Thánh TÊRÊSA AVILA, Trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh (1515 – 1585)- Cha Vương

Chúc ngày Thứ 4 an lành trong tình yêu của Chúa và Mẹ Maria nhé! Hãy tiếp tục cầu nguyện cho nền hoà bình trên thế giới.

Cha Vương

Thứ 4: 15/10/2025.  (t7-22)

Hôm nay Giáo Hội mừng Lễ Kính Thánh TÊRÊSA AVILA, Trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh (1515 – 1585) Têrêsa có lòng kính mến Đức Mẹ đặc biệt. Ngày ngày, ngài lần chuỗi Mân Côi để tỏ lòng tôn kính Đức Mẹ. Năm lên 12 tuổi, khi mẹ ngài mất, ngài đến quỳ trước ảnh Đức Mẹ, xin Đức Mẹ nhận ngài làm con, và hứa suốt đời sống xứng đáng làm con Đức Mẹ. Vậy hôm nay Bạn hãy nhận Đức Mẹ làm Mẹ đi, chưa muộn đâu! Nơi Đức Mẹ, Thiên Chúa ban cho Bạn một người bảo vệ nhiệt tình nhất. Mọi sự ưu ái của Mẹ đều nằm trong Kinh Mân Côi. Nếu Bạn cầu nguyện thường xuyên với chuỗi Mân Côi nó sẽ mang lại cho Bạn nhiều điều bất ngờ. Sau đây là điều bất ngờ thứ 7 trong Kinh Mân Côi: Bạn bắt đầu sống biến cố Nhập Thể—Sức mạnh của chuỗi Mân côi nằm ở trong sự đơn giản của nó. Nó quá đơn giản đến nỗi mà dường như có thể ngu ngốc đối với những bộ óc thông minh. Vậy nên chúng ta thường nghĩ rằng, chúng ta cần phải tìm những giải pháp phức tạp, thông thái và đòi hỏi kiến thức tổng hợp để giải quyết những vấn đề phức tạp, khó khăn. Chúng ta tập trung vào vực thẳm của những vấn đề của mình và tự hỏi làm sao có thể tìm thấy giải pháp với một vấn đề quá lớn như vậy. Chúng ta không cần phải như thế. Thiên Chúa đến thế gian như một em bé nhỏ nhắn, yếu đuối và đơn độc khi sinh ra trong hoàn cảnh khó nghèo. Kinh Mân côi quá đơn giản tới mức mà nó có thể cầu nguyện trong bất cứ hoàn cảnh nào, đó là vũ khí mạnh mẽ nhất của đời sống cầu nguyện mà chúng ta có. “Chẳng có vấn nạn nào mà chúng ta lại không thể được giải quyết bởi chuỗi Mân côi, dầu có khó khăn đến đâu, dẫu là vấn đề thuộc thế gian hay trời cao, trong đời sống cá nhân hay gia đình.”

(Sr. Lucia, một trong các thị nhân Đức Mẹ Hiện ra tại Fatima)

Mời bạn đọc 10 Kinh Kính Mừng với tâm tình dâng hiến cả cuộc đời của Bạn cho Đức Mẹ hôm nay nhé.

From: Do Dzung

*********************

Tận Hiến Cho Mẹ

CÁC TÔNG ĐỒ ĐÃ SỐNG VÀ CHẾT NHƯ THẾ NÀO SAU KHI CHÚA VỀ TRỜI?- Trần Mỹ Duyệt

Legio Mariae Senatus Viet Nam

Trần Mỹ Duyệt

Trong những ngày đầu của biến cố Tin Mừng, Chúa Giêsu đã đích thân tuyển chọn 12 người để cộng tác với Ngài. Thánh Luca ghi lại: “Trong những ngày ấy, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, và suốt đêm, Người cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Sáng ngày, Người gọi các môn đệ và chọn mười hai vị mà Người gọi là Tông đồ: Ðó là Simon, mà Người đặt tên là Phêrô, và em ông là Anrê, Giacôbê và Gioan, Philipphê và Bartôlômêô, Matthêu và Tôma, Giacôbê con ông Alphê và Simon cũng gọi là Nhiệt Thành, Giuđa con ông Giacôbê và Giuđa Iscariot là kẻ phản bội” (Lk 6:12-16). Vậy “các tông đồ đã sống và chết như thế nào sau khi Chúa về trời?”

Thánh Kinh ghi lại, sau khi Chúa Giêsu chịu chết, sống lại và về trời, đặc biệt, sau ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống thì đời sống của các Tông Đồ đã thay đổi hoàn toàn. Các ông không còn rụt rè, nhút nhát, sợ sệt, nhưng đã mạnh dạn, can đảm ra đi để làm chứng nhân cho Tin Mừng. Sách Tông Đồ Công Vụ kể rằng sau khi Chúa Giêsu về trời, các Tông Đồ trở lại Giêrusalem và cầu nguyện 10 ngày như Ngài đã căn dặn (Acts 1: 4), để nhận lãnh Thánh Thần. Và lịch sử của Giáo Hội đã khai mở sau biến cố lễ Ngũ Tuần (Acts 2:1- 4).

Nhưng ngoài những gì được ghi trong các Phúc Âm, trong Tông Đồ Công Vụ, trong các Thánh Thư, đặc biệt là những thư của Thánh Phaolô, chúng ta biết rất ít về số phận các ông, mặc dù chúng ta vẫn tin rằng các ông đã đi rất xa để rao giảng Tin Mừng cho muôn dân (Mk 16:15), và đã sống và đã chết như những chứng nhân cho Tin Mừng mà các ông rao giảng. Sau đây là tóm lược lịch sử truyền giáo và những cái chết của các ông, theo thứ tự danh sách các Tông Đồ đã được Phúc Âm Thánh Luca ghi lại. Thêm vào danh sách đó là Phaolô (Tông Đồ Dân Ngoại) do Chúa Giêsu chọn trên đường đi Damas, và Matthias thay thế Giuđa Iscariot.

1.Simon/Phêrô – Quê ở Bethsaida gần biển Galilee.

Xuất thân ông là một ngư phủ chuyên nghiệp. Cha của ông cũng là ngư phủ chuyên nghiệp tên là Jona. Ông có người em là Andrê cũng là Tông Đồ trong nhóm 12 được Chúa Giêsu tuyển chọn. Căn nhà ông ở tại Capernaum vào thế kỷ thứ 5 người ta đã xây một thánh đường bao trên đó.

Sau 3 năm theo Thầy, và sau khi Chúa về trời, ông khởi đầu sứ vụ bằng bài giảng ngay trong ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống (Acts 2). Một bài giảng gây tiếng vang, và đã thu hút 3000 người xin chịu phép Rửa cùng ngày. Ông chuyên chú vào người Do Thái, khác với Phaolô nhắm tới dân ngoại. Sau nhiều lần bị giam giữ tại Giêrusalem ông đã tới Rôma với Máccô thư ký của ông. Máccô đã biên Phúc Âm thứ nhất theo lời giảng của ông. Phần cá nhân, ông cũng viết 2 thư xuất hiện trong Tân Ước.

Ông được Chúa Giêsu đổi tên là Cephas (Phêrô) do lòng nhiệt thành của ông. Phêrô cũng là tên mà Chúa Giêsu nhắm tới việc xây dựng Giáo Hội của Ngài trên ông. “Con là Cephas nghĩa là đá, trên đá này Thày sẽ xây Giáo Hội Thầy” (Mt 16:18). Irenaeus (c.180A.D) dựa theo truyền thống cho rằng Phêrô và Phaolô đã xây dựng Giáo Hội ở Rôma. Ông là vị Giáo Hoàng tiên khởi của Hội Thánh Công Giáo.

Phêrô, theo Phaolô ghi lại trong thư gửi giáo đoàn Galatians, thì cũng đã một lần viếng thăm Antioch (Gal 2:11) và có thể ở Corinth (1 Cor 1:12). Cũng trong Tông Đồ Công Vụ, ông đã giảng đạo cho Cornelius ở Caesarea. Người đầu tiên được ông hướng dẫn mà không phải Do Thái (Acts 10).

Ông bị hoàng đế Rôma là Nero đã ra lệnh giết năm 66 AD, sau 33 năm Chúa về trời. Ông bị đóng đinh ngược và được an táng dưới hầm vương cung thánh đường Thánh Phêrô hiện nay ở Rôma, nơi ông đã lãnh phúc tử đạo.

  1. Andrê – Ngư phủ từ Galilee, em của Phêrô.

Nguyên thủy ông là môn đệ của Gioan Tẩy Giả (Mk 1:16-18). Sau khi cùng anh là Phêrô bỏ nghề chài lưới theo Chúa Giêsu, ông thuộc số những tông đồ đầu tiên của Ngài.

Ông giảng đạo cho người Scythians và Thracians. Bị đóng đinh và an táng tại Patrae (Hy Lạp). Theo Hippolytus, Andrê giảng đạo tại Georgia/Bulgaria ngày nay, phần đất nối liền với Hắc Hải gần Thổ Nhĩ Kỳ. Ông bị đóng đinh tại Achaia. Cũng có tài liệu cho rằng ông bị treo trên một cây Olive tại Patrae, thành Achaia, Hy Lạp. Eusebius trong lịch sử của Giáo Hội đã dùng tài liệu của Origen xác định rằng Andrê giảng đạo tại Scythia. Trong Chronicle of Nestor thêm rằng, ông giảng đạo dọc theo Hắc Hải (Black Sea) và sông Dnieper tới mãi tận Kiev, và từ đó di chuyển đến Novgorod. Do đó, ông trở thành Bổn Mạng của nước Ukraine, Romania và Nga. Ông lập tòa ở Byzantium (Constantinople và Istanbul) năm 38 AD, mà sau này biến thành tòa thượng phụ Constantinople, và đã đặt Stachys là Giám Mục. Cả ông và thánh Stachys đều được coi là quan thầy của Tòa Thượng Phụ Constantinople.

Ở những tài liệu khác, cái chết của ông được miêu tả là bị đóng đinh ở Patras (Patrae) thuộc Achaea. Công Vụ của Andrê (Acts of Andrew) như Gregory of Tours lại cho rằng ông bị trói vào một loại thập giá gọi là thập giá Latin có hình chữ X. Nhưng theo Dorman Newman nhà sử học thuộc thế kỷ 15, là thì khi ở Patras thuộc đông Hy Lạp năm 69 AD, vị Tổng Đốc Rôma là Aegeates ở đây đã tranh luận với ông về tôn giáo. Aegeates đã cố gắng thuyết phục Andrê từ bỏ Kitô giáo để tránh bị tra tấn và xử hình. Cuối cùng ông bị đánh đòn và sau đó bị đóng đinh. Ông đã sống thoi thóp trên thập giá 2 ngày, và không ngừng rao giảng Tin Mừng cho những người qua lại. Tại Hy Lạp gần Ethiopia vẫn còn dấu tích ngôi mộ của ông.

Ngoài ra, Scots cũng cho rằng Andrê đã đến giảng đạo tại Picts (vì vậy họ dùng cây thập giá của Thánh Andrê trên quốc kỳ của họ).

  1. Giacôbê – Con của Zebedee người làng Bethsaida.

Ông và em là Gioan là anh em họ với Chúa Giêsu. Để phân biệt với Giacôbê con ông Alphaeus, ông được gọi là Giacôbê Cả. Tên của ông không rời xa tên em ông là Gioan trong Mk 1:19-20; Mt 4:21, và Lk 5:1-11. Ông là Tông Đồ đầu tiên tử đạo năm 44 AD.

Là ngư phủ sinh sống quanh Bethsaida, Capernaum và Giêrusalem. Ông cùng em đã bỏ chài lưới đi theo Chúa Giêsu khi Ngài gọi hai ông, lúc cả hai đang vá lưới dưới thuyền với cha mình. Ông và em ông được Chúa Giêsu đặt cho biệt danh là con sấm sét.

Rao giảng tại Giuđêa và bị quận vương Herod Agrippa chém đầu và được an táng ở Giuđêa (Acts 12:2). Hippolytus xác nhận cái chết của Ông. Eusebius đã diễn tả chi tiết hơn: Đầu tiên là Stêphanô bị ném đá, rồi tiếp đến là Giacôbê bị chém đầu.

Lý do ông bị chết vì Herod Agrippa, quận vương mới của Judea muốn chứng tỏ mình trung thành với người Rôma bằng cách bắt bớ những thủ lãnh các tôn giáo. Sau khi Giacôbê bị bắt và bị dẫn đi hành hình, người tố cáo ẩn danh ông đã xúc động do lòng can đảm của ông, nên không những đã xin theo đạo, mà còn xin được chết chung cùng với Giacôbê. Đề nghị đã được chấp thuận và cả hai đã bị chém đầu.

  1. Gioan – Con ông Zebedee, em của Giacôbê.

Ông và anh mình được Chúa Giêsu đặt cho biệt danh “Boanerges”, có nghĩa là con Sấm Sét, khi hai ông xin Chúa cho lửa bởi trời xuống thiêu hủy dân làng Samaritan vì đã không đón tiếp Ngài (Lk 9:51-54), và tham vọng do mẹ của hai ông muốn sắp xếp chỗ ngồi bên phải, bên trái Chúa cho hai ông (Mk 10:35-37). Nhưng ông cũng là người được Chúa Giêsu yêu cho dựa đầu vào ngực trong bữa tiệc ly, và trối Đức Mẹ lại trước khi Ngài tắt thở trên thập giá: “Này là mẹ con” (Jn 19:24-27).

Theo Hippolytus, trong cuộc bách hại của Domitian và giữa năm 90, ông bị lưu đày qua đảo Patmos. Bị lưu đày tại đảo Patmos, nhưng ông qua đời ở tuổi già tại Ephesus khoảng 100 AD. Ông viết Phúc Âm và viết 3 lá thơ. Cũng trong thời gian ở đảo Patmos, ông đã viết sách Khải Huyền là cuốn sau cùng chấm dứt bộ Tân Ước.

Ông là đầu của giáo hội tại Ephesus, và được diễm phúc phụng dưỡng Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu. Theo truyền thống Latin, trước đó ông được cho là đã thoát khỏi vạc dầu sôi sau khi bị vứt vào đó tại Rôma.

  1. Philip – Quê làng Bethsaida.

Là một trong số những môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu. Sau này truyền giáo ở Phrygia, Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey). Ông bị đánh đòn, bỏ vào ngục và bị ném đá năm 80 AD tại Hierapolis, Thổ Nhĩ Kỳ.

Philip là người thứ sáu trong số 12 Tông Đồ được Chúa Giêsu tuyển chọn (Jn 1:43). Liền sau khi trở thành môn đệ Chúa, ông đã đi giới thiệu Chúa Giêsu cho Nathanael (Bartholomew). Khi khi thấy Nathanael ngần ngại, nghi ngờ, ông đã bảo bạn mình: “Hãy tới mà xem” (Jn 1:46). Ông đã được Phúc Âm nhắc đến ở biến cố Chúa làm phép lạ bánh hóa nhiều, khi Ngài muốn thử xem ông phải làm gì (Jn 6:5-6). Phúc Âm cũng nói đến việc những người Hy Lạp Do Thái trong dịp lễ Vượt Qua (Passover) tại Giêrusalem nhờ ông giới thiệu họ với Chúa Giêsu (Jn 12:20-22). Nhưng xúc động nhất là câu hỏi của ông trong Bữa Tiệc Ly, khi đó ông xin Chúa Giêsu cho được thấy Chúa Cha (Jn 14:8-11).

Tông Đồ Công Vụ ghi, sau khi Chúa về trời ông đã tới Samaria rao giảng Tin Mừng và thực hiện những phép lạ (Acts 8:4-6). Ông đã cải đạo được cho Simon phù thủy (Acts 8:9-13). Trong khi nhận được lời truyền từ thiên thần, ông đã đi gặp một người Ethiopia tại Gaza, vị hoạn quan quyền thế dưới quyền hoàng hậu Candace, và đã rửa tội cho ông này (Acts 8:26-39). Sau cùng ông sống tại Caesarea (Acts 21:8). Cũng theo Tông Đồ Công Vụ, ông có 4 người con gái sống đời đồng trinh và đã được ơn nói tiên tri (Acts 21:9).

  1. Bathôlômêô/ Nathanael – Người Cana, Galilee.

Trong Lịch Sử Hội Thánh của Eusebius, sau khi Chúa về trời, Barthôlômêô (Nathanael) sang truyền giáo tại Ấn Độ. Cũng có một truyền thuyết khác nói rằng ông đã truyền rao Tin Mừng tại Ethiopia, Mesopotamia, Parthia, và Lycaonia. Nhưng phần đông vẫn cho rằng ông giảng đạo tại Ấn Độ, và sau này đến Greater Armenia.

Cũng theo truyền tụng đại chúng của người Armenians, Tông Đồ Jude (Thaddaeus) là người đầu tiên đến truyền giảng Tin Mừng trong vùng này từ năm 43-66 AD. Năm 60 AD, Barthôlômêô mới đến cùng truyền đạo với ông. Khi đến đây, ông mang theo Phúc Âm của Mátthêu và đã dịch Phúc Âm này sang tiếng địa phương. Barthôlômêô tử đạo tại Albanopolis, Armenia năm 68 AD.

Có nhiều tài liệu khác nhau nói về cái chết của ông. Một số cho rằng ông bị chém đầu. Một số khác lại cho rằng ông bị lột da sống và chịu đóng đinh ngược đầu do lệnh truyền của Astyages. Lý do vì ông đã cải đạo Polymius em của Astyages, vua xứ Armenia.

  1. Mátthêu/Lêvi – Con của Alphaeus.

Là con của Alphaeus, vì thế ông bị cho là anh em với Giacôbê Trẻ. Trước khi được Chúa gọi, ông là người thu thuế ở Capernaum. Ông được Thánh sử Máccô gọi là Lêvi (Mk 2:14), trong khi đó, Phúc Âm Thánh Luca gọi ông Mátthêu thu thuế, và ở Phúc Âm của mình tên ông viết là Mátthêu. Theo tiếng Do Thái, Mátthêu có nghĩa là “quà tặng của Jehovah”.

Ông viết Phúc Âm cho người Do Thái. Với mục đích viết Phúc Âm cho người Do Thái, nên Phúc Âm của ông được viết bằng tiếng Do Thái. Ông chết tại Hierees, một thành của Parthia (Iran). Eusebius coi ông là giám mục Papias của Hierapolis, trước năm 110 A.D.

Cũng có truyền thống cho rằng, ông giảng đạo và bị tử đạo tại Ethiopia. Ông bị đâm sau lưng bằng lưỡi đòng do một tên hành quyết được vua Heraclius cử tới bởi vì ông đã phê bình đời sống luân lý của vua.

  1. Thomas – Ngư phủ, người Galilee.

Ông rao giảng Tin Mừng cho người Parthians/Medes/Hyrcanians (Iran), Bactrians (Afghanistan). Tử đạo bằng 4 mũi đòng đâm vào người. Ông đã bị 4 người lính dùng giáo đâm chết tại Mylapore, Ấn Độ ngày 21 tháng 12 năm 72 AD.

Thomas cũng gọi là Didymus. Có thể là một ngư phủ, thường được nhớ như Thomas đa nghi. Trong lúc Chúa Giêsu nói với các Tông Đồ tại Bữa Tiệc Ly, ông đã thẳng thắn hỏi Chúa: “Lạy Chúa, chúng con không biết Chúa đi đâu, thì làm sao biết được đường” (Jn 14:5). Cũng trong Tin Mừng của Thánh Gioan (20:25), khi nghe các Tông Đồ nói đã nhìn thấy Chúa sống lại, ông đã thẳng thừng từ chối, và cho rằng chỉ khi nào ông nhìn những vết đinh nơi tay Chúa, và thọc tay vào cạnh sườn Ngài, ông mới tin.

Nhưng Chúa đã thỏa mãn sự nghi ngờ của ông và qua đó, chúc lành cho mọi người sau này không được diễm phúc nhìn thấy Ngài như ông nhưng vẫn tin: “Tôma vì con đã thấy thầy và đã tin. Nhưng phúc cho những ai không thấy mà tin” (Jn 20:29). Cũng do thái độ hoài nghi của ông mà sau này mới được biết về cái chết và việc Đức Mẹ về trời cả hồn lẫn xác.

Theo Hippolytus, Thomas là một nhà rao giảng nhiệt thành. Ông được biết là đã rao giảng Phúc Âm cho người Parthians (Iran), Medes (Iran), Persians (Iran), Hyrcanians (Iran), Bactrians (Afghanistan), và Margians. Ông có lẽ năng động nhất ở đông Syria. Sử sách cũng ghi lại, ông đã giảng dạy mãi xa tận Ấn Độ, đã tử đạo trên ngọn “Đồi Lớn” gần Madras, và đã để lại một cộng đoàn ở đó cho đến khi người Bồ Đào Nha tới.

  1. Giacôbê – Con của Alphaeus.

Ông không phải là con của Zebedee, và do đó, ông cũng không phải là anh em với Gioan. Tên của ông được xuất hiện trong Mt 10:1-3, Mk 3:14-19, Lk 6:13-16, và Acts 1:13. Mẹ của ông là Maria, một trong những phụ nữ ra viếng mộ Chúa Giêsu và thấy mộ trống vào buổi sáng Phục Sinh. Ông được gọi là Giacôbê Trẻ hay Giacôbê Hậu để phân biệt với Giacôbê Tiền hay Giacôbê Cả là anh của Gioan.

Cũng vì cha ông là Alphaeus, nên ông thường bị cho là anh em với Mátthêu.

Sau khi Chúa về trời, ông truyền rao Tin Mừng trong phạm vy Giêrusalem. Ông là một trong những vị Tông Đồ sống lâu nhất, có lẽ còn hơn cả Gioan. Ông qua đời năm 94 tuổi. Trước hết bị đánh đòn, và bị ném đá, sau đó bị đánh vào đầu bằng một cây gậy. Tuy nhiên, theo Hippolytus, thì ông bị người Do Thái ném đá tại Giêrusalem. Và ông được mai táng bên cạnh đền thờ năm 62 AD.

  1. Simon Nhiệt Thành – Con của Clopas.

Ông đến từ Cana và vì thế cũng được gọi là Simon người Canaanite, hoặc Simon Nhiệt Thành (nhưng không thuộc những người Do Thái nhiệt thành chống lại người Rôma). Ông là con của Clopas. Theo Hippolytus, ông là Giám Mục thứ hai của Giêrusalem kế vị Giacôbê. Thánh Demetrius thành Rostov đã xác nhận ông là Giám Mục thứ hai của Giêrusalem.

Ông qua đời hưởng thọ 120 tuổi. Ông được an táng tại Giêrusalem. Theo tài liệu thì ông đã bị đóng đinh như vị Giám Mục của Giêrusalem sau khi giảng Phúc Âm tại Samaria. Một tài liệu khác lại cho rằng khi truyền giáo tại Persia, ông đã bị cưa đôi vì từ chối không dâng lễ vật cho thần mặt trời.

Tuy nhiên nơi ông rao giảng Tin Mừng và cái chết của ông không được rõ ràng. Có tài liệu nói là ông đã giảng đạo tại Anh. Tài liệu bằng tiếng Hy Lạp thì cho rằng ông giảng đạo tại Hắc Hải (Black Sea), Ai Cập, và Bắc Phi. Nhưng theo tài liệu Latin “Passio Simonis et Judae”, ông truyền giáo tại Persia, và tử đạo tại Suanir. Nơi an táng của ông không được ghi lại. Sau khi giảng đạo tại Ai Cập, ông và Giuđa (Thaddaeus/Judas) được cho là đã cùng nhau đến giảng đạo tại Persia và Armenia, hoặc Beirut, Lebanon. Cả hai cùng tử đạo năm 65 AD.

Giáo Hội Tây Phương kính ông cùng với Jude (Thaddaeus). Ngược lại, ở Đông Phương hai ngài được kính riêng. Ông là bổn mạng những người thuộc da.

11.Thaddaeus/Judas – Con của Giacôbê.

Rao giảng Tin Mừng tới Edessa gần sông Euphrates và chung quanh khu vực Mesopotamia (Iraq, Syria, Turkey, Iran). Qua đời năm 72 AD. Ông bị bắn bằng tên tại Ararat.

Thánh Giêrônimô gọi Judas là “Trinomious” có nghĩa là người có 3 tên. Trong Máccô 3:18 ông được gọi là Thaddeus. Trong Matthêu 10:3, ông được gọi là Lebbeus. Và tên Thaddeus (Trái tim được sưởi ấm). Còn trong Luca 6:16 và Tông Đồ Công Vụ 1:13, ông được xem như Juda anh em của Giacôbê.

Theo Hippolytus, sau khi Chúa về trời, ông ra đi rao giảng Tin Mừng cho người ở Edessa (bên trên Mesopotamica) và cả vùng Mesopotamia. Qua đời tại Berytus (Lebanon, gần Syria và Thổ Nhĩ Kỳ), và được an táng tại đó.

Trong Tân Ước, ông đã hỏi Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly, “Tại sao Chúa chỉ tỏ mình cho chúng con mà không cho thế giới” (Jn 14:22). Qua câu hỏi này ông muốn cho mọi người được biết Chúa Kitô.

  1. Matthias – Thay thế Giuđa Iscariot.

Theo tiếng Hy Lạp, Matthias có nghĩa “Ân huệ của Giavê”. Ông là một trong 70 môn đệ theo Chúa Giêsu từ đầu, lúc Ngài chịu phép rửa bởi Gioan Tiền Hô trên sông Jordan cho đến khi Ngài về trời (Acts 1:21-22). Sau khi Chúa về trời, Phêrô đã triệu tập 11 Tông Đồ trên căn thượng lầu và đã bỏ phiếu giữa Matthias và Giuse còn gọi là Joseph Barsabbas, người có tên họ là Justus. Matthias được chọn thay thế cho Giuđa Iscariot để nâng con số các Tông Đồ thành 12, nhưng ông là Tông Đồ không do chính Chúa Giêsu tuyển chọn.

Ông được coi là đã tới Syria cùng với Andrê. Theo Nicephorus (Historia eccl., 2, 40), Matthias đầu tiên giảng Tin Mừng ở Judea, rồi sau đó ở Ethiopia (miền Colchis, thuộc Georgia ngày nay), và bị ném đá chết.

Một truyền thống khác cho rằng ông bị người Do Thái ném đá tại Giêrusalem, sau đó bị chém đầu. (cf. Tillemont, Mémoires pour servir à l’histoire ecclesiastique des six premiers siècles, I, 406-7). Cũng theo Hippolytus, Matthias chết ở Giêrusalem năm 80 AD. Ông là Giám Mục Giêrusalem. Và một truyền thống khác cho rằng ông đã rao truyền Phúc Âm trên bờ biển Caspian và Cappadocia.

Liên quan đến cuộc sống và cái chết của ông, theo Nicephorus (Lịch Sử Giáo Hội II.40), đầu tiên ông rao giảng Phúc Âm ở Judea, rồi tới Ethiopia, và ông bị đóng đinh. Nhưng theo Dorotheus thì Matthias rao giảng Tin Mừng cho những người man khai, mọi rợ ở trong Ethiopia, và hải cảng biển Hyssus tại cửa sông Phasis. Ông qua đời tại Sebastopolis, và được an táng gần Đền Thờ Mặt Trời. Thánh Helena đã đem hài cốt của ông về Rôma.

  1. Phaolô – Tông Đồ Dân Ngoại.

Được Chúa Giêsu gọi khi ông đang trên đường ông đến Damas bắt các Kitô hữu. Ông có tên là Saul (Saulê). Ông sinh năm c.5 AD. Tại Tarsus, Cilicia thuộc Đế Quốc Rôma, ngày nay là Mersin, Thổ Nhĩ Kỳ. Ông tử đạo năm c. 64/65 AD., tại Roma, Ý, trong Đế Quốc Roma. Vương Cung Thánh Đường Thánh Phaolô Ngoại Thành được xây trên nơi ông đã bị chém đầu.

Phaolô bị chặt đầu bằng gươm, vì ông có quốc tịch Rôma. Ông bị hành hình dưới thời hoàng đế Neron năm 33 AD. Cuộc đời của Phaolô, ơn gọi đặc biệt của ông, việc trở lại diệu kỳ của ông, hành trình truyền giáo của ông, cũng như những tư tưởng phi thường của ông đã được ghi rõ trong Tông Đồ Công Vụ và các thư do ông viết trong Tân Ước.

——————————————

Tài liệu tham khảo

– Ken Curtis, Ph.D.

Church History Timeline

6000-1 BCAD 1-300301-600601-900901-12001201-15001501-16001601-17001701-18001801-19001901-20002001-Now

– Hippolytus of Rome – Birth unknown, died around 236 AD.

– Eusebius – Was the Bishop of Caesarea in Palestine, known as the “Father of Church History” because he wrote about the church history. Lived around 260-341 AD.

https://en.wikipedia.org/wiki/Paul_the_Apostle


 

 

Thi hài không hề phân hủy của Thánh Bernadette

 Joseph Vu

Thi hài không hề phân hủy của Thánh Bernadette vẫn sống động như thật trong hơn 140 năm—mà không cần bất kỳ biện pháp ướp xác nào.

Các nhà khoa học bối rối. Các tín đồ thì xúc động rơi nước mắt.

The incorrupt body of St. Bernadette has remained lifelike for over 140 years—without any embalming.

Scientists are baffled. Faithful are moved to tears.

Sự tha thứ: 15 Trích dẫn từ các Vị Thánh

1.Thánh Kosmas Aitolos

“Nếu có người sỉ nhục tôi, giết cha tôi, mẹ tôi, anh em tôi, rồi móc mắt tôi, thì là một Kitô hữu, tôi có nghĩa vụ phải tha thứ cho người đó. Chúng ta, những Kitô hữu ngoan đạo, phải yêu thương kẻ thù và tha thứ cho họ. Chúng ta phải cho họ ăn uống, và cầu xin Chúa cho linh hồn họ. Và sau đó chúng ta nên nói: ‘Lạy Chúa, con xin Chúa tha thứ cho con, như con đã tha thứ cho kẻ thù của con.’”

  1. Thánh Mark the Ascetic

“Sự tha thứ cho những lời xúc phạm là dấu hiệu của tình yêu đích thực, không giả dối. Vì Chúa cũng yêu thế gian này như vậy.”

  1. Thánh Maximos the Confessor

“Một linh hồn được nuôi dưỡng bằng sự thù hận đối với con người không thể bình an với Chúa, Đấng đã phán: Nếu các ngươi không tha lỗi cho người ta, thì Cha các ngươi cũng sẽ không tha lỗi cho các ngươi (Mat. 6:15). Nếu một người không muốn hòa giải, ít nhất bạn phải tự bảo vệ mình khỏi sự thù hận, cầu nguyện với một tấm lòng trong sạch cho người đó, và không nói xấu về người đó.”

  1. Thánh Silouan the Athonite

“Chúa Kitô đã cầu nguyện cho những người đóng đinh Ngài: ‘Lạy Cha, xin đừng tính tội này cho họ; vì họ không biết họ làm gì.’ Phó tế Stephen đã cầu nguyện cho những người ném đá ông để Chúa không xét tội này cho họ. Và vì vậy, chúng ta, nếu muốn giữ được ân sủng, phải cầu nguyện cho kẻ thù của mình. Nếu bạn không thương xót một tội nhân sẽ phải chịu đau khổ trong ngọn lửa, thì bạn không mang ân sủng của Chúa Thánh Thần, mà là một tà linh; và trong khi bạn còn sống, bạn phải tự giải thoát mình khỏi nanh vuốt của hắn thông qua sự ăn năn.”

  1.  Thánh Tikhon of Zadonsk

“Chúng ta từ chối tha thứ sao? Chúa cũng sẽ từ chối tha thứ cho chúng ta. Chúng ta đối xử với người lân cận như thế nào, thì Chúa cũng đối xử với chúng ta như vậy. Sự tha thứ hay không tha thứ tội lỗi của bạn, và do đó cả sự cứu rỗi hay hủy diệt của bạn, đều phụ thuộc vào chính bạn. Vì không có sự tha thứ tội lỗi thì không có sự cứu rỗi. Bạn có thể tự mình thấy nó nghiêm trọng đến mức nào.”

  1. Thánh Joseph of Optina

“Cầu nguyện là thức ăn cho linh hồn. Đừng để linh hồn đói khát, thà để thân xác đói còn hơn. Đừng phán xét bất cứ ai, hãy tha thứ cho tất cả mọi người. Hãy coi mình tồi tệ hơn tất cả mọi người trên thế giới và bạn sẽ được cứu. Càng nhiều càng tốt, hãy im lặng hơn.”

  1. Thánh John of Kronstadt

“Là Đấng thấu suốt lòng người, Chúa biết rằng con người dễ phạm tội rất thường xuyên, và rằng, sau khi vấp ngã, họ thường đứng dậy trở lại; vì vậy Ngài đã ban cho chúng ta điều răn phải thường xuyên tha thứ cho những lỗi lầm, và chính Ngài là người đầu tiên thực hiện lời thánh thiện của Ngài. Ngay khi bạn nói từ tận đáy lòng, ‘Tôi ăn năn,’ bạn sẽ được tha thứ ngay lập tức.”

  1. Thánh Augustine of Hippo

“Chúa đã hứa tha thứ cho sự ăn năn của bạn, nhưng Ngài không hứa ngày mai cho sự trì hoãn của bạn.”

  1. Thánh Silouan the Athonite (2)

“Chúng ta có một luật như vậy: Nếu bạn tha thứ, điều đó có nghĩa là Chúa đã tha thứ cho bạn; nhưng nếu bạn không tha thứ cho anh em mình, điều đó có nghĩa là tội lỗi của bạn vẫn còn với bạn.”

  1. Thánh Theophan the Recluse

“Nếu bạn đã phạm tội, hãy thừa nhận tội lỗi và ăn năn. Chúa sẽ tha thứ tội lỗi và một lần nữa ban cho bạn một tấm lòng mới…và một tinh thần mới (Ez. 36:26). Không có cách nào khác: Hoặc đừng phạm tội, hoặc hãy ăn năn.”

  1. Thánh Nikolai Velimirovich

“Hoàn toàn không có gì sẽ giúp chúng ta nếu chúng ta không khoan dung với những điểm yếu của con người và tha thứ cho họ. Vì làm sao chúng ta có thể hy vọng rằng Chúa sẽ tha thứ cho chúng ta nếu chúng ta không tha thứ cho người khác?”

12. Thánh Isaac the Syrian

“Không có tội nào không thể được tha thứ ngoại trừ tội thiếu sự ăn năn, và không có món quà nào không được tăng thêm trừ món quà còn lại mà không được thừa nhận. Vì phần của kẻ ngu dốt là nhỏ bé trong mắt hắn.”

  1. Thánh George Karslides

“Hãy yêu thương tất cả những người anh em của bạn, ngay cả kẻ thù của bạn. Đây là điều cơ bản nhất. Luôn luôn yêu thương không chỉ những người yêu thương chúng ta, mà còn cả những người ghét chúng ta. Chúng ta hãy tha thứ cho họ và yêu thương tất cả họ ngay cả khi họ đã làm điều ác lớn nhất với chúng ta; khi đó chúng ta thực sự là con cái của Chúa. Khi đó tội lỗi của chúng ta cũng được tha thứ.”

14. Thánh Barsanuphios of Optina

“Lạy Chúa, xin ban cho chúng con, nếu chúng con không thể yêu thương kẻ thù của mình, ít nhất là tha thứ cho họ.”

  1. Thánh Cyril of Jerusalem

“Nếu bạn có bất cứ điều gì chống lại bất kỳ người nào, hãy tha thứ cho nó: bạn đến đây để nhận được sự tha thứ tội lỗi, và bạn cũng phải tha thứ cho người đã phạm tội với bạn. Nếu không, với khuôn mặt nào bạn sẽ nói với Chúa, ‘Xin tha thứ cho tôi những tội lỗi của tôi’, nếu bạn chưa tự mình tha thứ cho người đồng nghiệp của mình ngay cả những tội lỗi nhỏ của anh ta.” Nguon: 

https://www.reddit.com/r/OrthodoxChristianity/comments/v9nqoz/forgiveness_15_quotes_from_the_saints/?tl=vi


 

Thánh Gioan Lêônarđô (1541? – 1609), Linh mục – Cha Vương

Mến Chúa bạn và gia đình một ngày bình an và tràn đầy sức mạnh của Chúa Thánh Thần nhé. Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Gioan Lêônarđô (1541? – 1609), Linh mục.  mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy.

Cha Vương

Thứ 5: 09/10/2025.  t4-24

   “Tôi chỉ là một con người! Tại sao tôi phải làm mọi việc? Ðiều đó có ích gì cho tôi?” Ngày nay, cũng như bất cứ thời đại nào, người ta thường cảm thấy khó chịu khi rơi vào tình trạng khó xử vì bị liên lụy. Nhưng Thánh Gioan Leonardi đã trả lời những câu hỏi trên trong một phương cách độc đáo. Ngài chọn trở nên một linh mục.

   Thánh Gioan Leonardi sinh ở Diecimo, nước Ý. Ngài làm phụ tá thầy thuốc ở Lucca, đi tu và thụ phong linh mục năm 1572. Sau khi chịu chức, ngài rất tích cực hoạt động tông đồ, nhất là ở bệnh viện và nhà tù. Sự tận tụy và gương mẫu đời sống của ngài đã thu hút vài người trẻ, và họ bắt đầu tiếp tay với ngài. Sau này chính họ cũng trở thành linh mục.

Phấn khởi với luồng gió cải cách mà Công Ðồng Triđentinô đề ra, Cha Gioan và các linh mục bạn đề nghị một tổ chức cho các linh mục triều. Ðề nghị này bị chống đối dữ dội, nhưng vào năm 1583, tổ chức của ngài được đức giám mục Lucca công nhận với sự phê chuẩn của Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô XIII (vào năm 1621, tổ chức này được chính thức đặt tên là Các Tu Sĩ Chuyên Nghiệp của Mẹ Thiên Chúa). Cha Gioan được sự trợ giúp của Thánh Philíp Nêri và Thánh Giuse Calasanctius, và vào năm 1595, tổ chức này được Ðức Giáo Hoàng Clêmentê VIII công nhận, và đức giáo hoàng đã giao cho Cha Gioan công việc chấn chỉnh các tu sĩ ở Vallombrosa và Monte Vergine.

   Ngài chết khi mới 68 tuổi vì bị lây bệnh dịch khi chăm sóc các bệnh nhân ở Rôma. Ngài được sùng kính vì những phép lạ và lòng đạo đức nhiệt thành của ngài, và được coi là một trong những sáng lập viên của Thánh Bộ Truyền Bá Ðức Tin. Ngài được Ðức Giáo Hoàng Piô XI phong Thánh năm 1938.

Lời Bàn: Mỗi người có thể làm được những gì? Theo ý định và hoạch định của Thiên Chúa cho mỗi người, điều chúng ta có thể làm thì ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Mỗi người, như Thánh Gioan Leonardi, có một nhiệm vụ phải chu toàn trong hoạch định của Thiên Chúa cho thế gian. Mỗi người chúng ta thì độc đáo, và được ban cho các khả năng để phục vụ anh chị em chúng ta trong việc xây dựng Nước Trời.

Lời Trích: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban nước Trời cho anh em. Hãy bán của cải mình và bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không bao giờ mục nát và một kho tàng vô tận ở trên trời, là nơi kẻ trộm cắp không thể bén mảng, mối mọt không thể đục phá” (Luca 12,32-33). (Trích từ mạng NguoiTinHuu)

From: Do Dzung

*************************

Mai Thảo, Thanh Sử – Hãy Theo Thầy

 CHUỔI HẠT MÂN CÔI VỚI THÁNH NỮ TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU

 

Sinh hạ trong 1 gia đình đạo đức năm 1874. Lúc 4 tuổi, mồ côi mẹ. Các chi săn sóc thay thế mẹ. Lúc lên 14 tuổi, chị xin vào dòng kín Camelo ở Lisieux. 9 năm tu trong dòng là gần 9 năm bị bệnh liên tục. Nhìn thấy sự yếu đưối của mình, chị hoàn toàn phó thác cho tình yêu Thiên Chúa, như 1 con nhỏ trong cánh tay của mẹ nó. Chị qua đời năm 1897. 28 năm sau, được tôn phong hiển thánh năm 1925. Danh tiếng của chị lan toả cùng trái đất. Do đó mà nhà dòng kín Lisieux trở nên trung tâm hành hương lôi kéo rất nhiều người. Ngày nay bà được Hội Thánh chỉ định làm quan thày các xứ truyền giáo. Khi phong thánh cho thánh Nũ Teresa Hài Đồng Jesu, ĐGH Pio Xl đã nói: Công nghiệp bà thánh Teresa cũng không thua kém công nghiệp Thánh Phanxico Xavier, đả sang phương đông giảng đạo. Thánh nữ Teresa Hài Đồng Jesu là 1 vị thánh rất nhỏ, mà lại rất lớn. Nhỏ là vì Bà chỉ vào tu trong dòng kín Lisieux có 9 năm, thì bà qua đời năm 1897, cũng tại dòng kín Lisieux. Rất lớn, là bà có ý chí chinh phục những người ngoại trở về với Thiên Chúa.

Bà hằng ước ao được sang phương đông, tu tại 1 nhà dòng kín nào đó, để cầu nguyên cho các người ngoại được sớm nhận biết Chúa chân thật. Cho nên bà đã có ý nguyện xin cho được sang Đông Dương, vào tu trong 1 nhà dòng kín ở Hà nội, để được cầu nguyên. Nhưng ước vọng không thành, vì bệnh lao phổi của Bà càng ngày càng trở nên trầm trọng. Bà đã có những đức tính hết sức cao quý tuyệt vời, đó là hy sinh, hãm mình , nhịn nhục. Thánh nữ Teresa có 2 đức tính đạo đức căn bản nhất, là: Yêu mến Thánh Thể, và sùng kính Đức Mẹ Mân Côi. Trong cuốn sách” Saints to Remember” của Giáo Hội Hoa kỳ có nói về Bà như thế này:”…Her great devotions were to the Blessed Sacrament and to Our Lady, who once appeared to her in a grave sickness…” ( 1 sự tận hiến vô cùng cao cả là cho Thánh Thể Chúa Jesu, và cho Đức Trinh Nữ Maria tước hiệu Mân Côi, có 1 lần Đức Mẹ đã hiện ra với chị, trong lúc chị đau nặng).

Tiểu sử của Thánh Nữ thì rất nhiều và cũng rất dài. Ở đây chúng tôi chỉ minh chứng 1 điều duy nhất là thánh nữ đã rất mộ mến chuỗi Mân Côi. Mỗi khi chầu Thánh thể, ở lặng 1 mình, hay là nằm trên giường bệnh, Thánh Nữ thường lần hạt kính Đức Mẹ. Cuộc sống của Thánh Nữ rất đơn sơ, giản dị, cho đến nỗi khi Thánh Nhân qua đời, thì 1 chị dòng đã nói: Không biết Teresa sau khi chết rồi, nhà dòng biết lấy tài liệu gì đáng giá, để ghi vào sổ nhà dòng, và tiểu sử của chị. Nhưng sau khi bà qua đời rồi, người ta mới khám phá ra bà chính là 1 nhà tu học đại tài, đã viết những tư tưởng tu học rất cao siêu. Cho nên, Hội thánh đã phong cho Bà phẩm hàm : Tiền sĩ Hội Thánh. 1 nữ tu nhỏ bé, gần 9 năm bị bệnh, mà được phong Tiến sĩ Hội Thánh thì phải biết như thế nào rồi! Đây cũng lại là 1 phép lạ điển hình, chứng tỏ khi bà còn sống đã năng lần chuỗi Mân Côi, cho đến nỗi Bà coi mỗi một kinh kinh mừng khi bà đọc lên kính Đức Mẹ, là 1 bông hồng thơm tho dâng lên cho Mẹ. Do đó, mà trước khi bà từ giã cõi đời, bà đã để lại 1 câu nói bất hủ sau đây: “Je passerai au ciel, à faire pleuvoir des roses sur la terre..” ( khi tôi về thiên đàng, tôi sẽ làm mưa hoa hồng xuống trên mặt đất này). Và qủa thật, sau khi bà qua đời, đêm ấy bà đã làm 1 phép lạ cả thể là cho mưa hoa hồng xuống đầy sân nhà dòng kín Lisieux. ( hoa hồng tức là hoa Mân Côi : Rosary) .

Hãy bắt chước thánh nữ để được hãm mình chịu khó chịu bệnh tật cho nên.

Vì trong sách dẫn đàng nhân đức có nói: Không có 1 công phúc nào ở trên thế gian này đền tội hữu hiệu cho bằng chịu bệnh tật cho nên, vì lòng kính mến Chúa, và chia sẻ những khổ đau mà Chúa Jesu đã chịu trên thánh giá.

From: ngocnga_12 & NguyenNThu


 

 Thánh Maria Faustina sứ điệp của lòng thương xót Chúa- Cha Vương

 Hôm nay 05/10, Giáo hội mừng kính Thánh Maria Faustina sứ điệp của lòng thương xót Chúa, ước mong bạn cảm nhận được tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Mừng quan thầy đến những ai chọn ngài làm bổn mạng nhé.

Cha Vương

CN : 05/10/2025.  t5 – 23

Khi vị thánh nữ này cất tiếng khóc chào đời tại Ba Lan ngày 25 tháng Tám năm 1905, thì song thân thánh nữ đã đặt tên cho ngài là Helen. Trong cuộc đời ngắn ngủi tại thế, Helen đã thực hiện một sứ vụ quan trọng là dạy cho thế giới biết về Lòng Thương Xót của Đức Chúa Giêsu. Ngay từ lúc lên 7, Helen đã muốn sống cuộc đời tận hiến cho Thiên Chúa như một nữ tu. Khi được 25 tuổi, Helen vào tu trong dòng Chị Em Con Đức Mẹ Thương Xót, và nhận tên là sơ Maria Faustina.

    Công việc của sơ Maria Faustina thật giản dị. Sơ nấu ăn, làm vườn và giữ cửa cho tu viện. Chỉ có sự tốt bụng, trầm lặng và hồi tâm là đáng lưu ý. Và ít có người biết được những chiều sâu đích thực về đời sống tâm linh của sơ Faustina. Thiên Chúa đã chúc lành cho sơ Faustina Maria bằng nhiều ân sủng đặc biệt, kể cả ơn thị kiến, ơn tiên tri và ơn được nhận năm Dấu Thánh cách vô hình.

    Trong một thị kiến mà sơ Maria Faustina nhận được, Chúa Giêsu đã hiện ra trong y phục màu trắng. Người giơ cao một tay để chúc lành và tay kia thì chạm vào Thánh Tâm Người. Có hai tia sáng phát ra từ Thánh Tâm Chúa Giêsu, một màu đỏ và một màu nhạt. Tia sáng đỏ tượng trưng cho Máu cứu chuộc của Chúa Kitô, còn tia xanh nhạt biểu trưng nước thanh tẩy trong bí tích Rửa tội. Chúa Giêsu nói: “Con hãy cho vẽ lại bức ảnh như con xem thấy Cha, kèm theo dòng chữ: Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa!” Chúa Giêsu đã nói với sơ Maria Faustina rằng Chúa nhật sau lễ Chúa Phục Sinh sẽ được gọi là Chúa nhật kính Lòng Thương Xót.

     Sơ Maria Faustina đã viết nhật ký, chép lại mọi điều Chúa Giêsu muốn cho thế giới biết về Lòng Thương Xót của Người. Trong đó, Maria Faustina đã viết những lời cầu nguyện thật dễ thương, biểu lộ mối tương quan rất mực thân thiết đối với Đức Chúa Giêsu. Và Đức Chúa Giêsu nói với Maria Faustina rằng thánh nữ chính là thư ký nhỏ của Người. Chính công việc đặc biệt của thánh nữ Maria Faustina đã khích lệ nhiều người tin tưởng vào Lòng Thương Xót vô hạn lượng của Thiên Chúa.

    Chúa Giêsu hứa ban ơn tha thứ và ân sủng dư tràn cho bất cứ ai tôn sùng lễ kính Lòng Thương Xót Chúa. Tận hiến cho Lòng Thương Xót Chúa bao gồm tin tưởng vào lòng nhân hậu Chúa, yêu thương tha nhân, năng lãnh nhận bí tích Hòa giải để luôn ở trong tình trạng có ân sủng và rước lễ ngày Chúa nhật kính Lòng Thương Xót Chúa.

    Chỉ sau 13 năm sống trong bậc tu trì, sơ Maria Faustina Kowalska đã về trời vào ngày mùng 5 tháng Mười năm 1938 vì bệnh lao phổi, vừa tròn 33 tuổi.

    Chúa Giêsu đã nói với thánh nữ Maria Faustina Kowalska: “Cha mong muốn con hãy luôn bày tỏ lòng thương xót ra khắp mọi nơi. Con không thể tự biện minh gì về điều này!” Phương thế tốt nhất để chứng tỏ chúng ta tin cậy vào Lòng Thương Xót của Đức Chúa Giêsu là biết tỏ bày lòng thương xót và luôn tha thứ cho những người xúc phạm đến chúng ta. Chúng ta có sẵn lòng cùng nhau thực hiện như vậy không? Vậy hôm nay mời bạn dành thời gian lần chuỗi Lòng Thương Xót Chúa để đền tội mình và tội lỗi của toàn thế giới. Sau đây là câu nói của ngài:

(1) Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh! Bao nhiêu lần hít thở, bao nhiêu lần nhịp tim đập, bao nhiêu lần dòng máu luân chuyển trong cơ thể con là bấy nhiêu ngàn lần con muốn tôn vinh Lòng Thương Xót Chúa. (Thánh Faustina)

(2) Chúa Thánh Thần không nói với một linh hồn chia trí và lắm lời. Chúa Thánh Thần nói qua những soi động lặng lẽ của người với một linh hồn tịnh tâm, một linh hồn biết giữ thinh lặng. (Thánh Faustina)

Câu nào đánh động bạn nhất? 

From: Do Dzung

***********************

DÒNG NHẠC THÁNH CA LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA | Những Tuyệt Phẩm Thánh Ca Về Lòng Thương Xót Chúa

BỐN ĐIỀU THÁNH FAUSTINA DẠY TÔI VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT- Joseph Nguyễn Tro Bụi chuyển ngữ


Thánh Maria Faustina Kowalska là một khí cụ khiêm nhường của Chúa, thánh nữ đã khát khao đời sống tu trì từ khi chỉ mới bảy tuổi.

Có thể bạn sẽ nghĩ: Lúc bảy tuổi, tôi còn đang đổi bánh Nilla Wafers lấy Oreo ở sân chơi, chứ chưa hề nghĩ về ơn gọi của mình.  Nhưng với Faustina, vai trò trong gia đình đã khiến cô trưởng thành sớm.  Đến năm 16 tuổi, Faustina đã chăm sóc và hỗ trợ cho chín người em như một quản gia của gia đình.

Dù rất vâng lời theo mong muốn của cha mẹ là ở nhà, Faustina thường tìm kiếm Chúa Giê-su trong bí tích Thánh Thể, mang trong lòng khát khao gia nhập tu viện từ khi còn trẻ.  Năm 1924, Faustina có thị kiến đầu tiên về Chúa Giê-su, Người đã bảo Faustina rời nhà để vào tu viện ở Warsaw, Ba Lan.  Faustina sau đó đã gia nhập Hội Dòng Nữ Tử của Đức Mẹ Thương Xót và tuyên khấn lần đầu làm nữ tu vào năm 1928, khi mới 22 tuổi.

Thánh Faustina nổi tiếng với việc ghi chép lại những thị kiến của mình về Chúa Giê-su trong một cuốn nhật ký.  Bạn có thể đã quen thuộc với hình ảnh Chúa Giê-su là Vua của Lòng Thương Xót, mặc áo trắng với những tia sáng đỏ và nhạt phát ra từ trái tim.  Hình ảnh này lấy từ một trong những thị kiến của thánh Faustina.  Từ các thị kiến này, Lễ Kính Lòng Thương Xót cũng đã được thiết lập (khi Chúa Giê-su cho biết Người muốn hình ảnh Lòng Thương Xót được “làm phép trọng thể vào Chúa Nhật đầu tiên sau Lễ Phục Sinh”), cùng với Chuỗi Kinh Lòng Thương Xót, một kinh nguyện chuyển cầu dùng trên tràng hạt Mân Côi để tưởng nhớ đặc biệt cuộc Khổ nạn của Chúa.

Học theo đường thương xót

Nhờ có các thánh như Faustina, chúng ta hiểu rõ hơn về trái tim đầy thương xót của Chúa Giê-su và tìm cách thực hành lòng thương xót ấy trong cuộc sống của mình.  Tôi muốn chia sẻ với mọi người cách mà câu chuyện nhỏ của thánh Faustina đã biến đổi trái tim bình thường của tôi ra sao, với hy vọng rằng câu chuyện cũng sẽ truyền cảm hứng cho nhiều người.

1.Thiên Chúa không bủn xỉn với lòng thương xót của Ngài

Lòng thương xót của Thiên Chúa được ban tặng cách nhưng không, chứ không phải là điều chúng ta xứng đáng đạt được.  Lựa chọn của Thiên Chúa khi khiêm nhường sai Con của Ngài xuống trần gian, chịu chết trên thập giá vì chúng ta, là minh chứng rõ ràng nhất cho trái tim đầy thương xót của Ngài.  Hết lần này đến lần khác, Ngài tự hiến mình mỗi khi chúng ta tham dự bí tích Thánh Thể trong Thánh lễ.

Lần tới khi bạn dự Lễ, hãy đếm xem có bao nhiêu lần bạn đọc các lời nguyện xin Chúa thương xót.  Mặc dù Ngài luôn ban tặng lòng thương xót ấy, chúng ta vẫn ý thức rằng lòng thương xót của Ngài là cần thiết và vô cùng quan trọng cho đời sống thiêng liêng của mình.

2.Đau khổ có thể làm cho chúng ta trở nên thánh thiện hơn

Trong một đoạn nhật ký của mình, Thánh Faustina viết: “Đau khổ là một ân sủng lớn lao; qua đau khổ, linh hồn trở nên giống Đấng Cứu Thế; trong đau khổ, tình yêu trở nên trong sáng; đau khổ càng lớn, tình yêu càng tinh khiết” (#57, trang 29).

Nói cách khác, khả năng chịu đựng đau khổ, dù lớn hay nhỏ, đang giúp chúng ta trở nên giống Chúa Giê-su hơn.  Thật lòng mà nói, không ai muốn đau khổ.  Nhưng, thánh Faustina mời gọi chúng ta xem những thử thách này như cơ hội để dựa vào tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa.

Chúa Giê-su mong muốn ở gần chúng ta.  Ngài mời gọi ta mở rộng trái tim để đón nhận sự gần gũi ấy và tin tưởng rằng Ngài đang hoạt động trong tâm hồn ta, bất kể hoàn cảnh nào.  Thánh Faustina cũng chia sẻ: “Khi thấy gánh nặng vượt quá sức mình, tôi không suy xét hay phân tích nó, mà chạy đến với Thánh Tâm Chúa Giê-su như một đứa trẻ và chỉ thốt lên một lời: ‘Ngài có thể làm mọi sự’” (#1033, trang 392).

3.Lòng thương xót là cốt lõi của cộng đoàn

Lần đầu tiên tôi đọc Chuỗi Kinh Lòng Thương Xót là cách đây vài năm, cùng với nhóm các nhà truyền giáo của chương trình Life Teen.  Một trong các nhà truyền giáo có ý cầu nguyện cho người thân bị bệnh.  Không chút do dự, tất cả chúng tôi đã cùng nhau vào nhà nguyện với tràng hạt trong tay để cầu nguyện.

Chuỗi Kinh Lòng Thương Xót thường được đọc trong những lúc cầu nguyện cho người bệnh và người hấp hối.  Chuỗi Kinh cũng thường được đọc sau khi chúng ta lãnh nhận Thánh Thể trong Thánh lễ.  Qua nhiều lần tỏ mình, Chúa Giê-su đã khẳng định rằng Chuỗi Kinh này không chỉ dành cho người đang đọc mà còn dành cho toàn thế giới.  Thánh Faustina kết thúc lời nguyện trong một đoạn nhật ký bằng câu “vì cuộc khổ nạn đau thương của Ngài, xin thương xót chúng con” (#475), và đoạn tiếp theo được sửa đổi thành “xin thương xót chúng con và toàn thế giới” (#476).

Tôi suy ngẫm về sự thay đổi này và vì sao Chúa Giê-su nhấn mạnh đến điều đó.  Dù lời cầu nguyện chung này chủ yếu dành cho những ai sắp lìa đời, tôi nghĩ rằng Chúa Ki-tô có ý dành cho bất kỳ ai cần đến lòng thương xót của Chúa (tất cả chúng ta!).  Cùng nhau cầu nguyện bằng những lời kinh này sẽ mang lại sức mạnh và lòng can đảm, xin ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn không chỉ cho riêng chúng ta mà cho toàn thế giới.

4.Sự tha thứ của chính chúng ta là cần thiết cho lòng thương xót

Nói thì dễ hơn làm, phải không?  Đối với tôi, lời dạy khôn ngoan này của thánh Faustina thực sự là một thử thách lớn.  Cũng như Thiên Chúa ban cho chúng ta lòng thương xót vô tận của Ngài, ta cũng được mời gọi thực hành lòng thương xót đó với người khác.  Điều này có thể thể hiện qua lòng kiên nhẫn với đứa em đang làm ta khó chịu, tha thứ cho một người bạn mà ta cảm thấy đã làm mình tổn thương, hoặc thậm chí là lòng thương xót đối với chính bản thân mình khi ta nhận ra những thiếu sót trong tình yêu và niềm tin vào Chúa Giê-su.

Thành thật mà nói, tôi không nghĩ mình luôn là một người bạn tốt.  Đôi khi, tôi chìm đắm trong sự tự trách và đổ lỗi cho bản thân về mọi điều mình có thể đã nói hay làm sai.  Lúc khác, tôi đổ hết trách nhiệm lên người khác.  Nhưng chính trong những lúc như vậy, tôi được mời gọi không chỉ đón nhận lòng thương xót của Chúa mà còn được mời gọi chia sẻ lòng thương xót ấy: “Ai biết tha thứ sẽ chuẩn bị cho mình nhiều ân sủng từ Thiên Chúa.  Mỗi khi nhìn lên thập giá, tôi sẽ tha thứ với cả trái tim mình” (#390, trang 175).

Bước theo đường thương xót

Cuộc đời của Thánh Faustina chứng minh rằng Chúa Giê-su có thể biến điều bình thường thành phi thường.  Dù chúng ta có thể không trải nghiệm những hình ảnh sâu sắc như vậy về Chúa Giê-su trong cuộc sống hàng ngày, nhưng chúng ta có thể nhìn vào thánh Faustina như một khí cụ của sự khiêm nhường và lòng tín thác hoàn toàn vào Chúa.

Nếu bạn thấy cuộc đời của Thánh Faustina khó hiểu hoặc thậm chí quá khó tin, hãy tự hỏi tại sao.  Hãy mời Thánh Faustina cầu nguyện cùng bạn và xin Chúa mở tâm trí bạn cho những tiềm năng về lòng thương xót và tình yêu của Ngài.  Như Thánh Faustina nhắc nhở chúng ta, tất cả những gì ta cần làm là chạy đến với Chúa như một đứa trẻ và chỉ thốt lên một lời: “Ngài có thể làm mọi sự.”

Maddy Bass

Joseph Nguyễn Tro Bụi chuyển ngữ từ https://lifeteen.com

From: Langthangchieutim

Thánh Phanxicô Átxidi (Assisi) – Cha Vương

Hôm nay 04/10 Giáo Hội mừng kính thánh Phanxicô Átxidi (Assisi). Mừng lễ Bổn Mạng đến những ai nhận thánh Phanxicô làm quan thầy nhé. Nguyện cho bình an của Chúa toả lan trên khắp thế giới hôm nay.

Cha Vương

Thứ 7: 04/10/2025.  t6-24

 Thánh Phanxicô sinh khoảng năm 1181, tại thành phố Átxidi nước Ý. Thánh Phanxicô Átxidi chỉ sống cuộc đời trần thế có 45 năm. Nhưng cuộc đời của Ngài là cả một bài ca. Một bản nhạc với những dòng nhạc, với những cung bậc, hòa nên một bản trường ca tình yêu tuyệt vời. Người ta trong nhiều thế kỷ đã không ngớt ca ngợi thánh nhân vì con người lạ lùng của thánh nhân giữa cuộc đời. Ngay anh em trong Dòng cũng không nhận ra Ngài có gì đặc biệt mà sao lạ lùng thu hút mọi người. Thánh nhân đã rất khiêm nhượng, sự khiêm tốn của một tâm hồn thánh thiện đã nhìn ra con người đầy khiếm khuyết, đầy tội lỗi của mình và có làm được gì là do ân huệ nhưng không của Chúa, đã biến cái tầm thường nên cái phi thường,đã biến cái đơn sơ,nhỏ bé nên cái vĩ đại khôn lường. Vì thế, tình yêu của Phanxicô Átxidi là một tình yêu mang tính cụ thể, thánh nhân yêu mọi người, mọi vật, Ngài biến mọi sự vật,mọi thụ tạo nên sinh động và có nhân tính. Ngài yêu tất cả vì Ngài thấy Thiên Chúa nơi tất cả mà trung tâm là Chúa Giêsu. Thánh nhân yêu thương mọi người với tất cả con tim của mình, với cả cuộc đời mình vì chính Chúa đã chết cho nhân loại trong đó có cả Phanxicô Átxidi. Tình yêu của Phanxicô Átxidi là tình yêu mang tính vui tươi, thoải mái,  Ngài sống trong niềm vui vì lúc nào Ngài cũng mang Chúa trong con người của mình, Ngài đồng hóa mọi sự và nhân cách hóa tất cả để tất cả ca ngợi Chúa trong niềm vui.

      Thánh nhân sinh ở Átxidi khoảng năm 1182. Cha Ngài là ông Bênađô là một thương gia tơ sợi nổi tiếng và mẹ Ngài là bà Pica, một người đạo đức, thánh thiện đã hun đúc Ngài nên một vị thánh thời danh. Cuộc nổi loạn của những người lê dân chống lại những nhà quí tộc. Thánh nhân bị bắt và bị giam cầm trong suốt một năm trời ròng rã. Ngài bị một căn bệnh hiểm nghèo và được Chúa cứu chữa, Ngài được khỏi bệnh và Chúa đã cảm hóa Ngài với câu:” Lạy Cha chúng tôi ở trên trời “. Năm 1206, thánh nhân quyết định rũ bỏ bụi trần,từ bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu, dù rằng bị người cha già hết sức phản đối, thánh nhân rất thương cha nhưng không dám làm trái ý Chúa. Thánh nhân phân phát tất cả của cải mình có cho những người nghèo, Ngài chỉ giữ lại một chiếc áo choàng cũ kỹ, rồi ra đi rao giảng Tin Mừng. Ðược Chúa thúc đẩy, soi sáng, thánh nhân đã lập Dòng anh em hèn mọn. Thời gian sau đó, Ngài lui về Alverne, một nơi thật cô liêu phía Bắc Átxidi để ăn chay, cầu nguyện và sống tình thân với Thiên Chúa. Chúa yêu thương Ngài cách đặc biệt, nên trong lúc Ngài xuất thần, Ngài nhìn thấy Tổng Lãnh Thiên Thần Séraphim và một ảnh chuộc tội. Tỉnh dậy, Ngài đã được Chúa in năm dấu thánh trên người lúc đó là năm 1224. Chỉ hai năm sau đó, Ngài lâm trọng bệnh. Trước khi ra đi về với Chúa, thánh nhân khuyên nhủ anh em trong Dòng giữ đức khó nghèo tuyệt đối và trung thành với Giáo Hội Chúa Kitô. Thánh nhân qua đời vào ngày 4.10.1226. Ðức Thánh Cha Grêgoriô đã tôn Ngài lên bậc hiển thánh.

 (Nguồn: SimonDalat) 

Nói đến Thánh Phanxicô thì chúng ta nghĩ ngay đến Kinh Hòa Bình. Có thể nói, từ những tư tưởng này, ngài được mệnh danh là Sứ giả hòa bình bởi vì chúng là điểm qui chiếu cho đời sống an hòa nơi ngài. Vậy hôm nay mời Bạn dành thời gian để suy niệm Kinh Hòa Bình nhé: Lạy Chúa, xin hãy dùng con / Như khí cụ bình an của Chúa / Để con đem yêu thương vào nơi oán thù / Đem thứ tha vào nơi lăng nhục / Đem tin kính vào nơi nguy nan / Đem trông cậy vào nơi thất vọng / Dọi ánh sáng vào nơi tối tăm / Đem niềm vui đến chốn ưu sầu. / Lạy Chúa, xin hãy dạy con / Tìm an ủi người hơn được người ủi an / Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết / Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu / Vì hiến thân chính là nhận lãnh / Tha thứ cho người chính là được thứ tha / Cam lòng chịu chết là được sống muôn đời. 

Câu nào đánh động bạn nhất? Mời bạn hãy đưa câu đó áp dụng vào trong cuộc sống hàng ngày. Đối với mình thì câu, “Đem yêu thương vào nơi oán thù.”

From: Do Dzung

****************************

KINH HÒA BÌNH – Thánh Phanxico thành Assisi – Nhạc: Lm Kim Long

 Thánh Phanxicô Assisi – Người nghèo của Thiên Chúa.

ĐỨC MẸ NÚI CÚI CẦU CHO CHÚNG CON

Joseph Võ Đình Thuần

 Thánh Phanxicô Assisi – Người nghèo của Thiên Chúa.

Có những vị thánh được gọi bằng nhiều tước hiệu cao sang, nhưng Phanxicô Assisi chỉ cần một tên gọi giản dị: Người nghèo của Thiên Chúa. Danh xưng ấy không phải là sự thiếu thốn, mà là lời tôn vinh cao quý nhất dành cho một tâm hồn đã biết trút bỏ tất cả, để chỉ còn lại duy một điều: tình yêu dành cho Thiên Chúa.

Ngày còn trẻ, Phanxicô là chàng trai hào hoa, mơ ước công danh và vinh quang. Nhưng khi gặp được ánh sáng của Đấng Tình Yêu, ngài đã chọn một lối đi ngược lại: rũ bỏ giàu sang, ôm lấy nghèo khó. Trước mặt mọi người, ngài cởi bỏ cả áo quần quý giá, đứng trần trụi như một trẻ thơ, để khởi đầu một cuộc đời mới – cuộc đời thuộc trọn về Thiên Chúa.

Từ ngày ấy, Phanxicô đi khắp các nẻo đường Assisi, tay không nhưng lòng tràn đầy bình an. Ngài gọi chim muông là anh em, gọi trăng sao là chị em, và coi cả vũ trụ như một gia đình. Trong cái nhìn trong veo của ngài, mọi sự đều chan chứa tình yêu, bởi tất cả được sáng tạo từ bàn tay Thiên Chúa. Chính sự nghèo khó đã làm trái tim ngài mở rộng, để yêu thương tuôn trào không biên giới.

Ngài nghèo không vì thiếu thốn, mà vì chọn nghèo như một lối sống, một lời đáp trả. Nghèo để được tự do, để trái tim không còn vướng bận bởi phù hoa chóng qua, mà hoàn toàn mở ra cho Đấng Vĩnh Cửu. Cái nghèo ấy không phải là trống rỗng, mà là viên mãn; không phải là từ khước sự sống, mà là gặp được mạch nguồn sự sống đích thực. Ngài bỏ tất cả để có thể ôm trọn bầu trời. Ngài tìm thấy kho báu trong từng giọt sương, tiếng chim, và cả những giọt lệ đau khổ của con người.

Nhìn vào gương mặt hiền hòa của Người nghèo Assisi, tôi tự hỏi: trái tim tôi đang thuộc về ai? Có phải danh vọng, tiền tài, lạc thú, hay cái tôi kiêu hãnh đang chiếm hữu tôi? Và tôi hiểu: chỉ khi biết “nghèo đi” – nghèo đi lòng ích kỷ, nghèo đi tham vọng, nghèo đi nỗi sợ mất mát – tôi mới có thể trở nên giàu có trong Thiên Chúa như Thánh Phanxicô.

Người nghèo của Thiên Chúa đã để lại cho nhân loại không chỉ một linh đạo, mà còn một bài ca sống động về tình yêu: bài ca của tự do, của đơn sơ, của hòa bình. Bài ca chan chứa ánh sáng ấy vẫn vang vọng qua nhiều thế kỷ, mời gọi ta cùng thưa lên một lời:

“Lạy Chúa, xin cho con biết chọn Ngài làm gia nghiệp, để trong sự nghèo khó, con tìm thấy kho tàng vô tận nơi tình yêu của Ngài.” Amen


 

TRUYỆN MỘT TÂM HỒN – THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU-Thầy Giuse Nguyễn Đình Trường – Học Viện Ngôi Lời

Thầy Giuse Nguyễn Đình Trường – Học Viện Ngôi Lời

 Chị thánh Têrêsa nổi bật lên như là một trong những khuôn mặt tiêu biểu của sự thánh thiện Kitô giáo.  Nơi Chị, sự thánh thiện Kitô giáo không còn là một điều mơ hồ, trừu tượng hay xa vời với đời sống con người, trái lại, được biểu lộ thật cụ thể và rõ nét.  Để làm sáng tỏ điều đó, tôi muốn trình bày đôi nét về đời sống thiêng liêng độc đáo của thánh nhân.  Những điều đó được khởi đi từ một tác phẩm hết sức gần gũi khi nhắc đến thánh nữ, tác phẩm “Truyện Một Tâm Hồn.”

 Chị thâm thuý một cách dịu dàng và dịu dàng một cách thâm thuý

 Như có tác giả đã nói rằng: “Chị thánh rất sành sỏi về đời sống nội tâm của mình.”  Tuy ở một độ tuổi còn khá trẻ nhưng Chị đã có một đời sống nội tâm sâu sắc.  Chị cảm nếm được điều mà bao thánh nhân hằng tìm kiếm“Sự thánh thiện của người Kitô hữu hệ tại ở đâu?”  Têrêsa nói rằng: “Sự thánh thiện hệ tại chỗ thực hiện ý của Chúa và sống sao cho vừa ý Ngài…”[1].

 Thánh nhân đã khám phá được thế đứng của con người trong tương quan với Thiên Chúa, dẫu những con người đó có là thánh nhân đi chăng nữa.  Dù là những vị thánh lớn hay những vị thánh nhỏ đều ví tựa như những bông hoa trước mặt Thiên Chúa trong vườn hoa của Người.  Tất cả những bông hoa đó đều chẳng làm nhiệm vụ gì khác hơn là “được dựng nên để làm vui cái nhìn của Thiên Chúa nhân lành khi Người đặt họ xuống dưới chân Người”[2], còn giữa những con người ấy có khác chăng là mỗi người – một loài hoa.  Nếu như các vị thánh lớn có thể sánh ví với các bông huệ và bông hồng thì các vị thánh kia cũng bằng lòng làm những bông cúc mùa xuân hay những bông hoa tím.

 Một cái nhìn đức tin đầy sự dịu dàng trong chiều kích tương quan với Thiên Chúa, thánh nhân đã cảm nhận được trong vườn hoa ấy, Thiên Chúa đã “cúi xuống” để vun xới mảnh đất, để chăm tỉa… để rồi những bông hoa ấy mới được triển nở và trở nên “những bông hoa đơn sơ làm Người say đắm.”  Một sự hạ mình để biểu lộ tình yêu của Người.  Thánh nhân đã thốt lên rằng: “Bởi lẽ đặc tính của tình yêu là hạ mình xuống.”  Tình yêu vô biên của Thiên Chúa nhân lành được thánh nữ cảm nghiệm và diễn tả qua những cử chỉ yêu thương đầy dịu dàng nhưng không kém phần sâu sắc.  Trong kinh nghiệm thần bí của mình, thánh Gioan Thánh Giá cũng đồng ý với cảm nghiệm đó khi Ngài viết: “Tình yêu muốn hoàn toàn thoả mãn thì phải hạ mình xuống, hạ mình tới tận hư vô.”[3]  Thật chẳng dễ gì để có được một kinh nghiệm tâm linh như vậy, hơn hết, đó là “quả ngọt” của một đời sống gắn bó mật thiết trong Đức Kitô của thánh nữ.

 Chị tinh tế một cách ngây thơ và ngây thơ một cách tinh tế

 Chị thánh say sưa và cảm thấy chẳng có chút ngần ngại nào khi thưa chuyện cùng Chúa Giêsu.  Chị thân thưa với Chúa tất cả, từ những niềm vui khi được nhận những món quà hay lúc Rước Lễ lần đầu… cho đến những nỗi buồn của sự mất mát, xa rời những người thân yêu; chị thân thưa với Chúa những khoảnh khắc ân sủng trong tình Chúa và cả những lúc thấy mình yếu đuối, bị cám dỗ bủa vây; chị chia sẻ với Chúa những cảm nếm trong đời sống thiêng liêng nhưng cũng không giấu giếm những kinh nghiệm đời thường nơi tu viện, dẫu đó là những kinh nghiệm bị chị em, Bề Trên hiểu lầm…  Tất cả những điều đó chị đã nói với Chúa bằng một sự đơn sơ lạ kỳ, một sự đơn sơ đến mức “tinh tế.”

 Trái lại, những điều mà chị thưa chuyện hay “thỉnh ý” Chúa lại tế nhị làm sao. “A!  Tại sao Chúa Nhân Lành lại cho con ánh sáng này?  Tại sao Người đã cho một đứa trẻ còn quá nhỏ thấy được một điều mà nó không thể hiểu…  Đây là một trong các mầu nhiệm mà chúng ta chắc chắn sẽ hiểu khi ở trên Trời để đời đời làm chúng ta thán phục vĩnh viễn!…[4].  Thánh nhân trình bày với tất cả niềm đơn sơ, đơn sơ của một tâm hồn biết chân nhận“Mọi thứ con có là do Chúa.”

 Chị táo bạo một cách tế nhị và tế nhị một cách táo bạo

 Thánh nhân đã chọn Đức Kitô làm tất cả, làm đối tượng duy nhất và rồi Đức Kitô trở thành điểm quy chiếu cho đời sống của Ngài.  Như trên đã nói, thánh nữ ý thức được sự thánh thiện, sự trọn lành của đời mình hệ tại ở đâu.  Thế nên, lời mời gọi của Thầy Chí Thánh: “Vậy các ngươi hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Ðấng trọn lành” (Mt 5,48) có lẽ đã được Ngài suy gẫm rất nhiều.  Thánh nhân cũng nói trong tự thuật của Ngài: “Con hiểu rằng muốn làm thánh thì phải chịu đau khổ nhiều, luôn tìm kiếm điều hoàn hảo nhất và quên mình; con hiểu rằng sự trọn lành có nhiều cấp độ và mỗi linh hồn được tự do đáp lại các đề nghị của Chúa… tóm lại là chọn lựa giữa những hy sinh mà Người đòi hỏi”[5].  Thánh nữ dường như hiểu rõ được hành trình nên trọn lành sẽ như thế nào.

 Thế nhưng, ở độ tuổi của mình, thánh nữ đã không ngần ngại thân thưa cùng Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, con chọn tất cả những gì Chúa muốn… con không muốn làm thánh nửa vời”[6].  Điều đó thực sự quá sức tưởng tượng.  Một sự táo bạo của một người trẻ.  Dĩ nhiên, sự táo bạo đó không khởi đi từ một sự bồng bột, nóng vội hay bộc phát nhưng là “tuyên ngôn” sau một hành trình dài ấp ủ ngay từ thuở ấu thơ cho đến lúc bấy giờ.  Điều đó có lẽ cũng là hợp lý, bởi đó là điều đến sau một thời gian đắm chìm trong tình yêu của Thiên Chúa, nhưng cũng phải thừa nhận đó là một sự táo bạo của thánh nhân. 

 Một sự táo bạo cần thiết cho tình yêu, như Ngài đã viết trong tự thuật: “…Nhất là con bắt chước thái độ của Madalena (x. Lc 7, 36-38), sự táo bạo đáng ngạc nhiên hay đúng hơn đầy tình yêu của bà làm rung động Trái Tim của Giêsu[7].  Với Ngài, Ngài bị lôi cuốn bởi điều đó và Ngài cảm nhận được điều đó.

 “Sau khi chết, con sẽ làm mưa hoa hồng.  Từ thiên đàng, con sẽ tiếp tục làm phúc xuống cho trần gian!”[8] tâm tình trước khi lìa đời của thánh nữ sau những ngày tháng chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo cũng toát lên sự táo bạo của một tình yêu dành cho con người.  Sự táo bạo ấy được diễn tả không “rầm rộ” hay “ồn ào” nhưng được thỏ thẻ tâm tình với Thầy Giêsu trong những lời cầu nguyện của thánh nhân.  Thế rồi, điều đó được Chúa Giêsu vui lòng đón nhận.  Sự táo bạo của một thiếu nữ nhưng đã trở nên phương thế hữu hiệu cho những ai muốn chạy đến cùng Chúa Giêsu.  Ở trên trời, thánh nhân chắc hẳn vẫn hằng chuyển cầu cùng Chúa cho Giáo hội, cho các linh mục, cho công cuộc truyền giáo của Giáo Hội cũng như cho những người muốn bước theo Chúa như thánh nhân đã nhắc đến nhiều lần trong các bức thư của mình.

 Nhiều tác giả lớn không ngần ngại gọi thánh nhân với những danh xưng thật đẹp.  John Wu[9], một tác giả nổi tiếng đã trình bày về thánh nhân như là một trong những gương mặt tiêu biểu của sự thánh thiện Kitô giáo.  Sự thánh thiện mà John Wu trình bày thật đẹp biết bao.  Sự thánh thiện nơi thánh nữ đã được John Wu trình bày từ những cảm nghiệm riêng tư của ông, bởi chính cuốn sách “Truyện Một tâm hồn” đã đưa John Wu gia nhập đạo Công giáo.  Ông bị lôi cuốn bởi sự thánh thiện của Kitô giáo được toát lên qua gương mẫu của thánh nữ.  Ông bị chinh phục bởi một cuộc sống hoàn toàn thống nhất nhờ gắn bó với Đức Kitô nơi thánh nữ: “Sự quan tâm đến những điều nhỏ bé nhất, với một sự tự do nội tâm lớn nhất, với sự thoát ly triệt để nhất”[10].  Trong một tác phẩm của mình, ông viết:

 “Nếu Kitô giáo đã làm thoả mãn lý trí tôi chính là vì đã giới thiệu cho tôi một Thượng đế vừa rộng rãi, vừa có ngôi vị.  Còn chị Têrêsa đã củng cố niềm tin tôn giáo của tôi bằng tâm hồn thanh khiết, thoát tục của chị…[11]

 “Đối với tôi, Thánh Têrêsa là một tiêu biểu rõ nét về đời sống thiêng liêng trong thời đại chúng ta, bởi chị rất sành sỏi về đời sống nội tâm của mình…  Ngày mai dù chị đã làm những phép lạ phi thường, nhưng chị vẫn giữ tâm hồn bé nhỏ như một mầm non.  Vì thế, chúng ta biết rằng, trong đời sống thiêng liêng, không gì quan trọng bằng lòng chân thành[12]

 Sau cùng, xin mượn lời của Đức giáo hoàng Piô XII, lúc còn là Hồng y Pacelli, đã nói năm 1925 khi ngài là đại diện Tòa Thánh sang Pháp nhân dịp phong Thánh cho Chị Têrêsa và làm phép đền thờ Lisieux người ta xây cất kính Thánh nữ, làm lời cầu nguyện và cũng là lời kết cho bài viết:

 “Hỡi Thánh nhỏ, Người lớn lắm, ngay lúc này đây, từ đầu thế giới này sang đầu thế giới kia, con cái của Người nhiều như cát biển sao trời.  Bốn vị Giáo hoàng đã quỳ cầu khẩn dưới chân Người…  Xin Người hãy mưa hoa hồng xuống nữa, xuống thế giới chúng tôi…  Hỡi Thánh nhỏ, Người lớn lắm”[13].

 Thầy Giuse Nguyễn Đình Trường – Học Viện Ngôi Lời

 Nguồn: https://ngoiloivn.net

[1] Hoa Trắng Cát Minh, Truyện Một Tâm Hồn, nxb Tôn giáo (2016), tr. 40.

[2] Sđd, tr. 40

[3] Sđd, tr. 40

[4] Sđd, tr. 87.

[5] Sđd, tr. 59.

[6] Sđd, tr. 59.

[7] Sđd, tr 461.

[8] “When I die, I will send down a shower of roses. From the heavens, I will spend my heaven by doing good on earth.”

[9] John Wu (Gioan Trịnh Xuân Vũ) (1899 – 1986), một trong những nhân vật nổi bật của Công giáo Trung Hoa ở thế kỷ XX. Ông du học Hoa Kỳ và trở thành một nhà luật học danh tiếng, được mời đi giảng thuyết nhiều nơi trên thế giới. Ông đã dịch Đạo Đức Kinh ra tiếng Anh. Ông trở lại Công giáo năm 1937. Năm 1947, ông được cử làm Đại sứ của Trung Hoa tại Toà Thánh.

[10] Lm Phêrô Trần Ngọc Anh, Nhân học Kitô giáo, Tập Một, nxb Đồng Nai (2018), tr. 369.

[11] Sđd, tr. 371.

[12] Sđd, tr. 370.

[13] http://www.vietcatholicnews.net/News/html/246885.htm