Chó Má & Thuế Má – Tưởng Năng Tiến/SGN

Ba’o Nguoi-Viet

October 5, 2024

Tưởng Năng Tiến/SGN

Nhà báo Cù Mai Công vừa lên tiếng nhắc nhở đồng nghiệp (“Ráng Xài Tiếng Việt Cho Đúng, Xài Bậy, Dân Họ Cười Cho”) vào hôm 6 Tháng Chín vừa qua.

Ông dùng tựa một bản tin của báo Dân Trí (“Hai Kịch Bản Siêu Bão Yagi Tác Động Đến Đất Liền”) như một thí dụ tiêu biểu:

“Trong toàn bộ các tự điển tiếng Việt xưa nay, ‘kịch bản’ nguyên nghĩa là bản viết cho một vở kịch, sau có thể mở rộng thành văn bản, bản thảo về nội dung cho một phim truyền hình, quảng cáo, phim ảnh, gameshow…

Dù mở rộng thì đây vẫn là một từ dành cho một sản phẩm do con người làm ra (nhân tạo). Nó khác hoàn toàn với mưa, gió, bão… – một hiện tượng tự nhiên.

(Hình: Tác giả cung cấp)

Rõ ràng đây là một từ dùng sai …”

Sai “bậy” kiểu đó (và chỉ cỡ đó thôi) kể như là chuyện nhỏ và là chuyện vẫn xẩy ra hàng ngày ở khắp mọi nơi, chứ chả riêng chi Dân Trí. Tờ báo này, tuy thế, có lẽ là cơ quan truyền thông “bậy” nhất (và “bậy” lắm) vì cái chuyên mục: “Tấm Lòng Nhân Ái.”

Nói là “bậy” nhất vì kêu gọi giúp đỡ cho những cá nhân đang lâm vào hoàn cảnh khó khăn là chuyện bình thường (khá phổ biến) nhưng chắc không đâu thực hiện một cách vô cùng bài bản, cẩn thận, và hết sức chu đáo như trang Dân Trí cả. Mọi trường hợp đều có bài vở chi tiết, hình ảnh sống động (và mã số đính kèm) cùng lời kêu gọi quyên góp, với những hướng dẫn rất tỉ mỷ về cách thức:

Mẹ già 70 tuổi tần tảo nuôi con tai biến, ước có căn nhà che nắng mưa

Cảm thương người phụ nữ 24 năm không nhìn rõ mặt chồng, con

Bé gái 10 tháng tuổi đầu chiếm nửa trọng lượng cơ thể, mẹ nghèo cầu cứu

Nữ sinh 1 tay người Dao cầm 500 ngàn đồng vượt 300km với giấc mơ đại học

Xót xa cảnh người chị ở vậy chăm em gái mù lòa

Mẹ ung thư qua đời, cô gái trẻ bế tắc khi bố tâm thần, em bại não

Kêu gọi tình tương thân, tương ái là việc nên làm nhưng chuyên nghiệp và công phu như báo Dân Trí (cơ quan ngôn luận của Bộ Lao Động – Thương Binh và Xã Hội) thì e lại là chuyện khác. Xin xem qua đôi ba trường hợp:

Tình cảnh mẹ già nuôi con mất khả năng lao động vì tai biến, và cần một nơi che nắng che mưa cần được trợ giúp thiết thực, và dài hạn từ Bộ Lao Động & Xã Hội (BLĐ & XH) chứ không thể chỉ trông đợi vào lòng hảo tâm của bá tánh.

Tương tự, bé gái 10 tháng tuổi, bị bệnh úng thủy, đầu to bất thường (chiếm một nửa trọng lượng cơ thể) thì nơi mà người mẹ nghèo cần “cầu cứu” cũng là BLĐ & XH, chứ không phải là độc giả bốn phương.

Mọi trường hợp thượng dẫn đều là những công dân lão hạng, những người bệnh tật hay khuyết tật, hoặc những đứa bé thơ… Tất cả đều thuộc thành phần thua thiệt, cần được trợ giúp bởi một cơ quan thẩm quyền với chính sách và tiêu chuẩn rõ ràng, minh bạch, về mọi mặt: thực phẩm, tiền mặt, chăm sóc y tế… Chứ thiên hạ không có khả năng, và bổn phận phải thực hiện những điều này vì họ đã đóng thuế rồi.

Đến đây thì dù lười vẫn phải ghi thêm đôi lời liên quan đến chuyện thuế/phí ở VN, từ những nhân vật có thẩm quyền:

-Đại biểu Lê Minh Chuẩn: “So với thu nhập bình quân đầu người chỉ ở mức trung bình của khu vực nhưng tỷ lệ thu cao hơn đang khiến mỗi người dân Việt Nam phải gánh chịu khoản thuế và phí trên GDP gấp 1,4 đến 3 lần so với các nước khác. Tỷ lệ huy động thuế, phí đối với doanh nghiệp ở Việt Nam lên tới 39,4% lợi nhuận, tức là làm 10 đồng nộp thuế gần 4 đồng.”

-Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan: “Một quả trứng chịu 14 loại phí, một con lợn chịu 51 loại phí… Không nước nào có chuyện này. Về thuế – phí, Việt Nam vô địch.”

VN, rõ ràng, cũng “vô địch” về khoản vô trách nhiệm hay đem con bỏ chợ.  Cung cách này đang được những cơ quan truyền thông (điển hình là Dân Trí) tận tình lấp liếm, bao che, và cổ vũ. Tờ báo này vừa hớn hở đi tin:

Sáng 5/9, hòa chung không khí ngày tựu trường của cả nước, 86 học sinh tại điểm trường Thành Lợp, Trường Tiểu học Tân Thành 2, xã Tân Thành (Thường Xuân, Thanh Hóa) dự lễ khai giảng ở ngôi trường khang trang do báo Dân Trí tài trợ.

Thấu hiểu những khó khăn, vất vả, thực hiện sự phân công của Đảng ủy Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, năm 2023, báo Dân Trí đã kêu gọi bạn đọc và các nhà hảo tâm tài trợ hơn 430 triệu đồng để khởi công xây dựng thêm phòng học, tu sửa lại ngôi trường khang trang, sạch đẹp.”

Qua hôm sau (hôm 6 tháng 9 năm 2024) họ lại hân hoan loan tin tiếp:

“Đại diện báo Dân trí, chính quyền các địa phương tiếp tục trao tặng gần 300 thẻ BHYT đến học sinh tại Thanh Hóa và Nghệ An. Ông Đỗ Văn Chung, Trưởng Phòng GD&ĐT huyện Như Xuân phát biểu:

“Chúng tôi rất vui khi được báo Dân trí tặng 200 thẻ BHYT. Đây là việc làm ý nghĩa, tạo động lực cho nhà trường, học sinh, phụ huynh, nhất là các gia đình khó khăn không thể mua thẻ BHYT cho các con. Chúng tôi trân trọng, cảm ơn bạn đọc báo Dân trí đã gửi đến học sinh của huyện món quà quý giá.”

Tôi sống qua nhiều nơi (Âu cũng như Á) nhưng chưa thấy đâu mà mầm non của đất nước phải lại phải “mua thẻ BHYT” cả. Tôi cũng không hiểu tại sao chính quyền các địa phương ở Việt Nam lại có thể trơ tráo mang “tặng” những món quà không phải của họ mà chả có chút ngượng ngập (hay ngượng ngùng) chi ráo.

Ngoài việc trường kỳ kêu gọi sự đóng góp của độc giả, tôi chưa bao giờ thấy một bài viết nào của báo Dân Trí (cơ quan ngôn luận của Bộ Lao Động – Thương Binh và Xã Hội) đề cập đến vai trò và trách nhiệm của cái “bộ” này cả. Thế thuế má được dùng vào chuyện chi, và cái nhà nước hiện hành “cướp chính quyền” để làm chi (?) hay chỉ để trở thành một bọn cướp ngày!

(Hình: Tác giả cung cấp)

Chắc chắn, không ở nơi đâu (từ hơn nửa thế kỷ qua) mà người dân bị thôi thúc và ép buộc đóng góp công sức, cũng như xương máu, cho hết cuộc chiến này đến cuộc chiến khác – như ở Việt Nam. Cũng không nơi đâu mà giới cầm quyền hoàn toàn vô trách nhiệm như ở xứ sở này.

Việt Nam, có lẽ, là quốc gia duy nhất mà “lòng hảo tâm” được dùng thay cho một đạo luật về an sinh xã hội để qui định (hẳn hòi) mọi thứ phúc lợi đối với những công dân lão hạng, những người phế tật, những thương binh/ liệt sĩ và thân nhân của họ.

Đất nước này, xem ra, cũng là nơi duy nhất mà người dân có thể bị cầm tù (thay vì xử phạt) với tội danh trốn thuế – dù đến Trời chắc cũng không thể biết là bọn chó má đã xử dụng thuế má của người dân đóng góp ra sao, từ gần hai phần ba thế kỷ qua?


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Võ Nguyên Giáp

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

03/10/2024

Trận Điện Biên Phủ kết thúc vào hôm 7 tháng 5 năm 1954. Bẩy mươi năm đã qua  nhưng dư âm chiến thắng, nghe chừng, vẫn còn âm vang khắp chốn. Tại một góc phố, ở Hà Nội, có bảng tên đường Điện Biên Phủ – cùng với đôi dòng chú thích đính kèm – ghi rõ nét tự hào và hãnh diện: “Tên địa danh thuộc tỉnh Lai Châu, nơi diễn ra trận đánh quyết liệt của quân và dân ta tiêu diệt tập đoàn cứ điểm thực dân Pháp kéo dài 55 ngày đêm”.

Niềm tự hào và hãnh diện này, tiếc thay, đã không nhận được sự đồng tình chia sẻ bởi tất cả mọi người. Nhà văn Nguyễn Khải là một trong những người như thế: “Một dân tộc đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ mà mặt người dân nám đen, mắt nhìn ngơ ngác, đi đứng long rom như một kẻ bại trận.”

Ông nhà văn nói đúng nhưng (tưởng) cũng nên nói thêm là những kẻ bại trận sau Thế Chiến Thứ II, ở khắp mọi nơi – chắc chắn – không đâu và không ai phải trải qua một cuộc sống thảm hại, khốn cùng như người dân ở Điện Biên hiện tại:

  • Hà Nội Mới: “Lội sông đến trường, 7 học sinh ở Lai Châu bị nước cuốn trôi”.
  • Tuổi Trẻ : “Vào mùa lũ, các thầy cô giáo, học sinh ở bản Sam Lang (Điện Biên) phải chui vào túi nilông và nhờ người biết bơi kéo qua suối”.
  • Soha News: “Ngày hôm nay (3/4) trên mạng xã hội đã xuất hiện một bức ảnh rất cảm động về một em bé được cho là ở Điện Biên. Bức ảnh đã lột tả rất chân thực về nỗi kham khổ của trẻ em nghèo. Tuy tuổi đời còn rất nhỏ (khoảng 3,4 tuổi – PV) nhưng đứa bé đã sớm phải xuống ruộng để mò cua bắt ốc…”

*******

Tuổi thơ là một thành quả đặc thù thế kỷ XX. Trước đó, nhân loại phải dồn hết nỗ lực vào việc mưu sinh nên trẻ con chỉ là một người lớn thu nhỏ (miniature adult) với trách nhiệm đè nặng lên vai gần như bố mẹ. Nhân loại đã bước vào thế kỷ 21 nhưng một số người dân ở Điện Biên thì dường như đang đi thụt lùi. Một số khác, tuy đang bước tới nhưng lại nắm bắt những “phó sản văn minh” của thời đại mới – theo Điện Biên TV :

“Trong những năm qua, Điện Biên luôn được xác định là địa bàn trọng điểm, phức tạp về ma túy ở cả 3 khía cạnh: mua bán, vận chuyển và tàng trữ trái phép chất ma túy… Lực lượng chức năng Công an tỉnh đã phát hiện, bắt giữ 962 vụ với 1.158 đối tượng. Tang vật thu giữ 79,625kg thuốc phiện, 13.379 viên + 71,5g ma túy tổng hợp, 77,98g cần sa, 8,9kg quả thuốc phiện, hơn 9 tỉ đồng, 141.500 USD, 04 xe ô tô, 417 xe máy, 729 điện thoại cùng nhiều tang vật khác.”

Báo Điện Biên Phủ  còn trích dẫn lời của quan chức bầy tỏ sự âu lo về sợ nghèo đói ở địa phương này vì tính lười biếng của người dân:

“Bên cạnh những giải pháp cốt lõi mang tính xuyên suốt, lâu dài để thực hiện hiệu quả các chính sách giúp người dân xóa đói giảm nghèo, cấp ủy, chính quyền các cấp tỉnh Điện Biên còn đặc biệt quan tâm đến việc tìm ‘thuốc’ cho ‘bệnh lười’ đang tồn tại trong không ít người dân.”

Không chỉ lười mà dân chúng nơi đây còn “ẩu” nữa nha. Trong khi qúi vị lãnh đạo đang tìm “những giải pháp cốt lõi mang tính xuyên suốt, lâu dài để thực hiện hiệu quả các chính sách giúp người dân xóa đói giảm nghèo” (nên chưa kịp làm cầu) thì họ đã liều lĩnh chui vào bao ni lông hay bơi qua sông để đến trường nên mới bị nước cuốn trôi oan mạng!

Tên tuổi một danh nhân rất tăm tiếng (và tai tiếng) được găn liền với địa danh Điện Biên là tướng Võ Nguyên Giáp, người từ trần vào hôm 4 tháng 10 năm 2013. Trong một cuộc phỏng vẫn dành cho báo Tin Nhanh Việt Nam, khi được hỏi về việc “về việc chọn con đường mang tên Đại tướng,” nhà sử học Dương Trung Quốc cho biết:

“Có người đặt vấn đề, đổi tên những con đường đã có tên thành tên Đại tướng. Điều này nên hết sức tránh, nhất là việc những tên phố cũ cũng rất ý nghĩa, đáng lưu danh. Còn nếu là đường mới thì cũng phải xứng tầm với Đại tướng. Đây cũng là bài toán không dễ vì trên thực tế chúng ta chưa chuẩn bị gì cả.”

Nói nào ngay thì dù có “chuẩn bị” chăng nữa cũng rất khó mà chọn một con đường để “xứng tầm với Đại tướng” vì mọi nẻo đường ở Việt Nam, hôm nay, đều nhan nhản tội ác cùng với tệ đoan xã hội và sự bất an:

  • Tiền Phong : “Xôn Xao Chợ  Mãi Dâm đường Điện Biên Phủ”
  • An Ninh Hải Phòng :“Cướp Giật Có Súng trên phố Điện Biên Phủ”
  • An Ninh Thủ Đô : “Quét Gái Mãi Dâm Trên Đường Nguyễn Chí Thanh”
  • Người Đưa Tin : “Đột Nhập Động Mãi Dâm Trên Đường Phạm Văn Đồng”
  • An Ninh Thủ Đô : “Bắt Kẻ Giao Hàng Trắng Dọc Đường Trường Chinh”
  • VietNamNet :“Trộm Vàng Táo Tợn Trên Đường Xuân Thuỷ”
  • An Ninh Thủ Đô :“Phóng Viên Truy Đuổi Đối Tượng Trộm Cắp Trên Đường Phạm Hùng”
  • Người Lao Động : “Xe Buýt Lại Tông Người Trên Đường Lê Duẩn”
  • Lao Động : “Xuất Hiện Hố Tử Thần Trên Đường Trần Quốc Hoàn”
  • Dân Trí : “Dàn Cảnh Cướp Xe Trên Đường Hồ Chí Minh”

Đọc mà ớn chè đậu. Biết còn chỗ nào “xứng tầm” với ông Đại Tướng Điện Biên đây, hả Trời? Thôi thì đành chọn đường Điện Biên Phủ, thuộc phường Đa Kao, Sài Gòn – nơi cắt băng khánh thành khai mạc quán ăn McDonald’s đầu tiên ở Việt Nam. Nó không những đắc địa mà còn mang nhiều ý nghĩa lịch sử lớn nữa.

Tập đoàn hàng ăn McDonald’s giữa thành phố H.C.M quang vinh, nằm trên một con đường mang tên V.N.G, sẽ nhắc nhở mọi người không bao giờ quên được máu xương của hàng triệu binh sĩ (dưới quyền) mà Đại Tướng đã “hy sinh” cho công cuộc cuộc chống đế quốc Mỹ xâm lược vừa qua.

Theo Báo Mới ghi nhận (và in đậm) như sau:

“Giá một chiếc burger cỡ lớn làm nên thương hiệu của McDonald’s có tên là Big Mac sẽ có giá 85.000 đồng. Mức giá này tương đương với gần 4 USD, thấp hơn so với tại Mỹ tuy nhiên lại cao hơn so với nhiều nước trong khu vực như Singapore, Indonesia, Philippines hay Malaysia.”

Em bé Điện Biên, hôm nay, chắc phải mò cua bắt ốc nguyên tháng mới đủ tiền để mua một cái Bic Mac của McDonald’s. Thảo nào mà giữa kèn trống trong “quốc tang” dành cho Đại Tướng, vẫn xen lẫn những tiếng đời dị nghị: “Năm triệu người thiệt mạng để Ông khai sinh ra một chính quyền. Nhưng chính quyền của Ông lại tồi tệ hơn những chính quyền mà Ông đã khai tử.” 


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Trường Chinh

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

26/09/2024

Tôi tình cờ đọc được một bài viết thú vị (“Kiêu Ngạo Nhận Vơ”) của blogger Hà Hiển, với câu kết khá bất ngờ:

“Từ năm 1954 đến 1975, đúng là ‘ta’ đã chiến thắng được ‘hai đế quốc to’ cùng với được hơn chục nước trên thế giới đã đi theo con đường mà Lê nin đã chọn, tức theo CNCS, từ đó các Cụ nhà mềnh thấy CNCS ‘oách’ quá, cứ đà này cả thế giới gần 200 nước sẽ theo CNCS hết sạch, dưới ngọn cờ bách chiến bách thắng của chủ nghĩa Mác Lê nin sẽ đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác rồi tiến lên giải phóng cả Hoa Kỳ, Ý, Đức, Anh, Pháp …abc… thoát khỏi ách bóc lột của CNTB …hu hu…!!!

Từ những nguyên nhân trên các Cụ lớn nhà mềnh mới sinh ra thói ‘Kiêu ngạo cộng sản’ tuy không tốt nhưng có cái để …kiêu ngạo, nhưng các cụ nối ngôi sau này chẳng có cái gì lận lưng để mà ‘kiêu ngạo’ cả. Chỉ là ăn theo thôi! Nên đúng là… ‘kiêu ngạo vì những cái không phải của mình’ hay còn gọi là ‘kiêu ngạo cộng sản!’ Sau Cụ Trường Chinh, nếu có thì chỉ là ‘kiêu ngạo nhận vơ!’ mà thôi!”

Nhận xét thượng dẫn về “Cụ Trường Chinh” khiến tôi chợt nhớ đến công trình biên soạn rất công phu (Bên Thắng Cuộc) của nhà báo Huy Đức. Tác giả đã dành nguyên một chương (chương 10, tập I) cho ông Trường Chinh, nhân vật được coi là đã đặt nền móng cho chính sách “đổi mới” và được mô tả như một vị thánh tử vì đạo:

“Trong những thời khắc khó khăn nhất của lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Trường Chinh đều đã có mặt: có khi là để lãnh đạo Việt Minh cướp chính quyền như hồi năm 1945, có khi đứng ra chịu trách nhiệm cá nhân về sai lầm của Đảng trong cải cách ruộng đất năm 1956, và trong thập niên 1980 là tự thức tỉnh và dẫn dắt Đảng thoát ra khỏi sự bế tắc bởi chính những đường lối của mình.”

Cách nhìn của những người ngoại đạo, hay đã bỏ đạo (cộng sản) lại hoàn toàn khác.

– Nguyễn Minh Cần:

“Sau khi Lê Duẩn chết, Trường Chinh lên làm TBT. Ông vốn là một ‘lãnh tụ’ nổi tiếng ‘giáo điều.’ Ngay cái biệt hiệu của ông cũng nói lên đầu óc sùng bái họ Mao… Cũng trên cương vị TBTĐCSVN, hồi những năm 50, Trường Chinh đã lãnh đạo cuộc cải cách ruộng đất CCRĐ và chỉnh đốn tổ chức (CĐTC) Ở NÔNG THÔN MIỀN Bắc rập khuôn theo hình mẫu trung quốc đã đem lại vô vàn tai hoạ cho nhân dân.” (Nguyễn Minh Cần. Đảng Cộng Sản Việt Nam. Arlington, VA: Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ, 2016).

– Vũ Thư Hiên:

“Về sau này, khoảng đầu thập niên 50, tôi tình cờ vớ được cuốn Chủ Nghĩa Mác Và Công Cuộc Phục Hưng Nền Văn Hóa Pháp của Roger Garaudy. Ðọc xong tôi mới ngã ngửa ra rằng ông Trường Chinh đáng kính của tôi đã làm một bản sao tuyệt vời của cuốn này trong trước tác Chủ Nghĩa Mác và Vấn Ðề Văn Hóa Việt Nam, được ca tụng như một văn kiện có tính chất cương lĩnh. Bố cục cuốn sách gần như giữ nguyên, thậm chí Trường Chinh trích dẫn đúng những đoạn mà Roger Garaudy trích dẫn Mác, Engels, và cả Jean Fréville.

Tiếp đó là sự phát hiện đáng buồn của tôi về cuốn Trường Kỳ Kháng Chiến Nhất Ðịnh Thắng Lợi. Nó quá giống cuốn Trì Cửu Chiến Luận (Bàn về đánh lâu dài) của Mao Trạch-đông, trừ đoạn mở đầu rất đẹp, là một áng văn rất hay …” (Vũ Thư Hiên. Đêm Giữa Ban Ngày. 2sd ed. Westminster, CA: Văn Nghệ, 1997).

Riêng trong lãnh vực thi ca thì Trường Chinh hoàn toàn không bị tai tiếng gì ráo trọi. Ông sáng tác mình ên, không “mượn” câu chữ nào – nửa chữ cũng không – bất kể là của Tây hoặc của Tầu. Thơ của Trường Chinh, với bút hiệu Sóng Hồng, chỉ có chút khuynh hướng (và hơi hướng) Mạc Tư Khoa thôi:

Hỡi thi sĩ! Hãy vươn mình đứng dậy!
Thời rượu nồng, đệm gấm đã qua rồi.
Thôi thôi đừng khóc gió với than mây,
Hãy nhịp bước trên con đường tiến bộ.
Dùng thi khúc mà lạnh lùng soi tỏ
Những bệnh căn xã hội đã tràn đầy;
Cùng công nông vun xới cuộc tương lai
Ðã chớm nở từ Liên-xô hùng vĩ.

(Ngoại thành Hà Nội, tháng 6-1942)

Hơn 40 năm sau, sau khi kêu gọi giới thi sĩ “cùng công nông vun xới cuộc tương lai,” đến năm 1986 (vào lúc cuối đời, chả hiểu sao) bỗng Anh Cả Trường Chinh đổi ý:

“Hoàng Ước, thư ký của Trường Chinh bảo tôi là một hôm Trường Chinh nói với mấy người giúp việc rằng ta trả cho người lao động đồng lương bóc lột. Hoàng Ước bèn nói lương chúng tôi chỉ đủ sống mười ngày.

Trường Chinh cau mày khó tin – bóc lột thì có nhưng sao lại có thể ác nghiệt hơn cả đế quốc đến thế – nhưng hôm sau ông bảo Hoàng Ước: Tôi đã hỏi nhà tôi, nhà tôi nói không có chế độ cung cấp đặc biệt thì lương ông cũng chỉ đủ cho nhà này ăn mười ngày. Sau đó Trường Chinh đến nhà máy thuốc lá Thăng Long nói: Phải cứu giai cấp công nhân!” (Trần Đĩnh. Đèn Cù II. Westminster, CA: Người Việt, 2014).

Tiếc rằng ông không “tỉnh” được lâu. Chỉ hai năm sau, năm 1988, Trường Chinh đột ngột từ trần. Thôi thế cũng xong. Cuối cùng, rồi ông cũng thoát. Thoát khỏi cái XHCN do chính ông đã dụng công xây đắp nhưng giai cấp công nhân thì không. Họ kẹt: kẹt lớn, kẹt lắm, và (chắc chắn) sẽ kẹt luôn – nếu chế độ hiện hành vẫn tiếp tục tồn tại.

Báo Vietnamnet ái ngại cho hay: “Lương tối thiểu mới đáp ứng hơn 1/3 nhu cầu tối thiểu.” Và đó là mức lương cơ sở cho cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang, chớ giới công nhân thì còn tệ hơn thế nữa!

Thế họ sống làm sao?

Thưa họ “ăn thịt mình để sống” – như nguyên văn lời Phó Viện Trưởng Viện Dinh Dưỡng Quốc Gia, PGS-TS Lê Bạch Mai:

“Những khảo sát của viện năm đó cho thấy chất lượng bữa ăn của công nhân không khác gì hai chữ “tồi tệ” khi trong khẩu phần ăn chỉ có 12% protein (chất đạm), 16% chất béo…

“Khi năng lượng khẩu phần ăn không đủ thì (cơ thể) phải sử dụng nguồn năng lượng dự trữ của mình. Khi đó khối cơ của người lao động bị bào mòn, bị lấy đi hằng ngày… và họ rơi vào thực trạng ‘như ăn thịt mình …’ Họ chưa chết đói. Nhưng sẽ đói đến lúc chết”.

Bản thân ông Trường Chinh (đôi khi) cũng đói, theo như lời của trưởng nam Đặng Xuân Kỳ – nguyên Ủy Viên Ban Chấp Hành Trung Ương:

“Ông cụ tôi ra ngoài không dám ăn uống bất cứ thứ gì. Họp Bộ chính trị với Trung ương cũng uống nước của nhà mang theo và nếu không về nhà ăn trưa được thì ông cụ nhịn.” (T. Đĩnh, trang 208).

Chung cuộc, may thay, ông Trường Chinh cũng đã cứu được chính mình. Ông qua đời vì tai nạn chứ không phải vì bị đầu độc – như rất nhiều đồng chí khác.

Nghĩa tử là nghĩa tận. Tôi đang không rảnh (lắm) và cũng chả thấy có chút hứng thú gì khi phải đụng chạm gì đến một người… đã chết. Vấn đề, chả qua, vì chẳng đặng đừng – như “lời trăng trối” của triết gia (ngoại đạo) Trần Đức Thảo:

Ta chỉ có thể thanh toán những điều xấu của quá khứ bằng cách thẳng thắn lôi nó ra ánh sáng của hiện tại, để cùng nhau nhận diện nó, để vĩnh viễn không cho phép nó tái diễn. Mà quá khứ cách mạng của ta thì đã tích tụ quá nặng nề những di sản xấu ấy.

Nạn cộng sản sẽ chắc chắn sẽ qua. Chúng ta khó mà có thể tái thiết đất nước và xây dựng một tương lai ổn định nếu không nhìn cho thật rõ về quá khứ.


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Những Đoàn Tầu Vét

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

23/09/2024

Khi được hỏi “âm thanh của hai chữ hoà bình gợi lên điều gì cho ông,” nhà thơ Viên Linh đã trả lời rằng:

Tiếng máy xình xịch của xe hoả, khói phun trắng xoá đường rầy, để tôi có thể làm như Tản Đà, chán Sài gòn thì nhẩy tầu ra Hà Nội. Chán Hà Nội thì nhẩy tàu vô Nam. Và dừng lại chiếc ga xép nơi tôi đã ra đời, đã chơi đùa với con tầu sắt suốt thời niên thiếu: ga Đồng Văn” (Nguyễn Nam Anh. “Đi Xa Với Viên Linh.” Văn Mar. 1972).

Thuở ấy, thi sĩ của chúng ta còn trẻ – rất trẻ, rất đỏm dáng (trong cách ăn mặc, cũng như ăn nói) và cũng rất ngây thơ về thời cuộc. Sự ngây thơ của ông, công tâm và khách quan mà nói, chính là nét dễ thương (chung) của rất nhiều người dân sống ở miền Nam – vào thời điểm đó.

Trước đó không lâu, Trịnh Công Sơn cũng đã mường tượng ra một viễn ảnh thanh bình (làm say đắm lòng nguời) một cách hồn nhiên và… thơ ngây không kém: “Một đoàn tầu đi nhả khói ấm hai bên rừng …”

Gần nửa thế kỷ sau, sau khi đất nước hoà bình và thống nhất, trong một bức thư ngỏ của Tiến sĩ  Trần Đình Bá gởi cho ông Nguyễn Hữu Bằng (Tổng Giám Đốc Công Ty Đường Sắt VN) có đoạn như sau:

“Đường sắt Việt Nam (ĐSVN) tụt hậu hơn thời nô lệ (trước 1945)… Có trực tiếp đi lại bằng đường sắt mới thấy hết cảnh nhếch nhác, tệ hại, khủng khiếp của tình trạng ĐSVN hiện nay. Nào là chỗ ngồi chật như nêm, bán hàng rong lên xuống toa tàu như đi giữa chợ, bán hàng ăn uống trên tàu quá dở, giá cắt cổ, khách hàng đứng nằm la liệt trên toa, xe bán hàng của tàu kéo qua, kéo lại không biết bao nhiêu lần trong một ngày, tình trạng say xỉn, đánh bài ngay trên toa tàu thường xuyên diễn ra, thái độ phục vụ đanh đá, vô văn hóa của nhân viên trên tàu, … và rất nhiều những hình ảnh xấu trên các đoàn tàu mà ai cũng có thể nhìn thấy”.

Qua một bài viết khác (“Tại Sao Trẻ Con Ném Đá Lên Tầu”) độc giả còn được biết thêm nhiều chi tiết rất lạ lùng, và ngại ngùng, khác nữa khiến không ít người vỡ mộng về những “đoàn tầu thống nhất” của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn.

Tầu hoả Việt Nam trông đã không mấy hiện đại, lại còn bị bọc lưới thép ở các ô cửa sổ trông chẳng khác nào những nhà tù di động. Mà bọc lưới thép, thì bọn trẻ con không ném đá nữa, chúng ném thứ khác có thể lọt qua lớp lưới, như bùn, nước bẩn, thậm chí cả phân người.”

Qua khảo sát, người ta vỡ lẽ ra rằng nạn ném đá lên tầu không phải là trò đùa vô bổ của đám trẻ con vô ý thức. Đó là những hành động có ý thức, trả đũa việc tầu hoả gây ra tai nạn làm thiệt hại về người và của, trả đũa những hành động khách đi tầu vứt rác và chất thải xuống hai bên đường, trả đũa việc tầu hoả gây ra tiếng ồn và làm ô nhiễm môi trường…

Như thể để trả lời cho công luận (nói chung), trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo chí, Tổng Giám Đốc Công Ty Đường Sắt VN, ông Nguyễn Hữu Bằng tuyên bố: “Chúng tôi luôn xác định phải đi tắt đón đầu, phải làm một tuyến đường sắt hiện đại ngang bằng thế giới.

Nói cách khác, theo như ông Bằng thì cứ bỏ mẹ nó mấy đoạn đường sắt cổ lỗ sĩ (cùng với mấy chuyện phiền phức, lặt vặt đi kèm – đại loại như thái độ phục vụ đanh đá và vô văn hóa của nhân viên, chỗ ngồi chật như nêm, bán hàng rong lên xuống toa tàu như đi giữa chợ, tình trạng say xỉn, đánh bài ngay trên toa, hoặc chuyện trẻ con ném đất đá và cứt đái lên tàu) qua một bên để “đi tắt đón đầu, làm một tuyến đường sắt hiện đại ngang bằng thế giới” – cho nó khỏi nhức đầu và… tiện việc sổ sách.

Khỏe!

Đề xuất này của ông Nguyễn Hữu Bằng tuy không được Quốc Hội chấp thuận nhưng lại được sự đồng tình và nhất trí (cao) của mọi giới quan chức, ở Việt Nam – theo thông tin của Báo Pháp Luật :

“Dự án đường sắt cao tốc Hà Nội-TP.HCM (ĐSCT Bắc-Nam) đã được trình tại kỳ họp thứ bảy QH khóa XII nhưng không được QH thông qua do lo ngại về tính hiệu quả cũng như làm tăng gánh nặng nợ nần cho quốc gia… Tuy nhiên, mới đây, Bộ Giao thông Vận tải, Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam đã khởi động lại dự án trên.”

Cái “tuy nhiên” ngang xương (và ngang hông) này được ông Tổng giám đốc Công ty tư vấn Đầu tư và Xây dựng (đơn vị lập dự án thuộc Tổng công ty Đường sắt Việt Nam) giải thích với báo giới rằng “Quốc Hội không thông qua chứ không phải bác.”

Miệng người sang, rõ ràng, có gang có thép! Q.H có thông qua hay không chỉ là chuyện nhỏ, nếu chưa muốn nói là … đồ bỏ!

Còn mối bận tâm về ngân khoản, nợ nần để thực hiện dự án thì đã được (nguyên) Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng – một người sang khác, và sang hơn nhiều – trình bầy chi li, rành mạch, cặn kẽ, và rốt ráo tự lâu rồi :

“Với đà tăng trưởng hiện nay, đến 2020, GDP sẽ đạt gần 300 tỷ USD; 2030 là 700 tỷ USD; 2040 đạt 1.200-1.400 tỷ USD và đến 2050 sẽ gấp đôi số đó. GDP bình quân đầu người đến 2050 dự kiến lên 20.000 USD, thay vì mức hơn 1.000 USD hiện nay. Nếu cứ lấy ngưỡng an toàn vay nợ là 50% GDP, đến 2020, Việt Nam có thể vay 150 tỷ mà vẫn an toàn… Với mức vay nợ như vậy, chúng ta có thể làm được… Tôi yên tâm. Yên tâm rằng phải làm… “

Theo như cách tính toán của ông Hùng thì Việt Nam hội đủ điều kiện để có thể vay tiền làm (đến) hai Dự án ĐSCT Bắc/Nam, nếu thích, chứ đâu phải một. Tôi còn nghe có người bàn rằng: “Cứ làm luôn cả hai để chạy song song cho nó thêm phần nhộn nhịp, và khiến cho đám trẻ con quê mùa – sống hai bên đường – bị rơi vào tình trạng phân tâm, không biết ném đá vào đâu nữa.”

Tất nhiên, đó chỉ là một cách nói vui chứ vấn đề này đã được ông Nguyễn Đạt Tường, Phó Tổng giám đốc Tổng Cty Đường sắt Việt Nam, đặt ra và giải quyết ổn thoả rồi. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo Pháp Luật & Xã Hội, ông hân hoan và lạc quan tuyên bố: “Tránh đầu tư không có tầm nhìn… Còn đối với tình trạng trẻ ném đá lên tầu, tôi tin 15 năm nữa dân trí của chúng ta sẽ khác.”

Tầm nhìn của ông Phó Thủ Tướng, và Phó Tổng giám đốc Tổng Cty Đường sắt – rõ ràng – hơi xa (quá) nên khiến nhiều người e ngại và ái ngại! Tác giả Nguyễn Quang Thân lên tiếng, khuyên can đừng đánh cược tương lai:

“Chúng ta coi kiến nghị của nhiều trí thức và nhân sĩ là nghiêm túc và có trách nhiệm, cần được xem xét cũng với tinh thần tương xứng. Bởi vì đây không còn là chuyện lời lỗ một dự án. Đây là sự tồn vong của đất nước và con em chúng ta, không từ một ai, mai sau.”

Nhận định dè dặt của ông Nguyễn Quang Thân, tiếc thay, không phù hợp với đường lối và chủ trương truyền thống (đi tắt đón đầu) của những người Cộng Sản Việt Nam. Gần hai phần ba thế kỷ qua, họ vẫn mang tương lai của cả dân tộc này ra đánh cược đều đều. Lần nào họ cũng thắng và nhân dân thì luôn luôn đại bại. 


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Buồn

Viet Ba’o

31/05/2024

Người Việt rất hay buồn. Họ buồn đủ chuyện, đủ thứ, đủ cách, đủ kiểu, đủ loại và buồn dài dài: buồn chồng, buồn vợ, buồn con, buồn chuyện gia đình, buồn chuyện nước non, buồn chuyện tình duyên, buồn trong kỷ niệm, buồn tình đời, buồn nhân tình thế thái, buồn thế sự đảo điên, buồn tàn thu, buồn tàn canh gió lạnh …  Đó là chưa kể những nỗi buồn buồn lãng xẹt: buồn trông con nhện giăng tơ, buồn trông cửa bể chiều hôm, buồn trông nội cỏ rầu rầu, buồn trông con nước mới sa …

Lúc nào và ở đâu dân Việt cũng đều có thể buồn được cả (ngoại ô buồn, thành phố buồn, đô thị buồn) và họ luôn luôn buồn quá mạng, buồn dữ dội, buồn thê thảm, buồn da diết, buồn thảm thiết, buồn tê tái, buồn miên man, buồn mênh mông, buồn man mác, buồn nát tâm tư, buồn rười rượi, buồn nẫu ruột, buồn muốn chết, buồn muốn khóc, buồn thấy mẹ, buồn tận mạng, buồn quá xá, buồn quá trời, buồn thỉu buồn thiu, buồn hết biết luôn …

Nói tóm lại là người Việt buồn muôn thuở, buồn quanh năm, buồn suốt tháng, bất kể ngày đêm: ngày buồn tênh, đêm buồn tỉnh lẻ, khuya phố thị buồn, chiều chủ nhật (cũng) buồn … Toàn là những nỗi buồn ngang, buồn bất chợt, buồn vô cớ, buồn vào hồn không tên, buồn mà không hiểu vì sao mình buồn nhưng họ đều buồn thiệt và buồn lắm lận.

Chỉ có nỗi buồn về mùa màng thời tiết thì dân Việt mới nêu rõ nguyên do và ghi khá rõ – từ lâu – qua những câu lục bát rất nhịp nhàng, và khá điệu đàng:

Buồn về một nỗi tháng giêng
Con chim, cái cú, nằm nghiêng thở dài
Buồn về một nỗi tháng hai
Đêm ngắn, ngày dài, thua thiệt người ta
Buồn về một nỗi tháng ba
Mưa rầu, nắng lửa, người ta lừ đừ
Buồn về một nỗi tháng tư
Con mắt lừ đừ cơm chẳng muốn ăn
Buồn về một nỗi tháng năm
Chửa đặt mình nằm gà gáy, chim kêu

Riêng tôi thì vì đã quá già (có ngủ nghê gì được mấy đâu) nên đêm dài lắm. Nghe tiếng “gà gáy, chim kêu” còn mừng là đằng khác. Bởi thế, tôi chả hề phiền hà gì “về nỗi tháng năm”. Có buồn chăng – chả qua – chỉ vì chút dư âm của tháng tư (thôi) nhưng cứ buồn hoài và buồn quá.

Ngoài chút phiền lòng vì “nắng lửa, lừ đừ, cơm chẳng muốn ăn”, tôi còn buồn lòng không ít vì cả nước chợt ồn ào và náo nhiệt một cách giả tạo và gượng gạo. Khắp nơi bỗng đều đỏ rực một mầu, ngó mà ớn chè đậu:

–         Rực rỡ cờ hoa chào mừng 49 năm Ngày Giải phóng miền Nam

–         Họp mặt kỷ niệm 49 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước

–         Treo cờ và khẩu hiệu tuyên truyền kỷ niệm 49 năm Ngày Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước

–         Giao lưu văn nghệ chào mừng kỷ niệm 49 năm ngày Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước

–         Triển lãm ảnh kỷ niệm 49 năm ngày giải phóng miền Nam  

–         Sôi nổi hoạt động chào mừng Kỷ niệm 49 năm ngày Giải phóng hoàn toàn Miền Nam thống nhất đất nước   

Thiên hạ, xem ra, không được “sôi nổi” gì cho lắm:

–         Thái Hạo: “Anh em trong nhà, đánh nhau một trận, năm mươi năm sau’ còn ăn mừng chiến thắng. Đó là tiểu khí của người nhỏ nhen”.

–         Nguyên Tống: “Cùng là anh em nòi giống Việt, đánh nhau đến tan cửa nát nhà rồi ăn mừng mãi cái ngày đó thì làm sao mà hoà giải dân tộc được?!”

–         Nguyễn Hữu Vinh: “Quan sát hiện tượng này, người ta có cảm giác rằng đảng giống như một con nghiện. Nhân tố gây nghiện ở đây là bạo lực, là hình ảnh của sự tàn bạo, sự giết chóc để thỏa mãn bản chất bạo lực của Đảng của Giai cấp vô sản chuyên nghề lật đổ và cướp từ chính quyền cho đến lợi ích, tài sản.”

–         Nguyễn Thông: “Kiểu kỷ niệm, diễu hành, phô trương như này, xưa chỉ thấy ở đám phát xít Đức, về sau rõ nhất ở Triều Tiên … Hãy sống với thế giới văn minh chứ đừng mãi man rợ cờ phướn như thế.”

–         Phạm Quang Trung“Anh em đánh nhau một trận rồi thôi, cười khì…đàng này đã 50 năm rồi mà vẫn tiệc tùng ăn mừng chiến thắng! Vậy là sao ta!?”

Câu hỏi thượng dẫn khiến tôi nhớ đến chuyến viếng thăm tiểu bang Hawaii của TT Nhật bản Shinzo Abe, và bài diễn văn ông đọc vào ngày hôm sau (26 tháng 12 năm 2016) tại Trân Châu Cảng. Xin trích dẫn đôi đoạn, theo bản văn của dịch giả Nguyễn Quốc Vương:

Đấy là nơi tôi đã cúi đầu mặc niệm. Nơi đang khắc tên những người lính đã mất… Mỗi người lính đều có bố có mẹ lo lắng cho mình. Họ cũng có người vợ yêu thương và người yêu. Và có lẽ họ cũng có cả những đứa con mà họ đang háo hức với sự lớn lên từng ngày của chúng.

Tất cả những tâm tư ấy đã bị cắt đứt. Khi nghĩ đến sự thật nghiêm trọng ấy và cảm nhận sâu sắc nó, tôi đã không thể thốt nên lời. Hỡi những linh hồn, xin hãy ngủ yên! Tôi, với tư cách là đại diện cho quốc dân Nhật Bản đã thả hoa xuống biển nơi những người lính đang an nghỉ với cả tấm lòng thành…

Tôi, với tư cách là thủ tướng Nhật Bản, xin được gửi lời chia buồn chân thành mãi mãi tới linh hồn của những người đã bỏ mạng ở mảnh đất này, tới tất cả những người dũng cảm đã bỏ mạng bởi cuộc chiến tranh bắt đầu từ đây và cả linh hồn của vô số người dân vô tội đã trở thành nạn nhân của cuộc chiến tranh.

Tấn thảm kịch của chiến tranh sẽ không bao giờ được lặp lại.Chúng tôi đã thề như thế. Và rồi sau chiến tranh, chúng tôi đã xây dựng nên quốc gia tự do, dân chủ, tôn trọng pháp trị và duy trì lời thề bất chiến một cách chân thành.

Khi chiến tranh kết thúc, lúc Nhật Bản trở thành cánh đồng cháy trụi mênh mông và khổ sở trong tận cùng của nghèo đói, người đã không hề ngần ngại gửi đến thức ăn, quần áo là nước Mĩ và quốc dân Mĩ. Nhờ những tấm áo ấm và sữa mà quý vị gửi đến mà người Nhật đã giữ được sinh mệnh tới tương lai…

Và rồi nước Mĩ cũng đã mở cho Nhật Bản con đường trở lại cộng đồng quốc tế. Dưới sự lãnh đạo của nước Mĩ, chúng tôi, với tư cách là một thành viên của thế giới tự do đã được hưởng thụ hòa bình và sự phồn vinh.

Tấm lòng khoan dung rộng lớn, sự giúp đỡ và thành ý như thế của quý vị đối với người Nhật chúng tôi, những người đã từng đối đầu quyết liệt như kẻ địch đã khắc sâu trong lòng ông bà, bố mẹ chúng tôi. Cả chúng tôi cũng sẽ ghi nhớ điều đó. Cả con cháu chúng tôi cũng sẽ kể mãi và không thể nào quên…

Đã 75 năm sau trận “Trân Châu cảng”. Nhật Bản và nước Mĩ, những nước đã tham dự cuộc chiến tranh tàn khốc trong lịch sử, đã trở thành hai nước đồng minh gắn bó với nhau mạnh mẽ và sâu sắc hiếm có trong lịch sử…  Thứ gắn kết chúng ta chính là “sức mạnh của hòa giải”, the power of reconciliation, thứ do lòng khoan dung mang lại.

Người Nhật và người Mỹ không đợi đến ngày nay mới quyết định “bỏ đi sự thù hận và nuôi dưỡng tình bạn”. Ngay sau khi Thế Chiến Thứ II vừa chấm dứt, họ (kẻ thắng/người thua) đã nắm tay nhau để tạo nên “sức mạnh của tinh thần hòa giải” và sự “khoan dung” gần trăm năm nay.

Chiến tranh VN cũng đã chấm dứt 49 năm (rồi) nhưng không biết đến bao giờ thì Bên Thắng Cuộc ở đất nước này mới thôi việc đình đám/cờ xí/tiệc tùng ăn mừng chiến thắng, thôi kỳ thị, và thôi kích động hận thù để hòa giải và hòa hợp với Bên Bại Cuộc?

Trương Nhân Tuấn trả lời: “Tôi có thể kết luận (mà không sợ sai lầm) rằng đảng và nhà nước CSVN chưa bao giờ có chủ trương về hòa giải (hay HG&HH DT). Hòa giải-réconciliation” là hành vi chỉ có ở những dân tộc văn minh”.

Nghe thế có buồn không?

Buồn chớ và buồn muốn khóc luôn, buồn như chưa bao giờ buồn thế, buồn như không còn ai có thể buồn hơn được nữa. Buồn từ ngã bẩy, ngã ba buồn về.

Tưởng Năng Tiến


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Bứt Phá & Đột Phá

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

19/09/2024

Khi còn tại chức, không ít lần, T.T Nguyễn Xuân Phúc đã khiến cho dân tình hoang mang hay bối rối khi nghe những câu chữ rất lạ kỳ : “Quảng Ninh là đầu tàu kinh tế của cả nước’, ‘Vĩnh Phúc sẽ vươn lên trở thành đầu tàu kinh tế của cả nước’, ‘Long An phải trở thành đầu tàu kinh tế của cả nước’, ‘Hải Phòng là đầu tàu quan trọng của cả nước’, ‘Bình Dương phải là đầu tàu phát triển kinh tế mạnh nhất của cả nước …”

Ông Phúc, may thay, đã rời khỏi chính trường. Điều không may là vị thủ tướng đương nhiệm cũng đang làm cho nhiều người bất an (không ít) vì những câu phát ngôn cũng ly kỳ không kém:

Blogger Trân Văn (VOA) nhận xét:

“Nếu ông Nguyễn Xuân Phúc – tiền nhiệm của ông Chính – thường xuyên khuyến khích các ngành, các địa phương trở thành… ‘đầu tàu’ … ông Chính – nhân vật kế nhiệm – lại rất yêu… ‘đột phá’. Không chỉ động viên các ngành, các địa phương… ‘đột phá’, ông Chính còn khuyên các doanh nghiệp ngoại quốc đầu tư vào Việt Nam (FDI) tham gia ‘đột phá’ nếu muốn phát triển. Thậm chí ông Chính còn đề nghị những quốc gia khác nên cùng Việt Nam… ‘đột phá”!

Tôi e là tác giả đoạn văn thượng dẫn có hơi quá lời khi khẳng định rằng Phạm Minh Chính “rất yêu đột phá”! Nói nào ngay, cả nước (tất cả mọi địa phương, ngành nghề, ban bệ, đoàn thể, tổ chức, quan chức …) đều bứt phá rầm rầm và đột phá lia chia chứ đâu có riêng chi ông thủ tướng.

 

Tuy thường xuyên “bứt phá” và “đột phá” nhưng nước Việt nhất định không nhúc nhích, hay nói cho chính xác hơn là “không chịu phát” – theo như cách nói mỉa mai và giễu cợt của những chuyên gia Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF): “Trên thế giới chia ra gồm nước phát triển, nước đang phát triển, nước chậm phát triển nhưng Việt Nam có lẽ là mô hình đặc biệt nhất. Đó là nước… không chịu phát triển”!

FB Nhân Thế Hoàng bàn thêm:

“Nguyên nhân chính được đưa ra cho tình trạng ‘không chịu phát triển’này là do tham nhũng, theo điều tra thì để kiếm 1 đồng lợi nhuận, doanh nghiệp cần phải bỏ 1,02 đồng tiền bôi trơn. Hiểu nôm na là bạn còng lưng thức khuya, dậy sớm để nấu tô bún bán chẳng hạn, bạn muốn lời 5000 đồng/1 tô thì bạn phải nộp hơn 5000 đồng cho cha dân phòng nằm vắt dái ngủ khi không làm gì cả, nó chỉ có cái quyền duy nhất là quản lý cái vỉa hè bạn đang bán bún mà thôi.

Đây cũng là lý do mà quy mô doanh nghiệp Việt Nam ngày càng nhỏ, so với 10 năm trước đây thì quy mô của doanh nghiệp Việt Nam hiện tại đã giảm chỉ còn một nửa. Đó, làm kinh tế kiểu ngược đời như vậy thì bảo sao Việt Nam không mãi nghèo nàn, lạc hậu, ăn rồi xách cái bát lân lê các nước để ăn xin cho được”.

Thảo nào mà không ít lời ta thán:

  • Nguyễn Đình Bin: “Tình hình Đảng và đất nước vẫn đã và đang tiếp tục diễn biến ngày càng tồi tệ, tới mức báo động thực sự nghiêm trọng, chưa từng xảy ra bao giờ” .
  • Đoàn Bảo Châu: “Các tập đoàn nhà nước thua lỗ bao nhiêu nghìn tỷ đồng, thay vì thành những nắm đấm thép thì biến thành những móng thép cào cấu vào ngân sách. Về những công nghệ cả thế giới đang nhau lên để làm chủ như máy tính lượng tử, trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học… thì mù tịt nhưng cứ thích ba hoa kiểu bà cán bộ nói sẽ áp dụng AI vào loa phường.

Về chủ quyền, rõ ràng mình đang khai thác dầu trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, thằng hàng xóm nó ho một cái, lập tức phải co vòi, dừng hoạt động, đền bù cho đối tác nước ngoài.

Về những giá trị phổ quát của nhân loại như tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, nhân quyền thì lẹt đẹt cuối bảng. Hiền lành như những nhà hoạt động môi trường mà còn bị bắt tới 6 người, giờ không còn tổ chức dân sự nào để giám sát cam kết của Việt Nam về chuyển đổi năng lượng với quốc tế…”

  • Nguyễn Văn Lục: “Trên trời không còn tiếng chim bay, cá dưới nước không có chỗ lội. Thú rừng cạn kiệt. Rừng môi sinh bị khai phá, hủy diệt. Con người Việt Nam hôm nay ra sao. Đó là một cuộc cạnh tranh sinh tồn như thời nguyên sơ để sống còn”.
  • Song Phan: “Chưa có giai đoạn lịch sử nào của Việt Nam mà người dân phải đi làm mướn khắp nơi trên thế giới, thậm chí phải trốn chui, trốn nhũi trong container ngột ngạt, lạnh giá để có chỗ làm mướn ở nước ngoài; gái VN phải chịu nhục trần truồng để người nước ngoài lựa làm vợ…”

Đã đến non nước này rồi nên T.S Mạc Văn Trang đành chơi bài ngửa, khỏi xa gần/úp mở gì nữa ráo: “Quên mẹ nó mấy cái Mác Lê, đuôi XHCN đi, không lướng vướng vào mấy cái đó sẽ tư duy thực tiễn, bứt phá được”. Đúng thế. Cứ chui đầu vào cái rọ cộng sản rồi lại loay hoay hết “bứt phá” đến “đột phá” thì có khác chi là “múa tay trong bị”.

Vấn đề, tuy thế, rất không giản dị vì VN là một quốc gia Đảng trị mà lòng dân và ý Đảng lại hoàn toàn trái ngược. FB Võ Xuân Sơn cay đắng:

“Chúng tôi, người dân Việt nam, đâu có ai muốn cái mô hình ‘đặc biệt nhất thế giới’, mô hình không chịu phát triển. Nhưng họ, những kẻ không muốn đất nước này phát triển, những kẻ chỉ muốn trục lợi cá nhân, làm giàu cho cá nhân mình, cho gia đình mình bằng cách ăn cắp tiền của dân, đục khoét ngân sách, vắt cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, làm mất khả năng phát triển của cả nền kinh tế nước nhà, chỉ có những kẻ đó là muốn duy trì cái mô hình quái gở như vậy mà thôi”.

Vậy thì đâu còn lựa chọn nào khác là phải lật đổ “họ” thôi. Nếu không thì cả dân tộc này có thể sẽ bị nguy cơ bị diệt vong, chớ mong chi đến chuyện phát triển mà nói chuyện “bứt phá” (hay “đột phá”) làm chi – cho má nó khi!


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Hát Xẩm

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

17/09/2024

Rằm tháng Tám (Tết Trung Thu) tôi hú cả đống bạn bè tụ tập lại chơi, và uống sương sương vài chai cho vui nhà vui cửa – nhân lúc “nhà tôi” …đi vắng. Sau khi cạn mấy ly đầy, rồi đầy vài ly cạn, và lại cạn thêm mấy ly đầy nữa thì tất cả chúng tôi đều “ngỡ như trẻ thơ – dù tóc đều đã bạc từ lâu!

Cả đám đồng ca bài Thằng Cuội. Bản nhạc mà có lẽ đứa bé nào sinh trưởng ở miền Nam (vào thập niên 1950 – 1960) cũng biết. Đây là bài đồng dao được nhạc sĩ Lê Thương viết bằng những lời lẽ rất tân kỳ, dù nền tân nhạc Việt Nam (vào thời điểm này) còn ở giai đoạn phôi thai:

Bóng trăng trắng ngà có cây đa to
Có thằng Cuội già ôm một mối mơ …

Lặng nghe trăng gió hỏi nhau
Chị kia quê quán ở đâu
Gió không có nhà
Gió bay muôn phương
Biền biệt chẳng ngừng
Trên trời nước ta…”

Các con dế mèn suốt trong đêm khuya
Hát xẩm không tiền nên nghèo xác xơ

Hát bội, hát chèo, hát cô đầu, hát cải lương, hát hồ quảng… để kiếm sống ra sao thì tôi không biết. Chớ còn hát xẩm thì dù có được (cho) tiền, vẫn nghèo xơ xác.

Thuở ấu thơ, thỉnh thoảng, tôi vẫn nhìn thấy những người hát xẩm. Họ thường ngồi ở cầu thang chợ Đà Lạt, vào lúc chợ đông, gẩy những tiếng đàn buồn bã (và hát những bài ca u uất) giữa sự hờ hững của đám đông – “ông đi qua bà đi lại”!

Đó là chuyện hát xẩm miền Nam, trong trí nhớ non nớt của tôi, khi đất nước đã hoàn toàn chia cắt. Ở miền Bắc, sinh hoạt của giới người này (có lúc) lại hoàn toàn khác hẳn :

“Khi hoà bình mới lập lại 1954, ông (nhà văn Thanh Tịnh) được giao phụ trách một đoàn xẩm, gồm 23 anh chị em, phần lớn là mắt kém, đi về hướng Bùi Chu – Phát Diệm, lấy lời ca tiếng hát dân gian để động viên đồng bào đừng nghe theo những lời dụ dỗ di cư của kẻ địch mà hãy ở lại với quê hương.” (Vương Trí Nhàn. Cây Bút Đời Người. Phương Nam: 2002).

Quê hương, tuy thế, xem ra cũng chả “ưu ái” gì lắm với những người ở lại. Ngay cả Thanh Tịnh (một nhà văn tăm tiếng, biên tập viên của tạp chí Văn Nghệ, sĩ quan cao cấp của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam Anh Hùng) mà ngó bộ cũng không được hạnh phúc hay vui sướng gì lắm, ngay giữa lòng cách mạng :

“Ở vào cái tuổi chưa đầy sáu muơi mà Thanh Tịnh những năm đó trông đã già lắm, già hơn tuổi rất nhiều… muốn biết Thanh Tịnh đơn độc thế nào phải nhìn những lúc ông đi bộ. Trên đường Phan Đình Phùng, duới những hàng sấu, cũng già cả mệt mỏi, ông bước đi như không thể dừng lại nên phải bước, khuôn mặt đăm chiêu, dáng điệu đờ đẫn.” (Vương T.N. s.đ.d 181).

Với hàng triệu người di cư thì hậu vận cũng không sáng sủa gì hơn. Họ bị bắt lại, trọn đám, sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng! Từ đây, Nam/Bắc hoà lời ca. Một bản trường ca rất khó hát nên hằng triệu kẻ đã liều mạng đâm xầm ra biển, hay ù té bỏ chạy thục mạng qua biên giới xứ người.

Họ thuộc thành phần “bất hảo, cặn bã của xã hội, ma cô, đĩ điếm, trộm cướp, chây lười lao động, ngại khó ngại khổ, chạy theo bơ thừa sữa cặn… ” – theo như nguyên văn lời giải thích của giới truyền thông trong nước với dư luận thế giới, và với lũ cột đèn (còn) ở lại.

Không hiểu đám người này đã hành nghề ma cô, đĩ điếm và tổ chức trộm cướp ra sao – nơi đất khách – nhưng số lượng bơ thừa sữa cặn mà họ gửi về cố hương đã cứu toàn dân, cũng như toàn Đảng, thoát chết (đói) nhiều phen. Từ đó, Bộ Chính Trị bèn đổi mới tư duy, và báo chí nhà nước cũng bắt đầu… đổi giọng.

Chỉ qua một đêm, tiếng Việt (bỗng) có thêm nhiều cụm từ rất mới và (nghe) rất thân thương: khúc ruột xa ngàn dặm, sứ giả Lạc Hồng, thành phần không thể thiếu trong đại gia đình dân tộc …  Bộ Ngoại Giao VN cũng có thêm một vị Thứ Trưởng, Chủ Nhiệm Ủy Ban Người Việt Ở Nước Ngoài.

Nếu bỏ những chức danh vừa kể, cho nó đỡ rườm rà, và nói trắng phớ ra thì đây chỉ là một đoàn hát xẩm tân thời. Nhiệm vụ mới không phải là động viên người dân ở lại như thời Thanh Tịnh (vì chúng đã thoát được rồi) mà là kêu gọi họ đừng nỡ ngoảnh mặt đi luôn, tội lắm!.

Nói cho chính xác thì trước khi cái “đoàn hát xẩm” này được chính thức thành lập, Đảng và Nhà Nước cũng đã từng có những “động thái” để hoà giải với cộng đồng người Việt ở nước ngoài, cụ thể là chuyến công du Hoa Kỳ (vào năm 2004) của bà Tôn Nữ Thị Ninh – Phó Chủ Nhiệm Ủy Ban Đối Ngoại Quốc Hội.

Chỉ tiếc có điều là cái giọng hát xẩm của bà Ninh lại không được dễ nghe cho lắm :– Trong gia đình chúng tôi có những đứa con, cháu hỗn láo, bướng bỉnh thì để chúng tôi đóng cửa lại trừng trị chúng nó, dĩ nhiên là trừng trị theo cách của chúng tôi. Các anh hàng xóm đừng có mà gõ cửa đòi xen vào chuyện riêng của gia đình chúng tôi.

–  Mình là thế thượng phong của nguời chiến thắng, mình cần chủ động, người ta không thể chủ động được do mặc cảm, cũng không thể yêu cầu ngươi ta đi trước, họ đứng ở vị trí không thuận lợi trong tiến trình lịch sử.

Đã ngồi ngửa nón ăn xin giữa chợ đời mà còn ca ông ổng (“mình là thế thượng phong”) như thế thì có mà ăn cứt. Thứ Trưởng Ngoại Giao Lê Thị Thu Hằng – Chủ Nhiệm Ủy Ban Người V.N Ở Nước Ngoài – cũng thế (cũng không biết thế nào là nghề hát xẩm) nên giọng ca rất khó nghe: “Một bộ phận bà con vẫn chưa thực sự mở lòng, xóa bỏ định kiến tiếp, chưa có nhận thức đúng, đủ, kịp thời về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước”.

G.S Nguyễn Văn Tuấn nhận xét:

“Tôi thấy phát ngôn này hơi bậy nè. Bà con ở ngoài này, nếu họ quan tâm đến quê hương, thì họ có nhiều thông tin hơn những gì báo chí do Nhà nước kiểm soát cung cấp. Chị có để ý là cứ mỗi lần có thay đổi nhân sự ở trong nước thì bà con ngoài này đã biết trước khi báo chí đưa tin cả tháng trời. Họ thậm chí còn biết những chuyện ‘thâm cung bí sử’ do chính những bà con trong nước chuyển ra.

Chẳng hạn như làm sao bà con trong nước đọc được các tác phẩm của Vũ Thư Hiên, Tô Hải, Trần Đĩnh, Lê Phú Khải, v.v. nhưng bà con ngoài này thì đọc lâu rồi. Chị có vẻ xem thường bà con ở hải ngoại.”

Chị Hằng, nói nào ngay, cũng không đến nỗi xem thường “bà con ở hải ngoại” bằng người tiền nhiệm, T.T Nguyễn Thanh Sơn. Ông cựu Chủ Nhiệm Ủy Ban Người Việt Ở Nước Ngoài ăn nói còn khó nghe hơn thế nữa cơ:

  • Họ ra đi, đem theo hận thù và hận thù đó, rất đáng tiếc, được nuôi dưỡng bởi sự không hiểu về chúng ta, bởi những tuyên truyền sai lệch về chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội. Sự sợ hãi đó gây nên nhiều thiệt thòi cho bà con. 
  • Trong rất nhiều người đã về Việt Nam, chúng tôi đã gặp, và chúng tôi biết chứ, rất nhiều người tham gia những cuộc biểu tình trước đây… Chúng tôi có hỏi một vài người tại sao lại tham gia như thế làm gì thì họ bảo là thực tế nói thật là cũng đi để kiếm thêm vài ba chục đô la vì họ phát tiền, họ cho tiền thì tại sao không đi.

Với cái đám “bất hảo, cặn bã của xã hội, ma cô, đĩ điếm, trộm cướp, trây lười lao động, ngại khó ngại khổ, chạy theo bơ thừa sữa cặn” và sẵn sàng đi biểu tình chỉ “để kiếm thêm vài ba chục đô la” mà Đảng và Nhà Nước mong họ “tích cực đóng góp xây dựng đất nước” thì quả là ước mong rất đỗi viển vông. Cũng viển vông y như dự tính huy động tiền và vàng của người dân trong nước vậy.

Túng quá nên hoá quẫn chăng?


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Biệt phủ & biệt thự

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

13/09/2024

Tôi vốn duy tâm (và hơi duy cảm) nên gần như chả có tham vọng, hay khát vọng gì nhiều về vật chất. Trước khi về Trời (hay về đâu đó) tôi chỉ có ước vọng duy nhất là được ngồi trong khoang hạng nhất – First Class, hay Business Class cũng ok – trên một chuyến bay đường dài, từ châu Mỹ sang châu Á.

Sau khi xem qua giá vé, tôi đổi ý liền, tới mấy ngàn Mỹ kim lận. Ở quê tôi không ít người phải bán thân (hay bán thận) mà chỉ được vài trăm đô la thôi nên tôi đâu có điên mà… vứt tiền qua cửa sổ như vậy.

Đã vậy, tôi cũng hơi ngại ngần rằng cái thứ thường dân tị nạn như mình mà giả dạng làm du khách e cũng khó coi. Tôi còn sợ là mình sẽ vô cùng lúng túng khi được những tiếp viên hàng không tiếp đãi trang trọng quá.

Cách đây chưa lâu tôi cũng đã có đôi chút kinh nghiệm (rất phiền) khi bầy đặt làm sang, liều mạng thuê một cái phòng ngủ hơi mắc tiền ở Rangoon – Miến Điện. Vừa bước xuống taxi, nhân viên khách sạn túa ra chào đón khiến tôi hết hồn hết vía.

Họ đưa tôi vào một cái phòng rộng thênh thang có bàn ăn, bàn viết, bàn phấn, tủ lạnh, sofa tiếp khách to đùng, và cả hoa tươi trên table de nuit. Mình ên tui mà tới hai cái giường ngủ lận, cái lớn/cái nhỏ, ra nệm trắng tinh. Trên mặt gối còn có đặt mấy búp sen hồng tươi thắm và thơm ngát nữa.

Tôi chỉ dám nằm ké né chút xíu xiu ở mí giường thôi, và nằm thao thức cho tới gần sáng luôn vì không quen ngủ ở một nơi sang trọng. Đợi mặt trời vừa lú là tôi cút ngay vì ngại cái cảnh nhân viên khách sạn (lại) chắp tay xá chào khi từ biệt.

Tôi trở lại với mấy cái nhà trọ rẻ tiền quen thuộc, chi phí chỉ vài Mỹ kim một ngày thôi – breakfast included. Tuy phải nằm giường hai tầng, và ngủ chung phòng với mấy cô/cậu Tây ba lô (xốc xếch) nhưng tôi cảm thấy thoải mái hơn nhiều. Tưởng chừng như mình là một con cá hồi, vừa tìm lại được đúng dòng sông cũ vậy!

Hoá ra Oscar Lewis cũng không sai lắm. Nhà nhân chủng học này đưa ra cái khái niệm culture of poverty (văn hoá nghèo) và tin rằng một kẻ sinh trưởng và nuôi nấng từ một gia đình – và đất nước nghèo khó – như tôi rất khó thích ứng với những sinh hoạt của nếp sống phú túc nên cứ … nghèo hoài, cho tới chết luôn!

Tui cũng sắp chết tới nơi rồi nên không có gì để phiền hà ráo trọi nhưng khi còn sống thì nhất định không để cái văn hoá nghèo biến mình trở thành một kẻ nghèo văn hóa.

Chỉ cần ngồi nhà – không phải tiêu dùng một đồng nào ráo trọi – xem một bộ phim tài liệu (Amazing Hotels: Life Beyond the Lobby) dài sáu tiếng, cũng đủ giúp tôi học hỏi rất nhiều điều kỳ thú về những khách sạn lạ lùng và sang trọng vòng quanh thế giới: Marina Bay Sands (Singapore), Giraffe Manor (Kenya), Royal Mansour (Morocco), Fogo Island Inn (Newfoundland), Icehotel (Sweden) …

Riêng Mashpi Lodge thì tôi coi đi coi lại tới vài lần. Mashpi được coi là “Five Star Ecohotel.” Có tên trong danh sách những khách sạn độc đáo của thế giới do National Geographic tuyển chọn, dù Mashpi chỉ chiếm một diện tích rất khiêm tốn, và nằm ẩn mình trong khu rừng mây (cloudy forest) xa khuất thuộc rặng núi Andean ở Nam Mỹ.

Chủ nhân là Roque Sevilla (cựu thị trưởng Quito, thủ đô của Ecuador) người trở thành triệu phú nhờ vào dịch vụ bảo hiểm và truyền thông, đã mua 1.200 mẫu Tây đất rừng với giá 350, 000 USA dollars, và bỏ thêm 10 triệu Mỹ Kim nữa để xây dựng quán trọ Mashpi Lodge. Ông tâm sự: “Mọi người đều nghĩ rằng tôi điên. Everybody thinks I’m crazy.”

Với số vốn lớn lao này mà khách sạn chỉ có 22 phòng thì quả là “khùng” thiệt nhưng mục đích của Roque Sevilla không phải là đầu tư sinh lợi. Ông muốn cứu vãn, và bảo vệ, một phần rừng nguyên sinh đang bị mất dần vì sự khai thác quá tải của những công ty cung cấp gỗ.

Phần lớn nhân viên của Mashpi Lodge vốn là thợ làm rừng hay thợ săn. Nay họ đều trở thành những chuyên viên bảo vệ thiên nhiên. Kết quả là nhiều chủng loại (chim chóc cũng như động vật hoang dã) mất dạng từ hơn nửa thế kỷ đã có mặt trở lại trong khu rừng mây của Mashpi Lodge – theo ghi nhận bởi camera traps của nhà sinh vật học thường trú Carlos Morochz.

Tôi cứ nhìn cái khách sạn thiết kế toàn bằng kiếng (để du khách đứng ở góc nào cũng có thể tiếp xúc với thiên nhiên) với thư viện, phòng thí nghiệm, đài quan sát … của ông thị trưởng Quito mà không khỏi ngẩn ngơ và chạnh lòng nghĩ đến giới quan chức ở đất nước mình.

Thay vì bảo vệ thì những kẻ này chính là thủ phạm đã phá nát rừng núi ở Việt Nam để khai thác gỗ kiếm tiền, và xây những biệt thự hay biệt phủ :

– Biệt phủ Yên Bái và tài sản bất minh

– Bất ngờ biệt phủ gỗ quý của lãnh đạo kiểm lâm

– Biệt phủ xây bằng 2.000 m3 gỗ quý của đại gia xứ Nghệ

– Hoa mắt trước biệt phủ rộng thênh thang bằng gỗ quý của ông Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm Quảng Trị

– Vì sao quan chức lại có dinh thự, “biệt phủ” xa hoa đến vậy?

– Hình ảnh khu “biệt thự quan chức” ồn ào ở Lào Cai

– Biệt thự quan chức: Những dinh thự, biệt phủ “ồn ào” dư luận thời

– Biệt thự Sơn La là của em trai Chủ nhiệm UB Kiểm tra tỉnh

– Con gái nguyên lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước đứng tên “biệt phủ”

– 137 biệt thự trong Khu Bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà: “Tối mật” hay mặt tối của một toan tính

– Biệt phủ vẫn sừng sững sau những ồn ào

Bà Nguyễn Hải Vân, một chuyên viên về môi trường cho hay :

“Rừng phòng hộ ở Việt Nam đang suy giảm mạnh cả về diện tích và chất lượng. Chỉ tính từ 2004-2014, diện tích rừng phòng hộ đã giảm 1,7 triệu hécta, tương đương tốc độ suy giảm trung bình 23%/năm.”

Nhà báo Trương Châu Hữu Danh nhận xét :

“Trên khắp dải đất hình chữ S này, nhà gỗ triệu đô không hiếm. Nhưng những căn nhà này không thuộc về giới siêu giàu, giới doanh nhân. Những căn nhà này, trớ trêu thay, lại là của cán bộ. Sau lệnh đóng cửa rừng, các món đồ gỗ, nhà gỗ này càng trở nên vô giá.

Một thực tế là nhà cán bộ càng to thì lũ càng lớn, dân chết càng nhiều. Những căn nhà xa hoa này được đánh đổi bằng mạng dân. Các vị ngủ có ngon không khi dưới chân mình là xác dân lập lờ trong lũ dữ?”

Theo tôi thì “các vị cán bộ” này đều vẫn ngủ rất ngon vì họ được bảo vệ rất kỹ trong những căn “nhà gỗ triệu đô” bởi chế độ hiện hành. Qua lệnh xử phạt “500 triệu đồng và cho tồn tại ‘biệt phủ’ của gia đình ông Phạm Sỹ Quý” ở Yên Bái, mọi người đều thấy được cái tâm, cũng như cái tầm, của những người hiện đang nắm quyền bính ở Việt Nam. Đất nước này tuy không nằm trên đường xích đạo như Ecuador nhưng số phận thì e đen đủi hơn nhiều.


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Mạ Thủ & Cò Mù

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

10/09/2024

Thỉnh thoảng, tôi vẫn nghe cư dân mạng than phiền về những dư luận viên (DLV) của chế độ hiện hành:

  • Nguyễn Tiến Dân: “Trong đám Tuyên giáo, thành phần lưu manh nhất – cặn bã nhất, chính là cái lũ, mà CS gọi là dư luận viên”.
  • Võ Văn Tạo: “Vì họ kém văn hóa nên họ có kiểu viết lách khiêu khích, cục cằn, thô bỉ lắm”.
  • Trương Huy San: “Lâu nay, cứ đọc những tin nhắn tục tĩu, những cmts khiên cưỡng, ngờ nghệch mà không biết ở đâu ra.”
  • Tuấn Khanh: “Nuôi dưỡng những kẻ giòi bọ đó, như bôi tro trát trấu mặt cả chủ nuôi, liệu có ích lợi gì”?

Cá nhân tôi – hàng tuần – cũng vẫn đọc được những bài viết của các bạn DLV (dành cho riêng mình) với những lời lẽ không mấy ôn hòa, hay nhã nhặn:

Tôi đã xem qua cả trăm bài viết với với nội dung (“khóc thằng bán cua”) và ngôn từ (“đầu đường xó chợ”) tương tự nhưng chưa bao giờ bận tâm hay phiền hà gì sất. Phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, các bạn DLV đều không quen cầm bút nên viết lách hơi bị khó khăn, và vô cùng khó đọc.

Họ hoàn toàn không có khái niệm chi về câu cú và văn phạm cả nên hành văn lủng củng, vụng về, dài dòng, lan man trích dẫn đủ thứ chủ trương/chính sách/ nghị quyết (vớ vẩn) để chứng minh là đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước luôn luôn đúng đắn. Họ cũng sẵn sàng thóa mạ bất cứ ai không “nhận thức được sự đúng đắn” này, chứ không thể lập luận hay phản bác bất cứ một cáo buộc nào ráo trọi.

Khả năng, thái độ, cũng như lời lẽ của các bạn DLV khiến nhiều người liên tưởng đến một giới người có tên gọi là mạ thủ, ở nước Trung Hoa, ngày trước. G.S Nguyễn Văn Tuấn cho biết:

“Tôi mới học được một danh từ mới: mạ thủ. Một cách ngắn gọn, mạ thủ là một kẻ chuyên nghề chửi. … Danh từ này xuất phát từ thời Hán Sở tranh hùng và Tam Quốc Chí bên Tàu. Thời đó, nhà cầm quyền huy động những người có lá phổi lớn, tiếng nói vang, và có cách chửi độc địa để làm ‘mạ thủ’…

Tàu ngày xưa là nơi sản sanh ra những mạ thủ, thì Tàu ngày nay cũng có những đội quân mạ thủ, nhưng họ mang một danh xưng văn hoa hơn: dư luận viên… Nói tóm lại, bọn mạ thủ là những kẻ không có khả năng đánh giá đúng sai, họ chỉ đơn giản là những cái máy phun ra những câu chữ mà có khi họ không hiểu”.

Tôi ít học (và ít đọc) nên không rõ lắm về bối cảnh xã hội vào cái “thời thời Hán Sở tranh hùng và Tam Quốc Chí bên Tàu”. Còn tình cảnh của các bạn DLV hiện nay (ở Việt Nam) thì hoàn toàn không được sáng sủa gì cho lắm.

Ở xứ sở này, cỡ cử nhân hay thạc sỹ còn chạy xe ôm (nhan nhản) thì nói chi đến những người không nghề nghiệp và trình độ học vấn chỉ ở mức biết đọc và biết viết. Muốn tham gia vào lực lượng xuất khẩu lao động thì cũng phải có ít nhiều vốn liếng (hay tài sản thế chấp) mới có thể vay mượn để lo lót cho một xuất đi.

Còn bán hoa, bán vé số, lao động phổ thông … chả những quá nhọc nhằn mà chắc gì đã kiếm được “ba củ” (ba trăm đô la) mỗi tháng – như lương bổng hiện nay của các bạn DLV. Tuy chỉ là đồng lương vô cùng khiêm tốn nhưng có còn hơn không, chứ không có đồng nào thì biết sống làm sao?

Trong thư gửi một dư luận viên của tác giả Dương Quốc Chính, ông tâm sự: “Chỉ vì những người lớn như các bác quá hèn, nên các cháu mới ra nông nỗi này”.

Đúng thế! Tôi cũng không cách chi chối bỏ được trách nhiệm của mình trước tình trạng bi đát, gần như không lối thoát, của con cháu hiện nay. Bởi thế, tuy vẫn bị bạn mạt DLV mạt sát đều đều, cả chục năm qua, tôi vẫn luôn lấy bồ hòn làm ngọt!

Vấn đề, tuy thế, không chỉ có thế mà thôi. Các bạn DLV mỗi lúc một đi quá xa khiến cho thiên hạ rất phiền hà và lo ngại.

Hôm 26 tháng 8 năm 2024, Nguyên Tống than phiền: “Mình thấy cần có đôi lời cần phải nói với những kẻ mà mình coi là vô học và dốt nát trên fb này… Chỉ cần có một chút tư duy thôi là họ sẽ đặt được câu hỏi: vì sao những người đang có cuộc sống hơn họ rất nhiều kia lại lên tiếng về những bất công xã hội?

Những người đó có được lợi ích gì cho cá nhân họ không? Hay chính những kẻ bần cùng khốn nạn và vô học kia đang được hưởng? Chẳng lẽ họ đã mất khả năng tư duy của một con người mà chỉ biết sủa theo hiệu lệnh chủ để kiếm khúc xương còm cõi mà gặm cho qua ngày đoạn tháng?! Cuộc sống của họ đơn giản không hơn gì con vật như vậy ư”?

Bùi Thanh Hiếu thêm:

“Điều đáng lo ngại nhất từ mâu thuẫn giữa người Việt về hệ tư tưởng không chỉ giới hạn giữa việc hai bên người Việt thoá mạ nhau, mà nó dẫn tới sự căm thù chế độ tư bản của những người thanh niên trong nước, mà ta tạm gọi là thanh niên cờ đỏ. Sự căm thù chế độ tư bản, tức căm ghét các nước tư bản của thanh niên cờ đỏ đang có nguy cơ trở thành một phong trào lan rộng, nó có thể tác động đến quan hệ đối ngoại…

Đáng nói đây không còn là sự căm thù mang tính cảm xúc nhất thời, mà dường như nó đang được thế lực nào đó thúc đẩy một cách có bài bản mang tính chuyên nghiệp, có sự tài trợ, hỗ trợ về mọi phương tiện như kinh tế hay những chính sách ưu đãi trên các nền tảng mạng xã hội.”

Nỗi “lo ngại” này được không ít người tán đồng, và chia sẻ:

  • Ngô Vưu: “Thực ra bọn đó là bọn AK47 ăn lương để quậy chửi bới trên mạng … Dân nghèo họ lo cày cuốc, làm ăn, thời gian đâu, khả năng đâu mà phá rối”.
  • Trường An : “Hiếu viết bài này đúng như suy nghĩ của mình. Nhiều khi tự hỏi, nếu không có động lực nào từ phía sau, lẽ nào bọn ấy lên đồng tập thể vậy được”.
  • Thảo Dân: “Chắc chắn khựa đứng sau dùng mạng tiktok để kích động rồi anh. Chúng không muốn người Việt đoàn kết, không muốn Việt Nam phát triển.”
  • Trần Toàn: “Não bị nhồi đậu hũ vào nên sáng tối chẳng nhận ra mù màu tịt cả mùi Anh ạ”.

Tôi thực sự không có được cái tầm nhìn xa rộng như quý vị thức giả thượng dẫn. Hiện trạng của cá bạn DLV chỉ khiến tôi nhớ đến một hiện tượng rất đáng ngại, đang diễn ra tại nơi ở đất nước mình – theo thông tin của giới truyền thông:

Báo Vietnamnet cho biết đôi ba chi tiết:

Cứ vào mùa từ tháng 3 đến mùa tháng 8, tại cánh đồng thuộc xã Xuân Liên, rất nhiều hình nộm chim giả để nhử chim thật, nhiều cây cối được trồng để làm chỗ đậu cho các loài chim trời…

Theo chân người săn chim, chúng tôi vào sâu các cánh đồng. Ở đó, ám ảnh nhất là những con chim bị khâu mắt lại. Từ những con chim bình thường, chúng bị biến thành những con chim mù, bị buộc chân giữa nắng để làm mỗi nhử đồng loại.

Theo lý giải của họ:“Sở dĩ cò bị móc mắt, hoặc lấy kim chỉ khâu mắt, biến thành cò mù vì tiếng cò bị mù mắt sẽ kêu to hơn cò bình thường nhằm gọi được đàn cò khác đến dính bẫy”.

Khâu mắt cò đã là việc làm dã man khiến lắm người cảm thấy bị “xót xa” và “ám ảnh”, nói chi đến chuyện nhẫn tâm khâu cả mắt con người để biến họ thành một “lực lượng” thông tin mù quáng và lớn họng!


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Vũng lầy giáo dục

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

05/09/2024

Lá vẫn còn xanh. Hè vẫn còn nấn ná. Trời vẫn chưa muốn vào thu mà (không dưng) sáng nay California chợt thoáng chút âm u, và lấm tấm vài hạt mưa nho nhỏ. Mưa chưa ướt đất nhưng cũng đủ làm cho tôi hơi thấy ngại ngần khi nghĩ đến chuyện phải ra khỏi nhà chỉ vì một ly cà phê nóng.

Thôi thì bắt chước cổ nhân thắp vài cây nến nhỏ, châm một bình trà, rồi ngồi nhẩn nha đọc lại vài bức thư xưa. Lá thư cũ nhất mà tôi còn giữ được (“Thư Gửi Các Cháu Học Sinh”) Chủ Tịch Hồ Chí Minh, đề ngày 3 tháng 9 năm 1945, có mấy câu vô cùng thắm thiết và cảm động:

 “Ngày hôm nay là ngày khai trường đầu tiên ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa… Bác đã tưởng tượng thấy trước mắt cái cảnh nhộn nhịp tưng bừng của ngày tựu trường ở khắp các nơi… từ giờ phút này trở đi các cháu bắt đầu được nhận một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam.”

Viễn ảnh về một ngày tựu trường “nhộn nhịp tưng bừng … ở khắp các nơi” và một “nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam” dễ khiến cho lòng người phấn chấn:

“Chúng tôi thường tự hào đây là một nền giáo dục riêng của người Việt, một nền giáo dục không có dây dưa gì nhiều với nền giáo dục mà thế kỷ trước, người Pháp đã mang lại.” (Vương Trí Nhàn. “Mấy Cảm Nhận Về Sự Khác Biệt Giữa Giáo Dục Miền Nam Và Giáo Dục Miền Bắc.”  Tạp Chí Nghiên Cứu Và Phát Triển số 7-8 năm 2014).

Niềm tự hào này, tiếc thay, không kéo dài lâu. Khi có cơ hội so chiếu, nhà phê bình văn học và văn hóa Vương Trí Nhàn đã nhìn ra sự bất toàn:

 “Cái mà ta gọi là giáo dục miền Bắc chỉ là sự kéo dài của lối phát triển giáo dục trong chiến tranh… Giáo dục chiến tranh, do dó, luôn luôn là một nền giáo dục dở dang chắp vá, mà lại vẫn phải khoác cho mình cái chức danh lớn lao của một nền giáo dục mới mẻ, cách mạng…

Nói quá lên thì có thể bảo, như một cơ thể, GDMB thuộc loại tiên thiên bất túc, tức sinh ra đã không đủ các bộ phận cần thiết, sinh ra đã bất thành nhân dạng. Phương châm ở đây là làm lấy được, tức là chưa đủ điều kiện, nhưng thấy cần, vẫn cứ làm —  rồi để yên lòng nhau, sẽ viện ra đủ lý lẽ để chống chế, để lấp liếm và xa hơn nữa, sẵn sàng tự ca tụng…”

Hệ quả, tất nhiên, là thảm họa – vẫn theo như nhận định của tác giả bài viết thượng dẫn:

“Mươi năm gần đây, tình hình có chút đổi khác, nhưng là chỉ đổi khác trên bề mặt. Cựa quậy mấy thì nền giáo dục này cũng không khác được so với chính mình. Nó đã cạn kiệt năng lực tự cải hóa. Ngay cả những người trong bộ máy quyền lực cũng đều tính chuyện cho con em mình qua nhiểu nước phương Tây, nhất là sang Mỹ để học.

Nhưng họ chỉ lo được cho gia đình riêng của họ thôi. Ở trong nước, những bài bản của miền Bắc cũ được tân trang lại chút ít vẫn ngự trị trong toàn bộ nền giáo dục, và trong thâm tâm, nhiều người đã bắt đầu nghĩ rằng hình như có một bãi lầy đã được tạo ra và chúng ta không bao giờ ra thoát.”

Đối với những thế hệ đến sau (những kẻ sinh trưởng ngay giữa “bãi lầy”) thì vấn đề không còn gì để mà bàn cãi nữa. Vũ Thạch Tường Minh, một học sinh lớp 8, đã khẳng định như vậy: “Bây giờ giáo dục Việt Nam con thấy là, con không có tính từ nào khác nên con phải dùng tính từ này, là giáo dục Việt Nam bây giờ con thấy là quá ‘thối nát’ rồi. Mà suốt bao năm qua các vị cải đi, cải lại, cải tiến, cải lùi mà nó vẫn không thay đổi được kết quả gì cả.”

Khoảng cách giữa nhà nghiên cứu văn học Vương Trí Nhàn và cháu Vũ Thạch Tường Minh là ba thế hệ người. Tuy vậy, cả hai đều “nhất trí” là nền giáo dục hiện nay của nước CHXHCNVN (đã) hết thuốc chữa rồi!

Để minh chứng, xin xem qua một “trường hợp thú vị” – nơi một vùng quê, thuộc tỉnh Rạch Giá –  theo như nguyên văn lời của giáo sư Nguyễn Văn Tuấn:

“Một em gốc Khmer học giỏi, thi đậu vào 3 trường đại học (2 đại học ở Sài Gòn và 1 ở ĐH Cần Thơ), nhưng cuối cùng thì giấc mơ đại học cũng đành phải bỏ. Ba má em ấy lí giải rằng: học để làm gì, nhìn quanh số sinh viên tốt nghiệp đại học thất nghiệp tùm lum cả, mà ngay cả xin được việc thì cũng cần đến 500 triệu đồng đút lót thì làm sao nhà có khả năng lo nổi.

Tôi kinh ngạc về con số 500 triệu đồng (tức là 25000 đôla), nên phải hỏi lại cho chắc ăn, thì bà con đều khẳng định đó là con số tiêu biểu, có trường hợp thấp hơn nhưng cũng có trường hợp cao hơn. Tình trạng mua chức đâu phải chỉ ở ngoài Bắc, mà đang lan về nông thôn miền Tây rồi đấy.”

Mọi tệ trạng vừa nêu đang được Đảng và Nhà Nước “đối phó” hay “giải quyết” bằng … chỉ thị số 42-CT/TW (“Tăng Cường Sự Lãnh Đạo Của Ðảng Đối Với Công Tác Giáo Dục Lý Tưởng Cách Mạng, Đạo Đức, Lối Sống Văn Hóa Cho Thế Hệ Trẻ Giai Đoạn 2015 – 2030”) như sau:

“Công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ phải được tiếp tục tăng cường và nâng cao về chất lượng, nhằm góp phần xây dựng thế hệ trẻ Việt Nam giàu lòng yêu nước, tự cường dân tộc, kiên định lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có đạo đức trong sáng, ý thức tuân thủ pháp luật; có năng lực, bản lĩnh trong hội nhập quốc tế; có sức khỏe, tri thức, kỹ năng lao động, trở thành những công dân tốt, tích cực tham gia vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.”

Sự thực thì thiên hạ không còn ai kỳ vọng hoặc quan tâm gì ráo vào bất cứ lời “kêu gọi” (nghe cứ như hô khẩu hiệu) nào của Đảng tự lâu rồi. Người dân tìm cách tự cứu qua nhiều nỗ lực rất đáng trân trọng, dù gặp không ít khó khăn, ngăn trở và sách nhiễu.

Từ Bangkok, biên tập viên Gia Minh có bài tường thuật (“Nhóm Cánh Buồm Ra Mắt Sách Giáo Khoa Mới”) khá bất ngờ và thú vị. Xin trích dẫn một vài đoạn ngắn:

 Nhóm soạn sách giáo khoa Cánh Buồm do nhà giáo Phạm Toàn chủ xướng vào ngày 12 tháng 8 vừa qua giới thiệu bộ sách Văn và Tiếng Việt lớp sáu tại Trung tâm Văn Hóa Pháp ở Hà Nội. Việc ra mắt sách mới của Nhóm Cánh Buồm không thuộc Bộ Giáo Dục như thế được cho là một dấu chỉ tích cực trong tình hình giáo dục Việt Nam hiện nay.…

Một nhà giáo công khai đấu tranh chống những tiêu cực trong ngành giáo dục Việt Nam lâu nay, thầy Đỗ Việt Khoa cũng tỏ rõ sự ủng hộ đối với sách giáo khoa do Nhóm Cánh Buồn soạn thảo:

 “Đây là nhóm khá tâm huyết đang soạn bộ sách giáo khoa cho liên cấp từ tiểu học trở lên. Theo quan điểm của tôi làm được một bộ sách giáo khoa như vậy là công sức cực kỳ lớn, rất tốt. Sẽ có những chỗ chưa được, có người sẽ đánh giá khiếm khuyết… nhưng sửa dần không sao cả…”

Cùng vào thời điểm này, một công dân Việt Nam khác (ông Hoàng Thành, 25 tuổi) đã đến trước cổng trụ sở Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, cầm ảnh của chính mình – với poster in hình con chuột bạch đang bị tiêm thuốc – cùng dòng chữ: “Học sinh, sinh viên không phải là CHUỘT BẠCH.”

Khi được hỏi về “ý nghĩa” của việc làm này, ông cho biết:

 “Bức ảnh của tôi đơn thuần là một hình thức thực hiện quyền biểu đạt ý kiến của mình. Tôi chỉ muốn nhắn tới các bậc cha mẹ và các em học sinh … rằng: Hãy thể hiện quan điểm của mình trước các vấn đề xã hội, thay vì chỉ biết kêu than, vì đó không những là quyền của chúng ta, mà còn là cách chúng ta giúp chính quyền hiểu được nhu cầu của dân chúng và hoàn thiện chính sách sao cho hợp lý nhất…”

Ở bình diện cá nhân, cũng như tập thể – rõ ràng – đang có những nỗ lực đáng kể của rất nhiều người để vượt ra khỏi cái “vũng lầy giáo dục” hiện nay. Với ý thức và quyết tâm, chắc chắn, chúng ta sẽ “thoát” bất chấp sự ngăn trở (cùng sức ì) của chế độ hiện hành – một chế độ mà mọi người đều biết là sinh mệnh của nó đang được đo đếm từng ngày.


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Đám Bắc Kỳ

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

03/09/2024

Trong bài viết “Tổng Quan Về Hồi Ký Tô Hoài,” Đặng Tiến có nhận xét sau :

“Ở các tác phẩm trước, Tô Hoài thường bao che, bào chữa, như là một hồi ký bao cấp. Đến Chiều Chiều, giọng kể nghiêm nghị hơn về đời sống chính trị và văn nghệ ngột ngạt những năm 1955-1970, về những sai lầm trong chính sách Cải cách ruộng đất, về những đợt học tập chiếu lệ ở trường Đảng cao cấp là trường Nguyễn Ái Quốc …”

Thực là quí hóa! Nhờ Tô Hoài đã chán viết “hồi ký bao cấp” nên qua Chiều Chiều độc giả mới biết được cuộc sống (thực) của một gia đình nông dân ở miền Bắc, Việt Nam.

Từ cái năm xây cống Trà, đồng bớt mặn khỏi mặn, ông Ngải ra vỡ hoang được chín miếng thành ruộng rồi ở luôn đấy, chẳng bao lâu những nhà khác cũng kéo ra, cái xóm to dần. Bà Ngải lại kể ngày trước ông ấy đi kéo cày mướn thay trâu.

Một con trâu thường đi suất ba sào. Ông kéo một buổi năm sào ruộng dầm gần gấp đôi trâu, chỉ đổi vai thừng một lần. Ngày công cao gấp rưỡi người khác mà các chủ ruộng đều ưa gọi ông, nhiều người đặt hẳn cọc đầu năm.

Rồi lại việc sông nước, đi cất vó. Cái năm ra phá hoang, chưa nên đất phải bện cỏ đánh luống để vũi dây khoai. Được ba tháng lá tốt um, móc lên ngốt mắt những củ khoai mập mạp. Rồi ông ấy lợp lều ở luôn, vừa trông vừa làm. Đến khi thành ruộng đã cấy được rồi mà cứ gặt xong lại cuốc, đất ngấu như bãi bồi. Thế là lại cắm luống dưa hồng, dưa gang, được quả to như lợn tháu lăn lóc cả đồng.

Nghe cứ như nếp sinh hoạt của đám nông dân vào Thời Trung Cổ: tối tăm và ngập bùn lẫn đất. Được cái là an bình và no đủ, dù đạm bạc.

Giá vợ chồng và con cái của ông bà Ngãi cứ được tiếp tục cuộc sống tối tăm như thế mãi thì chắc… họ cũng không có (và không biết) gì để phàn nàn. Nhưng cách mạng bùng lên, với nhiều đường lối và chủ trương vô cùng quyết liệt: Cải Cách Ruộng Đất, Hợp Tác Xã Nông Nghiệp, Cải Tạo Công Thương Nghiệp, Giải Phóng Miền Nam …

Trong nhà ông Ngải cũng nhiều đối thay. Ốc đã đi bộ đội. Cả Toàn con rể, ông bà cho ở gửi rể, cũng đi bộ đội. Chỉ ông bà Ngải vẫn ngày ngày nghe kẻng ra đồng làm. Nhưng ông Ngải ghét nhất cái cảnh ra đầu xóm đứng lố nhố, chuyện râm ran, điểm danh mấy lần vẫn chưa đủ người, đến khi cả tổ ra tới giữa đồng thì mặt trời đã lên ngang lưng tre.

Ông Ngải bực mình chửi làm ăn thế này thì đói rã họng ra đến nơi. Ông Ngải không đi với mọi người. Ông hỏi hôm nay làm gì rồi ông xuống đồng trước. Ông Ngải đi sớm về muộn.

Ông làm theo ý ông, không biết cái kẻng. Ông đã quá tuổi lao động, ông làm hay không cũng thế, nhưng hôm nào không đi làm thì chân tay như uỗi ra. Cái gì ông cũng tự nghĩ rồi làm. Ông chỉ cho con cái học cho biết mặt chữ.

Ông gả chồng cho cái Hến cũng không biết thế là tảo hôn, mà làng nước cũng chẳng ai bắt bẻ ông. Thằng Ốc nhà độc đinh ông vẫn cho đi bộ đội. Ông bảo “đi cho biết đó biết đây”.

Suy nghĩ của ông Ngãi xem chừng hơi giản dị nhưng cuộc đời thì không, dù là đời sống của một ông nông dân chân chất, vẫn theo ngòi bút của Tô Hoài :

Tôi lại về xóm Đồng… Bao nhiêu năm rồi, ông Ngải ngồi bên búi tre lép, ngày ngày mọi việc trôi qua như dòng sông quanh ngoài chân tre. Cũng đồng đất ấy, nhưng chẳng ai nhắc đến thời hợp tác xã. Người đời hay tránh cái đau, cái hèn kém cả đến trong ăn nói cũng kiêng những tiếng thô, tiếng bỗ bã…

Một con trâu vào xóm. Đường ngõ vướng tường và nhà cao, chân trâu bước âm âm rời rạc như tiếng chày giã bèo. Rồi ló ra con trâu đi, một bé cưỡi trâu, một người đàn bà vai vác như cái sào, như cây mía, một bé quảy gánh cỏ rảo bước như chạy. Ông Ngải không nhìn ra, nhưng nói:

– Mẹ con nhà nó.

Nói rồi ông ngước mặt:

– Anh Tư về chơi, mẹ Hến à!

Cô Hến ngả nón. Cô Hến chỉ bé sắt người lại còn thì vẫn như trước, cứ hao hao mà không khác mấy.

– Anh mới về. Mấy chục năm rồi…

– Năm nay cô bao nhiêu tuổi, cứ trừ đi khoảng mười lăm năm thì là bấy nhiêu lâu.

– Tính làm gì cho già người. Trông anh vẫn thế, bố em mà không gọi tên. em vẫn nhận ra.

– Cô với cháu đi làm đồng về. Thằng bé cưỡi trâu này ngày trước nằm võng phải không?

– Em vào trong xóm mua chuối…

– Thế thì cô là lái chuối…

Tôi hỏi:

– Anh Toàn nhà cô đâu?

– Báo cáo với anh, nhà em lên Hà Nội làm xế lô. Có khi anh gặp mà không nhận ra thôi. Đến mùa thì về đỡ đần việc nhà. Cày cuốc ra hạt gạo, thì đồng tiền lại hiếm. Chẳng đạp cái xế lô thì đào đâu ra tiền làm nhà, trát sân, lại tiêu pha cho các cháu đi học. Thằng nhớn cũng thôi học rồi, chưa đến tuổi tuyển quân, đương đòi xuống Diêm làm cửu vạn …

Cô Hến lại kể:

– Nhà em bảo em lên ở Hà Nội. Giàu có nhà quê không bằng ngồi lê Kẻ Chợ, vẫn đồn thế mà. Người hèn đớn cũng kiếm được, không mất bữa. Gánh đồng nát mà lãi quan viên. Nhà em bảo thế, em cũng đã lên xem sao.

Rồi cô Hến cười rúm mặt lại:

– Chưa nổi phiên chợ em phải nhảo về. Kệch đến ngày xuống lỗ

– Thủ đô đấy, mà cô chê a?

– Mỗi tối thuê cái chiếu nằm gầm cầu, có tiền bạc của nả thì gối đầu, giắt lên ngực. Bốn bên lủng củng người nằm, nói anh bỏ lỗi, nó đéo nhau huỳnh huỵch rồi lại chửi nhau, quát nhau to tiếng hơn ô tô chạy ngoài đường. Cả đêm không tài nào chợp mắt, ăn cơm lại oẹ ra, ốm đến nơi. Thế là cút ngay. Thuê kẹo em cũng không bao giờ dám lên Hà Nội nữa.

Chiều Chiều xuất bản vào năm 1997. Tô Hoài từ trần năm 2014. Ông bà Ngải chắc cũng không còn trên dương thế. Cậu con rể (hẳn) đã trở thành một công dân lão hạng, và e không còn sức vóc để tiếp tục đạp xế lô như xưa nữa. Loại xe này, nghe đâu, cũng đã bị cấm tiệt cả rồi.

Cháu ngoại ông Ngải (chắc) đang làm cửu vạn ở Diêm, như dự ước. Cái Hến (không chừng) đã thành bà nội và (có lẽ) vẫn ở lại xóm Đồng vì không quen cảnh sống (“bốn bên lủng củng người nằm đéo nhau huỳnh huỵch”) ngay giữa Thủ Đô Của Lương Tri & Phẩm Giá Con Người!

Cả gia đình ông Ngãi chỉ có mỗi thằng Ốc là đi bộ đội vào giải phóng miền Nam nhưng chưa đến nơi đã trở thành liệt sĩ nên lỡ mất cái cơ hội mang cái khung xe đạp, hay con búp bê, về lại xóm làng. Ấy thế chứ cứ theo dư luận thì cả nhà vẫn bị điều tiếng (và đay nghiến) là… đám Bắc kỳ:

  • Trần Yên Hoà: Nói đến dân bắc kỳ bảy lăm thứ thiệt đang làm mưa làm gió ở Sài gòn đó là những ông lớn đang cai trị dân miền Nam, từ công an, thuế vụ, ngoại thương, chủ tịch quận huyện, giám đốc các công ty quốc doanh, đám nầy đang làm mưa làm gió ở miền Nam và toàn quốc. Ở Sài Gòn, suốt đường Trần Quốc Toản (nay là đường 3 tháng 2) những ngôi nhà cao tầng khang trang sang trọng được mọc lên, đó là đất của quân đội cũ bọn việt công chiếm và chia chác cho nhau, cất nhà lầu cho thuê, buôn bán…
  • Nguyễn Hữu Huấn: Từ sau năm 75 thì Bắc kỳ lại càng ăn trên ngồi trốc, các cụ không tin cứ mở cái máy “dzô tuyến chuyền hình” hay cái “ra dzô” ra thì thấy liền, các “xướng ngôn dziêng” hầu như “chăm phần chăm” đều là Bắc kỳ, không cậu thì mợ. Còn các mợ tiếp dziêng “E Việt Nam”, mợ nào mợ nấy đều khoe “em người Hà Lội” hết ráo! Chẳng biết tại “dziêng dzáng” hay” phe đảng”?
  •  Nguyễn Văn Tuấn : Ai cũng biết phần lớn phi công VNA là người Bắc, nhưng ít ai biết rằng phần lớn tiếp viên VNA cũng là người phía Bắc. Ðó là hệ quả của chủ nghĩa lý lịch và chủ nghĩa địa phương, “chủ nghĩa chiến thắng.

Quí vị thức giả thượng dẫn viết không có gì sai nhưng e không đúng lắm với hoàn cảnh của gia đình ông Ngải, nơi cái Xóm Đồng (nào đó) ngoài miền Bắc. Ông bà Ngãi chưa chắc đã có lần nào đặt chân đến miền Nam, nói chi đến chuyện “làm mưa làm gió’ hay “chiếm đất đai” của bất cứ ai ở xứ sử này. Con cháu họ có lẽ cũng chưa đứa nào được “may mắn” bước chân lên một chiếc phi cơ, và cái cơ hội được trở thành một tiếp viên của VNA (e) còn xa vời lắm.

Như đã thưa (đôi lần) tôi chưa bao giờ được đặt chân đến miền Bắc nên không thể biết là có bao nhiêu triệu nông dân (đang sống trong cảnh bần cùng) ở vùng đất này, như gia đình ông Ngãi. Chỉ đoán già đoán non rằng họ chiếm khoảng chừng 60 đến 70 phần trăm dân số của nửa phần đất nước. Họ mới chính là những nạn nhân lâu năm nhất, khốn khổ và khốn nạn nhất của chế độ hiện hành.

Ở Việt Nam hiện nay chỉ còn có hai loại người thôi: thống trị và bị trị. Cả nước đã rơi vào tay cộng sản mà còn chia phe (Bắc/Nam/Trung) nữa bao giờ mới thoát nạn được, hả Trời?


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Ngày Độc Lập

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

02/09/2024

Ngày 2 tháng 9 năm 45, ông Hồ Chí Minh long trọng đọc Tuyên Ngôn Độc Lập tại quảng trường Ba Đình – Hà Nội. Bữa đó, tui không có mặt. Lý do: không phải vì quá bận, hay vì có chuyện chi đó (đố kỵ) với cá nhân ông Hồ hoặc đám Cộng Sản VN mà chỉ vì tôi chưa kịp… ra đời!

Dù sinh sau đẻ muộn, tôi cũng nghe được hơi nhiều chuyện “không được tử tế gì cho lắm” quanh cái ngày này – ngày khai sinh ra cái gọi là nước “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.” Trước hết, xin ghi lại vài mẩu tin có liên quan đến ông Nguyễn Hữu Đang – Trưởng Ban Tổ Chức Ngày 2 Tháng 9 – được trích dẫn nguyên văn từ những cơ quan truyền thông của Nhà Nước, vào mười lăm năm sau :

Báo Quân Đội Nhân Dân (21/01/1960):

Ta hãy nghe Đang cung khai trước Tòa án: Tôi đã gây hoài nghi đối với sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ. Tôi đã cổ động cho những xu hướng chính trị phản động. Tôi đã thổi phồng hoặc xuyên tạc bịa đặt ra những khuyết điểm để nói xấu Chính phủ và những cơ quan Nhà nước.

Báo Nhân Dân (21/01/1960):

Trước tòa án, với những bằng chứng đầy đủ, bọn gián điệp nói trên đã nhận hết tội lỗi của chúng. Sau khi luật sư Đỗ Xuân Sảng bào chữa cho các tội phạm, căn cứ vào chính sách xét xử và trừng trị của Tòa án nhân dân là nghiêm trị bọn chủ mưu và bọn ngoan cố, khoan hồng với những người lầm đường, bị lừa gạt đã biết hối cải …

Báo Thời Mới (21/01/1960) :

“Năm tên gián điệp phản cách mạng, phá hoại hiện hành cúi đầu nhận tội. Nguyễn Hữu Đang và Thụy An, đầu sỏ chủ mưu, bị phạt giam 15 năm và mất quyền công dân 5 năm sau khi hết hạn giam.”

Mười lăm năm sau, sau khi mãn hạn tù (không biết Thụy An trôi dạt về đâu) Nguyễn Hữu Ðang thì lủi thủi trở lại làng quê của ông, ở Thái Bình :

… Gót nhọc men về thung cũ
Quì dưới chân quê
Trăm sự cúi đầu
Xin quê rộng lượng
Chút thổ phần bò xéo cuối thôn

(“Ăn Năn” – Phùng Cung)

Nguyễn Hữu Đang sống gần hết quãng đời còn lại nhờ vào côn trùng và cóc rắn! Ông cũng đã chọn sẵn chỗ nằm trong “… một búi tre gần cuối xóm, độc giữa cánh đồng…, dưới chân búi tre ấy có một chỗ trũng nhưng bằng phẳng, phủ dầy lá tre rụng, rất vừa người … Tôi sẽ nằm ở đó chết để khỏi phiền ai … Tôi đã chọn con đường ngắn nhất để có thể bò kịp đến đó, trước khi nhắm mắt xuôi tay” (Phùng Quán. “Ngày Cuối Năm Tìm Thăm Người Dựng Lễ Ðài Tuyên Ngôn Ðộc Lập.” Ba Phút Sự Thực, 2nd ed. Văn Nghệ: 2007).

Đọc xong bài viết thượng dẫn, Công Tử Hà Đông có đôi lời góp ý như sau :

Nguyễn Hữu Đang đi kháng chiến 9 năm, không thấy nói trong 9 năm ấy NH Đang làm gì, ở đâu. Trở về Hà Nội sau Hiệp Định Geneve chia đôi đất nước, NH Đang là một trong số văn nghệ sĩ đòi tự do tư tưởng, tự do sáng tác được gọi là nhóm Nhân Văn Giai Phẩm; NH Đang bị Tố Hữu, Trường Chinh thù, kỵ tài, dùng tội Phản Động Chống Đảng đánh cho tàn tệ. Bọn Tố Hữu, Trường Chinh cho NH Đang đi tù năm 1959. Năm ấy Hồ chí Minh mới về Hà Nội, được tẩm bổ, tiếng VC học mót của CS Tầu là ‘bồi dưỡng’, người ngợm Hồ béo tốt, hồng hào, phởn phơ. Nhưng không một lần họ Hồ nhớ đến ‘chú Đang’, không một lời hỏi:

– Chú ấy làm tội gì mà bắt chú ấy tù khổ thế?

Nhiều người Hà Nội biết chuyện NH Đang là Trưởng Ban Tổ Chức Lễ Đài Ngày 2 Tháng 9, 1945 ở Hà Nội, NH Đang là người đứng trước micro giới thiệu:

– Thưa đồng bào… Đây là Chủ Tịch Chính phủ Lâm Thời Hồ chí Minh.

Nói xong, NH Đang lùi lại, nhường micro cho Hồ chí Minh. Bức ảnh chụp Hồ đọc tuyên ngôn có NH Đang đứng ngay sau lưng họ Hồ. Sau khi còng cổ tống NH Đang đi tù, bọn Tố Hữu cho tẩy, xóa hình NH Đang trong bức ảnh. Từ đó ảnh Hồ chí Minh đọc Tuyên Ngôn không có NH Đang.

Nói tóm lại là cuộc đời của Nguyễn Hữu Đang đã bị cách mạng xoá sổ hoàn toàn. Đây không phải là loại “tai nạn” chỉ xẩy ra riêng cho một cá nhân. Ở bình diện tập thể, người dân cũng bị cách mạng tước đoạt mọi thứ – “tan hoang đến tột cùng” – theo như cách diễn tả của nhà văn Võ Văn Trực, trong ký sự Chuyện Làng Ngày Ấy  :

Ngày mồng 2 tháng 9 hàng năm, dân làng tôi gọi là ngày ‘tết Độc Lập’. Cả làng nghỉ việc đồng áng. Nhà nào cũng thắp hương bầy biện mâm cỗ cúng đơm. Nhiều trò vui được tổ chức như ngày tết Nguyên Đán. Làng xóm hân hoan trong phong tục mới…

Thêm được ngày hội Tết độc lập, nhiều ngày hội cổ truyền khác bị phế bỏ: rằm tháng giêng, thanh minh, tết Đoan ngọ, rằm tháng bẩy…Người ta cho đó là cổ hủ, là mê tín dị đoan … Thế là cả làng làm cách mạng triệt để, thay cũ đổi mới hoàn toàn. Gặp nhau ngoài đường, giơ nắm tay phải lên ngang tai ‘chào đồng chí’. Nhất là trong các cuộc hội nghị, mẹ gọi con bằng ‘đồng chí, con gọi bố bằng ‘đồng chí’, anh gọi em bằng ‘đồng chí’…

Sau tết Độc lập đầu tiên, đến tết Nguyên Đán, không thấy ông tôi cuộn hương trầm công phu như trước, chỉ mua hương ở chợ. Chiều 29 tết, ông mở hòm gỗ trắc, lau bụi đôi hạc đồng, xếp lại câu đối, rồi khoá hòm. Tôi ngỡ ngàng hỏi: ‘Sao ông không đem ra cúng tết?’ Ông trả lời giọng ngậm ngùi: ‘Bây giờ là cách mạng, khác rồi cháu ạ…’ Vĩnh viễn các đồ tế khí linh thiêng ấy nằm trong hòm khoá kín như tấm lòng ông tôi khoá lại niềm tôn kính thờ phụng tiền nhân…

Sau cuộc rước tổ tiên tập trung về một nơi, tất cả các nhà thờ họ trong làng đều bị phá. Có nhà thờ biến thành địa điểm hội họp. Có nhà thờ biến thành kho phân. Tất cả thánh, thần, phật ở rải rác cá thể trong thôn xã đều phải về tập trung tại đền Hàng Khoán, dưới chân núi Hai Vai…

Thần đã đi rồi. Thánh đã đi rồi. Phật đã đi rồi. Những ngôi đền, ngôi chùa, ngôi miếu như cái xác không hồn. Dân tứ chiếng tranh nhau cướp giật mang đi: người được hòn đá tảng, người được cái cửa vọng, người được viên ngói viên gạch, người được cái cột gỗ…Ôi tan hoang đến tột cùng tan hoang sau cuộc rước các thần các thánh về thế giới đại đồng. Tại nhà thờ thánh, tượng Khổng Tử lăn long lóc như người ăn mày tha hương chết đường chết chợ, bị trẻ con ném cứt vào mặt…

Tác phẩm Chuyện Làng Ngày Ấy, theo nhận xét của nhà phê bình văn học Thụy Khuê :

“Nhẹ như tiếng thở dài, Võ Văn Trực đưa ta vào cõi ấy, cõi mộng du hoang tàn tiền sử: Sau khi tập trung tất cả những gì thuộc địa hạt thần linh, đến tập trung con người. Tập trung con người bằng hội họp, suốt ngày hội họp bỏ bê đồng áng, hệ quả tất yếu là không có lúa gạo, là đói khát, là thuế khả năng: vét nhẵn, sạch trơn không còn một hạt thóc. Không còn gì để đóng thuế, là phản động. Là tố cáo lẫn nhau. Là đấu tranh chính trị. Là tố khổ…”

Chưa hết, cùng thời điểm mà mồ mả tổ tiên và đền thờ thánh thần phải tập trung “để lấy đất canh tác” thì một trong những nhân vật lãnh đạo của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà – ông Phạm Văn Đồng – đã thể hiện “một cử chỉ tốt đẹp về tình hữu nghị” bằng một công hàm tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của nước láng giềng Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa về hải phận.

Công hàm này đang được Trung Quốc coi như “là một chứng cứ cho thấy Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.” Và đây có lẽ là một trong những lý do khiến cho một nhóm trí thức Việt Nam, vào ngày 13 tháng 7 năm 2011, đã gửi một bản kiến nghị đến Quốc hội và Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, bầy tỏ sự lo ngại rằng: “Độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta đang bị uy hiếp, xâm phạm nghiêm trọng.”

Trước đây, cũng đã có nhiều người dân Việt khác bầy tỏ sự quan ngại tương tự về lãnh thổ, lãnh hải cũng như tính cách độc lập của đất nước này. Tất cả, đều đang bị cầm tù. Không có gì bảo đảm rằng 20 nhân sĩ vừa ký tên trong bản kiến nghị (dẫn thượng) sẽ thoát khỏi số phận tương tự, trong tương lai gần.

Không có gì quí hơn Độc Lập Tự Do
Tôi biết nó, thằng nói câu nói đó
Tôi biết nó, đồng bào miền Bắc này biết nó
Việc nó làm, tội nó ra sao

Tác giả bốn câu thơ thượng dẫn, ông Nguyễn Chí Thiện, rõ ràng là một người… vô ơn! Ông ấy quên béng đi rằng trong 27 năm đi tù, năm nào vào ngày 2 tháng 9 ông ấy cũng đều được ban quản lý trại giam cho ăn thịt – chí ít thì cũng phải được một miếng (bạc nhạc) bằng đầu ngón tay út, hay lớn hơn tí xíu.

Truyền thống “văn hóa độc lập” này vẫn còn kéo dài mãi đến hôm nay, theo như nhật ký (Một Năm Kể Lại) của Người Buôn Gió :

“Hôm nay là ngày 2-9-2009, sáng sớm đài phát thanh trên tường ra rả ca ngợi thành tích đạt được của đất nước, lời ông Hồ đọc bản tuyên ngôn độc lập được phát đi phát lại nhiều lần. Anh bạn tù cùng phòng hít hít cái mũi vào không khí nói:

– Hôm nay chúng mình sẽ được ăn thịt.

Tôi nhìn ra ô cửa sắt bâng quơ:

– Chắc hôm nay không phải đi cung nhỉ?

Anh bạn hồ hởi gật đầu.

– Đúng, ai lại đi cung ngày này…”

Ngày mà Bác tuyên bố “từ nay đất nước ta hoàn toàn độc lập” (quả) là một ngày đặc biệt đối với tất cả mọi người dân Việt, không loại trừ ai, trải mấy thế hệ qua – kể từ Nguyễn Hữu Đang, qua Nguyễn Chí Thiện, đến Bùi Thanh Hiếu.

Cái giá của độc lập/tự do, tất nhiên, phải mắc – đã đành. Điều khó đành lòng, phải nói, là dân Việt lại vớ nhằm của giả mà vẫn phải ngậm bồ hòn làm ngọt – từ hơn nửa thế kỷ qua.