Thánh Rita (1381-1457)-Cha Vương

Chúc bình an đến bạn và gia đình. Hôm nay 22/5 Giáo Hội mừng kính Thánh Nữ Rita ở Cascia. Xin ngài chuyển cầu cho những ai đang gặp khó khăn trong đời sống hôn nhân.

Cha Vương 

Thứ 5, 5PS: 22/5/2025

Trong nhiều thế kỷ, Thánh Rita (1381-1457) ở Cascia là một trong những vị thánh nổi tiếng của Giáo Hội Công Giáo. Người ta thường gọi ngài là “Vị Thánh Bất Khả,” vì bất cứ điều gì nhờ ngài cầu bầu đều được Thiên Chúa nhận lời.

  Thánh Rita sinh ở Spoleto, nước Ý năm 1381. Ngay từ nhỏ ngài đã muốn dâng mình cho Chúa, nhưng vì vâng lời cha mẹ già, ngài phải kết hôn với một ông chồng thô bạo và nóng nẩy. Trong 18 năm, ngài kiên nhẫn dùng sự cầu nguyện và tử tế để đối xử với ông chồng luôn khinh thường và gian dâm. Sau cùng, ông đã ăn năn hối lỗi và bị giết vì một mối thù truyền kiếp.

  Tưởng đã yên thân sau cái chết của chồng, ngài lại khổ tâm khi thấy hai người con trai thề quyết trả thù cho cha mình, và ngài đã cầu xin Thiên Chúa để cho họ chết còn hơn phạm tội giết người. Quả thật, cả hai lâm bệnh nặng, và ngài đã chăm sóc, khuyên giải hai con trở về với Thiên Chúa trong sự bình an trước khi lìa đời.

Bây giờ không chồng và không con, ngài xin gia nhập Dòng Augustine ở Cascia, nhưng bị từ chối vì không còn là trinh nữ. Với sự kiên trì và lòng tin mạnh mẽ, Thiên Chúa đã can thiệp để ngài được nhập dòng. Người ta kể rằng, một đêm kia Thiên Chúa đã đưa ngài vào trong khuôn viên của tu viện dù đã kín cổng cao tường.

Thấy vậy, các nữ tu tin rằng ý Chúa muốn ngài được chấp nhận vào dòng. Trong đời sống tu trì, ngài nổi tiếng về lòng bác ái và ăn chay hãm mình. Lời ngài cầu nguyện cho những kẻ đau yếu thường được Thiên Chúa nhận lời. Ngoài ra, qua sự khuyên bảo, ngài đã đưa nhiều người trở về với đời sống Công Giáo.

Vào năm 1441, ngài được đặc biệt chia sẻ sự thống khổ của Ðức Kitô bằng các vết mão gai trên đầu. Các vết thương ấy thật đau đớn và chảy máu, xông mùi khó chịu đến độ ngài phải sống tách biệt với mọi người, tuy nhiên ngài vẫn coi đó là ơn sủng đặc biệt và xin được sức mạnh để gánh chịu cho đến chết.

  Ngài từ trần vì bệnh lao ngày 22 tháng Năm 1457 khi 76 tuổi. Ngài đặc biệt được tôn kính ở nước Ý ngày nay. Ngài được coi là quan thầy của những trường hợp khó khăn, nhất là có liên hệ đến hôn nhân.

Ngài được phong Chân Phước năm 1626 và được phong Thánh năm 1900. (Nguồn:GP Vĩnh Long)

Sau đây là những lời  trích dẫn của Thánh Rita thành Cascia hy vọng nó giúp bạn luôn trông cậy vào quyền năng của Chúa qua sự cầu bầu của thánh nhân:

❦  “Không có gì là không thể đối với Chúa.”

❦  “Tôi không sợ chết. Tôi biết chết là gì. Đó là nhắm mắt lại với thế giới và mở mắt ra với Chúa.”

❦  “Lạy Chúa Giêsu, xin cho con được chia sẻ nỗi đau khổ của Chúa.”

Câu nào đánh động bạn nhất? 

From: Do Dzung

Thánh Bênađinô Siêna (1380 – 1444)- Cha Vương

Hôm nay Giáo Hội mừng kính thánh Bênađinô Siêna, mừng quan thầy đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thứ 3, 5PS: 20/05/2025

Thánh Bênađinô Siêna sinh năm 1380 tại một thị trấn gần thành phố Siêna, nước Ý. Ngài là con trai của một nhà chức sắc người Ý. Song thân Bênađinô qua đời khi ngài mới lên bảy. Những người bà con của Bênađinô quý mến ngài như con ruột của họ. Họ cũng cho Bênađinô ăn học đến nơi đến chốn. Bênađinô trưởng thành với dáng vẻ một cậu trai cao to đĩnh đạc. Bênađinô có tính pha trò nên các bạn bè của Bênađinô thích được ở bên ngài. Tuy nhiên, họ biết rằng không nên nói bất cứ lời thô tục nào khi có sự hiện diện của Bênađinô, vì ngài sẽ không khoan thứ cho điều ấy. Hai lần khi một gã thanh niên kia dụ dỗ Bênađinô phạm tội, cả hai lần Bênađinô đã tặng cho hắn một quả đấm và đuổi hắn đi.

        Thánh Bênađinô Siêna có một tình yêu đặc biệt nồng nàn đối với Đức Trinh Nữ Maria. Chính Đức Mẹ là Đấng gìn giữ tâm hồn ngài trong sạch. Ngay khi còn ở tuổi niên thiếu, Thánh Bênađinô Siêna đã đơn sơ cầu nguyện với Đức Mẹ y như một con trẻ thưa truyện với mẹ nó vậy.

        Bênađinô Siêna có tâm hồn nhạy cảm. Ngài rất thương mến những người nghèo khổ. Lần kia, người cô của Bênađinô Siêna không còn thức ăn cho thêm một người hành khất nữa, cậu bé liền la lớn tiếng: “Thà con chịu bỏ đói còn hơn là để cho người đàn ông đáng thương ấy phải ra đi mà chẳng được chút gì!” Năm 1400, khi cơn dịch tả tấn công thành phố, Thánh Bênađinô và các đồng bạn của ngài đã tình nguyện tới giúp bệnh viện. Họ ngày đêm săn sóc những người đau yếu và hấp hối suốt sáu tuần lễ cho tới khi cơn dịch chấm dứt.

        Khi lên hai mươi hai tuổi, Bênađinô Siêna gia nhập dòng Thánh Phanxicô khó khăn. Rồi Bênađinô Siêna làm linh mục. Sau nhiều năm phục vụ, thánh nhân được chỉ định tới các thị trấn và thành phố rao giảng. Thánh Bênađinô Siêna đã nhắc nhớ cho mọi người về lòng yêu thương của Đức Chúa Giêsu. Trong những ngày ấy, các thói xấu làm suy vi tinh thần đạo đức của cả người già lẫn con trẻ. “Làm sao con có thể tự mình cứu lấy những người này?” trong lời kinh, Bênađinô Siêna đã hỏi Thiên Chúa. “Con có thể dùng thứ vũ khí nào để chống lại ma quỷ?” và Thiên Chúa trả lời: “Thánh Danh Ta đủ cho con!” Vì thế, Bênađinô Siêna đã rao giảng lòng tôn sùng Thánh Danh Chúa Giêsu. Ngài sử dụng Thánh Danh này rất nhiều lần trong mỗi bài giảng. Thánh nhân xin người ta in Thánh Danh Chúa Giêsu và dán trên các cổng ra vào của thành phố, trên khắp các cánh cửa… Nhờ việc tôn sùng Thánh Danh Chúa Giêsu và lòng sùng kính Mẹ Maria, Bênađinô Siêna đã đem hàng ngàn người trên khắp nước Ý trở về với Giáo hội.

        Thánh Bênađinô Siêna đã trải qua bốn mươi hai năm trong đời tu dòng Phanxicô. Thánh nhân qua đời ngày 20 tháng Năm năm 1444 tại Aquila, nước Ý, hưởng thọ sáu mươi tư tuổi. Chỉ sáu năm sau, năm 1450, Bênađinô Siêna được đức thánh cha Nicôla V tôn phong hiển thánh.

    Thánh Bênađinô Siêna đã thực sự quan tâm đến mọi người. Thánh nhân đã dùng tất cả nghị lực và niềm vui của mình để phục vụ Đức Chúa Giêsu và làm cho người ta yêu mến Thánh Danh Chúa. Chúng ta cũng hãy năng cầu xin “Thánh Danh Chúa Giêsu.” 

(Nguồn: dongten)

From: Do Dzung

*****************************

Chúc Tụng Danh Chúa – Thánh Vịnh 144

Cuộc đời của Carlo Acutis, chân phước trẻ nhất thiên đàng vào đầu thiên niên kỷ mới – Marta An Nguyễn dịch

Nguon: Giaophanhatinh.com

Marta An Nguyễn dịch

Đôi nét về chân phước Carlo Acutis

03.5.1991: Sinh tại London cha mẹ là ông Andrea Acutis và bà Antonia Salzano người Ý

18.5.1991: Rửa tội

9.1991: về Milan với gia đình.

9.1995: Học mẫu giáo

9.1997: Vào trường tiểu học Thánh Carlo ở Milan

1.1998: Carlo đổi trường, học trường tiểu học các sơ Dòng Marcelline, Piazza Tommaseo ở Milan

16.6.1998: rước lễ lần đầu ở nhà thờ Romites de Perego

9.2002: Vào trường trung học các sơ Dòng Marcelline, Piazza Tommaseo

10.2002: Tham gia dạy giáo lý ở giáo xứ

24.5.2003: thêm sức ở nhà thờ Saint-Marie-Secrète

2004: Làm trang web Các Phép lạ Thánh Thể

9.2005: vào trường lixê “cổ điển” Viện Lêô XIII

2.2006: Carlo đi chuyến đi cuối cùng đến Fatima

11.10.2006: não ngưng hoạt động ở bệnh viện Thánh Geraldo di Monza

12.10.2006: Tim ngưng đập lúc 6h45 sáng. Tuyên bố chính thức qua đời sau khi tim ngừng đập

2007: Chuyển các thánh tích của Carlo về nghĩa trang Assisi

12.10.2012: Mở án phong chân phước và phong thánh ở tổng giáo phận Milan

13.5.2013: tuyên bố “không có gì ngăn trở” nihil obastat của bộ Phong thánh

24.11.2016: Kết thúc án phong thánh ở địa phận Milan

06.4.2018: chuyển thánh tích từ nghĩa trang Assisi về Đền thánh Dépouillement

23.6. 2018: thi thể Carlo còn nguyên khi khai quật

05.7.2018: Đức Phanxicô công nhận các đức tính anh hùng của Carlo. Carlo được Giáo hội phong là “bậc đáng kính”

14 tháng 11.2019: Bộ Phong thánh xác nhận một phép lạ do cầu bàu với Carlo

21.2.2020: Đức Phanxicô xác nhận tính đích thực của phép lạ và tuyên bố sẽ phong chân phước cho Carlo.

10.10 2020: Lễ phong chân phước cho Carlo ở Assisi

Gương mặt trẻ trung của chân phước Carlo Acutis

Thiên hướng tự nhiên hướng về thiêng liêng.

Khi ba tuổi rưỡi, Carlo xin vào nhà thờ để chào Chúa Giêsu. Tại các công viên ở Milan, Carlo hái hoa tặng Đức Maria.

Trong những chuyến đi với cha mẹ, đến thành phố nào Carlo cũng tìm nhà thờ để đi lễ và chầu Thánh Thể. Đó là điều cần thiết của Carlo.

Thiên tài máy tính, Carlo có năng khiếu của một bậc thầy

Acutis đã tự học viết mã khi còn học tiểu học, trước khi sử dụng kỹ năng của mình để tạo trang web cho các tổ chức Công giáo cũng như trang web liệt kê các phép lạ.

Sớm phát triển về mọi mặt, lúc 6 tuổi, Carlo tự học viết mã khi còn học tiểu học.

Niềm vui thiên đàng

Carlo hãnh diện mang huy hiệu “nhà khoa học máy tính khoa học” đi quanh nhà. Năm 9 tuổi, viết lập trình điện tử bằng sách vở ở thư viện Viện Bách khoa và dùng máy tính và web để truyền bá Phúc Âm. Carlo dùng kỹ năng của mình để tạo trang web cho các tổ chức công giáo.

Carlo là chứng nhân sáng ngời của Tin Mừng trong suốt 15 năm sống của anh (1991-2006).

Cuộc đời ngắn ngủi nhưng mãnh liệt, Carlo chết vì căn bệnh bạch cầu đến như vũ bão, nhưng 14 năm sau, khi khai quật, thi thể của Carlo vẫn giữ nguyên chiều cao 1,82 m và cân nặng 70 kílô. Carlo có trực giác về cái chết sớm của mình, bà Antonia, mẹ của Carlo tìm trong máy tính của em dòng chữ: “Khi tôi cân nặng 70 kí, tôi sẽ chết,” bà Marie Duhamel, nhà báo của Vatican News khi đưa tin về lễ phong chân phước ngày 10 tháng 10 năm 2020 cho biết chi tiết trên.

Cơ thể Carlo có cùng trọng lượng 70 kílô 14 năm sau.

Bà Antonia Salzano tâm sự với báo Corriere della vào đầu năm 2021: “Carlo có thiên hướng bẩm sinh về thiêng liêng.”

Hồng y Vallini nói trong lễ phong chân phước: “Carlo đã dùng Internet để phục vụ Tin Mừng, đến với càng nhiều người càng tốt.

Internet không phải là nơi trốn chạy mà là nơi gặp gỡ, chia sẻ và tôn trọng lẫn nhau. Carlo không là nô lệ của máy tính và từ chối hành vi quấy rối trên mạng.”

Từ ngày được rước lễ lần đầu trở đi, Carlo chưa bao giờ bỏ lễ hàng ngày: “Luôn kết hợp với Chúa Giêsu, đó là mục tiêu của cuộc đời tôi.” Với Carlo, hiệp thông là con đường dẫn đến Thiên đàng. Sau thánh lễ, Carlo chầu Thánh Thể và xưng tội hàng tuần.

Chân phước Carlo Acutis

Năm 2006, Carlo Acutis qua đời khi mới 15 tuổi, 14 năm sau được lên hàng các Chân phước và Các Thánh của Giáo hội công giáo, lễ phong chân phước cử hành ở vương cung thánh đường Thánh Phanxicô, Assisi ngày 10 tháng 10 năm 2020. Đây là chặng cuối trước khi được phong thánh.

Giám mục Assisi giải thích, thi hài của chân phước Carlo Acutis không “nguyên vẹn”, nhưng  một số cơ quan “còn nguyên”, có nghĩa thi thể trải qua quá trình phân hủy bình thường, nhưng các cơ quan vẫn còn nguyên. Khi chết, Carlo bị xuất huyết não nên phải tái tạo lại khuôn mặt.

Giám mục giáo phận Assisi giải thích, theo một cách nào đó, khuôn mặt “trẻ trung” của Carlo được giữ lại. Còn trái tim, bây giờ được xem là thánh tích và được lưu giữ ở vương cung thánh đường Thánh Phanxicô Assisi, gần vị thánh mà Carlo kính mến.

Niềm vui thiên đàng!

Lần đầu tiên trong thiên niên kỷ mới, một thiếu niên Ý phi thường này, người trẻ nhất thời, người đam mê mạng xã hội như rất nhiều các bạn trẻ khác hiện nay, người đã được Chúa ở cùng để thành ngọn hải đăng chiếu sáng, thành đôi mắt của Ngài để hướng mọi người đến với Chúa “Đấng Cứu Rỗi, Sức mạnh của tôi” như Carlo tâm sự.

Các phép lạ của Carlo Acutis  

Phép lạ phong chân phước

Ngày 16 tháng 6 năm 1998, Carlo rước lễ lần đầu, từ đó Carlo đi lễ mỗi ngày, không ngày nào bỏ lễ, em nói: “Luôn kết hợp với Chúa Giêsu, đó là mục tiêu đời con.” Với Carlo, hiệp thông với Chúa là con đường dẫn đến Thiên đàng. Sau thánh lễ, Carlo chầu Thánh Thể. Carlo xưng tội hàng tuần.

Lời cầu nguyện của Carlo với Đức Mẹ đã giúp Pompei đã giúp một phụ nữ được lành bệnh. Nhưng phép lạ để phong chân phước là phép lạ chữa lành cho em bé Matheus người Brazil 4 tuổi, sinh ra với dị tật tuyến tụy nên em không thể ăn thức ăn đặc được.

Ngày 12 tháng 10 năm 2013, cha xứ Marcelo Tenorio xin giáo dân  làm tuần cửu nhật cầu nguyện cho em. Cha đắp một mảnh áo len của Carlo lên cho em bé. Ngày hôm sau em bắt đầu ăn. Kết quả chụp MRI cho thấy tuyến tụy của em trở lại bình thường. Một chữa trị tức thời, trọn vẹn và lâu dài mà khoa học không thể giải thích được.

Mẹ của Carlo kể hai phép lạ: Chín ngày sau khi Carlo qua đời, một phép lạ được chứng thực ở Mêxicô, Tixtla: Mình Thánh chảy máu. Nhóm máu AB giống như khăn liệm thành Turin, phép lạ ở Lanciano, nước Ý và tế bào tim. Máu “tươi” vẫn còn bốn năm sau.

Ngày 12 tháng 10 năm 2008, hai năm sau ngày Carlo qua đời, ở Sokolka, Ba Lan, một Mình Thánh đã rơi xuống đất khi rước lễ và được cất giữ trong két sắt, vài ngày sau Mình Thánh biến thành tế bào tim có nhóm máu AB.

Carlo và gia đình 

Carlo nói trước với mẹ: “Con sẽ cho mẹ nhiều dấu hiệu và mẹ sẽ làm mẹ lại.”

Khi bà Antonia 43 tuổi, năm 2010 bà sinh đôi hai cháu Michele và Francesca. Khi con qua đời, bà đọc lời cầu nguyện của ông Gióp: “Chúa đã ban cho, Chúa lại lấy đi. Vinh danh Chúa!” Bà nói: “Con cái chúng ta không thuộc về chúng ta, chúng được giao cho chúng ta. Tôi cảm thấy Carlo hiện diện nhiều hơn khi em còn sống. Tôi thấy những điều tốt Carlo làm ở Đền thánh Spogliazione ở Assisi.

Thánh tích đựng đựng trái tim nguyên vẹn của chân phước Carlo Acutis, có khắc dòng chữ: “Bí tích Thánh Thể, con đường dẫn tới thiên đàng của tôi”.

Bạn của Chúa Giêsu, Carlo Acutis mở đường cho một thế hệ các thánh mới.

Hồng y Vallini nói trong thánh lễ phong chân phước Carlo

Thánh Phanxicô và Carlo Acutis là hai người kết hợp với Thiên Chúa, Bí tích Thánh Thể, tình yêu Đức Maria, lần hạt Mân Côi mỗi ngày, tình yêu cho người nghèo, sống theo Tin Mừng và Carlo mong muốn được an nghỉ ở Assisi.

Hồng y Vallini cho biết, Carlo thể hiện sự trưởng thành lớn lao của kitô giáo, kích thích và khuyến khích chúng ta tôn trọng đời sống đức tin.

“Có điều gì đặc biệt ở cậu bé chỉ mới mười lăm tuổi này?”

“Đây là một thiếu niên bình thường, giản dị, tự nhiên, thân thiện, yêu thiên nhiên và động vật, chơi bóng đá, có nhiều bạn bè cùng tuổi, đam mê máy tính. Carlo có mối quan hệ cá nhân, thân mật và sâu sắc với Chúa Giêsu, Đấng là Bạn, Thầy, Đấng Cứu Độ, sức mạnh của cuộc đời và là mục tiêu của tất cả các việc Carlo làm. Carlo dựa vào năng lực của Chúa để làm điều tốt cho người khác.”

Hồng y Vallini giải thích: “Carlo có một mong muốn mãnh liệt làm cho Chúa Giêsu được càng nhiều người biết đến càng tốt. Trước hết qua gương sống của mình, ở mọi nơi, mọi ngày, một cách tự phát, ngay cả khi điều đó có nghĩa là phải đối diện với những hiểu lầm, trở ngại và có bị chế nhạo.”

Carlo phục vụ người nghèo ở nhà các nữ tu Mẹ Têrêxa và Dòng Capuxinô. Buổi tối, Carlo ra ngoài mang thức ăn đồ uống nóng cho người vô gia cư. Với tiền túi, Carlo mua túi ngủ cho họ, giúp những người có hoàn cảnh khó khăn trong khu vực của mình. Carlo cũng la thiện nguyện viên ở bếp nấu súp ở thành phố Milan. Carlo cùng đi với Rajesh Mohur, người giúp việc, và Rajesh đã trở lại đạo, ông là người Ấn Độ theo đạo hinđu.

Carlo thấy khuôn mặt của Chúa Giêsu nơi khuôn mặt của những người bị gạt ra ngoài lề xã hội. Hồng y Vallini giải thích: “Carlo không bao giờ thu mình vào chính mình. Carlo có cuộc sống tươi sáng, hoàn toàn được trao tặng cho người khác, giống như bánh Thánh Thể”.

Carlo làm chứng cho đức tin của mình trước mặt giới trẻ.

Đặc biệt tại Hoa Kỳ, 10.000 giáo xứ đã tổ chức triển lãm của Carlo. Lộ trình Thánh Thể đi vòng quanh thế giới, đến các thánh địa như Fatima, Lộ Đức, Guadalupe.

Điều có vẻ đáng kinh ngạc là với một chiếc máy tính tương đối lỗi thời, Carlo đã đến với hàng ngàn người trên khắp các châu lục, đưa “Chúa Giêsu lên mạng” qua một cuộc triển lãm về các phép lạ. Và chàng trai trẻ người Ý đã làm trang web với hơn một trăm phép lạ Thánh Thể kèm theo hình ảnh và mô tả. Carlo nghiên cứu hai năm để làm công trình này và đi nhiều nước, với sự trợ giúp của cha mẹ cuối cùng làm cuộc triển lãm 136 phép lạ Thánh Thể được Giáo hội công nhận.

Chúa Giêsu “đang trực tuyến”: 136 phép lạ Thánh Thể trong Giáo Hội

Carlo là “người có ảnh hưởng” của Chúa, em làm việc trên các trang web cho các tổ chức công giáo địa phương.

Trên trang Hozana: “Kể từ khi phong chân phước cho Carlo ngày  10 tháng 10 năm 2020, chúng tôi có một người bạn mới trên Thiên đàng. Trong những thời điểm khó khăn này, Carlo đến soi một chút ánh sáng vào bóng tối của chúng tôi.”

Thần học gia Éric Lauture, Trois-Rivières, Québec, Canada: “Carlo Acutis băng qua bầu trời Giáo hội như một thiên thạch.”

Nhà báo, nhà văn Michel Cloutier, Trois-Rivières, Quebec: “Carlo Acutis là mẫu mực của thế giới chúng ta trên đường đi tìm Chúa! Từ nay trở đi, tôi làm theo Carlo: đi lễ, chầu Thánh Thể hàng ngày, xưng tội hàng tháng. Đó là xa lộ lên Thiên đàng!”

Ông Enzo Fortunato, người phát ngôn của Giáo hội nói trên France-Presse: “Những người trẻ có lẽ đã mệt mỏi với mục vụ dù mục vụ có rất nhiều cố gắng, nhưng hơi lạc hậu với thời đại. Nhưng Chúa can thiệp vào lịch sử và các vấn đề của con người và ban cho chúng ta những ánh sáng mới hướng dẫn này”.

Lời cầu nguyện với Carlo Acutis

“Lạy Thiên Chúa là Cha của chúng con, Chúa đã ban cho chúng con lời chứng nhiệt thành của Chân phước trẻ Carlo Acutis, người đã lấy bí tích Thánh Thể làm trọng tâm đời sống và sức mạnh để một lòng một dạ dấn thân làm cho người khác yêu mến Chúa trên hết mọi sự.

Chúng con tạ ơn Cha vì đã nâng Carlo Acutis lên hàng các Chân Phước và Các Thánh trong Giáo Hội của Chúa. xin Chúa củng cố đức tin của con, thêm hy vọng cho con, thêm sinh lực cho lòng bác ái của con, theo gương Carlo, người thấm nhuần những nhân đức này và hiện đang ở với Chúa.

Xin ban cho con ơn … Con trông cậy vào Cha, Cha của con, vào Chúa Giêsu dịu dàng của con, vào quyền năng Chúa Thánh Thần; con phó mình cho Đức Trinh Nữ Maria, Người Mẹ dịu hiền của chúng con và cho lời cầu bàu của Carlo Acutis.”

Các câu nói tiêu biểu của chân phước Carlo Acutis

Những câu nói tiêu biểu của chân phước Carlo Acutis

Câu Carlo thích nói: “Mọi người sinh ra đều là bản gốc, nhưng một số người chết như bản sao.”

  1. Mục tiêu của chúng ta phải là vô hạn, không phải hữu hạn. Vô tận là tổ quốc của chúng ta. Chúng ta luôn được mong chờ ở Nước Trời.
  2. La bàn của chúng ta phải là Lời Chúa, chúng ta phải liên tục dùng la bàn này.
  3. Thánh Thể là xa lộ lên thiên đàng. Càng hiệp thông, chúng ta càng trở nên giống Chúa Giêsu và ngay trên trái đất này, chúng ta sẽ nếm trước thiên đàng… Nếu tất cả chúng ta đến với bí tích Thánh Thể mỗi ngày, chúng ta đi thẳng đến thiên đàng… Khi đứng trước mặt trời, chúng ta rám nắng. Khi chúng ta đặt mình trước Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng ta nên thánh.
  4. Nếu con người biết sự sống đời đời là gì, họ sẽ làm mọi cách để thay đổi cuộc đời… Hoán cải không gì khác hơn là hướng cái nhìn từ thấp lên cao, chỉ cần một ánh mắt là đủ.
  5. Luôn kết hiệp với Chúa, đó là chương trình sống của tôi. Tìm kiếm Chúa, và bạn sẽ tìm thấy ý nghĩa cuộc đời mình. Mọi thứ đều trôi qua. Điều thật sự làm chúng ta đẹp lòng Chúa là cách chúng ta yêu Ngài và cách chúng ta yêu người anh em.
  6. Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu Kitô là người, trong mọi việc, tìm cách noi gương Ngài và làm theo ý Ngài.

Nếu các linh hồn thực sự có nguy cơ tự lên án mình, như nhiều thánh đã làm chứng và những lần Đức Mẹ hiện ra ở Fatima đã xác nhận, tôi tự hỏi vì sao bây giờ người ta gần như không bao giờ nói đến ‘địa ngục’, vì đó là một điều khủng khiếp và đáng sợ đến mức tôi không dám nghĩ đến. Trên bàn ăn gia đình, Carlo nói với cha mẹ: ‘Cha mẹ có nhận ra ý nghĩa của việc đời đời ở trong hỏa ngục không?… đời đời, mãi mãi, vĩnh viễn…’ Carlo không tìm được niềm an ủi nào ngoài cầu nguyện và lần hạt. Điều duy nhất chúng ta thực sự phải sợ là tội lỗi.

7. Carlo nói với bạn bè: “Thánh thiện không phải là tập hợp các nhân đức… Thánh thiện là bước đi trong sự hiện diện của Thiên Chúa và luôn hoàn thiện, sống trong gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô.

8. Con người chỉ quan tâm đến sắc đẹp bên ngoài của thể xác mà quên vẻ đẹp của tâm hồn. Vẻ đẹp cơ thể sẽ mất đi ngay lập tức, thời gian sẽ không tha, thời gian sẽ thắng. Không có gì còn lại của nét đẹp cơ thể, vun đắp vẻ đẹp tinh thần, nó không hề tàn phai mà luôn tồn tại.

9. Lỗi lầm dù nhỏ nhất cũng làm chúng ta bám chặt vào thế gian, giống như quả bóng bay nhỏ được giữ chặt nhờ sợi chỉ chúng ta nắm chúng trong tay. Để bay lên cao, khinh khí cầu phải trút bỏ sức nặng, linh hồn muốn bay lên cao cần phải trút bỏ ngay cả những gánh nặng nhỏ nhất là tội nhẹ…

10. Chúng ta phải đấu tranh để hoán cải. Tính xấu là gánh nặng ngăn cản tâm hồn chúng ta lớn lên trong đời sống thiêng liêng (Êphêsô 6:12). Bản thân chúng ta giống như bức tường, nếu chúng ta không phá bỏ bức tường, Chúa sẽ không vào được để ban ơn cho chúng ta.

11. Không phải “tôi”, mà là Thiên Chúa, vì mọi hành vi bất tuân đều là hành vi kiêu ngạo.

12. Kể từ khi sinh ra, số phận trần thế của chúng ta đã được viết sẵn: tất cả chúng ta đều được kêu gọi lên Đồi Gôngôta để vác thập giá của mình.

13. Buồn bã là hướng về mình, hạnh phúc là hướng về Chúa; điều duy nhất chúng ta thực sự phải sợ là tội lỗi. Không có Ngài, tôi không thể làm gì được.

14. Con xin dâng mọi đau đớn con phải chịu cho Chúa, cho giáo hoàng, cho Giáo hội, để con được lên thiên đàng, tránh khỏi luyện ngục.

15. Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu Kitô là người, trong mọi việc, tìm cách bắt chước Ngài và làm theo ý Ngài. Chỉ những ai làm theo ý Ngài mới thực sự được tự do. Ích gì nếu chúng ta chiến thắng hàng ngàn trận chiến, nhưng không chiến thắng được mình.

16. Một cuộc đời chỉ thực sự đẹp nếu chúng ta biết kính Chúa và yêu người như mình vậy. Chỉ trích Giáo hội là chỉ trích chính chúng ta! Giáo Hội là người ban kho báu cho sự cứu rỗi của chúng ta.

17. Tình yêu Đức Mẹ dành cho chúng ta mang lại cho tôi niềm hy vọng lớn lao. Còn ai ngoài Đức Mẹ dạy cho chúng ta mật thiết hơn với Ba Ngôi Thiên Chúa Ba. Sau bí tích Thánh Thể, chuỗi Mân Côi là vũ khí mạnh nhất để chống ma quỷ. Chuỗi Mân côi là con đường ngắn nhất để lên thiên đàng.

18. Thánh hóa không phải là bài toán cộng, nhưng là bài toán trừ: bớt “chỗ của tôi” để dành chỗ cho Chúa.

19. Đời sống là món quà vì chừng nào chúng ta còn sống trên hành tinh này, chúng ta còn thì giờ để làm thêm việc bác ái. Đức bác ái càng cao thì chúng ta càng được hưởng đời sống vĩnh cửu trong Chúa.

20. Tôi chết thanh thản vì tôi không lãng phí một giây phút nào vào những chuyện không đẹp lòng Chúa.

Marta An Nguyễn dịch
Trang web chính thức của Carlo Acutis: http://www.carloacutis.com/


 

Thánh Isidore (1070-1130)-Cha Vương

Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Isidore. (St. Isidore of Madrid, 1070-1130) Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé. Xin thánh nhân chuyển cầu cho chúng con được sống thánh giữa đời.

Cha Vương

Thứ 5: 15/05/2025

Thánh Isidore là quan thầy của các nông dân và làng quê. Ðặc biệt, ngài là quan thầy của Madrid, Tây Ban Nha, và của Hội Nghị Ðời Sống Công Giáo Thôn Quê Hoa Kỳ.

     Khi lớn tuổi, ngài làm công cho gia đình ông Gioan de Vergas, một địa chủ giầu có ở Madrid, và trung thành làm việc cho đến mãn đời. Isidore kết hôn với một thiếu nữ đạo đức và chính trực mà sau này bà được tuyên xưng là thánh Maria de la Cabeza. Hai người có được một con trai nhưng chẳng may cậu chết sớm. Cả hai ông bà tin rằng ý Chúa không muốn hai người có con, do đó họ quyết định sống khiết tịnh cho đến suốt đời.

     Isidore là người đạo đức thâm trầm bẩm sinh. Ngài thức dậy từ sáng sớm để đi lễ và dành thời giờ trong những dịp lễ lớn để đi viếng các nhà thờ ở Madrid và vùng phụ cận. Trong khi làm việc, ngài luôn chuyện trò với Thiên Chúa. Khi bị các đồng nghiệp cho rằng ngài trốn tránh nhiệm vụ qua việc tham dự Thánh Lễ hằng ngày, lấy nhiều thời giờ để cầu nguyện, v.v…,

     Isidore trả lời rằng ngài không còn lựa chọn nào khác hơn là tuân theo Ông Chủ tối cao. Truyền thuyết kể rằng, một sáng kia khi ông chủ đến cánh đồng để bắt quả tang Isidore trốn việc đi nhà thờ, ông thấy các thiên thần đang cầy cấy nơi khu ruộng của Isidore.

     Isidore còn nổi tiếng là thương người nghèo và cũng thường để ý đến việc chăm sóc loài vật. [Chuyện kể có lần giáo xứ tổ chức tiệc. Isidore đến nhà thờ sớm để cầu nguyện. Vì lý do đó ông đến hội trường muộn, đã vậy ông còn kéo thêm một nhóm người ăn xin nữa. Các giáo dân tỏ vẻ phẫn nộ vì sợ không có đủ thức ăn cho tất cả những người ăn xin đó thì sao? Nhưng trong khi phân phát đồ ăn thì họ thấy đồ ăn càng nhiều thêm đến độ đủ thức ăn cho mọi tất cả mọi người. Thánh Isidore tế nhị giải thích: “Chúa chăm sóc cho những người nghèo của Ngài đó”]

     Isidore từ trần ngày 15 tháng Năm 1130, và được phong thánh năm 1622, cùng với các Thánh I-nhã, Phanxicô Xaviê, Têrêsa và Philip Nêri.

 Lời Bàn: Chúng ta có thể tìm thấy nhiều sự ứng dụng nơi vị lao công thánh thiện này: Công việc lao động có phẩm giá; sự thánh thiện không bắt nguồn từ địa vị xã hội; sự chiêm niệm không lệ thuộc vào học thức; đời sống thanh bạch là con đường dẫn đến sự thánh thiện và hạnh phúc. 

(Nguồn: GP Vĩnh Long)

***************************

Nên Thánh Giữa Đời ( Sr Têrêsa / Ca sĩ Xara Trần)

Thánh Mát-thi-a, Tông đồ—thế kỷ thứ 1- Cha Vương

Chúc bình an đến bạn và gia đình, hôm nay Giáo Hội mừng kính trọng thể thánh Mát-thi-a, Tông đồ—thế kỷ thứ 1 (St. Matthias the Apostle). Mừng quan thầy đến những ai chọn ngài làm bổn mạng nhé.

Cha Vương

Thứ 4, 4PS: 14/05/2025

Theo Tông Ðồ Công Vụ 1:15-26, sau khi Ðức Giêsu Lên Trời, các tông đồ cần phải tìm người thay thế cho Judas Iscariot. Với tất cả những bàng hoàng chưa thông hiểu, những nguy hiểm đang phải đương đầu, tại sao các ngài lại chú ý đến việc tìm vị tông đồ thứ mười hai? Số mười hai là con số quan trọng cho Dân được chọn: mười hai là con số của mười hai chi tộc Israel. Nếu một Israel mới phát sinh từ các môn đệ của Ðức Kitô, thì cần phải có mười hai tông đồ. Nhưng biết ai để mà chọn?

        Khi Thánh Phêrô đứng lên đề nghị phương cách chọn lựa, lúc ấy có một trăm hai mươi người đang tụ tập cầu nguyện. Thánh Phêrô biết rằng người được chọn phải là người đã theo Ðức Kitô từ ban đầu—từ lúc Ngài chịu thanh tẩy bởi Gioan Tẩy Giả cho đến khi Lên Trời. Lý do thật dễ hiểu, tông đồ phải là người theo Ðức Kitô trước khi bất cứ ai biết đến, phải trung thành với Ngài dù có những khó khăn và đã chứng kiến sự phục sinh của Ðức Kitô.

        Có hai vị hội đủ điều kiện – Matthias và Giuse Barsabbas. Các tông đồ biết hai vị này đã từng ở với họ và ở với Ðức Kitô trong suốt thời gian Ngài thi hành sứ vụ. Nhưng ai thực sự quyết tâm làm nhân chứng cho sự phục sinh của Ðức Kitô. Chỉ có Thiên Chúa mới biết được điều đó. Và các tông đồ đã cầu nguyện và bỏ phiếu. Người được chọn là ông Matthias, là người được thêm vào nhóm Mười Hai thay Judas Iscariot.

        Theo một tương truyền Hy Lạp, thánh nhân giảng đạo ở Capadoce và bị ném đá chết tại Colchis năm 80 AD; xác thánh nhân được chôn ở Jerusalem. Thánh tích còn tại nguyện đường tu viện ở Triers, phần khác do thánh nữ Helene đưa về La Mã tại Đền Thánh Đức Bà cả. Ðó là tất cả những gì chúng ta được biết về Thánh Matthias.

Lời Bàn: Ðức Clêmentê ở Alexandria nói rằng Thánh Matthias, cũng như tất cả các tông đồ khác, được Ðức Kitô chọn không phải vì họ tốt lành, nhưng vì Ðức Kitô đã thấy trước con người tương lai của họ. Các ngài được chọn không phải vì sự xứng đáng nhưng vì các ngài sẽ trở nên người xứng đáng. Ðức Kitô cũng chọn chúng ta giống như vậy. Thử nghĩ xem Ðức Kitô muốn bạn trở nên một người như thế nào? [Chính những gì bạn làm ngay bây giờ sẽ quyết định tương lai của bạn đó.]

 (Nguồn: Người Tín Hữu) 

From: Do Dzung

*************************

Đường con theo Chúa -tinmung.net

Thánh Đamien (1840-1873)- Cha Vương

Chúc bình an đến bạn và gia đình nhé. Hôm nay Giáo Hội Hoa Kỳ mừng kính Thánh Đamien, vị anh hùng của người Hawaii. Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy.

Cha Vương

Thư 7: 10/05/2025-24

Cha Đamien của hòn đảo Molokai, Hawaii,  tên là Joseph de Veuster sinh tại Tremelo, Bỉ vào ngày 3 tháng 1 năm 1840. Khi anh của ngài vào tu dòng Thánh Tâm, cha của Ngài chuẩn bị để Ngài nối nghiệp buôn bán của gia đình. Tuy nhiên, Ngài quyết định hiến thân mình cho Chúa. Năm 1859, Ngài vào tu tại một chủng viện ở Louvain và lấy tên là Đamien.

    Năm 1863, anh của Ngài được sai đi truyền đạo ở quần đảo Hawaii nhưng không may bị bệnh rất nặng. Đamien xin bề trên và được phép đi thay cho anh của mình. Ngài đến Honolulu vào ngày 19 tháng 3 năm 1864 và được phong chức linh mục vào ngày 21 tháng 5 năm 1864. Ngài được sai đến Big Island để bắt đầu công việc của một vị linh mục.

    Vào thời gian đó, chính quyền Hawaii quyết định ngăn chặn sự lây lan của bịnh cùi bằng cách trục xuất những người bị nghi ngờ là mắc bệnh cùi tới Kalaupapa trên hòn đảo Molokai – một nơi rất xa xôi và hẻo lánh được bao quanh với núi và biển. Những người bị bỏ rơi này xin được có một bậc tu trì đến để giúp đỡ họ về những nhu cầu tinh thần. Đức Cha Louis Maigret nói cho các cha nghe về vấn đề này và có vài cha xung phong đi trong vòng vài tháng. Cha Đamien là người đầu tiên ra đi vào ngày 10 tháng 5 năm 1873. Với lời xin của Ngài và của những người cùi ở Kalaupapa, Ngài đã ở lại Molokai.

Ngài đã mang những tia hy vọng tới chốn địa ngục đầy thất vọng này. Ngài đã trở thành nguồn an ủi và sự khuyến khích cho đàn chiên của ngài bằng cách trở thành vị bác sĩ cho linh hồn và thể xác của họ không kể sắc tộc và màu da. Ngài đã trở thành tiếng nói của những người câm và xây dựng một cộng đoàn nơi những người cùi tìm ra những lý do mới để sống. Một nơi không luật pháp đã trở thành một nơi thống trị bởi luật yêu thương.

    Sau khi Ngài bị nhiễm bệnh cùi vào năm 1885, cha Đamien đã có thể cảm thông hoàn toàn với những bệnh nhân cùi. Ngài thường nói, “Chúng ta, những người cùi”. Cha Đamien trở thành một chứng nhân tình yêu của Chúa cho mọi người. Sức mạnh của Ngài đến từ Thánh Thể như chính Ngài đã viết: “Chính nơi chân bàn thờ là nơi chúng ta có thể tìm thấy sức mạnh chúng ta cần khi bị bỏ rơi . . .” Chính nơi này Ngài đã tìm ra sức mạnh và sự khuyến khích để phục vụ anh chị em cùi. Vì những tia hy vọng và sự âm thầm phục vụ người là “vị truyền giáo hạnh phúc nhất trên thế gian”, và là một đầy tớ trung thành của Chúa và nhân loại.

    Cha Đamien đã qua đời ngày 15 tháng 4 năm 1889 sau 16 năm sống và phục vụ giữa những bệnh nhân cùi. Xác Ngài đã được chuyển về Bỉ năm 1936 nơi người được chốn cất trong nhà dòng Thánh Tâm tại Louvain. Ngài đã được biết đến khắp thế giới. Năm 1938, quá trình xin phong cho Ngài làm Á Thánh được giới thiệu tại Malines, Bỉ. Đức Giáo Hoàng Phaolô thứ VI đã kí nghị định “anh hùng của sự trinh tiết và thương yêu” vào ngày 7 tháng 7 năm 1977.

    Qua Cha Đamien, Giáo Hội có một tâm gương cho những người tìm được ý nghĩa trong Kinh Thánh và cho những người mong ước đem Tin Mừng của Chúa đến cho người nghèo. Năm 1955, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong Cha Đamien làm Á Thánh tại Burssels. Vào ngày 11 tháng 10 năm 2009, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI phong thánh cho Ngài. Ngày mừng kính thánh Đamien là ngày 10 tháng 5 hằng năm.

    Hai Phép lạ đã được Tòa Thánh công nhận là do lời cầu xin của Chân Phước Damien:

(1) Ngày 13 tháng sáu, 1992, ĐGH Gioan Phaolô II công nhận Phép lạ xẩy ra năm 1895 cho một Nữ tu người Pháp, tên là Simplicia Hue, nằm chờ chết vì bịnh ruột. Nhờ làm tuần 9 ngày cầu xin Cha Damien cứu chữa, nên qua một đêm, liền hết bịnh.

(2) Phép lạ thứ hai xẩy đến cho một phụ nữ người Hawai’i bị ung thư, tên là Audrey Toguchi. Năm 1997, bà được Bác sĩ Walter Chang cho biết: chứng ung thư tế bào đã lan khắp chân, và phổi. Không thể chữa lành được. Và hồ sơ bệnh trạng được lưu trữ tại ”Hawaii’i medical Journal, October 2000”.  Toà Thánh đã công nhận là hai phép lạ thật, và cần thiết để ĐGH Benêđitô 

XVI tuyên bố Chân Phước Damien lên bậc Hiển Thánh.

From: Do Dzung

*********************

Đừng Bỏ Con Chúa Ơi – Sáng tác: Lm Nguyễn Văn Tuyên – Trình bày: Linh Nhí

2 thánh Tông Đồ Philipphê và Giacôbê – Cha Vương

Chúc bình an đến bạn và gia đình. Hôm nay 3/5 Giáo Hội mừng kính trong thể 2 thánh Tông Đồ Philipphê và Giacôbê. Mừng bổn mạng đến những ai chọn các ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thứ 7: 03/05/2025

Thánh Philipphê là người xứ Bethsaida. Ông là một trong những người đầu tiên được Đức Giêsu kêu gọi. Chính ông đã mách cho Nathanael Tin mừng lớn lao này: “Đấng mà sách luật Môsê và các ngôn sứ nói tới, chúng ta đã gặp. Đó là ông Giêsu, người Nazareth”. Thấy bạn mình còn hoài nghi, ông đã giục: “Cứ đến mà xem”. Nathanael sau khi đã gặp Đức Giêsu và nghe Ngài nói thì đã tin. Philipphê đã xuất hiện nhiều lần trong Phúc âm: Lúc Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều; làm trung gian cho những người ngoại giáo muốn gặp Đức Giêsu. Philipphê cũng là người đã xin Đức Giêsu: “Lạy Ngài, xin chỉ cho chúng con thấy Cha, thế là đủ cho chúng con”. Người ta nghĩ rằng ông đã đem Tin mừng đến cho người Scythen sau ngày lễ Ngũ tuần và chết rất thọ ở Hiérapolis, tại Phrygie.

    Còn thánh Giacôbê mà chúng ta mừng kính hôm nay là Giacôbê hậu, con ông Alphê. Gọi là Giacôbê hậu để phân biệt với Giacôbê tiền, là con của ông Dêbêđê. Phân biệt này không mang ý nghĩa gì khác ngoài việc tránh sự nhầm lẫn. Khoa Thánh Kinh còn nghi ngờ không biết có phải Giacôbê hậu này có phải là “anh em của Đức Giêsu” và là tác giả của lá thư Giacôbê hay không? Nhưng Phụng vụ Rôma lại có sự đồng hoá và xác nhận. Trước khi các Tông đồ tản mác mỗi người một nơi, thì họ chỉ định thánh Giacôbê làm Giám mục Giêrusalem. Ngài là linh hồn của cộng đoàn Giêrusalem. Vì ngài đã làm cho nhiều người trở lại với Đức Giêsu nên bị bản án ném đá. Ngài đã chịu tử đạo đang khi quỳ gối cầu nguyện cho tên lý hình đang kết thúc đời Ngài bằng một thanh sắt giáng xuống trên người, trong thời điểm mừng lễ Vượt Qua. (Theo “Tự điển các thánh”, trang 268-269 và trang 159).

Noi gương thánh Philipphê và thánh Giacôbê, bạn có thể trở thành tông đồ của Chúa qua lối sống hằng ngày của mình hôm nay bằng cách làm những việc nhỏ với một con tim chân thành, với một thái độ cởi mở. Đây là một minh chứng hùng hồn và cụ thể nhất cho đức tin của mình đó. 

Xin thánh Philipphê và thánh Giacôbê, cầu cho chúng con.

From: Do Dzung

**************************

Mai Thảo, Thanh Sử – Hãy Theo Thầy

Thánh A-tha-na-xi-ô  (295- 373) – Cha Vương 

Đêm qua ngủ có ngon không? Đừng có ngáp ngủ nhé. Nếu có ngáp thì hãy thốt lên: “Lạy Chúa xin giúp con…” Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh A-tha-na-xi-ô (296? – 373), Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh. Xin Chúa chúc lành cho bạn và gia đình.

Cha Vương 

Thứ 6, 2PS: 02/05/2025

Cuộc đời Thánh A-tha-na-xi-ô đầy bôn ba vì tận tụy phục vụ Giáo Hội. Ngài là quán quân bảo vệ đức tin đối với sự lan tràn của lạc thuyết Arian. Sự nhiệt huyết của ngài được thể hiện trong các trước tác giúp ngài xứng đáng là Tiến Sĩ Hội Thánh.

    Sinh trong một gia đình Kitô Giáo ở Alexandria khoảng vào năm 295 và được giáo dục kinh điển, A-tha-na-xi-ô gia nhập hàng giáo sĩ và là thư ký cho Ðức Alexander, Giám Mục của Alexandria, và sau đó chính ngài được nâng lên hàng giám mục. Vị tiền nhiệm của ngài, Ðức Alexander, từng là người lớn tiếng chỉ trích một phong trào mới đang bành trướng ở Ðông Phương thời bấy giờ, đó là lạc thuyết Arian, họ khước từ thiên tính của Ðức Kitô và không coi Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa.

    Khi Ðức A-tha-na-xi-ô đảm nhận vai trò Giám Mục của Alexandria, ngài tiếp tục chống với lạc thuyết Arian. Lúc đầu, cuộc chiến dường như dễ dàng để chiến thắng và lạc thuyết Arian sẽ bị kết án. Nhưng thực tế thì trái ngược. Công Ðồng Tyre đã được triệu tập và vì một vài lý do không rõ ràng, Hoàng Ðế Constantine đã trục xuất Ðức A-tha-na-xi-ô đến miền bắc nước Gaul. Ðây là chuyến đi đầu tiên trong một chuỗi hành trình và lưu đầy có nét phảng phất như cuộc đời Thánh Phaolô.

    Khi Constantine từ trần, người con trai kế vị đã phục hồi quyền giám mục của Ðức A-tha-na-xi-ô. Nhưng chỉ được có một năm, ngài lại bị truất phế vì sự liên hiệp của các giám mục theo phe Arian. Ðức A-tha-na-xi-ô đã đệ đơn lên Rôma, và Ðức Giáo Hoàng Julius I đã triệu tập một công đồng để duyệt qua vấn đề và các khó khăn liên hệ.

    Trong bốn mươi sáu năm làm giám mục, ngài đã phải lưu đầy mười bảy năm chỉ vì bảo vệ tín điều về thiên tính của Ðức Kitô. Trong một thời gian, ngài được an hưởng 10 năm tương đối bình an để đọc sách, viết lách và cổ võ lý tưởng của đời sống đan viện mà ngài hết lòng tận tụy.

    Các văn bản và giáo lý của ngài hầu hết là các bài bút chiến, trực tiếp chống lại mọi góc cạnh của lạc thuyết Arian. Trong các văn bản của ngài về đời sống khổ hạnh, cuốn Ðời Sống Thánh Anthony được nhiều người biết đến và góp phần lớn trong việc thiết lập đời sống đan viện trên khắp thế giới Kitô Giáo Tây Phương.

    Sau một cuộc đời đức hạnh và chịu đau khổ gian nan nhưng vẫn trung kiên với Đức Tin Công giáo. Ngài là một vĩ nhân của thời đại đã an nghĩ đời đời trong Chúa vào ngày 2 tháng 5 năm 373. Thánh tích của ngài hiện còn ở San Croce, Venice, nước Ý.

    Thánh A-tha-na-xi-ô được tuyên dương là Tiến sĩ của Hội Thánh do Đức Giáo Hoàng Pius V năm 1568.

LỜI TRÍCH: Những khó nhọc mà Thánh A-tha-na-xi-ô đã phải đau khổ trong khi lưu đầy – trốn tránh, bỏ chạy từ nơi này sang nơi khác – nhắc nhở chúng ta về những gì mà Thánh Phaolô đã đề cập đến trong cuộc đời ngài: “Trong nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, ở sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em; trong vất vả mệt nhọc, qua những đêm không ngủ, qua sự đói khát, thường xuyên phải nhịn ăn uống, qua sự lạnh lẽo và trần truồng. Ngoài những điều này, tôi còn bị ray rứt hằng ngày vì sự ưu tư lo cho tất cả các giáo hội” (2 Corinthians 11:26-28). (Nguồn: Người Tín Hữu online)

Bạn đã và đang làm gì để giữ vững đức tin? Cái giá bạn phải trả là gì?

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã cho thánh giám mục A-tha-na-xi-ô được can đảm đứng lên bênh vực niềm tin của Giáo Hội về thần tính của Đức Ki-tô, Con Một Chúa. Xin nhậm lời thánh nhân chuyển cầu mà ban cho chúng con biết nghe lời người giảng dạy, để ngày càng hiểu biết và yêu mến Chúa hơn. Chúng con cầu xin… 

(Lời nguyện trong kinh Thần Vụ)

From: Do Dzung

*******************************

Con Tin Chúa Ơi – Lm Duy Thiên

Thánh Catarina ở Siena, Tiến Sĩ Hội Thánh (1347-1380) – Cha Vương

Một ngày yêu thương nhiều hơn giận hờn ghen ghét nhé bạn. Hôm nay 29/04 Giáo hội mừng kính thánh Catarina ở Siena, mừng quan thầy đến những ai chọn ngài làm bổn mạng.

Cha Vương

Thứ 3: 29/04/2025

Thánh Catarina ở Siena, Tiến Sĩ Hội Thánh (1347-1380). Tên thật là Catarina Benincasa sinh ngày 25 tháng 3 năm 1347 tại Siena, Tuscany, Ý Đại Lợi và là người con út trong gia đình 25 người con. Ngài là một nữ tu Dòng Đa Minh, một nhà huyền bí nồng nhiệt, một chiến sĩ bảo vệ sự thánh thiện của Giáo Hội Công giáo. Ngài sinh sống trong thế kỷ thứ XIV, một thời kỳ mà Giáo Hội đang gặp phải những khó khăn chia rẽ dường như khó mà hàn gắn được. 

    Ngay từ khi bảy tuổi, cô đã dâng hiến tâm hồn cho Ðức Kitô. Khi lớn lên cô bày tỏ ý muốn đi tu, nhưng gia đình lại muốn cô kết hôn. Ðể nói lên ý chí quyết liệt của mình, cô đã cắt tóc và sau cùng, với sự đồng ý của cha mẹ, Catarina gia nhập tổ chức Mantellate, là hội phụ nữ có liên hệ đến Dòng Ða Minh, họ mặc áo dòng nhưng sống ở nhà, phục vụ người nghèo và người đau yếu. Cô sống ẩn dật trong một căn phòng nhỏ tại gia đình ở Siena. Trong vòng hai năm liên tiếp cô không bao giờ rời phòng, trừ khi đi xem lễ và xưng tội, và cũng không nói chuyện với một ai ngoại trừ cha giải tội. Trong thời gian này, Catarina tập luyện tinh thần qua lối sống khắc khổ. Sau đó, cô tự phá vỡ đời sống cô độc và bắt đầu hăng say chia sẻ công việc trong nhà, săn sóc người bệnh và giúp đỡ người nghèo. Tuy nhiên cô vẫn dành thời giờ trong thinh lặng và chiêm niệm. Dần dà, người ta nhận thấy dường như Thánh Catarina đọc được tâm hồn của họ và dân chúng thuộc đủ mọi thành phần – giầu và nghèo, tu sĩ và giáo dân, thợ thuyền và lính tráng – bắt đầu tuốn đến với ngài để được khuyên bảo. Từ đó một tổ chức tông đồ giáo dân được thành hình. Các lá thư của ngài, hầu hết là các lời khuyên bảo tinh thần và khuyến khích các người mến mộ, ngày càng được công chúng đón nhận. Ngài có ảnh hưởng rất lớn vì sự thánh thiện hiển nhiên. Tất cả công việc ngài thi hành đều được thúc đẩy bởi ngọn lửa tình yêu. Cuộc sống của ngài luôn ẩn náu trong những vết thương của Chúa Kitô bị đóng đinh. Ngài cảm nhận trong thâm sâu của con tim và trong đức tin của ngài, những thảm họa của Giáo Hội và của xã hội ngài đang sống, vẫn còn tiếp tục đóng đinh Chúa Kitô. Ngài đã làm trung gian để đem lại hòa bình giữa các đô thị và giữa các phe nhóm thù nghịch. 

    Một vài tuần trước khi chết, ngài đang cầu nguyện trước một bức khảm ở Ðền Thánh Phêrô, ngài trông thấy con thuyền của Thánh Phêrô như rời khỏi bức khảm và đậu trên vai của ngài. Con thuyền xô ngài ngã quỵ và người ta phải khiêng ngài về nhà. Ngài hầu như bất toại cho đến khi từ trần ngày 29 tháng 4  năm 1380, lúc ấy mới ba mươi ba tuổi. Ngài được Ðức Giáo Hoàng Pius II phong thánh năm 1461, và được coi là một trong những vị thần nghiệm và văn sĩ linh đạo của Giáo Hội. Vào ngày 04 tháng 10 năm 1970, Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI tuyên xưng ngài là Tiến Sĩ Hội Thánh. Ngài là người phụ nữ thứ hai (sau Thánh Têrêsa ở Avila) được vinh dự  này. 

(Tóm lược từ nguồn: Nhóm Tinh Thần)

 Sau đây là những câu nói của ngài:

❦ Phạm tội là con người, nhưng ngoan cố trong tội là ma quỷ.

❦  Đối với các linh hồn hoàn thiện mọi nơi đều là nguyện đường. 

❦ Ta [Thiên Chúa] thương yêu con nhiều hơn con có thể yêu thương bản thân con, và ta ân cần chăm sóc cho con cả ngàn lần hơn con có thể chăm sóc bản thân con. 

❦ Con người được tạo dựng nên do tình yêu, để con người sống cho tình yêu. 

+ Câu nào đánh động bạn nhất?

Xin thánh Catarina thành Siena cầu bầu cho chúng con.

From: Do Dzung

***********************

Tình Yêu Thiên Chúa – Vy Oanh

 Thánh Gianna Molla (1922 – 1962)- Cha Vương

Chào buổi sáng! Hôm nay 28/4, Giáo Hội mừng kính Thánh Gianna Molla, quan thầy của các bà mẹ, bác sĩ và thai nhi. Ngài nêu gương sống từ bỏ phi thường. Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thư 2: 28/4/2025

Gianna Beretta Molla (sinh 4-10-1922, mất 28-4-1962) là con thứ 10 trong gia đình Công giáo sùng đạo có 13 người con, được người mẹ dạy cách sống thánh thiện và thanh khiết. Hồi còn trẻ, bà viết trong nhật ký: “Con dâng Chúa mọi công việc, mọi thất vọng và đau khổ của con… thà chết hơn phạm tội.” Bà học trường y ở Milan và hành nghề thầy thuốc.

Trước khi kết hôn, bà viết: “Được gọi bước vào đời sống gia đình không có nghĩa là đính hôn ở tuổi 14… Người ta không thể đi theo con đường này nếu không biết cách yêu. Yêu nghĩa là muốn hoàn thiện chính mình và người bạn đời, để vượt qua tính ích kỷ và trao tặng chính mình trọn vẹn.” Bà kết hôn với Pietro Molla khi bà 33 tuổi.

Bà viết cho vị hôn phu vài ngày trước đám cưới: “Với sự nâng đỡ và ơn Chúa, chúng ta sẽ làm được những điều chúng ta có thể để làm cho một gia đình mới trở thành nơi Chúa Giêsu điều khiển tình cảm, ước muốn và hành động… Chúng ta sẽ hành động với Chúa trong sự sáng tạo của Ngài; theo cách này chúng ta có thể trao tặng Ngài con cái của chúng ta, chúng sẽ yếu mến và phụng sự Ngài.”

Cả gia đình cùng tham dự Thánh lễ và cầu nguyện hằng ngày. Là một bác sĩ, bà tin mình có ơn gọi đem Chúa đến những nơi mà các linh mục không thể hiện diện. Bà xác tín: “Ai chạm đến thân thể bệnh nhân là chạm đến thân thể của Đức Kitô.”

Năm 1961, Gianna mang thai người con thứ tư. Không may bà được chẩn đoán bị ung thư. Để được cứu sống, bà phải chọn lựa mình sống hay con sống. Trước khi vào phòng sinh ngày thứ bảy tuần thánh năm 1962, bà nói với chồng: “Anh phải chọn em hay con, đừng lưỡng lự: Anh hãy chọn con. Em xin anh đó. Hãy cứu lấy con.” Vài ngày sau, bà yêu cầu chồng đưa bà về nhà.

Bà nói với chồng: “Anh có biết em thấy gì không?… Ở trên trời, chúng ta thỏa mãn, rất hạnh phúc, rất yêu mến, và Thiên Chúa đưa em đến đây để chịu đau khổ một chút, vì chúng ta không thể sống mà không đau khổ.” Trong cơn hấp hối, bà luôn lặp lại câu: “Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Ngài.” Bà được Chúa gọi về khi bước qua tuổi 40.

Bà Gianna Molla được ĐGH Gioan Phaolô II phong chân phước năm 1994 và phong thánh ngày 16-5-2004, Gianna Molla là nữ thầy thuốc đầu tiên được phong thánh trong thời hiện đại ngày nay.

Chúng ta được mời gọi đáp lại Ý Chúa bằng cách riêng theo cuộc đời của chúng ta. Bạn còn giữ lại gì cho mình? Bạn cần từ bỏ những gì để theo Chúa ngay bây giờ?

Thánh nữ Gianna Beretta Molla là một thầy thuốc, một người mẹ làm việc, một người vợ yêu thương. Thánh nhân là mẫu mực cho chúng ta noi gương.

(Nguồn: TRẦM THIÊN THU)

From: Do Dzung

*****************************

Thánh Ca Bảo Vệ Sự Sống Tuyển Tập Hay Nhất

THÁNH PHANXICÔ PAOLA ẨN TU (1416-1507) 

Phanxicô chào đời tại Paola miền Calabria ngày 27 tháng 5 năm 1416.  Cha mẹ Ngài là những người nghèo khổ nhưng rất đạo đức.  Lập gia đình đã lâu mà không có con, họ xin thánh Phaxicô khó khăn cần bầu.  Họ được nhận lời và khi đưa con trẻ tới bờ giếng rửa tội, họ đã đặt tên cho con trẻ là Phanxicô để tỏ lòng biết ơn. 

Người mẹ thánh thiện đã muốn tự mình nuôi dưỡng đứa trẻ và có thể nói, bà đã cho con hấp thụ nền đạo đức cùng với dòng sữa mẹ.  Bởi thế ngay từ thuở ấu thơ, Phanxicô đã yêu thích cầu nguyện và hy sinh là hết lòng sùng kính Đức Trinh Nữ Maria.

 Một ngày trời lạnh, bà mẹ thấy con quỳ lần chuỗi ngoài vườn, bà bảo: “Cầu nguyện lâu như vậy sao con không lấy nón mà đội?”

 Phanxicô nói mình phải để đầu trần vì: “Việc đó lại không phải để lòng tôn kính Đức Trinh Nữ là Nữ Vương Thiên quốc sao?”

 Một trẻ em đạo đức cũng là một gương mẫu vâng phục.  Người ta kể lại rằng: ngày kia bà thân mẫu bảo Phanxicô ngừng cầu nguyện để giải trí đôi chút, thánh nhân đã mau mắn trả lời: “Mẹ biết con rất thích nói chuyện với Chúa, nhưng con xin vâng theo lời mẹ dạy.”

 Lúc 13 tuổi, Phanxicô vào dòng thánh Marcô của các cha dòng Phanxicô, để thực hiện lời khấn của cha mẹ Ngài, khi Ngài bị bệnh sưng mắt.  Tại tu viện, Phanxicô dù không có lời khấn, nhưng đã sống đời gương mẫu nhiệm nhặt.  Các thầy dòng cảm kích vì gương mẫu của thánh nhân đã tìm cách giữ Ngài lại trong dòng.  Nhưng hai năm sau, Phanxicô cùng với cha mẹ đi hành hương Roma.  Trở về, Ngài biết rõ ý Chúa muốn kêu gọi mình cách khác.  Được sự đồng ý của cha mẹ, Ngài lui vào nơi thanh vắng và nhiệt tâm sống đời cầu nguyện hy sinh.

 Hương thơm nhân đức của vị ẩn sĩ 15 tuổi lan rộng khắp nơi.  Đến năm 19 tuổi, vì sự khẩn nài tha thiết Ngài đã nhận một số bạn trẻ.  Họ làm ba phòng và một nhà nguyện gần hang đá của Ngài.  Hàng ngày một lần đến cử hành thánh lễ và ban các phép bí tích.  Đó là nguồn gốc của dòng Anh em rất hèn mọn (Minimes), được tòa thánh phê chuẩn năm 1506.  Các tu sĩ của dòng này kiên trì thực hành Đức khiêm tốn và Bác ái.  Ngoài ba lời khấn họ còn giữ chay trường.

 Chắc chắn trong dòng không ai sống đời nhiệm nhặt khắc khổ, khiêm tốn và vui tươi hơn thánh Phanxicô.  Đời sống như một hiến tế không ngừng ấy làm đẹp lòng Chúa, khiến thánh nhân được ơn làm nhiều phép lạ.

 Chúng ta ghi lại một vài phép lạ như sau:

 – Một lần kia, thánh nhân muốn đi từ Calabria về Sicilia.  Nhưng vì không có tiền trả lộ phí cho mình và cho một người bạn đường, các thủy thủ đã không cho Ngài xuống tàu, Thánh nhân liền trải áo xuống nước và cùng với người bạn đường áp con tàu kỳ lạ này về Sicilia.

 – Một lần khác công nhân xây cất tu viện của Ngài thiếu nước Ngài làm cho một cái giếng nước chảy ra từ một phiến đá.  Giếng này không bao giờ cạn.

 – Đặc biệt nhất phải kể đến việc Ngài phục sinh cho đứa cháu của mình.  Em Ngài là Birgitta có một đứa con muốn vào tu dòng của cậu.  Nhưng với sự quyến luyến tự nhiên của một người mẹ, bà luôn tìm cách ngăn cản.  Đứa bé đã chết.  Bà tìm đến gặp anh mình để mong được an ủi.  Bà nói: – Chính em đã gây ra cái chết này, nếu em đồng ý cho nó đi tu thì nó đã không phải chết.

 Thánh nhân trả lời em mình: – Nếu nó còn sống thì em có đồng ý không?

 – Dĩ nhiên nhưng bây giờ thì đã quá muộn rồi.

 Không nói thêm một lời, Phanxicô đến gần đứa trẻ và làm cho nó sống lại.  Người mẹ dường như không tin ở mắt mình nữa.  Người ta còn nói có tới 60 người được thánh nhân làm cho sống lại như vậy. 

Đức giáo hoàng Phaolô II muốn biết rõ những lời đồn thổi về thánh nhân.  Ngài sai một người đến tìm hiểu thực hư.  Vị sứ giả đến tu viện mà không báo tin trước.  Thấy Phanxicô, Ngài muốn cung kính hôn tay thánh nhân, nhưng vị tu sĩ đã phản đối.

 Ngài nói: – Chính con phải hôn đôi tay đã 33 năm dâng hy lễ mới phải.  Vị sứ giả rất đỗi kinh ngạc vì Phanxicô đã không hề biết tới Ngài trước đây.  Để sáng tỏ hơn, Ngài đàm luận riêng với thánh nhân và rất thán phục vì những lời đáp đầy khôn ngoan và đức tin của Thánh nhân.  Trở về trình bày cho Đức Giáo hoàng, vị sứ giả cho biết những lời đồn thổi về công việc và công đức của thánh Phanxicô Paola còn kém xa sự thực rất nhiều. 

Vua Luy XI đau nặng.  Ông muốn mời thánh nhân đến Pháp để xin được chữa lành.  Thánh nhân còn ngập ngừng, nhưng vâng lệnh Đức giáo hoàng, Ngài liền lên đường không một suy nghĩ đắn đo.  Đáp lại nguyện vọng sống lâu của nhà vua Thánh nhân trả lời: – Cuộc sống của vua Chúa cũng có giới hạn như bao người khác.  Lệnh của Thiên Chúa không thể xoay đổi được, tốt hơn cả là hãy vâng theo ý Chúa và dọn mình chết lành. 

Cảm động vì những lời khuyên này, nhà vua đã hối cải và qua đời cách thánh thịên.

 Phanxicô vội trở về Italia.  Nhưng vua Charles VIII đã giữ không lại.  Cả vua Luy XII sau này cũng vậy.  Thánh nhân được coi như vị cố vấn soi sáng lương tâm và trong cả việc nước của hai vị vua nước Pháp ấy.  Tại đây Ngài thiết lập nhiều nhà dòng.

 Khi cảm thấy sắp phải lìa trần, thánh nhân như được tiếp nhận một tin vui.  Ngày thư năm tuần thánh, Ngài tập họp các tu sĩ lại, khuyên họ giữ chay trường và luật dòng.  Cầm than nóng trong tay Ngài nói: – Cha đoan quyết với con rằng: đối với người yêu mến Chúa, việc hoàn thành điều mình đã hứa với Chúa không khó hơn việc Cha cầm lửa trong tay này dâu.

 Sau đó dựa vào một tu sĩ, Ngài dự lễ và rước mình thánh Chúa.  Vì được ơn nói tiên tri và làm phép lạ, được mọi người từ vua quan tới dân chúng kính trọng, Ngài cột giây vào cổ và muốn người chết như một tội nhân.  Ngày thứ sáu tuần thánh sau khi chỉ định người kế vị, chúc lành cho con cái, Ngài hôn thánh giá và tắt thở.  Hôm ấy là ngày 02 tháng 04 năm 1507, hưởng thọ 91 tuổi.

Sưu tầm

From: Lanthangchieutim


 

NHỮNG PHÉP LẠ CỦA THÁNH GIUSE…

 

 Những phép lạ sau thường được gắn liền với lòng tin mạnh mẽ của những người cầu xin. Thánh Giuse được kính nhớ như một vị thánh thầm lặng nhưng đầy quyền năng, luôn sẵn sàng giúp đỡ những ai kêu cầu Ngài .

 1/ Phép lạ cứu sống trong cơn bão:

 Vào thế kỷ 17, tại một ngôi làng nhỏ ở Pháp, một nhóm ngư dân bị mắc kẹt ngoài khơi trong một cơn bão dữ dội. Gió mạnh và sóng lớn đe dọa nhấn chìm con thuyền nhỏ của họ. Trong cơn tuyệt vọng, họ cùng nhau cầu xin Thánh Giuse, vị thánh được kính nhớ như người bảo trợ những người lao động và những ai gặp nguy khốn. Bỗng nhiên, một người trong nhóm nhìn thấy một bóng dáng mờ ảo đứng ở mũi thuyền, trông giống như một người đàn ông cầm cây gậy – hình ảnh thường được liên tưởng đến Thánh Giuse. Gió lặng dần, sóng yên ả trở lại, và con thuyền an toàn cập bến. Dân làng tin rằng Thánh Giuse đã can thiệp để cứu họ, và từ đó, họ xây một bàn thờ nhỏ để tôn kính ngài.

 2/ Phép lạ chữa lành bệnh tật 

Có một câu chuyện từ thế kỷ 19 ở Ý, liên quan đến một người đàn ông tên là Antonio, một thợ mộc nghèo khổ. Antonio bị bệnh lao phổi nặng, một căn bệnh không có thuốc chữa vào thời đó. Gia đình ông rất nghèo, và các bác sĩ nói rằng ông không còn sống được bao lâu. Vợ của Antonio, với lòng sùng kính lớn lao, đã cầu xin Thánh Giuse suốt nhiều đêm, đặt một bức tượng nhỏ của ngài bên giường bệnh. 

Một đêm, Antonio mơ thấy một người thợ mộc đến bên ông, đặt tay lên ngực ông và nói: “Hãy đứng dậy, con còn việc phải làm.” Sáng hôm sau, Antonio tỉnh dậy với sức khỏe hồi phục kỳ diệu, không còn dấu hiệu của bệnh lao. Ông sống thêm nhiều năm và dành cả đời để làm việc thiện, tin rằng Thánh Giuse đã chữa lành cho mình. 

  1. Phép lạ tìm được việc làm

Một câu chuyện hiện đại hơn xảy ra vào thế kỷ 20 tại Hoa Kỳ, trong thời kỳ Đại suy thoái kinh tế. Một người đàn ông tên là Joseph (tình cờ trùng tên với Thánh Giuse) mất việc làm, không thể nuôi gia đình 5 người con.

 Trong lúc tuyệt vọng, ông nghe một linh mục khuyên nên cầu xin Thánh Giuse, vị thánh bảo trợ của người lao động. Joseph bắt đầu cầu nguyện hàng ngày, xin Thánh Giuse giúp ông tìm được việc làm. Chỉ vài ngày sau, một người lạ đến gõ cửa nhà ông, nói rằng ông ta cần một người giúp việc trong xưởng gỗ của mình và đã nghe về Joseph từ một người bạn. Công việc này không chỉ giúp Joseph nuôi sống gia đình mà còn trở thành sự nghiệp lâu dài của ông. Ông luôn tin rằng đó là phép lạ từ Thánh Giuse. 

Lạy Thánh Cả Giuse, xin luôn ban cho chúng con Đức tin mạnh mẽ , sức khỏe và công ăn việc làm . Chúng con cầu xin Thánh Cả . Amen

From: ngocnga_12 & NguyenNThu