Thánh Gio-an Ma-ri-a Vi-a-nê (1786-1859), bổn mạng các cha xứ

Nguyện xin Chúa ghé mắt đoái thương bạn và gia đình. Hôm nay 04/08, Giáo Hội mừng kính Thánh Gio-an Ma-ri-a Vi-a-nê (1786-1859), bổn mạng các cha xứ. Mừng quan thầy đến quý Cha. Hôm nay, xin một lời kinh cho các cha xứ của mình nhé.

Cha Vương

Thứ 6: 04/08/2023

Thánh nhân sinh năm 1786 tại Ly-ông. Sau biết bao khó khăn gian khổ, người làm linh mục và được giao phó nhiệm vụ làm cha sở họ Ác-xơ thuộc giáo phận Ben-le. Người quả là vị mục tử gương mẫu: hoàn toàn lo việc loan báo Lời Thiên Chúa, giải tội, cầu nguyện và hãm mình. Có nhiều lúc, khuôn mặt người rạng rỡ khác thường, nhờ tình yêu bắt nguồn từ bí tích Thánh Thể mà người đem hết lòng sốt sắng để vừa cử hành, vừa thờ phượng. Chuyện kể về ngài như sau: Khi mới 8 tuổi ngài mới học đọc và biết viết. Vì nhà nghèo nên được cha sở nuôi dạy, và sau đó đã đưa ngài vào chủng viện. Vào trong chủng viện ngài không học được gì cả. Ngày kia, một giáo sư thần học, thừa lệnh Đức Giám mục đến khảo sát Vi-a-nê xem có đủ khả năng học vấn để tiến tới chức Linh mục không. Nhưng Vi-a-nê không thể trả lời câu nào.

Nổi nóng, vị giáo sư đập bàn, nói: “Vi-a-nê, anh dốt đặc như con lừa! Với một con lừa như anh, Giáo Hội hy vọng làm nên trò trống gì!”

Vi-a-nê khiêm tốn bình tĩnh trả lời: “Thưa thầy, ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương hàm con lừa mà đánh bại 3000 quân Philitinh. Vậy với cả một con lừa này, chẳng lẽ Thiên Chúa không làm được việc gì sao ?”

Cuộc cách mạng 1789 bùng nổ khiến thầy Vi-a-nê phải bỏ dở việc học. Nhưng sau đó thầy tìm hết cách để tự học dưới sự dìu dắt của cha xứ. Nhưng khổ thay, học mấy cũng chẳng nhớ. May lúc ấy địa phận gặp phải cảnh khan hiếm linh mục nên Vi-a-nê được bề trên gọi về để khảo hạch. Và lẽ dĩ nhiên là lần nào Vi-a-nê cũng trượt.

Vi-a-nê không nản lòng, cứ tiếp tục học. Cuối cùng, bề trên thấy thầy bền chí quá bèn gọi cha xứ đến để hỏi về thầy: Thầy có lòng đạo đức không? Thưa có. Thầy có kính mến phép Thánh Thể? Thưa có. Thầy có siêng năng lần hạt không? Thưa có. Cha chính quyết định: “Thôi, cho thầy chịu chức vì thầy bền chí, chứ nếu cứ khảo hạch mãi thì không bao giờ đỗ được”.

Như vậy thầy Gioan Ma-ri-a Vi-a-nê được làm Linh mục là nhờ “phép chuẩn”. Vì tuy học hành kém cỏi, đầu óc mù tịt, nhưng nhờ có lòng đạo đức và sự bền chí mà ngài đã được thụ phong Linh mục. Nhưng khi ngài làm Linh mục rồi, Chúa đã ban cho ngài rất nhiều ơn đặc biệt đề cứu các linh hồn, đến nỗi một lần kia, quỷ Satan đã phải nói với ngài: “Nếu trên thế giới có hai đứa như mày thì bọn tao đành phải thất nghiệp mất”. Người qua đời năm 1859.

Sau đây là những câu nói của ngài:

❦ Sống trong giàu sang họ vẫn không thấy được thỏa mãn, giống như một người ở giữa sông nhưng bị chết khát; nằm trên đống gạo nhưng bị chết đói.

❦ Người giận dữ cũng giống như con rối, họ không biết mình nói gì làm gì, bởi vì ma quỷ đã khống chế họ hoàn toàn.

❦ Tất cả mọi việc đều chán chường mệt nhọc đối với người lười biếng.

❦ Nhiều người sống cả đời nhưng chẳng hề nghĩ đến sự chết. Thế rồi, thần chết đến! Họ chẳng còn gì trong người; niềm tin, sự trông cậy, và lòng mến, tất cả cùng chết với họ.

❦ Than ôi! Chúng ta làm mọi sự cho thế giới này mà chẳng làm gì cho thế giới bên kia sao?

Câu nào đánh động bạn nhất? Tại sao? Xin Thánh Gioan Vianney cầu bầu cho chúng con.

From: Đỗ Dzũng

XIN THÁNH HIẾN CON – TB: KHẮC THIỆU – ST: LM. NGUYÊN LỄ 

Thánh Anphonsô, Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh (1696-1787)

Tháng 8 rồi bạn ơi! Xin Chúa chúc lành cho bạn và gia đình. Hôm nay 01/8 Giáo hội mừng kính Thánh Anphonsô, Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh (1696-1787). Mừng Bổn Mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thứ 3: 01/08/2023

Thánh Anphonsô sinh năm 1696 tại Na-pô-li. Người từ bỏ nghề luật sư để làm linh mục, rồi sau lại nhận trách nhiệm giám mục để loan báo tình yêu của Chúa Ki-tô. Người đi giảng không mỏi mệt, siêng năng giải tội và rất nhân từ với các hối nhân. Người đã lập dòng Chúa Cứu Thế nhằm mục đích loan báo Tin Mừng cho dân các miền quê (năm 1732). Người đã giảng dạy luân lý và viết nhiều tác phẩm về đời sống thiêng liêng.

Hạnh tích kể rằng một trong các linh mục của dòng có cuộc sống rất trần tục, và cưỡng lại mọi biện pháp nhằm thay đổi lối sống ấy. Vị linh mục được Đức Cha Anphonsô mời đến, và ngay ở lối vào phòng của ngài, thánh nhân cho đặt một tượng thánh giá thật lớn. Khi vị linh mục do dự không dám bước qua, Đức Cha Anphonsô ôn tồn nói, “Hãy bước vào đi, và nhớ đạp lên thánh giá. Đây không phải lần đầu tiên mà cha đạp Chúa dưới chân mình.”

Vào năm 71 tuổi, ngài bị đau thấp khớp khủng khiếp. Ngài đau khổ trong 18 tháng sau cùng với “sự tăm tối” vì sự do dự, sợ hãi, bị cám dỗ đủ mọi khía cạnh đức tin và mọi đức tính. Ngài qua đời ngày 01 tháng 8 năm 1787 tại Nocera de’ Pagani, Salerno.

Để noi gương thánh nhân mời Bạn suy niệm và tự hỏi ngài đang muốn nhắn nhủ bạn điều gì nhé:

(1) Ai cầu nguyện, thì được cứu rỗi.

(2) Lạy Mẹ Maria, xin hãy nhận con, như của riêng Mẹ, và cho Mẹ, xin hãy chăm lo phần rỗi của con.

(3) Bất cứ sự bất an nào, cho dù có lý do tốt cách mấy, cũng không thể phát xuất từ Thiên Chúa.

(4) Khi một tư tưởng xấu xa hiện lên trong tâm trí, chúng ta phải cố gắng lập tức hướng tư tưởng về Thiên Chúa hoặc một đều trung lập nào đó. Nhưng qui luật trước tiên là phải lập tức kêu cầu thánh danh Chúa Giêsu và Mẹ Maria và tiếp tục kêu cầu cho đến khi cơn cám dỗ chấm dứt.

(5) Người không bỏ cầu nguyện thì chẳng thể kéo dài thói quen xúc phạm đến Thiên Chúa.

(6) Người nào tin tưởng vào bản thân sẽ hư mất. Người nào tin tưởng vào Thiên Chúa sẽ làm được mọi sự.

(7) Hôm nay Chúa mời bạn làm điều tốt; hãy làm ngay hôm nay. Ngày mai bạn có thể không có thời gian, hoặc Chúa có thể không còn kêu gọi bạn làm điều đó nữa.

Câu nào đánh động bạn mạnh nhất?

From: Đỗ Dzũng

Một mình con với Chúa – Diệu Hiền (St: Giang Ân) 

Thánh Inhaxiô (I Nhã) Loyola Đấng sáng lập dòng Tên

Chúc bình an, hôm nay giáo hội mừng kính Thánh Inhaxiô (I Nhã) Loyola Đấng sáng lập dòng Tên. Mừng lễ quan thầy đến những ai nhận Thánh Inhaxiô làm bổn mạng nhé.

Cha Vương

Thứ 2: 31/07/2023

Thánh Inhaxiô (I Nhã hoặc St. Ignatius of Loyola) Loyola, (1491-1556). Vị sáng lập dòng Tên này đang trên đà danh vọng và quyền thế của một sĩ quan trong quân đội Tây Ban Nha thì một trái đạn đại bác đã làm ngài bị thương ở chân. Trong thời kỳ dưỡng bệnh, vì không có sẵn các cuốn tiểu thuyết để giết thời giờ nên ngài đã biết đến cuộc đời Ðức Kitô và hạnh các thánh. Lương tâm ngài bị đánh động, và từ đó khởi đầu một hành trình lâu dài và đau khổ khi trở về với Ðức Kitô.

Inigo Lopez de Loyola sinh năm 1491 tại Loyola, Guipuzcoa, Tây Ban Nha trong một gia đình quý tộc. Vào năm 1522, được thấy Mẹ Thiên Chúa trong một thị kiến, ngài thực hiện cuộc hành hương đến đan viện dòng Biển Ðức ở Monserrat. Ở đây, ngài xưng thú tội lỗi, mặc áo nhặm và đặt thanh gươm trên bàn thờ Ðức Maria thề hứa sẽ trở nên một hiệp sĩ cho Ðức Mẹ.

Trong khoảng thời gian một năm, ngài sống gần Manresa, có khi thì ở với các tu sĩ Ða Minh, có khi thì ở nhà tế bần, nhưng lâu nhất là sống trong một cái hang ở trên đồi để cầu nguyện. Chính trong thời gian hoán cải này ngài bắt đầu một công trình mà sau đó rất nổi tiếng, cuốn Những Thao Luyện Tâm Linh.

Vào năm 1523, ngài rời Manresa đến Rôma và Giêrusalem, là nơi ngài sống nhờ việc khất thực và hăng say hoán cải người Hồi Giáo ở đây. Vì lo sợ cho tính mạng của ngài các tu sĩ Phanxicô khuyên ngài trở về Barcelona. Tin tưởng rằng kiến thức uyên bác sẽ giúp đỡ tha nhân cách thiết thực hơn, ngài dành 11 năm tiếp đó trong việc học hành ở Alcalá, Salamanca và Balê.

Vào năm 1534, lúc ấy đã 43 tuổi, cùng với sáu người khác (trong đó có Thánh Phanxicô Xaviê) ngài thề sống khó nghèo và khiết tịnh và tất cả cùng đến Ðất Thánh. Các ngài thề quyết rằng nếu không thể ở đây thì sẽ dâng mình cho công việc tông đồ của đức giáo hoàng. Và đó là điều đã xảy ra. Bốn năm sau, ngày 15 tháng 8 năm 1534 Ignatius hợp thức hóa tổ chức của ngài. Tu Hội của Ðức Giêsu (The Constitutions of the Society of Jesus / Dòng Tên) được Ðức Giáo Hoàng Phaolô III chuẩn nhận năm 1541 và Ignatius được bầu làm bề trên đầu tiên.

Trong khi các bạn đồng hành được đức giáo hoàng sai đi truyền giáo thì Ignatius vẫn ở Rôma, chăm sóc tổ chức mới của ngài nhưng vẫn dành thời giờ để thành lập các nhà cho cô nhi, cho người tân tòng. Ngài thành lập Trường Roma (sau này là Ðại Học Grêgôriô), với mục đích là trường này sẽ trở nên khuôn mẫu cho các trường của Tu Hội. Ngày nay Tu Hội của Đức Giêsu (Dòng Tên) phát triển trên 500 đại học với 30,000 thành viên khắp nơi trên thế giới và mỗi năm dạy trên 200,000 học sinh.

Thánh Y Nhã đích thực là một vị thần bí. Ngài tập trung vào đời sống tâm linh dựa trên các nền tảng thiết yếu của Kitô Giáo – Thiên Chúa Ba Ngôi, Ðức Kitô, Bí Tích Thánh Thể. Linh đạo của ngài được tỏ lộ trong châm ngôn của Dòng Tên, ad majorem Dei gloriam – “để Thiên Chúa được vinh danh hơn.” Trong quan niệm của ngài, sự tuân phục là một đức tính nổi bật nhằm đảm bảo cho thành quả và sự năng động của tu hội. Mọi hoạt động phải được hướng dẫn bởi lòng yêu mến Giáo Hội thực sự và tuân phục Ðức Thánh Cha vô điều kiện, vì lý do đó, mọi thành viên của dòng phải khấn lời thề thứ tư, đó là phải đến bất cứ đâu mà đức giáo hoàng đã sai đi vì sự cứu rỗi các linh hồn.

Trong những năm tháng cuối đời, ngài phải chịu nhiều đau khổ vì bệnh tật và qua đời ngày 31 tháng 7 năm 1556 tại Rome, nước Ý. Đức Giáo Hoàng Pius V đã tôn phong Chân Phước cho Ignatius ở Loyola ngày 27 tháng 7 năm 1609 và Đức Giáo Hoàng Gregory XV đã tôn phong hiển thánh cho Ignatius ở Loyola ngày 12 tháng 3 năm 1622. (Trích Gương Thánh Nhân – ns Người Tín Hữu online & Patron Saints & Nhóm Tinh Thần nhuận chính lại theo Patron Saint, Vatican Blesseds và Santi-Beati-Testimoni)

Sau đây là những câu nói của Thánh Inhaxiô Loyola. Mời Bạn suy niệm những lời này để nâng cao tâm trí và linh hồn đến Chúa.

❦ Việc làm đầu tiên là tín thác nơi Chúa. Hãy cố gắng làm như Chúa đang làm mọi sự và bạn không làm điều gì cả.

❦ Ai muốn làm cho những người khác tốt hơn thì vô ích, trừ khi người ấy bắt đầu từ chính mình trước.

❦ Từ thiện và tử tế mà không có chân lý thì là sự giả dối và hư vô.

❦ Sao bạn lại để mọi sự sang một bên cho tháng sau hay năm sau? Tại sao, tại sao bạn lại tin rằng bạn sẽ sống lâu như thế?

❦ Không nên nói hay làm điều gì mà không tự hỏi xem những điều ấy có làm Chúa vui lòng không, có ích lợi cho bạn và có làm ích cho người khác không?

❦ Nếu Chúa muốn cho bạn đau khổ nhiều, đó là dấu hiệu mà Chúa muốn bạn trở nên một vị thánh vĩ đại.

❦ Cẩn thận khi chê trách hành động của người khác. Hãy quan tâm đến ý nghĩ của người khác, có khi họ thành thật và vô tội, dù cho hành động của họ có vẻ xấu xa khi ta nhìn vào. (Nguồn HĐđaminh)

Câu nói nào đánh động Bạn nhất, tại sao?

Lạy Thánh I Nhã, xin Cha Thánh cầu bầu cho con được ơn hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Amen.

From: Đỗ Dzũng

NHẠC THÁNH CA VPV – CON ĐỪNG SỢ 

Thánh Gioankim và thánh Anna là song thân của Đức Trinh Nữ Maria

Chúc bình an đến bạn và gia đình, hôm nay Giáo Hội mừng kính 2 thánh Gioankim và thánh Anna là song thân của Đức Trinh Nữ Maria. Mừng quan thầy đến những ai chọn các ngài làm bổn mạng nhé. Xin lưu ý: Mình đang đi vắng, nếu kg nhận được bài, thông cảm nhá.

Cha  Vương

Thứ 4: 26/7/2023

TIN MỪNG: Hạt rơi vào đất tốt: đó là những kẻ nghe Lời với tấm lòng cao thượng và quảng đại, rồi nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả. (Luca 8:15)

SUY NIỆM: Cây tốt sinh trái tốt. Cha mẹ hiền lành để đức cho con. Xem quả biết cây. Đức Maria là hoa quả của hai thánh Gioakim và thánh Anna. Tất cả những điều ấy muốn nói lên rằng Chúa luôn yêu thương những người biết tin tưởng, phó thác, cậy trông vào Ngài.

Đọc lại Kinh Thánh, ta không thấy Thánh Kinh thuật lại lai lịch và cuộc sống của hai thánh Gioakim va Anna là song thân của Mẹ Maria. Nhưng các Thánh Truyền cho ta hiểu rõ rằng hai ông bà Gioakim và Anna luôn phó thác, cậy trông và tin tưởng vào Chúa. Hai ông bà đã già nua tuổi tác mà vẫn không có con, nhưng Thiên Chúa đã yêu thương, chấp nhận lời khẩn nguyện, cầu xin của hai ông bà và cho hai ông bà cưu mang, hạ sinh người con yêu quý là Maria. Đây là hồng ân cao cả Thiên Chúa dành cho ông bà Gioakim và Anna.

Cái phúc mà song thân của mẹ Maria đã lãnh nhận từ Thiên Chúa biến đổi cả cuộc đời của hai ông bà như lời Tv 23, 5 đã viết: “Các Ngài được Chúa ban phúc lành, và được Thiên Chúa cứu độ hằng xót thương”. Thiên chúa đã chúc phúc cho hai ông bà bằng tình yêu vĩnh cửu, tình yêu không bao giờ tàn lụi, phai mờ, tình yêu hiến trọn cho người khác. Vì luôn trung tín với Thiên Chúa, hai ông bà được Thiên Chúa yêu thương một cách đặc biệt và Maria là con hai ông bà đã được Thiên Chúa cất nhắc, để ý và tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Chính nhờ phúc lành Hai ông bà lãnh nhận nơi Thiên Chúa, qua các Ngài, phúc lành ấy cũng được đổ xuống cho muôn dân, muôn nước và từng người. (Nguồn: mạng Mến Thánh Giá Cái Mơn, hạnh các Thánh)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa xin cho con cháu trong các gia đình luôn biết sống thảo hiếu với Chúa và ngoan hiền với Ông Bà Cha Mẹ.

LẮNG NGHE: Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp. (Mátthêu 5:4)

THỰC HÀNH: Hôm nay Bạn hãy gọi điện thoại hỏi thăm Ông Bà Cha Mẹ và làm một việc hy sinh để cầu nguyện cho các đấng còn sống cũng như qua đời nhé.

From: Đỗ Dzũng

Cầu Cho Cha Mẹ 7 – Hồng Ngọc 

CÁI CHẾT CỦA CÁC TÔNG ĐỒ

Niềm Vui Tin Mừng

  1. Thánh Mátthêu chịu tử đạo ở Êthiôpia. Người ta đã dùng gươm để giết chết ngài.

The Martyrdom of Saint Matthew by Caravaggio (c. 1599-1600)

 

2. Thánh Máccô chết ở Alexandria, Ai cập. Người ta đã dùng những con ngựa để kéo bừa ngài qua các đường phố cho đến chết.

3. Thánh Luca bị treo cổ ở Hy Lạp vì ngài đã giảng rất hùng hồn về sự lầm lạc, hư mất.

4. Thánh Gioan chịu tử đạo bởi hình phạt bị thiêu sống trong cái bồn khổng lồ chứa đầy dầu đang sôi, trong cuộc tàn sát ở Rôma.

Tuy nhiên, Ngài đã đựơc cứu sống một cách nhiệm lạ. Rồi ngài bị kết án đi đày trong các hầm mỏ ở nhà tù trên đảo Pátmô.

Saint John the Evangelist on Patmos by Pedro de Orrente (c. 1620)

Thánh Gioan đã viết Sách Khải Huyền tại đảo này. Sau này, Tông đồ Gioan đựơc trả tự do và trở về thi hành sứ vụ giám mục của Edessa, Thổ Nhĩ Kỳ. Ngài qua đời trong lúc tuổi già. Ngài là vị tông đồ duy nhất qua đời một cách bình an.

5. Thánh Phê-rô bị đóng đinh quay đầu xuống đất trên thập giá hình chữ X. Theo truyền thống Giáo hội giải thích, bởi vì ngài nói với những người xử tử là ngài cảm thấy không xứng đáng để được đóng đinh giống Đức Giêsu Kitô.Crucifixion of St. Peter by Caravaggio (1600)

6. Thánh Giacôbê là người lãnh đạo Giáo hội tại Giêrusalem, đã bị ném xuống đất từ nóc đền thờ ở huớng đông nam, cách mặt đất gần cả trăm mét vì ngài đã từ chối từ bỏ đức tin vào Chúa Kitô. Khi người ta phát hiện ngài vẫn chưa chết, những kẻ thù đánh đập ngài cho đến chết bằng gậy của thợ nhuộm vải.

Đỉnh đền thờ này cũng là nơi Satan đã dùng trong cơn Cám dỗ Đức Giêsu.

  1. Thánh Giacôbê (tiền) là con ông Dêbêđê. Ngài là người làm nghề đánh cá. Khi được Đức Chúa Giêsu kêu gọi, ngài đã theo từ đó để thi hành sứ vụ. Với tư cách là ngừơi lãnh đạo mạnh mẽ của Giáo hội, Giacôbê đã bị chém đầu cuối cùng tại Giêrusalem. Tên lính La Mã canh giữ ngài đã rất ngạc nhiên khi ngài bảo vệ đức tin của mình trước toà án xét xử ngài. Sau đó, lính canh đi bên cạnh ngài đến nơi hành hình. Bỏ qua mọi sự thuyết phục, anh ta đã tuyên xưng niềm tin của mình và quỳ bên cạnh Thánh Giacôbê để chấp nhận bị chém đầu như một Kitô hữu.8
  2. Thánh Bathôlômêô, cũng đựơc gọi là Nathanael, đã truyền giáo ở Á châu. Ngài sống chứng nhân cho Chúa ở vùng Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay. Thánh nhân chịu tử vì đạo vì rao giảng Tin Mừng ở Armenia, tại đây ngài đã bị lột da cho đến chết bằng roi da.

The Martyrdom of Saint Bartholomew by Jusepe de Ribera (1634)

  1. Thánh Anrê bị đóng đinh trên thánh giá hình chữ X ở Patras, Hy Lạp. Sau khi những tên lính đánh ngài bằng roi cách dã man, chúng cột (trói) thân xác ngài vào thập giá bằng những sợi dây thừng cho đến khi ngài hấp hối. Những môn đệ của thánh nhân kể lại rằng, khi ngài đựợc dẫn đến thập giá, ngài đã chào cây thập giá bằng những lời này: “Tôi đã ước ao và mong chờ giờ hạnh phúc này đã từ lâu”. Cây thập giá đã đựơc treo thân xác Đức Kitô và Người đã thánh hiến nó thành cây thánh giá. Thánh nhân tiếp tục giảng đạo cho những tên lính hành hình ngài trong hai ngày cho đến khi trút hơi thở cuối cùng.The Crucifixion of St. Andrew by Caravaggio (1607)
  2. Thánh Tôma đã bị đâm bằng một cái giáo ở Ấn Độ vào một trong những chuyến đi truyền giáo của ngài để thành lập cộng đoàn Giáo hội tại lục địa nhỏ (subcontinent).
  3. Thánh Giuđa (Tađêô) bị giết chết bằng những mũi tên khi ngài kiên quyết bảo vệ niềm tin vào Chúa Kitô.
  4. Thánh Mátthia, được chọn để thay thế chỗ cho tên phản bội Giuđa Iscariot, đã bị ném đá và rồi bị chặt đầu.
  5. Thánh Phaolô bị hành hạ và rồi bị chặt đầu vào năm 67 dưới thời bạo chúa hoàng đế Nerô ở Rôma. Thánh Phaolô chịu đựng việc tống giam trong thời gian dài. Thời gian này đã giúp ngài viết nhiều lá thư mục vụ cho các giáo đoàn mà ngài đã thiết lập trên khắp đế chế La Mã. Những lá thư này truyền dạy những đạo lý nền tảng của Kitô giáo và chiếm một phần lớn trong Bộ Tân Ước.

Nguồn: Tổng hợp

 

Thánh Giacôbê (James) Tông Đồ

Chúc một ngày zui zẻ, phẻ mạnh, và an lành trong Chúa và Mẹ nhé. Hôm nay 25/07 Giáo Hội mừng kính Thánh Giacôbê (James) Tông Đồ. Mừng quan thầy đến những ai chọn Thánh Giacôbê làm quan thầy hay có tên là James nhé.

Cha Vương

Th 3: 25/07/2023

Thánh Giacôbê [Cả] là anh của Thánh Gioan Thánh Sử. Cả hai được Ðức Giêsu mời gọi khi họ đang trên thuyền đánh cá, làm việc với người cha ở biển Galilê.

Lecturas y comentario del Martes VIII del Tiempo Ordinario. - Obispado ...

Trước đó, Ðức Giêsu đã gọi một đôi anh em khác cũng từ một hoàn cảnh tương tự, đó là Phêrô và Anrê. “Ði xa hơn một chút, Người thấy ông Giacôbê, con ông Zêbêđê, và người em là ông Gioan. Hai ông đang vá lưới ở trong thuyền. Người liền gọi các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Zêbêđê ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi theo Người” (Máccô 1:19-20).

Thánh Giacôbê là một trong ba người được ưu tiên chứng kiến Chúa Hiển Dung, được thấy con gái ông Giairút sống lại và có mặt trong giờ thống khổ của Ðức Giêsu trong vườn Giệtsimani.

Có hai biến cố trong Phúc âm diễn tả tính khí của thánh nhân và người em. Thánh Mátthêu kể rằng mẹ của hai ông đến để xin cho họ được chỗ ngồi vinh dự trong vương quốc (một bên phải, một bên trái Ðức Giêsu). “Ðức Giê-su bảo: ‘Các người không biết các người xin gì. Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?’ Họ đáp: ‘Thưa được’ (Mt 20:22). Sau đó Ðức Giêsu bảo, quả thật họ sẽ uống chén và chia sẻ sự thanh tẩy của Người trong sự đau khổ và cái chết, nhưng việc ngồi bên phải hay bên trái thì không phải là quyền của Ðức Giêsu – chỗ đó “được dành cho những người đã được Cha Thầy chuẩn bị” (Mt 20:23b).

Do You Always Want to Be First? — Watchtower ONLINE LIBRARY

Các tông đồ khác phẫn nộ khi thấy tham vọng của Giacôbê và Gioan. Sau đó Ðức Giêsu dạy họ bài học về sự khiêm tốn phục vụ: Mục đích của quyền bính là để phục vụ. Họ không được áp đặt ý muốn của mình trên người khác, hay sai bảo người khác. Ðây là vị thế của chính Ðức Giêsu. Ngài là tôi tớ của tất cả; sự phục vụ được giao phó cho Ngài là tuyệt đối hy sinh tính mạng mình.

Trong một trường hợp khác, Giacôbê và Gioan chứng minh rằng biệt hiệu mà Ðức Giêsu đặt cho họ – “con của sấm sét”- thì rất thích hợp với họ. Người Samaritanô không đón tiếp Ðức Giêsu vì Người đang trên đường đến Giêrusalem. “Thấy thế, hai môn đệ là ông Giacôbê và ông Gioan nói rằng: ‘Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?’ Nhưng Ðức Giê-su quay lại quở mắng các ông…” (Luca 9:54-55).

Hiển nhiên Thánh Giacôbê là vị tông đồ đầu tiên chịu tử đạo. “Vào thời kỳ ấy, vua Hêrôđê ra tay ngược đãi một số người trong Hội Thánh. Vua cho chém đầu ông Giacôbê, anh ông Gioan, và khi thấy việc đó làm vừa lòng người Do-thái, nhà vua lại cho bắt cả ông Phê-rô nữa” (CVTÐ 12:1-3a).

Chúng ta đừng nhầm lẫn Thánh Giacôbê với Thánh Giacôbê con Alphê, Thánh Giacôbê hậu “anh em họ” của Đức Giêsu và sau này là Giám Mục Jerusalem cũng là tác giả Thư Thánh Giacôbê.

 

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã ban cho thánh Giacôbê vinh dự là tông đồ đầu tiên đã chết để làm chứng cho Tin Mừng. Xin cho Hội Thánh tìm được sức mạnh nhờ gương tử đạo của thánh nhân, và nhờ Người cầu thay nguyện giúp, Hội Thánh được luôn nâng đỡ phù trì (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Giacô-bê tông đồ).

From: Đ Dzũng

và ĐƯỜNG CON THEO CHUA FEAT HIỆP HỘI ĐA MINH TIN MỪNG

( Nhóm Tinh Thần, Hạnh Thánh)


 

Thánh Maria Magdalen (thế kỷ thứ 1)

Hôm nay 22/07 Giáo Hội mừng kính Thánh Maria Magdalen (thế kỷ thứ 1). Mừng Bổn mạng đến những ai chọn thánh Nữ làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thứ 7: 22/7/2023

Ngày trước, người ta lẫn lộn giữa Maria Magdalen với ba người phụ nữ được Phúc âm nói đến là:

– Người đàn bà tội lỗi vô danh đã đến đổ thuốc thơm trên chân Chúa và lấy tóc lau (Lc 7,37-50)

– Maria ở Bethania, em của Mattha và Lazarius. Cô cũng đã xức thuốc thơm nơi chân Chúa và lấy tóc lau (Gio 11,1;12,3)

– Maria ở Magdala (Magdala là một làng nhỏ bên bờ hồ Tiberiade) người được Chúa Giêsu đuổi trừ bảy quỷ (Lc 8,2) và đã có mặt dưới chân Thánh Giá khi Chúa chết cùng với Mẹ Maria và Gioan. Cô dự vào việc mai táng Chúa, trở ra mộ Chúa hai hôm sau để xức xác, nhìn thấy ngôi mộ trống. Maria là người đầu tiên nhìn thấy Chúa sống lại và đi báo tin cho các tông đồ. Thì chỉ Maria Magdalen này được ghi trong niên lịch Phụng Vụ sau vụ cải tổ lịch Phụng Vụ Roma mới.

St. Mary Magdalene, Disciple of the Lord, Monday July 22, 2019 (Feast ...

Cũng do sự nhầm lẫn lâu đời giữa ba nhân vật nên Maria Magdalen mới được coi như là quan thầy những phụ nữ hoàn lương, những người bán nước hoa và buôn găng tay.

Cũng do sự nhầm lẫn lâu ấy mà có những tương truyền khác nhau như việc Maria Magdalen đã đến xứ Gaules (có từ thế kỷ thứ XI) người ta kính thánh tích của bà ở Vezelay, trên con đường hành hương đến Compostelle; cũng tại Provence, từ thế kỷ thứ XIII có những cuộc hành hương lôi cuốn nhiều người đến Sainte Marie de la Mere, nơi mà người ta cho rằng Maria Magdalen đã đổ bộ với em là Lazarius cùng nhiều phụ nữ khác, có cả người tớ gái là Sarah, quan thầy của những người phiêu bạt Gitans. Cũng như tại Saint Baume nơi có bọng đá mà người đã ở qua và tại Saint Maximin có phần mộ của người.

Tại Đông Phương, tương truyền rằng Maria Magdalen chết và được chôn ở Êphêsô. Năm 899, hoàng đế Leon VI đã chuyển thánh tích của người hay là được coi như vậy, về một tu viện ở Constantinople. Từ Đông phương, việc sùng kính đến Tây phương từ thế kỷ thứ X.

Vậy chúng ta chỉ biết về những gì Phúc âm nói đến về vị thánh nữ đặc biệt ấy và ngày nay hình như chỉ có Maria Magdalen này mới có tên trong lịch Phụng Vụ mới.  (Nguồn: Nhóm Tinh Thần, hạnh các Thánh)

Đức Giáo hoàng Benedict XVI nói: “Câu chuyện của Maria thành Mácđala nhắc nhở tất cả chúng ta một sự thật hiện hữu”… “Thánh nữ là một trong những môn đệ của Chúa Kitô, trong kinh nghiệm yếu đuối của con người, ngài đã khiêm nhường cầu xin Chúa thương xót, và đã được Chúa tha thứ, để rồi tiếp tục đi theo Chúa mà trở thành một nhân chứng về điều này:

– tình thương xót của Chúa mạnh hơn tội lỗi và sự chết”.

Hôm nay Bạn hãy xin cho được ơn hoán cải nhé. Xin thánh Maria Magdalen, cầu cho chúng con.

From: Đỗ Dzũng

 

Theo Trang Mạng thánh Thomas Moore, đại học Yale:

The Feast of St. Mary Magdalene: A Celebration of Women Leaders

Vào năm 2016, Đức Thánh Cha Phanxicô đã thay đổi tình trạng của Thánh lễ được cử hành để tưởng nhớ Thánh Maria Mađalêna từ Lễ Tưởng niệm thành Lễ Mừng Kính. Điều này có thể không có nhiều ý nghĩa đối với những người không phải là mọt sách phụng vụ, như tôi, nhưng ngoài các ngày Chủ nhật và Lễ trọng, đó là cấp độ quan trọng cao nhất tiếp theo, nâng thánh nữ lên ngang hàng với các Tông đồ. Mary Magdalene đã có một lịch sử rô.

Câu chuyện của Ngài thường bị lầm lẫn với những người phụ nữ  khác (có cùng tên)  trong Kinh thánh. Sự chuyển hướng này nhìn nhận vai trò đích thực của Thánh Nữ  trong lịch sử cứu độ.

Tại sao Mary Magdalene lại quan trọng? Chúng ta có thể không có Cơ đốc giáo nếu không có Ngài. Cô ấy là người đầu tiên nhận ra Chúa Giê-xu là Đấng Ki tô phục sinh và Magdalene đã làm theo chỉ dẫn của Ngài để kể cho các Sứ đồ những gì đã xảy ra. Vì điều này, thánh nữ được tặng  danh hiệu Apostolorum Apostola , hay “Sứ đồ của các Tông đồ.”

Ngoại trừ một số ít, chúng ta ít nghe về những người phụ nữ đã đi cùng Chúa Giê-su và tham gia vào thánh vụ của ngài. Ngay cả trong những câu chuyện nổi tiếng nhất, như Feeding of the 5.000, người ta ghi rằng có 5.000 đàn ông có mặt, không kể phụ nữ và trẻ em [1] .

Điều quan trọng cần lưu ý là Mary, Martha và Mary Magdalene được đề cập nhiều lần trong Tin Mừng, cùng với Mary, Mẹ của Chúa Giêsu. Vai trò của họ với tư cách là bạn bè, gia đình và đồng nghiệp được ghi lại bởi các học giả Kinh thánh.

Một số học giả nghĩ rằng những người phụ nữ đi cùng Chúa Giê-su cũng có thể giúp tài trợ cho thánh vụ của Ngài.

Những người phụ nữ thánh thiện này, với lỗi lầm và ân sủng, cũng là một phần di sản của các nữ lãnh đạo trong Giáo hội. Xin cho chúng con, giống như Mẹ Maria Mađalêna và vô số phụ nữ khác trong lịch sử, những người được nhớ hoặc quên tên, tiếp tục loan báo Tin Mừng Phục Sinh của Chúa Kitô.


 

Thánh Bonaventura (1221-1274), Giám mục, Tiến sĩ Hội Thánh

Thân chào bình an đến Bạn và gia đình nhé. Hôm nay 15/7, Giáo hội mừng kính Thánh Bonaventura (1221-1274), Giám mục, Tiến sĩ Hội Thánh. Mừng Bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy.

Cha Vương 

Thứ 7: 15/7/2023

Thánh Bonaventura sinh tại Bagnorea miền Toscane năm 1221. Ngài trải qua thời niên thiếu tại dòng thánh Phanxicô Khó Khăn thành Assise (1243). Dưới sự hướng dẫn của Alexandre de Hales, ngài theo học văn chương và cũng thâu lượm nhiều kiến thức khoa học. Bảy năm sau, ngài cho xuất bản cuốn sách nổi tiếng “Commentaire sur les 4 livres des sentences” và nhiều sách có giá trị khác.

Ngài có lòng dịu hiền tột bậc, lòng khiêm nhường sâu xa và lòng mộ mến cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Năm 35 tuổi, ngài được bầu làm Bề Trên của dòng Phanxicô (1257). Với trọng trách nặng nề này, ngài được mọi người biết đến, không những vì học thuyết và sự thánh thiện nhưng còn vì sự thông minh và khôn khéo của ngài nữa. Chính vì vậy, năm 1273, Ðức Giáo Hoàng Grêgoriô X đặt ngài làm Hồng Y coi địa phận Albanô. Ngài đã viết nhiều tác phẩm thần học rất có giá trị và sau cùng ngài chết tại Lyon (1274), hưởng thọ 53 tuổi.

Ðức Giáo Hoàng Sixtô IV nâng ngài lên bậc Hiển Thánh năm 1482 và Ðức Giáo Hoàng Sixtô V đặt ngài làm Tiến Sĩ Hội Thánh năm 1588, vì ngài là cột trụ chống đỡ Giáo Hội, lưu tâm đến vấn đề hiệp nhất Hy Lạp và La Mã, đồng thời duy trì và củng cố dòng Phanxicô được lớn mạnh, vững vàng. (Nguồn: Nhóm Châu Kiên Long, Ðà Lạt, Vietnamese Missionaries in Asia)

Sau đây là những câu nói của Thánh Bonaventura:

(1) Vinh quang và danh dự chỉ dâng lên Thiên Chúa.

(2) Tất cả của Mẹ là của con và tất cả của con là của Mẹ.

(3) Hỡi linh hồn các tính hữu, anh chị em muốn chứng tỏ tình yêu thật đối với người đã qua đời không? Anh chị em muốn gửi cho họ món quà trợ giúp quý nhất và chìa khoá mở cửa Thiên đàng không? Hãy năng rước lễ cho các linh hồn được an nghỉ.

(4) Nếu ta kính chào Mẹ bằng kinh Kính Mừng thì Mẹ sẽ đáp lại ta bằng muôn ơn phúc.

(5) Thiên Chúa có thể tạo dựng một thế giới khác tốt đẹp hơn, nhưng không thể tạo dựng một người mẹ khác hoàn hảo hơn Mẹ Thiên Chúa được.

(6) Hạnh phúc cho những ai hiến dâng tâm hồn mình cho Mẹ! Hạnh phúc cho những ai thiết tình phụng sự Mẹ!

(7) Ôi tình thương lạ lùng của Chúa! Muốn một ngày kia khỏi phải tuyên án tống giam chúng con vào ngục tuyệt vọng đời đời, Chúa đã ban Mẹ là Mẹ Chúa, là Chủ tối cao kho tàng ân sủng, làm Trạng sư bầu chữa chúng con.

Câu nào đánh động Bạn nhất? Đối với mình thì câu số 3 và 4.

From: Đ Dzũng

YouTube player

Chúa Yêu Con Nhiều

THÁNH BONAVENTURA – CUỘC ĐỜI VÀ CON NGƯỜI

Thánh Bonaventure được sinh ra vào khoảng năm 1217, ngài đã qua đời vào năm 1274; ngài đã sống ở thế kỷ 13, một thời đại đức tin Kitô giáo, sâu xa thấm nhiễm vào văn hóa và xã hội Âu Châu, đã gợi hứng thực hiện những tác phẩm bất hủ trong lãnh vực về văn chương, nghệ thuật về thị giác, triết lý và thần học.  Nổi nang trong số những nhân vật Kitô giáo lớn lao cao cả, thành phần đã góp phần vào việc sáng chế ra mối hòa hợp này giữa đức tin và văn hóa, chính là Thánh Bonaventura, một con người của hoạt động và chiêm niệm, của lòng đạo đức sâu xa và của đức khôn ngoan quản trị.

Ngài được gọi là Gioan thành Fidanza.  Một biến cố bất ngờ đã xẩy ra khi ngài còn là một đứa con trai đã sâu xa ghi dấu vết cuộc đời của ngài, như chính ngài thuật lại.  Ngài đã bị nhiễm một cơn bệnh trầm trọng, đến  nỗi ngay cả cha ngài là một vị bác sĩ cũng không hy vọng cứu được ngài khỏi chết.  Mẹ của ngài bấy giờ xin Thánh Phanxicô Assisi là vị được phong thánh trước đó ít lâu chuyển cầu.  Và cậu bé Gioan đã được chữa lành.  Hình ảnh Người Nghèo Thành Assisi càng trở nên thân thương hơn một năm sau đó, khi ngài ở Paris, nơi ngài đến lo chuyện học vấn của ngài.  Ngài đã lấy được văn bằng Cao Học về Nghệ Thuật, một bằng cấp chúng ta có thể so sánh với cấp bằng của một trường có thế giá hạng nhì trong thời đại chúng ta.  Vào lúc ấy, như nhiều bạn trẻ trong quá khứ cũng như trong hiện tại, Gioan đã hỏi mình một câu hỏi quan trọng: “Tôi phải làm gì cho đời sống của tôi?”  Được thu hút bởi chứng từ về lòng sốt sắng và tính chất sâu xa về Phúc Âm của Dòng Em Hèn Mọn, những thày dòng đã đến Balê vào năm 1219.  Gioan đã gõ cửa đan viện Phanxicô của thành phố này, và xin được chấp nhận vào đại gia đình của thành phần môn đệ của Thánh Phanxicô.

Nhiều năm sau, ngài đã cắt nghĩa cho biết những lý do về việc chọn lựa này của ngài: Ngài đã nhận thấy hoạt động của Chúa Kitô nơi Thánh Phanxicô cũng như nơi phong trào do thánh nhân khởi xướng.  Ngài đã viết như thế trong một bức thư ngỏ cùng một thày dòng khác: “Tôi tuyên xưng trước mặt Chúa lý do khiến tôi yêu chuộng hơn đời sống của Chân Phước Phanxicô đó là đời sống này giống như nguồn gốc và sự phát triển của Giáo Hội.  Giáo Hội bắt dầu với những con người đánh cá bình dân, và đã trở nên phong phú hơn lập tức với những vị tiến sĩ rất thông giỏi và khôn ngoan; tôn giáo của Chân Phước Phanxicô không được thiết lập bởi sự khôn ngoan của con người, mà là bởi Chúa Kitô” (Epistula de tribus quaestionibus ad magistrum innominatum, in Opere di San Bonaventura. Intoduzione generale, Rome, 1990, p. 29).

Bởi thế, vào khỏang năm 1243, Gioan đã được mặc áo dòng Phanxicô bằng len thô sơ và lấy tên là Bonaventura.  Ngài liền được lệnh học hành và lui tới với phân khoa thần học ở Đại Học Paris, theo đuổi một chương trình bao gồm các môn học rất khó.  Ngài đã chiếm được các tước hiệu khác nhau cần có theo nghề hàn lâm, những tước hiệu “cử nhân thánh kinh” và “bachelor’s in sentences.”  Bởi thế, Thánh Bonaventura đã học hỏi sâu xa về Thánh Kinh, các Câu Nói của Peter Lombard, cuốn cẩm nang về thần học thời bấy giờ, và những tác giả quan trọng nhất về thần học, và trong việc giao tiếp với các vị giáo sư và sinh viên đến Paris từ khắp Âu Châu, ngài đã trưởng thành tâm tưởng của ngài và cảm quan thiêng liêng rất sáng giá là những gì trong giòng thời gian của những năm sau đó, đã cho thấy nơi các tác phẩm và bài giảng của ngài, làm cho ngài trở thành một trong những thần học gia quan trọng nhất của lịch sử Giáo Hội.  Cần phải nhắc lại danh xưng của luận án the licentia ubique docendi, như bấy giờ gọi như thế, được ngài biện hộ để có thể hợp lệ giảng dạy khoa thần học.  Luận án của ngài mang tên “Những Vấn Đề về Kiến Thức của Chúa Kitô.”  Lập luận này cho thấy vai trò chính yếu của Chúa Kitô bao giờ cũng được thấy nơi đời sống và việc giảng dạy của Thánh Bonaventura.  Thật vậy, chúng ta có thể nói rằng tất cả tư tưởng của ngài đều sâu xa qui về Chúa Kitô nhân trung.

Trong những năm ở Paris đã xẩy ra một cuộc tranh luận dữ dội chống lại Anh Em Hèn Mọn Dòng Thánh Phanxicô Assisi và Anh Em Thuyết Giảng Dòng Thánh Đaminh Guzmán.  Cuộc tranh cãi về quyền giảng dạy của các thày dòng này ở đại học và những ngờ vực thậm chí liên quan tới tính chất chân thực nơi đời sống tận hiến của các vị.  Thật sự thì những thay đổi mang lại bởi các Dòng Hành Khất này nơi đường lối hiểu biết đời sống tu trì rất ư là mới mẻ tới độ không phải hết mọi người đều hiểu được họ.  Ngoài ra, như đôi khi xẩy ra nơi những con người tu trì thành tín, là những động lực xuất phát từ tình trạng yếu đuối của con người, chẳng hạn như thèm muốn và ghen tương.  Thánh Bonaventura, mặc dù bị bủa vây bởi sự chống đối từ thành phần giáo sư đại học, đã bắt đầu giảng dạy với tư cách là khoa trưởng thần học của các thày Dòng Phanxcicô, và để đáp lại những ai đang phê bình chỉ trích các Hội Dòng Hành Khất, ngài đã viết một bản văn tựa đề là “Sự Trọn Lành Phúc Âm.”  Trong bản viết này, ngài cho thấy làm thế nào các Dòng Tu Hành Khất, nhất là Dòng Anh Em Hèn Mọn, khi thực hành các lời khấn khó nghèo, thanh tịnh và vâng phục, là theo đuổi các lời khuyên của chính Phúc Âm.  Ngoài những trường hợp lịch sử ấy, việc giảng dạy của Thánh Bonaventura nơi tác phẩm này của ngài cũng như trong đời sống của ngài bao giờ cũng là những gì hợp thời: Giáo Hội trở thành rạng ngời và tuyệt vời nhờ lòng trung thành với ơn gọi nơi những con người nam nữ của Giáo Hội là thành phần chẳng những mang ra thực hành các chỉ thị của phúc âm, mà còn là thành phần, nhờ ơn Chúa, được kêu gọi để tuân giữ lời khuyên nữa, nhờ đó làm chứng, qua lối sống nghèo nàn, thanh tịnh và tuân phục của mình, rằng Phúc Âm là nguồn vui và trọn lành.

Cuộc xung khắc này chìm xuống, ít là qua một thời gian, và, nhờ việc can thiệp riêng của Đức Giáo Hoàng Alexander IV, vào năm 1257, Thánh Bonaventura đã được chính thức công nhận là tiến sĩ và là giáo sư của Đại Học Paris.  Cho dù là thế, ngài đã từ nhiệm vị thế vinh dự này, vì cùng năm ấy, Đại Công Nghị của dòng ngài đã tuyển bầu ngài làm bề trên tổng quyền.

Ngài đã thi hành công việc này 17 năm trời một cách khôn ngoan và tận tâm, thăm viếng các tỉnh dòng, viết thư cho an hem dòng, có những lúc nghiêm nghị can thiệp vào việc loại trừ những thứ lạm dụng.  Khi Thánh Banaventura bắt đầu phục vụ thì Dòng Anh Em Hèn Mọn đã phát triển một cách phi thường: Bấy giờ đã có 30 ngàn tu sĩ trải rộng khắp phía Tây, với sự hiện diện truyền giáo ở Bắc Phi, Trung Đông và cả Bắc Kinh.  Cần củng cố việc lan rộng này và nhất là cống hiến cho nó mối hiệp nhất về hoạt động và tinh thần, hoàn toàn trung thành với đặc sủng của Thánh Phanxicô.  Thật vậy, trong số thành phần môn đệ của Vị Thánh thành Assisi này có những hình thức khác nhau nơi việc dẫn giải sứ điệp của thánh nhân và thực sự có nguy cơ xẩy ra tình trạng phân ly nội bộ.  Để tránh mối nguy hiểm này, vào năm 1260, Đại Công Nghị của nhà dòng ở Narbonne đã chấp nhận và phê chuẩn một bản văn do Thánh Bonaventura soạn thảo, một bản văn thống nhất các qui tắc chi phối đời sống hằng ngày của Anh Em Dòng Hèn Mọn.  Tuy nhiên, Thánh Bonaventura đã trực giác thấy rằng những bố trí về pháp lý, mặc dù được tác động một cách khôn ngoan và dung hợp, cũng không đủ để bảo đảm mối hiệp thông về tinh thần và tâm can.  Cần phải chia sẻ cùng lý tưởng và cùng động lực sống.  Đó là lý do vị bề trên Bonaventura muốn trình bày đặc sủng chân thực của Thánh Phanxicô, đời sống của thánh nhân và giáo huấn của thánh nhân.  Bởi vậy ngài đã hết sức nhiệt thành thu góp các văn kiện liên quan đến Con Người Nghèo này và chăm chú lắng nghe những hồi niệm của những ai trực tiếp biết thánh Phanxicô.  Từ đó mới có được một tiểu sử, theo lịch sử rất vững vàng, về Vị Thánh Assisi, với nhan đề là Legenda Maior, cũng được viết một cách rất cô đọng xúc tích và bởi thế được gọi là Truyền Thuyết – Legend.  Chữ Latinh, ngược lại với Ý ngữ, (và Anh ngữ, legend), không có nghĩa là hoa trái của việc tưởng tượng, trái lại, Legenda nghĩa là một bản văn có thế giá, “được đọc” một cách chính thức.  Thật vậy, Đại Công Nghị của Dòng Anh Em Hèn Mọn năm 1263, diễn ra ở Pisa, đã công nhận nơi cuốn tiểu sử do Thánh Bonaventura thực hiện là chân dung trung thực nhất về vị sáng lập và vì thế cuốn này trở nên cuốn tiểu sứ chính thức của vị thánh sáng lập dòng.

Hình ảnh về Thánh Phanxicô ra sao khi được xuất phát từ con tim và ngòi bút của người con và là thừa kế viên Bonaventura của mình?  Điểm thiết yếu: Thánh Phanxicô là một Chúa Kitô khác, một con người say mê tìm kiếm Chúa Kitô.  Theo tình yêu thúc đẩy việc noi gương bắt chước, thánh nhân hoàn toàn nên giống Người.  Thánh Bonaventura vạch ra lý tưởng sống này cho tất cả mọi thành phần môn đệ của Thánh Phanxicô.  Lý tưởng này, có giá trị cho hết mọi Kitô hữu, hôm qua, hôm nay và mãi mãi, cũng được ấn định như là một chương trình cho Giáo Hội của Ngàn Năm Thứ Ba bởi vị tiền nhiệm của tôi là Đấng Đáng Kính Gioan Phaolô II.  Chương trình này, ngài viết trong tông thư “Tertio Millennio Ineunte,” được qui về “Chính Chúa Kitô, Đấng cần phải được nhận biết, yêu mến và bắt chước để sống trong Người sự sống Ba Ngôi, và với Người, biến đổi lịch sử cho tới tầm vóc viên trọn của nó trong Giêrusalem thiên đình” (số 29).

Vào năm 1273, đời sống của Thánh Bonaventura lại xẩy ra một đổi thay.  Đức Giáo Hoàng Gregory X muốn tấn phong ngài làm giám mục và tuyển ngài làm hồng y.  Vị Giáo Hoàng này cũng yêu cầu ngài sửa soạn cho một biến cố rất quan trọng của giáo hội, đó là Công Đồng Chung Lyon Lần Thứ Hai, một công đồng nhắm mục tiêu tái thiết lập mối hiệp thông giữa Giáo Hội Latinh và Giáo Hội Hy Lạp.  Ngài đã dấn thân cho công việc này một cách chuyên cần, thế nhưng ngài đã không thấy được lúc kết thúc của cuộc thượng nghị về đại kết này, vì ngài chết trong khi công đồng đang diễn tiến.  Một công chứng viên vô danh của giáo hoàng đã sáng tác một bản tán dương Thánh Bonaventura, một bản tán dương cống hiến cho chúng ta bức chân dung tóm gọn về vị đại thánh này và là một thần học gia tuyệt vời này: “Một con người tốt lành, niềm nở, đạo hạnh và nhân ái, đầy nhân đức, được Thiên Chúa và loài người yêu thương…  Thật vậy, Thiên Chúa đã ban cho ngài ân sủng như thế, để tất cả những ai thấy ngài đều được xâm chiếm bởi một thứ tình yêu mà tâm can không thể nào giấu diếm” (cf. J.G. Bougerol, Bonaventura, in A. Vauchez (vv.aa), Storia dei Santi e della santita cristiana. Vol. VI. L’epoca del rinnovamento evangelico, Milan, 1991, p. 91).

Chúng ta hãy tiếp tục di sản của vị thánh này, vị tiến sĩ của Hội Thánh, vị nhắc nhở chúng ta về ý nghĩa của cuộc đời chúng ta bằng những lời này” Trên trái đất… chúng ta có thể chiêm ngưỡng cái vĩ đại bao la thần linh bằng lý luận và ngợi khen; ở quê hương trên trời, trái lại, qua việc hưởng kiến, bấy giờ chúng ta sẽ được làm cho nên như Thiên Chúa, và nhờ được ngất ngây – chúng ta sẽ hoan hưởng niềm vui của Thiên Chúa” (La conoscenza di Cristo, q. 6, conclusione, in Opere di San Bonaventura. Opuscoli Teologici /1, Rome, 1993, p. 187).

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 3/3/2010

From: Langthangchieutim

Thánh Biển Đức (Benedict) (480-547)-Cha Vương

Cha Vương

 Thứ 3: 11/07/2023

Chúc Bạn và gia đình một ngày an lành nhé.

Hôm nay Giáo hội mừng kính Thánh Biển Đức (Benedict), mừng Bổn Mạng đến những ai chọn Ngài làm quan thầy. Hãy cầu nguyện cho nhau. Nếu Bạn muốn đi tour Tổng Tu Viện Bênêdíctô ở Montecassino bên Ý thì hãy vào linh sau đây. Mình đã có cơ hội đến đó. Tuyệt đẹp!!!

Thánh Bênêdíctô, cầu cho chúng con.

Thánh Biển Đức (480-547), Ngài sinh năm 480 trong một gia đình lỗi lạc ở Nursia, Umbria thuộc miền trung nước Ý, anh em song sinh cùng với nữ thánh Scholastica, theo học tại Rôma và ngay từ khi còn trẻ, ngài đã thích đời sống đan viện.

Lúc đầu, ngài là một vị ẩn tu sống trong một cái hang ở Subiaco, xa lánh thế giới nhiều chán nản mà lúc bấy giờ giặc ngoại giáo đang lan tràn, Giáo Hội bị phân chia bởi ly giáo, dân chúng đau khổ vì chiến tranh, đạo lý ở mức độ thấp nhất. Sau đó không lâu, ngài thấy không thể sống cuộc đời ẩn dật ở gần thành phố, dù lớn hay nhỏ, do đó ngài đi lên núi cao, sống trong một cái hang và ở đó ba năm.

Trong một thời gian, một số đan sĩ chọn ngài làm vị lãnh đạo, nhưng họ cảm thấy không thể theo được sự nghiêm nhặt của ngài. Tuy nhiên, đó cũng là lúc ngài chuyển từ đời sống ẩn tu sang đời sống cộng đoàn. Ngài có sáng kiến quy tụ các nhánh đan sĩ khác nhau thành một “Ðại Ðan Viện”, đem lại cho họ lợi ích của sự hợp quần, tình huynh đệ, và luôn luôn thờ phượng dưới một mái nhà.

Sau cùng, ngài khởi công xây dựng một đan viện nổi tiếng nhất thế giới ở núi Cassino, cũng là nơi phát sinh dòng Bênêđích.

Cũng từ đó, một quy luật từ từ được hình thành nói lên đời sống cầu nguyện phụng vụ, học hỏi, lao động chân tay và sống với nhau trong một cộng đoàn dưới một cha chung là đan viện trưởng.

Sự khổ hạnh của Thánh Bênêđích được coi là chừng mực, và đời sống bác ái của ngài được thể hiện qua sự lưu tâm đến những người chung quanh.

Trong thời Trung Cổ, tất cả các đan viện ở Tây Phương dần dà đều sống theo Quy Luật Thánh Bênêđích.

Thánh nhân qua đời ngày 21 tháng 3 năm 547 tại Monte Cassino, nước Ý. Thánh nhân được cho táng trong cùng một ngôi mộ với em của ngài là Thánh nữ Scholastica dưới bàn thờ chính của đan viện Monte Cassino, nước Ý. Thánh tích của thánh nhân hiện đang giữ tại đan viện Monte Cassino và một phần tại đan viện Saint Bernoit-sur-Loire tại Fleury, nước Pháp.

Lễ mừng kính ngài vào ngày 11 tháng 7 theo nghi lễ Roma, còn dòng Biển Đức thì cử hành lễ kính vào ngày 21 tháng 3 hàng năm để kỷ niệm ngày Thánh Nhân qua đời. (Nguồn: Người Tín Hữu Online)

Mời Bạn:

❦  Hãy áp dụng câu châm ngôn của ngài vào những công việc hàng ngày : “Ora et Labora” (Cầu nguyện và Lao động).

❦  Suy niệm những câu đáng ghi nhớ trên huy hiệu kính thánh Bênêdíctô:

+ Chớ gì chúng con được củng cố bởi sự hiện diện của Chúa vào giờ chúng con chết!

+ Chớ gì Thánh giá của Chúa là ánh sáng cho con!

+ Hãy cút đi, hỡi Xatan, đừng gọi ý cho ta về những sự hào nhoáng của thế gian! Ngươi thèm khát sự dữ ư? Ngươi hãy uống lấy nọc độc của ngươi!

Câu nào đánh động Bạn nhất?

From: Đỗ Dzũng

Đan viện Châu Sơn, Nho Quan, Ninh Bình, Việt Nam

THÁNH BÊNÊĐICTÔ, VIỆN PHỤ (480-547) – Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Đan viện Biển Dức Spencer, tieu bang Massachuset

  1. Đôi Hàng Tiểu Sử

Thánh Bênêđictô sinh tại Norcia năm 480 trong một gia đình giàu sang quý tộc.

Khi nhỏ, cha mẹ cho ngài được ăn học ở địa phương, để gần gũi với gia đình, để dễ bề đào tạo tính tình đức hạnh theo khuôn mẫu tổ tiên.

Năm 14 tuổi, thánh nhân được gởi đến học ở Rôma.  Học ở Rôma được một thời gian, ngài thấy Rôma không phù hợp với mình vì cuộc sống ở Rôma lúc đó rất suy đồi trụy lạc.  Để giữ gìn linh hồn mình được luôn trong sạch.  Ngài đã trốn khỏi kinh thành, muốn tìm đến một nơi thanh vắng, sống đời ẩn tu tịch mạc.  Ý muốn của Ngài đã được Chúa ưng thuận.  Miền hoang địa cách Rôma 40 dặm là nơi Ngài đã dừng chân để được sống cuộc đời tịch liêu thân mật với Chúa.  Trong khi còn đi lang thang tìm một hang trú ẩn, Bênêđictô gặp được thầy Rômanô, một tu sĩ cùng chí hướng với mình.  Tình yêu và lý tưởng đã kết hợp hai người thành đôi bạn chí thiết.  Rômanô chỉ cho Bênêđictô một hang rất kín chưa hề có một vết chân người lui tới.  Bênêđictô sống ở đó ba năm.  Hằng ngày thầy Rômanô mang bánh cho Ngài.  Sau thời gian vắn vỏi sống đời ẩn dật hoàn toàn, Chúa muốn đặt ngọn đèn thánh thiện của Bênêđictô lên nơi cao để soi dẫn cho nhiều người.

 

Ma quỷ thấy nhân đức của ngài thì luôn tìm đủ cách quấy phá.  Đứng trước những cám dỗ của ma quỉ, Ngài luôn làm dấu Thánh giá xua đuổi chúng.  Còn những người muốn sống đời nhân đức trọn lành tìm đến, thì Ngài luôn sẵn sàng hướng dẫn giúp đỡ, dạy bảo.  Nhờ đó mà danh thơm thánh thiện của ngài lan rộng khắp nơi.  Cả những người quý phái ở Rôma cũng đến xin làm môn đệ ngài.  Ngài thành lập 12 tu viện nhỏ, để tiếp nhận họ và giúp họ tập rèn nhân đức.

Saint Benedict | Biography, Rule, Patron Saint Of, Death, & Facts ...

Số người muốn tu luyện theo đường lối thánh nhân mỗi ngày một đông, nên năm 520, ngài phải dời về Montô Cátsinô, thành lập tu viện.  Đây là tu viện đầu tiên của thánh Bênêđictô.  Chính Ngài soạn tu luật cho tu viện.  Sau này tu luật mang tên người được phổ biến khắp châu Âu, nên người được mệnh danh là “Tổ phụ của nếp sống đan tu ở phương Tây.

Tu viện Benedictine đã được trùng tu ở Monte Cassino, Ý.

Ngày nay hầu như tất cả các nước trên thế giới đã có sự hiện diện của các đan viện sống theo lý tưởng của Ngài.  Các tu sĩ của Ngài đã hết lòng yêu mến và tuân giữ ba đặc điểm như ba cột  trụ chi phối và nâng đỡ đời sống của mình.  Ba cột trụ đó là cầu nguyện, học hành và lao động.  Người tu sĩ hằng ngày chuyên cần cầu nguyện, siêng năng học hỏi Lời Chúa và làm việc chân tay để tự nuôi sống.

 Bênêdictô qua đời ngày 21 tháng 3 năm 547.  Từ cuối thế kỷ VIII, Ngài đã được kính nhớ vào ngày 11 tháng 7.  Ngày 24 tháng 10 năm 1964, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI ra tông thư “Sứ giả hoà bình” (Pacis nuntius), đặt người làm bổn mạng toàn châu Âu.

Sau khi Ngài qua đời, các môn đệ của thánh nhân đặt xác thầy mình bên cạnh xác em gái Ngài, trong mộ Ngài đã dọn sẵn cho mình ở dưới bàn thờ thánh Gioan Baotixita.

Cuộc đời trần thế của thánh nhân tới đây kết liễu, nhưng danh thơm và sự nghiệp vĩ đại của Ngài sẽ còn tồn tại như bia đá ngàn thu, Người ta quên sao được bộ tu luật bất hủ của Ngài đã làm hứng khởi bao tâm hồn đạo đức là kim chỉ nam cho những ai muốn nên thánh thiện.  Đàng khác sự tiến phát mau lẹ của dòng và con số đông đảo của những tu sĩ rải rác khắp năm châu, phải chăng chính là dấu Chúa quan phòng hằng chúc phúc cho sự nghiệp của đấng thánh qua muôn thế hệ.

2. Con đường nên thánh.

a )Chỉ muốn làm đẹp lòng Thiên Chúa.

Trong cuốn “đối thoại,” thánh Grêgôriô cả, sử gia của Bênêđictô, mệnh danh Ngài là “người của Thiên Chúa.”  Ơn gọi của Bênêđictô độc đáo ở chỗ là “chỉ muốn đẹp lòng duy nhất mình Thiên Chúa.  Ngài thực thi tốt và liên lỉ các nhân đức đối thần đến nỗi tất cả cuộc sống Ngài được Thiên Chúa qui hướng.  Người của Thiên Chúa trước tiên là người của lòng tin.  Điều này ta thấy được dễ dàng qua qui luật.  Sử gia Daniel Rops: “Tất cả con người Bênêđictô là ở trong qui luật.  Nếu ta muốn chấm phá dung mạo thiêng liêng của Ngài, thì phải rút những nét tự Qui luật, đó là bức chân dung trung thực nhất về Ngài.”  Thánh Grêgôriô khẳng định : “Ngài không dạy điều gì khác Ngài đã sống.”  Cho mỗi vấn đề mới được nêu ra, Ngài đã trả lời trước tiên bằng mỗi tác động đức tin.  Vậy thì Đan Viện là gì? – thưa, là “Trường phụng sự  Chúa,” cho nên đồ đạc và tài sản của đan viện phải được coi như những  “bình thánh,” cung hiến cho Thiên Chúa  (Qui luật 31).

Luật Thánh Bênêđictô, viết bằng chữ Beneventan ở Montecassino, Ý, cuối thế kỷ 11.

Mọi công việc phải được xử lý một cách lương thiện “Để trong mọi sự Thiên Chúa được tôn vinh” (57).  Nhưng trong việc nào, ta gặp Thiên Chúa hoàn  toàn hơn? – Đó là Nhật Tụng, là việc của Thiên Chúa.  Do đó “Đừng coi việc gì quí hơn Nhật Tụng” (43).  Điều này không có nghĩa là ta gặp được Chúa ít hơn trong nơi khác.  Trái lại, viện phụ là Đức Kitô (2), khách và nhất là người nghèo là Đức Kitô (53).  Bệnh nhân cũng còn là Đức Kitô (36).  Ở mọi nơi, đan sĩ có thể gặp Đức Kitô.

b)Luôn tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa.

Năm 339, nước Ý phải cơn đói kém lớn lao chưa từng thấy; nhân dân khắp nơi đều phải điêu linh khổ sở túng đói.  Kho lẫm của tu viện thánh Bênêđictô cũng đến ngày hết sạch lương thực: ngày kia chỉ còn có 5 chiếc bánh để cho cả nhà hàng trăm người dùng bữa.  Thấy các thầy ai cũng rầu rầu mặt, vị tu viện trưởng khả kính liền buông lời trách mát các thầy vì thiếu lòng tin tưởng.  Ngài nói:

  • Sao các anh em buồn rầu vì thiếu bánh?  Ngày hôm nay chúng ta còn ít, thì ngày mai chúng ta sẽ có dư dật.

Hôm sau quả thấy có hai trăm thùng bột mì đựng trong các bao mà không ai biết là Thiên Chúa toàn năng đã sai ai đem đến.  Các tu sĩ ai nấy dâng lời tạ ơn Chúa và từ đấy không bao giờ phải lo túng thiếu cả, khi trời làm đói kém, mất mùa cũng vậy.  Lần  khác có một người bị truy tố vì không có tiền trả một món nợ cấp bách.  Ông đến bày tỏ tình cảnh của mình với Tu viện trưởng Bênêđictô và xin Ngài thương giúp.  Thánh nhân trả lời rằng: mình không có đủ 12 đồng tiền vàng để cho ông, rồi Ngài tiếp thêm để an ủi:

  • Ông cứ về và hai ngày nữa trở lại đây, vì hôm nay tôi không có để mà cho.

Trong hai ngày đó thánh nhân cầu nguyện nhiều; ngày thứ ba con nợ trở lại, người ta thấy trên mặt hòm vẫn chứa bột mì có 13 đồng vàng, thánh nhân bảo người nhà đem trao cho con nợ tội nghiệp kia và nói:

  • Ông hãy lấy 12 đồng mà trả nợ còn một đồng để mà chi tiêu riêng.

C)Quy luật của đời sống cộng đoàn:

Đan viện Biển Đức ở Colorado, vùng SnowMass.

“Các đan sĩ hãy cố công và hâm mộ luyện tập lấy thứ thiện tâm ấy, đó là:

Ân cần tôn kính lẫn nhau;

Hết sức kiên nhẫn chịu đựng các nhược điểm hồn xác của nhau;

Thi đua vâng lời nhau;

Không ai tìm ích lợi cho mình;

Trái lại, hãy tìm lợi ích cho nhau;

Thực thi nghĩa vụ huynh đệ với lòng trong sáng;

Kính sợ Chúa trong tình thương;

Yêu mến Viện Phụ bằng tình yêu chân thành và khiêm tốn;

Và sau hết tuyệt đối không quí trọng gì hơn Chúa Kitô, Đấng dẫn đưa hết thảy chúng ta lên cõi đời đời.”

Các đan sĩ Benedict  nhà Spencer, Massachuset

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

From: Langthangchieutim


 

Thánh Maria Goretti (1890-1902)

Chúc bạn và gia đình một ngày an lành! Hôm nay 06/7, Giáo Hội mừng kính Thánh Maria Goretti, mừng quan thầy đến những ai chọn ngài làm bổn mạng, xin cầu nguyện cho giới trẻ trong thời đại ngày nay nhé.

Cha Vương

Thứ 5: 06/07/2023

Thánh Maria Goretti (1890-1902) sống ở trần thế có 12 năm, nhưng câu chuyện cuộc đời của thánh nữ đã xúc động biết bao tâm hồn. Maria Goretti sinh ngày 16 tháng 10 năm 1890 tại Corinaldo, Ancona, Ý Đại Lợi. Là con gái của ông Luigi Goretti và bà Assunta Carlini, một gia đình nghèo người Ý, ông Luigi Goretti chết sớm, chỉ còn người vợ tần tảo nuôi 6 con. Maria không có cơ hội để đi học, do đó cũng không biết đọc và biết viết. Khi rước lễ lần đầu, cô là một thiếu nữ to con so với cả lớp.

Trong buổi trưa hè oi ả vào tháng Bảy, Maria một mình ngồi may vá trên các bậc thang trong căn nhà lụp xụp. Lúc ấy, cô chưa đến 12 tuổi, nhưng thân thể cô đã phát triển. Một chiếc xe bò dừng ở bên ngoài, và người thanh niên hàng xóm là Alessandro Serenelli, 18 tuổi, chạy vào nhà, bước vội lên cầu thang. Hắn tấn công Maria và lôi cô vào phòng ngủ để hãm hiếp. Cô kháng cự và kêu cứu, trong hơi thở dồn dập cô cho biết thà chết còn hơn phạm tội. “Ðó là tội lỗi. Chúa không muốn như vậy. Anh sẽ xuống hỏa ngục vì tội này.”

Saint Maria Goretti calls us to be 'witnesses of forgiveness'

 

Như một con thú điên, Alessandro rút dao đâm túi bụi vào người Maria. Trong khi nằm ở bệnh viện, Maria đã tha thứ cho Alessandro trước khi qua đời ngày 06 tháng 7 năm 1902.

Kẻ sát nhân bị án tù 30 năm. Trong một thời gian dài, hắn vẫn không ăn năn sám hối và hay bực tức. Một đêm kia hắn mơ thấy Maria, tay cầm một bông hoa và trao cho hắn. Kể từ đó, cuộc đời Alessandro thay đổi. Sau khi được trả tự do, hành động đầu tiên của Alessandro là đến xin người mẹ của Maria tha thứ cho mình.

Câu chuyện của Maria Goretti ngày càng lan rộng và lòng sùng mộ vị tử đạo trẻ tuổi ngày càng gia tăng, nhiều phép lạ đã được ghi nhận và chưa đầy nửa thế kỷ, Maria Goretti đã được tuyên xưng á thánh. Trong buổi lễ tôn phong chân phước ngày 27 tháng 4 năm 1947, mẹ của Maria Goretti (lúc ấy 82 tuổi), hai cô em gái và một em trai cùng xuất hiện với Ðức Giáo Hoàng Pius XII ở bao lơn Công Trường Thánh Phêrô.

Ba năm sau, vào ngày 24 tháng 6 năm 1950, Ðức Giáo Hoàng Pius XII đã nâng Maria Goretti  lên hàng hiển thánh. Trong đám đông khoảng 500,000 người tham dự lễ phong thánh có Alessandro Serenelli, lúc ấy đã 66 tuổi, đang quỳ gối với hai hàng nước mắt sung sướng lăn dài trên gò má.

Thánh tích Thánh Maria Goretti: Thánh Maria Goretti được coi là vị tử đạo vì ngài đã chiến đấu chống trả hành động bạo lực của Alessandro. Tuy nhiên, khía cạnh quan trọng nhất của thánh nữ là sự tha thứ cho kẻ xúc phạm, mà ngài vẫn lưu tâm đến kẻ thù ngay cả sau khi chết. Thánh Maria Goretti được đặt làm quan thầy giới trẻ và các nạn nhân bị hãm hiếp. (Trích: Người Tín Hữu Online)

Maria Goretti

Sau đây là Lời Kinh Đức Thánh Cha Gioan Phaolo 2 dâng lên thánh nữ Maria Goretti: Hỡi Cô Bé của Thiên Chúa, Bé đã sớm biết thế nào là khổ cực, nhọc mệt, đau thương cùng những niềm vui ngắn ngủi của cuộc sống. Bé từng biết thế nào là nghèo đói và mồ côi. Bé đã không ngừng yêu mến tha nhân, tự làm người hầu hạ khiêm tốn và ân cần. Bé sống tốt lành, không khoe khoang, và đã yêu mến Tình Yêu trên mọi sự. Bé đã đổ máu đào để khỏi phản bội Thiên Chúa. Bé đã tha thứ cho người đã giết Bé và cầu mong hạnh phúc Thiên Đàng cho anh ta. Xin Bé hãy bầu cử và cầu nguyện cho chúng tôi bên tòa Thiên Chúa Cha, hầu chúng tôi cũng biết thưa vâng đối với chương trình Thiên Chúa định liệu trên chúng tôi. Hỡi Đấng là Bạn Hữu của Thiên Chúa, đang chiêm ngưỡng Chúa mặt giáp mặt, xin hãy khẩn cầu cùng Chúa ban cho chúng tôi ơn xin cùng ngài… (thêm vào ý chỉ cầu nguyện) Chúng tôi cảm tạ ngài, hỡi Marietta, vì tình yêu ngài dành cho Thiên Chúa và cho anh chị em đồng loại, mà ngài đã gieo vãi trong lòng chúng tôi. Amen.

Lạy Thánh Nữ Maria Goretti, xin cầu bầu cho chúng con!

From: Đỗ Dzũng

Xin tin yêu – Gia Ân