Thánh Bonaventura (1221-1274), Giám mục, Tiến sĩ Hội Thánh

Thân chào bình an đến Bạn và gia đình nhé. Hôm nay 15/7, Giáo hội mừng kính Thánh Bonaventura (1221-1274), Giám mục, Tiến sĩ Hội Thánh. Mừng Bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy.

Cha Vương 

Thứ 7: 15/7/2023

Thánh Bonaventura sinh tại Bagnorea miền Toscane năm 1221. Ngài trải qua thời niên thiếu tại dòng thánh Phanxicô Khó Khăn thành Assise (1243). Dưới sự hướng dẫn của Alexandre de Hales, ngài theo học văn chương và cũng thâu lượm nhiều kiến thức khoa học. Bảy năm sau, ngài cho xuất bản cuốn sách nổi tiếng “Commentaire sur les 4 livres des sentences” và nhiều sách có giá trị khác.

Ngài có lòng dịu hiền tột bậc, lòng khiêm nhường sâu xa và lòng mộ mến cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Năm 35 tuổi, ngài được bầu làm Bề Trên của dòng Phanxicô (1257). Với trọng trách nặng nề này, ngài được mọi người biết đến, không những vì học thuyết và sự thánh thiện nhưng còn vì sự thông minh và khôn khéo của ngài nữa. Chính vì vậy, năm 1273, Ðức Giáo Hoàng Grêgoriô X đặt ngài làm Hồng Y coi địa phận Albanô. Ngài đã viết nhiều tác phẩm thần học rất có giá trị và sau cùng ngài chết tại Lyon (1274), hưởng thọ 53 tuổi.

Ðức Giáo Hoàng Sixtô IV nâng ngài lên bậc Hiển Thánh năm 1482 và Ðức Giáo Hoàng Sixtô V đặt ngài làm Tiến Sĩ Hội Thánh năm 1588, vì ngài là cột trụ chống đỡ Giáo Hội, lưu tâm đến vấn đề hiệp nhất Hy Lạp và La Mã, đồng thời duy trì và củng cố dòng Phanxicô được lớn mạnh, vững vàng. (Nguồn: Nhóm Châu Kiên Long, Ðà Lạt, Vietnamese Missionaries in Asia)

Sau đây là những câu nói của Thánh Bonaventura:

(1) Vinh quang và danh dự chỉ dâng lên Thiên Chúa.

(2) Tất cả của Mẹ là của con và tất cả của con là của Mẹ.

(3) Hỡi linh hồn các tính hữu, anh chị em muốn chứng tỏ tình yêu thật đối với người đã qua đời không? Anh chị em muốn gửi cho họ món quà trợ giúp quý nhất và chìa khoá mở cửa Thiên đàng không? Hãy năng rước lễ cho các linh hồn được an nghỉ.

(4) Nếu ta kính chào Mẹ bằng kinh Kính Mừng thì Mẹ sẽ đáp lại ta bằng muôn ơn phúc.

(5) Thiên Chúa có thể tạo dựng một thế giới khác tốt đẹp hơn, nhưng không thể tạo dựng một người mẹ khác hoàn hảo hơn Mẹ Thiên Chúa được.

(6) Hạnh phúc cho những ai hiến dâng tâm hồn mình cho Mẹ! Hạnh phúc cho những ai thiết tình phụng sự Mẹ!

(7) Ôi tình thương lạ lùng của Chúa! Muốn một ngày kia khỏi phải tuyên án tống giam chúng con vào ngục tuyệt vọng đời đời, Chúa đã ban Mẹ là Mẹ Chúa, là Chủ tối cao kho tàng ân sủng, làm Trạng sư bầu chữa chúng con.

Câu nào đánh động Bạn nhất? Đối với mình thì câu số 3 và 4.

From: Đ Dzũng

YouTube player

Chúa Yêu Con Nhiều

THÁNH BONAVENTURA – CUỘC ĐỜI VÀ CON NGƯỜI

Thánh Bonaventure được sinh ra vào khoảng năm 1217, ngài đã qua đời vào năm 1274; ngài đã sống ở thế kỷ 13, một thời đại đức tin Kitô giáo, sâu xa thấm nhiễm vào văn hóa và xã hội Âu Châu, đã gợi hứng thực hiện những tác phẩm bất hủ trong lãnh vực về văn chương, nghệ thuật về thị giác, triết lý và thần học.  Nổi nang trong số những nhân vật Kitô giáo lớn lao cao cả, thành phần đã góp phần vào việc sáng chế ra mối hòa hợp này giữa đức tin và văn hóa, chính là Thánh Bonaventura, một con người của hoạt động và chiêm niệm, của lòng đạo đức sâu xa và của đức khôn ngoan quản trị.

Ngài được gọi là Gioan thành Fidanza.  Một biến cố bất ngờ đã xẩy ra khi ngài còn là một đứa con trai đã sâu xa ghi dấu vết cuộc đời của ngài, như chính ngài thuật lại.  Ngài đã bị nhiễm một cơn bệnh trầm trọng, đến  nỗi ngay cả cha ngài là một vị bác sĩ cũng không hy vọng cứu được ngài khỏi chết.  Mẹ của ngài bấy giờ xin Thánh Phanxicô Assisi là vị được phong thánh trước đó ít lâu chuyển cầu.  Và cậu bé Gioan đã được chữa lành.  Hình ảnh Người Nghèo Thành Assisi càng trở nên thân thương hơn một năm sau đó, khi ngài ở Paris, nơi ngài đến lo chuyện học vấn của ngài.  Ngài đã lấy được văn bằng Cao Học về Nghệ Thuật, một bằng cấp chúng ta có thể so sánh với cấp bằng của một trường có thế giá hạng nhì trong thời đại chúng ta.  Vào lúc ấy, như nhiều bạn trẻ trong quá khứ cũng như trong hiện tại, Gioan đã hỏi mình một câu hỏi quan trọng: “Tôi phải làm gì cho đời sống của tôi?”  Được thu hút bởi chứng từ về lòng sốt sắng và tính chất sâu xa về Phúc Âm của Dòng Em Hèn Mọn, những thày dòng đã đến Balê vào năm 1219.  Gioan đã gõ cửa đan viện Phanxicô của thành phố này, và xin được chấp nhận vào đại gia đình của thành phần môn đệ của Thánh Phanxicô.

Nhiều năm sau, ngài đã cắt nghĩa cho biết những lý do về việc chọn lựa này của ngài: Ngài đã nhận thấy hoạt động của Chúa Kitô nơi Thánh Phanxicô cũng như nơi phong trào do thánh nhân khởi xướng.  Ngài đã viết như thế trong một bức thư ngỏ cùng một thày dòng khác: “Tôi tuyên xưng trước mặt Chúa lý do khiến tôi yêu chuộng hơn đời sống của Chân Phước Phanxicô đó là đời sống này giống như nguồn gốc và sự phát triển của Giáo Hội.  Giáo Hội bắt dầu với những con người đánh cá bình dân, và đã trở nên phong phú hơn lập tức với những vị tiến sĩ rất thông giỏi và khôn ngoan; tôn giáo của Chân Phước Phanxicô không được thiết lập bởi sự khôn ngoan của con người, mà là bởi Chúa Kitô” (Epistula de tribus quaestionibus ad magistrum innominatum, in Opere di San Bonaventura. Intoduzione generale, Rome, 1990, p. 29).

Bởi thế, vào khỏang năm 1243, Gioan đã được mặc áo dòng Phanxicô bằng len thô sơ và lấy tên là Bonaventura.  Ngài liền được lệnh học hành và lui tới với phân khoa thần học ở Đại Học Paris, theo đuổi một chương trình bao gồm các môn học rất khó.  Ngài đã chiếm được các tước hiệu khác nhau cần có theo nghề hàn lâm, những tước hiệu “cử nhân thánh kinh” và “bachelor’s in sentences.”  Bởi thế, Thánh Bonaventura đã học hỏi sâu xa về Thánh Kinh, các Câu Nói của Peter Lombard, cuốn cẩm nang về thần học thời bấy giờ, và những tác giả quan trọng nhất về thần học, và trong việc giao tiếp với các vị giáo sư và sinh viên đến Paris từ khắp Âu Châu, ngài đã trưởng thành tâm tưởng của ngài và cảm quan thiêng liêng rất sáng giá là những gì trong giòng thời gian của những năm sau đó, đã cho thấy nơi các tác phẩm và bài giảng của ngài, làm cho ngài trở thành một trong những thần học gia quan trọng nhất của lịch sử Giáo Hội.  Cần phải nhắc lại danh xưng của luận án the licentia ubique docendi, như bấy giờ gọi như thế, được ngài biện hộ để có thể hợp lệ giảng dạy khoa thần học.  Luận án của ngài mang tên “Những Vấn Đề về Kiến Thức của Chúa Kitô.”  Lập luận này cho thấy vai trò chính yếu của Chúa Kitô bao giờ cũng được thấy nơi đời sống và việc giảng dạy của Thánh Bonaventura.  Thật vậy, chúng ta có thể nói rằng tất cả tư tưởng của ngài đều sâu xa qui về Chúa Kitô nhân trung.

Trong những năm ở Paris đã xẩy ra một cuộc tranh luận dữ dội chống lại Anh Em Hèn Mọn Dòng Thánh Phanxicô Assisi và Anh Em Thuyết Giảng Dòng Thánh Đaminh Guzmán.  Cuộc tranh cãi về quyền giảng dạy của các thày dòng này ở đại học và những ngờ vực thậm chí liên quan tới tính chất chân thực nơi đời sống tận hiến của các vị.  Thật sự thì những thay đổi mang lại bởi các Dòng Hành Khất này nơi đường lối hiểu biết đời sống tu trì rất ư là mới mẻ tới độ không phải hết mọi người đều hiểu được họ.  Ngoài ra, như đôi khi xẩy ra nơi những con người tu trì thành tín, là những động lực xuất phát từ tình trạng yếu đuối của con người, chẳng hạn như thèm muốn và ghen tương.  Thánh Bonaventura, mặc dù bị bủa vây bởi sự chống đối từ thành phần giáo sư đại học, đã bắt đầu giảng dạy với tư cách là khoa trưởng thần học của các thày Dòng Phanxcicô, và để đáp lại những ai đang phê bình chỉ trích các Hội Dòng Hành Khất, ngài đã viết một bản văn tựa đề là “Sự Trọn Lành Phúc Âm.”  Trong bản viết này, ngài cho thấy làm thế nào các Dòng Tu Hành Khất, nhất là Dòng Anh Em Hèn Mọn, khi thực hành các lời khấn khó nghèo, thanh tịnh và vâng phục, là theo đuổi các lời khuyên của chính Phúc Âm.  Ngoài những trường hợp lịch sử ấy, việc giảng dạy của Thánh Bonaventura nơi tác phẩm này của ngài cũng như trong đời sống của ngài bao giờ cũng là những gì hợp thời: Giáo Hội trở thành rạng ngời và tuyệt vời nhờ lòng trung thành với ơn gọi nơi những con người nam nữ của Giáo Hội là thành phần chẳng những mang ra thực hành các chỉ thị của phúc âm, mà còn là thành phần, nhờ ơn Chúa, được kêu gọi để tuân giữ lời khuyên nữa, nhờ đó làm chứng, qua lối sống nghèo nàn, thanh tịnh và tuân phục của mình, rằng Phúc Âm là nguồn vui và trọn lành.

Cuộc xung khắc này chìm xuống, ít là qua một thời gian, và, nhờ việc can thiệp riêng của Đức Giáo Hoàng Alexander IV, vào năm 1257, Thánh Bonaventura đã được chính thức công nhận là tiến sĩ và là giáo sư của Đại Học Paris.  Cho dù là thế, ngài đã từ nhiệm vị thế vinh dự này, vì cùng năm ấy, Đại Công Nghị của dòng ngài đã tuyển bầu ngài làm bề trên tổng quyền.

Ngài đã thi hành công việc này 17 năm trời một cách khôn ngoan và tận tâm, thăm viếng các tỉnh dòng, viết thư cho an hem dòng, có những lúc nghiêm nghị can thiệp vào việc loại trừ những thứ lạm dụng.  Khi Thánh Banaventura bắt đầu phục vụ thì Dòng Anh Em Hèn Mọn đã phát triển một cách phi thường: Bấy giờ đã có 30 ngàn tu sĩ trải rộng khắp phía Tây, với sự hiện diện truyền giáo ở Bắc Phi, Trung Đông và cả Bắc Kinh.  Cần củng cố việc lan rộng này và nhất là cống hiến cho nó mối hiệp nhất về hoạt động và tinh thần, hoàn toàn trung thành với đặc sủng của Thánh Phanxicô.  Thật vậy, trong số thành phần môn đệ của Vị Thánh thành Assisi này có những hình thức khác nhau nơi việc dẫn giải sứ điệp của thánh nhân và thực sự có nguy cơ xẩy ra tình trạng phân ly nội bộ.  Để tránh mối nguy hiểm này, vào năm 1260, Đại Công Nghị của nhà dòng ở Narbonne đã chấp nhận và phê chuẩn một bản văn do Thánh Bonaventura soạn thảo, một bản văn thống nhất các qui tắc chi phối đời sống hằng ngày của Anh Em Dòng Hèn Mọn.  Tuy nhiên, Thánh Bonaventura đã trực giác thấy rằng những bố trí về pháp lý, mặc dù được tác động một cách khôn ngoan và dung hợp, cũng không đủ để bảo đảm mối hiệp thông về tinh thần và tâm can.  Cần phải chia sẻ cùng lý tưởng và cùng động lực sống.  Đó là lý do vị bề trên Bonaventura muốn trình bày đặc sủng chân thực của Thánh Phanxicô, đời sống của thánh nhân và giáo huấn của thánh nhân.  Bởi vậy ngài đã hết sức nhiệt thành thu góp các văn kiện liên quan đến Con Người Nghèo này và chăm chú lắng nghe những hồi niệm của những ai trực tiếp biết thánh Phanxicô.  Từ đó mới có được một tiểu sử, theo lịch sử rất vững vàng, về Vị Thánh Assisi, với nhan đề là Legenda Maior, cũng được viết một cách rất cô đọng xúc tích và bởi thế được gọi là Truyền Thuyết – Legend.  Chữ Latinh, ngược lại với Ý ngữ, (và Anh ngữ, legend), không có nghĩa là hoa trái của việc tưởng tượng, trái lại, Legenda nghĩa là một bản văn có thế giá, “được đọc” một cách chính thức.  Thật vậy, Đại Công Nghị của Dòng Anh Em Hèn Mọn năm 1263, diễn ra ở Pisa, đã công nhận nơi cuốn tiểu sử do Thánh Bonaventura thực hiện là chân dung trung thực nhất về vị sáng lập và vì thế cuốn này trở nên cuốn tiểu sứ chính thức của vị thánh sáng lập dòng.

Hình ảnh về Thánh Phanxicô ra sao khi được xuất phát từ con tim và ngòi bút của người con và là thừa kế viên Bonaventura của mình?  Điểm thiết yếu: Thánh Phanxicô là một Chúa Kitô khác, một con người say mê tìm kiếm Chúa Kitô.  Theo tình yêu thúc đẩy việc noi gương bắt chước, thánh nhân hoàn toàn nên giống Người.  Thánh Bonaventura vạch ra lý tưởng sống này cho tất cả mọi thành phần môn đệ của Thánh Phanxicô.  Lý tưởng này, có giá trị cho hết mọi Kitô hữu, hôm qua, hôm nay và mãi mãi, cũng được ấn định như là một chương trình cho Giáo Hội của Ngàn Năm Thứ Ba bởi vị tiền nhiệm của tôi là Đấng Đáng Kính Gioan Phaolô II.  Chương trình này, ngài viết trong tông thư “Tertio Millennio Ineunte,” được qui về “Chính Chúa Kitô, Đấng cần phải được nhận biết, yêu mến và bắt chước để sống trong Người sự sống Ba Ngôi, và với Người, biến đổi lịch sử cho tới tầm vóc viên trọn của nó trong Giêrusalem thiên đình” (số 29).

Vào năm 1273, đời sống của Thánh Bonaventura lại xẩy ra một đổi thay.  Đức Giáo Hoàng Gregory X muốn tấn phong ngài làm giám mục và tuyển ngài làm hồng y.  Vị Giáo Hoàng này cũng yêu cầu ngài sửa soạn cho một biến cố rất quan trọng của giáo hội, đó là Công Đồng Chung Lyon Lần Thứ Hai, một công đồng nhắm mục tiêu tái thiết lập mối hiệp thông giữa Giáo Hội Latinh và Giáo Hội Hy Lạp.  Ngài đã dấn thân cho công việc này một cách chuyên cần, thế nhưng ngài đã không thấy được lúc kết thúc của cuộc thượng nghị về đại kết này, vì ngài chết trong khi công đồng đang diễn tiến.  Một công chứng viên vô danh của giáo hoàng đã sáng tác một bản tán dương Thánh Bonaventura, một bản tán dương cống hiến cho chúng ta bức chân dung tóm gọn về vị đại thánh này và là một thần học gia tuyệt vời này: “Một con người tốt lành, niềm nở, đạo hạnh và nhân ái, đầy nhân đức, được Thiên Chúa và loài người yêu thương…  Thật vậy, Thiên Chúa đã ban cho ngài ân sủng như thế, để tất cả những ai thấy ngài đều được xâm chiếm bởi một thứ tình yêu mà tâm can không thể nào giấu diếm” (cf. J.G. Bougerol, Bonaventura, in A. Vauchez (vv.aa), Storia dei Santi e della santita cristiana. Vol. VI. L’epoca del rinnovamento evangelico, Milan, 1991, p. 91).

Chúng ta hãy tiếp tục di sản của vị thánh này, vị tiến sĩ của Hội Thánh, vị nhắc nhở chúng ta về ý nghĩa của cuộc đời chúng ta bằng những lời này” Trên trái đất… chúng ta có thể chiêm ngưỡng cái vĩ đại bao la thần linh bằng lý luận và ngợi khen; ở quê hương trên trời, trái lại, qua việc hưởng kiến, bấy giờ chúng ta sẽ được làm cho nên như Thiên Chúa, và nhờ được ngất ngây – chúng ta sẽ hoan hưởng niềm vui của Thiên Chúa” (La conoscenza di Cristo, q. 6, conclusione, in Opere di San Bonaventura. Opuscoli Teologici /1, Rome, 1993, p. 187).

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 3/3/2010

From: Langthangchieutim

Thánh Biển Đức (Benedict) (480-547)-Cha Vương

Cha Vương

 Thứ 3: 11/07/2023

Chúc Bạn và gia đình một ngày an lành nhé.

Hôm nay Giáo hội mừng kính Thánh Biển Đức (Benedict), mừng Bổn Mạng đến những ai chọn Ngài làm quan thầy. Hãy cầu nguyện cho nhau. Nếu Bạn muốn đi tour Tổng Tu Viện Bênêdíctô ở Montecassino bên Ý thì hãy vào linh sau đây. Mình đã có cơ hội đến đó. Tuyệt đẹp!!!

Thánh Bênêdíctô, cầu cho chúng con.

Thánh Biển Đức (480-547), Ngài sinh năm 480 trong một gia đình lỗi lạc ở Nursia, Umbria thuộc miền trung nước Ý, anh em song sinh cùng với nữ thánh Scholastica, theo học tại Rôma và ngay từ khi còn trẻ, ngài đã thích đời sống đan viện.

Lúc đầu, ngài là một vị ẩn tu sống trong một cái hang ở Subiaco, xa lánh thế giới nhiều chán nản mà lúc bấy giờ giặc ngoại giáo đang lan tràn, Giáo Hội bị phân chia bởi ly giáo, dân chúng đau khổ vì chiến tranh, đạo lý ở mức độ thấp nhất. Sau đó không lâu, ngài thấy không thể sống cuộc đời ẩn dật ở gần thành phố, dù lớn hay nhỏ, do đó ngài đi lên núi cao, sống trong một cái hang và ở đó ba năm.

Trong một thời gian, một số đan sĩ chọn ngài làm vị lãnh đạo, nhưng họ cảm thấy không thể theo được sự nghiêm nhặt của ngài. Tuy nhiên, đó cũng là lúc ngài chuyển từ đời sống ẩn tu sang đời sống cộng đoàn. Ngài có sáng kiến quy tụ các nhánh đan sĩ khác nhau thành một “Ðại Ðan Viện”, đem lại cho họ lợi ích của sự hợp quần, tình huynh đệ, và luôn luôn thờ phượng dưới một mái nhà.

Sau cùng, ngài khởi công xây dựng một đan viện nổi tiếng nhất thế giới ở núi Cassino, cũng là nơi phát sinh dòng Bênêđích.

Cũng từ đó, một quy luật từ từ được hình thành nói lên đời sống cầu nguyện phụng vụ, học hỏi, lao động chân tay và sống với nhau trong một cộng đoàn dưới một cha chung là đan viện trưởng.

Sự khổ hạnh của Thánh Bênêđích được coi là chừng mực, và đời sống bác ái của ngài được thể hiện qua sự lưu tâm đến những người chung quanh.

Trong thời Trung Cổ, tất cả các đan viện ở Tây Phương dần dà đều sống theo Quy Luật Thánh Bênêđích.

Thánh nhân qua đời ngày 21 tháng 3 năm 547 tại Monte Cassino, nước Ý. Thánh nhân được cho táng trong cùng một ngôi mộ với em của ngài là Thánh nữ Scholastica dưới bàn thờ chính của đan viện Monte Cassino, nước Ý. Thánh tích của thánh nhân hiện đang giữ tại đan viện Monte Cassino và một phần tại đan viện Saint Bernoit-sur-Loire tại Fleury, nước Pháp.

Lễ mừng kính ngài vào ngày 11 tháng 7 theo nghi lễ Roma, còn dòng Biển Đức thì cử hành lễ kính vào ngày 21 tháng 3 hàng năm để kỷ niệm ngày Thánh Nhân qua đời. (Nguồn: Người Tín Hữu Online)

Mời Bạn:

❦  Hãy áp dụng câu châm ngôn của ngài vào những công việc hàng ngày : “Ora et Labora” (Cầu nguyện và Lao động).

❦  Suy niệm những câu đáng ghi nhớ trên huy hiệu kính thánh Bênêdíctô:

+ Chớ gì chúng con được củng cố bởi sự hiện diện của Chúa vào giờ chúng con chết!

+ Chớ gì Thánh giá của Chúa là ánh sáng cho con!

+ Hãy cút đi, hỡi Xatan, đừng gọi ý cho ta về những sự hào nhoáng của thế gian! Ngươi thèm khát sự dữ ư? Ngươi hãy uống lấy nọc độc của ngươi!

Câu nào đánh động Bạn nhất?

From: Đỗ Dzũng

Đan viện Châu Sơn, Nho Quan, Ninh Bình, Việt Nam

THÁNH BÊNÊĐICTÔ, VIỆN PHỤ (480-547) – Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Đan viện Biển Dức Spencer, tieu bang Massachuset

  1. Đôi Hàng Tiểu Sử

Thánh Bênêđictô sinh tại Norcia năm 480 trong một gia đình giàu sang quý tộc.

Khi nhỏ, cha mẹ cho ngài được ăn học ở địa phương, để gần gũi với gia đình, để dễ bề đào tạo tính tình đức hạnh theo khuôn mẫu tổ tiên.

Năm 14 tuổi, thánh nhân được gởi đến học ở Rôma.  Học ở Rôma được một thời gian, ngài thấy Rôma không phù hợp với mình vì cuộc sống ở Rôma lúc đó rất suy đồi trụy lạc.  Để giữ gìn linh hồn mình được luôn trong sạch.  Ngài đã trốn khỏi kinh thành, muốn tìm đến một nơi thanh vắng, sống đời ẩn tu tịch mạc.  Ý muốn của Ngài đã được Chúa ưng thuận.  Miền hoang địa cách Rôma 40 dặm là nơi Ngài đã dừng chân để được sống cuộc đời tịch liêu thân mật với Chúa.  Trong khi còn đi lang thang tìm một hang trú ẩn, Bênêđictô gặp được thầy Rômanô, một tu sĩ cùng chí hướng với mình.  Tình yêu và lý tưởng đã kết hợp hai người thành đôi bạn chí thiết.  Rômanô chỉ cho Bênêđictô một hang rất kín chưa hề có một vết chân người lui tới.  Bênêđictô sống ở đó ba năm.  Hằng ngày thầy Rômanô mang bánh cho Ngài.  Sau thời gian vắn vỏi sống đời ẩn dật hoàn toàn, Chúa muốn đặt ngọn đèn thánh thiện của Bênêđictô lên nơi cao để soi dẫn cho nhiều người.

 

Ma quỷ thấy nhân đức của ngài thì luôn tìm đủ cách quấy phá.  Đứng trước những cám dỗ của ma quỉ, Ngài luôn làm dấu Thánh giá xua đuổi chúng.  Còn những người muốn sống đời nhân đức trọn lành tìm đến, thì Ngài luôn sẵn sàng hướng dẫn giúp đỡ, dạy bảo.  Nhờ đó mà danh thơm thánh thiện của ngài lan rộng khắp nơi.  Cả những người quý phái ở Rôma cũng đến xin làm môn đệ ngài.  Ngài thành lập 12 tu viện nhỏ, để tiếp nhận họ và giúp họ tập rèn nhân đức.

Saint Benedict | Biography, Rule, Patron Saint Of, Death, & Facts ...

Số người muốn tu luyện theo đường lối thánh nhân mỗi ngày một đông, nên năm 520, ngài phải dời về Montô Cátsinô, thành lập tu viện.  Đây là tu viện đầu tiên của thánh Bênêđictô.  Chính Ngài soạn tu luật cho tu viện.  Sau này tu luật mang tên người được phổ biến khắp châu Âu, nên người được mệnh danh là “Tổ phụ của nếp sống đan tu ở phương Tây.

Tu viện Benedictine đã được trùng tu ở Monte Cassino, Ý.

Ngày nay hầu như tất cả các nước trên thế giới đã có sự hiện diện của các đan viện sống theo lý tưởng của Ngài.  Các tu sĩ của Ngài đã hết lòng yêu mến và tuân giữ ba đặc điểm như ba cột  trụ chi phối và nâng đỡ đời sống của mình.  Ba cột trụ đó là cầu nguyện, học hành và lao động.  Người tu sĩ hằng ngày chuyên cần cầu nguyện, siêng năng học hỏi Lời Chúa và làm việc chân tay để tự nuôi sống.

 Bênêdictô qua đời ngày 21 tháng 3 năm 547.  Từ cuối thế kỷ VIII, Ngài đã được kính nhớ vào ngày 11 tháng 7.  Ngày 24 tháng 10 năm 1964, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI ra tông thư “Sứ giả hoà bình” (Pacis nuntius), đặt người làm bổn mạng toàn châu Âu.

Sau khi Ngài qua đời, các môn đệ của thánh nhân đặt xác thầy mình bên cạnh xác em gái Ngài, trong mộ Ngài đã dọn sẵn cho mình ở dưới bàn thờ thánh Gioan Baotixita.

Cuộc đời trần thế của thánh nhân tới đây kết liễu, nhưng danh thơm và sự nghiệp vĩ đại của Ngài sẽ còn tồn tại như bia đá ngàn thu, Người ta quên sao được bộ tu luật bất hủ của Ngài đã làm hứng khởi bao tâm hồn đạo đức là kim chỉ nam cho những ai muốn nên thánh thiện.  Đàng khác sự tiến phát mau lẹ của dòng và con số đông đảo của những tu sĩ rải rác khắp năm châu, phải chăng chính là dấu Chúa quan phòng hằng chúc phúc cho sự nghiệp của đấng thánh qua muôn thế hệ.

2. Con đường nên thánh.

a )Chỉ muốn làm đẹp lòng Thiên Chúa.

Trong cuốn “đối thoại,” thánh Grêgôriô cả, sử gia của Bênêđictô, mệnh danh Ngài là “người của Thiên Chúa.”  Ơn gọi của Bênêđictô độc đáo ở chỗ là “chỉ muốn đẹp lòng duy nhất mình Thiên Chúa.  Ngài thực thi tốt và liên lỉ các nhân đức đối thần đến nỗi tất cả cuộc sống Ngài được Thiên Chúa qui hướng.  Người của Thiên Chúa trước tiên là người của lòng tin.  Điều này ta thấy được dễ dàng qua qui luật.  Sử gia Daniel Rops: “Tất cả con người Bênêđictô là ở trong qui luật.  Nếu ta muốn chấm phá dung mạo thiêng liêng của Ngài, thì phải rút những nét tự Qui luật, đó là bức chân dung trung thực nhất về Ngài.”  Thánh Grêgôriô khẳng định : “Ngài không dạy điều gì khác Ngài đã sống.”  Cho mỗi vấn đề mới được nêu ra, Ngài đã trả lời trước tiên bằng mỗi tác động đức tin.  Vậy thì Đan Viện là gì? – thưa, là “Trường phụng sự  Chúa,” cho nên đồ đạc và tài sản của đan viện phải được coi như những  “bình thánh,” cung hiến cho Thiên Chúa  (Qui luật 31).

Luật Thánh Bênêđictô, viết bằng chữ Beneventan ở Montecassino, Ý, cuối thế kỷ 11.

Mọi công việc phải được xử lý một cách lương thiện “Để trong mọi sự Thiên Chúa được tôn vinh” (57).  Nhưng trong việc nào, ta gặp Thiên Chúa hoàn  toàn hơn? – Đó là Nhật Tụng, là việc của Thiên Chúa.  Do đó “Đừng coi việc gì quí hơn Nhật Tụng” (43).  Điều này không có nghĩa là ta gặp được Chúa ít hơn trong nơi khác.  Trái lại, viện phụ là Đức Kitô (2), khách và nhất là người nghèo là Đức Kitô (53).  Bệnh nhân cũng còn là Đức Kitô (36).  Ở mọi nơi, đan sĩ có thể gặp Đức Kitô.

b)Luôn tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa.

Năm 339, nước Ý phải cơn đói kém lớn lao chưa từng thấy; nhân dân khắp nơi đều phải điêu linh khổ sở túng đói.  Kho lẫm của tu viện thánh Bênêđictô cũng đến ngày hết sạch lương thực: ngày kia chỉ còn có 5 chiếc bánh để cho cả nhà hàng trăm người dùng bữa.  Thấy các thầy ai cũng rầu rầu mặt, vị tu viện trưởng khả kính liền buông lời trách mát các thầy vì thiếu lòng tin tưởng.  Ngài nói:

  • Sao các anh em buồn rầu vì thiếu bánh?  Ngày hôm nay chúng ta còn ít, thì ngày mai chúng ta sẽ có dư dật.

Hôm sau quả thấy có hai trăm thùng bột mì đựng trong các bao mà không ai biết là Thiên Chúa toàn năng đã sai ai đem đến.  Các tu sĩ ai nấy dâng lời tạ ơn Chúa và từ đấy không bao giờ phải lo túng thiếu cả, khi trời làm đói kém, mất mùa cũng vậy.  Lần  khác có một người bị truy tố vì không có tiền trả một món nợ cấp bách.  Ông đến bày tỏ tình cảnh của mình với Tu viện trưởng Bênêđictô và xin Ngài thương giúp.  Thánh nhân trả lời rằng: mình không có đủ 12 đồng tiền vàng để cho ông, rồi Ngài tiếp thêm để an ủi:

  • Ông cứ về và hai ngày nữa trở lại đây, vì hôm nay tôi không có để mà cho.

Trong hai ngày đó thánh nhân cầu nguyện nhiều; ngày thứ ba con nợ trở lại, người ta thấy trên mặt hòm vẫn chứa bột mì có 13 đồng vàng, thánh nhân bảo người nhà đem trao cho con nợ tội nghiệp kia và nói:

  • Ông hãy lấy 12 đồng mà trả nợ còn một đồng để mà chi tiêu riêng.

C)Quy luật của đời sống cộng đoàn:

Đan viện Biển Đức ở Colorado, vùng SnowMass.

“Các đan sĩ hãy cố công và hâm mộ luyện tập lấy thứ thiện tâm ấy, đó là:

Ân cần tôn kính lẫn nhau;

Hết sức kiên nhẫn chịu đựng các nhược điểm hồn xác của nhau;

Thi đua vâng lời nhau;

Không ai tìm ích lợi cho mình;

Trái lại, hãy tìm lợi ích cho nhau;

Thực thi nghĩa vụ huynh đệ với lòng trong sáng;

Kính sợ Chúa trong tình thương;

Yêu mến Viện Phụ bằng tình yêu chân thành và khiêm tốn;

Và sau hết tuyệt đối không quí trọng gì hơn Chúa Kitô, Đấng dẫn đưa hết thảy chúng ta lên cõi đời đời.”

Các đan sĩ Benedict  nhà Spencer, Massachuset

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

From: Langthangchieutim


 

Thánh Maria Goretti (1890-1902)

Chúc bạn và gia đình một ngày an lành! Hôm nay 06/7, Giáo Hội mừng kính Thánh Maria Goretti, mừng quan thầy đến những ai chọn ngài làm bổn mạng, xin cầu nguyện cho giới trẻ trong thời đại ngày nay nhé.

Cha Vương

Thứ 5: 06/07/2023

Thánh Maria Goretti (1890-1902) sống ở trần thế có 12 năm, nhưng câu chuyện cuộc đời của thánh nữ đã xúc động biết bao tâm hồn. Maria Goretti sinh ngày 16 tháng 10 năm 1890 tại Corinaldo, Ancona, Ý Đại Lợi. Là con gái của ông Luigi Goretti và bà Assunta Carlini, một gia đình nghèo người Ý, ông Luigi Goretti chết sớm, chỉ còn người vợ tần tảo nuôi 6 con. Maria không có cơ hội để đi học, do đó cũng không biết đọc và biết viết. Khi rước lễ lần đầu, cô là một thiếu nữ to con so với cả lớp.

Trong buổi trưa hè oi ả vào tháng Bảy, Maria một mình ngồi may vá trên các bậc thang trong căn nhà lụp xụp. Lúc ấy, cô chưa đến 12 tuổi, nhưng thân thể cô đã phát triển. Một chiếc xe bò dừng ở bên ngoài, và người thanh niên hàng xóm là Alessandro Serenelli, 18 tuổi, chạy vào nhà, bước vội lên cầu thang. Hắn tấn công Maria và lôi cô vào phòng ngủ để hãm hiếp. Cô kháng cự và kêu cứu, trong hơi thở dồn dập cô cho biết thà chết còn hơn phạm tội. “Ðó là tội lỗi. Chúa không muốn như vậy. Anh sẽ xuống hỏa ngục vì tội này.”

Saint Maria Goretti calls us to be 'witnesses of forgiveness'

 

Như một con thú điên, Alessandro rút dao đâm túi bụi vào người Maria. Trong khi nằm ở bệnh viện, Maria đã tha thứ cho Alessandro trước khi qua đời ngày 06 tháng 7 năm 1902.

Kẻ sát nhân bị án tù 30 năm. Trong một thời gian dài, hắn vẫn không ăn năn sám hối và hay bực tức. Một đêm kia hắn mơ thấy Maria, tay cầm một bông hoa và trao cho hắn. Kể từ đó, cuộc đời Alessandro thay đổi. Sau khi được trả tự do, hành động đầu tiên của Alessandro là đến xin người mẹ của Maria tha thứ cho mình.

Câu chuyện của Maria Goretti ngày càng lan rộng và lòng sùng mộ vị tử đạo trẻ tuổi ngày càng gia tăng, nhiều phép lạ đã được ghi nhận và chưa đầy nửa thế kỷ, Maria Goretti đã được tuyên xưng á thánh. Trong buổi lễ tôn phong chân phước ngày 27 tháng 4 năm 1947, mẹ của Maria Goretti (lúc ấy 82 tuổi), hai cô em gái và một em trai cùng xuất hiện với Ðức Giáo Hoàng Pius XII ở bao lơn Công Trường Thánh Phêrô.

Ba năm sau, vào ngày 24 tháng 6 năm 1950, Ðức Giáo Hoàng Pius XII đã nâng Maria Goretti  lên hàng hiển thánh. Trong đám đông khoảng 500,000 người tham dự lễ phong thánh có Alessandro Serenelli, lúc ấy đã 66 tuổi, đang quỳ gối với hai hàng nước mắt sung sướng lăn dài trên gò má.

Thánh tích Thánh Maria Goretti: Thánh Maria Goretti được coi là vị tử đạo vì ngài đã chiến đấu chống trả hành động bạo lực của Alessandro. Tuy nhiên, khía cạnh quan trọng nhất của thánh nữ là sự tha thứ cho kẻ xúc phạm, mà ngài vẫn lưu tâm đến kẻ thù ngay cả sau khi chết. Thánh Maria Goretti được đặt làm quan thầy giới trẻ và các nạn nhân bị hãm hiếp. (Trích: Người Tín Hữu Online)

Maria Goretti

Sau đây là Lời Kinh Đức Thánh Cha Gioan Phaolo 2 dâng lên thánh nữ Maria Goretti: Hỡi Cô Bé của Thiên Chúa, Bé đã sớm biết thế nào là khổ cực, nhọc mệt, đau thương cùng những niềm vui ngắn ngủi của cuộc sống. Bé từng biết thế nào là nghèo đói và mồ côi. Bé đã không ngừng yêu mến tha nhân, tự làm người hầu hạ khiêm tốn và ân cần. Bé sống tốt lành, không khoe khoang, và đã yêu mến Tình Yêu trên mọi sự. Bé đã đổ máu đào để khỏi phản bội Thiên Chúa. Bé đã tha thứ cho người đã giết Bé và cầu mong hạnh phúc Thiên Đàng cho anh ta. Xin Bé hãy bầu cử và cầu nguyện cho chúng tôi bên tòa Thiên Chúa Cha, hầu chúng tôi cũng biết thưa vâng đối với chương trình Thiên Chúa định liệu trên chúng tôi. Hỡi Đấng là Bạn Hữu của Thiên Chúa, đang chiêm ngưỡng Chúa mặt giáp mặt, xin hãy khẩn cầu cùng Chúa ban cho chúng tôi ơn xin cùng ngài… (thêm vào ý chỉ cầu nguyện) Chúng tôi cảm tạ ngài, hỡi Marietta, vì tình yêu ngài dành cho Thiên Chúa và cho anh chị em đồng loại, mà ngài đã gieo vãi trong lòng chúng tôi. Amen.

Lạy Thánh Nữ Maria Goretti, xin cầu bầu cho chúng con!

From: Đỗ Dzũng

Xin tin yêu – Gia Ân


 

Thánh Antôn Maria Zacaria (1502-1539)

Mến chào một ngày mới, hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Antôn Maria Zacaria (1502-1539), Linh mục. Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương 

Thứ 4: 05/07/2023

CUỘC ĐỜI CỦA THÁNH ANTÔN MARIA ZACARIA: Năm 1509, Antôn Maria Zacaria mở mắt chào đời trong một gia đình đạo đức, quyền quí tại Crémone. Thánh nhân ngay từ lúc còn nhỏ đã có lòng thanh sạch, đã yêu quí đức khiết tịnh một cách cương quyết, sâu xa. Ngài cảm nghiệm Lời Chúa trong tám mối phúc thật: “ Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5, 8 ).Thánh nhân có tâm hồn trong trắng, luôn hướng về Chúa và yêu thương các kẻ nghèo hèn, bần cùng đúng như Lời Chúa dậy: “ Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”( Mt 5,7 ). Thánh nhân có trí thông minh sáng suốt, con đường học vấn của Người bắt đầu và đang rực rỡ huy hoàng, nhưng Người lại tuân theo ý Chúa: “…Hãy về bán hết của cải, phân chia cho người nghèo khó và đi theo Ta”. Chính vì ý thức sâu xa Lời Chúa và có tâm hồn hướng về Chúa, muốn tận hiến cuộc đời mình cho một mình Chúa, thánh nhân đã cố gắng trau dồi kiến thức thánh: triết học, thần học và tu đức học. Với ơn Chúa giúp, với sự cố gắng, phấn đấu không mệt mỏi, thánh Antôn Maria Zacaria đã được lãnh nhận sứ vụ linh mục. Với thánh chức, thánh nhân đã cùng với Bartôlômêô Ferrariô và Giacôbê Morigia lập tu hội triều vào năm 1533 có tên là hội thánh Phaolô và nhóm nữ tu thiên thần vào năm 1535 để cùng nhau sống tinh thần huynh đệ Tin Mừng. Với tinh thần huynh đệ Phúc Âm, thánh nhân đã chu toàn bổn phận và rao giảng, loan truyền Lời Chúa chống ảnh hưởng tai hại của bè rối Luther. Thánh nhân có tinh thần phục vụ cao vời và có một lòng yêu mến Chúa sâu xa, yêu mến Bí Tích Thánh Thể và khuyến khích nhiều người sùng kính, tôn vinh Thánh Thể Chúa.

THÁNH ANTÔN MARIA ZACARIA RA ĐI VỀ VỚI CHÚA KHI TUỔI ĐỜI MỚI CÓ 36:

Ngày 5 tháng 7 năm 1539 thánh nhân đã ra đi về với Chúa an bình sau nhiều tháng năm nhiệt thành với sứ vụ tại Crémone, thọ 36 tuổi. Với tuổi đời còn trẻ, còn nhiều hăng say, Chúa đã cất Ngài về để chiêm ngưỡng thánh nhan Chúa mãi mãi. Thánh nhân đã về với Chúa như Lời Chúa nói:  “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, để anh em ra đi, thu được kết quả, và kết quả anh em được lâu bền” (Ga 15, 16).

Đức Thánh Cha Lêô XIII đã cất nhắc Ngài lên bậc hiển thánh vào năm 1807 vì lòng nhiệt thành truyền giáo và tinh thần cầu nguyện vượt bậc của Ngài.

(Nguồn: Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)

Thánh Antôn Maria Giacaria thường nói với các môn sinh: “Đặc tính của những tâm hồn đại lượng là phục vụ không mong phần thưởng, chiến đấu không chờ lương bổng. Hãy tiến tới không ngừng và hướng tới sự hoàn thiện cao cả hơn. Hãy nói với Chúa Giêsu bị đóng đinh về tất cả những gì bạn thấy và lãnh ý Người, cho mình và cho người khác”.

❦ Noi gương thánh nhân hôm nay mời bạn hãy rao giảng Tin Mừng bằng cách cho đi nhưng không mong đền đáp nhé.

From: Đỗ Dzũng

Chúa Là Đấng Từ Bi – Thánh Vịnh 102  

Các Thánh tử đạo tiên khởi Roma (c. 68 A.D.)

Hôm nay 30/06, Giáo Hội mừng kính các Thánh tử đạo tiên khởi Roma (c. 68 A.D.) Chúc bạn một cuối tuần vui khoẻ luôn “vuông tròn một niềm hiếu trung” nhé.

Cha Vương

Thứ 6: 30/6/2023

Nhiều năm sau khi Ðức Giêsu về trời, chỉ có khoảng một chục người Kitô Giáo ở Rôma, dù rằng họ không phải là những người tòng giáo của “vị tông đồ Dân Ngoại” (Rom 15:20). Khi Thánh Phaolô viết lá thư ấy vào khoảng 57-58 A.D. thì ngài chưa đến thăm họ.

Ở Rôma có nhiều người Do Thái. Có lẽ vì sự tranh chấp giữa người Do Thái Giáo và Do Thái Kitô Giáo mà Hoàng Ðế Claudius đã trục xuất tất cả người Do Thái ra khỏi Rôma trong những năm 49-50 A.D. Sử gia Suetonius nói rằng việc trục xuất là vì những xáo trộn trong thành phố “gây nên bởi một vài Kitô Hữu.” Có lẽ sau khi Claudius từ trần, nhiều người đã trở lại đây vào năm 54, vì lá thư của Thánh Phaolô dường như viết cho một giáo đoàn Dân Ngoại rộng lớn.

Vào tháng Bảy năm 64, hơn một nửa thành phố Rôma bị tiêu hủy vì hỏa hoạn. Người ta đồn rằng chính Hoàng Ðế Nero đã gây ra thảm kịch này vì muốn nới rộng cung điện của ông. Nero đã mưu mô chuyển hướng bằng cách kết tội người Kitô Giáo. Theo sử gia Tacitus, một “số đông” Kitô Hữu đã bị chết vì “sự thù hận của con người.” Thánh Phêrô và Thánh Phaolô có lẽ cùng chung số phận với những người này.

Có những vị bị đem ra làm mồi để thú vật xâu xé, những vị khác bị treo trên thập giá cho đến chết, cũng có những vị bị tẩm dầu vào thân xác rồi đốt như một ngọn đuốc cháy sáng mỗi khi đêm xuống. Tất cả những vị đó đều là môn đệ của các thánh tông đồ, các ngài đã được hiến dâng cho Chúa như của lễ đầu mùa, như hạt giống đức tin gieo vào lòng lương dân để từ đó nảy sinh những hoa trái tốt tươi cho các thế hệ kế tiếp.

LỜI TRÍCH: Ðức Giáo Hoàng Clêmentê I, người kế vị Thánh Phêrô đã viết: “Chính vì sự đố kỵ và ghen ghét mà các trụ cột vĩ đại và chính trực của Giáo Hội đã bị bách hại và đã chiến đấu cho tới chết… Trước nhất, Thánh Phêrô, vì sự ghen tương vô lý ngài phải đau khổ không chỉ một hoặc hai lần nhưng nhiều lần, và như thế ngài đã hy sinh làm chứng, đã đến nơi vinh hiển mà ngài đáng được. Vì sự đố kỵ và tranh chấp, Thánh Phaolô đã cho thấy cái giá của sự kiên trì. Ngài bị xiềng xích bảy lần, bị lưu đầy, và bị ném đá; là một sứ giả từ đông sang tây, ngài đáng được kính phục vì đức tin của ngài…

“Chung quanh các đấng ấy là một đám đông những người được tuyển chọn, mặc dù là nạn nhân của sự ghen ghét, họ đã đem cho chúng ta gương mẫu cao quý nhất về sự chịu đựng khi bị tra tấn và sỉ nhục. Vì sự đố kỵ mà các phụ nữ phải đau khổ, như bà Dirce hoặc các con gái của Danaus, họ phải đau đớn khủng khiếp vì các hành động thô bạo. Nhưng họ đã can đảm chu toàn đức tin bất kể sự yếu đuối của thân xác và đã chiếm được phần thưởng cao quý. (Nguồn: Người Tín Hữu Online)

Noi gương các thánh Thánh tử đạo tiên khởi, bạn có thể  dâng lên Chúa một hy sinh nhỏ để cầu nguyện cho các linh hồn trong luyện ngục không?

From: Đỗ Dzũng

YouTube player

ĐƯỜNG CON THEO CHÚA – NGUYỄN HỒNG ÂN

Thánh Tông Đồ Phê-rô và Phao-lô-Cha Vương

Thánh Tông Đồ Phê-rô và Phao-lô

Hôm nay Giáo hội mừng kính trọng thể 2 thánh Tông Đồ Phê-rô và Phao-lô, mừng lễ bổn mạng đến những ai chọn Phê-rô và Phao-lô làm quan thầy nhé. Chúc mừng, chúc mừng!

Cha Vương

Thứ 5: 29/06/2023

Sơ lược tiểu sử Thánh Phê-rô:

. Sinh tại Bethsaida, xứ Galilê, làm nghề đánh cá

. Thánh Phêrô là tông đồ trưởng trong số mười hai thánh tông đồ của Chúa Giêsu.

. Luôn có mặt trong những biến cố quan trọng trong đời Chúa Giêsu

. Thánh Phêrô được Chúa trao cho quyền cai quản Hội Thánh.

. Tử đạo tại Rôma năm 64 dưới thời Hoàng Đế Nêron (chịu đóng đinh ngược)

. Ngôi mộ Ngài theo truyền thống ngự dưới chân tòa thánh Vatican

Sơ lược tiểu sử Thánh Phao-lô:

. Sinh vào thập niên đầu của công nguyên, tức là cùng thời với Chúa Giêsu.

. Thánh Phaolô có tên là Saolô, tuy là người Do thái, thuộc chi họ Benjamin, nhưng Saolô sinh ra và lớn lên ở Tarsus, thủ phủ của tỉnh Cicilia, nay là miền nam Thổ nhĩ kỳ.

. Ngài vóc dáng thấp bé, nhưng thông minh vượt xa những người cùng lứa tuổi. Lúc nhỏ được giáo dục ở Tarsus là một trung tâm nổi tiếng về văn hoá và triết học. Lớn lên, Saolô được gởi lên Giêrusalem, học với Thầy Gamaliel Cả, theo những tiêu chuẩn khắt khe nhất của nhóm Biệt phái.

. Saolô là một người lỗi lạc trong lãnh vực văn chương và triết học của cả ba nền văn hóa chính thời đó là Hy lạp, La tinh và Do thái. Ngài thuộc lòng Kinh Thánh của người Do thái, tức là bộ Cựu Ước. Saolô hết sức nhiệt thành đối với truyền thống của cha ông.

. Tuy là biệt phái, xét theo lề luật, nhưng ngài đã trở lại đạo khoảng 33/35.

. Sau khi bị cầm tù lần thứ hai tại Rôma, có lẽ ngài đã bị chém đầu vào khoảng năm 67 tại Aquas Salvias, (theo truyền thống—độ 5km về hướng nam Rôma, ba năm sau khi Thánh Phê-rô tử đạo), và được mai táng trên đường Ostia, nơi đây, ngapi ta xây vương cung thánh đường thánh Phaolô-ngoại thành.

“Phê-rô và Phao-lô là hai tông đồ khác nhau như nước với lửa: Phê-rô là dân đánh cá ít học, Phao-lô thuộc tầng lớp trí thức; Phê-rô theo Chúa ngay từ đầu, còn Phao-lô là ‘đứa con đẻ non’ (x. 1Cr 15,8) mãi sau này mới theo Chúa; Phê-rô gắn bó với Ki-tô hữu gốc Do Thái, còn Phao-lô rao giảng cho dân ngoại. Khác nhau về gốc gác, về quan điểm truyền giáo, thế nhưng, trong Đức Giê-su, cùng với Đức Giê-su và vì Đức Giê-su, Đấng cả hai quý mến hơn mọi sự trên đời, Phê-rô và Phao-lô hiệp nhất trong một công trình chung: xây dựng Hội thánh của Đức Giê-su bằng lòng nhiệt thành hăng say rao giảng, bất chấp đòn vọt, tù đày, như thánh Phao-lô đã thốt lên: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16). Hai vị còn giống nhau trong cái chết hy sinh mạng sống cho Đấng mình yêu: Phê-rô bị đóng đinh ngược đầu xuống đất, Phao-lô bị chém đầu.

Nhớ rằng Hội thánh chủ ý mừng hai vị tông đồ trong một ngày lễ chính là để nêu cao tinh thần hiệp nhất trong công cuộc xây dựng Hội thánh. Bạn có quyết gạt bỏ những bất đồng để cùng hiệp nhất xây dựng gia đình, cộng đoàn, giáo xứ, đoàn thể… không?” (Trích: 5 phút suy niệm)

Lạy Chúa, hai Thánh Phê-rô và Phao-lô đã theo Chúa đến cùng và sống trong tinh thần hiệp nhất để xây dựng Hội thánh của Chúa, xin cho con biết gạt bỏ hận thù, kỳ thị, tranh chấp, nghi kị, kết án lẫn nhau… để cộng tác với Chúa xây dựng gia đình, cộng đoàn, giáo xứ… mỗi ngày một tốt đẹp hơn.

From: Đỗ Dzũng

YouTube player

T. Phêrô & Phaolô (29-6) – Thánh Vịnh 33 – ĐÁP CA – Ca sĩ: Công Minh

NHỮNG TƯƠNG ĐỒNG LẠ LÙNG-Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Giáo hội mừng kính hai Thánh Tông đồ, hai cột trụ Giáo hội cùng chung một ngày.  Hai con người khác nhau từ cá tính đến thân thế nhưng có rất nhiều cái chung: Cùng chung một ơn gọi từ Chúa Kitô, cùng chung một niềm tin vào Chúa Kitô, cùng chung một sứ mạng Chúa Kitô trao phó, và cuối đời cùng chịu tử đạo vì Chúa Kitô tại Roma.  Cả hai Ngài cùng chia sẻ một niềm tin, cùng thi hành một sứ mạng.  Chúa Kitô đã đã đưa hai Ngài đến một cùng đích, một vinh quang đội triều thiên khải hoàn, cùng trở thành nền móng xây tòa nhà Giáo hội, cùng trở nên biểu tượng hiên ngang của niềm tin Công Giáo.  Hai Thánh Tông Đồ được Giáo hội mừng chung vào một ngày lễ 29 tháng 6.

Hai con người khác biệt ấy lại có những điểm tương đồng lạ lùng.  Chúa Kitô đã nối những điểm tương đồng ấy để tất cả được nên một ở trong Người.  Thánh Phêrô, trước đây hèn nhát, sợ hãi, chối Chúa, về sau yêu Chúa nồng nàn thiết tha; Thánh Phaolô, trước kia ghét Chúa thậm tệ, sau này yêu Chúa trên hết mọi sự.  Trước kia hai vị rất khác biệt, bây giờ cả hai nên một trong tình yêu Chúa.

Hai tên gọi cùng được đổi mới.

Theo cách dùngThánh Kinh, tên không những chỉ là danh xưng dùng để gọi một người mà còn là hiện thân của một người (x. Từ điển Công Giáo phổ thông).  Tên gọi nói lên một sứ mạng.  Tên mới biểu tượng một thân phận mới, một bản chất mới.  Ađam đặt tên cho mọi giống vật và đặt tên cho vợ: “Ngươi sẽ gọi tên vợ là Eva, vì bà là mẹ của chúng sinh” (St 3,20).  Abram được đổi tên để nhận lấy một sứ mạng cao cả: “Tên ngươi không còn là Abram nữa, mà là Abraham… Sarai, vợ ngươi, sẽ không còn là Sarai nữa.  Song tên nó là Sara.  Bởi Sara, ngươi có một người con trai, ngươi sẽ đặt tên cho nó là Isaac” (St 17,5-20).  Tổ phụ Giacop được đổi tên là Israel: “Người đó hỏi ông: “Tên ngươi là gì?”  Ông đáp: “Tên tôi là Giacop.  “Người đó nói: “Người ta sẽ không gọi tên ngươi là Giacop nữa, nhưng là Israel, vì ngươi đã đấu với Thiên Chúa và với người ta, và ngươi đã thắng.” (St 32,28-29).  Theo lời Sứ thần Gabriel, Đức Maria đặt tên cho con là Giêsu.  Ông Giacaria đặt tên cho con trai là Gioan.

MONDAY OF THE 1ST WEEK IN ORDINARY TIME GOSPEL, COMMENTARY AND READING ...

Khi Anrê dẫn em trai là Simon đến gặp Chúa Giêsu, Người nhìn Simon và nói: “Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” (tức là Phêrô) (Ga 1,42).  Chúa xây dựng Giáo Hội trên Đá Tảng Phêrô: “Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá.  Trên tảng đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16,18).  Chúa còn trao chìa khoá Nước trời cho Phêrô.

Acts Chapter 9 live class audio | Mark McMillion

Saolô là một biệt phái nhiệt thành.  Trên đường đến Đamát, thình lình một luồng sáng từ trời bao tỏa lấy Saolô.  Ông ngã xuống đất và nghe một giọng nói với ông: “Saolô, Saolô, tại sao ngươi bắt bớ Ta?  Saolô hỏi: “Ngài là ai?”  Và có tiếng trả lời “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ” (Cv 9,1-5).  Saolô đã bị mù lòa.  Ông làm những gì được chỉ bảo.  Ba ngày sau, ông Annanias đến, đặt tay trên Saolô và ngay lập tức có cái vảy bong ra khỏi mắt và ông được sáng.  Ông đứng dậy và chịu phép rửa (Cv 9,6-18).  Từ đó, Chúa Giêsu biến đổi Saolô thành một Tông đồ dân ngoại.  Kể từ chương 13 sách CVTĐ, Saolô có tên mới là Phaolô.

Đặt tên cho một người là định hướng cuộc đời người ấy theo tên gọi.  Từ đó Chúa có một chương trình trong sự quan tâm trìu mến của người đặt tên.  Tên Giêsu là sứ mạng của Người (Mt 1,21) nghĩa là cứu độ (Cv 14,3), cứu thoát (Cv 4,12), đem lại sự sống siêu nhiên cách viên mãn (Col 3,17).  Ai cầu nguyện nhân danh Đức Giêsu, theo ý hướng của Người sẽ luôn luôn được nhận lời (Ga 15,16); Ai kêu cầu tên Người sẽ được cứu thoát (Rm 10,13); Những ai tin vào tên Người sẽ làm nên Hội Thánh (1 Cor 1,2) và từ đó được gọi là Kitô hữu (Cv 11,26).  Simon và Saolô đón nhận tên gọi mới là Phêrô và Phaolô với sứ vụ cao cả là đá tảng và là cột trụ của Giáo Hội.

Hai khuôn mặt cùng một niềm tin

Có nhiều dư luận nói về Chúa Giêsu.  Người hỏi các môn đệ: “Các con bảo Thầy là ai?”  Simon Phêrô nhanh nhẹn đáp: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16).  Chúa Giêsu rất hài lòng về câu trả lời của Phêrô.  Người nói với Phêrô: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16,17).  Phêrô tuyên xưng niềm tin.  Chúa Giêsu đặt thánh Phêrô làm đầu Giáo Hội (Mt 16,18).

Từ khi nhận phép rửa, Phaolô đã mạnh dạn rao giảng về Chúa Kitô khiến nhiều người Do Thái ngạc nhiên tự hỏi: “Ông này chẳng phải là người ở Giêrusalem vẫn tiêu diệt những ai kêu cầu danh Giêsu sao?  Chẳng phải ông đã đến đây với mục đích bắt trói họ giải về cho các thượng tế sao?” (Cv 9, 21).  Phaolô đã làm bẽ mặt những người Do Thái ở Đamát, khi minh chứng rằng Đức Giêsu là Đấng Mêsia (Cv 9, 22).  Phaolô đã được các tông đồ tin tưởng nhờ đó ngài và các tông đồ đi lại hoạt động tại Giêrusalem.  Phaolô mạnh dạn rao giảng nhân danh Chúa Giêsu Kitô (Cv 9, 28).

Acts Devotional Commentary [Acts 9:26-31] Paul In Jerusalem – Dust Off ...

Phêrô tuyên xưng đức tin.  Trên đá tảng Phêrô, đức tin được xây dựng.  Phaolô làm sáng tỏ đức tin.  Vị tông đồ dân ngoại hăng hái đem đức tin gieo trồng khắp mọi nơi.  Hai khía cạnh của đức tin luôn sống động trong Giáo Hội, sứ mạng củng cố đức tin, xây dựng nội bộ và sứ mạng truyền giáo, đem đức tin đến với muôn dân.

Hai tính cách cùng một lòng mến

Thánh Phêrô, tính tình nóng nảy, bộc trực và đôi lúc hơi liều lĩnh.  Nói về ông người ta không thể không nhắc đến cái vết thật đen trong cuộc đời của ông.  Đó là lần ông đã chối Chúa.  Alain một nhà tư tưởng lớn của Pháp đã viết những lời như thế thật chua cay về cái biến cố này: “Tôi hình dung ra ông ta đang ở trên Thiên đàng, đầu đội triều thiên hào quang sáng chói nhưng mỗi khi nhớ đến ‘dzụ’ ấy, chắc ông còn phải đỏ mặt.”  Lý do, ông viết tiếp: “Tông đồ Phêrô trong hoàn cảnh lúc đó đã lẩn trốn như thỏ hay như chuột.”  Lời nhận định hơi chua chát một chút nhưng nó cho chúng ta thấy tính cách nghiêm trọng của vấn đề.  Vì Phêrô là Thủ lãnh các tông đồ, thủ lãnh nhóm 12 và nhất là trước đó Chúa đã cảnh cáo ông.

Đời ông là giằng co giữa yếu đuối và dũng mãnh, giữa trọn vẹn và dang dở, giữa xa và gần, giữa trời và đất.  Trái tim ông có u tối đi tìm ánh sáng, có nuối tiếc đi tìm lý tưởng.  Đời ông có tự tin gặp vấp ngã, có phấn đấu gặp thất bại.  Tuy nhiên, thánh Phêrô có nhiều đức tính đáng nể phục.  Chính những đức tính sáng chói này sẽ làm lu mờ đi những cái tầm thường nơi con người của ngài.  Nhờ đó, ngài đã xứng đáng với sự tín nhiệm của Chúa.  Thánh Phêrô có lòng quảng đại.  Khi được Chúa gọi, ông nhanh nhẹn bỏ tất cả mọi sự rồi theo Chúa.  Thánh Phêrô có một đức tin chân thành và lòng gắn bó keo sơn với Chúa: “Lạy thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai vì Thầy có lời ban sự sống đời đời.”  Đức tính đáng cảm phục nhất chính là lòng khiêm nhường.  Đó là nhân đức nền tảng của mọi nhân đức.  Khiêm nhường là mẹ các nhân đức.  Rõ ràng, trong trái tim Phêrô lúc nào cũng yêu Chúa.  Ngay cả khi Chúa bảo Phêrô là Satan thì Phêrô cũng không giận Chúa.  Chỉ vì sự sợ hãi yếu đuối mà chối Thầy, chứ trong tâm hồn lúc nào Phêrô cũng yêu mến Chúa.  Không phải Phêrô yếu đuối vấp ngã mà Chúa bỏ rơi, chính tình yêu chân thành trong tâm hồn Phêrô mà Chúa đã yêu thương chọn làm Tảng Đá.

Saolô là người Do thái, trí thức, thông thạo nhiều thứ tiếng miền Do thái – Hy lạp, rất sùng đạo theo môn phái Gamaliên ở Giêrusalem.  Saolô là biệt phái nhiệt thành đi lùng sục bắt bớ Đạo Chúa, tham gia vào vụ giết Têphanô và trên đường Đamát truy lùng các Kitô hữu.  Được ơn trở lại, Saolô được biến đổi để trở nên chứng nhân vĩ đại là Phaolô, Tông Đồ dân ngoại.  Khi đã biết Chúa Kitô thì “những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi.  Hơn nữa tôi còn coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa của tôi.  Vì Ngài, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người.  Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do luật Môsê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Giêsu” (Pl 3,7-9).  Phaolô hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô.  Ngài trở thành một Tông đồ dân ngoại kiệt xuất, thành lập nhiều Giáo đoàn, mở mang phát triển Hội Thánh cách quang minh chính đại, khiến bản thân phải ra tòa, tù tội, vất vả trăm đường.  Các mối phúc thật được kết tinh nơi cuộc đời thánh nhân.  Phaolô đã sung sướng tự hào cả khi ý thức những yếu đuối của mình “Ơn Ta đủ cho con vì chưng quyền năng trong yếu đuối mới viên thành” (2 Cor 12,9).  Không gì có thể làm nao núng lòng tin mãnh liệt ấy “Chúng tôi bị dồn ép tư bề nhưng không bị đè bẹp; hoang mang nhưng không tuyêt vọng; bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt” (2cor 4,8-9).  Vị Tông đồ dân ngoại đã nhiệt thành loan truyền Chúa Kitô với tất cả thao thức “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng” (1Cor 5,14).  Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài “Tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi” (Gal 2,20).  Vì Đức Kitô và vì Tin mừng, thánh nhân đã sống và chết cho sứ vụ.  Cuộc sống bôn ba vì Nước trời được điểm tô muôn ngàn vạn nét đẹp của Phaolô mãi mãi được hát lên như một bài ca khải hoàn “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô?  Phải chăng là gian truân, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo?…  Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 8,35-39).

Hai vị Thánh Tông Đồ có chung một lòng mến, một niềm tin và một khát khao nên thánh.  Cả hai vị đều có những lầm lỗi và yếu đuối.  Và cả hai đều hối hận, đều yêu mến Chúa thật tình.  Chúa đã gọi và chọn hai vị làm Tông Đồ.  Nhân danh và nhờ quyền năng Chúa Giêsu Kitô, hai vị đã làm được nhiều phép lạ.

Phêrô cùng với Gioan chữa lành một người què từ lúc lọt lòng mẹ vẫn ngồi ăn xin ở Cửa Đẹp Đền Thờ (x. Cv 3, 7 – 9 ); Phêrô làm cho người chết sống lại (x. Cv 9, 40 – 42); Phêrô chữa nhiều người đau ốm bệnh hoạn mà dân chúng khiêng họ ra tận đường phố để khi Phêrô đi qua, ít ra cái bóng của ông phủ lên một bệnh nhân nào đó, và tất cả đã được chữa lành (x. Cv 5, 15 – 16)…

Phaolô đã chữa lành một người bẩm sinh bị bại chân tại Lítra (x. Cv 14, 8 – 10).  Phaolô cũng làm cho một người đã chết sống lại (x. Cv 20, 9 – 12).  Sách Công Vụ Tông Đồ cho biết Phêrô bị bắt giam trong ngục, đã được Chúa sai thiên sứ đến cứu thoát khỏi tay vua Hêrôđê (x. Cv 12, 1–11).  Cả hai vị được đầy quyền năng và vinh quang trước mặt người đời.

Image result for apostles peter and paul killed

Cuối cùng hai vị cũng bị bắt và chịu chết vì Danh Đức Giêsu Kitô.  Cả hai vị đã bằng lòng hy sinh đến giọt máu cuối cùng để làm chứng cho Đức Giêsu Phục Sinh.  Hai vị đã trở nên trụ cột của Giáo Hội.  Phêrô là Anh Cả, đứng đầu Tông Đồ Đoàn.  Phaolô là Tông Đồ Dân Ngoại.  Hai vị có tính tình khác nhau, trình độ văn hóa khác nhau, khả năng làm việc khác nhau, nhưng lại cùng hoạt động, cùng xây dựng Nước Chúa.  Những khác biệt của hai vị là để bổ túc cho nhau, giúp đỡ nhau, cùng nhau thăng tiến trong sứ vụ Tông đồ.  Trên “tảng đá Phêrô” và “cột trụ Phaolô,” Giáo Hội Chúa Kitô bền vững và phát triển đến thiên thu vạn đại.

Sự nghiệp Tông đồ tiếp bước Chúa Kitô, hai vị hiệp nhất trong cùng một lòng chân thành tuyên xưng, hiệp nhất trong một tâm huyết nhiệt thành rao giảng để rồi mãi mãi hiệp nhất trong cùng một đức tin minh chứng.  Mặc dù có nhiều khác biệt về thành phần bản thân, về ơn gọi theo Chúa về hướng truyền giáo, nhưng cả hai vị đã tạo nên sự hiệp nhất trong đa dạng.  Hiệp nhất là một công trình được xây dựng với nhiều nỗ lực của con người dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh.  “Khác nhau trong điều phụ, hiệp nhất trong điều chính, yêu thương trong tất cả,” đó là khuôn vàng thước ngọc cho tinh thần hiệp nhất trong Giáo hội.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

From: Langthangchieutim


 

Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả (Gioan Baotixita)

Chúc bình an! Hôm nay 24/06, Giáo Hội mừng kính trọng thể Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả (Gioan Baotixita). Ngài là con của bà Elizabeth và tiên tri Zacharia, đấng tiền hô, đấng đã làm phép rửa cho Chúa Kitô, đấng tử đạo đầu tiên khi Tin Mừng được rao giảng. Thánh Gioan Baotixita có hai ngày lễ kính trong lịch phụng vụ, ngày 24 tháng 6 là ngày sinh nhật và ngày 29 tháng 8 là ngày tử đạo. Chúng ta cùng hát Chúc Mừng Sinh Nhật Ngài đi nào!

Cha Vương 

Thứ 7: 24/06/2023

Ðức Giêsu gọi Gioan là người cao trọng nhất trong tất cả mọi người và là người đến trước Ngài: “Ta nói với các ngươi, trong những người sinh ra bởi phụ nữ, không ai cao trọng hơn Gioan…” Nhưng có lẽ Thánh Gioan sẽ hoàn toàn đồng ý với điều Ðức Giêsu nói thêm sau đó: “Tuy nhiên, người nhỏ nhất trong nước Thiên Chúa còn cao trọng hơn ông ta” (Luca 7:28).

Có một thời gian Thánh Gioan sống trong sa mạc, là vị ẩn tu. Ngài loan báo nước trời đã gần đến, và mời gọi mọi người hoán cải đời sống.

Mục đích của ngài là chuẩn bị con đường cho Ðức Giêsu. Ngài nói, phép rửa của ngài là để ăn năn sám hối. Nhưng Ðấng sắp đến sẽ rửa với Thần Khí và lửa. Gioan không xứng đáng để xách dép cho Người. Thái độ của Thánh Gioan đối với Ðức Giêsu là: “Ngài phải gia tăng; tôi phải nhỏ đi” (Gioan 3:30).

Trong khi thanh tẩy những kẻ tội lỗi, Thánh Gioan đã khiêm tốn nhận ra Ðấng Thiên Sai và nói: “Tôi cần được thanh tẩy bởi Ngài” (Mt 3:14b). Nhưng Ðức Giêsu nhất định, “Hãy tiếp tục thi hành, vì như vậy chúng ta mới giữ trọn đức công chính” (Mt 3:15b). Ðức Giêsu, một con người đích thực và khiêm tốn cũng là Thiên Chúa hằng hữu, đã sẵn sàng thi hành bổn phận của bất cứ người Do Thái tốt lành nào. Thánh Gioan như vậy đã công khai đi vào tập thể của những người đang chờ đợi Ðấng Thiên Sai. Nhưng khi tự trở nên một phần tử của cộng đồng đó, ngài quả thực thuộc về Ðấng Cứu Tinh.

Sự cao trọng của Thánh Gioan, một địa vị then chốt trong lịch sử cứu chuộc, được nhận thấy qua tường thuật của Thánh Luca về sự sinh hạ và các biến cố sau đó của Thánh Gioan – cả hai yếu tố này đều xảy ra song song với cuộc đời của Ðức Giêsu. Thánh Gioan thu hút được rất nhiều người đến bờ sông Giođan, và một số người đã coi ngài như Ðấng Thiên Sai. Nhưng ngài luôn luôn chỉ đến Ðức Giêsu, ngay cả một số môn đệ của ngài cũng được sai đến để trở thành các môn đệ đầu tiên của Ðức Giêsu.

Có lẽ Thánh Gioan không nghĩ là Nước Trời được hoàn tất một cách tuyệt hảo trong sứ vụ rao giảng của Ðức Giêsu. Vì bất cứ lý do gì, (trong khi ở tù) ngài đã sai các môn đệ đến hỏi Ðức Giêsu xem có phải Người là Ðấng Thiên Sai hay không. Câu trả lời của Ðức Giêsu cho thấy Ðấng Thiên Sai mang hình ảnh Người Tôi Tớ Ðau Khổ trong sách tiên tri Isaia. Chính Thánh Gioan cũng đã chia sẻ trong sự đau khổ của Ðấng Cứu Tinh, ngài đã chết vì sự trả thù của Herodias. (Trích Gương Thánh Nhân – ns Người Tín Hữu online)

Bạn rút ra bài học gì cho mình khi đọc qua tiểu sử của thánh nhân? Hãy áp dụng vào cuộc sống hằng ngày nhé.

From: Đỗ

TAY TRẮNG RA ĐI – Như Ý/Thánh Ca: Lm Huy Hoàng

THÁNH GIOAN TẨY GIẢ – Lm Nguyễn Hồng Giáo

Lm Nguyễn Hồng Giáo

Trong Giáo hội, ngày lễ kính một vị thánh là ngày từ trần của vị ấy, quen gọi là “ngày sinh nhật trên trời” của người, ngày người sinh ra trên trời.  Duy chỉ có thánh Gioan Tẩy Giả là được kính mừng cả trong ngày Người sinh ra lẫn trong ngày Người tạ thế.  Tưởng không có gì lạ.  Tất cả cuộc đời của thánh nhân từ lúc sinh ra, và ngay cả trước lúc sinh ra, chỉ là một lời chứng duy nhất cho Chúa Giêsu.

 

Con người của một sứ mạng

Có những người cho rằng người ta sinh ra ở đời là “bị vất vào đó,” một cách tình cờ, vu vơ, vô nghĩa.  Thông thường hơn, người ta nói mỗi người có một định mệnh.  Trước định mệnh ấy con người đành bó tay chịu đựng, không cách nào thoát ra được.  Người Công giáo thì tin rằng mỗi người sinh ra là do ý muốn đầy yêu thương của Thiên Chúa, rằng không phải một sức mạnh mù quáng hay khắc nghiệt nào đó đã ném họ vào đời, nhưng chính Tình Yêu của Chúa “gọi” họ vào cuộc sống, và khi cho một con người sinh ra, Thiên Chúa có một ý định, một dự tính về người ấy, không phải như một kế hoạch áp đặt nhưng như một sứ mạng để hoàn thành trong tự do và trách nhiệm, hầu cho con người được hạnh phúc và cuộc đời họ được thành tựu đích thực.  Ta gọi sứ mạng đó là một “ơn gọi.”  Về mặt này, trường hợp của ông Gioan Tẩy Giả là tiêu biểu và rõ ràng.

Qua tường thuật của Kinh Thánh, chúng ta thấy ý định của Thiên Chúa về Gioan đã được biểu lộ hiển nhiên ngay từ giây phút ông được thụ thai, rồi trong việc ông sinh ra, việc đặt tên cho ông, việc mẹ ông và mẹ Chúa Cứu Thế gặp nhau v.v…  Trong các biến cố đó, ta thấy có sự can thiệp lạ lùng của Chúa vào trong cuộc đời của Gioan để định hướng cho nó.  Điều đáng nói hơn là về phần ông, một khi đã khôn lớn và nhận ra sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó, Gioan Tẩy Giả không còn biết gì khác hơn là sống trọn vẹn cho sứ mạng đó một cách lô-gic, kiên quyết, trọn vẹn, cho tới cùng.  Ông rút lui sớm vào hoang địa, sống khắc khổ xa lánh mọi mời mọc, níu kéo của trần gian là để được sống trọn vẹn hướng về Đấng Cứu thế mà ông phải làm kẻ “dọn đường.”  Ông rao giảng bằng những lời lẽ thật nghiêm khắc, mạnh mẽ để lôi kéo người ta sám hối đổi đời vì thời gian không còn nhiều, Nước Thiên Chúa sắp tới.  Sau khi thiên hạ đã rời ông để quay sang Đức Giêsu, Đấng Cứu Thế, ông âm thầm rút lui vào bóng tối vì đã hoàn thành nhiệm vụ “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi,” ông tuyên bố như thế (Ga 3,30).  Rồi cả cái chết của ông cũng là một phần không thể tách lìa sứ mạng của một kẻ “dọn đường” và “làm chứng cho ánh sáng và sự thật.”

Gioan và Hêrôdê

Tôi thấy thánh Gioan Tẩy Giả Và vua Hêrôđê, kẻ đã ra lệnh chém đầu Người, là hai khuôn mặt hoàn toàn tương phản.  Gioan là người mạnh mẽ, chí khí, còn Hêrôđê là người yếu đuối, do dự.  Một đàng thì sống khắc khổ, giản dị, còn đàng kia lại thích xa hoa, hưởng thụ.  Hêrôđê đã bắt giam ông Gioan vì ông mạnh mẽ tố cáo nhà vua đã lấy vợ của anh mình.  Thật ra vua cũng tỏ ra kính phục nhà tiên tri, biết ông là người công chính và thánh thiện, nhiều khi ông đã bênh vực Gioan.  Nhưng ông là người thiếu ý chí, bị bao vây bởi đam mê, dục vọng.  Và tuy là người cai trị khôn khéo nhưng ông lại bị các khuynh hướng xấu xa làm chủ mình.  Thế nên ông đã bắt Gioan tống ngục, chắc hẳn là dưới sức ép của bà Hêrôđiađê, người chị dâu mà ông ta đoạt làm vợ.  Rồi trong một bữa tiệc, ông đã hài lòng về điệu múa của cô con gái của bà đến độ đã hứa ban cho cô ta bất cứ điều gì cô xin.  Một lời hứa bốc đồng.  Đó không phải là tiếng nói của lý trí, của lương tâm mà là của cảm tính, của bản năng.  Và thế là ông đã mắc mưu bà Hêrôđiađê rồi.  Bà bảo con gái hãy xin cái đầu của Gioan.  Đã lỡ hứa trước mặt các thực khách, nhà vua đành phải giữ lời, mặc dù trong thâm tâm ông không muốn giết con người công chính này.

Vua Hêrôđê tiêu biểu cho những con người để cho phần thú tính nơi mình lấn lướt; mặc dù đôi khi lý trí và lương tâm vẫn còn lóe lên nơi họ, kêu gọi họ hãy vươn cao lên, nhưng không đủ sức kéo họ ra khỏi vũng bùn lầy bởi họ đã quen sống trong những sự thấp hèn.  Đối diện với Hêrôđê, ông Gioan Tẩy Giả xuất hiện như một con người có lý tưởng, sống nhất quán vì lý tưởng đời mình; một con người của bổn phận; con người biết chiến đấu cương quyết chống lại những lôi cuốn của bản năng thấp hèn; con người của những đỉnh cao.

Thánh Gioan Tẩy Giả và chúng ta

Như Gioan, mỗi người chúng ta cũng có một sứ mạng, một ý định của Thiên Chúa về chúng ta.  Nhưng làm sao biết được?  Kinh Thánh và giáo lý của Hội Thánh cho ta biết rằng con người được dựng nên “theo hình ảnh của Thiên Chúa,” “có khả năng hiểu biết là yêu mến Tạo Hóa” và “chỉ con người, nhờ sự hiểu biết và tình thương, được mời gọi chia sẻ sự sống của Thiên Chúa.”  Đó chính là mục đích của việc tạo dựng con người.  Con người phát xuất từ Thiên Chúa, sẽ được trở về với Thiên Chúa.  Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo (năm 1992) trích dẫn lời thánh nữ Catarina thành Sienna như sau: “Vì sao Ngài đã dựng nên con người với phẩm giá cao trọng như vậy?  Với tình thương vô biên, Ngài đã nhìn ngắm thụ tạo nơi chính mình và say mê nó.  Vì thương yêu, Ngài đã tạo ra nó; vì yêu thương, Ngài cho nó khả năng hưởng phúc vĩnh cữu, (sđd, số 6).

Đó là ý định chung của Thiên Chúa là ơn gọi chung của chúng ta.  Mỗi người sẽ phải thể hiện ơn gọi đó cho nên mình tùy theo diễn tiến cụ thể đời mình, theo những điều kiện và hoàn cảnh sống thực tế, khi ra sức tìm kiếm và thi hành thánh ý Chúa trong lề luật của Người và lời dạy của Giáo hội, trong việc bổn phận của bậc sống mình, trong lương tâm ngay thẳng, trong luật lệ chính đáng của xã hội, trong các biến cố…

Không phải tự nhiên và dễ dàng mà chúng ta có thể thực hiện ý định của Chúa đối với chúng ta.  Trong mỗi người đều có hai khuynh hướng: một nâng ta lên cao, một kéo ta đi xuống.  Chúng ta thường xuyên kinh nghiệm rằng hai khuynh hướng thiện ác đó đấu tranh kịch liệt với nhau ngay trong ta.  Muốn chiến thắng, phải tỉnh thức và cầu nguyện, phải tập nghe theo tiếng nói của lý trí, của lẽ phải và lương tâm, trong việc lớn cũng như việc nhỏ; đồng thời cũng phải tập sống khổ chế, nghĩa là sống có kỷ luật, biết hy sinh và từ bỏ.  Làm sao có thể có một đời sống tinh thần phong phú nếu lúc nào cũng tìm kiếm và chiều theo những sự dễ dãi, thoái mái, nếu lúc nào cũng chạy theo vui thú vật chất và xác thịt?

Ít năm sau chiến tranh, tôi có dịp đi thăm một anh em tu sĩ chúng tôi ở Xuyên Mộc.  Ngài phụ trách một giáo xứ khoảng 4.000 giáo dân và ba địa điểm cách giáo xứ từ 7 đến 20 cây số với số giáo dân khoảng 6.000 người nữa.  Tôi đã đi thăm hai địa điểm lớn ở xa.  Đó là hai làng kinh tế mới.  Tôi thấy giáo dân thật sốt sắng, đầy can đảm trong công việc làm ăn cũng như trong việc đạo.  Đặc biệt tôi gặp một gia đình Dòng Ba Phanxicô gốc ở Phú Nhuận.  Khi tôi đến, ông đang dạy giáo lý hôn nhân cho một chị độ 25 tuổi.  Ông bà cho biết: họ có mấy người con trai, trong đó có đứa nghiện xì ke đã làm cho họ rất khổ tâm.  Để tránh cho mấy đứa khác khỏi bị lôi kéo vào con đường hư hỏng đó, hai ông bà đã quyết định đưa cả gia đình tới đây sinh sống từ 1980.  Bây giờ họ sống nghèo nhưng vui và bình an.  Tinh thần đơn sơ, nghèo khó, vui tươi và phó thác của Dòng Ba đã giúp họ can đảm sống cuộc đời thiếu thốn vì lợi ích của con cái.  Họ nói tuy họ không giàu có nhưng con cái họ không hư hỏng.

Theo “ơn gọi” và hoàn cảnh riêng của mình, hai người công giáo này đáng cho ta khâm phục không kém Gioan Tẩy Giả, và chắc chắn là gần gũi và dễ noi gương hơn noi gương vị Tiền Hô.

Lm Nguyễn Hồng Giáo

From: Langthangchieutim

Thánh Luy Gonzaga ( 09-03-1568 đến 21-06-1591)

Hôm nay 21/06 Giáo hội mừng kính thánh Luy Gonzaga, quan thầy của giới trẻ và các sinh viên. Chúc mừng chúc mừng những ai có tâm hồn trẻ trung nhé!

Cha Vương

Thứ 4: 21/06/2023

Thánh Luy Gonzaga chào đời ngày 09-03-1568 trong một gia đình quyền quý và danh  giá, thuộc xứ Castiglione, miền bắc nước Ý. Cha ngài là bá tước Ferdinand, người muốn hướng Luy vào nghề binh nghiệp; còn mẹ ngài là một người đạo đức, biết dạy con yêu mến Chúa, sùng kính đức Maria và thương giúp người nghèo. Với gương sáng đạo hạnh của người mẹ, thánh Luy đã sớm khát khao bước đi trên con đường trọn lành như Chúa muốn.

Chúng ta có thể tóm lược cuộc đời thánh nhân qua hai điểm sau:

(1) Sùng kính và dâng hiến cuộc đời cho Đức Maria—Nhờ hương thơm thánh thiện của người mẹ, thánh Luy đã sớm có lòng sùng kính Đức Maria cách đặc biệt. Tại Florence, vào năm 1577, thánh nhân đã khấn giữ mình trinh trong trước tượng Đức Mẹ Đồng Trinh, tại nhà nguyện Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ.

Ngài luôn lánh xa mọi dịp tội, hay bất cứ sự gì có thể làm cho mình cắt đứt mối hiệp thông thân tình với Thiên Chúa. Ngài chuyên chăm cầu nguyện, sống nghiêm nhặt và khắc khổ. Sau khi trở về quê nhà Castiglione, ngài còn tăng thêm các việc lành đạo đức, và coi đó như một bổn phận: quỳ đọc kinh Nhật Tụng về Đức Mẹ, các Thánh Vịnh sám hối và các kinh nguyện khác.

Ngày 15-08-1583, đang khi cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ trong nhà thờ, thánh Luy cảm thấy như mình được Chúa kêu gọi dâng hiến cuộc đời cho Ngài trong đời sống tu trì. Sau đó, thánh nhân quyết định bước theo tiếng gọi của Chúa và  gia nhập dòng Tên, dù bị người cha phản đối. Có thể nói, cuộc đời thánh Luy đã trao hiến hoàn toàn cho Đức Mẹ và để cho Mẹ dẫn dắt đời mình theo Thiên Ý. Do đó, người ta thường gọi thánh nhân là “Thiên thần con”.

(2) Hy sinh phục vụ—Bước vào nhà dòng, thánh Luy chỉ muốn quyên mình, sống khiêm tốn, nhiệt tâm phục vụ cộng đoàn, thương giúp những người nghèo hèn và bệnh tật. Ngài làm các công việc nhỏ nhặt như: làm bếp, rửa chén bát, lau nhà… hầu như thánh nhân không nề hà công việc gì, dù công việc đó có khó khăn, nặng nhọc và nguy hiểm đến tính mạng.

Năm 1591, nước Ý lâm vào cảnh đói kém và cơn bệnh dịch lan tràn tại Roma và các vùng khác đã làm cho nhiều người chết. Trước cảnh khốn cùng của người dân, thánh Luy cùng với nhiều người khác đi quyên góp quần áo, thực phẩm và thuốc men để giúp đỡ những ai đang gặp gian nguy. Với những người đang hấp hối trên đường phố, thánh nhân đưa đến bệnh viện, tận tình chăm sóc, tắm rửa và giúp họ lãnh nhận các bí tích sau cùng. Chính lòng bác ái với người khác, nên thánh nhân cũng bị nhiễm bệnh.

Trên giường bệnh, thánh nhân đã viết thư cho mẹ với tất cả niềm trin ân và niềm tin tưởng vào Chúa: “Thưa mẹ, con thú thật với mẹ rằng: mỗi khi con suy nghĩ về lòng tốt của Chúa, giống như biển không đáy không bờ, linh hồn con như rơi xuống vực sâu ấy, chìm trong cảnh bao la bát ngát, lạc lõng và không biết đáp lại làm sao, vì sau một thời gian làm việc vắn vỏi và sơ  sài như thế mà con đã được Chúa ban cho nghỉ ngơi muôn đời”.

Ngày 21-06-1591, thánh Luy lãnh nhận các bí tích sau cùng, và ra đi bình an khi mới 23 tuổi đời.

Đức Giáo Hoàng Phaolô V tuyên phong chân phước cho ngài vào ngày 19-10-1605; và ngày 31-12-1726, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XIII đã nâng ngài lên bậc hiển thánh.

Santuario Basilica San Luigi GonzagaVƯƠNG CUNG THÁNH ĐƯỜNG SAN LUIGI GONZAGA, gần thành phố Brescia nước Ý.

Thánh địa, được xây dựng bởi những người cha Dòng Tên bắt đầu từ năm 1608, luôn là điểm tựa cho lòng sùng kính vị thánh của những người trẻ tuổi, họ đến trung tâm hành hương này từ khắp nơi trên thế giới.

Lạy Chúa! Chúa đã ban cho thánh Luy Gonzaga đầy hương thơm thánh thiện, luôn giữ mình trinh trong, tôn sùng Đức Maria và thương giúp kẻ nghèo. Nhờ lời chuyển cầu của thánh nhân, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con biết giữ mình khỏi mọi vết nhơ tội lỗi, sống yêu thương và quảng đại phục vụ anh chị em. Amnen.

(Nguồn: Simonhoadalat—hạnh các thánh)

 

Tiểu Sử Thánh Luy Gonzaga chi tiết, (Trang Mạng Dòng Tên)

Thánh LU-Y GONZAGAOggi celebriamo San Luigi Gonzaga, che rinuncio a molte ricchezze

Sinh năm 9.3.1568 tại Dastiglene, nước Ý.

Vào Dòng, ngày 25.11.1585 tại Rôma

Qua đời, ngày 21.6.1591 tại Rôma;

Phong thánh ngày 31.12.1726.

Lễ nhớ 21.6

Đến ngày lễ Đức Mẹ Lên Trời năm 1488, Lu-y đã chắc chắn phải theo con đường nào: Dòng Tên.

Khi được biết quyết định ấy, Hầu tước Ferrantê Gonzaga nổi giận lôi đình, ông buộc Lu-y phải bỏ ngay ý định “quái gở” ấy đi, nếu không ông sẽ cho một trận đòn nên thân ngay trước mặt bá quan văn võ ở triều đình Tây Ban Nha. Lu-y không chút nao núng: “Con sẽ sung sướng chịu trận đòn ấy vì yêu mến Chúa.” Hầu tước cho gọi lần lượt tất cả mọi người mà ông nghi ngờ đã thổi cho Lu-y ý định vào Dòng Tên, và nặng lời trách móc, kể cả bà Hầu tước cũng như cha linh hướng của Lu-y.

Nhưng ai nấy đều chối không hề xúi giục anh làm chuyện đó. Hầu tước đành gọi Lu-y đến: “Ít ra đáng lẽ con phải nghĩ đến một đàng khác hi vọng được quyền cao chức trọng trong Giáo hội cho khỏi bẽ mặt dòng họ nhà mình.” Lu-y giải thích: “Thưa cha, đó chính là lý do tại sao con chọn Dòng Tên. Con muốn dứt hẳn đường danh vọng, nếu ham danh vọng thì con chỉ cần ở nhà nối nghiệp cha, tội gì con lại đi thả mồi bắt bóng!”

Cái gì đã dẫn Lu-y Gongaga đến một quyết định hệ trọng như thế năm mới 15 tuổi?

1.     ÔNG HOÀNG CON

Ngày 9.3.1568, Lu-y mở mắt chào đời. Hôm sau tất cả dân xứ Castigline miền bắc nước Ý tưng bừng mở hội ăn mừng Hầu tước đã có thế tử. Chuông tất cả các nhà thờ đồng loạt đổ trong 3 ngày vào đúng 11 giờ, đồng thời ban nhạc trình diễn lưu động trên khắp các đường phố, thôn xóm. Suốt một ngày, Hầu tước thết tiệc mọi người, tự do ăn uống no say thỏa thích. Các cuộc chơi được tổ chức khắp nơi. Ban đêm mở hội hoa đăng và bắn pháo bông. Hình như Hầu tước đặt tất cả hi vọng của mình cũng như cả dòng họ nơi “cậu Hoàng con.” Sau này khi Lu-y vào Nhà Tập, ông viết cho cha Tổng quyền Dòng Tên: “Tôi trao cho cha kho tàng quí báu nhất của tôi trên cõi đời này.”

Sinh trong gia đình một lãnh chúa thời Phục Hưng ở châu Âu, Lu-y đã sống đúng như một ông hoàng ngay từ thời thơ ấu. Hầu tước yêu quí anh vô chừng, nên anh được săn sóc cực kỳ chu đáo. Ông cũng mong anh nối nghiệp mình và còn đưa lại vinh dự cho dòng họ Gonzaga hơn nữa.

 

Năm lên 5 tuổi, anh được ông cho mặc đồ sĩ quan, và sống với ông trong trại quân. Lu-y rất thích mang súng và bắn súng. Một hôm khi cả trại quân đang ngủ, cậu hoàng con đã lẻn đi ăn cắp thuốc súng và khai hỏa một khẩu đại pháo. Tiếng nổ dữ dội khiến Hầu tước tưởng là một cuộc khởi loạn. Lệnh báo động tức tốc được ban hành và cuộc truy nã bắt đầu. Ít phút sau quân lính đem đến trình bày trước thủ phạm. Ông ra lệnh: “Đã là quân nhân thì dù 6 tuổi hay 60 tuổi cũng phải bị phạt theo quân luật!” Dầu sao hôm ấy ông rất hãnh diện thấy Lu-y đầy hi vọng nối nghiệp mình.

June 21 – He Was More Angel than Man - Nobility and Analogous ...

Ở trại lính về, Lu-y làm mọi người sửng sốt vì cách ăn nói kỳ dị. Thật vậy, bây giờ anh dùng ngôn ngữ của những người ăn nói bừa bãi nhất. Tiếng lóng pha trộn với những tiếng chửi thề nhiều khi tục tĩu làm cho bà Hầu tước và nhiều người phải đỏ mặt. Viên thái sư được lệnh ngay lập tức, phải tập lại cho thế tử ngôn ngữ của hàng vương giả.

Sau này, khi đã lớn, Lu-y rất hối hận vì những chuyện không hay xảy ra trên đây, và phần nào đã cho thấy phải đổi môi trường sống để có được một đời sống thánh thiện.

Lên 7 tuổi, Lu-y cùng với em là Rôđôlphô bắt đầu gược gởi đi thọ giáo tại các triều đình danh tiếng. Đâu đâu anh cũng thấy những cảnh vinh hoa có thể làm nhiều người lóa mắt. Đời sống ở các triều đình có thể tóm tắt trong hai chữ: hưởng thụ. Người ta không biết làm gì hơn là tổ chức những bữa tiệc linh đình, đàn ca múa hát cho qua ngày. Những cuộc chơi được tổ chức liên miên. Những buổi bàn luận có vẻ đúng đắn thỉnh thoảng được tổ chức để tỏ ra vẻ là những nhà tri thức. Thời gian còn lại dùng để chuyện trò. Đề tài các câu chuyện hầu hết là những chuyện tình tứ, nhiều khi chẳng đúng đắn bao nhiêu.

Sống trong xã hội ấy, Lu-y phải tập giữ đúng phong cách một ông hoàng, cách cư xử tao nhã, cách xưng hô cầu kì, nói chuyện kiểu cách… anh cũng học khiêu vũ và nhiều thứ trò chơi khác, đi đâu thì lên xe xuống ngựa, kẻ đưa người đón, về đến nhà, anh được hầu hạ đủ mọi cách, đến nỗi sau này lúc vào Dòng, anh lúng túng khi phải tự mặc quần áo lấy. Dĩ nhiên bàn ăn của anh luôn đầy đủ mọi thứ cao lương mỹ vị. Trong nhà kẻ hầu người hạ không bao giờ thiếu, ra đường được người ta kính nể cúi đầu.

 

2.     HẠT GIỐNG NƯỚC TRỜI

Nhưng giữa vùng đất hoang lạnh ấy, hình như hạt giống nước trời đã nãy mầm trong lòng cậu hoàng con.

The Mother of St. Aloysius Gonzaga, Martha Tana Santena (1550-1605)

Bà Hầu tước là một người đạo đức sốt sắng. Ngay từ những ngày thơ ấu, Lu-y đã được hun đúc trong trường cầu nguyện của bà, từ những mẫu kinh đơn giản cho đến những cuốn sách thiêng liêng. Khoảng năm 12 tuổi, anh bắt đầu cầu nguyện theo cuốn “Suy niệm hằng ngày” của thánh Phêrô Kanis. Lời văn sáng sủa, luận lý mạch lạc, và nhất là lòng nhiệt thành của vị Thánh Tiến sĩ đã góp phần không nhỏ vào việc tạo cho anh một vài nét chấm phá về con người anh ngày mai. Tuy nhiên, anh có vẻ đóng kín, theo tính tự nhiên, nay lại đóng kín cả về vấn đề đạo đức, anh chỉ thích ở một mình để cầu nguyện, điều này được sửa chữa phần nào khi chẳng bao lâu sau, anh đọc cuốn “Lá thư Ấn Độ” tường thuật những chuyện táo bạo và anh hùng của các thừa sai ở Ấn độ. Từ đây, không bao giờ anh quên những miền truyền giáo, và sau này sẽ nóng lòng muốn đi loan báo Tin Mừng cho lương dân, anh bắt đầu thực tập ngay. Bị gương các nhà truyền giáo thu hút, anh quy tụ một số trẻ em và giảng giáo lý cho chúng, rồi anh đơn sơ trò chuyện với những người nghèo, thăm hỏi những người đau yếu, giúp đỡ những người thiếu thốn, nhờ đó anh cũng khám phá ra cảnh đối chọi giữa những người dân lam lũ đầu tắt mặt tối kiếm cơm ăn, trong khi hàng vương giả và quí tộc sống phè phỡn đến phát ngượng.

Rồi anh may mắn được tiếp xúc với một vị thánh khác: Thánh Carôlô Bôrômêô. Đây là một Hồng Y Tổng Giám Mục dòng dõi quí phái, có liên hệ thân thuộc với gia đình Gonzaga, hiện làm kinh lược Tông tòa ở quê hương anh. Chỉ sau một lần hội kiến, anh liền được ngài cho phép xưng tội rước lễ lần đầu. Được đón rước Chúa Giêsu Thánh Thể do một vị thánh như thế, hẳn Lu-y đã nghĩ đến một đời sống nhiều ý nghĩa hơn là sống hưởng thụ nơi cung điện. Từ đây, hễ có dịp, anh thường lui tới các nhà dòng. Có lẽ vào thời gian này, anh đã có ý định từ bỏ địa vị để tìm đến một đời sống cầu nguyện và hãm mình. Từ năm 13 tuổi, anh thực sự đã chăm chỉ cầu nguyện và làm việc đền tội nặng nề: ăn chay, đánh tội, mùa đông không sưởi ấm, đặt một khúc cây vào giường nằm cho đau. Anh tưởng đó là con đường nên thánh. Anh cầu nguyện liên lỉ: “Lạy Chúa, xin hướng dẫn con, xin hướng dẫn con sống tốt hơn.”

Cũng vào thời gian ấy, anh cùng với cả gia đình sang sống tại triều đình Tây Ban Nha. Ở đây anh được thấy tận mắt cách sống ngạo nghễ diêm dúa của hàng quí tộc. Sự lười biếng không những được coi là thanh tao, nhưng còn được biến thành một thứ nghệ thuật nữa. Tây Ban Nha lúc ấy là quê hương của những khám phá về thế giới ngoài Châu Âu, nên nhờ học hỏi tầm mắt của anh cũng mở rộng hơn. So sánh đời sống vương giả của mình với những con người xấu số ở các phương trời xa, anh bắt đầu cảm thấy không ổn. Vua Philip nước Tây Ban Nha lúc đó có thể nói là người quyền thế nhất trên mọi địa cầu. Dưới quyền ông là 22 nước, gồm cả những vùng đất xa lắc xa lơ, một quân đội hùng mạnh, nhiều đoàn tàu biển xông xáo đi tìm nguồn lợi. Chính tại triều đình này, Lu-y đã khám phá ra một điểm động trời: Chỉ có một vị vua toàn hảo đáng ta xả thân phục vụ là Đức Kitô. Và chỉ có một nước đáng cho người xây dựng là Nước Trời. Từ nay, mọi thứ vinh hoa thế gian đối với anh chỉ còn là phù vân, giả trá. Và đây anh cũng thâm tín hơn về lời chính anh đã nói với những người hầu cận năm anh mới 10 tuổi: “Được làm tôi Chúa còn hơn làm tôi vua cả thế gian.”

Santa Maria

Vấn đề của Lu-y bây giờ chỉ còn là chọn dòng nào. Và anh đã chọn Dòng Tên. Lý do là vì Dòng Tên mới thành lập còn đầy sức sống và lòng nhiệt thành tông đồ. Thứ đến, trong Dòng Tên có lời khấn từ chối mọi phẩm tước trong Giáo Hội, anh cũng ước mong một ngày kia được gởi đi làm thừa sai để góp phần vào việc truyền giáo. Vào hôm lễ Đức Mẹ Lên Trời năm 1563, trong một giờ cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ trong nhà nguyện Dòng Tên ở Madrid, anh hoàn toàn xác tín về ơn gọi. Lập tức, anh đi bàn hỏi với cha linh hướng và cha linh hướng ngài xác nhận ơn gọi của anh, chỉ còn phải có phép của Hầu tước, vì anh mới 15 tuổi.

3.     CHO TỚI CÙNG

Dù ông Hầu tước nhất định không chịu nghe anh nói chuyện về ơn kêu gọi, anh cứ ngày ngày đến nài nỉ cha. Hình như ông hơi xiêu lòng, nhưng vẫn không muốn để anh ra đi. Nhân dịp cha Phanxicô Gonzaga, Bề Trên Cả Dòng Phanxicô, là người trong gia đình, đang đi kinh lược tại Tây Ban Nha, ông xin ngài khảo sát trường hợp của Lu-y. Sau khi gặp và trao đổi cặn kẽ với ngài, cha Phanxico xác nhận anh được Chúa gọi. Nhưng, ông Hầu tước vẫn dùng dằng, một hôm Lu-y cùng với em là Lodolphô đi dạo một vòng qua đường phố Madrid. Trên đường về, khi đến học viện Dòng Tên, anh nhất định ở lại đó chứ không chịu về nữa, quyết định của anh làm cả nhà dòng cũng như đoàn tùy tùng đều hết sức bối rối. Hôm ấy, ông Hầu tước đang đau nên không thể đến bắt anh về được, ông sai người đến đưa anh về, nhưng anh cương quyết: “Trước sau thế nào tôi cũng vào ở đây, thay vì để ngày mai thì hôm nay đến cũng vậy!” Cha anh điên đầu vì chuyện này. Ông cho rằng anh làm mang tiếng cả dòng họ, nhắn anh muốn vào dòng thì phải vào một cách đàng hoàng hơn, được lời hứa ấy, anh chịu trở về cung điện lại. Ông Hầu tước thấy rằng ở Tây Ban Nha này rầy rà nhiều chuyện rắc rối quá, nên quyết định đưa cả gia đình về lại quê nhà. Ông hi vọng với thời gian và nhờ thay đổi nơi chốn, cả ý định của Lu-y cũng sẽ thay đổi thôi. Ông đâu ngờ rằng Lu-y đang áp dụng triệt để điều anh đã học được nơi ông. Chính anh nói: “Tôi đã học nơi cha tôi nguyên tắc này, là khi bắt tay vào việc gì, thì phải cố gắng hết sức làm cho tới cùng!”

Và đến Ý, Hầu tước sai Lu-y cùng với Rôdolphô đi thăm viếng một vòng các vị lãnh chúa và quan chức trong miền. Ngầm ý của ông là làm cho Lu-y quên đi vấn đề ơn kêu gọi. Nhưng Lu-y đã thay đổi phong thái. Anh đã mặc đơn giản còn để cho em ăn mặc rất sang trọng. Trong các buổi dạ hội tổ chức tiếp đón, anh từ chối khiêu vũ. Trái lại, anh luôn luôn chăm chú cầu nguyện, và gia tăng hãm mình đền tội. Khi đi hết một vòng về đến quê nhà, anh đã 17 tuổi. Hai năm trời đi đó đây càng làm cho anh thêm xác tín về ơn gọi. Ông Hầu tước một lần nữa vận động mọi người có thể thuyết phục Lu-y bỏ ơn gọi, hay ít là bỏ ý định vào Dòng Tên. Công tước, Giám mục, Hồng y đều được ông nhờ đến, nhưng Lu-y không một chút lay chuyển. Một hôm giận dữ, ông quở trách anh nặng lời, rồi đuổi anh đi, anh lẳng lặng ra lệnh cho đám tùy tùng dọn dẹp đồ đạc ra ở nhà nghỉ mát gần nhà dòng Phanxico cách cung điện chừng hai cây số, khi biết tin ấy Hầu tước cho người đi triệu anh về, anh thưa : “Con tưởng ba đuổi con thì con phải đi.” Bị la mắng, anh về phòng cầu nguyện và đánh tội, tha thiết xin Chúa can thiệp để theo được ơn gọi, Hầu tước được các người hầu cận dẫn đi xem những tận mắt những vết máu của thế tử. Quá xúc động ông cho biết ông đồng ý để Lu-y đi. Anh lập tức viết thư báo tin cho Cha Tổng Quyền, xin cho nhận anh vào Dòng. Đồng thời, các thủ tục giấy tờ nhường ngôi cung được soạn thảo. Nhưng khi mọi thứ đã xong đâu vào đấy, ông Hầu tước lại nói không bao giờ ông hứa cho phép anh vào Dòng Tên. Đau khổ, anh chỉ còn biết cầu nguyện. Bỗng một hôm, anh đường đột vào phòng Hầu tước và tuyên bố: “Con hoàn toàn tùy thuộc nơi ba, ba muốn làm sao thì làm, con đoan chắc là con được Chúa gọi vào Dòng Tên, ba không cho phép con đi là ba chống lại Chúa!” Nói xong, anh biến ngay khỏi phòng không chờ đợi câu trả lời. Trước thái độ ấy, Hầu tước không biết làm gì hơn là để cho nước mắt tự do chảy dàn dụa trên má. Ông khóc mãi. Cuối cùng, ông cho gọi Lu-y đến và nói: “Lu-y con, con làm ba đứt từng khúc ruột… ba đã đặt mọi hi vọng nơi con. Nhưng vì Chúa gọi con, thôi ba để con đi, ba chúc lành cho con!”.

Ngày 8.11.1585, thế tử Lu-y chính thức nhường ngôi cho em. Hôm sau, anh từ giã gia đình đi Roma, cùng đi với anh là cả một đoàn tùy tùng gồm: cha tuyên úy của gia đình, viên thái sư, một tu sĩ, những hầu cận… Trên đường, một người trong đoàn tùy tùng nói với anh: “Chắc công tử Rôdolphô thích lắm!” Anh trả lời: “Chắc chưa thích bằng tôi.”

4.     NHÀ CHÚA

Đến Roma, sau vài ngày nghỉ tại dinh Đức Thượng Phụ Giêrusalem là Scipio Gonzaga, anh vào Nhà Tập thánh Anrê ngày 15.11.1586. Trước khi từ giã đoàn người tháp tùng anh đến Roma, Lu-y còn gởi lời nhắc Hầu tước: “Chúa bảo hãy quên dân tộc và nhà cha người.” Nhận phòng ở Nhà Tập, anh tự nhủ đây là nơi mình được an nghỉ mãi mãi, vì chính mình đã chọn. Rồi anh quì gối, mắt rưng rưng, anh cảm tạ Chúa đã “đưa anh ra khỏi Ai Cập, và dẫn vào Đất Hứa – đất chảy sữa và mật.”

“Tôi là thanh sắt cong, phải vào Dòng để được uốn nắn lại cho thẳng.” Nhưng thật ra, khi vào Nhà Tập Lu-y là một con người chín chắn, có lẽ hơi quá nữa là khác. Nếp sống trong Dòng đã không giống như anh vẫn tưởng. Trước kia anh tự do làm theo lòng sốt sắng cá nhân, giờ đây mọi sự đều phải vào khuôn khổ. Anh không được cầu nguyện lâu giờ như trước kia nữa, trái lại phải nói chuyện gấp mười lần. Các việc hãm mình đền tội của anh đều phải giảm xuống cho có chừng mực. Thật là một thử thách lớn lao cho một ông hoàng trẻ quen ra lệnh và gần như không bao giờ phải theo một kỉ luật nào. Nhưng sẵn ý chí cương nghị, anh cương quyết giữ tỉ mỉ mọi điều trong chương trình huấn luyện, biết rằng đó là cách để “thanh sắt cong được uốn thẳng.”

 

Ngay từ Nhà Tập, anh đã học được thói quen tích cực xây dựng đời sống cộng đoàn. Dù sống nhiệm nhặt, nhưng anh vẫn vui tươi, anh thích đi trao đổi những câu chuyện thiêng liêng với các bạn. Theo lời chứng của nhiều người, sau khi nói chuyện với anh, người ta thấy lòng sốt sắng hơn cả giờ cầu nguyện. Nhưng anh thường để ý đặc biệt đến những người ít được để ý: những anh em ốm đau hay những anh em mới đến, những lần thăm hỏi, những câu chuyện trao đổi với anh đã làm cho nhiều người cảm thấy phấn khởi mãnh liệt trong đời sống thiêng liêng. Ở Nhà Tập thánh Anrê, cũng như ở học viện Roma sau này, anh rất thích trao đổi đơn sơ với các thầy trợ sĩ. Nhờ gương sáng và việc làm của anh, anh đã trở thành một nhân tố quan trọng kết hợp cả cộng đoàn huynh đệ trong Chúa Kitô.

Anh muốn thực sự quên hẳn địa vị của mình trong xã hội. Không gì làm anh đau khổ hơn là khen anh thuộc về một dòng họ vương giả. Trong nhà anh thích làm những công việc tầm thường, mà trước kia anh không bao giờ đụng tay đến. Anh rất thích làm các việc vệ sinh như lau nhà, quét màng nhện, rửa chén. Có lẽ trước kia anh đã được người khác làm cho hưởng, nay anh tập làm cho người khác hưởng, dù nhiều khi anh vụng về. Ra đường, anh không bao giờ chịu mặc áo dòng đẹp, mà gia đình đã may. Người ta không tài nào nhận ra giữa các tập sinh có ông hoàng. Một lần kia, vì không nhận ra anh một nhà quí phái tỏ ý thương hại ông hoàng con Gonzaga khi không đi đem chôn mình trong Dòng Tên. Anh bình thản trả lời: “Anh ấy chưa chết đâu, trái lại vẫn sống và sống hạnh phúc nữa.”

Nhờ vào trí thông minh, tính cần mẫn, óc tinh tế và vì đã được học khá nhiều từ trước, nên anh đã hoàn tất giáo trình triết lý và bắt đầu giáo trình thần học ngay khi chưa mãn Nhà Tập.

San Luis Gonzaga | San luis gonzaga, Santoral, San luis

Sau hai năm Nhà Tập, anh tuyên khấn và nhập học viện Roma. Anh sung sướng được chỉ định ở trong căn phòng nhỏ và xấu nhất nhà. Sau này, chính thánh Gioan Berchmans cũng cho là được một đặc ân khi dọn đến ở trong căn phòng ấy. Anh không muốn giữ gì trong phòng để dùng riêng. Đến nỗi ngoài cuốn Kinh Thánh, anh chỉ còn giữ bộ Tổng Luận Thần Học của thánh Tôma. Nhưng khi được bỏ cả bộ Tổng Luận vào tủ sách chung vì nhà thiếu sách, anh cũng rất vui lòng. Thế là anh chỉ còn giữ một cuốn Kinh Thánh.

Ham thích đọc Kinh Thánh, anh đặc biệt say mê cuộc tử nạn của Chúa. Hình như ngay từ nhỏ, anh đã có ý thức rất mạnh về tình trạng tội lỗi của con người, Trước mắt anh là cảnh sống vắng bóng Chúa nơi các triều đình. Chính dòng tộc Gonzaga cũng được biết đến nhiều vì những cuộc tranh chấp đẫm máu, những cuộc tàn sát ghê rợn. Tóm lại, anh thấy chỉ vì danh lợi, người ta dễ dàng đặt Chúa ra ngoài lề cuộc sống, hoặc biến Ngài thành một thứ đồ trang sức không hơn không kém. Vì thế, ngay từ nhỏ, hình ảnh cây thập giá đã ăn sâu vào tâm trí anh. Cầu nguyện, hãm mình, hi sinh, đánh tội… chưa đủ. Anh thấy phải đáp lại tình yêu thập giá bằng một tình yêu thập giá. Anh mơ ước chịu tử đạo, hay ít nữa, sống cực nhọc vì yêu Chúa. Để chuẩn bị ngày mai ấy, anh đã làm tất cả những gì phải làm và có thể làm được.

 

Nghĩ rằng sau này mình sẽ đi truyền giáo ở châu Á, anh tích cực chuẩn bị hành trang thừa sai. Anh xin phép đi dạy giáo lý cho trẻ em, nhưng Bề Trên từ chối vì tình trạng sức khỏe. Bù lại, anh được trao phó nhiệm vụ dạy giáo lý cho những người giúp việc trong học viện. Anh nhiệt thành với công việc, và thân thiết với từng người, làm cho ai nấy đều học được không những chỉ giáo lý, mà cả những gương sống động nữa. Nhiều anh em trong học viện nói anh làm như thể cả công cuộc cứu rỗi thế gian được tóm gọn trong việc dạy giáo lý cho nhóm người bình dị ấy.

Khi trong gia đình anh xảy ra một vài chuyện rắc rối, chính Cha Tổng Quyền đã sai anh đi làm việc hòa giải. Em anh và ông chú tranh nhau một tòa lâu đài, rồi chuyện hôn nhân gây tai tiếng của Rođôlphô. Anh đã thành công tốt đẹp không những vì lòng ngay thẳng, vì trí phán đoán mà còn vì gương mẫu đời sống bác ái và khiêm tốn.

San Luigi Gonzaga Reggio Emilia - thaqabia

5.     TÌNH YÊU CAO CẢ

Đầu năm 1591, cả nước Ý lâm nạn đói kém. Hậu quả của nạn đói là bệnh dịch lan tràn. Dân chúng khắp nơi đổ xô về Roma để tìm thầy chạy thuốc. Các nhà thương đều chật ních. Cảnh chết chóc làm cho cả kinh thành sống trong tình trạng kinh hoàng. Anh em Giêsu hữu ra sức góp phần xoa dịu vết đau thương. Hằng ngày người ta thấy họ trên các đường phố, đi lạc quyên giúp người đói, hay săn sóc những người bị bệnh dịch. Cha Tổng Quyền Aquavia đã cho thành lập thêm một nhà thương mới. Ngay từ những ngày đầu tiên mới phát hiện, đã có nhiều học viên đến xin Cha Viện Trưởng cho phép đi cứu trợ, trong số đó có anh Lu-y. Các anh đi đây đó khắp nơi trong thành phố thu góp quần áo, đồ ăn, đem về giúp người đói rét. Riêng Lu-y nhờ quen biết hàng quí tộc, đã xung phong ăn mặc lem luốc đến từng nhà sang trọng xin đồ cứu trợ. Cả đến gia đình anh cũng gởi vào giúp theo lời yêu cầu của anh. Khi gặp người bị bệnh các anh không ngại vác trên vai đưa về tận nhà thương săn sóc chu đáo.

21 junio San Luis Gonzaga, comienzo del solsticio de verano

Anh Lu-y hình như rất thích công việc nguy hiểm này. Anh dành lấy những người bị bệnh nặng nhất, và không từ khước một việc khó khăn hay ghê tởm nào. Khi bệnh dịch lan tràn mạnh hơn, hầu như tất cả học viện Roma trở thành một trung tâm cứu trợ. Nhưng chẳng bao lâu sau, các Bề Trên nhận thấy các học viên ngả như rạ: nhiều anh bị lây bệnh và vài anh đã chết. Cùng với nhiều học viên khác, anh Lu-y bị cấm đặt chân đến nhà thương. Nhưng muộn rồi. Dù theo lời năn nỉ của anh, Bề Trên đã cho phép anh đi giúp những người bệnh (bệnh nhẹ và không lây nhiễm) ở nhà thương Đức Mẹ An Ủi. Tuy vậy, anh vẫn ngã bệnh. Một hôm trên đường đến nhà thương, anh gặp một người nằm giữa đường, anh tới xốc người bệnh lên và cõng vào nhà thương. Trước khi ra về anh cũng săn sóc họ cẩn thận. Đến nhà, anh liệt giường luôn. Hôm ấy là ngày 3.3.1591. Chỉ mấy ngày sau, anh chịu các bí tích sau hết, anh Lu-y vui vẻ dù cả cộng đoàn đều rướm lệ. Nhưng vài ngày sau, có vẻ anh thoát nguy hiểm: cơn bệnh kéo dài thay vì giết bệnh nhân ngay lập tức.

Trong thời gian chữa trị, anh chịu đựng cơn đau hay đúng hơn, anh chờ đón cái chết với một đức tin mãnh liệt, một tinh thần siêu nhiên sáng ngời. Anh thường trao đổi chuyện thiêng liêng với những người thăm viếng. Cả đến cha linh hướng của anh là thánh Robertô Bellarminô, hay Hồng y thượng phụ Seipio Gonzaga cũng phải nhìn nhận chưa từng thấy một người vui lòng chấp nhận cái chết đến thế.

Sau 3 tháng rưỡi bị cơn bệnh hành hạ, đêm 20.8.1591, vào khoảng 11 giờ 15 phút, anh ôm chặt thánh giá trên ngực, miệng lặp đi lặp lại: “Tôi vui sướng ra đi, tôi vui sướng ra đi.” Và anh tắt thở, trên môi còn điểm một nụ cười tươi.

 

Trích trong Chư Thánh Dòng Tên