S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Thái Hạo

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Báo Đàn Chim Việt

18/03/2023

Bằng khoảng giờ này năm ngoái, nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên được mời đọc tham luận trong một buổi hội thảo (“Hoài Cố Nhân – Kỷ Niệm 100 Năm Ngày Sinh Nhà Văn Võ Hồng”) do đại học Phú Yên tổ chức. Diễn giả, tuy thế, đã không thể có mặt vì sự can thiệp “thô bạo” của chính quyền địa phương (vào giờ phút cuối) như tường thuật của chính ông – qua FB:

Nhưng sáng thứ Sáu (22/4/22) tôi nhận được điện gọi của người trong ban tổ chức báo là tuyên giáo tỉnh Phú Yên yêu cầu họ không được để tôi và hai người nữa (trong đó có nhà văn miền Nam cũ Nguyễn Lê Uyên tức Đoàn Việt Hùng) tham dự hội thảo, bài của cả ba không được đưa vào kỷ yếu. Lý do bên an ninh đưa ra, theo người của ban tổ chức cho biết, là do tôi tham gia“Văn Đoàn Độc Lập”.

Tôi không lạ và không bất ngờ trước sự việc này đối với mình. Nhưng đây là một hành động thô bạo của công an Phú Yên can thiệp vào một hội thảo khoa học quốc gia về một nhà văn nổi tiếng của tỉnh nhà… Tôi không buồn cho mình, chỉ buồn cho tỉnh Phú Yên…

Năm nay thì “nỗi buồn Phú Yên” đã dời qua Thanh Hóa,” và cũng vẫn “buồn” y như năm trước, chỉ có mỗi “nạn nhân” là khác thôi – theo như nguyên văn lời của người trong cuộc:

Theo thư mời từ ban tổ chức là Cty sách Quảng Văn, nxb Phụ nữ và một trường học trên địa bàn TP Thanh Hóa, bắt đầu từ sáng mai tôi cùng một số diễn giả khác sẽ có buổi trò chuyện với các em học sinh, phụ huynh và bạn đọc yêu mến sách vở.

Tuy nhiên tôi lại không thể có mặt.

Lý do: ban tổ chức gọi điện báo cho tôi biết rằng “có ý kiến của bên an ninh về ‘trường hợp’ khách mời Thái Hạo”, và đành phải thành thật xin lỗi… Tôi không muốn bình luận gì thêm về sự kiện này. Vì tự nó đã là một lời bình luận cô đọng nhưng đầy đủ và sâu sắc nhất

Tuy Thái Hạo “không muốn bình luận gì thêm về sự kiện này” nhưng đồng nghiệp/ thân hữu/ độc giả của ông thì không được mát tính (hay bình tâm) như thế, trước mọi sách nhiễu phi lý (kể cả việc bạo hành) đã từng xẩy ra cho nhà thơ của họ:

  • Thận Nhiên: “Giận dữ & cay đắng.”
  • Lao Ta:“Nếu những gì kể lại của nhà thơ Thái Hạo là sự thật 100%, thì đất nước mình, vốn rất ít đóng góp cho nhân loại những chuyện hay, nhưng lại kì tài trong việc tạo ra những chuyện chả ra gì.”
  • Nguyên Tống: “Thực sự chán, không hiểu họ đang định dẫn dắt xã hội về đâu?!”
  • Ninh Duy: “Số phận của nước Lỗ đã an bài. Không còn cơ hội đi về phía văn mi”
  • Nguyễn Trường Sơn: “Tôi luôn ước ao tư tưởng khai sáng được truyền bá và thực thi trên đất nước việt, chúng ta đã từng có Phan Châu Trinh và sẽ cần có những con người yêu nước như Thái hạo.”

Lời bình thượng dẫn khiến tôi nhớ đến đôi bài diễn thuyết hùng hồn của cụ Phan, gần trăm năm trước: “Đạo Đức Luân Lý Đông Tây” (19/11/1925) và “Quân Trị Chủ Nghĩa Dân Trị Chủ Nghĩa” (27/11/1925) tại Hội Thanh Niên Sài Gòn. Cả hai đều được ví von là hai quả bom nổ tung giữa thành phố Sài Gòn.”

Trước đó không lâu, chính xác là đúng trăm năm trước, Nguyễn An Ninh cũng đã từng có những hoạt động tương tự:

Ông tổ chức mít tính, diễn thuyết, viết báo, hăng hái đấu tranh với chính quyền thực dân bóc lột. Cuộc đời ông có hai lần diễn thuyết lớn. Lần đầu là đêm ngày 25/1/1923 với đề tài “Nền văn hóa Việt Nam”. Lần thứ hai là vào đêm 15/10/1923 với đề tài “Lý tưởng thanh niên An Nam.”

 Tiếng vang qua hai bài diễn thuyết của Nguyễn An Ninh đã tác động mạnh đến dư luận thanh niên và trí thức Sài Gòn, đã làm đau đầu chính quyền thống trị. Thống đốc Nam Kỳ lúc đó là Cognacq phải gọi ông lên dinh để mong bịt miệng. Dụ dỗ không thành, Cognacq đã ra lệnh cấm Nguyễn An Ninh diễn thuyết hay tụ họp bất cứ nơi đâu.  

Không thể tiếp tục đấu tranh bằng lời, ông chuyển sang đấu tranh bằng ngòi bút. Ông cho ra đời báo La Cloche Fêlée (Chuông rè) bằng Pháp văn với người quản lý Pháp lai tên Eugène Dejean de la Bâtie vào ngày 10/12/1923. Mặc dù lo sợ nhưng không cấm đoán được, viên Thống đốc Cognacq và nhà cầm quyền Pháp chủ trương đánh phá La Cloche Fêlée.

Bất cứ ai cầm tờ báo trên tay cũng bị mật thám theo dõi, bị đuổi học, đuổi việc. Chủ nhà in, thợ sắp chữ liên tục bị hăm dọa. Báo phải đổi nhà in, chủ báo Nguyễn An Ninh vừa là ký giả, vừa phụ xếp chữ với thợ, sửa bản vỗ, làm long tong. Sau khi in xong, đích thân Nguyễn An Ninh mặc đồ dài, tay ôm sấp báo đứng bán ở góc đường … (Lê Văn Thử. Hội Kín Nguyễn An Ninh: nxb Thế Giới, 2021).

Trăm năm sau – sau khi chủ nghĩa thực dân đã mồ yên mả đẹp, đất nước sạch bóng quân thù, xứ sở nước hòa bình, Bắc/Nam thống nhất, Nam/Bắc hòa lời ca … – thử hình dung xem: nếu nhà thơ Thái Hạo (sau khi bị bịt miệng) cũng thản nhiên “cho ra đời một tờ báo,” rồi “đích thân tay ôm sấp báo đứng bán ở góc đường …” thì sao há?

Bị hốt liền và đi tù là cái chắc, chứ chả phải xem/xét (sao/sáo hay há/ha) gì cả. Tội danh thì đã có sẵn rồi (“làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm chống nhà nước …”) điều luật cũng thế (không thiếu 88, 116, 117, 258 …) và chỉ đợi đến lúc đối tượng bị điệu ra tòa là chụp lên đầu thôi.

Phạm Chí Dũng, Lê Văn Dũng (Dũng Vova), Trương Văn Dũng, Nguyễn Thúy Hạnh, Phạm Thành, Nguyễn Lân Thắng, Bùi Văn Thuận, Nguyễn Tường Thụy, Phạm Đoan Trang … là những tù nhân lương tâm mới. Họ đều bị giam cầm về những cáo buộc mơ hồ (và hàm hồ) như thế.

L.S Trịnh Hữu Long nhận xét: “Có hằng hà sa số điều luật có vấn đề nghiêm trọng trong Bộ luật Hình sự nói riêng và luật Việt Nam nói chung, nhưng Điều 331 của Bộ luật Hình sự là một điều luật có vấn đề… đặc biệt nghiêm trọng. Nó đặc biệt nghiêm trọng vì nó hoàn toàn thừa thãi.”

Nhà báo Hiếu Chân thêm: “Tệ hại hơn nữa, điều 331 BLHS tạo ra tâm lý sợ hãi bao trùm xã hội, khiến cho người dân ngoảnh mặt che mắt trước những vấn đề chung,‘không nghe, không thấy, không biết’ vì các ý kiến, quan điểm của họ có thể không vừa lòng kẻ cầm quyền, có khi chuốc lấy tai họa!”

Thì hồi đó Nguyễn An Ninh cũng tù thấy mẹ luôn, chớ bộ không sao?

Đúng thế! Tuy thế, tuy là một người dân thuộc xứ sở bị trị – ít nhất – Nguyễn An Ninh cũng đã thực hiện được những quyền tự do căn bản: tự do ngôn luận, tự do di chuyển và cư trú … Ông qua lại Paris đều đều nhưng chưa bao giờ bị “công an cửa khẩu” tịch thu thông hành hay làm khó dễ gì ráo trọi. Chứ không bị cho “ăn bánh canh” hay bị hành hung khi bước chân ra khỏi nhà, như Thái Hạo bây giờ.

Tuy cũng bị mang tiếng ít nhiều là tàn ác nhưng cơ quan an ninh Deuxième Bureau (tụi Phòng Nhì của Pháp) vẫn còn tôn trọng luật lệ, chứ không dám hành động càn rỡ và vô thiên/vô pháp như đám công an cộng sản Việt Nam. Chả phải là vô cớ mà đã có lúc nhà thơ Nguyễn Chí Thiện phải buông lời cảm thán:

Ôi, thằng Tây mà trước kia người dân không tiếc máu xương đánh đuổi
Nay họ xót xa luyến tiếc vô chừng
Nhờ vuốt nanh của lũ thú rừng
Mà bàn tay tên cai trị thực dân hóa ra êm ả!

Có lẽ cũng không “êm ả” lắm đâu nhưng vẫn đỡ “sốc” hơn là cuộc sống trong một quốc gia Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc mà mọi người buộc “phải ngậm chặt miệng để giữ lấy sinh mạng” – theo như nguyên văn lời của nhà thơ Thái Hạo khi viết về loài cuốc, một giống chim đang dần tuyệt chủng tại Việt Nam!

VNTB – Trách Chi Những Anh Quan Sứ

16.03.2023

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Từ xứ Thái trở về, blogger Phạm Hồng Phong có mang theo một câu chuyện làm quà mà chỉ cần nghe qua cũng đã muốn ứa nước mắt:

Bay chuyến cuối cùng trong ngày, từ Don Muang về Tân Sơn Nhất. Gặp một nhóm hơn chục người đi tay không, quần áo nhàu nhĩ áo phông trắng thì thành cháo lòng, áo màu thì cáu bẩn, người đi tông, người đi chân đất, ồn ào, nhốn nháo lên máy bay tìm ghế ngồi. Tất cả đều rất trẻ, tuổi từ 20, đến 31.

Khá ngạc nhiên, hỏi ra mới biết anh em ngư dân Sông Đốc – Cà Mau bị cảnh sát biển Thái Lan bắt khi đang câu mực ở Vịnh Thái Lan, tịch thu thuyền, tài sản, án tù 3 tháng. Gia đình vay tiền chạy chọt, ngồi tù được 55 ngày, hôm nay được thả về.

Cầm vé trên tay nhưng không biết ghế của mình chỗ nào. Mình cùng mấy cô tiếp viên Air Asia hướng dẫn từng chỗ ngồi vì anh em đều lần đầu bị đi bằng máy bay.

Ngồi hỏi chuyện và nghe kể mới biết sự cơ cực từ ngày bị bắt đến khi được tha. Để được thả, gia đình phải tự tìm cò, qua Thái, liên hệ Đại sứ quán Việt Nam ở Bangkok, xuống Songkhla gặp cảnh sát, cai tù…Rổ giá để được tự do:

– Thuyền viên 12 -20 triệu/người

– Tài công 80 -120 triệu/người tùy tội nặng nhẹ, tùy hứng của cò và cảnh sát.

Tiền vé máy bay riêng, nghe anh em nói là mỗi người 8 triệu nộp cho đại sứ quán mua và làm thủ tục cho cả nhóm, ngồi xe tù, cảnh sát chở tuột ra sân bay, gọi tên từng thằng phát cho cuống vé. (Giá bình thường mua cận ngày thì tối đa cũng chỉ 150$~ 3 triệu ông cụ). Mình bảo anh em, có thể do tiền cò, lệ phí giấy thông hành ĐSQ cấp và xăng xe tù, xe áp tải của cảnh sát Thái nên mới hết 8 triệu, chứ vé mình mua trước đây 5 ngày có 1800 Bath ~ 1,2 triệu…

Câu chuyện làm quà của Phạm Hồng Phong khiến tôi nhớ đến bài viết (“Tình Đồng Hương Của Dũng Việt Nam”) trên Tuổi Trẻ Online của phóng viên Đình Dân:

Ở Philippines ngư dân ta đi biển gặp nạn được Dũng giúp đỡ rất nhiều’, ‘Không chỉ những người Việt đi biển gặp nạn ở Philippines biết tới Dũng, mà thậm chí nhiều thân nhân của họ đang sống ở quê cũng lưu trong điện thoại cầm tay cái tên Dũng Việt Nam’… 

Đó là những thông tin mà tôi nghe được từ nhiều người dân ở đảo Phú Quý. Và tôi đã có cơ hội gặp gỡ ‘Dũng Việt Nam’ nhân chuyến đi Philippines viết về vụ 122 ngư dân bị giam giữ tại đây…”

“Chiều 23-8, trời Palawan vẫn mưa suốt. Sáng mai là ngày diễn ra phiên tòa xét xử 122 ngư dân nên chiều hôm đó những người từ Việt Nam qua ai cũng bận rộn lo giấy tờ, thủ tục chuẩn bị hầu tòa. Anh Dũng cũng cuống cuồng vừa chạy xe vừa điện thoại liên tục để hẹn các luật sư ở Philippines nhằm thiết kế các buổi gặp gỡ với các luật sư từ Việt Nam qua. 

Vừa gặp luật sư xong, anh Dũng lại cùng anh Thoại – chủ DNTN Long Hải Long – vào nhà tù để mang thuốc tây và một ít tiền bà con ở đảo Phú Quý gửi cho người nhà của họ trong trại giam. Mưa to ướt hết áo, anh Dũng phải mượn áo một thuyền trưởng mặc vào để chạy tiếp…

 Ngày diễn ra phiên điều trần, từ sáng sớm anh Dũng đã ngồi trong chiếc xe ba bánh chờ dưới đường. Anh bảo chờ đi cùng 115 ngư dân từ nhà tù ra tòa án. Nhìn những ánh mắt âu lo qua song sắt của chiếc xe màu vàng bóp chặt khóa, anh Dũng ngậm ngùi: ‘Đồng hương mình cả. Mà toàn là ngư dân chân chất. Vợ con họ ở nhà mà thấy hình ảnh này chắc không cầm lòng được…’

Một số ngư dân ở Quảng Ngãi và Bình Thuận kể rằng từ năm 2004 đến nay, anh Dũng đã giúp đỡ khoảng 30 nhóm ngư dân Việt Nam bị mắc nạn và trôi dạt vào vùng biển của nước bạn. Anh nói anh giúp các nhóm ngư dân những việc như phiên dịch, làm cầu nối giữa những ngư dân bị nạn và chính quyền địa phương, giúp ngư dân từ việc làm giấy tờ cho đến đi chợ, mua card điện thoại… 

Anh Dũng nói có một câu chuyện mà anh sẽ chẳng bao giờ quên. Đó là vào đầu tháng 8 vừa rồi. ‘Hôm đó đã 22g đêm. Trời mưa to gió lớn. Tôi đang cho mấy đứa con đi ngủ thì nhận được điện thoại từ Việt Nam. Người đầu dây là anh Sơn – một chủ ghe ở tỉnh Quảng Ngãi: Dũng ơi, làm ơn cứu nạn cứu khổ giùm. 

12 ngư dân của tôi đang đánh bắt ở vùng biển nước mình thì bị bão đánh chìm ghe. Họ điện về nói đã trôi dạt mấy ngày nay theo hướng nam về vùng biển Philippines. Họ đang cố đu bám vào thuyền thúng trôi dạt giữa biển. Anh nhờ người ở đó cứu giùm, không để đến sáng mai lạnh quá họ chết hết. Ngay trong đêm, bằng tất cả mọi mối quen biết, anh Dũng xác định lại chính xác tọa độ nơi 12 ngư dân bị nạn rồi lập tức cầu cứu hải quân Philippines…

Ủa, cái ông Dũng này là ai mà sao rảnh rỗi và “bao la” dữ vậy cà? Xin hãy nán đọc thêm một đoạn ngắn nữa, về người đàn ông Việt Nam vô cùng nhân ái và tháo vát này:

Một lần khi anh Dũng đang mải miết phiên dịch cho các ngư dân ở tòa án đến nỗi quên đi đón vợ, thế là vợ anh tự thuê xe chở cả bao dép bán dở đến tòa án tỉnh để tìm. Lúc này tôi mới biết người đàn ông thông thạo ba thứ tiếng Việt, Anh, Philippines này là một người bán giày dép trên hè phố…

Coi: một người dân Việt lam lũ, vợ dại con thơ, đang lưu lạc nơi đất lạ xứ người mà chăm lo cho những đồng hương của mình từ A tới Z (cung cấp toạ độ nơi ngư dân bị bão đánh chìm thuyền cho hải quân Phi, tham vấn với luật sư bản sứ, làm cầu nối giữa những ngư dân bị nạn và chính quyền địa phương, vào tù thăm non tiếp tế cho đồng bào đang bị giam dữ, rồi cùng đi với họ ra toà …) như vậy thì các Toà Tổng Lãnh Sự và Đại Sứ Quán VN làm gì ?

Làm… tiền!

Chớ họ còn có lựa chọn nào khác nữa đâu, theo như nhận xét của blogger Hương Vũ: “Sống và làm việc cách công chính như nhân viên sứ quán các nước khác, nhân viên sứ quán VN chỉ còn cách cắn dép gặm không khí qua ngày.”

Bởi vậy, đừng ngạc nhiên (và cũng đừng buồn) khi thấy trên trang mạng xã hộ dân sự (Tôi & Sứ Quán) có những dòng chữ rầu rĩ thế này đây:

– Lãnh sự quán Việt Nam tại San Francisco xin lỗi và hoàn trả tiền lạm thu sau khi một thành viên Tôi và Sứ quán khiếu nại suốt 5 tháng.

– Thành viên Tôi và Sứ quán phản ánh lạm thu ở Đại sứ quán Việt Nam tại Ottawa, Canada tới các đại biểu quốc hội sau khi không nhận được phản hồi từ Bộ Ngoại giao Việt Nam và các cơ quan có thẩm quyền.

– Thành viên Tôi và Sứ quán phản ánh tình trạng lạm thu ở Đại sứ quán Việt Nam tại Paris tới Bộ Ngoại giao Việt Nam.

– Sứ quán VN ở Bỉ “chưa sẵn sàng đối thoại.

Ngay tại Việt Nam mà qui vị lãnh đạo có ai thiết tha gì đến chuyện bảo vệ ngư dân, ngư trường, biển đảo, môi trường, và sức khoẻ của người dân đâu (tất cả chỉ chăm lo vơ vét thôi) thì trách chi những anh quan sứ.

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Thời phản động

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Báo Đàn Chim Việt

11/03/2023

Từ khi có FB, tôi hay đọc tác giả Ngô Nhật Đăng nên biết rằng ông mở mắt chào đời ở Hà Nội hồi cuối thập niên 1950. Tôi thì sinh ra tại Sài Gòn, trước đó vài năm. Chút dị biệt này khiến cho chúng tôi sống trong hai xã hội khác nhau, và tham dự vào hai cuộc chiến (cũng) hoàn toàn khác.

Những dòng chữ Ngô Nhật Đăng viết về chiến tranh biên giới (Việt – Trung) đều hết sức sống động, và vô cùng chân thật. Ông giúp cho độc giả, nhất là những kẻ đã từng cầm súng, thấy rõ hơn cái thân phận của người lính trận. Ở nơi đâu (và thời nào) cũng thế, họ cũng đều sống khổ cực và chết dễ như chơi.

Ngô Nhật Đăng không chỉ viết về những tháng năm binh lửa. Ông am tường nhiều vấn đề và bao biện rất nhiều lãnh vực (chính trị, xã hội, khoa học, kỹ thuật, nhân sinh …) nhưng riêng về chuyện tình cảm ( Anh Hùng Với Mỹ Nhân) thì tôi e rằng tác giả không được khách quan cho lắm:

Mình quen biết nhiều các bác, các chú Nhân văn giai phẩm, thấy phu nhân của các vị ấy thật tận cùng lãng mạn. Nếu không có các bà chăm lo thì các ông ấy chết đói từ lâu rồi, nói gì đến chuyện phản kháng, phản động. Nuôi chồng, chăm con, xù lông lên dữ tợn như gà mái nếu có kẻ nào dám động đến đàn con của mình.

 Thỉnh thoảng đến chơi, ví dụ như nhà chú Phùng Quán mình lại thích ngồi nói chuyện với cô Bội Trâm hơn, quan sát cách cô chăm sóc chú Quán mà cảm động.

 Rồi vợ bác Văn Cao, Lê Đạt, Bùi Xuân Phái, chị Mai của anh Lộc Vàng ….đúng là thuyền quyên sánh với anh hùng. Đổi lại, các vị ấy cũng tôn trọng nếu không nói là biết ơn các bà nội tướng của mình lắm. Luôn tương kính nhau, nhìn mà phát thèm.

Có “Hiền thê” được coi là thành tựu quan trọng nhất trong đời đàn ông.Một lần ngồi với ông bạn vong niên cũng là bậc trưởng thượng, ông bảo:

 – Nước mình hết mỹ nhân rồi, vận nước suy nên làm ra như thế.

 Mình ngạc nhiên nói:

 – Thưa bác, đâu có vậy. Cháu thấy Việt Nam bây giờ ngày càng nhiều người đẹp đó chứ, đẹp hơn xưa nhiều lắm, hàng năm có đến cả chục cuộc thi hoa hậu, người đẹp đó thôi.

 Ổng phẩy tay:

– Cậu còn nông cạn lắm, từ thượng cổ, trời đất đã định mỹ nhân chỉ dành cho anh hùng. Cậu xem các ông chồng của những “mỹ nhân” bây giờ có ai đáng mặt anh hùng không ?

Có thể đúng là “các ông chồng của những ‘mỹ nhân’ bây giờ không có ai đáng mặt anh hùng” (cả) nhưng như thế không có nghĩa là nước Việt không còn người hùng anh, và số “người đẹp” ở xứ sở này chỉ giới hạn vào những bóng hồng đã tham dự “vào mấy chục cuộc thi hoa hậu hằng năm” mà thôi.

Mới cách đây không lâu, hôm 01/01/2023, FB Bông Tuyết đã đưa lên mạng hình chụp chung của chính cô và vài người bạn đồng cảnh – Trịnh Nhung, Lê Bích Vượng, Bùi Thị Huệ – cùng với lời chú thích vô cùng sảng khoái (“Vợ ‘phản động’ xinh dã man ha..ha..ha…”) rồi nhận ngay được không ít những lời lẽ tán thưởng rất nhiệt tình:

  • Nguyễn Thanh Mai: “Xinh quá.”
  • Phạm Thị Xuân: “Xinh đẹp lắm em.”
  • Huynh Ngoc Chenh: “Đẹp thế này nên chúng nó âm mưu bắt mấy anh chồng đi nhốt hết.”
  • Nguyễn Thu Nga: “Sao bọn ‘phản động’ chọn vợ giỏi thế nhỉ. Toàn giỏi giang xinh đẹp và vô cùng có văn hoá.”
  • Dũng Nguyễn: “Không phải vợ phản động ! Đây là vợ của những người đàn ông yêu nước!”

Thế “những người đàn ông yêu nước” này, những ông chồng của những phụ nữ (“xinh dã man”) trong bức hình trên là ai vậy?

Tôi may mắn và hân hạnh biết được danh tính của họ nên cũng (mau mắn) xin phép được thưa luôn, cho nó lẹ:

  • Nguyễn Lân Thắng, phu quân của bà Lê Bích Vượng, ông bị bắt giữ vào tháng 7 năm 2022 cho đến nay (vẫn chưa được xét xử) với cáo buộc: “làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”
  • Bùi Văn Thuận, phu quân của bà Trịnh Nhung, đang thụ án 8 năm tù giam và 5 năm quản chế, với cáo buộc “thường xuyên đăng các bài viết lan truyền thông tin xuyên tạc nhằm bôi nhọ Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo đảng, nhà nước khác của Việt Nam”.
  • Đỗ Nam Trung, hôn phu của cô Nguyễn Thị Ánh Tuyết, đang thụ án 10 năm tù giam và 4 năm quản chế, với tội danh “phát tán tài liệu chống nhà nước.”
  • Dũng Vova (Lê Văn Dũng) phu quân của bà Bùi Thị Huệ, đang thụ án 5 năm tù với tội danh: “tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”

Những cáo buộc và tội danh (quen thuộc) này khiến tôi nhớ đến một mẩu đối thoại ngăn ngắn, giữa hai người tù – vào hồi cuối thế kỷ trước – trong tác phẩm Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn:

“– Vì sao anh bị vào đây? Tôi có tò mò quá không?

– Tôi bị bắt với tội danh “Tuyên truyền phản cách mạng”.

– Ở đây anh em gọi là tội nói sự thực.

Đó là một lời khen. Nói sự thực là một việc khó khăn, nguy hiểm. Từ xưa đến nay vẫn thế. Bao giờ cũng là một việc nguy hiểm. (Bùi Ngọc TấnChuyện Kể Năm 2000, tập I. CLB Tuổi Xanh, Westminster, CA: 2000).

Khi Đảng chống bọn xét lại, Bùi Ngọc Tấn đi tù nhiều năm vì “tội nói thực.” Lúc Đảng chống bọn Nhân Văn, Phùng Quán chỉ vì “muốn là  nhà văn chân thật” nên phải chịu cảnh “cá trộm, viết chui, rượu chịu” gần suốt cuộc đời. Nay thì cái giá mà Nguyễn Lân Thắng, Bùi Văn Thuận, Đỗ Nam Trung, Dũng Vova … phải trả cho sự “chân thật” cũng nào có rẻ.

Mà đâu phải chỉ chừng đó mạng thôi. Mạng lưới Nhân Quyền Việt Nam (VNHR) cho biết hiện có gần 300 tù nhân lương tâm đang bị giam giữ, một phần ba là người bản địa, không ít kẻ phải nhận những bản án rất nặng nề. Họ chả phải là anh hùng sao?

Ở mảnh đất này, hào kiệt có bao giờ thiếu. Mỹ nhân cũng thế!

Đã thế, họ không chỉ “xinh dã man” mà còn tận tụy cũng “dã man” luôn. Tôi vẫn nhìn theo những bước chân của quý bà Nguyễn Chương (phu nhân của TNLT Trần Đức Thạch) Nguyễn Thị Nghiêm (phu nhân của TNLT Phạm Thành) Nguyễn Thị Kim Thanh (phu nhân của TNLT Trương Minh Đức) Lân Tường Thụy (phu nhân của TNLT Nguyễn Tường Thụy) …. khi họ lặn lội thăm chồng – lẽo đẽo trên mọi nẻo đường đất nước – mà không khỏi ứa nước mắt vì sự tảo tần, thương khó triền miên của những người phụ nữa này. Còn có hình ảnh nào đẹp hơn được nữa?

Nhà văn Ngô Nhật Đăng nhận xét là quý bà Nhân Văn “thật tận cùng lãng mạn.” Sự “lãng mạn tận cùng” này – có lẽ – cũng không hơn (hay không khác) những bà vợ tù nhân lương tâm ngày nay là mấy:

  • Trịnh Nhung (phu nhân của TNLT Bùi Văn Thuận) : “Mùa đông là mùa mà anh thích nhất, còn em vì thích anh mà cũng thêm yêu mùa đông.”
  • Đỗ Thu (phu nhân của TNLT Trịnh Bá Phương) : “Hôm qua ngày 10/2 tôi nhận được 2 niềm vui đó là trưa thì nhận được 2 bức thư của chồng… Cả tháng đợi mỗi thư của chồng về.”
  • Đỗ Lê Na (phu nhân của TNLT Lê Trọng Hùng) : “Trưa nay (lễ tình nhân thứ hai xa cách), bất ngờ nhận được thư chồng gửi về từ trại 6. Cầm thư mà lòng xen lẫn mừng vui và ngậm ngùi!”

T.S Mạc Văn Trang cảm thán: “Đất nước của những hòn VỌNG PHU sao cứ cắm vào dân tộc này mãi vậy hả Trời!”

Tôi hoàn toàn đồng tình với tâm cảm của ông nghè họ Mạc. Tuy thế, không ít lúc, vẫn trộm nghĩ thêm rằng: nhờ lúc nào cũng có vài trăm TNLT chật ních trong những nhà tù, cùng những hòn vọng phu luôn ở bên ngoài nên người Việt cũng đỡ ngượng ngùng khi nhìn vào mặt nhau, và họ còn có kẻ để hướng tới – khi nghĩ đến tương lai của đất nước này!

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến – Dương Tường

Dương Tường

Tưởng Năng Tiến

Tôi có cái thói hễ thấy người sang là bắt quàng làm họ. Nhưng riêng chuyện tôi cũng (muốn) là bạn của ông Dương Tường thì không hẳn thế. Ông ấy (rõ ràng) trông dáng bộ cũng bệ rạc y như tôi thôi, chứ có sang trọng quái gì đâu. Theo như lời bè bạn:

Một lần Dương Tường đưa nhóm hoạ sĩ 5 người (Gang of Five) từ Hà Nội vào thành phố Hồ Chí Minh mở triển lãm. Nguyễn Quân mời tất cả tới khách sạn chiêu đãi. Dương Tường đi xích lô, tay cầm tờ Vietnam News cẩn thận, bước vào khách sạn. Người gác cửa khách sạn to lớn, mặc sắc phục nắm chặt vai anh, đẩy ra vỉa hè: “Không được bán báo ở trong ấy! Đi ra ngoài kia mà bán!”

Một ngày giáp tết, nghe mấy họa sĩ trẻ rủ rê, Dương Tường đi chợ hoa với họ. Vào chợ, họ tản mát khắp nơi để chọn bằng được một cành hoa đào ưng ý. Lơ ngơ một mình giữa chợ, Tường mua đại một cành đào, vác ra ngoài cổng chợ đứng chờ. Đang cầm cành hoa mới mua, xo ro trong mưa dầm gió bấc, bỗng một bàn tay nắm lấy vai anh, đẩy vào trong chợ: “Không được bán hoa ở đây! Mang vào trong chợ mà bán!” Đó là người bảo vệ chợ. (Bùi Ngọc Tấn. “Tôi Là Bạn Của Ông Dương Tường”. Viết Về Bè Bạn. Hải Phòng: Nhã Nam, 2003).

Vẫn cứ theo như lời Bùi Ngọc Tấn thì Dương Tường nhỏ người. Đã là dân Việt mà lại nhỏ con thì phải hiểu là… nhỏ lắm. Tôi áng chừng ông ấy cao khoảng một thước năm mươi lăm đổ lại, và nặng cỡ bốn mươi lăm ký là hết sức.

Tôi thì khác. Tôi cao đến một thước tám mươi, và nặng gấp rưỡi Dương Tường. Chỉ có điều đáng tiếc là cái vóc dáng “cao cả” này đã không khiến cho tôi trông cao sang, và quí phái hơn ông ấy được bao nhiêu, nếu không muốn nói là ngược lại.

Tôi cũng thường bị “trông lầm” (nhiều lần) chỉ vì trông không được ngon lành, hay bảnh bao gì cho lắm. Mới hôm qua chứ đâu, tôi ngồi cú rũ (một đống) trên mấy bậc thềm – trước khu thương xá Phước Lộc Thọ – ở phố Bolsa. Tôi hay bị buồn (ngang) khi ngày sắp tắt, nhất là vào những buổi chiều tàn, ở California. Màu nắng vàng hanh, hay đỏ rực của ráng chiều, dễ làm cho kẻ tha hương chạnh lòng nghĩ về chốn cũ: “Chiều nay gửi đến quê xưa, bao là thương là nhớ cho vừa… ”

Tôi cứ ngồi hát nho nhỏ, chỉ đủ cho chính mình nghe như thế, mà thấy nẫu cả lòng. Hẳn là trông tôi phải thê thảm lắm nên có một bà đồng hương đi qua, đã cúi xuống, kín đáo dúi cho tôi một tờ giấy bạc. Cầm thì kỳ mà không cầm cũng kẹt nên tôi cầm (đại) và miệng lí nhí nói cảm ơn mà mặt đỏ bừng!

Cũng theo lời kể của Bùi Ngọc Tấn, vào những năm đầu thập niên 60, Dương Tường phải sinh sống bằng nghề… bán máu. Ông Tấn đã hơi bi thảm hoá vấn đề, khiến nhiều người nghe muốn rơi nước mắt, chứ ở đất nước tôi mà có máu để bán, và có người mua, lại không phải qua cò (vì ông Tường vốn quen biết lớn) thì sung sướng và hạnh phúc lắm rồi, còn than van gì nữa?

Sau 1975, đất nước thống nhất, “Nam/Bắc hoà lời ca”, tôi ca (hơi) trật nhịp nên bị túm đi học tập một thời gian. Ra khỏi trại tù, tôi sống lang thang vất vưởng ở nhiều nơi, trước khi trôi giạt về Rạch Giá. Thành phố này, vào mùa mưa, hay có những ngày biển động. Trời thấp, ẩm, lạnh, mây xám màu chì. Lòng buồn, bụng đói, dạ hoang mang, tôi bước đi không thấy phố, không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ. Tôi hay loanh quanh trong chợ Nhà Lồng của Rạch Giá, mắt láo liên nhìn quanh những bàn ăn, chỉ chờ thực khách buông đũa là nhào vào húp vội phần ăn còn lại. Chao ơi, giá lúc ấy mà có máu để bán và có người mua thì đỡ (khổ) biết chừng nào?

Những cảnh đời (không may) mà Dương Tường trải qua, tôi cũng đều đã nếm. Đồng cảnh tương lân. Kiếp sống lao đao của ông ấy khiến tôi sinh lòng ái ngại nên (thoáng) có ý muốn làm bạn cho vui, thế thôi.

Nhưng cuộc đời của Dương Tường không chỉ khốn khổ và khốn nạn như thế. Nó tệ hơn thế, đôi khi. Ông ấy còn bị bạn bè xa lánh, “bị công an thẩm vấn nhiều lần, mỗi bước đi đều bị giám sát chặt chẽ.” Cũng có những khi Dương Tường được ưu ái cho đi nước này nước nọ. “Anh được Cộng đồng Pháp ngữ mời sang Pháp. Anh sang Đức trong ‘Festival Gặp Việt Nam của Đức’”. (Bùi Ngọc Tấn, sđd. Tr. 42).

Lúc nào thì Dương Tường cũng nằng nặc… đứng về phe nước mắt, như ông đã tuyên bố như vậy, qua thơ. Ngày 28 tháng 5 năm 2004, tại viện Goethe, khi giới thiệu buổi đọc văn của một bạn đồng nghiệp, ông phát biểu:

Những gì chảy ra từ ngòi bút Bùi Ngọc Tấn khiến tôi nghĩ đến quan điểm của Albert Camus về nhà văn và nghề văn được bày tỏ trong diễn từ nhận giải Nobel Văn học tại Stockholm (Thụy Điển) ngày 10/12/1957: Theo định nghĩa, nhà văn giờ đây không thể phụng sự những người làm ra lịch sử, anh ta phục vụ những kẻ cam chịu lịch sử. Nếu không, anh ta sẽ cô đơn và mất nghệ thuật của mình. Tất cả những đạo quân của bạo cường với hàng triệu người cũng sẽ không cứu nổi anh ta ra khỏi sự cô đơn, ngay cả và nhất là nếu anh ta thuận tình đi đều bước với họ. Nhưng sự im lặng của một người tù không quen biết ở tận cùng thế giới, bị bỏ mặc trong nhục nhằn, cũng đủ kéo nhà văn ra khỏi trạng thái lưu đày ấy mỗi khi, giữa những đặc quyền đặc lợi của tự do, anh ta có thể vượt lên để không quên sự im lặng đó và làm cho nó vang lên bằng những phương tiện của nghệ thuật.

Nếu tính từ lúc Nguyễn Mạnh Tường đọc tham luận, góp ý với Đảng CSVN, trước phiên họp của Mặt Trận Tổ Quốc (vào ngày 30 tháng 10 năm 1956, rồi bị vùi dập cho đến chết) thì mãi đến nửa thế kỷ sau, người ta mới lại được nghe tiếng nói dõng dạc và thẳng thắn như thế, của luơng tri, qua miệng Dương Tường, giữa lòng Hà Nội.

Tôi trộm nghĩ (rất có thể) là Dương Tường đã tạo nền cho những bài tham luận nẩy lửa trước thềm Đại Hội Nhà Văn Việt Nam lần thứ VII. Sau nhiều năm nín lặng, những người cầm bút Việt Nam đã cùng lên tiếng (nói một cách “chẻ hoe” và “trắng phớ”) về hoàn cảnh tồi tệ và nghiệt ngã mà chế độ đã dành cho họ. Nếu những suy đoán chủ quan của tôi mà không trật thì Dương Tường (rõ ràng) quá bảnh. Ông ấy chỉ có cái dáng ngoài bệ rạc (như tôi) thôi chứ tư cách thì ngon lành hết biết. Tôi mới đụng chuyện với Đảng và Nhà nước CS đâu có vài năm (lẻ) đã ù té bỏ chạy, và chạy luôn tới bữa nay, tuyệt nhiên không dám quay đầu nhìn lại. Còn Dương Tường, và những kẻ đồng hội đồng thuyền, theo lời của Phạm Xuân Nguyên:

 Đã gánh cây thập ác đi trọn đường trần ai của mình.
Không vứt xuống
Không chạy trốn.
Không ngã gục.
Không dừng bước
Và dẫu không là Chúa, các ông đã được phục sinh
.

– Tưởng Năng Tiến

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Cỏ Hôi

Cỏ Hôi

Tác Giả:  Tưởng Năng Tiến

01/03/2023

Tôi ít học và lười đọc nên mãi đến năm 2011 mới được nhà văn Vũ Thư Hiên giới thiệu cho tập Tùy Tưởng Lục của Ba Kim. Qua tác phẩm này, tôi lại biết thêm một người cầm bút (danh tiếng) khác của đất nước Trung Hoa – Lão Xá.

Ông cũng là một nạn nhân bi thảm trong cuộc Cách Mạng Văn Hoá. Cứ theo như  lời của Ba Kim thì Lão Xá đã “ngậm hờn mà chết.” Ông trầm mình vào ngày 24 tháng 4 năm 1966, với lời trối trăn (“Tôi yêu nước ta lắm chứ, thế nhưng ai yêu tôi?”) khiến ai cũng cảm thấy ngậm ngùi.

Nỗi đắng cay của Lão Xá cũng khiến tôi nhớ đến đôi lời cay đắng (khác) nghe được ngay sau khi Chiến Tranh Việt Nam vừa chấm dứt:

Gần nhà tôi có cụ Lập, hơn bảy chục tuổi, thổi clarinette dàn nhạc cung đình của Bảo Đại, cùng dàn nhạc theo cách mạng, đánh Pháp rồi tập kết ra Bắc … Sống một mình. Nghèo, đói…

Bây giờ, tôi mau mắn mừng cụ sắp được đoàn tụ gia đình. Nhưng cụ nắm tay tôi:

– Cảm ơn ông, đoàn với ai, tụ với ai? Vợ con chưa biết hiện ở đâu, đi theo nhà khác mất rồi có khi. Họ hàng thì chết trong Tết Mậu Thân… Tôi về đó vẫn lại trơ làm thằng tập kết đợt hai trơ trọi một mình… Ra đi để thống nhất đất nước, bây giờ ai thống nhất với thân già tôi? (Trần Đĩnh. Đèn Cù II. Westminster, CA: Người Việt, 2014).

Cụ Lập, tất nhiên, không phải là người duy nhất sống “nghèo đói” và “trơ trọi một mình” như thế. Tôi còn biết thêm nhiều ông cụ nữa, cũng rơi vào hoàn cảnh bẽ bàng (và lỡ làng) tương tự:

“Điển hình nhất là ông Đốc Huệ và ông Đốc Thỉnh của tỉnh Bến Tre. Một học giả uyên thâm có bằng cử nhân Văn chương Pháp thời Pháp thuộc có được mấy người. Nếu ở lại với Pháp thì ông đã vinh thân phì da vào hạng nhất Nam kỳ, nhưng ông đã đem cả gia đình đi kháng chiến. Ra Bắc về Nam hai lần. Khi hiệp ước Hòa Bình 54 được ký kết ông Thỉnh bị bỏ quên…

Riêng ông Mười Huệ chủ tịch tỉnh Bến Tre chín năm liền, ra Bắc được phong cho chức Thư ký của Hội Việt Pháp Hữu Nghị ở đường Lý Thường Kiệt và được cho ở trong một cái garage tồi tàn dột nát đầy sách nát của Tây vứt lại trước khi chúng chuồn. Ông Mười có bệnh cánh tay phải, không được săn sóc, không có cả bếp để nấu cơm phải đi ăn vất vưởng ở hợp tác xã bữa có bữa không hoặc bằng những ổ bánh mì nguội nài nỉ mua bằng những hào bạc hiếm hoi còn sót lại của tháng lương chết đói.

Ngồi viết những dòng này tôi còn trông thấy ông trên những nẻo đường kháng chiến của Ba Tri, Giồng Trôm, Tán Kế mà tôi kính yêu như một thần tượng. Ôi kháng chiến mà chi. Anh dũng mà chi. Thành Đồng Đất Thép để làm gì? Tất cả đều đút vào mồm con sói mặt đỏ Bắc kỳ tên là Hồ Chí Minh thôi. Một tên sát nhân, một thằng bịp lớn nhất lịch sử Việt Nam.”  (Xuân Vũ & Dương Đình Lôi. 2000 Ngày Đêm Trấn Thủ Củ Chi. QII. California: Xuân Thu, 1998).

Tôi hoàn toàn chia sẻ cái tâm cảm uất hận của nhà văn Xuân Vũ. Tuy thế, tôi e rằng ông không được hoàn toàn khách quan khi mang hết đám dân miền Nam tập kết bỏ chung vào … một rọ để cho “một thằng bịp lớn nhất lịch sử Việt Nam” lạm dụng. Thực tế thì cũng có kẻ này, kẻ nọ, chớ Bác và Đảng đâu có bạc đãi tất cả mọi người.

Gần đây, trên trang Vietnamnet (đọc được vào hôm 13/05/2020) Ths Vũ Thị Kim Yến có những ghi nhận như sau :

Đến năm 1975, hơn 15.000 học sinh miền Nam được đào tạo qua bậc đại học và sau đại học ở các trường đại học trong và ngoài nước. Phần lớn các “hạt giống đỏ” mà Bác Hồ, Đảng ta và nhân dân miền Bắc gieo trồng ngày nào đã nẩy mầm thành những cây vạm vỡ, vững chắc.

Trong số này, có 6 ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư TƯ Đảng; 18 nguyên ủy viên TƯ Đảng, 3 Bí thư Tỉnh ủy; 18 Thứ trưởng và Chủ tịch tỉnh…

Điển hình như nguyên Phó Chủ tịch QH Trương Quang Được, nguyên Bộ trưởng, Chủ nhiệm UB Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em Trần Thị Thanh Thanh, nguyên Bộ trưởng Văn hoá Nguyễn Khoa Điềm, nguyên Trưởng Ban Nội chính TƯ Nguyễn Bá Thanh…

Nhiều học sinh miền Nam trở thành lãnh đạo cấp cao trong lực lượng công an, quân đội như Thượng tướng Nguyễn Khánh Toàn, Thượng tướng Trương Quang Khánh, Trung tướng Bùi Quang Bền…

Đặc biệt, hiện tại, nhiều học sinh miền Nam vẫn đang đảm nhận những trọng trách rất quan trọng của đất nước như Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Phó Thủ tướng thường trực Trương Hòa Bình, Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Thiện Nhân, Chánh án TAND tối cao Nguyễn Hòa Bình…

Không ai chối cãi được rằng có những hạt giống đỏ miền Nam mà Bác và Đảng gieo trồng nay đã đơm bông. Chỉ có điều đáng tiếc lại là loại hoa hôi. Tuy đều “đảm nhận những trọng trách rất quan trọng của đất nước nhưng những nhân vật thượng dẫn đều không thực hiện được một thành quả nào ráo, ngoài những lời lẽ mị dân hoặc những câu tuyên bố ngây ngô hay sáo rỗng :

Nguyễn Thiện Nhân: “Đến năm 2010, giáo viên sống được bằng lương.”

Nguyễn Xuân Phúc: “Hợp tác xã là con đường để đưa nhân dân đến gần hơn với lý tưởng cao đẹp của chủ nghĩa xã hội.”

Nguyễn Bá Thanh: “Sắp tới tôi sẽ rà một số cái, cho hốt liền, khỏi nói nhiều.”

Nguyễn Hòa Bình: “Nếu không có đủ căn cứ chứng minh là tội nặng thì phải quyết có tội nhưng tội nhẹ.”

Nguyễn Khoa Điềm: “Bây giờ tôi chỉ còn chường cái mặt tôi ra trong thơ.”

Gọi họ là những tinh hoa của miền Nam trong đám người tập kết thì (nghe chừng) không ổn. Về hạn từ này, dịch giả Phạm Nguyên Trường đã rất cẩn thận khi dụng bút: “Nghĩa của từ ELITE: the richest, most powerful, best-educated, or best-trained group in a society cho nên nếu luôn luôn dịch là TINH HOA thì e rằng không đúng.” Vẫn theo lời ông thì có lắm kẻ chỉ đáng gọi là thuộc giới ăn trên ngồi trốc.

Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Bá Thanh, Nguyễn Thiện Nhân, Nguyễn Hòa Bình, Nguyễn Xuân Phúc … quả đúng là những kẻ thuộc giới ăn trên ngồi trốc. Họ là những hạt giống đỏ được gieo trồng từ miền Bắc, và đã ươm mầm thành cây. Loại cây này, học giả Phan Khôi gọi một cách lịch sự là cây Cộng Sản. Còn dân gian thì gọi là cỏ hôi hay cây cứt lợn!

Tưởng Năng Tiến

01/03/2023

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Ngoại Ngữ

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Ngoại Ngữ

Ảnh của tuongnangtien

Thứ Sáu, 02/24/2023 — tuongnangtien

Ngay khi còn bé thơ – thỉnh thoảng – tôi cũng đã nghe người lớn nhỏ giọng, khi nhắc đến hai câu ca dao: Lênh đênh qua cửa Thần Phù/ Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm.

Nói gì mà thấy ghê?

Mãi tới già, mới biết rằng cửa Thần Phù – thuộc huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình – là chỗ sông Chính Đại đổ ra vịnh Bắc Bộ… Đến cuối đời Lê, cửa sông này đã bị bồi lấp và trở thành đất liền rồi nhưng nỗi sợ (rõ ràng) vẫn còn ám ảnh cho mãi đến mấy đời sau.

Qua đến đời tôi thì Việt Ngữ lại phát sinh ra đôi câu ca dao (mới) nghe tuy không “thấy ghê” nhưng thấy … chán: Mấy ngàn cây số biển xanh/ Mà sao thiếu muối cho canh hàng ngày!

Sao kỳ vậy cà? Sao mà dân ta ngại biển dữ vậy, hả Trời?

Nhà thơ Inra Sara giải thích: “Xưa, người Việt mở cõi xuống đất liền ở phương Nam, và chỉ biết có đất liền; còn đóng tàu viễn dương, thì hầu như chưa. Suốt dòng lịch sử dựng nước và giữ nước, người Việt chỉ biết ra khơi về lộng, chứ chưa hề đi xa hơn. Mà ‘lộng’, theo Từ Chi, chỉ đâu khoảng ba cây số cách bờ, còn ‘khơi’ xa lắm cũng đến bảy cây số là cùng.”

Với núi rừng cũng vậy, người Việt cũng ngại ngùng không kém: “Đường lên núi rừng sao hãi hùng/ Ôi gió lộng/ muôn lá động/ cành trong bóng thê lương.” (Lê Bình. Đường Lên Sơn Cước. Nxb Sóng Nhạc:1954).

Mới chỉ là miền sơn cước (chân núi) mà đã “hãi hùng” lắm rồi nên cỡ cao nguyên Lâm Viên (với đỉnh Lang Biang, cao gần 2000 mét) thì tất nhiên là chả ma nào chịu lặn lội lên tuốt luốt lên đó làm chi. Rừng thiêng, nước độc, lam sơn chướng khí (tùm lum) ai mà không ngán?

Nói ra thì sợ mích lòng, chớ (đôi lúc) tôi vẫn trộm nghĩ: “Nếu không có Alexandre Yersin thì bản đồ nước Việt e cũng không có địa danh nào tên gọi là Đà Lạt cả.”

Người Pháp tìm ra Đà Lạt. Người Anh tìm ra Hang Sơn Đoòng (thuộc quần thể hang động Phong Nha – Kẻ Bàng) ở Quảng Bình. Còn người Việt thì mãi qua đến thế kỷ 21 mới có một phát hiện bất ngờ, khiến cho cả làng báo nướn nhà phải “xôn xao” bàn tán:

  • Tiền Phong: “Xôn xao bức tường quảng cáo tiếng Pháp lộ diện sau hàng chục năm ở Hà Nội”
  • Lao Động: “Áp phích quảng cáo vẽ tường bằng tiếng Pháp bị ẩn hàng chục năm tại Hà Nội”
  • Dân Việt: “Nên xem bức tường quảng cáo tiếng Pháp mới lộ diện là dấu tích lịch sử một thời của Hà Nội”
  • Pháp Luật: “Quảng cáo vẽ tường bằng tiếng Pháp khoảng 100 tuổi bỗng dưng lộ diện”
  • An Ninh Thủ Đô: “Hà Nội tạm thời giữ nguyên bức tường quảng cáo tiếng Pháp lộ diện sau hàng chục năm bị che lấp

Chuyện gì vậy kìa?

Tuổi Trẻ Online cho biết qua đôi ba chi tiết: “Dư luận trên một số diễn đàn mạng xã hội về di sản và Hà Nội đang xôn xao chuyện một tấm áp phích quảng cáo bằng tiếng Pháp bất ngờ lộ diện trên tường của trạm biến áp phường Cửa Nam, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội sau nhiều thập kỷ bị che lấp…

Ông Phạm Tuấn Long – chủ tịch UBND quận Hoàn Kiếm – cho biết sau khi nắm thông tin, quận đã giao UBND phường Cửa Nam tạm thời che áp phích để bảo vệ. Sự xuất hiện bất ngờ của áp phích quảng cáo bằng tiếng Pháp được nhiều người quan tâm đến di sản rất vui mừng, kêu gọi chính quyền cần bảo tồn, gìn giữ áp phích quảng cáo tiếng Pháp cuối cùng còn sót lại ở Hà Nội.”

Ủa! Cái “chính quyền” này “sính” ngoại ngữ từ hồi nào vậy há? Chứ theo như tôi biết thì nhà nước hiện hành chưa bao giờ có thái độ thân thiện với tiếng nước ngoài cả, còn “tiếng nước nào” bị kỳ thị hay dè bỉu thì tùy vào từng lúc. Hoàn toàn do tính khí và chính sách ngoại giao (thất thường) của … Đảng:

“Tôi quen ba người dạy tiếng Anh và tôi muốn nói tới các anh như những người từng chịu hẩm hiu lúc đất nước sập cửa lại với thế giới, tiếng Anh bị miệt thị. Thật ra chả phải chỉ tiếng Anh mà là bất cứ tiếng nói của kẻ thù nào. Chị P. T. M., dạy tiếng Trung Quốc ở Đại học Sư phạm đã ngồi làm thường trực mãi ở cống trường cho tới khi Trung Quốc hết là thù mới lên truyền hình dạy lại. Ông Nghĩa dạy tiếng Trung Quốc ở Cao đẳng sư phạm Hà Nội thì đi làm bảo vệ. Khi đánh xét lại, các giáo viên tiếng Nga nghỉ dài dài.” (Trần Đĩnh. Đèn Cù II. Westminster, CA: Người Việt, 2014).

Chỉ mất việc thôi thì vẫn may mắn chán. Đã có lúc, ở xứ sở này, lắm kẻ còn  mất mạng luôn chỉ vì chút vốn liếng sinh ngữ của mình ấy chứ. Họ bị du kích ban đêm lôi ra khỏi nhà bắn bỏ (rồi gắn cho tấm bảng có hai chữ “Việt Gian” trên ngực) vì nói được tiếng Pháp, và bị tình nghi … là làm gián điệp cho Tây.

Nay thì cả nước “vui mừng” vì phát hiện ra được “tấm áp phích quảng cáo tiếng Pháp cuối cùng còn sót lại” ở Hà Nội, và coi đây như là một “di sản,” rồi “kêu gọi chính quyền cần bảo tồn, gìn giữ…”

Trong số thuộc địa của Tây (rải rác khắp đó đây) có lẽ không đâu mà dân bị trị lại yêu quý Pháp Văn đến thế (và lâu thế) dù không ít kẻ đã từng bị hành cho tới bến luôn, với lý do là có ít nhiều “liên lụy với bọn thực dân đế quốc.” Hỏi ra mới biết là đương sự đã từng nhận được thư (hay quà) của người thân, ở nước ngoài, từ Paris chả hạn!

Tiếng Tây, tuy vậy, không mang lại nhiều hệ lụy cho dân ta như tiếng Nga hoặc tiếng Tầu. Khi Đảng chủ trương chống lại chủ nghĩa xét lại của Liên Xô thì chỉ cần  nhà ai có vài ba tạp chí tiếng Nga là cũng đủ “bằng chứng” để cho “khổ chủ” phải đi tù mà khỏi phải hầu tòa. Còn lúc Đảng coi “Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp” thì ai gốc Tầu (hay có liên hệ xa gần chi đó với Tầu) là … chết mẹ. Chắc chắn sẽ bị nhà nước hành cho tới bến luôn.

George Orwell than phiền: “Đặc trưng của nhà nước toàn trị là tuy nó kiểm soát tư tưởng, nhưng nó lại không xác dịnh dứt khoát tư tưởng ấy là gì. Nó đưa ra một số tín điều không được tranh cãi, nhưng các tín điều ấy lại thay đổi hàng ngày. Chế độ cần tín điều vì cần các thần dân phục tùng một cách tuyệt đối, nhưng nó không thể không thay đổi theo các nhu cầu của tầng lớp nắm quyền.”

Nét “đặc trưng” này thấy rất rõ ở chế độ toàn trị ở VN vì “tầng lớp nắm quyền” ở xứ sở này thay đổi đường lối và chủ trương xoành xoạch. Hôm qua thù Tây, hôm nay thù Mỹ, mai giận Nga, mốt oán Tầu … Lúc thế này, khi thế khác, bao giờ cũng với thái độ quá khích, giận cá chém thớt, trút hết mọi oán hận vào những lương dân vô tội.

Cái thời khốn khổ/khốn nạn này tuy có vẻ đã qua nhưng hệ lụy thì còn kéo dài lâu. Nhà báNguyễn Thông cho biết: “Giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ đông như quân Nguyên nhưng số người lập bập được một ngoại ngữ cũng quá hiếm, chứ nói chi thông thạo.”

Đất nước “được” dẫn dắt bởi một đám người nông nổi, tiểu tâm, ngu tối, và thiển cận nên vấn đề (tất nhiên) không chỉ giới hạn vào ngôn ngữ. Họ còn tạo ra một “cái nền dân trí luôn là mảnh đất cho hận thù, ngờ vực và chia rẽ” nữa – theo lời của FB Nguyễn Thọ:

“Đa số người Việt trên mạng chỉ có một hình ảnh kẻ thù cố định hoặc một anh hùng vĩnh cửu. Khi coi Trung Quốc là kẻ thù thì mọi thứ của Trung Quốc đều xấu, đều đáng bị tiêu diệt. Ai chửi Trung Quốc thì là bạn, ai phê phán người chửi Trung Quốc là kẻ thù… Cách đơn giản hóa vấn đề, chỉ biết có trắng và đen đang làm cho người Việt trở nên cực đoan… Cái nền dân trí đó luôn là mảnh đất cho hận thù, ngờ vực và chia rẽ.”

Giữ cho dân trí thấp và khuyến khích người dân luôn hận thù/ngờ vực tha nhân – không chừng – còn (dám) là chủ trương xuyên suốt của chế độ hiện hành, từ hai phần ba thế kỷ qua!

Những Bãi Phân Giữa Thời Mạt Pháp – Tưởng Năng Tiến

 Tưởng Năng Tiến

Quỷ Lộng Chùa Hoang

Thành ngữ Việt

Bố mẹ tôi đều gốc gác nông dân, và đều là những phật tử thuần thành. Cũng như bao nhiêu người dân Việt chân chất khác, ngoài việc cặm cụi mưu sinh, đời sống (văn hoá, tinh thần, tâm linh) của ông bà – dường như – chỉ xoay quanh việc kinh kệ, chùa chiền, lễ bái, cúng dường …

Thuở ấu thơ (khi còn “lon xon như con với mẹ”) vào những lễ tết, tôi vẫn lon ton  theo chân thân mẫu đến chùa. Vì đây là đất Phật nên bà yên tâm để tôi tha thẩn khắp nơi, suốt buổi, trong khi bận rộn làm công quả.

Cho đến lúc có thể đi đây, đi đó một mình thì tôi (thôi) không bao giờ lai vãng đến chùa chiền gì nữa. Không gian tâm linh của nơi thờ phượng tĩnh lặng và trang nghiêm quá, xem ra, không hợp lắm với cái “tạng” hiếu động của tôi!

Càng lớn tôi càng xa bố mẹ, xa chùa, và xa Phật Pháp Tăng. Mãi cho đến khi đời ngả về chiều – tóc đã điểm sương, song thân đà khuất núi – tôi mới lờ mờ cảm thấy rằng (hình như) mình đang xích lại gần, và cũng hơi để ý, đến chuyện tôn giáo hơn … chút xíu!

Hóa ra, chùa chiền ở Việt Nam không phải nơi đâu cũng đều “tĩnh lặng và trang nghiêm” như trong ký ức tuổi thơ an lành và êm ả của tôi. Không ít chỗ không gian tâm linh truyền thống của cả dân tộc đã bị quấy động … cho tới bến luôn:

“Tại nhà thờ thánh, tượng Khổng Tử lăn long lóc như người ăn mày tha hương chết đường chết chợ, bị trẻ con ném cứt vào mặt. Tại ngôi chùa Trang Hà, hàng chục pho tượng đổ ngổn ngang, bị lũ mục đồng ném bùn lấm láp nước sơn. Cái giếng hình bán nguyệt trước cổng chùa đẹp thế mà cũng bị phá phách cày xới để trồng lúa. Mấy tấm đá ghép cầu bị bê làm hố tiêu. Mấy chiếc bia lớn nhà thờ chánh tổng, cái thì bị đem bắc cầu, cái thì bị bọn mục đồng khiêng đi làm trò chơi rồi ỉa đái vung vãi trên mặt bia…

Ở làng tôi, đền chùa miếu mạo, nhà thờ họ, mộ cổ, rừng cổ, cây cổ thụ đã bị phá trụi, không còn gì để phục hồi nữa. (Võ Văn Trực. Chuyện Làng Ngày Ấy. NXB Tạp Chí Văn Học: California, 2006).

Đó là chuyện xẩy ra ở miền Trung, vào giữa thế kỷ XX, trong Giai Đoạn Phóng Tay Phát Động Quần Chúng của những người CSVN. Sau khi đất nước thống nhất thì pháp nạn lan đến miền Nam:.

– Năm 1977 Hoà Thượng Quảng Độ bị bắt giam, bắt đầu cho một cuộc sống tù đầy và lưu đầy cho mãi đến bây giờ.

– Năm 1988 Thượng Tọa Tuệ Sĩ và Trí Siêu bị tuyên án tử hình, sau được giảm án xuống 20 năm cấm cố. Hai ông, cuối cùng, được phóng thích ngày 31 tháng 8 năm 1998, sau 14 năm giam cầm.

Những bậc chân tù đều bị cầm tù hay phát vãng thì chùa chiền bỏ lại cho ai?

Nhật ký của nhà phê bình văn học & xã hộVương Trí Nhàn, ghi ngày 4 tháng 5 năm 79, có đoạn:

“Ngày Phật đản. Những người tu hành vẫn có nét mặt hệt như mặt người ngoài đời mà tôi vẫn gặp. Sao ở giữa cảnh đèn nhang nghi ngút của chùa Quán Sứ, giữa bao nhiêu cụ bà thành tâm cúng vái, lại thấy một vị sư tuổi còn thanh niên, có nét mặt trông như một trung đoàn trưởng, tiểu đoàn trưởng nào đó, mà tôi từng thấy ở các mặt trận.”

Cùng với những vị “sư ông” trông cứ như một sĩ quan tác chiến, chùa chiền VN còn có quí vị “sư nữ mắt long sòng sọc … miệng rít lên” (cứ như loài rắn tiếng rắn) theo cách mô tả của nhà văn Dương Thu Hương:

“Trưa hôm đó, tôi qua cổng chùa đi vào ngôi nhà ngang. Vừa đặt chân lên bậc tam cấp tôi chứng kiến một cảnh tượng không tương hợp chút nào với chốn từ bi: Trên tấm phản gỗ mốc, sư cụ bà ốm nằm còng queo, bát cháo ăn dở ở một góc phản khô đét lại. Nhà “sư nữ” ngoại tam tuần mắt long sòng sọc, tay nắm cổ người bệnh lắc, miệng rít lên:

– Mày chết đi, mày chết ngay đi cho người ta nhờ!…

Sư cụ đã quá yếu không động cựa nổi, cái đầu lắc lư ngật ngưỡng như quả bưởi trong tay người đàn bà trẻ hung hãn:

– Mày chết đi…

Cụ không mở mắt nổi và giọng nói đã đứt quãng nhưng hoàn toàn minh mẫn. Ðó là người đã xuống tóc từ thời chính quyền 1945 chưa thiết lập, đã duy trì và tu tạo ngôi chùa này qua mọi thăng trầm của thời gian. Nhưng cụ không có mảy may quyền hành để lưu giữ các chân tu ở lại, thay cụ chủ trì. ‘Nhân sự’ do “bên trên” đưa xuống.”

Vậy cái gì là “bên trên” ? Quyền lực nào áp chế những người tu hành và thả lũ lợn bẩn thỉu vào khắp chùa chiền xứ sở?… Chẳng có gì bí mật cả, ‘bên trên’ là A 25 Cục bảo vệ văn hóa thuộc Tổng cục 1 Bộ Nội Vụ. A 25 có nhiệm vụ đào tạo sư sãi để ‘yểm’ Hội Phật Giáo Việt Nam, để trấn giữ hệ thống chùa toàn quốc.”

Ảnh: FB

Chắc không mấy ai có thể biết chính xác con số “heo lợn bẩn thỉu” mà A25 đã thả ra “để yểm” chùa chiền nhưng mọi người đều phát hoảng khi cứt đái của lũ súc vật này không chỉ làm ô uế cửa thiền mà còn tràn lan ra đến tận bên ngoài. Bản tin của trang Tiếng Dân, đọc được vào hôm 22 tháng 3 năm 2019, có tiểu mục “Buôn thần bán thánh” ở chùa Ba Vàng:

  – Gọi vong, thu hàng trăm tỷ: Trụ trì thừa nhận sự việc xảy ra ở chùa Ba Vàng (GT).

 – Chùa Ba Vàng cho rằng có thể chữa bách bệnh bằng việc đuổi tà ma, tiễn vong (TN).

– Gọi vong, thu hàng trăm tỷ: Chùa Ba Vàng quy tụ nghìn phật tử nhằm minh oan (GT).

– Chùa Ba Vàng thu tiền gọi vong: Vừa công đức, vừa “do vong yêu cầu”? (LĐ).

 – Người phụ nữ tên “Phạm Thị Yến” tuyên truyền luận điệu “làm nhục” nữ sinh giao gà Điện Biên ở chùa Ba Vàng là ai? (TGT).

– Truyền bá chuyện vong báo oán, chùa Ba Vàng mỗi năm thu trăm tỉ.(Zing)

FB Nguyễn Ngọc Chu  đặt câu hỏi: CÓ BAO NHIÊU CHÙA BA VÀNG?

Rồi, ông trả lời ên: “Trên Đất Nước ta có hàng trăm chùa ‘Ba Vàng’. Có nhiều chùa ‘Ba Vàng mới’ khủng hơn chùa Ba Vàng Uông Bí. Đó là các chùa ở Bãi Đính, ở Tam Chúc…”

Tôi thì trộm nghĩ khác: đó chả phải là chùa chiền gì cả mà chỉ là những bãi phân giữa thời mạt pháp. Ngày nào mà chế độ hiện hành vẫn còn hoành hành thì sẽ còn nhiều bãi cứt tương tự xuất hiện ở mọi nơi. Và phân gio của Bộ Nội Vụ VN, thực ra, cũng đã vương vãi cùng khắp – miếu đền, thánh thất, giáo đường – chớ đâu có riêng chi ở chốn thiền môn.

Tưởng Năng Tiến

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Thích Tuệ Sỹ

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

17/02/2023

Tôi sống hơi lâu, qua hai ba thế kỷ (và thể chế chính trị) nhưng chưa bao giờ nghe lắm lời than phiền về chùa chiền và tăng lữ như ở chế độ hiện hành:

– Thái Hạo: “Chùa, còn gọi là tịnh xá, là thiền môn, tức là chốn thanh tịnh để tu hành. Bất cứ chùa nào khuyến khích hay quảng bá nhằm thu hút dân chúng đến để thu tiền hoặc sử dụng các dịch vụ thì đều không phải chùa. Nó là các cơ sở kinh doanh núp bóng chùa. Kéo nhau đến những nơi như thế đều là đang tiếp tay và làm giàu cho bọn gian thương, vừa bị mất tiền, vừa bị cười vào mặt.”

– Tạ Duy Anh: “Thậm chí có thể nói rằng, nơi những cửa chùa mà tôi có dịp đến ‘ăn mày Phật’ giờ đây là nơi nhiều nhốn nháo nhất. Tràn ngập là xôi, thịt và những lời cầu khấn còn nặng mùi xôi thịt hơn nhiều lần.”

– Trần Tân: “Trước kia, tôi cũng hay đến chùa, tôi theo Đạo Phật, tôi kính Đức Thích Ca Mâu Ni, tôi còn kính cả Chúa cả Phật…. Tôi vãn cảnh chùa để hòa mình vào khung cảnh thanh tịnh, ăn chút cơm chay, cúng một số tiền nhỏ, vậy thôi… Nhưng từ khi thấy sư sãi giờ đã (không nói hoàn toàn) xa rời cuộc sống tu hành, khổ hạnh mà họ coi tu hành là nơi kiếm ăn, hưởng lạc…  Tôi xin quay lưng với chùa.”

Ủa! Chớ chùa nào mà kỳ cục dữ vậy cà?

T.S Nguyễn Văn Huy tường thuật: “Hiện nay Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất chỉ còn giữ được khoảng 10% tổng số cơ sở đã có trước 1975. Tất cả những cơ sở còn lại được chính quyền cộng sản Việt Nam giao cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam quản lý.”

Hoà Thượng Thích Không Tánh cho biết thêm chi tiết: “Tính đến năm 2013, khoảng 10% các cơ sở trước năm 1975 của Giáo hội Thống Nhất còn thuộc quyền đảm nhiệm của Giáo hội. Số còn lại 90% đã bị chính quyền giao cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam quản lý.”

Nhà giáo Thảo Dân góp ý: “Cần phân biệt chùa chiền với những cơ sở kinh doanh tâm linh. Đánh đồng tất cả rồi hô lên ‘tôi quay lưng với chùa’, chính là một cách ứng xử vô thần, không phân định chính, tà hàm hồ, xôi thịt.”

Để tránh “đánh đồng tất cả” và có thể “phân biệt” được chính/tà tưởng cũng cần phải biết rõ rằng trong số 18.491 ngôi chùa hiện nay thì tuyệt đại đa số (14.500) đều do sư tăng quốc doanh “trụ trì.” Chính cái đám người này đã biến thiền môn thành những nơi “nhốn nháo, tràn ngập xôi thịt” (hay “nơi kiếm ăn, hưởng lạc”) khiến bao tín hữu chỉ vừa bước chân vào là vội vã quay lưng!

Những ngôi chùa đơn lẻ còn lại của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất – GHPGVNTH – thường rất nghèo nàn và vắng vẻ vì không có những lễ hội, cúng tế mầu mè để lôi kéo khách thập phương. Phần lớn tăng ni ở đây không chỉ phải sống trong cảnh bần hàn mà còn thường xuyên bị đe dọa hay xách nhiễu:

Kể trên mới chỉ là vài ba câu chuyện nhỏ, tại địa phương. Ở bình diện quốc gia, còn có nhiều chuyện “kinh thiên động địa” hơn nhiều nhưng vẫn thường không được dư luận biết rõ hoặc quan tâm đúng mức. Từ năm 1981, GHPGVNTN đã bị nhà đương cuộc Hà Nội ngang nhiên giải thể và đặt ngoài vòng pháp luật. Họ lập ra tổ chức mới, mệnh danh là GHPGVN, một thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam.

Nói cách khác là nhà nước đã biến giáo hội thành bàn tay nối dài của Đảng. Tuy dài thật nhưng nó không thể che được mặt trời. Dù bị đe dọa/xách nhiễu thường xuyên, và bị chia rẽ/phân hoá đến tận cùng, GHPGVNTN vẫn không bị triệt tiêu như những kẻ đang nắm quyền bính ở VN mong đợi.

Ngày 1 tháng 9 năm 2022, Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương GHPGVNTN công bố: “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không phải là một hiệp hội thế tục, do đó, không tự đặt mình dưới sự chỉ đạo của bất cứ quyền lực thế tục, không là công cụ bảo vệ sự tồn tại của bất cứ xu hướng chính trị, của bất cứ tổ chức thế tục nào; không hành đạo, hoằng đạo theo bất cứ định hướng ý thức hệ nào; duy chỉ một định hướng duy nhất: Thập phương Bạc-già-phạm nhất lộ Niết-bàn môn; một cứu cánh duy nhất là giải thoát.”

Qua hôm sau, hôm 2 tháng 9, VOA loan tin: “Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ trở thành lãnh đạo tối cao của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.”

Trước sự kiện này, nhiều người đã không giấu được nỗi hân hoan:

Nhạc sỹ Tuấn Khanh:

“Việt Nam xôn xao tin tức về sự ra mắt của Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, chính thức vào chức vụ Chánh Thư Ký – Xử lý thường vụ Viện Tăng Thống. Bậc minh sư lâu nay ẩn danh đột nhiên xuất hiện ở lễ nhận di chúc, ấn tín, và khai ấn từ Đệ ngũ Tăng Thống Thích Quảng Độ khiến những người yêu Phật giáo chân chính và tự do của Việt Nam đều vui mừng…

Sự có mặt của Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ chính là ngọn đuốc thắp sáng đức vô úy của những Phật tử và những người hướng Phật trong một thế giới chập choạng không còn rõ lằn ranh Ma-Phật. Nó là điểm tựa của tư duy Phật giáo trong lành trong thời pháp nạn. Ngài là hiện thân của tín ngưỡng, đạo pháp sống và chết vì quê hương và dân tộc. Ít nhất, ngài đang là điểm tựa của những người tỉnh thức.”

Tác giả Huỳnh Kim Quan, bỉnh bút của tờ Việt Báo, còn lạc quan hơn nữa:

“Đây không những là một tin rất hoan hỷ đối với cộng đồng Phật Giáo Việt Nam trong và ngoài nước, mà còn là bước ngoặt mở ra trang sử mới của GHPGVNTN.”

Tôi hoàn toàn chia sẻ sự “hoan hỷ” và tinh thần lạc quan của tất cả mọi người, dù vẫn có chút băn khoăn là cá nhân Hòa Thượng Tuệ Sỹ sẽ không thể “mở ra một trang sử mới cho GHPGVNTN” như chúng ta mong đợi. Ông đơn độc quá. Tấm thân gầy guộc và bờ vai mong manh của vị cao tăng uyên bác e không đủ sức để ghánh vác trọng trách này, giữa vòng vây thắt chặt của bạo quyền, và trước sự thờ ơ (hay ngu tối) của chúng sinh.

An tâm/hoan hỉ xoa tay vì Phật sự đã có người tài đức đứng ra đảm nhiệm, và quay lưng trước cửa thiền (mặc cho quỷ lộng chùa hoang) e không phải là cách ứng xử hoàn toàn đúng đắn của một phật tử giữa mùa pháp Nạn, hay một công dân trong cơn quốc nạn.

——————Viết thêm: Chả hiểu sao mỗi khi nhìn thấy hình ảnh gầy guộc, mong manh của Thích Tuệ Sỹ là tôi lại nhớ đến ngay một nhân vật lịch sử khác – bà Aung San Suu Kyi. Họ sinh cùng thời, cùng vô tình lạc bước vào lịch sử, và cùng có một bờ vai mảnh dẻ/nhỏ nhắn như nhau.

Chiến thắng vang dội của đảng National League for Democracy (NLD) qua cuộc bầu cử 2015 khiến cho mọi người thở phào nhẹ nhõm, và toàn thể nhân loại yên tâm đặt hết mọi khó khăn/thách thức của Miến Điện lên bờ vai nhỏ bé của Suu Kyi. Bà đã không chu toàn được trọng trách (tất nhiên) và cũng đã nhận được hơi nhiều … gạch đá của đám đông!

Trước sự kiện này, nhà báo Rodion Ebbighausen (The Indian Express) bình luận: “Sau năm năm lãnh đạo của Aung San Suu Kyi thì rõ ràng là không có cây gậy thần nào giải quyết được những vấn đề của Myanmar cả. Quốc sự cần sự tham gia của tất cả mọi người. After five years of leadership of, it has become clear that is not a magic wand that will solve Myanmar’s problems. The nation’s politics needs to include everyone.”

So với Aung San Suu Kyi thì Thích Tuệ Sỹ cô đơn hơn nhiều lắm!

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Chữ Việt

Chữ Việt

Khi Phạm Thế Duyệt còn tại chức, đôi lúc, tôi vẫn thường nghe nhân vật này than phiền rằng mình không thể nào tiếp xúc trực tiếp được với những nhóm dân bản địa vì rất nhiều người (Thượng, Nùng, Tầy, Mán, Mèo, Do, Khơ Mú, Cơ Tu, Lô Lô, Chu Ru …) hoàn toàn không biết tiếng Kinh.

Ông Chủ Tịch Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc giữ chức vụ này gần chục năm, từ 1999 đến 2008. Từ đó đến nay, cả đống nước sông/nước suối/nước mưa (và nước mắt) đã ào ạt qua cầu và qua cống. Tuy thế, vấn đề dường như vẫn thế. Rất nhiều người miền núi vẫn không nói được tiếng ở miền xuôi.

Bà Trịnh Nhung, phu nhân của nhà bất đồng chính kiến Bùi Văn Thuận, vừa cho biết:

“Gần 40 ngày sau phiên tòa xét xử sơ thẩm, gia đình mới được phía trại tạm giam cho phép thăm gặp anh Thuận vào thứ Hai ngày 26/12. Bố mẹ anh Thuận bắt đầu đi từ trên Hòa Bình xuống Thanh Hóa từ 4h sáng. Đến 7h sáng thì cả nhà có mặt tại trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa… 

“Sau khi nộp đơn xin thăm gặp và chờ được duyệt thì đến 10h sáng, gia đình được vào gặp anh Thuận… Sau đó anh Thuận nói chuyện với mẹ, anh Thuận hỏi thăm mẹ được vài câu thì cán bộ trại giam giật điện thoại, yêu cầu anh và mẹ phải nói tiếng Kinh với nhau, không được nói tiếng dân tộc. Anh Thuận giải thích rằng mẹ anh là người dân tộc Mường, không giỏi tiếng Kinh nên chỉ có thể nói chuyện bằng tiếng Mường…”

Tuy bích chương, tranh cổ động, và khẩu hiệu đề cao tinh thần đoàn kết/yêu thương/đùm bọc (trong đại gia đình 54 dân tộc anh em) luôn tràn ngập trên mọi nẻo đường đất nước nhưng sau nửa thế kỷ Nam/Bắc hòa lời ca – xem ra – “anh em” vẫn … chưa hiểu được nhau. Tiếng Kinh vẫn còn xa lạ với rất nhiều người dân bản địa.

Thực phẩm ở miền xuôi cũng thế, cũng vẫn còn “xa lạ” (và xa xôi) lắm, theo như tường thuật của FB Chi Lê:

“Tỉnh Bình Phước có Sóc Bom Bo nổi tiếng trong trận chiến ác liệt Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Tính từ ngày “giải phóng” đến nay, hầu hết trẻ con ở Sóc Bom Bo chưa từng biết Phở là gì cho đến khi Tổng công ty Acecook tổ chức Ngày Của Phở (12/12/2019) đưa Phở đến với các em. Những “Gánh Phở Lên Đồi” đã làm rộn rã Sóc Bom Bo …

“Chỉ thương dân làng Bom Bo đã từng phải giã gạo suốt đêm vì:“Cách mạng cần gạo nhiều để đánh Mỹ…” để bây giờ họ vẫn phải…“cái bụng không no, khố chăn chẳng lành…”

Khi “cái bụng không no” và “khố chăn chẳng lành” thì học hành, kể cả việc học tiếng Kinh – tất nhiên – là chuyện rất xa vời và vô cùng xa xỉ. Bởi thế, thay vì chú tâm đến việc giảng dạy Việt Ngữ nơi vùng xa/vùng sâu/vùng căn cứ cách mạng, nhà đương cuộc Hà Nội đã quyết định “xuất khẩu” tiếng Việt ra nước ngoài – “Gửi Tiếng Việt Tặng Người Việt Tị Nạn” – theo như tựa một bài viết của nhà báo Ngô Nhân Dụng:

“Đảng Cộng sản Việt Nam lo lắng giúp người Việt tị nạn hoặc di cư sống ở nước ngoài. Họ lo dân Việt xa quê có ngày sẽ không còn đủ tiếng Việt để xài nữa, dù có cố gắng tiết kiệm, chỉ dần dần xài mỗi ngày một chút cho đỡ tốn. Cho nên, để giúp đỡ hơn 5 triệu người Việt ở 130 quốc gia trên thế giới, Đảng đã chọn ngày 8 tháng Chín làm ngày đề cao Tiếng Việt. 

“Theo ký giả Sen Nguyen, trên the South China Morning Post ở Hồng Kông ngày10 tháng Chín, 2022, một ông phó thủ tướng tên là Phạm Quang Hiêu (Hiếu, Hiệu, hoặc Hiểu, …), nói đã có một “kế hoạch 8 năm” nhằm viện trợ tiếng Việt cho đồng bào ruột thịt!”

 Quý hóa thế!

Tuy thế, thiện chí và thiện ý của nhà nước hiện hành – dường như – không được đám “đồng bào ruột thịt” (nói chung) và tác giả của bài báo thượng dẫn (nói riêng) tán thưởng hay ghi nhận. Chả những thế, ông nhà báo còn nhắn nhủ độc giả “nên tránh không “va chạm” với chữ nghĩa của các ông cộng sản” nữa cơ!

Sao “khó khăn” với nhau vậy nhỉ?

Ngô Nhân Dụng cho biết lý do:

“Bên bờ hồ Hoàn Kiếm quý vị có thể thấy hai tấm bảng treo trên một cửa ra vào, viết giống hệt nhau, một cái treo ngoài đường, một cái ở trước cửa bên trong. Tấm bảng xanh lá cây viết bốn hàng chữ trắng, tất cả viết hoa, như thế này:

CÔNG TY TNHH NHÀ NƯỚC MỘT THÀNH VIÊN MÔI TRƯỜNG ĐÔ THỊ

XÍ NGHIỆP MÔI TRƯỜNG ĐÔ THỊ SỐ 2

NHÀ VỆ SINH CÔNG CỘNG – TOILET

ĐỊA CHỈ: SỐ 8 LÊ THÁI TỔ, HOÀN KIẾM, HÀ NỘI – ĐT: 043.8288072 – 043.9288508

“Tất cả tấm bảng 41 chữ và số, cuối cùng, chỉ có một chữ mọi người cần biết, là “Toilet!” Người đi đường, các du khách chỉ cần đọc chữ “Toilet” hay “Toa Lét” là hiểu ngay! Không hiểu tại sao người ta phải đọc 25 chữ VIẾT HOA lòng thòng rồi mới được thấy chữ “Toilet!”

“Cũng không hiểu tại sao phải ghi cả địa chỉ cái toa lét này? Người đi tìm toa lét có ai chọn một địa chỉ trước, đúng địa chỉ mới vào, hay không? Lại còn số điện thoại nữa! Có cần gọi điện thoại xin hẹn trước, giữ chỗ, mới được dùng toa lét hay không?”

Giời ạ! Cứ tưởng chuyện gì? Chớ xá chi đến cái tấm bảng con con đặt trước cầu tiêu, hay mấy đống sạn lụn vụn vương vãi trong mớ sách giáo khoa của lũ trẻ con. Cứ nhìn thử cái slogan của Vietnam Airlines mà xem: SẢI CÁNH BAY XA/ SẢI CÁNH VƯƠN CAO!

Vậy mà vẫn được trưng bày khắp mọi nơi, kể cả ở sân bay nước ngoài, từ năm này sang năm khác mà có thấy ai thắc mắc hay khiếu nại gì đâu. Cả nước đã quen mắt với Việt Ngữ (“đương đại”) thế rồi.

Tự điển Soha: Xoải (động từ): vươn rộng ra hết sức về cả hai phía (thường là chân cánh). Thí dụ:“Xoải chân bước tới.Chim  xoải cánh bay.

Tự điển Lạc Việt: Xoải (động từ)đưa rộng ra hai phía. Thí dụ:“Đôi chim trắng xoải cánh bay.

Tiếng Việt hiện nay nó thế đấy!

Ấy thế nhưng vẫn là hàng xuất khẩu, ngoài tầm tay với của đám dân bản địa, và chỉ dành riêng cho những khúc ruột xa ngàn dặm (hay những “sứ giả lạc hồng”) thôi.

STTD Tưởng Năng Tiến – Bác Tổng

Tưởng Năng Tiến

STTD Tưởng Năng Tiến – Bác Tổng

Trong Chuyện Kể Năm 2000, tập II (nxb Câu Lạc Bộ Tuổi Xanh, California – U.S.A ) nơi trang 254 có câu: “Đồng chí Tổng Bí Thư nói nếu nhìn một phụ nữ đẩy xe bò mà trong lòng không xúc động thì không còn phải là người cộng sản nữa.”

Tôi hỏi tác giả:

Ông TBT nào nói thế?

– Quảng Cáo –

Bùi Ngọc Tấn cười nụ:

Thì ông nào mà chả nói thế!

Hoá ra, tất cả mọi đồng chí TBT đều thương dân cả. Yêu nước cũng thế, cũng là thuộc tính bất biến của những người Cộng Sản (nói chung) và qúi vị TBT (nói riêng) theo như lời ông Nguyễn Phú Trọng nói với cử tri – vào hôm 15 tháng 10 năm 2019:

“Hiện nay có một số phần tử cố tình kích động, to tiếng lên, lên gân lên, ra vẻ ta là anh hùng, ra vẻ ta là yêu nước, vậy còn Trung ương Đảng, Chính phủ, Tổng bí thư không yêu nước à? Vô trách nhiệm à?”

Nếu chỉ xét thời gian phục vụ thì quả là đúng thế. Chả thế mà ông Hồ Chí Minh hy sinh làm Chủ Tịch Đảng đến 24 năm trời, ông Lê Duẩn tại vị tới 25 năm, và ông Trường Chinh thì cũng chỉ vì dân vì nước mà phải nhận chức TBT đến hai lần lận.

Nhiệt tình cách mạng của qúi vị lãnh đạo cộng sản VN, rõ ràng, khó ai có thể phủ nhận. Chỉ có cái cách yêu nước và thương dân của họ mới là điều khiến cho thiên hạ phải phàn nàn, hoặc …đảo điên luôn:

Chỉ riêng phong trào Cải Cách Ruộng Đất, do ông Hồ Chí Minh nhập cảng từ nước lạ, đã khiến cho gần trăm ngàn nông dân VN bị hành hình. Ở bình diện quốc tế, cùng với Stalin, Mao Trạch Đông, Polpot, Lenin, Kim Nhật Thành, Kim Chính Nhật, Saddam Hussein… ông có tên trong danh sách (History’s Great Monsters) tội phạm chống lại nhân loại.

Ông Lê Duẩn cũng thế, cũng có tên trong danh sách tội phạm chống lại nhân loại ở mức đại trà (massive crimes against humanity). Ông nổi tiếng là người chủ chiến: “Ta đánh Mỹ là đánh cả cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc …”

Cùng với Trưởng Ban Tổ Chức Trung Ương Lê Đức Thọ, Lê Duẩn còn đánh luôn đồng đảng cho đến mức te tua hay bầm dập. Dù cả hai ông đều đã chết, chiến tích của Cuộc Đấu Tranh Chống Bọn Xét Lại vẫn còn sống âm ỉ trong lòng nhiều người dân Việt cho mãi đến hôm nay.

Tuy thời gian giữ chức TBT không dài nhưng ông Đỗ Mười vẫn để lại dấu ấn khó phai, qua hai trận đánh đẹp, có thể ghi thành sách: đánh tư sản ở miền Bắc (sau 1954) và ở miền Nam (sau 1975) khiến hằng triệu lương dân kẻ phải lâm vào cảnh tán gia bại sản.

Ngoài những thành tích dị biệt có tính cách cá nhân (thượng dẫn) điểm chung nổi bật trong cách quản trị và điều hành của tất cả các ông TBT là đều khiến cho đất nước trở nên … thiếu thốn và đói rách:

– Một năm hai thước vải thô

Làm sao che nổi cụ Hồ hỡi em?

– Miếng thịt lợn chao ôi là vĩ đại

Miếng thịt bò lại vĩ đại bằng hai

Chanh, muối, cam, đường, lạc, đỗ, gạo, khoai

Tất cả những gì người có thể nhai

Đảng mó tới tự nhiên thành vĩ đại (NCT)

Thời chiến hay thời bình “miếng thịt” cũng đều như thế cả. Có khác chăng là chỉ ở mức độ “vĩ đại” mà thôi. Tuy thế, mãi cho đến khi giữ chức vụ TBT lần hai – từ năm 1986 cho đến khi nhắm mắt – Trường Chinh mới biết là “lương của công nhân viên chức chỉ đủ để sống cho mười ngày” và bèn hô hoán:“Phải cứu giai cấp công nhân!”

Trường Chinh qua đời vào năm 1988, một phần ba thế kỷ đã qua, đất nước đã “sang tay” thêm nhiều đời TBT (thương dân – yêu nước) khác nhưng giai cấp công nhân vẫn chưa … được cứu. Họ vẫn cứ phải chung đủ “14 loại thuế phí qua một quả trứng gà” y như đám nông dân, hay công nhân viên nhà nước vậy thôi.

Nét đặc thù hay độc đáo của triều đại Nguyễn Phú Trọng là đã tạo ra một giai cấp mới mà ông là … tác nhân chính:

“Chiều 18-1-2011, khi điều khiển phiên họp toàn thể của Đại hội Đảng lần thứ XI biểu quyết lựa chọn giữa “chế độ công hữu về tư liệu sản xuất” và “quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”, ông Nguyễn Phú Trọng hứa với Đại hội “thiểu số sẽ phục tùng đa số”. Nhưng, tháng 5-2012, Ban Chấp hành Trung ương mà ông Nguyễn Phú Trọng là tổng bí thư vẫn quyết định duy trì “chế độ công hữu” với đất đai, “tư liệu sản xuất” quan trọng nhất.” (Huy Đức. Bên Thắng Cuộc, tập II. OsinBook, Westminster, CA: 2013).

Từ đó, Việt Nam trở nên một “cường quốc của dân oan.” Giới người này vật vạ, la lết, lang thang, vất vưởng trên khắp mọi nẻo đường đất nước hoặc “co dúm thút thít” trong mảnh đất (còn lại) mà diện tích chỉ đủ dựng một túp lều, kỳ dư đã bị thu hồi với giá đền bù “mỗi m2 bằng giá một… cốc bia” – theo như ghi nhận của blogger Đào Tuấn.

Từ Thủ Thiêm, dân oan Nguyễn Thùy Dương cho biết:

Người đàn ông trong ảnh đang ngủ dưới nền đường nhựa nhỏ. Bà con có biết vị trí đó là ở đâu không ạ ? Đó là trước con đường độc đạo đi vào cổng Thanh Tra Chính Phủ cụm 3 tại thành phố Hồ Chí Minh. Để tôi kể bà con nghe vài kiếp người ở con đường độc đạo ấy .

Có một bà ngoại già hơn 80 tuổi sáng nào cũng đeo tấm bảng đòi nhà hơn chục năm qua . Bà là dân vô gia cư mất nhà do một chính sách chỉ có chính và sách là chính còn chữ tình thì tôi chưa thấy .

Một cô giáo đã nghỉ dạy sẽ ngồi kế bên bà ngoại. Trên ngực cô cũng đeo một tấm bảng đòi nhà, đòi con. Ở chế độ cũ gia đình cô thành lập trường tư thục ngay trên chính mảnh đất của mình. Thống nhất đất nước, chính sách thay đổi. Đất làm trường toàn bộ thuộc đất công. Họ thu hồi đất cô, cô ko đồng ý. Một buổi sáng năm 1997 trong lúc cô đang dạy học, Họ kéo rất đông đến nhà cô cưỡng chế.

Con trai cô lên 9 tuổi bị bệnh nên nằm nghỉ ở nhà. Họ vẫn mặc đứa trẻ, họ lao vào cưỡng chế. Đứa trẻ sợ quá lên cơn co giật đến khi mẹ về nó đã nằm đó. Người nó nóng ấm dịu trên tay mẹ. Cô ôm con gào thét. Họ vẫn cưỡng chế. Họ đền nhân mạng đứa nhỏ vài chục triệu rồi lấy nhà. Hơn 20 năm nếu đứa trẻ ngày ấy còn sống có lẽ đã trở thành một thanh niên vạm vỡ làm chỗ dựa cho mẹ già.

Câu nói của cô từng ám ảnh tôi:

– Sao họ ko giết cô chết luôn để cô sống chi mà đau khổ vậy? Cô muốn ôm con cô

Tôi cười với cô, nói: Cô ôm con một cái được không?

Cô ôm tôi rồi khóc, tôi vừa dỗ cô cũng vừa khóc. Cảm giác mình bất lực đến tận cùng…

Thỉnh thoảng có một cô người đen đủi đội nón lá, ngực đeo tấm bảng trình bày nỗi oan khuất. Cô bị cướp đất, bỏ tù. Ra tù về đất mất, vô gia cư. Cô ngày chửi, trưa chửi, tối chửi. Vừa đi nhặt ve chai kiếm đồng tiền đắp đổi. Muốn biết lòng người lãnh đạo hãy nhìn số lượng dân oan sẽ rõ. Đừng hỏi ai yêu nước, ai không?

Khi Lenin nói rằng lòng nhiệt tình cộng với sự ngu dốt bằng sự phá hoại – xem chừng – chính y cũng không thể ngờ được rằng tác phẩm bất hủ (Chủ Nghĩa Marxist Leninist Vô Địch Muôn Năm) của mình sẽ tạo ra một cái cơ chế “ghế ít đít nhiều” nên cái đít nó nhớ cái ghế, thế thôi, chứ có thằng (hay con) mả mẹ nào có nhiệt tình hay nhiệt huyết gì ráo trọi.

(Lại) Ba Người Khác – STTD Tưởng Năng Tiến

STTD Tưởng Năng Tiến

Nguyễn Đức Sơn
(Nguồn: nguyenmienthao.blog)

Tôi định có một ngày nào thật thảnh thơi
Leo lên trời
Ỉa.

(Nguyễn Đức Sơn)

Tác giả những câu thơ vừa dẫn, người có biệt danh là Sơn Núi, hiện đang tha thẩn đâu đó, trong khu rừng Đại Bình, ở B’ Lao. Sống trên núi cao, khi thảnh thơi, muốn leo lên trời (ỉa) quả là điều rất tiện.

Xét về cao độ thì Sơn Núi (Nguyễn Đức Sơn) ở thấp hơn nhiều bạn đồng nghiệp của mình – như Bùi Minh Quốc, Hà Sĩ Phu, Mai Thái Lĩnh, Tiêu Dao Bảo Cự… – xa lắc. Những nhân vật này đều có thời là biên tập viên của tạp chí Lang Biang, tờ báo (đã bị đóng cửa) này lấy tên theo vùng cao nguyên lâm Viên mà họ đang sinh sống. Đỉnh Lâm Viên, ở Đà Lạt, cao đến hai ngàn bốn trăm mét lận. Từ đây, muốn leo lên trời (để đái, hay làm gì tùy thích) còn tiện hơn nhiều.

Ngoài lợi thế nhỏ nhặt này ra, những cư dân ở miền sơn cước gặp phải toàn là những điều (vô cùng) bất tiện. Họ xa cách (mịt mù) với thế giới văn minh, ở những đô thị miền xuôi. Tôm cá hì hục chở lên đến được đến cao nguyên (thường) đã bị ươn, và thông tin khi nhận được thì (ôi thôi) hoàn toàn đã cũ.

Sau khi cuốn Ba Người Khác đã xuất bản một thời gian khá lâu, được thiên hạ khắp nơi bàn tán cho tới chán, mãi đến ngày 9 tháng 4 năm 2007, ở mạng talawas mới thấy xuất hiện một bài viết về tác phẩm này – của một người dân miền núi: nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự.

Tuy chậm trễ (rành rành) như vậy mà tác giả không chịu vậy. Ông ấy vẫn cứ ồn ào, và lớn tiếng như thường:

Đến bây giờ tôi mới được đọc Ba Người Khác sau khi nhiều người đã đọc và có ý kiến. Tuy thế, đọc xong tác phẩm và những phát biểu góp ý phê bình, nhất là qua buổi toạ đàm về Ba Người Khác do Hội Nhà văn Hà Nội tổ chức ngày 22/12/06, tôi vẫn thấy có vấn đề mới được đặt ra, xuất phát từ tác phẩm, liên quan đến tác giả, các nhà phê bình và trí thức nói chung.

Những “vấn đề mới” được Tiêu Dao Bảo Cự nói rõ, ngay ở tựa bài là: “Sự Liêm Khiết Tinh Thần Và Cái ‘Dũng’ Của Người Cầm Bút Hay Bi Kịch Của Trí Thức Việt Nam.”

Ối Giời! Chuyện “Cái ‘Dũng’ Của Người Cầm Bút Hay Bi Kịch Của Trí Thức Việt Nam” thì chắc phải nói cho tới tết, hay (không chừng) tới chết!

Bà nội mẹ tui cũng không dám lạm bàn đến những vấn đề xa xôi (và lôi thôi) cỡ đó. Phận thường dân, tôi chỉ xin được đề cập đến vài khía cạnh (nho nhỏ) có liên quan đến đám dân thường, hay còn gọi là dân đen, thế thôi.

Một trong những câu hỏi mà Tiêu Dao Bảo Cự nêu lên trong bài viết của ông, nguyên văn, như sau:

… ba cái anh lăng nhăng, thứ ‘đồ ba láp, không biết từ đâu đến lại có thể làm nên những chuyện đảo lộn trời đất? Có thực như vậy không? Hay mọi người đều biết những tên khốn nạn này do Đảng Cộng sản phái xuống làm công tác cải cách và cho chúng quyền uy đến mức nhân dân khiếp sợ phải gọi chúng là “nhất đội nhì giời.” Không có Đảng Cộng sản, chúng nó có thể lộng quyền, tác oai tác quái làm những chuyện kinh thiên động địa như thế không? Đảng Cộng sản Việt Nam được ‘lịch sử giao phó sứ mạng lãnh đạo đất nước’ và trong chuyện Cải cách ruộng đất này Đảng đã làm theo sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc với một phương thức tàn bạo, phi luân, làm đảo lộn mọi giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc Việt Nam và ảnh hưởng lâu dài trên lịch sử đất nước….

Tiêu Dao Bảo Cự và Nguyễn Đức Sơn trên rừng Đại Bình
(Nguồn: DCVOnline/Ảnh: Bao Loc Photo)

“Những tên khốn nạn” hay “đồ bá láp” là những đại danh từ mà Tiêu Dao Bảo Cự dùng để chỉ những cán bộ, trong đội Cải Cách Ruộng Đất. Nhà văn Nguyên Ngọc thì nhẹ lời hơn. Ông gọi họ là “ba cái anh lăng nhăng,” khi phát biểu trong buổi toạ đàm về Ba Người Khác:

“Hoá ra cái thảm kịch của đất nước, xã hội, là do ba cái anh lăng nhăng… Ba kẻ chẳng có kiến thức gì cả, tự nhiên làm đảo lộn hết cả xã hội…”

Trong những trang sổ tay trước, khi để cập đến “Tô Hoài Và Ba Người Khác”, tôi cũng đã (rụt rè) góp ý rằng:

“không hiểu sao ý kiến của Nguyên Ngọc về ba anh đội, ba nhân vật chính trong tác phẩm của Tô Hoài, lại khiến tôi nhớ đến những nhân vật chính khác – những người đã có thời mà quyền lực nhất họ nhì trời – trên sân khấu chính trường ở Việt Nam: Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Đỗ Mười…”

“Thì cũng đều là cái thứ ‘lăng nhăng’ và cũng chính là ‘thủ phạm’ đã làm ‘đảo lộn hết cả xã hội’ bằng nhiều chuyện kinh thiên động địa khác: Hợp Tác Hoá Nông Nghiệp, Cải Tạo Công Thương Nghiệp, Học Tập Cải Tạo, Kinh Tế Mới.”

Nếu chỉ kể tên Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Đỗ Mười (như thế) thì e thiếu vì đã bỏ sót rất nhiều anh đội khác cũng tăm tiếng (và tai tiếng) chả kém ai – như Trường Chinh, Lê Đức Anh, Tố Hữu, Lê Khả Phiêu… Danh sách này còn dài nhưng, theo tôi, không nhất thiết phải hài tên tuổi của tất cả ra đây vì thời của các vị ấy đã qua – và phần lớn đều đã chết.

Việt Nam, có vẻ như, đã bước vào thời kỷ đổi mới. Dân chúng cũng đã có người, và đã có lúc, đặt ít nhiều hy vọng vào những khuôn mặt quyền lực mới. Ông Nguyễn Thanh Giang là một người như vậy:

“Hồi ông Nông Đức Mạnh mới nhậm chức Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam năm 2001, cũng như nhiều người khác, người viết bài này từng cảm nhận một điều gì đó như là sự ngưỡng vọng hoan hỷ trước hình ảnh ông ta xúc động đặt tay lên ngực khi nói lời tuyên thệ”.

Tưởng vậy nhưng không phải vậy. Tưởng như vậy là tuởng bở, tưởng lầm, và là tưởng năng thối. Nguyễn Thanh Giang không cần phải chờ lâu để biết ra như thế:

Vậy mà! Chỉ sau đấy hai ngày, công an Hải Phòng chặn đường bắt cựu chiến binh chống Pháp-chống Mỹ Vũ Cao Quận, dẫn độ ông về nhà khám xét rồi tống giam ông. Liên tục sau đấy là hàng loạt người bị câu lưu, bị tra vấn: Trần Độ, Hoàng Minh Chính, Nguyễn thị Thanh Xuân, Nguyễn Đắc Kính, Đào Quang Tiến, Hoàng Tiến, Dương Sơn, Dương Hùng, Nguyễn Đan Quế, Thích Quảng Độ, Lê Hồng Hà, Hà Sỹ Phu, Nguyễn Thanh Giang… Rồi Phạm Quế Dương, Trần Khuê, Trần Dũng Tiến, Lê Chí Quang, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ Bình, Nguyễn Khắc Toàn… lần lượt vào tù. Không khí nồng nực đến nỗi một phật tử đã tự thiêu ngay dưới chân một tượng đài lớn ở thành phố Đà Nẵng. Tổ chức “Quan sát Nhân quyền Quốc tế” gửi thư đề nghị các nhà tài trợ quốc tế cắt giảm tài trợ đối với Việt Nam, hạ viện Hoa Kỳ bỏ phiếu thông qua Đạo luật Nhân quyền cho Việt Nam với kết quả đa số tuyệt đối… Từ đấy, Việt Nam bị xếp vào một trong 13 nước kém nhất về tự do báo chí, ngôn luận và bị đưa vào danh sách các quốc gia đáng quan tâm đặc biệt vì thiếu sót về tự do tôn giáo.

Sau khi đặt tin tưởng (hụt) vào ông Nông đức Mạnh, thiên hạ – trong cũng như ngoài nước – bèn dồn kỳ vọng vào … “hai người khác.” Ông Nguyễn Tấn Dũng được Jonathan Pincus, người đứng đầu Chương trình Phát triển Kinh tế của Liên Hợp Quốc ở VN, mô tả như là có khuynh hướng cấp tiến.

Tương tự, Nguyễn Minh Triết được coi là người chống tham nhũng. “Và theo nhận xét chung thì ông sẽ năng nổ hơn người tiền nhiệm, đặc biệt trong lĩnh vực cải tổ kinh tế và pháp luật, làm nền cho VN gia nhập tổ chức WTO trong năm nay” (“And there is a widespread perception he will be more active than his predecessor, particularly in implementing economic and legal reforms that pave the way for Vietnam’s accession to the World Trade Organization”) – theo nguyên văn như lời của Karl D John, qua bài “Vietnam’s South Takes Leadership Wheel,” đọc được trên Asia Times, số ra ngày 28 tháng 6 năm 2006.

Rồi Việt Nam gia nhập WTO thật. Và ngay sau đó qúi ông Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết … đã có ngay những hành động (cụ thể) để chứng minh cho cả thế giới biết rằng mọi người (lại) đều lầm ráo.

Đây là hiện trạng ở Việt Nam – vẫn theo như lời tường thuật của ông Nguyễn Thanh Giang, vào tháng 5 năm 2007 – qua bài viết thượng dẫn:

Đợt đàn áp mới này không kém phần dữ dội và còn đang diễn tiến khôn lường. Đàn áp, đàn áp …lại đàn áp vốn là lẽ sống của một chính quyền lấy chuyên chính vô sản làm tôn chỉ.

Tuy nhiên người ta không thể không đặt nhiều câu hỏi về lý do, mức độ, mục đích của cuộc đàn áp này.

Trước hết là vấn đề thời điểm.

Vì sao đem xử linh mục Nguyễn văn Lý và một loạt: Nguyễn Phong, Nguyễn Bình Thành, Hoàng Thị Anh Đào, Lê Thị Lệ Hằng ngay lúc Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm đang đi Mỹ để dàn xếp hai chuyến thăm Hoa Kỳ đầu tiên của chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Trong khi đó, đoàn đại biểu Tòa thánh Vatican đang viếng thăm Việt Nam?

Vì sao còng tay, tống giam nhà văn Trần Khải Thanh Thủy và bắt luật sư Lê Quốc Quân ngay sát trước ngày khai mạc cuộc Hội đàm Nhân quyền Hoa Kỳ – Việt Nam tại Washington?

Vì sao đã dự kiến chuyến thăm Hoa Kỳ của Chủ tịch nước vào 22 tháng 6 năm 2007 mà trong tháng 5/2007, đầu tháng 6/2007 lại đem xử án hàng loạt: luật sư Nguyễn văn Đài, luật sư Lê thị Công Nhân, nhà văn Trần Khải Thanh Thủy, doanh nhân Trương Quốc Huy và săn lùng tán loạn những: Trương Quốc Tuấn, Lê Trí Tuệ, Bạch Ngọc Dương …?

Vẫn là cái đồ ba láp, cái thứ lăng nhăng, khốn nạn.
(Nguồn: DCVOnline)

Sau chừng đó câu hỏi “tại sao,” ông Nguyễn Thanh Giang “tha thiết kêu gọi toàn dân, toàn Đảng” hãy “cảnh giác” về những thế lực và áp lực của Trung Cộng qua những việc làm tàn bạo và thất nhân tâm – của Đảng CSVN – như ông vừa kể.

Khi nhìn lại những hành động “tàn bạo, phi luân” của Đảng CSVN, hồi nửa thế kỷ trước, nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự cũng thấy có vấn đề y như vậy:

Đảng Cộng sản Việt Nam đựợc “lịch sử giao phó sứ mạng lãnh đạo đất nước” và trong chuyện Cải cách ruộng đất này Đảng đã làm theo sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc với một phương thức tàn bạo, phi luân, làm đảo lộn mọi giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc Việt Nam và ảnh hưởng lâu dài trên lịch sử đất nước…”

Lịch sử đang lập lại chăng? Xin đừng nói (đại) như vậy mà tội nghiệp cho… lịch sử! Thời Cải Cách Ruộng Đất đã qua bao giờ đâu mà lập lại, cha nội!

Qúi ông Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết… – rõ ràng – ăn mặc (cũng như ăn nói) có dễ coi và dễ nghe hơn những anh đội trong thời kỳ Cải Cách Ruộng Đất nhưng cách hành xử, và bản chất của họ thì vẫn y chang như vậy. Vẫn là cái đồ ba láp, cái thứ lăng nhăng, khốn nạn. Nói tóm lại là cả nước lại vừa có thêm ba người khác nữa, thế thôi.

Tưởng Năng Tiến

S.T.T. D Tưởng Năng Tiến – Tại Nó Chớ Ai

Tưởng Năng Tiến

Có lẽ không người ngoại quốc nào đã để lại ấn tượng sâu đậm nơi nước Việt, như bác Lê Nin. Chỉ riêng bức tượng của Người tại Hà Nội (thôi) cũng đủ khiến cho lắm người thắc mắc: Ông Lênin ở nước Nga/ Cớ sao ông đến vườn hoa nước này?

Cớ sao ư?

Báo Nhân Dân, số ra ngày 23 tháng 04 năm 2010, nêu rõ:

“Sự gặp gỡ của Nguyễn Ái Quốc với chủ nghĩa Lê-nin là một cuộc gặp lịch sử… Chủ tịch Hồ Chí Minh hồi tưởng: Luận cương của Lê-nin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao. Tôi vui mừng đến phát khóc lên.”

Sau đó, sau khi “phát khóc” và lau nước mắt/nước mũi xong, bác Hồ liền thỉnh ngay bác Lê về thờ nên mới có Suối Lê Nin (với Núi Các Mác) cùng hình ảnh – cũng như tượng đài – của cả hai ông trưng bầy khắp mọi nơi, để lập ra một tôn giáo mới, thay thế cho Phật/Chúa/Thánh Thần/Ông Bà/Tiên Tổ … các thứ.

Ngoài Lenin và Karl Marx, bác Hồ còn “nhập khẩu” nhiều vỹ nhân khác nữa (Engels, Stalin, Mao Zedong …) và tất cả đều được “mạ đồng/mạ kền” sáng chói khiến không ít người dân Việt đã hết lòng sùng kính :

“Năm ấy anh mười tám tuổi. Cả làng đói lăn chiêng. Ai cũng lo đi kiếm miếng ăn hàng ngày. Thế mà bỗng nhiên anh đi biền biệt suốt nửa tháng trời, đêm không ngủ ở nhà. Thỉnh thoảng anh mới về nhà lấy cái quần cái áo, rồi lại đi ngay…

Có một lần nhà vắng người, anh rút trong người ra một cuốn sổ to bằng bàn tay, dày chừng một trăm trang, rồi bảo tôi ngồi ngay ngắn trên ghế đẩu, đưa cuốn sổ cho tôi xem. Anh không cho tôi sờ tay vào, mà tự tay anh giở từng trang.

Tôi hồi hộp dán mắt vào: Chà, thích quá, toàn ảnh, trang nào cũng dán vài tấm ảnh. Những tấm ảnh thiêng liêng: Các Mác, Ăng- ghen, Lê-nin, Mao Trạch Đông, Sta-lin … (Võ Văn Trực. Cọng Rêu Dưới Đáy Ao. NXB Hội Nhà Văn: Hà Nội, 2007. Bản điện tử do talawas thực hiện).

Cái đám “cầm lái vỹ đại” này chỉ hết “thiêng liêng” sau khi bào huynh của tác giả – Võ Quang Hiền – tham gia vào Chiến Dịch Cải Cách Ruộng Đất (1953 – 1956) ngay tại làng quê của mình. Từ đó, ông “tự diễn biến/tự chuyển hóa” rất nhiều và cũng rất nhanh :

“Con đường tham gia công tác xã hội của anh xuống từng nấc thang: sĩ quan quân đội, cải cách ruộng đất, cán bộ thông tin xóm, Đảng viên trơn… và cuối cùng là phó thường dân!

Tưởng là ‘dứt bỏ đường công danh’, vui thú điền viên tham gia việc làng việc xóm cho vui, đến bây giờ anh mới nhận thức ra rằng việc làng việc xóm cũng là việc xã hội, mà làm ‘việc xã hội’ là thế nào cũng bị va chạm, xô xát.

Anh hoàn toàn dành thì giờ lo việc gia đình nhưng vẫn bị Đảng uỷ để ý, cho là ‘phần tử bất mãn’, là ‘cố ý chống đối’… Thì ra cái ‘cọng rêu dưới đáy ao’ mà anh tưởng là ‘yên thân’ như các nhà nho ngày trước, có ngờ đâu cái cọng rêu ấy trong thời buổi này cũng phải đối mặt với mọi biến động của xã hội…”

Chung cuộc, kẻ “bất mãn” và “cố ý chống đối” bị các đồng chí của mình … “hành” cho đến chết luôn :

“Tôi đặt lên ngôi mộ tấm ảnh của anh – không phải tấm ảnh gày gò của ông lão sáu mươi, mà là tấm ảnh người thanh niên cường tráng những năm tháng hào hùng ở Việt Bắc: mặc áo trấn thủ, đội mũ lưới đính quân hiệu. Hàng trăm cặp mắt chăm chăm nhìn vào tấm ảnh, chợt thức dậy trong tiềm thức của họ những kỷ niệm về anh và về làng xóm thuở Cách mạng sơ khai.”

Nhà văn Võ Văn Trực quả là khéo nói (hay khéo lách) chớ cách mạng thì bao giờ mà chả thế – bất kể “sơ khai” hoặc “thoái trào” – và lúc nào mà không “chuyên chính” với những kẻ đi trật đường ray Cộng Sản.

Vi Đức Hồi – nguyên trưởng ban tuyên giáo, giám đốc trường đảng, thường vụ huyện ủy huyện Hữu Lũng tỉnh Lạng Sơn – là một nạn nhân tiêu biểu của Đảng và Nhà Nước VN, vào giai đoạn “thoái trào” này. Tuy thuộc thế hệ đến sau nhưng ông vẫn trưởng thành với niềm tin (hừng hực) không khác chi lớp tiên phong.

Hồi ký (Đối Mặt) của ông ghi lại không ít những câu chữ “sung sướng” đến ngất ngây:

“Khi tôi đọc cương lĩnh đầu tiên của đảng năm 1930, tôi thật sung sướng vì đảng chỉ ra rằng: Khi cách mạng giải phóng dân tộc thành công, đảng đưa cả nước ta tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua tư bản chủ nghĩa. Xã hội mà đảng hướng tới là một xã hội đỉnh cao của sự văn minh nhân loại, ở đó sẽ không còn chế độ người bóc lột người, mọi người sống với nhau bình đẳng bác ái, nhà nước là của dân, do dân và vì dân…”

Nội dung Cương Lĩnh Đầu Tiên của Đảng (ta) e chỉ là bản copy Luận Cương Của Lenin thôi chớ không có chi khác cả, ngoài vài chỗ ngắt câu, và mấy dấu chấm phẩy. Bởi thế nên Vi Đức Hồi không “sung sướng” được luôn, và cũng chả được lâu.

Những trang sau trong cuốn hồi ký Đối Mặt, không thiếu những cụm từ vô cùng cay đắng: “đảng nói không biết ngượng, đảng nói một đàng làm một nẻo, đảng nói như hát hay…”

Mỗi lúc ông một thêm xa lánh Đảng, rồi trở nên “đối mặt” với nó, và bị khai trừ. Sau đó – cũng như ông Võ Quang Hiền, hồi giữa thế kỷ trước – Vi Đức Hồi cũng quyết định biến mình thành một “cọng rêu dưới đáy ao,” nơi làng quê khốn khó của mình :

“Quê tôi, một trong những Xã nghèo nhất Nước ta, là một trong 9 Xã của Tỉnh Lạng sơn và là một trong hai Xã duy nhất của Huyện Hữu lũng chưa có bóng dáng điện lưới quốc gia; là Xã vùng sâu,vùng xa, Xã đặc biệt khó khăn …

Tôi mua được một chục cặp lợn con, giúp cho 10 hộ nghèo nhất ở làng tôi để họ chăn nuôi, khi nào lợn xuất chuồng bán thì hoàn trả gốc cho tôi, để tôi chuyển cho hộ khác. Nhiều người phấn khởi, nhận lợn và cảm ơn.

Tin này Xã báo cáo Huyện… Thường trực Huyện uỷ triệu tập cuộc họp cán bộ chủ chốt ở xã Tân lập (quê tôi) để nghe cơ sở báo cáo tình hình. Huyện uỷ quán triệt: đây là một trong những âm mưu rất nguy hiểm của các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta, hơn lúc nào hết, chúng ta phải nêu cao cảnh giác cách mạng, chặn đứng mọi hành động nhằm lôi kéo quần chúng nhân dân, gây mất ổn định an ninh chính trị…”

Thế là thay vì trở thành một cọng rêu để có thể được nằm yên dưới đáy ao, Vi Đức Hồi phải nằm trong lòng nhà tù cách mạng.

Câu chuyện của các bác Mác/Lê qua hai thế hệ người Việt thượng dẫn (tưởng) cũng đã đủ ê chề nhưng chưa hết. Cuối tháng 9 năm 2021, báo đài Nhà Nước đều đồng loạt và hớn hở loan tin:

– Về cậu bé 10 tuổi đọc Lênin toàn tập: Hứng thú với sách như với đồ chơi, bánh kẹo

– Cậu bé 10 tuổi quyết tâm đọc toàn bộ Lê Nin toàn tập

– CẬU BÉ 10 TUỔI ĐỌC LÊNIN TOÀN TẬP

– Cậu bé 10 tuổi đam mê khám phá lịch sử, từ nhỏ đã đọc bộ Lê Nin

Con cái nhà ai mà quá đã (và quá đáng) vậy, Trời? Thiệt là vô phúc. Cũng tại NÓ hết trơn chớ còn ai vô đây nữa! Thế là thay vì trở thành một cọng rêu để có thể được nằm yên dưới đáy ao, Vi Đức Hồi phải nằm trong lòng nhà tù cách mạng.

Câu chuyện của các bác Mác/Lê qua hai thế hệ người Việt thượng dẫn (tưởng) cũng đã đủ ê chề nhưng chưa hết. Cuối tháng 9 năm 2021, báo đài Nhà Nước đều đồng loạt và hớn hở loan tin:

– Về cậu bé 10 tuổi đọc Lênin toàn tập: Hứng thú với sách như với đồ chơi, bánh kẹo

– Cậu bé 10 tuổi quyết tâm đọc toàn bộ Lê Nin toàn tập

– CẬU BÉ 10 TUỔI ĐỌC LÊNIN TOÀN TẬP

– Cậu bé 10 tuổi đam mê khám phá lịch sử, từ nhỏ đã đọc bộ Lê Nin

Con cái nhà ai mà quá đã (và quá đáng) vậy, Trời? Thiệt là vô phúc. Cũng tại NÓ hết trơn chớ còn ai vô đây nữa!