Thánh Nicôla giám mục, Turkey (- 343) – Cha Vương

Mừng quan thầy đến những ai mang tên Nick nhé!

Cha Vương

Thư 7: 06/12/2025.  (t6-24)

Hôm nay 06/12 Giáo Hội mừng kính Thánh Nicôla giám mục, Turkey (- 343) Vị thánh bênh vực công lý, bênh vực người nghèo, cho quà con nít: Nicholas sinh tại Patara thuộc tỉnh Lycia, thuộc Tiểu Á (Asia Minor), ngày nay gọi là nước Turkey (Thổ nhĩ kỳ). Sau khi cha mẹ chết, cậu đem hết tiền của cho người nghèo. Ông đi tới tỉnh Myra (ngày nay là Demre) khi giáo sĩ và giáo dân đang chọn giám mục mới. Người dân chọn Ông giữ chức vụ  giám mục thành Myra.

   Vào đầu thế kỷ 4 này, đạo Công giáo đang bị bắt bớ dưới thời hoàng đế Dioletia. Giám mục Nicola cùng nhiều tín hữu bị quan tỉnh bắt giam, bị đánh đập, xiềng xích, vì ngài mạnh dạn giảng về chân lý đức tin  và sự tự do của đạo thánh. Tới khi vua Constantinô lên cầm quyền tha bắt đạo, ngài và giáo dân mới được tha về Myra… Ngài rất tốt lành và tử tế. Mọi hoạt động của đời ngài nhằm tôn vinh Chúa Giêsu Kitô, bênh vực cho công lí và người nghèo khó. Trẻ em khắp nơi quí mến Ngài.

   Nhiều câu truyện nói về ngài khiến người ta khó biết chính xác giám mục Nicola đã giúp giáo dân trong địa phận Myra để tỏ lòng kính mến Chúa và phục vụ Chúa nơi tha nhân thế nào.

   -Người ta kể, có 3 người bị kết án tử hình sai lầm, Ngài đã tìm đến quan kết án, cho ông biết rằng, vì nhận tiền hối lộ mà ông kết án sai, nên 3 người đã được tha về.

   -Truyện khác nói: ngài cứu 3 em bé vô tội đã chết, được sống lại.

   -Nhưng có một truyện nổi tiếng về một gia đình ở Myra, ông bố bị mất hết tiền bạc, không có đủ tiền cho 3 người con gái lập gia đình. Vào thời đó, người thiếu nữ phải có một số tiền hồi môn khi lấy chồng. Ông định tống con vào nhà tội lỗi. Giám mục Nicola nghe chuyện cảm thấy buồn cho cha con ông, ngài tìm cách giúp đỡ. Đêm kia, ngài xách túi vàng ném qua cửa sổ đang mở, nơi ông ta nằm, rồi ngài vội đi ngay, để ông ta không biết ai cho vàng. Ít lâu sau, ngài nghe tin cô lớn nhất đi lấy chồng.

Giám mục Nicola lại đến cho ít vàng nữa, lần này cô thứ hai lấy chồng. Thời gian sau, ngài lại đến ném túi vàng nữa qua cửa sổ rồi đi ngay, nhưng ông chủ nhà nghèo kia đã chờ sẵn, đuổi theo, bắt gặp ngài. Ông ta cám ơn rối rít về nghĩa cử cao đẹp của giám mục. Rồi người con thứ ba cũng được lên xe hoa nhờ món vàng đó.

  Giám mục Nicola đã qua đời vào ngày 6 tháng 12 năm 343. Xác ngài được chôn trong nhà thờ lớn xây trên mộ Ngài tại Myra. Rất nhiều khách hành hương đã tới viếng mộ để cầu khấn vị thánh của tình bác ái. Nhiều bàn thờ, thánh đường trên thế giới mang tên thánh Nicola.   Chỉ riêng nước Anh đã có chừng 400 nhà thờ mang tên Nicola. Thánh Nicola là bổn mạng các thủy thủ và tù nhân.

   Từ thế kỷ thứ 5, giáo hội phương Đông đã tôn kính vị thánh làm nhiều phép lạ này. Năm 987, vua Vladimir đã cổ động lòng sùng kính thánh Nicola cho dân Nga (Russia). Cùng với thánh Anrê, Ngài cũng là bổn mạng nước Nga. 

Năm 1087, thủy thủ người Ý đã đem xương thánh ngài về thành Bari. Hàng năm tổ chức mừng Ngài. Thành Bari từ đó trở nên nổi tiếng, và là nơi hành hương cho cả  u châu. Năm 1100, các Xơ người Pháp phát bánh quà cho trẻ em nghèo vào lễ kính thánh Nicola (6-12), dần dần lan ra nhiều nơi trong  u châu. Thế kỷ 13, trẻ em Công giáo  u châu thích đóng vai “giám mục Nicola” và xin quà phát cho trẻ nghèo. Ngay cả thời nay, vào chiều áp lễ kính ngài, tại nước Hoà lan, Đức, Thuỵ sĩ, trẻ em đặt chiếc giầy ở một chỗ để lãnh quà, mong thánh Nicola bí mật đem quà đến cho.

    Tại nước Mỹ và Anh, thánh Nicola được biết dưới danh hiệu Santa Claus. Người Công giáo Việt nam do ảnh hưởng tiếng Pháp, gọi là ông già Noel. (Nguồn: Dân Chúa)

Noi gương Thánh Nicholas đầy lòng bác ái từ nhân, mời Bạn hôm nay hãy làm một việc đúng theo tinh thần của Ngài nhé. 

From: Do Dzung

************************

TÂM TÌNH YÊU MẾN – Tuyệt Phẩm Thánh Ca Để Đời – Dành Cho Đời Sống Dâng Hiến

THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ – Lm. Phao lô Phạm Quốc Túy

 Lm. Phao lô Phạm Quốc Túy

 Phanxicô ra đời tại lâu đài Xaviê thuộc vương quốc Navarre ngày 7 tháng 4 năm 1506.  Cha ngài là cố vấn của nhà vua miền Navarre và là thẩm phán.  Anh em ngài theo binh nghiệp.  Riêng Phanxicô ham thích học hành.  Năm 19 tuổi, ngài theo học tại Đại học Paris, trường lớn nhất thế giới.  Khi còn ở học viện thánh Barbe, ngài được phúc trọ cùng phòng với Phêrô Favre, người sau này sẽ nhập dòng Tên và được phong chân phước.  Bốn năm sau, ngài lại có được người bạn học giả là Inhaxiô thành Loyoa.

Người học trò mẫn cán đã trở thành giáo sư.  Ngài dạy triết học.  Thành công làm cho ngài thành con người tham vọng.  Inhaxiô nói với ngài về một hội dòng mà thánh nhân muốn thành lập.  Nhưng Phanxicô mơ tới danh vọng, ngài chế nhạo cũng như khinh bỉ nếu sống nghèo tự nguyện của bạn mình.  Inhaxiô vui vẻ đón nhận những lời châm biếm, nhưng lặp lại rằng :

 “Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào ích lợi gì.”

 Cuối cùng, Phanxicô đã bị ảnh hưởng.  Inhaxiô còn đưa ra những lời cao đẹp hơn:

 “Một tâm hồn cao cả như anh, không hề chỉ gò bó với cái vinh dự thế trần được.  Vinh quang trên trời mới đúng với cao vọng của anh.  Thật vô lý, khi ưa chuộng một thứ mây khói chóng tàn hơn là những của cải tồn tại đời đời.”

 Phanxicô bắt đầu thấy được cái hư không của những sự cao trọng của thế nhân và hướng vọng tới của cải vĩnh cửu.  Chiến thắng rồi, ngài chống lại tính kiêu căng bằng mọi loại sám hối.  Ngài quyết định theo sát Phúc âm, vâng theo cách cư xử của người bạn thánh thiện và xin được khiêm tốn hãm mình.  Ngài chỉ còn chú tâm cứu rỗi các linh hồn.

 Ngày lễ Mông triệu năm 1533, trong một nhà nguyện tại Monmartre, trên mộ bia thánh Dénis, Phanxicô, Inhaxiô và 5 bạn khác đã hiến mình cho Chúa.  Họ khấn từ bỏ mọi của cải, hành hương thánh địa, làm việc để cải hóa lương dân và hoàn toàn đặt mình dưới sự điều động của Đức Thánh Cha để phục vụ Hội Thánh.  Phanxicô còn học thần học hai năm nữa, rồi cùng sáu bạn đi Italia.

  Đi đường, họ chỉ mang theo cuốn Kinh Thánh và sách nguyện trong bị, cổ đeo tràng hạt.  Tuyết lạnh hay khắc khổ cũng không làm họ sợ hãi.  Trái lại, Phanxicô lại còn cảm thấy quá êm ái nhẹ nhàng, nên một ngày kia đã cột giây thừng vào chân, khiến dây đó ăn vào thịt và ngay việc được khỏi bệnh đó cũng đã là một phép lạ.

 Đoàn quân bé nhỏ đó tới Venatia chống lại quân Thổ.  Thế là họ phải bỏ cuôc hành hương đi thánh địa. Đức Thánh Cha đã chúc lành cho nhóm bạn cũng như dự định của họ.  Phanxicô và Inhaxiô thụ phong linh mục ngày 16 tháng 6 năm 1537.  Phanxicô đã chuẩn bị thánh lễ mở tay bằng cuộc sám hối kéo dài 40 ngày trong một túp lều tranh bỏ hoang và sống bằng của ăn xin.

 Trong khi chờ đợi bắt đầu thực hiện công việc vĩ đại của mình, ngài rao giảng và săn sóc cho người nghèo trong các nhà thương.  Ngài còn phải chiến thắng chính mình nữa, chẳng hạn khi băng bó các vết thương lở loét.  Ngài luôn đi ăn xin thực phẩm.

 Khi Phanxicô được 35 tuổi, vua nước Bồ Bào Nha xin Đức Thánh cha gửi các thừa sai sang Ấn độ. Phanxicô rất vui mừng khi được chỉ định.

 Ngài bộc lộ cho một người bạn:

“Anh có nhớ rằng, khi ở nhà thương tại Rôma, một đêm kia, anh đã nghe tôi la:

 “Còn nữa, lạy Chúa, còn nữa” không?  Tôi đã thấy rằng: phải chịu khổ nạn cho vinh danh Chúa Giêsu Kitô.  Trước mặt tôi là những hoang đảo, những miền đất báo cho tôi biết trước cơn đói, cơn khát và cả đến cái chết dưới hàng ngàn hình thức.  Tôi ao ước được chịu khổ hình hơn nữa.”

 Chỉ còn 24 giờ để chuẩn bị lên đường.  Nhưng thế đã quá đủ để xếp đặt hành trang.  Với vài bộ đồ cũ.  Một thánh giá, một cuốn sách nguyện và một cuốn sách thiêng liêng.  Ngài đáp tàu.  Cuộc hành trình cực khổ vì say sóng.  Đau bệnh, ngài vẫn săn sóc các bệnh nhân.  Những thủy thủ hư hỏng dường như là đoàn chiên đầu tiên ngài phải đưa về cho Chúa.  Ngài rao giảng cho họ bằng chính việc chia sẻ cuộc sống với họ.

 Sau bảy tháng hành trình, người ta dừng lại bến Mozambique.  Khí trời ngột ngạt.  Một cơn bệnh dịch đang hoành hành nơi đây.  Phanxicô lại săn sóc các bệnh nhân và muốn sống đời cực khổ nhất.  Ngài lặp lại:

 “Tôi khấn sống nghèo khó, tôi muốn sống và chết giữa người nghèo.”

 Sau một năm hành trình, Phanxicô cặp bến Goa, thủ đô miền Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha vào tháng 5 năm 1542.  Ngài phát khóc vì vui mừng.  Nhưng việc cấp thiết, nhất là phải làm cho những người chinh phục Bồ Đào Nha giữ đạo đã.  Những tật xấu và tính hung hăng của họ làm ô danh Kitô giáo.  Còn dân Ấn thì thờ ngẫu tượng.  Vị tông đồ làm thầy thuốc, thẩm phán, giáo viên.  Ngài học tiếng một cách khó khăn, thời gian của ngài dành cho các nhà thương, nhà tù, người nghèo và việc dạy giáo lý.  Rảo qua đường phố, ngài rung chuông tập họp trẻ em và dân nô lệ lại, với sự nhẫn nại vô bờ, ngài ghi khắc tình yêu Chúa vào lòng họ.  Các trẻ em tham dự lại trở thành các nhà truyền giáo cho cha mẹ và thầy dạy của chúng.  Chúng mang thánh giá của “ông cha” cho các bệnh nhân.  Chúng trở nên hung hăng với các ngẫu tượng.  Bây giờ, các cánh đồng lúa vang lên được bài thánh ca.  Dần dần, đời sống Kitô giáo đã vững vàng trong lòng các gia đình.

 hanxicô nghe nói tới một bộ lạc thờ lạy ngẫu thần ở mũi Comorin, sống bằng nghề mò ngọc trai.  Muốn loan báo Tin Mừng cho họ, thánh nhân học ngôn ngữ mới, vượt mọi khó khăn để phổ biến đức ái và chân lý.  Rồi ngài lại qua các làng khác.  Cứ như thế ngài đi khắp Ấn độ.  Trong 15 tháng trời, ngài đã rửa tội cho một số đông đảo người Kitô hữu, khiến “xuôi tay vì mệt mỏi.”  Người nói : “Mọi ngày tôi đều thấy tái diễn những phép lạ thời Giáo hội sơ khai.”

 Ngài ngủ ít, đêm thức khuya để cầu nguyện.  Sống khắc khổ để đền tội cho các tội nhân.  Ngài chăm chú đào tạo các tâm hồn thanh thiếu niên địa phương để sai đi làm tông đồ truyền giáo cho các người đồng hương của họ.

 Ở tỉnh Travancore, trong vòng một tháng, thánh nhân đã rửa tội cho 10.000 người.  Người Brames muốn hạ sát ngài, nhưng ngài đã giữ được mạng sống một cách lạ lùng dưới cơn mưa tên.  Ở vương quốc Travance, khi nhóm người man-di muốn tràn ngập, Phanxicô cầm thánh giá trong tay với một số ít tín hữu đã làm cho họ phải tháo lui.  Ngài mang Tin Mừng tới Ceylanca, Malacca.  Các đảo Molluques vang danh vì sự hung tợn của họ, nhất là đảo của dân More ở phía Bắc…

 Ngài nhắm tới đảo này, ngài muốn bị dân cư giết chết như một vị thừa sai 13 năm trứơc đây sao?

 Người ta ngăn không cho tàu bè chở ngài đi.  Phanxicô đáp lại:

 “Thì tôi bơi tới vậy.”

  • Nhưng ngài sẽ bị đầu độc thì sao?

Ngài nói: “Niềm tin tưởng ở Thiên Chúa là thuốc kháng độc.  Rồi ngài thêm : “Ôi, nếu như hy vọng tìm được gỗ quí hay vàng bạc, các Kitô hữu đổ xô tới ngay.  Nhưng lại chỉ có các linh hồn cần được cứu rỗi.  Tôi sẽ chịu khổ gấp ngàn lần để cứu lấy một linh hồn thôi.”

 Phanxicô đã viết thư xin vua Bồ Đào Nha và thánh Inhaxiô gởi các linh mục tới săn sóc cho các cộng đoàn Kitô hữu ngài để lại.  Sự khó khăn và chậm chạp về thư tín làm cho đời ngài thêm nhiều phiền phức.  Ngài phải mất gần 4 năm để gửi thư từ Moluques về Rôma.  Dầu giữa các khó khăn mệt nhọc, thánh nhân không để mất tính hiền hậu và khiêm tốn.

 Năm 1549, một người Nhật được ngài rửa tội ở Malacca đã thu hút ngài tới hòn đảo vô danh, chưa có người Kitô hữu nào.  Lời cầu nguyện và đời sống hãm mình củng cố lòng can đảm của ngài.  Không để mình bị chán nản do ngôn ngữ khó học hay bởi nội chiến.  Ngài đã có thể tạo lập được một cộng đoàn Kitô hữu nhỏ như ngài mơ ước.  Các phép lạ củng cố lời giảng dạy của ngài, nhưng dân chúng bị đánh động nhiều hơn bởi đức tin và lòng can đảm của người ngoại quốc này đã từ xa đến để loan báo cho họ chân lý duy nhất.

 Được hai năm, nhà truyền giáo lại ra đi, để lại tại miền đất xa này những cộng đồng Kitô hữu đứng khá vững trong nhiều thế kỷ, dù không có linh mục cai quản.

 Phanxicô trở lại Ấn độ.  Ngài đã rảo qua gần 100.000 cây số trong 10 năm.  Bấy giờ, việc chinh phục Trung hoa ám ảnh tâm hồn ngài.  Ngài đáp tàu, nhưng không bao giờ tới được quốc gia rộng lớn này.  Vào cuối tháng 11 năm 1552, trên đảo Hoàng Châu, ngài bị lên cơn sốt rét.  Giữa cơn đau, ngài đã lập lại:

 Lạy Chúa Giêsu, con vua Đavid, xin thương xót con, xin thương đến các tội con.

 Ngài dứt tiếng và không nhận ra được các bạn hữu nữa.  Khi hồi tỉnh, Ngài lại kêu cầu Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu và nài xin Đức Mẹ:  “Lạy Đức Trinh Nữ, Mẹ Thiên Chúa, xin hãy nhớ đến con.”

 Một người Trung Hoa thấy ngài hấp hối thì đặt vào tay ngài một cây nến.  Phanxicô qua đời ngày 03 tháng 12 năm 1552.  Ít tuần sau, người ta tìm thấy xác ngài vẫn nguyên vẹn và chở về Goa.  Dân chúng tại đây nhiệt tình tôn kính ngài, vì đã coi ngài như một vị thánh.

 Năm 1619, Đức Phaolô V đã phong chân phước cho ngài vào ngày 12 tháng 3 năm 1622, Đức Grêgôriô XV đã phong thánh cho ngài cùng với thánh Inhaxiô.  Nay Ngài được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo.

Lm. Phao lô Phạm Quốc Túy

Trích: Theo vết Chân Người

From Langthangchieutim


 

TẠI SAO THÁNH CECILIA TRỞ THÀNH BỔN MẠNG CỦA CÁC NHẠC SĨ? – Geneviève Pasquier

Được mừng lễ vào ngày 22 tháng 11, Thánh Cecilia, vị thánh bổn mạng của các nhạc sĩ, đã được tôn kính ở Rôma từ cuối thế kỷ thứ V.  Việc tôn kính ngài dường như đã lan rộng ở vùng Albigeois từ đầu thời Trung cổ.  Vị thánh được các Kitô hữu cầu khấn và là thánh bổn mạng của Nhà thờ chánh tòa Albi này là ai?

 Câu chuyện về cuộc đời của Cecilia được mượn từ cuốn Các Cuộc Thương Khó tập hợp cuộc đời của các vị tử đạo trong các thế kỷ đầu tiên.  Người ta lấy cảm hứng từ đó cho các vị thánh mà người ta mong muốn tôn vinh.  Jacques de Voragine, giám mục của Genoa, Dòng Đa Minh, đã mượn cho cuốn Légende dorée của mình (khoảng 1261-1266) từ truyện thánh Cecilia (khoảng 500).

 Thánh Cecilia hẳn đã sống vào khoảng đầu từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ thứ 3, và đã chết vì đạo vào khoảng năm 223.  Thuộc gia đình quý tộc lừng danh Caecilii, được lớn lên trong đức tin Kitô giáo, thánh nữ, ngay từ khi còn rất trẻ, đã quyết định dâng hiến đời mình cho Chúa và tuyên khấn đồng trinh.  Bị buộc phải kết hôn với Valêriô, thánh nữ thuyết phục anh tôn trọng sự trong trắng của mình và hoán cải anh sang Kitô giáo.

 Tiburce, em trai của Valêriô, cũng trở lại và hai anh em từ chối hiến tế các vị thần.  Họ làm việc để chôn cất các vị tử đạo, bị hành quyết vì đức tin Kitô giáo của họ.  Hai anh em bị tố cáo và chặt đầu.  Khi họ qua đời, Thánh Cecilia tiếp tục loan báo Tin Mừng và cải đạo cho những người ngoại giáo, cho đến ngày thánh nữ bị bắt, bị kết án tử hình rồi bị chặt đầu.  Sau ba nhát rìu, Thánh Cecilia vẫn sống, nhưng vì luật cấm đánh quá ba nhát trong một cuộc hành quyết nên người ta đã để cho ngài hấp hối trong ba ngày.

 Nhà thờ đầu tiên dưới sự bảo trợ của thánh nữ

 Theo truyền thuyết, thánh nữ phân phát tất cả tài sản của mình cho người nghèo và giới thiệu với Đức Giám mục Urbain tất cả những tín hữu mà thánh nữ đã cải đạo, và đồng thời nói rằng: “Con đã cầu xin Chúa cho ba ngày trì hoãn này để khuyên Đức Cha lần cuối và để xin Đức Cha cung hiến một nhà thờ trên địa điểm ngôi nhà mà con qua đời.

 Hài cốt của thánh nữ, được tìm thấy vào năm 821 trong hầm mộ Thánh Callixtô, đã được chuyển đến Trastevere, một quận của Rôma, nơi mà theo mong muốn của ngài, một nhà thờ đã được xây dựng để đón nhận lăng mộ của ngài.  Nhà thờ này vẫn còn tồn tại, đó là nhà thờ Sainte-Cécile-du-Trastevere.  Trong cuộc khai quật phục hồi năm 1599, thi thể được tìm thấy nguyên vẹn.  Sự kiện này đã góp phần tạo nên danh tiếng cho ngài.

 Tại sao ngài là thánh bổn mạng của các nhạc sĩ?

 Nguồn gốc của việc ngài là thánh bổn mạng của các nhạc sĩ xuất phát từ một điệp khúc được sáng tác vào thời Trung Cổ cho phụng vụ mừng lễ ngài mà, do giải thích sai, đã khiến người ta nghĩ rằng rằng ngài là một nhạc sĩ.  Việc phổ cập sự bảo trợ của các vị thánh, những biến đổi sâu sắc về lý thuyết, sáng tác và thực hành âm nhạc sẽ làm phần còn lại, đến mức từ hậu bán thế kỷ 16, Thánh Cecilia đã trở thành vị thánh bảo trợ không thể tranh cãi của âm nhạc và các nhạc sĩ.  Nhiều ban nhạc kèn đồng ở Pháp cho đến ngày nay vẫn được đặt dưới sự bảo trợ của thánh nữ.

 Việc sùng kính Thánh Cecilia ở Albi

Việc sùng kính Thánh Cecilia hẳn đã được đưa vào Albi bởi những người Wisigoths từ Rôma đến Gaule narbonnaise vào năm 413, phụng vụ của họ dành một vị trí đáng chú ý cho việc sùng kính Thánh Cecilia.

 Sự hiện diện của thánh tích của Thánh Cecilia ở Albi được chứng thực lần đầu tiên vào khoảng năm 1130 – hài cốt và vải lanh liên quan đến thân xác của ngài.  Năm 1468, thánh tích mới được Đức Giáo hoàng Phaolô II trao tặng cho Đức Hồng y Jean Jouffroy, Giám mục giáo phận Albi lúc bấy giờ.  Những thánh tích này – xương quay của cánh tay trái và hàm dưới của thánh nữ, một mảnh vải tạo thành một phần trang phục của ngài, một mảnh vải liệm được Thánh Giáo hoàng Urbain I quấn quanh thi thể của ngài – được bảo quản trong một hòm thánh tích được thực hiện vào năm 1887.  Hòm thánh tích này vẫn còn được rước trong thánh lễ Thánh Cecilia, vào ngày Chúa nhật gần nhất với ngày 22 tháng 11.

 Geneviève Pasquier

Chuyển ngữ: Tý Linh

Theo: La Croix

From: Langthangchieutim


 

VỊ THÁNH

VỊ THÁNH

Palidoro, Ý. Tháng 9 năm 1943. Đức Quốc xã đã chiếm đóng ngôi làng sau khi Ý đầu hàng, và nỗi kinh hoàng bao trùm khắp đường phố.

Khi một vụ nổ giết chết hai lính Đức tại một kho đạn dược, quân SS đòi trả thù. Chúng bắt giữ 22 thường dân vô tội – nông dân, cha mẹ, những người đàn ông bình thường không liên quan gì đến vụ nổ. Quân Đức không quan tâm đến tội lỗi. Chúng muốn trả thù.

Phải có người chết.

Salvo d’Acquisto, một lữ đoàn phó (vice-brigadier) 23 tuổi trong lực lượng Carabinieri của Ý, đã chứng kiến ​​cảnh tượng diễn ra. Anh nhìn thấy nỗi kinh hoàng trong mắt những người đàn ông đó. Anh biết họ có gia đình đang chờ đợi ở nhà – vợ con, cha mẹ, những người sẽ không bao giờ hiểu tại sao người thân của họ không trở về.

Và anh đã đưa ra một lựa chọn vang vọng suốt lịch sử.

Salvo bước ra và thú nhận đã gây ra vụ nổ. Đó hoàn toàn là một lời nói dối – anh không hề ở gần kho đạn khi sự việc xảy ra. Nhưng anh nhìn thẳng vào mắt viên chỉ huy Đức và khăng khăng rằng chỉ mình anh phải chịu trách nhiệm. Anh yêu cầu họ thả những người vô tội và hành quyết ông.

Người Đức chấp nhận lời thú tội của ông.

22 thường dân được trả tự do. Salvo d’Acquisto bị dẫn đến nơi hành quyết.

Các nhân chứng sau đó làm chứng rằng anh vẫn bình tĩnh cho đến phút cuối cùng. Không van xin. Không nước mắt. Chỉ có sự nghiêm trang lặng lẽ khi đối mặt với đội hành quyết vào ngày 23 tháng 9 năm 1943, biết rằng cái chết của mình đồng nghĩa với việc 22 gia đình sẽ được trọn vẹn.

Súng trường nổ. Salvo ngã xuống. Và 22 người đàn ông đáng lẽ phải chết ngày hôm đó đã trở về nhà để ôm gia đình họ – được cứu bởi một chàng trai trẻ đã chọn hy sinh tất cả vì người lạ.

Nước Ý không bao giờ quên anh. Sự hy sinh của anh đã trở thành huyền thoại – một ngọn hải đăng trong bóng tối của chiến tranh.

Năm 1983, Giáo hoàng John Paul II đã phong chân phước cho Salvo d’Acquisto là một vị tử đạo, công nhận rằng hành động cuối cùng của anh không chỉ là chủ nghĩa anh hùng mà còn là biểu hiện của tình yêu hoàn hảo, vị tha.

Ngày nay, các tượng đài tưởng niệm anh trên khắp nước Ý tôn vinh ký ức về anh. Trường học dạy về câu chuyện của anh. Ngày 23 tháng 9 được kỷ niệm như ngày mà một chàng trai 23 tuổi đã chứng minh rằng ngay cả khi cái ác vây quanh, lòng dũng cảm cá nhân vẫn có thể cứu sống mạng người.

Salvo d’Acquisto đã không phải chết vào ngày hôm đó. 22 người đàn ông đó không phải là trách nhiệm của anh. Anh có thể im lặng, sống sót qua chiến tranh, xây dựng một cuộc đời.

Thay vào đó, anh đã chọn một điều gì đó lớn lao hơn. Anh đã chọn đảm bảo rằng 22 sinh mạng khác sẽ được tiếp tục—rằng trẻ em sẽ không lớn lên mà không có cha, rằng vợ sẽ không trở thành góa phụ, rằng cha mẹ sẽ không chôn cất con trai của họ.

Những lời cuối cùng của anh, theo lời kể của các nhân chứng, rất đơn giản: “Thà một người chết còn hơn nhiều người vô tội.”

Đó không chỉ là chủ nghĩa anh hùng. Đó là hình thức tình yêu cao cả nhất mà nhân loại có thể thể hiện—sự sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình để người khác được sống.

Sự hy sinh của Salvo d’Acquisto nhắc nhở chúng ta rằng ngay cả trong những chương đen tối nhất của lịch sử, khi sự tàn ác và thù hận dường như không thể ngăn chặn, thì một người duy nhất đưa ra một lựa chọn dũng cảm có thể tạo ra ánh sáng không bao giờ lụi tàn.

Hai mươi hai gia đình đã trở về nhà đêm đó vì một chàng trai trẻ quyết định rằng mạng sống của họ quan trọng hơn mạng sống của chính mình.

From: taberd & NguyenNThu


 

Thánh Elizabeth ở Hung Gia Lợi (1207-1231)- Cha Vương

Ngày Thứ 2 thật tốt lành nhé! Hôm nay 17/11/2025 Giáo Hội mừng kính Thánh Thánh Elizabeth ở Hung Gia Lợi (1207-1231). Bổn mạng của thợ làm bánh, tổ chức từ thiện Công Giáo, và hội dòng ba Phan-xi-cô. Mừng quan thầy, chúc mừng!

Cha Vương

Tuy cuộc đời của Thánh Elizabeth thật ngắn ngủi, nhưng lòng thương yêu ngài dành cho người nghèo và người đau khổ thật lớn lao, đến nỗi ngài được Giáo Hội đặt làm quan thầy của các tổ chức bác ái Công Giáo, và của Dòng Ba Phanxicô. Là con gái của vua Hung Gia Lợi, thay vì chọn một đời sống xa hoa nhàn hạ, Thánh Elizabeth đã đi theo con đường khổ hạnh và hãm mình. Quyết định đó, đã để lại trong tâm khảm của bao người dân Âu Châu niềm cảm mến sâu xa.

      Khi lên 14 tuổi, ngài kết hôn với ông Louis ở Thuringia (một quận chúa của Ðức), là người mà ngài rất yêu mến, và có được ba mặt con. Dưới sự linh hướng của các tu sĩ Phanxicô, ngài sống đời cầu nguyện, hy sinh và phục vụ người nghèo cũng như người đau yếu. Không những thế, ngài còn muốn trở nên một người nghèo thực sự qua cách ăn mặc thật đơn sơ. Mỗi ngày, ngài phân phát thực phẩm cho hàng trăm người nghèo trong vùng, mà lúc nào cũng đầy nghẹt trước cửa nhà.

      Sau sáu năm thành hôn, ngài thật đau khổ khi nghe tin chồng tử trận trong cuộc Thập Tự Chinh. Buồn hơn nữa, gia đình nhà chồng lại coi ngài là người hoang phí tiền bạc của hoàng gia, nên đã đối xử với ngài thật thậm tệ, và sau cùng họ đã tống ngài ra khỏi hoàng cung. Nhưng sau cuộc thập tự chinh, những người thân thuộc bên chồng trở về đã phục hồi quyền lợi cho ngài, vì con trai của ngài là người thừa kế chính thức.

      Vào năm 1229, ngài gia nhập dòng Ba Phanxicô, và dùng quãng đời còn lại để chăm sóc người nghèo trong một bệnh viện, mà ngài đã thiết lập để vinh danh Thánh Phanxicô. Sức khỏe của ngài ngày càng sa sút, và sau cùng ngài đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày sinh nhật thứ 24, năm 1231. Vì sự nổi tiếng về nhân đức của ngài, nên chỉ bốn năm sau ngài đã được phong Thánh.

 LỜI BÀN: Thánh Elizabeth hiểu rất rõ bài học của Ðức Kitô, khi Người rửa chân cho các môn đệ trong bữa Tiệc Ly: người Kitô phải là người phục vụ những nhu cầu cần thiết của tha nhân, dù người phục vụ có địa vị cao trọng. Là một người trong hoàng tộc, Thánh Elizabeth đã có thể sai khiến người dân, nhưng ngài đã phục vụ họ với một tâm hồn thật đại lượng, đến nỗi trong cuộc đời ngắn ngủi ấy ngài đã được sự quý mến của rất nhiều người. Thánh Elizabeth còn là gương mẫu cho chúng ta về sự tuân phục vị linh hướng. Thăng tiến đời sống tâm linh là một tiến trình thật khó khăn. Chúng ta rất dễ tương nhượng, nếu không có ai khích lệ hay chia sẻ những kinh nghiệm để giúp chúng ta tránh được các cạm bẫy.

 LỜI TRÍCH: “Trong thời đại ngày nay, chúng ta có trách nhiệm đặc biệt là trở nên người thân cận đối với mọi người, và tích cực giúp đỡ họ khi chúng ta gặp trên đường đời, dù đó là người già cả bị hắt hủi, người lao công ngoại quốc bị khinh miệt, người tị nạn, trẻ sơ sinh của một mối tình vụng trộm mà bất đắc dĩ em phải chịu đau khổ, hay một người đói ăn; những người ấy đã làm lương tâm chúng ta phải bối rối khi nhớ lời Ðức Kitô: ‘Khi anh em giúp đỡ một người bé mọn này là giúp đỡ chính Thầy’ (Mt. 15:40)” (Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay, 27).

 (Nguồn: Người Tín Hữu)

Noi gương thánh nhân mời bạn hãy là một việc thiện hôm nay nhé.

Xin Thánh Elizabeth cầu bầu cho chúng con.

From: Do Dzung

************************

Xin Cho Con Được Thấy – Nguyễn Hồng Ân

TỬ ĐẠO, MỘT CHỌN LỰA CỦA LÒNG TIN –  Lm. Đaminh Xuân Trường, GP.Bắc Ninh 

Lm. Đaminh Xuân Trường, GP. Bắc Ninh 

Hôm nay, chúng ta hân hoan cùng với toàn thể Giáo Hội Việt Nam mừng kính trọng thể lễ các thánh Tử Đạo tại Việt Nam.  Đây là một ngày vui mừng chung của tất cả chúng ta, những Kitô hữu mang trong mình dòng máu con Rồng, cháu Tiên.  Cách đây gần 400 năm, hay đúng hơn từ lễ Phục sinh năm 1615, khi cha Bugiơmi, dòng Tên, người Ý dâng thánh lễ đầu tiên tại Hội An, Đà Nẵng bây giờ, đạo Công giáo đã được chính thức khai nguyên và lập cơ sở ở Việt Nam.  Hạt giống Tin mừng đã được gieo vãi trên mảnh đất hình chữ “S” thân yêu này.  Cha ông chúng ta những con người có tâm hồn hiền hậu, chất phác đã đón nhận và sẵn sàng dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho Tin mừng đó.

Thật vậy, “Tử Đạo” theo nguyên ngữ là “Martyr” có nghĩa là “làm chứng.”  Vậy thì việc cha ông chúng ta, từng lớp lớp người sẵn sàng bỏ tất cả vinh hoa, phú quý, vợ con để chết đi làm chứng điều gì?  Chắc chắn việc các ngài sẵn sàng chết không phải vì các ngài không muốn sống, nhưng là để làm chứng rằng, sự sống nơi trần thế này không phải là tuyệt đối, và mọi vinh dự ở đời này không phải là vĩnh cửu.  Với cái chết của mình, cha ông chúng ta đã cho thấy rằng: chết chưa phải là hết, nhưng là cửa ngõ để đi vào một đời sống vĩnh cửu đúng như tâm thức từ bao đời nay trong lòng người dân Việt: “sống gởi, thác về.”  Và chính dòng máu nóng của các ngài đổ ra trên mảnh đất này, đã làm phát sinh một Giáo Hội Việt Nam hôm nay, như lời Đức Kitô: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.” 

  1. Chọn lựa của dân Do thái: 

Tuy nhiên, để có thể sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho Tin mừng, cha ông chúng ta đã phải làm một cuộc chọn lựa thật quyết liệt trong tâm hồn.  Bởi vì, trong thực tế, hạnh phúc đời sau thì bây giờ chúng ta không thấy, còn tiền của, danh vọng cùng với những vinh hoa phú quý của nó, thì lại nằm ngay trước mắt.  Chính dân Do Thái khi bước vào được Đất Hứa, sau cuộc hành trình 40 năm trong sa mạc, cũng đã phải làm một cuộc chọn lựa cơ bản này.  Ông Môisê đã nói với họ: “Coi đây, hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là bị chết, bị tai họa.”  Khi dân Do thái chọn lựa “yêu mến Đức Chúa,… và gắn bó với Người,” thì không phải vì trước mắt họ nhận được một cuộc sống sung sướng, dễ dãi.  Họ chọn lựa Thiên Chúa chỉ vì họ tin tưởng vào tình yêu của Giavê Thiên Chúa, Đấng đã từng giải thoát họ thoát ách nô lệ Ai Cập, kết ước với họ, để họ được làm dân của Ngài.  Đồng thời, còn ban cho họ Đất Hứa làm gia nghiệp.

 2.Chọn lựa của cha ông chúng ta: 

“Trung thành với Thiên Chúa” cũng chính là chọn lựa, mà cha ông chúng ta ngay từ những ngày đầu đón nhận Tin mừng đã quyết định.  Một cuộc chọn lựa nhìn bên ngoài có vẻ đơn giản: đó là bước qua thập giá hay không bước qua.  Bước qua thì có ngay tiền bạc, vinh hoa phú quý, còn như không bước qua thì có thể lập tức lãnh lấy cái chết.  Đứng trước thập giá, đã có người bước qua, nhưng cũng đã có nhiều người không bước qua, không quá khoá (không nhảy qua thập tự).  Đã có người được khiêng qua thánh giá, nhưng đã co chân lên như thánh Antôn Nguyễn Đích.  Đã có người bước qua thánh giá, nhưng sau lại hối hận: đó là trường hợp của ba vị thánh Augustin Phan Viết Huy, Nicôla Bùi Đức Thể, và Đaminh Đinh Đạt.  Vua quan đã bày ra trước mặt các ông mười nén vàng, một tượng Chịu Nạn và một thanh gươm rồi nói: “Cho bay tự ý chọn, bước qua tượng thì được vàng, bằng không thì gươm sẽ chặt đôi người bay ra, xác sẽ bị bỏ trôi ngoài biển.” 

Đúng đây là một chọn lựa nghiêm chỉnh, chọn lựa này đụng đến tương lai và sinh mạng của chính mình.  Chọn lựa này bày tỏ thái độ của bản thân tôi đối với Đức Giêsu.  Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi.  Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được.”  Còn Thánh Têphanô Ven, một linh mục trẻ, chỉ mới 31 tuổi, thuộc Hội Thừa Sai Paris đã bày tỏ chọn lựa của mình một cách thật dứt khoát, khi trả lời cho viên quan bảo ngài bước qua Thánh giá: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được?  Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”  Một chọn lựa có thể nói là đầy bấp bênh theo cái nhìn tự nhiên của con người.  Chính vì bấp bênh như thế mà những chọn lựa này trở nên có giá trị, vì nó đúng là một chọn lựa của lòng tin. 

Vâng, mỗi người chúng ta chỉ nhờ có lòng tin chứ không phải nhờ bất cứ điều gì khác, mới có thể giúp mỗi người chúng ta lãnh nhận ơn cứu độ.  Ý thức điều đó, thánh Phaolô mời gọi tín hữu thành Côlôsê và cũng là lời nhắc nhở từng người chúng ta: “Anh em chỉ cần giữ vững đức tin, cần được xây dựng vững chắc kiên quyết, và đừng vì nao núng mà lìa bỏ niềm hy vọng anh em đã nhận được khi nghe loan báo Tin Mừng.”  Đức tin này mỗi người chúng ta đã được lãnh nhận khi chịu phép Rửa, nhưng như thế thì chưa đủ.  Đức tin đó còn phải được minh chứng bằng chính cuộc sống hàng ngày của mỗi người chúng ta.  Nhiều vị tử đạo đã được mời giả vờ bước qua thánh giá, để quan có cớ mà tha, còn đức tin bên trong thì quan không đụng đến.  Đây là một cám dỗ khá tinh vi và hấp dẫn, có vẻ như được cả hai, đời này và đời sau.  Nhưng liệu tôi có thể bên ngoài chà đạp một Đấng mà bên trong tôi tôn thờ không?  Đứng trước thánh giá là đứng trước một chọn lựa dứt khoát, không có giải pháp dung hoà hay lập lờ.  Không ai có thể làm tôi hai chủ (x. Mt 6, 24), điều này vẫn đúng cho những chọn lựa mỗi ngày của các Kitô hữu chúng ta qua mọi thời đại. 

3.Chọn lựa của chúng ta hôm nay: 

Mừng lễ các thánh Tử Đạo tại Việt Nam hôm nay, lời Chúa một lần nữa mời gọi mỗi người chúng ta xét lại chọn lựa của mình.  Chọn lựa này không phải chỉ một lần là xong, nhưng cần đựơc lập lại mỗi ngày.  Tôi đang chọn Chúa hay tôi chọn tôi?  Và nếu tôi chọn Chúa, tôi đã làm gì để chứng minh cho lựa chọn của mình?  Chọn lựa của chúng ta hôm nay, có thể không đòi chúng ta phải đổ máu để làm chứng cho Chúa, nhưng tôi thiết nghĩ, cũng không kém phần gian khó.  Đứng trước những bất công, tôi có dám bênh vực, hay tôi sợ phiền hà rồi im lặng?  Trước một trận bóng đá, một bộ phim hay, một giấc ngủ ngon, một lời rủ đi chơi của bạn bè và tiếng mời gọi của Chúa nơi ngôi Thánh đường này, tôi chọn điều gì?

 Chớ gì, nhờ lời cầu bầu của các thánh Tử Đạo tại Việt Nam và nhất là sức mạnh của Thánh Thể, quý ông bà anh chị em và tôi đủ sức thực hiện những chọn lựa của mình.  Nhờ đó, vào ngày sau hết, tất cả chúng ta sẽ cùng được đoàn tụ với cha ông chúng ta như lời hứa của Đức Giêsu: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó.”  Amen! 

Lm. Đaminh Xuân Trường, GP.Bắc Ninh

From: Langthangchieutim


 

CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM ĐÃ KIÊN CƯỜNG SỐNG VÀ LÀM CHỨNG ĐỨC TIN

Lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam được gọi là Lễ Thánh An-rê Dũng Lạc và các Bạn Tử Đạo. Việc kính Thánh An-rê Dũng Lạc và các Bạn Tử Đạo bao gồm việc kính tất cả 117 Vị Tử Đạo đã được Giáo Hội phong lên bậc Hiển Thánh. 117 vị Thánh này có 96 Thánh Việt Nam (37 linh mục, 14 thầy giảng, một chủng sinh và 44 giáo dân), 11 Thánh người Tây Ban Nha (6 giám mục và 5 linh mục), 10 Thánh người Pháp (2 giám mục và 8 linh mục). Chúng ta có thể kể thêm Chân Phước An-rê Phú Yên (Vị tử đạo đầu tiên) vào hàng ngũ các Thánh Tử Đạo Việt Nam nên con số sẽ là 118 Vị.

Thánh An-rê Dũng Lạc tử đạo ngày 21 tháng 12 năm 1839. Hai vị Thánh Tử Đạo đầu tiên là Linh mục Tế và Linh mục Đậu tử đạo ngày 22 tháng 1 năm 1745, và vị Thánh Tử Đạo sau cùng là giáo dân Phê-rô Đa tử đạo ngày 17 tháng 6 năm 1862. Như vậy khi nói các Bạn Tử Đạo với Thánh An-rê Dũng Lạc ta phải hiểu là các Thánh Tử Đạo kể từ năm 1745 tới năm 1862 (trong khoảng thời gian 117 năm).

 Tất cả các Vị Thánh này, chỉ vì kiên trung giữ vững đức Tin, quyết tâm không bỏ Chúa, không bỏ Giáo Hội, nên đã trải qua nhiều đau khổ, cơ cực, như bị tra tấn, bị đòn vọt đánh nát thịt da, bị kìm nung đỏ cặp vào chân tay, bị đói khát, bị mình trần phơi nắng nhiều ngày, bị gông cùm xiềng xích trong tù ngục nhiều tháng trời v.v.. và sau cùng hoặc bị chém đầu (án trảm), hoặc bị thiêu đốt (án thiêu sinh), hoặc bị xiết cổ đến chết (án giảo), hoặc bị cắt các chi thể rồi mới chém đầu (án lăng trì), hoặc bị cắt xẻ da thịt ra hằng trăm miếng (án bá đao). Cũng có vị, vì bị tra tấn quá dã man, bị đói khát, ngày đêm nhốt trong cũi chật hẹp, lại phải đeo xiềng xích, cùm chân tay, nên đã trút hơi thở cuối cùng, trước khi bị đem ra pháp trường. 

Một vài tấm gương anh dũng của các Thánh Tử Đạo Việt Nam:

– Thánh Linh mục Du bị trói vào một cây cọc. Có 3 lý hình, một cầm kìm, một cầm dao, còn một người lo đếm cho đủ 100 lát cắt. Trước đó, lính đã nhét đá vào miệng ngài và cột chặt, để không có thể kêu la hay bỏ chạy được. Sau một hồi trống, lý hình cắt lớp da trên trán Cha Du lệt xuống che mắt, rồi cắt từng mảng hai bên ngực, sau lưng, tay chân. Quá đau đớn Cha Du giãy giụa quàn quại, ngướv mắt lên trời cao, rồi gục đầu xuống nhắm mắt lìa trần. Tiếp theo quân lính cắt đầu của vị tử đạo, bổ thân mình làm 4 và ném xuống biển. Còn thủ cấp Cha được đem đi bêu tại nhiều nơi, rồi đưa trả về kinh đô, bị bỏ vào cối giã nát và cho rắc xuống biển.

– Thánh Giám mục Xuyên, chân tay bị trói vào bốn cọc. Năm lý hình cầm 5 cái rìu, sẵn sàng nghe lệnh quan án sát. Vừa nghe lện, hai lý hình chặt hai chân, hai lý hình chặt hai tay, đến lượt lý hình thứ năm chặt đầu. Rồi họ mổ bụng ngài cắt lấy ruột gan.

Hai Cha Điểm và Khoa bị trói chân tay vào cột, lý hình tròng dây vào cổ. Nghe hiệu lệnh, lý hình cầm hai đầu dây xiết mạnh cho đến khi hai vị nghẹt thở và lịm dần.

Sáng ngày 5-6-1862, trước sự chứng kiến của rất đông người, hai giáo dân: Thánh Toại và Thánh Huyên bước vào cũi tre để bị thiêu sống. Những người hiện diện đều xúc động khi nghe rõ các ông cất tiếng nguyện cầu thật lớn, trong khi ngọn lửa hồng phừng phực bốc cao, thiêu đốt hai ông.

– Sau ba tháng tù tại Bình Định ông Anrê Nguyễn Kim Thông nhận được án phát lưu vào Vĩnh Long. Đường từ Bình Định vào Nam xa xôi, ông Thông cùng với bốn chứng nhân khác. Vì tuổi già sức yếu, lại phải mang gông siềng, ông bước đi một cách rất khó khăn, mệt nhọc. Mỗi ngày chỉ đi được bảy tám dặm, dưới ánh nắng gay gắt. Tối đến, đoàn tù nhân được tạm giam trong các đòn quan, hay nhà tù địa phương. Được vài ba ngày, lính thấy ông Thông đuối sức quá, sợ không thể đi tới nơi, thì thương tình tháo gông xiềng cho ông. Đến Chợ Quán, thấy tình trạng sức khỏe của ông quá tàn tạ, Cha Được đã đến ban phép xức dầu cho ông. Sau đó ông lại phải mang gông xiềng tiếp. Khi ông đặt chân lên đất lưu đày, ông chỉ kịp đọc kinh an năn tội, vài kinh kính mừng, rồi tắt thở. Hôm đó là ngày 15 tháng 5 năm 1855.

– Bà Thánh Inê Đê (Lê Thị Thành), sau khi đã bị tra tấn và chịu đòn, coi trong người không có chỗ nào không bị thương tích, áo quần đầy máu me, bà đã trút hơi thở cuối cùng trong ngục. Lời sau cùng của bà là: “Giêsu Maria Giuse, con phó thác hồn con và thân xác con trong tay Chúa, xin ban cho con trọn niềm tin ở Chúa.” Hôm đó là ngày 12-7-1841, sau 3 tháng bị giam cầm về đức Tin.

– Riêng những vị xử trảm, cũng có những gương sáng lạng về việc các ngài coi thường sự đau đớn lúc bị chém đầu. Coi như các ngài ước ao được chém nhiều lần để biểu lộ lòng yêu mến Chúa. Trước khi bị chém Thánh Giám mục An nói với viên quan chỉ huy: “Tôi gửi quan 30 quan tiền để xin một ân huệ: Đừng chém tôi một nhát nhưng 3 nhát. Nhát thứ nhất tôi tạ ơn Thiên Chúa đã tạo dựng nên tôi, và dẫn tôi đến Việt Nam giảng đạo. Nhát thứ hai để nhớ ơn cha mẹ sinh thành ra tôi. Nhát thứ ba như lời di chúc cho các bổn đạo của tôi, để họ bền chí chết vì đức Tin, theo gương vị chủ chăn. Và như thế họ đáng hưởng hạnh phúc cùng các Thánh trên trời.”

– Năm ông Đaminh Nhi, ông Đa-minh Mạo, ông Đa-minh Nguyên, ông An-rê Tường, ông Vinh sơn Tưởng, bị xử chém đầu, thì trừ ông Đaminh Nhi, bốn vị ông Đaminh Mạo cùng các ông Đaminh Nguyên, Anrê Tường, Vinhsơn Tưởng, đều yêu cầu lý hình, thay vì chém một nhát, thì xin được chém 3 nhát để tỏ lòng tôn kính Chúa Ba Ngôi.

– Riêng Thánh Hồ Đình Hy bị chém đầu, nhưng trước khi đem đi xử, giữa kinh thành Huế, trong ba ngày 15,18 và 21 tháng 5 năm 1857, thân mình ngài đầy thương tích, quần áo tả tơi, dính đầy máu, đi đứng lảo đảo như muốn té nhào, bị điệu qua các đường phố, những khu chợ và quanh thành nội. Lính mở đường đi trước rao tên tử tội, mỗi khi tới ngã ba đường, phố, chợ và công trường, người tử tội bị đánh 30 trượng, lính vác loa rêu rao: “Thằng theo tà đạo, đức ngỗ nghịch, bất hiếu với cha mẹ, cưỡng lại luật pháp triều đình. Vì thế bị kết án tử hình. Bọn Gia Tô tin rằng chết vì đạo sẽ lên Thiên đàng. Điều đó có đúng hay sai, không cần biết. Gia Tô của nó ở đâu? tại sao thấy nó khổ mà không đến cứu?”

– Sau một năm tù giam, Anrê Trọng vẫn cương quyết tuyên xưng đức Tin, các quan quyết định ngày xử là thứ bảy ngày 28-11-1835. Sáng hôm đó, anh gặp lại người anh họ. Người anh họ hỏi Thánh nhân có muốn ăn gì không? An-rê Trọng trả lời: “Em muốn giữ chay để dọn mình tử đạo”, rồi nói tiếp: “Xin anh giúp đỡ mẹ em, chúng ta là anh em, mẹ em cũng sẽ yêu thương anh. Xin nhắn lời với mẹ em: Đừng lo gì cho em, cầu chúc bà mãi mãi thánh thiện và sẽ hài lòng vì con trai mình luôn trung thành với Chúa, cho đến chết.”

Nhưng người anh họ chưa kịp về nhắn tin, bà mẹ An-rê Trọng đã đến đón con và theo con đến tận đầu chợ An Hòa, nơi An-rê sẽ phải xử. Gặp con, bà chỉ nói một câu: “Bấy lâu nay xa nhà, thời gian ở tù con có nợ nần gì ai không? Nếu có thì cho mẹ biết, mẹ sẽ trả thay con.”

Khi được con cho biết không vướng mắc gì với ai, bà tiếp tục đi sát bên con, bình tĩnh nói với con những lời đầy khích lệ. Đến nơi xử, khi quân lính tháo gông xiềng, Thánh Trọng đón lấy, đưa cho anh lính cạnh bên và căn dặn: “Xin nhờ anh đưa giùm cái này cho mẹ tôi, để bà làm kỷ niệm.”

Mẹ anh đứng gần bên nghe rõ, nhưng bà cho rằng chỉ nhận lấy kỷ vật đó mà thôi là chưa đủ, bà còn muốn đón nhận chính thủ cấp của con mình nữa. Bà can đảm, bước ra xin viên quan chỉ huy trao cho bà thủ cấp của con bà. Bọc trong vạt áo rồi ghìm chặt vào lòng, bà vừa hôn vừa lập đi lập lại: “Ôi con yêu quí của mẹ, con nhớ cầu nguyện cho mẹ.” Rồi bà đem về an táng trong nhà.

 II.TRÁCH NHIỆM CỦA CHÚNG TA LÀ CON CHÁU CÁC THÁNH TỬ ÐẠO VIỆT NAM

2.1 Trách nhiệm sống sứ mạng chứng nhân của mọi Kitô hữu đã được Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nhắc nhở trong Thư Mục Vụ 2006 về chủ đề “Sống Đạo Hôm Nay”:

Trước khi về Trời, Chúa Giêsu đã củng cố niềm tin của các Tông Đồ, mở trí cho các Ngài hiểu Thánh Kinh và trao cho các Ngài sứ mạng ra đi rao giảng cho muôn dân, kêu gọi thống hối để được ơn tha tội. Người khẳng định: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24,48).

“Từ đó, sống chứng nhân là cách thế biểu thị sống động nhất về sức mạnh yêu thương cứu độ của Thiên Chúa, cũng như Chúa Giêsu đã đến trần gian không để tìm vinh quang cho chính mình, nhưng là để làm vinh danh Thiên Chúa và cứu độ con người, Kitô hữu bước theo Chúa Giêsu để được Tin Mừng của Người biến đổi, và qua đó họ trở nên những người đem Tin Mừng cho thế giới này.

“Nếu trong đời sống Kitô hữu, Chúa Giêsu thực sự là điểm quy chiếu và là chuẩn mực giúp nhận định giá trị các hành vi, thì sự hiện diện tích cực qua việc sống đạo của Kitô hữu trong xã hội sẽ trở thành lời chứng về những giá trị căn bản của Tin Mừng và trở nên dấu chỉ của niềm hạnh phúc Nước Trời.” (Thư Mục vụ 2006 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, 4). 

2.2 Trong cụ thể nếu muốn sống sứ mạng chứng nhân ngày hôm nay thì người giáo dân Việt Nam không thể thờ ơ trước những thực tại bất bình thường và đáng xấu hổ của xã hội hiện nay:

(a) Trước hết là tình trạng nghèo đói của đại đa số đồng bào: Xã hội Việt Nam còn đầy rẫy những người nghèo: nghèo về vật chất khiến phải sống dưới mức tối thiểu không thể xem là đủ sống; nghèo về xã hội, như bị kỳ thị (tôn giáo, sắc tộc, phe đảng) hay bị cô lập (già yếu); nghèo về thể chất và tâm linh, như bệnh tật và tàn tật; nghèo về chính trị, như bị ức hiếp, bóc lột, cưỡng bức; nghèo về văn hóa, như ít học, ít hiểu biết và không được coi trọng; nghèo về đạo đức, như tội phạm. Những người nghèo kể trên đều bị ngăn cản không được dự phần vào đời sống chung của xã hội một cách xứng hợp, và vì thế nhu cầu cấp thiết là phải giúp đỡ họ thể hiện vai trò “chủ thể” của họ phù hợp với phẩm giá con người.

(b) Kế đến là tình trạng bất công tràn lan trong xã hội: Có nhiều kẻ không làm mà hưởng rất nhiều trong khi có nhiều người khác cực khổ suốt ngày, suốt tuần, suốt tháng, suốt năm, thậm chí suốt đời mà vẫn không đủ sống. Có những người giầu có bạc triệu (tính bằng đôla Mỹ) nhờ có chức có quyền nên có cơ hội kinh doanh đầu tư hoặc tham nhũng, vơ vét dù bất tài và thất đức. Trong Thư Mục Vụ 2006, các Giám Mục Việt Nam đã thúc đẩy mọi tín hữu góp phần xây dựng một xã hội công bằng: “Lòng mến Chúa yêu người thôi thúc chúng ta góp phần xây dựng một xã hội trong đó con người có điều kiện để sống xứng với phẩm giá của mình. Bởi vì con người là hình ảnh của Thiên Chúa, nên mọi người có quyền được tôn trọng và phát huy những khả năng Chúa ban để phục vụ xã hội một cách hiệu quả nhất. Đồng thời, bởi vì con người là anh em của nhau, được tác tạo do quyền năng của Thiên Chúa và là đối tượng của ơn cứu chuộc trong Chúa Giêsu Kitô, nên mỗi người cần được đối xử với lòng kính trọng và yêu thương chân thành như là mục đích của sự phát triển toàn diện, để họ không bao giờ bị biến thành phương tiện cho sự phát triển kinh tế, cho sự thăng tiến xã hội của bất kỳ tổ chức hay thế lực nào.

“Để xây dựng một xã hội công bằng, ngoài việc giáo dục để biết tôn trọng những quyền căn bản của con người, cũng cần có một đường lối thích hợp bảo đảm thực hiện được quyền này. Công việc này đòi hỏi sự đóng góp từ nhiều phía. Là Kitô hữu, được mời gọi để trở thành ánh sáng cho thế gian, muối cho đời, men trong bột, chúng ta hãy tập trung xây dựng một cộng đoàn trong đó mọi thành phần đều được yêu thương và được đối xử công bằng.”

“Sự công bằng cần phải đi đôi với lòng tôn trọng sự thật, vì tôn trọng sự thật là điều kiện để xây dựng một cộng đoàn yêu thương. Chúng tôi tin chắc rằng gương sáng phát xuất từ cộng đoàn của những người con cái Chúa sẽ có ảnh hưởng tích cực trong xã hội chúng ta” (Thư Mục vụ 2006 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, 7). 

(c) Sau cùng là tình trạng thiếu tự do, dân chủ vẫn còn được duy trì mặc dù trào lưu tiến bộ của loài người là tôn trọng phẩm giá và các quyền con người. Do đó, không ai hay nhóm người nào, vì bất cứ lý do gì, được quyền chối bỏ hoặc hạn chế các giá trị thiêng liêng cao cả ấy. Trong lãnh vực này, người Công Giáo có trách nhiệm đề cao, truyền bá và bảo vệ các giá trị của tự do, dân chủ và phân quyền trong đời sống xã hội vì phẩm giá và các quyền con người là bất khả xâm phạm và không thể chuyển nhượng như Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã  nhấn mạnh trong Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á: Con người, chứ không phải của cải hay kỹ thuật là tác nhân chủ yếu & mục tiêu của sự phát triển. Thế nên, sự phát triển mà Giáo Hội cổ võ vượt xa những vấn đề kinh tế và kỹ thuật. Sự phát triển ấy bắt đầu và kết thúc với sự toàn vẹn của con người, đã được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và được Thiên Chúa ban cho một phẩm giá cũng như các quyền con người bất khả nhượng. Các bản Tuyên Ngôn Quốc Tế khác nhau về các quyền con người cũng như nhiều sáng kiến được khởi hứng từ các Tuyên Ngôn ấy là một dấu hiệu cho thấy, trên cấp độ toàn cầu, càng ngày người ta càng quan tâm tới phẩm giá con người. Không may, trong thực tế, các bản Tuyên Ngôn này thường xuyên bị vi phạm. Đã năm mươi năm sau ngày long trọng công bố bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, mà nhiều dân tộc vẫn còn là nạn nhân của những hình thức bóc lột và thao túng làm hạ phẩm giá, biến họ thành nô lệ thực sự cho những người quyền thế hơn, cho một ý thức hệ, cho quyền lực kinh tế, cho những hệ thống chính trị đàn áp, cho chủ nghĩa khoa học kỹ thuật thống trị hay sự xâm nhập của các phương tiện thông tin đại chúng.” (Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á, 33).

 Sàigòn ngày 14/11/2025

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.              

From: NguyenNThu


 

Các thánh trong giáo hội công giáo – Phùng Văn Phụng

Tác giả: Phùng Văn Phụng

1.Các thánh tông đồ: 12 thánh tông đồ đều tử đạo chỉ có thánh Gioan là chết tự nhiên mà thôi.

Các Thánh Tông Đồ đều có kết cục khác nhau, phần lớn đều bị sát hại vì đức tin của mình. Một số cái chết bi thảm được ghi nhận bao gồm: Phêrô bị đóng đinh lộn ngược, Anrê bị đóng đinh trên cây thập tự hình chữ X, Giacôbê Tiền bị chặt đầu, Tôma bị đâm chết bằng giáo và Simon bị đóng đinh hoặc chặt đầu. 

  • Phêrô: Bị đóng đinh ngược tại Rome.
  • Anrê: Bị đóng đinh trên cây thập tự hình chữ X.
  • Giacôbê Tiền: Bị chặt đầu.
  • Gioan: Chết già tại Ephesus, là vị tông đồ duy nhất qua đời bình thường.
  • Philípphê: Bị đóng đinh trên cây thập tự ở Hierapolis.
  • Batôlômêô: Bị lột da rồi đóng đinh hoặc bị xử lý tàn bạo ở Armenia.
  • Tôma: Bị đâm chết bằng giáo ở Ấn Độ.
  • Mátthêu: Bị chặt đầu hoặc bị xử tử theo nhiều cách khác nhau ở Ethiopia.
  • Giacôbê Hậu: Bị ném đá hoặc chặt đầu ở Jerusalem.
  • Simon: Bị đóng đinh hoặc chặt đầu ở Persia hoặc Ai Cập.
  • Giuđa (Tađêô): Bị đóng đinh hoặc bị đánh bằng chùy ở Ba Tư. 

Từ năm 64 đến năm 313 CN, đạo Chúa bị cấm đoán, bắt bớ, bị hành quyết vì niềm tin, phải sống dưới các toại đạo, bí mật thờ phụng Chúa để tránh sự báchh hại của nhà cầm quyền Roma.

Năm 313, chiếu chỉ Milan chính thức chấm dứt sự bách hại và dưới thời Hoàng đế Constantine giáo hội mới dành được nhiều ảnh hưởng chính trị. 

2.Các thánh tử đạo Việt Nam

Vài tiêu biểu như sau:

Thánh Anrê Trần Anh Dũng (Lạc) Linh mục (1795-1839) tử đạo ngày 21-12-1839

Anna Lê Thị Thành (Đê) 1781-1841, tử đạo ngày 12 tháng 07 dưới triều vua Thiệu Trị

Khi vào thăm mẹ, cô Nguyễn thị Nụ khóc nức nở khi nhìn thấy tấm áo mẫu thân loang lổ vết máu, nhưng bà Đê âu yếm an ủi: “Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu sao con lại khóc”.

Một lần viếng thăm khác bà Đê nhắn nhủ: “… Không bao lâu nữa, mẹ con chúng ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên Đàng”

118 vị thánh tử đạo Việt Nam

Các vị này đã hy sinh mạng sống làm chứng cho Tin mừng trong những đời vua chúa sau đây:

2 vị duới thời chúa Trịnh Doanh (1740-1767)

2 vị dưới thời chúa Trịnh Sâm (1767-1782)

2 vị do sắc lệnh của vua Cảnh Thịnh (1782-1802)

58 vị dưới thời vua Minh Mạng (1820-1847)

3 vị dưới thời vua Thiệu Trị (1841-1847)

50 vị dưới thời vua Tự Đức (1847-1883)

Trong thế kỷ 18 và 19 có khoảng 130 ngàn đến 300 ngàn người công giáo bị giết vì đạo.

Nguồn:  TÓM LƯỢC TIỂU SỬ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tom-luoc-tieu-su-cac-thanh-tu-dao-viet-nam-31171

3.Các thánh trong đời thường

Ngày nay, trong thế kỷ thứ 21 này, ít có người chịu chết thể xác, tuy nhiên vẫn có người tử đạo (chết) vì đức tin, nhưng rất hiếm.

Nhưng mỗi ngày, chúng ta đều có dịp để tử đạo (từ bỏ những cám dỗ xấu xa do lòng ích kỷ của chúng ta). Chúng ta phải bỏ qua tánh nóng giận hay gây gỗ, chịu nhịn nhục, chấp nhận những sự thua thiệt, trái ý, khác với quan điểm của mình. Chấp nhận làm thinh, chịu đựng lời nói khó nghe, sống vui vẻ với người “khó ở” là chúng ta đang đi trên con đường nên thánh đó.

Phải vậy không?

Chúng ta, mỗi người, đều tập làm thánh mỗi ngày? Thì gia đình, cộng đoàn, hội đoàn mới hoà thuận, yên ổn, mới có thể tồn tại được? Có phải không?

Sống tinh thần tám mối phúc thật, khiêm nhường chớ kiêu ngạo, (một trong 7 mối tội đầu), an ủi kẻ âu lo (thương người 14 mối), sống với tinh thần bác ái (giúp đỡ người nghèo khó) và luôn yêu thương và tha thứ như Chúa dạy.

Xét mình thường xuyên, biết ăn năn, sám hối những lỗi lầm của mình để trở thành con cái của Thiên Chúa tình yêu đầy lòng thương xót.

Để chi vậy?

Chúng ta luôn chuẩn bị sẵn sàng, “sống như ngày hôm nay là ngày cuối cùng” để lúc nào Chúa gọi thì bình an về với Thiên Chúa tình yêu.

Có phải vậy không?

Phùng Văn Phụng

Ngày 06 tháng 11 năm 2025


 

TÌM HIỂU CÁC TÔNG ĐỒ – Sao Biển

Sao Biển

25/10/2021

Có lẽ chúng ta không còn là Kitô hữu khi loại bỏ các tông đồ. Không có những con người trung thành và can đảm này, chúng ta sẽ không biết Tin mừng và Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Mười hai tông đồ đầu tiên cùng với Phaolô và Mátthia là nền móng cho đức tin của chúng ta.

TÌM HIỂU CÁC TÔNG ĐỒ

D.D. Emmons

WGPNT (25.10.2021) – Có lẽ chúng ta không còn là Kitô hữu khi loại bỏ các tông đồ. Không có những con người trung thành và can đảm này, chúng ta sẽ không biết Tin mừng và Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Mười hai tông đồ đầu tiên cùng với Phaolô và Mátthia là nền móng cho đức tin của chúng ta. Chính các ngài đã loan truyền sứ điệp của Đức Giêsu, chia sẻ câu chuyện phục sinh cho hầu hết phần thế giới được biết đến vào thế kỷ I (Rôma lúc bấy giờ được xem là tận cùng trái đất). Sau lễ Ngũ tuần, các ngài kiên quyết dấn thân vì Đức Kitô, đến độ sẵn sàng chịu đau khổ và hi sinh mạng sống; thật vậy, hầu hết các ngài đã chịu tử đạo.

Về tầm quan trọng của các tông đồ, chúng ta lại ít biết về một vài vị trong số họ, và những gì chúng ta thực sự biết phần lớn dựa trên truyền thống hoặc truyền thuyết. Chúng ta có thể phỏng đoán một số điều về các tông đồ nhưng tất cả đều dựa trên văn hóa Do Thái. Chẳng hạn, vị Thầy (Giêsu) luôn lớn tuổi hơn môn đệ, nên các tông đồ có lẽ dưới 30 tuổi và một vài vị có thể đang tuổi niên thiếu. Là những người trẻ và ngư dân, có lẽ họ có sức khỏe tốt, là điều cần thiết để theo Đức Giêsu khắp miền Galilê. Hầu hết họ đều ít học, có lẽ ngoại trừ Mátthêu người thu thuế. Họ ít đi đây đi đó, chất phác, sống và lao động tại địa phương. Thánh Josemaría Escrivá đã viết về các Tông đồ như sau: “Các tông đồ chỉ là những người đánh cá… Họ ít học; thậm chí không được thông minh lắm, nếu chúng ta nhìn cách họ phản ứng trước những điều siêu nhiên… Họ nghèo và kém hiểu biết”. Thế nhưng, Đức Giêsu đã kêu gọi họ trở thành chứng nhân của Ngài cho toàn thể nhân loại.

Nêu tên các tông đồ

Trong các lớp giáo lý cho người dự tòng trưởng thành, có lúc người hướng dẫn yêu cầu học viên nêu tên các tông đồ đầu tiên. Thông thường, có người sẽ trả lời: “Mátthêu, Máccô, Luca và Gioan”, rồi ngập ngừng “và Phaolô”. Nhiều học viên, và các Kitô hữu khác, phải chật vật để kể tên nhóm Mười hai và thường nghĩ rằng các tác giả Tin mừng đều là các tông đồ.

Các tông đồ gồm: Phêrô, Anrê, Giacôbê Tiền, Gioan, Philípphê, Batôlômêô (Nathanaen), Tôma, Mátthêu (Lêvi), Giacôbê Hậu, Giuđa (Tađêô), Simon và Giuđa, cộng thêm Mátthia và Phaolô là hai vị không thuộc nhóm Mười hai. Ba Tin mừng Nhất lãm, cùng với sách Công vụ Tông đồ, xác nhận việc tuyển chọn nhóm Mười hai tông đồ đầu tiên. Một số tên gọi có khác nhau đôi chút nhưng cùng chỉ một người. Theo Tin mừng thánh Mátthêu, thì Anrê, Phêrô, cùng với Giacôbê và Gioan, tiếp theo là Philípphê là những tông đồ đầu tiên được chọn. Họ đều là ngư dân; trên thực tế, hầu hết nhóm Mười hai cũng vậy. Họ có một đức tính đặc biệt nơi mọi ngư dân năng nổ, đó là đức kiên nhẫn; họ giăng câu hay quăng lưới và chờ đợi. Đức tính này sẽ hữu ích khi Đức Kitô kêu gọi họ trở thành những kẻ lưới người. Sau khi chọn năm vị đầu tiên này, Đức Giêsu tiếp tục gọi Mátthêu, một người thu thuế, và sau đó là Batôlômêô. Tin mừng không đề cập cụ thể việc Đức Giêsu gọi từng tông đồ còn lại, mặc dù họ được nêu tên cùng với nhóm tông đồ ở một số nơi trong Tin mừng.

Đức Giêsu ban ơn cho các tông đồ

Ba năm sống với Đức Giêsu, nghe giảng và chứng kiến các phép lạ Ngài làm; các tông đồ đã sẵn sàng cho một sứ mạng lớn lao. Đức Giêsu đã ban cho các tông đồ những ân huệ thần linh, bao gồm ơn tha tội, khả năng chữa lành và việc biến bánh rượu thành Mình Máu Ngài. Không một người thường nào có thể trao cho người khác những khả năng đến từ Thiên Chúa. Một tuyển thủ bóng chày xuất sắc của đội bóng lớn có thể trình diễn và giải thích cách anh ta ném bóng, nhưng không thể làm cho người khác thấm nhuần tài nghệ riêng của mình. Một giáo lý viên có thể bàn luận cách cầu nguyện, nhưng sự thành tâm phải đến từ bản thân người cầu nguyện. Tuy nhiên, Đức Giêsu là Đấng thần thiêng, còn ban cho các tông đồ những lời lẽ cần thiết để công bố Tin mừng.

Ban đầu Đức Giêsu giới hạn Nhóm Mười hai giảng dạy nơi người Do Thái mà thôi: “… đừng đi về phía các dân ngoại… hãy đến với các con chiên lạc nhà Ítraen” (Mt 10,5–6). Hai năm sau, Ngài đưa ra lệnh truyền quan trọng khi bảo các tông đồ đi đến các nơi ngoài đất Do Thái “làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19–20).

Sau khi công bố lệnh truyền quan trọng và ngay trước khi về với Chúa Cha, Đức Giêsu truyền cho các tông đồ ở lại Giêrusalem, chờ đợi  “điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới” (Cv 1,4). Tóm lại, họ chưa thể thực thi sứ mạng cho đến khi nhận lãnh Thánh Thần. Những người trở lại đầu tiên đều là người Do Thái; các tông đồ đã không khởi sự rao giảng cho những người ngoài Do Thái trong khoảng 10 năm sau đó. Họ sẽ được những người khác như Banaba và Timôthê hỗ trợ để hoàn tất công việc linh thánh này.

Những con người bất toàn

Họ là những con người bất toàn, đầy khiếm khuyết như được kể trong các sách Tin mừng: đôi lúc họ nghi ngờ, khước từ thậm chí phản bội Đức Giêsu; họ chậm hiểu và thắc mắc về một số việc Ngài làm. Giuđa phản bội Ngài và sau đó ra ngoài treo cổ tự vẫn. Phêrô thì chối Chúa ba lần. Trừ Gioan, tất cả đã bỏ rơi Đức Giêsu trong cuộc khổ nạn. Tôma khước từ câu chuyện Đức Kitô sống lại, và hầu hết các ông đều không tin các phụ nữ vào buổi sáng phục sinh rằng Ngài đã sống lại. Philípphê tỏ ra kém tin khi hỏi làm sao Đức Giêsu có thể cho 5000 người ăn với chỉ vài con cá. Chỉ sau biến cố phục sinh các tông đồ mới được ban đầy đức tin vững vàng và trọn vẹn vào Đức Giêsu.

Trước lễ Ngũ tuần, họ sợ hãi chạy trốn; giờ đây họ sẵn sàng ca tụng danh Ngài đến tận cùng trái đất, mặc dù điều đó khiến họ bị căm ghét, đánh đập và cầm tù. Hầu hết, họ đi từng người từ Giêrusalem đến Ấn Độ, qua Ba Tư, rồi Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Bắc Phi, Ukraina, Ai Cập, Syria, khắp Địa Trung Hải và Trung Đông. Đây chưa phải là danh sách đầy đủ các quốc gia, nhưng nếu tính thêm nỗ lực của thánh Phaolô, người đã thực hiện hành trình truyền giáo hơn 10.000 dặm, bao gồm cả châu Âu, thì các tông đồ đã làm cho Kitô giáo loan truyền hầu khắp thế giới được biết đến vào thời đó. Ngoại trừ các thành phố như Giêrusalem, Antiôkhia và Rôma, họ thi hành sứ vụ nơi các cộng đồng Kitô giáo nhỏ bé nơi họ đã bỏ cả mạng sống mình trong nhiều trường hợp. Kinh thánh chỉ kể về cái chết của hai tông đồ: thánh Giacôbê Tiền, người bị giết bởi vua Hêrôđê; và Giuđa, người đã treo cổ tự vẫn. Theo truyền thống và truyền thuyết, chúng ta biết Phêrô đã bị đóng đinh ngược ở Rôma; và gần đó vào cùng ngày, Phaolô bị chém đầu. Anrê bị đóng đinh vào thập giá hình chữ X, Batôlômêô bị lột da sống, Mátthêu bị ném đá và sau đó chém đầu, còn Tôma bị đâm bằng giáo cho đến chết. Tất cả các tông đồ đều chịu tử đạo chỉ trừ Gioan đã chết cách tự nhiên.

Chẳng bao lâu sau, Kitô giáo không còn là sản phẩm phụ của Do Thái giáo mà đã phát triển thành một Giáo hội phổ quát. Các tông đồ đã phải đi những chuyến hành trình dài và nguy hiểm, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa khác nhau, và biết rằng mình vẫn bị người Rôma và nhiều người Do Thái muốn bách hại. Nhưng hầu như bất cứ nơi nào họ đến, họ thu hút những người tìm hiểu về Đức Kitô phục sinh, về sứ điệp tình yêu của Ngài, về sự sống đời đời. Những con người thánh thiện này vẫn là hình mẫu cho chúng ta.

GẶP GỠ CÁC TÔNG ĐỒ

Thánh Phêrô

Phêrô chối Đức Giêsu ba lần vào đêm Ngài bị bắt, “trước khi gà gáy hai lần”, đúng như lời Đức Giêsu đã báo trước (Mc 14,30). Tuy nhiên, ngay sau lần chối từ đau thương nầy, Đấng Cứu Độ đầy thương xót đã tha thứ cho Phêrô và cắt đặt ông làm người đứng đầu Giáo hội trên trần gian. Phêrô trở thành thủ lãnh các tông đồ, và nhờ ơn Thánh Thần, là người đầu tiên rao giảng Tin mừng cho người Do Thái. Bất cứ nơi nào trong Tân ước kể tên 12 môn đệ đầu tiên, Phêrô luôn được nêu tên đầu tiên.

Trong Tin mừng theo thánh Luca, Đức Giêsu trước tiên gặp Phêrô, Giacôbê và Gioan tại hồ Ghennêxarét, nơi họ thả lưới suốt đêm nhưng không bắt được gì. Đức Giêsu đề nghị họ thả lưới thêm một lần nữa. Phêrô phàn nàn vì mẻ lưới trước nhưng rồi cũng đồng ý làm theo. Bất ngờ, họ bắt được rất nhiều cá đến nỗi lưới không thể chứa hết. Phêrô xấp mình trước Đức Giêsu và thưa: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”. Đức Giêsu bảo ông đừng sợ, rồi nói với ba người ngư phủ: “‘Từ nay các anh sẽ thu phục người ta’… rồi họ bỏ tất cả mà đi theo Người” (Lc 5,8–11).

Phêrô tỏ ra thiếu lòng tin và thậm chí nhiều lần tranh luận với Đức Giêsu. Ông cho thấy một lòng tin kém cỏi khi cố đi trên mặt nước mà đến cùng Đức Giêsu; chỉ cần Phêrô chú ý đến Đấng Cứu Độ thì ông không sao, nhưng một khi rời mắt khỏi Đức Giêsu, thì ông bắt đầu chìm (x. Mt 14,28–33). Phêrô cãi lời Đức Giêsu khi Ngài bảo rằng sẽ bị người Do Thái giết, và một lần khác khi muốn rửa chân cho ông. Cùng với Giacôbê và Gioan, Phêrô ngủ quên khi Đức Kitô lo âu khắc khoải trong vườn dầu. Nhưng đối lại tất cả những khiếm khuyết nhân loại này, Đức Giêsu nhìn thấy Phêrô là người lãnh đạo Giáo hội bằng việc trở thành giáo hoàng đầu tiên. Không chỉ rao giảng cho người Do Thái, Phêrô còn làm cho người ngoại đầu tiên trở lại: ông Cornêliô, viên đại đội trưởng (xem Cv 10).

Thánh Tôma

Thánh Tôma được ghi nhớ như là vị tông đồ đã nghi ngờ khi nghe tin Đức Kitô phục sinh hiện ra với các tông đồ khác trong phòng Tiệc ly. Tôma vẫn không bị thuyết phục cho đến khi ông đặt bàn tay vào vết thương của Đức Kitô. Sự hoài nghi ban đầu của ông có thể hiểu được vì Đức Kitô đã bị đóng đinh và được đặt trong ngôi mộ kín có niêm phong. Theo thánh Giáo hoàng Grêgôriô Cả, không phải ngẫu nhiên mà Tôma vắng mặt khi Đức Kitô hiện ra với các tông đồ khác: “Với một cách kỳ diệu, lòng thương xót của Thiên Chúa đã an bài cho người môn đệ không tin này, khi chạm vào các vết thương trên thân thể Thầy của mình, sẽ chữa lành vết thương hoài nghi của chúng ta. Sự hoài nghi của Tôma đã tác động đến đức tin của chúng ta nhiều hơn là bởi đức tin của các môn đệ khác. Vì Tôma chạm vào Đức Kitô và bị chinh phục để tin, mọi ngờ vực đều được gạt qua một bên và đức tin của chúng ta được củng cố. Vì vậy, người môn đệ hoài nghi, sau đó cảm nhận được vết thương của Đức Kitô, trở thành nhân chứng cho thực tại phục sinh”. Tôma là chứng nhân cho chúng ta, đôi mắt và đôi tay của ngài cũng là đôi mắt, đôi tay của chúng ta, chúng ta không còn nghi ngờ… Đức Kitô đang sống.

Thánh Giacôbê và Gioan

Hai anh em Giacôbê và Gioan cùng với Phêrô là những tông đồ duy nhất đồng hành với Đức Giêsu trong ba biến cố đặc biệt: con gái ông Giaia sống lại, biến hình trên núi Tabo, tại vườn Giếtsêmani vào đêm trước cuộc khổ nạn. Theo đó, ba vị được coi là nhóm thân cận, gần gũi nhất với Đức Giêsu. Giacôbê được biết đến với tên Giacôbê Tiền, đơn giản chỉ để phân biệt ngài với một tông đồ khác cũng tên Giacôbê. Giacôbê Tiền là vị tông đồ đầu tiên đổ máu vì Đức Giêsu, khi bị sát hại theo lệnh vua Hêrôđê Agríppa vào năm 44, để làm “đẹp lòng người Do Thái” (Cv 12,3). Gioan là vị tông đồ duy nhất đứng bên thánh giá khi Đức Giêsu chịu đóng đinh; những người khác đều đã bỏ chạy. Từ thánh giá, Đức Giêsu đã trao Đức Maria, mẹ Ngài cho Gioan chăm sóc, để cho thấy sự gắn kết độc nhất giữa Đức Giêsu và Gioan.

Mẹ của Giacôbê và Gioan đã xin Đức Giêsu cho hai người con của bà được ngồi một đứa bên hữu và một đứa bên tả trong Nước Ngài. Đức Giêsu nói với bà: “Các người không biết các người xin gì”. Trước mặt tất cả các tông đồ, Ngài giải thích rằng quyền hành đều đến từ Chúa Cha, từ lời kêu gọi thần linh chứ không phải từ tham vọng cá nhân và Ngài nói thêm: “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em”(Mt 20,22.26–28).

Thánh Philípphê và Bartôlômêô

Tại miền Galilê, Đức Giêsu đã kêu gọi Philípphê làm tông đồ. Đến lượt Philípphê tìm đến Bartôlômêô (hay Nathanaen) và nói với ông rằng Ðấng mà sách Luật Môsê và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp: đó là ông Giêsu, con ông Giuse, người Nadarét.

Sau đó Bartôlômêô nói những lời mà chúng ta ai cũng biết: “Từ Nadarét, làm sao có cái gì hay được?” (Ga 1,46). Bất chấp sự khước từ này, Philípphê vẫn dẫn Bartôlômêô đến với Đức Giêsu, để ông quyết tâm kiểm chứng Đức Giêsu. Nhưng không có gì để kiểm chứng cả bởi vì Bartôlômêô nhận ra Đức Giêsu là Đấng Mêsia đích thực, ngài nói: “Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Ítraen!” (Ga 1,49). Lời tuyên xưng này không khác gì lời tuyên xưng của Phêrô nhiều tháng sau đó: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Nhờ ơn trên mà cả Bartôlômêô và Phêrô đều nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa.

Ít nhất hai lần, qua Philípphê mà Đức Giêsu giúp các môn đồ hiểu ra vai trò và chân tính của Ngài. Lúc làm phép lạ hóa bánh ra nhiều trong Tin mừng Gioan, Philípphê lo lắng không biết làm sao cho 5.000 người ăn: “Có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút” (Ga 6,7). Philípphê kinh ngạc khi thấy Đức Giêsu biến ít cá và bánh đủ cho tất cả mọi người ăn. Sau đó trong Bữa Tiệc ly, Chúa quở trách Philípphê khi vị tông đồ này hỏi: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. Đức Giêsu đáp: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư?” (Ga 14,8–9). Tất cả các tông đồ đều xem Đức Giêsu là thầy, nhưng một số chậm nhận ra Ngài là Đấng cứu độ.

Cũng cần lưu ý rằng không nên nhầm lẫn Philípphê tông đồ với Philípphê nhà truyền giáo, người đã thành công khi mang sứ điệp của Đức Giêsu đến miền Samari và làm phép rửa cho một viên thái giám người Êthióp trên con đường vắng giữa Giêrusalem và Gada (xem Cv 8,27–39).

Thánh Phaolô

Mặc dù không nằm trong số 12 tông đồ đầu tiên, nhưng Phaolô được Đức Giêsu chọn là “lợi khí [Ta chọn] để mang danh Ta đến trước mặt các dân ngoại, các vua chúa và con cái Ítraen” (Cv 9,15). Phaolô (ban đầu được gọi là Saulô) là một trong những người thù ghét Kitô giáo cực đoan nhất vào thời của ngài. Phaolô là người chứng kiến và ủng hộ việc ném đá thánh Stêphanô, và ngài đã xuất sắc bắt các Kitô hữu giải về Giêrusalem và nộp họ cho giới cầm quyền Do Thái để bị bách hại.

Lúc Phaolô đang trên đường đi Đamát để bắt thêm những người đi theo Đức Kitô. Giữa đường, ngài đã mặt giáp mặt với Đức Giêsu, bị mù và hoán cải, được đưa vào thành Đamát và đến một ngôi nhà ở phố gọi là Phố Thẳng. Tại đây, ngài được sáng mắt trở lại và chịu phép rửa. Từ đó Phaolô trở thành người vĩ đại nhất trong số những người rao giảng Tin mừng, vị Tông đồ dân ngoại. Ngài thiết lập ít nhất 14 cộng đoàn Kitô hữu và rao giảng cho hàng nghìn người khi đi qua đi lại Trung Đông và vào đến châu Âu bốn lần khác nhau. Các lá thư gửi đến các cộng đoàn do ngài đã thiết lập chiếm phần lớn Tân ước.

Thánh Giacôbê Hậu

Giacôbê Hậu là vị thủ lãnh có ảnh hưởng của giáo đoàn Giêrusalem và có tiếng nói quyết định tại Công đồng Giêrusalem (năm 50), nơi các tông đồ quyết định loan truyền giáo huấn của Đức Giêsu cho dân ngoại. Giacôbê đã ủng hộ ý tưởng không bắt dân ngoại phải trở thành người Do Thái trước khi trở thành Kitô hữu: “Vì vậy, phần tôi, tôi xét là không được gây phiền hà cho những người gốc dân ngoại trở lại với Thiên Chúa” (Cv 15,19).

Giacôbê đã viết một lá thư gửi đến dân ngoại, cơ bản chỉ ra rằng dân ngoại không cần phải giữ tất cả các luật lệ về việc kiêng ăn uống của người Do Thái hoặc phải cắt bì trước khi trở thành Kitô hữu, nhưng trước hết chỉ đòi hỏi những ai đang theo Đức Kitô phải từ bỏ việc cúng tế ngoại giáo. Những hành động này đã vượt qua trở ngại lớn trong việc hoán cải và làm phép rửa cho những người ở mọi quốc gia, chứ không chỉ cho người Do Thái. Thánh Giacôbê Hậu cũng được xem là tác giả của thư Giacôbê trong Tân ước.

Thánh Mátthêu

Mátthêu là viên thu thuế cho người Rôma đang chiếm đóng ở Galilê. Người Do Thái ghét những người thu thuế, vì họ làm việc cho người Rôma và thường gian lận đối với dân chúng. Đức Giêsu thấy Mátthêu (Lêvi) “đang ngồi ở trạm thu thuế. Ngài bảo ông: ‘Anh hãy theo tôi!’ Ông đứng dậy đi theo Người” (Mc 2,14).

Trong mắt người Do Thái, Mátthêu là một kẻ đáng khinh, một kẻ bị ruồng bỏ không hơn gì một tội nhân do công việc thu thuế của ông, nhưng Đức Giêsu, với tình yêu và lòng thương xót chứa chan, đã thấu hiểu tấm lòng Mátthêu và kêu gọi ông trở thành một trong các tông đồ. Mátthêu đã từ bỏ mọi sự để đi theo và tin vào Đức Kitô. Mặc dù không có nhiều chi tiết về thánh Mátthêu, nhưng có bằng chứng cho thấy ngài đã đi truyền giáo ở Ấn Độ, và trở thành vị thánh bảo trợ của đất nước này.

Anrê, Simon, Giuđa và Mátthia

Kinh thánh có ít chi tiết về Anrê, Simon, Giuđa và Mátthia. Tuy nhiên, mỗi người đều theo Đức Kitô và đi giảng dạy Tin mừng. Anrê thuộc nhóm tông đồ được chọn đầu tiên và là người trước tiên gọi Đức Giêsu là Đấng Mêsia; do đó, ngài rất gắn bó với Đức Giêsu. Simon có thể là thành viên của một nhóm chính trị Do Thái gọi là nhóm Nhiệt thành, những người kiên quyết với đức tin Do Thái giáo và ghét người Rôma. Đức Giêsu đã chinh phục được Simon, và vị tông đồ này đã chuyển lòng nhiệt thành và sức lực của ngài vào sứ điệp của Đức Kitô.

Trong Tin mừng theo thánh Mátthêu và Máccô, Giuđa được gọi là Tađêô, và theo thánh Luca thì được gọi là Giuđa. Thánh Gioan cũng gọi ông là Giuđa trong Bữa Tiệc ly: “Ông Giuđa, không phải Giuđa Ítcariốt, nói với Đức Giêsu: ‘Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?’” (Ga 14,22). Đây là câu hỏi mà có lẽ một số tông đồ khác cũng quan tâm, họ vẫn xem Đức Giêsu có thể trở thành một vị vua trần thế, và chưa hiểu tại sao Đức Giêsu lại đến thế gian hay điều gì sẽ xảy đến với Ngài sau đó. Đức Giêsu trả lời rằng Ngài sẽ tỏ mình ra cho những ai yêu mến Ngài và tuân giữ các giới răn “… Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23).

Mátthia được chọn để thay thế Giuđa, kẻ phản bội (Cv 1,15–26). Trong khi các tông đồ ở Giêrusalem chờ đợi Thánh Thần; Phêrô trong tư cách lãnh đạo có thể đã chọn được người thay thế, nhưng ngài để cho các tông đồ lựa chọn. Phêrô đưa ra chỉ dẫn rằng bất cứ ai được chọn phải thuộc nhóm những người đã đi theo Đức Kitô kể từ khi Ngài chịu phép rửa và phải làm chứng rằng Ngài đã phục sinh. Có hai người được đề cử là Basaba và Mátthia; cuối cùng Mátthia được chọn qua việc rút thăm. Từ đây, Tân ước không nói gì thêm về Mátthia.

Giuđa Ítcariốt

Giống như một số tông đồ khác, chúng ta không biết Giuđa được chọn khi nào. Ông là người giữ túi tiền của nhóm, phụ trách về tiền bạc, có lẽ đã nỗ lực làm việc hiệu quả. Giuđa có mặt tại Bêtania khi Maria lấy một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất, quý giá mà xức cho Đức Giêsu và ông than phiền việc lãng phí này, tuy nhiên ông phàn nàn “không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp: y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung” (Ga 12,6). Đức Giêsu quở trách những lời nhận xét của Giuđa, và ngay sau đó Giuđa đã thông đồng với các thượng tế mà phản bội Đức Giêsu để lấy 30 đồng bạc.

Trong Bữa Tiệc ly, Đức Giêsu biết dự tính của Giuđa, và sau khi rửa chân cho các tông đồ, kể cả Giuđa, Ngài tiết lộ có người sẽ phản bội và xác định đó là Giuđa, khi nói: “Anh làm gì thì làm mau đi!” (Ga 13,27). Ngay trong đêm hôm đó, Giuđa dẫn một toán quân đến và đã chỉ điểm Đức Giêsu là thủ lĩnh của nhóm. Sau khi Đức Giêsu bị bắt, Giuđa cố trả lại tiền nhưng người Do Thái từ chối, nên ông đã “ra đi thắt cổ” (Mt 27,5).

Thánh Maria Mađalêna – Tông đồ của các Tông đồ

Vào tháng 7 năm 2016, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nâng ngày lễ nhớ buộc hàng năm của thánh nữ Maria Mađalêna lên bậc lễ kính. Ngoài Đức Mẹ, ngài là người phụ nữ duy nhất được Giáo hội tôn kính như thế. Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích đã ra huấn thị nói rằng: “Thật là hợp lý để ngày lễ thánh Mađalêna có cùng bậc lễ với các thánh tông đồ trong lịch phụng vụ chung của Rôma, cũng như để nhấn mạnh sứ vụ đặc biệt của người phụ nữ này như một tấm gương và hình mẫu cho các phụ nữ trong Giáo hội”.

Như các tông đồ, Maria Mađalêna thể hiện lòng yêu mến và dấn thân theo Chúa. Bà và những phụ nữ khác đi khắp Galilê với Đức Giêsu và “lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ” (Lc 8,3). Bà theo Đức Giêsu lên Giêrusalem, và đã hiện diện lúc Chúa chịu đóng đinh, cùng với Gioan, chứ không bỏ trốn như các tông đồ khác. Vào buổi sáng phục sinh đầu tiên Tin mừng thuật lại là Đức Giêsu đã gặp bà trước tiên. Ngài sai bà đến với anh em mình là các tông đồ và nói với họ “Tôi đã thấy Chúa” (Ga 20,18). Vì vậy, bà được gọi là Tông đồ của các Tông đồ.

Ban học tập Sao Biển chuyển ngữ từ Our Sunday Visitor (15/10/2021)

Nguồn: giaophannhatrang.org

https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tim-hieu-cac-tong-do-42944


 

Thánh Martinô Porres—1579-1639 – Cha Vương

Mến chào, hôm nay 3/11 Giáo hội mừng kính Thánh Martinô Porres—1579-1639 (St. Martin de Porres) Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy. 

Cha Vương

Thư 2: 03/11/2025


Thánh Martin sinh ngày 09 tháng 12 năm 1579 tại Peru, Lima. Ngài là đứa con bất hợp pháp của một nhà quý tộc Tây Ban Nha ở Lima, Peru và một phụ nữ Panama. Martin giống mẹ nên có nước da ngăm ngăm, và điều này làm cha ngài khó chịu, do đó mãi tám năm sau ông mới chịu nhận Martin là con. Sau khi sinh đứa thứ hai, ông bỏ rơi gia đình. Martin lớn lên trong cảnh nghèo nàn, thuộc giai cấp bần cùng của xã hội Lima. Lúc 12 tuổi, mẹ ngài cho theo học nghề cắt tóc và giải phẫu, nên ngoài việc cắt tóc, ngài còn biết cách lấy máu (sự chữa trị rất phổ thông thời ấy), biết chăm sóc vết thương và biết chích thuốc. Sau vài năm hành nghề, Martin xin vào dòng Ða Minh làm “người giúp việc,” vì ngài cảm thấy không xứng đáng để làm thầy dòng. Sau chín năm, gương mẫu đời sống cầu nguyện và hãm mình, bác ái và khiêm nhường của ngài khiến cộng đoàn phải yêu cầu ngài khấn trọn. Ngài cầu nguyện hằng đêm và sống khắc khổ; công việc hàng ngày của ngài là chăm sóc bệnh nhân và người nghèo. Ngài coi mọi người như nhau, bất kể mầu da, sắc tộc hay địa vị xã hội. Ngài là cột trụ trong việc thành lập cô nhi viện, chăm sóc người nô lệ từ Phi Châu và trông coi việc bố thí của nhà dòng. Ngài trở nên nổi tiếng trong nhà dòng cũng như ngoài thành phố, dù đó là vấn đề “chăn màn, quần áo, đèn nến, bánh kẹo, phép lạ hay lời cầu nguyện!” Khi nhà dòng bị nợ quá nhiều, ngài nói với cha bề trên, “Con chỉ là một đứa con lai nghèo hèn. Cha hãy bán con đi. Con là sở hữu của nhà dòng. Hãy bán con đi để trả nợ.”

     Ngoài những công việc hàng ngày như nấu ăn, giặt giũ và chăm sóc bệnh nhân, Thiên Chúa còn ban cho ngài những ơn sủng đặc biệt: được xuất thần bay bổng trên không, căn phòng rực sáng khi ngài cầu nguyện, ơn lưỡng tại (ở hai nơi cùng một lúc), ơn hiểu biết cách lạ lùng, ơn chữa bệnh và chế ngự các thú vật cách tài tình. Lòng bác ái của ngài còn nới rộng đến các thú vật ở ngoài đồng hay chó mèo trong phố và ngay cả chuột bọ trong bếp.

      Nhiều tu sĩ thời ấy coi ngài như vị linh hướng, nhưng ngài vẫn tự coi mình là “người nô lệ nghèo hèn.” Ngài còn là bạn của Thánh Rosa ở Lima. Ngài qua đời ngày 3 tháng 11 năm 1639. Tất cả dân chúng thành phố Lima, từ vị Phó vương đến những người ăn xin đều sững sốt và buồn bã khi nghe tin ngài từ trần. 

     Ngài được Đức Giáo Hoàng Pius IX tôn phong Chân Phúc năm 1873. Thủ tục phong thánh rất chậm chạp, mãi cho đến ngày 19 tháng 5 năm 1962 Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII mới tuyên phong thầy Martin lên hàng hiển thánh và là vị thánh da đen đầu tiên của Châu Mỹ, quan thầy của những người tranh đấu cho công bình xã hội.

     Lạy Thánh Martino rất khiêm nhường, lòng thương yêu nồng nhiệt của Người chẳng những che chở các anh em túng nghèo, mà lại cả những thú vật ngoài đồng, thật là gương huy hoàng của đức bác ái, chúng tôi kính mừng và cầu khấn Người. Từ tòa cao Người ngự, xin đoái thương nhậm lời anh em túng nghèo kêu xin, để chúng tôi được bắt chước nhân đức Người mà yên vui trong địa vị Chúa đã đặt, và được mạnh mẽ, can đảm vác Thánh Giá theo chân Chúa Cứu Thế và Mẹ Sầu Bi, sau hết được về nước Thiên Ðàng. Vì công nghiệp Chúa Giêsu Kitô là Chúa chúng tôi – Amen. 

(Kinh Thánh Martinô Porres) 

From: Do Dzung

***********************

Thánh Martinô – Tôi hiền của Chúa

HÂN HOAN MỪNG LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ TRÊN QUÊ TRỜI

Huong Duongthanh

 01.11.2025

HỌ LÀ AI?

Họ là những người đã yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự.

Họ là những người đã trải qua gian khổ nhưng vẫn giữ được đức tin cho đến cùng.

Họ là những người tầm thường nhưng đã biết phó thác cuộc đời trong tay Chúa.

Họ là những vua chúa, chức cao quyền trọng nhưng đã hết lòng phục vụ và quên mình vì tha nhân.

Họ là những người chồng người vợ đã hết lòng tha thứ và yêu thương nhau cho đến trọn đời.

Họ là những thai nhi vô tội đã bị giết vì những ích kỷ của cha mẹ chúng.

Họ là những người hàng xóm láng giềng đã âm thầm chịu đựng những ghen ghét của chúng ta.

Họ là những người tội lỗi đã biết tỉnh thức trong giờ phút ân sủng của sự chết.

Họ là tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn hữu, con cháu của chúng ta.

HỌ ĐÃ LÀM GÌ?

Họ đã hằng ngày chu toàn bổn phận trong tin yêu và phó thác.

Giờ đây Họ đang hạnh phúc bên Chúa.

XIN CÁC NGÀI PHÙ GIÚP CHÚNG CON MỖI NGÀY LUÔN BIẾT CHU TOÀN BỔN PHẬN TRONG AN VUI VÀ PHÓ THÁC, ĐỂ CŨNG ĐƯỢC SUM HỌP VỚI CÁC NGÀI MUÔN ĐỜI TRONG VINH QUANG NƯỚC CHÚA. AMEN