin của Ngài và của những người cùi ở Kalaupapa, Ngài đã ở lại Molokai.

Rebel with a Cause: Father Damien on Molokai - the low countries

Ngài đã mang những tia hy vọng tới chốn địa ngục đầy thất vọng này. Ngài đã trở thành nguồn an ủi và sự khuyến khích cho đàn chiên của ngài bằng cách trở thành vị bác sĩ cho linh hồn và thể xác của họ không kể sắc tộc và màu da. Ngài đã trở thành tiếng nói của những người câm và xây dựng một cộng đoàn nơi những người cùi tìm ra những lý do mới để sống. Một nơi không luật pháp đã trở thành một nơi thống trị bởi luật yêu thương.

Sau khi Ngài bị nhiễm bệnh cùi vào năm 1885, cha Đamien đã có thể cảm thông hoàn toàn với những bệnh nhân cùi. Ngài thường nói, “Chúng ta, những người cùi”. Cha Đamien trở thành một chứng nhân tình yêu của Chúa cho mọi người. Sức mạnh của Ngài đến từ Thánh Thể như chính Ngài đã viết: “Chính nơi chân bàn thờ là nơi chúng ta có thể tìm thấy sức mạnh chúng ta cần khi bị bỏ rơi . . .” Chính nơi này Ngài đã tìm ra sức mạnh và sự khuyến khích để phục vụ anh chị em cùi. Vì những tia hy vọng và sự âm thầm phục vụ người là “vị truyền giáo hạnh phúc nhất trên thế gian”, và là một đầy tớ trung thành của Chúa và nhân loại.

A Catholic Mom in Hawaii: Feast of St. Damien of Molokai - Photos and ...

Cha Đamien đã qua đời ngày 15 tháng 4 năm 1889 sau 16 năm sống và phục vụ giữa những bệnh nhân cùi. Xác Ngài đã được chuyển về Bỉ năm 1936 nơi người được chốn cất trong nhà dòng Thánh Tâm tại Louvain. Ngài đã được biết đến khắp thế giới. Năm 1938, quá trình xin phong cho Ngài làm Á Thánh được giới thiệu tại Malines, Bỉ. Đức Giáo Hoàng Phaolô thứ VI đã kí nghị định “anh hùng của sự trinh tiết và thương yêu” vào ngày 7 tháng 7 năm 1977.

Qua Cha Đamien, Giáo Hội có một tâm gương cho những người tìm được ý nghĩa trong Kinh Thánh và cho những người mong ước đem Tin Mừng của Chúa đến cho người nghèo. Năm 1955, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong Cha Đamien làm Á Thánh tại Burssels. Vào ngày 11 tháng 10 năm 2009, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI phong thánh cho Ngài. Ngày mừng kính thánh Đamien là ngày 10 tháng 5 hằng năm.

Statue Père Damien - ARTE GROSSÉ USA

Hai Phép lạ đã được Tòa Thánh công nhận là do lời cầu xin của Chân Phước Damien:

(1) Ngày 13 tháng sáu, 1992, ĐGH Gioan Phaolô II công nhận Phép lạ xẩy ra năm 1895 cho một Nữ tu người Pháp, tên là Simplicia Hue, nằm chờ chết vì bịnh ruột. Nhờ làm tuần 9 ngày cầu xin Cha Damien cứu chữa, nên qua một đêm, liền hết bịnh.

(2) Phép lạ thứ hai xẩy đến cho một phụ nữ người Hawai’i bị ung thư, tên là Audrey Toguchi. Năm 1997, bà được Bác sĩ Walter Chang cho biết: chứng ung thư tế bào đã lan khắp chân, và phổi. Không thể chữa lành được. Và hồ sơ bệnh trạng được lưu trữ tại ”Hawaii’i medical Journal, October 2000”.  Toà Thánh đã công nhận là hai phép lạ thật, và cần thiết để ĐGH Benêđitô XVI tuyên bố Chân Phươc Damien lên bậc Hiển Thánh.

Thánh Tông Đồ Philipphê và Giacôbê

Chúc bình an đến bạn và gia đình. Hôm nay 3/5 Giáo Hội mừng kính trong thể 2 thánh Tông Đồ Philipphê và Giacôbê. Mừng bổn mạng đến những ai chọn các ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thứ 4: 03/05/2023

Thánh Philipphê là người xứ Bethsaida. Ông là một trong những người đầu tiên được Đức Giêsu kêu gọi. Chính ông đã mách cho Nathanael Tin mừng lớn lao này: “Đấng mà sách luật Môsê và các ngôn sứ nói tới, chúng ta đã gặp. Đó là ông Giêsu, người Nazareth”. Thấy bạn mình còn hoài nghi, ông đã giục: “Cứ đến mà xem”. Nathanael sau khi đã gặp Đức Giêsu và nghe Ngài nói thì đã tin. Philipphê đã xuất hiện nhiều lần trong Phúc âm: Lúc Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều; làm trung gian cho những người ngoại giáo muốn gặp Đức Giêsu. Philipphê cũng là người đã xin Đức Giêsu: “Lạy Ngài, xin chỉ cho chúng con thấy Cha, thế là đủ cho chúng con”. Người ta nghĩ rằng ông đã đem Tin mừng đến cho người Scythen sau ngày lễ Ngũ tuần và chết rất thọ ở Hiérapolis, tại Phrygie.

Còn thánh Giacôbê mà chúng ta mừng kính hôm nay là Giacôbê hậu, con ông Alphê. Gọi là Giacôbê hậu để phân biệt với Giacôbê tiền, là con của ông Dêbêđê. Phân biệt này không mang ý nghĩa gì khác ngoài việc tránh sự nhầm lẫn. Khoa Thánh Kinh còn nghi ngờ không biết có phải Giacôbê hậu này có phải là “anh em của Đức Giêsu” và là tác giả của lá thư Giacôbê hay không? Nhưng Phụng vụ Rôma lại có sự đồng hoá và xác nhận. Trước khi các Tông đồ tản mác mỗi người một nơi, thì họ chỉ định thánh Giacôbê làm Giám mục Giêrusalem. Ngài là linh hồn của cộng đoàn Giêrusalem. Vì ngài đã làm cho nhiều người trở lại với Đức Giêsu nên bị bản án ném đá. Ngài đã chịu tử đạo đang khi quỳ gối cầu nguyện cho tên lý hình đang kết thúc đời Ngài bằng một thanh sắt giáng xuống trên người, trong thời điểm mừng lễ Vượt Qua. (Theo “Tự điển các thánh”, trang 268-269 và trang 159).

Noi gương thánh Philipphê và thánh Giacôbê, bạn có thể trở thành tông đồ của Chúa qua lối sống hằng ngày của mình hôm nay bằng cách làm những việc nhỏ với một con tim chân thành, với một thái độ cởi mở. Đây là một minh chứng hùng hồn và cụ thể nhất cho đức tin của mình đó.

Xin thánh Philipphê và thánh Giacôbê, cầu cho chúng con.

From: Đỗ Dzũng

Mai Thảo, Thanh Sử – Hãy Theo Thầy

Thánh Giuse Thợ-Cha Vương

Tháng 5 rồi bạn ơi! Tháng 5 là tháng hoa dâng kính Đức Mẹ Maria. Giáo Hội dành riêng tháng này để đặc biệt kính mến Đức Maria. Những lúc gian nan nguy khốn cũng như khi được an bình hạnh phúc, bạn luôn biết chạy đến cùng Mẹ để được an ủi, vỗ về, che chở và dâng lời cảm tạ. Trong khi làm công việc hằng ngày, mời bạn dâng lên Mẹ hoa hồng của lòng yêu mến, xin Mẹ dạy cho bạn biết yêu Chúa hết lòng và yêu anh chị em mình như Chúa đã yêu họ vậy. Hôm nay cũng là ngày kính Thánh Giuse Thợ, xin Thánh Giuse cầu bầu cho chúng con.

Cha Vương 

Thứ 2: 1/5/2023

Thánh Giuse Thợ: Hiển nhiên là để đối ứng với việc cử hành “Ngày Lao Ðộng” của Cộng Sản mà Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã thiết lập ngày lễ Thánh Giuse Thợ vào năm 1955. Nhưng sự liên hệ giữa Thánh Giuse và ý nghĩa lao động đã có từ lâu trong lịch sử.

Trong nỗ lực cần thiết để nói lên nhân tính của Ðức Giêsu trong đời sống thường nhật, ngay từ ban đầu Giáo Hội đã hãnh diện nhấn mạnh rằng Ðức Giêsu là một người thợ mộc, hiển nhiên là được cha nuôi của Ngài huấn luyện, một cách thành thạo và khó nhọc trong công việc ấy. Nhân loại giống Thiên Chúa không chỉ trong tư tưởng và lòng yêu thương, mà còn trong sự sáng tạo. Dù chúng ta chế tạo một cái bàn hay một vương cung thánh đường, chúng ta được mời gọi để phát sinh kết quả từ bàn tay và tâm trí chúng ta, nhất là trong việc xây đắp Nhiệm Thể Ðức Kitô.

LỜI BÀN: “Sau đó Thiên Chúa đưa người đàn ông vào sống trong vườn Eden, để cầy cấy và chăm sóc khu vườn” (Sáng Thế 2:15). Thiên Chúa Cha đã tạo dựng nên mọi sự và muốn con người tiếp tục công trình tạo dựng ấy. Con người có phẩm giá là qua công việc, qua sự nuôi nấng gia đình, qua sự tham dự vào đời sống sáng tạo của Thiên Chúa Cha. Thánh Giuse Thợ có thể giúp chúng ta tham dự một cách sâu xa vào mầu nhiệm tạo dựng ấy. Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã nhấn mạnh đến điều này khi nói, “Thần khí chan hòa trên bạn và mọi người phát xuất từ con tim của Ðấng vừa là Thiên Chúa vừa là con người, Ðấng Cứu Ðộ trần gian, nhưng chắc chắn rằng, không người lao động nào được thấm nhuần thần khí ấy một cách trọn vẹn và sâu đậm cho bằng cha nuôi của Ðức Giêsu, là người sống với Ngài một cách mật thiết trong đời sống gia đình cũng như làm việc. Do đó, nếu bạn ao ước muốn đến gần Ðức Kitô, một lần nữa chúng tôi lập lại rằng, ‘Hãy đến cùng Thánh Giuse'” (xem Sáng Thế 41:44). (Nguồn: Người Tín Hữu online)

CẦU NGUYỆN: Lạy Thiên Chúa tạo thành trời đất, Chúa đã muốn cho con người lao động để tiếp tục công trình của Chúa. Xin nhận lời thánh cả Giuse chuyển cầu, cho chúng con biết noi gương người để lại là chu toàn nhiệm vụ Chúa đã trao phó hầu được hưởng niềm vui Chúa đã hứa cho tôi tớ trung thành. Chúng con cầu xin… (Lời nguyện nhập lễ)

From: Đỗ Dzũng

THÁNH GIUSE GƯƠNG LAO ĐỘNG (Imprimatur). Quỳnh An – ST Phong Trần 

Thánh Catarina ở Siena (1347 — 1380)- ngày 29/04

Thanhlinh.net

Trong cuộc đời ngắn ngủi, Thánh Catarina đặt trọng tâm vào việc hoàn toàn phó thác cho Ðức Kitô. Ðiều đáng khâm phục về thánh nữ là ngài coi việc phó thác cho Chúa như một mục đích phải đạt được qua thời gian.

Thánh Catarina, tên thật là Catarina Benincasa, sinh ở Siena và là người con út trong một gia đình có đến 23 người con. Ngay từ khi bảy tuổi, cô đã dâng hiến tâm hồn cho Ðức Kitô. Nơi cô sinh trưởng rất gần San Domenico, trung tâm truyền giáo của Dòng Ða Minh, và khi lớn lên cô bày tỏ ý muốn đi tu, nhưng gia đình lại muốn cô kết hôn. Ðể nói lên ý chí quyết liệt của mình, cô đã cắt tóc và sau cùng, với sự đồng ý của cha mẹ, Catarina gia nhập tổ chức Mantellate, là hội phụ nữ có liên hệ đến Dòng Ða Minh, họ mặc áo dòng nhưng sống ở nhà, phục vụ người nghèo và người đau yếu. Trong vòng hai năm liên tiếp cô không bao giờ rời phòng, trừ khi đi xem lễ và xưng tội, và cũng không nói chuyện với một ai ngoại trừ cha giải tội. Trong thời gian này, Catarina luyện tập tâm linh qua lối sống khắc khổ.

Sau đó, cô tự phá vỡ đời sống cô độc và bắt đầu hăng say chia sẻ công việc trong nhà, săn sóc người bệnh và giúp đỡ người nghèo. Tuy nhiên cô vẫn dành thời giờ trong thinh lặng và chiêm niệm.

Dần dà, người ta nhận thấy dường như Catarina đọc được tâm hồn của họ và dân chúng thuộc đủ mọi thành phần — giầu và nghèo, tu sĩ và giáo dân, thợ thuyền và lính tráng – bắt đầu tuốn đến với cô để được khuyên bảo. Từ đó một tổ chức tông đồ giáo dân được thành hình. Các lá thư của cô, hầu hết là các lời khuyên bảo tinh thần và khuyến khích các người mến mộ, ngày càng được công chúng đón nhận.

Vì sự hòa đồng với người đời một cách không sợ sệt cũng như lời nói bộc trực và uy quyền của một người hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa, Catarina đã bị dị nghị và dèm pha. Nhưng mọi điều cáo buộc cô đã bị bác bỏ trong Tổng Công Hội Dòng Ða Minh năm 1374.

Cô có ảnh hưởng rất lớn vì sự thánh thiện hiển nhiên, cũng như vì ảnh hưởng sâu đậm đối với đức giáo hoàng. Cô làm việc không biết mệt trong cuộc thập tự chinh chống với người Thổ Nhĩ Kỳ và trong việc hòa giải thành phố Florence với đức giáo hoàng.

Cô thành công trong việc thuyết phục Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô XI trở về Rôma, nhưng không bao lâu đức giáo hoàng từ trần và Ðức Urbanô VI lên ngôi. Khi cuộc Ðại Ly Giáo bùng nổ, Ðức Urbanô VI mời Catarina đến Rôma, vì đức giáo hoàng cần sự hỗ trợ của cô. Năm 1378, cô đến Rôma và thường xuyên viết thư gửi các nhà lãnh đạo quốc gia và Giáo Hội để bảo vệ cho quyền giáo hoàng của Ðức Urbanô. Hàng ngày, cô đi bộ đến Ðền Thánh Phêrô và cầu nguyện cho sự hiệp nhất.

Một vài tuần trước khi chết, cô đang cầu nguyện trước một bức khảm ở Ðền Thánh Phêrô, cô trông thấy con thuyền của Thánh Phêrô dường như rời khỏi bức khảm và đậu trên vai của cô. Con thuyền xô cô ngã quỵ và người ta phải khiêng cô về nhà. Catarina hầu như bất toại cho đến khi từ trần, ngày 24 tháng Tư  1380, lúc ấy mới ba mươi ba tuổi.

Cô được Ðức Giáo Hoàng Piô II phong thánh năm 1461, và được coi là một trong những vị thần nghiệm và văn sĩ linh đạo của Giáo Hội. Vào năm 1970, Ðức Phaolô VI tuyên xưng thánh nữ là Tiến Sĩ Hội Thánh. Thánh Catarina là người phụ nữ thứ hai (sau Thánh Têrêsa ở Avila) được vinh dự này.

Trong khi các thư của Thánh Catarina thường được coi là cửa ngõ để biết đến con người của ngài, nhưng người ta thường nhắc đến tác phẩm “Ðối Thoại” mà ngài chỉ coi đó là “cuốn sách của tôi,” gồm các lời giảng dạy của thánh nữ để lại cho các người mến mộ. Cha Raymond, vị linh hướng của thánh nữ cho biết tác phẩm này ghi lại những lời đối thoại với Thiên Chúa khi ngài ngất trí.

Trích từ NguoiTinHuu.com

Thánh Máccô -25 /4

thanhlinh

Những gì chúng ta biết về Thánh Máccô thì trực tiếp từ Kinh Thánh Tân Ước. Ngài thường được coi là nhân vật Máccô trong Tông Ðồ Công Vụ 12:12 (Khi Phêrô thoát khỏi ngục và đến nhà mẹ của Máccô).

Phaolô và Barnabas muốn đem theo Máccô trong chuyến truyền giáo đầu tiên, nhưng vì một vài lý do nào đó, Máccô đã ở lại Giêrusalem một mình. Trong cuộc hành trình thứ hai, Phaolô lại từ chối không muốn đem theo Máccô, bất kể sự nài nỉ của Barnabas, điều đó chứng tỏ Máccô đã làm phật lòng Phaolô. Sau này, Phaolô yêu cầu Máccô đến thăm ngài khi ở trong ngục, điều đó cho thấy sự bất hòa giữa hai người không còn nữa.

Là phúc âm đầu tiên và ngắn nhất trong bốn Phúc Âm, Máccô nhấn mạnh đến việc Ðức Giêsu bị loài người tẩy chay trong khi chính Người là Thiên Chúa. Phúc Âm Thánh Máccô có lẽ được viết cho Dân Ngoại tòng giáo ở Rôma — sau cái chết của Thánh Phêrô và Phaolô khoảng giữa thập niên 60 và 70.

Cũng như các thánh sử khác, Máccô không phải là một trong 12 tông đồ. Chúng ta không rõ ngài có biết Ðức Kitô một cách cá biệt hay không. Một số sử gia cho rằng vị thánh sử này đã nói đến chính ngài trong đoạn Ðức Kitô bị bắt ở Giệtsimani: “Bấy giờ một người trẻ đi theo Người chỉ khoác vỏn vẹn một tấm vải gai. Họ túm lấy anh, nhưng anh tuột tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng” (Máccô 14:51-52).

Nhiều người khác cho rằng Máccô là giám mục đầu tiên của Alexandria, Ai Cập. Thành phố Venice, nổi tiếng với quảng trường San Marco, cho rằng Thánh Máccô là quan thầy của thành phố này; một vương cung thánh đường vĩ đại ở đây được coi là nơi chôn cất thánh nhân.

Dấu hiệu của Thánh Máccô là sư tử có cánh, do bởi đoạn Máccô diễn tả Gioan Tẩy Giả như một “tiếng kêu trong hoang địa” (Máccô 1:3), mà các nghệ nhân so sánh tiếng kêu ấy như tiếng sư tử gầm. Ðôi cánh của sư tử là vì người ta dùng thị kiến của Êgiêkien về bốn con vật có cánh mà áp dụng cho các thánh sử.

 Lời Bàn

Cuộc đời Thánh Máccô đã hoàn tất những gì mà mọi Kitô Hữu được mời gọi để thi hành: rao truyền Tin Mừng cứu độ cho mọi người. Ðặc biệt, phương cách của Thánh Máccô là qua sự viết văn. Những người khác có thể loan truyền Tin Mừng qua âm nhạc, nghệ thuật sân khấu, thi văn hay giáo dục con em ngay trong gia đình.

  Lời Trích

Hầu hết những gì Thánh Máccô viết đều có đề cập đến trong các Phúc Âm khác — chỉ trừ bốn đoạn. Sau đây là một đoạn: “… Chuyện nước trời cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Ðêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết. Ðất tự động sinh ra hoa màu: trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt. Lúa vừa chín, người ấy đem liềm hái ra gặt, vì đã đến mùa” (Máccô 4:26-29).

  Trích từ NguoiTinHuu.com

CHA THÁNH MAXIMILIAN KOLBE & BẢN THIẾT KẾ CON TÀU VŨ TRỤ BAY LÊN MẶT TRĂNG

Chiến sĩ Chúa Kitô

Thánh Maximilian Kolbe được biết đến là 1 vị linh mục thánh thiện với tấm gương hy sinh quên mình ở trại tử thần Auschwitz, nơi cha thuyết phục lính Đức Quốc xã giết cha thay vì một tù nhân khác đã có vợ con. Ngoài sự súng kính và tận tụy phi thường của mình đối với Chúa và Đức Mẹ Maria, cha thánh còn có niềm đam mê với khoa học vũ trụ.

Một trong những bạn học của Thánh Kolbe ở trường dòng sau này đã giải thích rằng Kolbe đã bị mê hoặc bởi phát minh của Anh em nhà Wright với nguyên lý khí động học của máy bay. Người ta thường thấy thánh nhân cùng các chủng sinh đang thiết kế các bản vẽ về tàu vũ trụ trên lý thuyết.

Trong cuốn tiểu sử “Maximilian Kolbe, Một con người dám chết vì người khác”, tác giả Bronislaus Strycznys cho biết, “Cha đã dự đoán trước được khả năng lên mặt trăng bằng tàu vũ trụ và ông ấy đã nghĩ ra nhiều phát minh phi thường.”

Niềm đam mê khoa học của Thánh Kolbe thể hiện qua những bản thiết kế nguệch ngoạc trông có vẻ đơn giản trong sổ tay của cha, nhưng thực tế hình dạng của chúng đã được cha tạo ra dựa trên các công thức tính toán và các thông số khoa học kỹ thuật !

Thánh Kolbe đã đi xa đến mức gửi bản thiết kế cho một tạp chí khoa học vào năm 1918. Lúc đó cha mới 24 tuổi nhưng lại có đầu óc sáng tạo, niềm đam mê khoa học cùng với một trí tuệ vượt trội. Một trong những giáo sư của cha ấy thậm chí còn gợi ý rằng cha nên đăng ký bằng sáng chế cho tàu vũ trụ của mình .

Các thông số kỹ thuật cũng như các bản vẽ gốc của cha được tìm thấy trong cuốn sách “Các tác phẩm của Thánh Maximilian Maria Kolbe, Tập II.”

Qua các bản phác thảo của Cha Kolbe, cha đã dự đoán khá chính xác một con tàu vũ trụ thực tế sẽ có cấu tạo như thế nào… qua 51 năm sau. Đó là tàu vũ trụ Apollo bay lên Mặt trăng

Bản phác thảo có thể được xem tại trang web :https://www.cadblog.pl/index…/2020/12/15/swiety-innowator/ ,

trang này cũng cho biết niềm đam mê khoa học của Thánh Maximilian Kolbe cũng lan sang lĩnh vực sóng vô tuyến. Đài Radio Niepokalanow do Thánh Kolbe xây dựng đã trở thành đài phát thanh Công giáo đầu tiên ở Ba Lan vào năm 1938.

Vị linh mục người Ba Lan này thậm chí đã có kế hoạch truyền giáo qua truyền hình và phim ảnh, nhưng thật không may, những kế hoạch này đã bị phá vỡ khi Đức và Liên Xô bắt tay nhau xâm lược Ba Lan mở màn cho Thế chiến thứ II và Cha Kolbe tử đạo trong trại tù của Đức quốc xã.