S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Quà sinh nhật muộn

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

“Không Có Gì Quý Hơn Độc Lập Tự Do” là tên của một bài thơ mà Nguyễn Chí Thiện viết từ năm 1968. Tuy hơn nửa thế kỷ đã qua, tác phẩm này vẫn được nhiều người trích dẫn (đều đều) vì tâm đắc hay yêu thích:

Tôi biết nó, thằng nói câu nói đó

Tôi biết nó, đồng bào miền Bắc này biết nó

Việc nó làm, tội ác nó ra sao

Tác giả, và độc giả mến mộ những câu thơ thượng dẫn – xem ra – đều hơi quá lạc quan khi tin rằng “đồng bào miền Bắc” đều biết” rõ “việc làm”, và “tội ác” của ông Hồ Chí Minh (HCM) người đã từng là Chủ Tịch Nước kiêm Chủ Tịch Đảng CSVN suốt hai mươi bốn năm dài (1945 – 1969) gần một phần tư thế kỷ.

Tuy cũng sinh cùng nơi, và sống cùng thời, với nhà thơ Nguyễn Chí Thiện nhưng cái nhìn của nhà văn Lê Phú Khải lại khác: “Độc lập và dân chủ là hai phạm trù lớn nhất, được cả dân tộc nhắc đến nhiều nhất trong thế kỷ qua. Độc lập thì Hồ Chí Minh là hình tượng…”

G.S Tương Lai cũng thế. Ông tuyên bố: “Dứt bỏ mọi liên hệ với đảng Nguyễn Phú Trọng thao túng, để tiếp tục chiến đấu với tư cách đảng viên Đảng Lao Động Việt Nam, đảng của Hồ Chí Minh.”

Nhà văn Dương Thu Hương cũng dành cho nhân vật lịch sử này không ít thiện cảm cùng nhiều lời ưu ái:“Đó cũng là nguời sáng suốt nhất giữa đám nguời cầm quyền Việt Nam cùng thời đại.”

Theo bác Hà Sĩ Phu thì đây là chuyện: “… không lạ, vì nhiều trí thức trong nước hiện nay, dù là đảng viên trung thành hay trí thức phản biện, cũng có cùng quan điểm như Dương Thu Hương (phê phán Cộng sản nhưng tôn vinh Hồ Chí Minh), trong khi Hà Sĩ Phu và nhiều người khác thì lại có những ý kiến có phần khác biệt. Vấn đề khó, không dễ nhất trí ngay, xin cứ lưu lại tất cả để cùng suy ngẫm.”

Với ít nhiều chủ quan, tôi thì tin rằng vấn đề chả có “khó khăn” gì ráo trọi và cũng không có chi để mà “suy gẫm” nữa. Ngoại trừ một số ít quý vị nhân sỹ vẫn còn tiếc nuối cái Thời Đại Hồ Chí Minh Quang Vinh (“Thời Đại Rực Rỡ Nhất Trong Lịch Sử Dân Việt”) dù “nó” đã đi rất xa, và rất sâu, vào tận trong lòng của quần chúng mất rồi:

  • Đả đảo Thiệu, Kỳ cái gì cũng có/ Hoan hô Hồ Chí Minh cái đinh cũng phải xếp hàng.
  • Chiều chiều trên bến Ninh Kiều/ Dưới chân tượng bác đĩ nhiều hơn dân.

Nói chi ngay tại bến Ninh Kiều, ở tuốt luốt dưới miệt Năm Căn mà lắm người cũng “biết,” và cũng căm (“nó”) lắm:

 Vừa có thông báo lăng Ba Đình sẽ được dùng làm nhà xí công cộng một thời gian, trước khi đập bỏ, ông Tư Ngộ (ở Năm Căn) vội vã bay ra Hà Nội. Ông định xin  ở trọ nhà một người quen vài hôm để có dịp vào thăm lăng Bác cho thoả ước nguyện ấp ủ cả đời người. Đến nơi, chủ nhà rẫy nẩy: Sao ở vài ngày mà xong được. Thiên hạ đã đăng ký và xếp hàng dài ra tới tận đèo Cù Mông rồi. Ông cứ về lại Năm Căn đi, chờ vài năm nữa rồi ra lại đây vẫn chưa muộn.

 Chờ “vài tháng” thì ok chớ chờ “vài năm” thì sợ muộn vì cái lăng này đã bị nhà thơ Nguyễn Quốc Chánh canh me (và lăm le, hoặc hăm he) từ lâu:

“Tôi đề nghị một phương pháp xử lý lăng Hồ Chí Minh như vầy: chôn ông ta thật sâu dưới lòng đất, ngay nơi xác ông ta đang quàn, rồi dán lên bên trong, bên ngoài của tất cả những bức tường, trần và các lối đi trong lăng những đầu lâu của những nạn nhân, ưu tiên là những nạn nhân trong cải cách ruộng đất, và đổi tên thành: LĂNG NHỮNG NẠN NHÂN CỦA CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN VIỆT NAM.”

Đề nghị “bất nhơn” của ông thi sỹ khiến tôi thoáng nhớ đến cái ý niệm “tri thức tập thể” (collective consciousness) của Émile Durkheim. Đây có lẽ chính là “túi khôn của loài người,” hay “vốn sống” của một giống nòi – nếu chỉ xét ở mức độ quốc gia.

Khi vô thức tập thể (collective unconsciousness) của một dân tộc đã trồi lên đến bình diện ý thức, và đã được chuyển hóa thành hò vè/ ngạn ngữ/tục ngữ/ca dao/chuyện hài … về một sự kiện (hay nhân vật) nào đó thì dân gian … rất ít khi sai:

  • Dối như Cuội
  • Láo như Vẹm
  • Mất mùa là tại thiên tai/Được mùa là bởi thiên tài đảng ta!
  • Một năm hai thước vải thô/Làm sao che nổi cụ Hồ hỡi em?

Che chắn không được, bênh vực cũng xong vì thời thời gian không đứng về phía Bác và thời thế cũng đã hoàn toàn đã khác. Cái nhìn của giới trẻ hiện nay về Người trần trụi và tỉnh rụi hà:

– Phạm Chí Dũng:

“Tôi tôn trọng quan điểm của giáo sư Tương Lai, nhưng tôi thấy khó chia sẻ suy nghĩ trở về đảng Hồ Chí Minh của ông.”

– Phạm Thanh Nghiên:

“Chẳng có đảng nào là đảng ‘của ông Hồ’ hay ‘của ông Trọng’ đâu ông Tương Lai ạ. Nó đích thị chỉ là một, tên gọi của nó là đảng cộng sản Việt Nam, thủ phạm gây ra mọi tội ác với nhân dân Việt Nam trong suốt mấy chục năm kể từ ngày ra đời 3-2-1930 đến nay. Hồ, Duẩn, Linh, Mười, Mạnh, Trọng… chỉ là những kẻ luân phiên nhau cầm đầu cái đảng ấy để làm khổ người dân VN thôi ông ạ.”

– Phạm Hồng Sơn:

“Ai là người có thẩm quyền chính trị cao nhất đã để cho đất tư từ hàng ngàn năm biến hết thành đất ‘sở hữu toàn dân’, đã tiến hành cuộc ‘cách mạng long trời lở đất’ ở nông thôn cách đây hơn nửa thế kỷ mà vẫn khiến lòng người hôm nay bấn loạn, hãi hùng, rồi cũng chính người ấy lại đưa tay chấm nước mắt tiếc thương nhưng vẫn giữ trọn ngai vàng cho tới lúc chết?

“Ai là người vừa là Chủ tịch nước kiêm Chủ tịch đảng cầm quyền trong lúc ông Thủ tướng Phạm Văn Đồng hạ bút ký một công hàm công nhận lãnh hải Trung Quốc bao phủ cả hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa? Chắc chắn 54 năm chưa phải là thời gian quá lâu để mọi người quên mất người đó là Hồ Chí Minh …”

Đó là tôi mới điểm qua (theo thứ thự alpha) vài vị thức giả thuộc dòng họ Phạm thôi đó nha, chớ nếu ghi lại ý kiến của cả trăm dân muôn họ thì chắc phải ngồi gõ bàn phím cho tới Tết (hoặc dám tới chết) luôn nữa – không chừng!

Chuyện đề HCM, tuy thế, chưa thể chấm dứt ngang đây. Trong một bài tiểu luận khác (“Bỏ Đảng Vì E Tội Cõng Rắn”) bác Hà Sĩ Phu lại đặt ra tiền đề sau: “… muốn Thoát Trung phải Thoát Cộng, muốn Thoát Cộng phải Thoát Hồ.”

Cũng như tuyệt đại đa số người Việt, tôi tin chắc là chúng ta đã “Thoát Hồ” rồi. Chuyện “Thoát Cộng” thì vẫn còn phải đợi, và chắc là phải đợi hơi lâu.

Tức nước vỡ bờ!

Nước chưa đủ tức? Ý thức và ý chí của kẻ bị trị chưa đủ mạnh? Hay đơn giản có thể chỉ vì vận mệnh của dân tộc này vẫn còn đen đủi lắm?

Thường dân như tôi, tất nhiên, không đủ tư cách để bàn đến những chuyện lớn lao cỡ đó. Còn những chuyện lặt vặt (cỡ “nó”) thì dễ ợt nên tôi nào có ngại chi đôi câu … thanh nghị: Chúng ta đã bị thế giới loài người bỏ lại phía sau xa lắc, xa lơ rồi. Xin đừng tiếp tục phí thì giờ cho một con chó chết nữa. Quên “nó” đi!

Sổ Tay Thượng Dân K’ Tien – Những tín hiệu gửi từ Kon Tum

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả:  Tưởng Năng Tiến

Kon Tum và Pleiku, nhìn trên bản đồ, giống y như hai thành phố (chị em) nằm kề cạnh bên nhau. Tuy thế, đường tình duyên của hai “kiều nữ” này lại không chạy song song mà đi theo chiều hoàn toàn trái ngược.

Kon Tum tựa một cô gái không mặn mà nhan sắc. Thiên hạ chỉ biết đến có mỗi em Pleiku má đỏ môi hồng (thôi) theo như cách tán tụng của Phạm Duy và Vũ Hữu Định:

Phố núi cao phố núi đầy sương
Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn
Anh khách lạ đi lên đi xuống
May mà có em đời còn dễ thương

Em Pleiku má đỏ môi hồng 
Ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông
Nên mắt em ướt và tóc em ướt
Nên em hiền như mây chiều trong
Xin cảm ơn thành phố có em
Xin cảm ơn một mái tóc mềm
Mai xa lắc trên đồn biên giới
Còn một chút gì để nhớ để quên

Pleiku còn được cả nước “nhớ mãi” qua hai câu thơ của Bút Tre:

Anh đi công tác Pờ-lây
Cu dài dằng dặc biết ngày nào ra

Kon Tum không có cái duyên tương tự với thơ văn nên dù phố núi cũng cao, phố xá cũng gần (và chắc chắn cũng có vô số những mái tóc rất mềm) nhưng vì thiếu bước chân của thi nhân nên … chả khiến ai nhớ thương, hay bâng khuâng gì ráo trọi.

Có người mới chỉ nghe tên địa danh Kon Tum (lần đầu) qua “Bài Giảng Mùa Chay” của linh mục Nguyễn Văn Đông, tại nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, vào ngày 4 tháng 3 năm 2001 :

Tôi xin tự hào khoe rằng, xứ tôi phụ trách cái gì cũng nhất, lớn nhất, có người dân tộc đông nhất, có nhiều đồng bào từ khắp mọi miền về nhiều nhất, có nhiều rừng núi nhất và nghèo nhất.”

Không chỉ là nơi “nghèo nhất,” Kon Tum còn là nơi bệnh nhân phong cùi đông nhất –  và bị quên lãng một cách tệ hại nhất, giữa núi rừng heo hút – vẫn theo như lời của linh mục Nguyễn Văn Đông.

Kon Tum còn khiến cho thiên hạ ứa nước mắt, hay “sửng sốt” (theo như nguyên văn cách dùng chữ của phóng viên Vietnamnet) vì cách đu dây qua sông của cư dân ở địa phương này:

Gần đây, Kon Tum vừa “bị” tất cả các cơ quan truyền thông trong nước nhắc đến với rất nhiều … phẫn nộ:

Riêng báo Giao Thông, tiếng nói của BGTVT, còn có bản tin (“Công An Mật Phục Bắt Gọn 5 Đối Tượng Chuyên Ném Đá Xe Khách”) đọc cứ như là chuyện phim trinh thám vậy: “Công an huyện Đăk Glei đã chỉ đạo, bố trí lực lượng mật phục, xác minh các đối tượng khả nghi… Qua đấu tranh, 5 đối tượng này đã khai nhận hành vi ném đá vào xe khách rạng sáng 1/6 sau khi đã uống rượu.”

Tôi xem tên tuổi, và hình ảnh sáu “đối tượng” mà lực lượng công an Kon Tum đã “bố trí lực lượng mật phục” để “bắt gọn” mà không nén được một tiếng … thở dài!

Tất cả đều là những trẻ em bản địa, và trông hoàn toàn không có vẻ gì dính dáng đến rượu chè cả. Vóc dáng còi cọc của các em cũng khiến tôi ta chợt nhớ ra rằng Kon Tum là một trong những địa phương đã nhiều lần xin chính quyền trung ương cung cấp gạo cứu đói.

Thống kê của Sở LĐ-TB&XH tỉnh Kon Tum cho biết:

Toàn tỉnh  có 183.148 trẻ em trong độ tuổi từ 0-16 tuổi, chiếm 39,7% tổng dân số; trong đó khoảng 25.643 em có hoàn cảnh đặc biệt (2.037 em khuyết tật, tàn tật; 2.169 em mồ côi không nơi nương tựa; 1.147 em bị tai nạn thương tích; hàng trăm em bị dị tật bẩm sinh hoặc bị bệnh hiểm nghèo…). Ngoài ra còn có trên 80.000 em sống trong diện hộ nghèo, hộ cận nghèo… cần được quan tâm, hỗ trợ về mọi mặt.

Thảo nào mà ở Kon Tum tệ đoan xã hội và trộm cắp … như rươi, theo như bản Tin Tây Nguyên:  “Qua 15 ngày đã phát hiện 22 vụ phạm pháp, trong đó giết người 02 vụ, cố ý gây thương tích 03 vụ, trộm cắp tài sản 11 vụ, cưỡng đoạt tài sản 01 vụ, trộm cắp + cưỡng đoạt tài sản 01, vận chuyển lâm sản trái phép 01 vụ, mua bán tàng trữ trái phép chất ma túy 03 vụ …”

Kon Tum (nói riêng) hay Tây Nguyên (nói chung) không băng rã và tan nát qua đêm. Cũng không phải trong một sớm một chiều mà mảnh đất này (bỗng dưng) biến thành một nơi “lý tưởng” cho tội phạm sát nhân, trộm cắp, cưỡng đoạt tài sản, vận chuyển lâm sản trái phép, hay mua bán tàng trữ chất ma túy … Nhà văn Nguyên Ngọc đã lên tiếng cảnh báo về những bất ổn trong cách “phát triển” của Tây Nguyên tự lâu rồi:

  1. Dân số Tây Nguyên tăng nhanh, đột ngột, với cường độ lớn… Đầu thế kỷ XX, các dân tộc bản địa chiếm 95% dân số. Đến năm 1975, tỷ lệ này là 50%. Hiện nay người bản địa chỉ còn 15-20% trên toàn địa bàn…
  2. Sự tan vỡ của làng Tây Nguyên. Từ sau năm 1975, quyền sở hữu tập thể truyền thống của cộng đồng làng đối với đất và rừng nghiểm nhiên bị xoá bỏ, tất cả đất và rừng đều bị quốc hữu hoá. Như đã thấy ở trên, quyền sở hữu này chính là nền tảng vật chất, kinh tế của làng ; bị bứng mất đi nền tảng này, làng, tế bào cơ bản của xã hội Tây Nguyên, tất yếu tan vỡ…
  3. Môi trường bị tàn phá nghiêm trọng. Cho đến nay, trừ một vài vùng nhỏ như một ít khu vực quanh núi Ngok Linh, vùng Komplong…, có thể nói về cơ bản rừng Tây Nguyên đã bị phá sạch, hậu quả về nhiều mặt không thể lường.
  4. Người bản địa bị mất đất. Việc mất đất, không phải trong một xã hội bình thường mà là từ tay người dân tộc bản địa sang tay người nơi khác đến là người Việt, đã khiến vấn đề đất đai trở thành vấn đề dân tộc. Đây chính là nguyên nhân trực tiếp của sự mất ổn định nghiêm trọng đã và đang diễn ra ở Tây Nguyên.
  5. Văn hoá Tây Nguyên bị mai một. Việc mất rừng, tan vỡ của làng, cơ cấu dân cư bị đảo lộn lớn và đột ngột, người bản địa bị mất đất và mất gốc rễ trở thành lang thang trên chính quê hương ngàn đời của mình… tất yếu đưa đến đổ vỡ về văn hoá.

Tuy thế, trong phiên họp của Hội Đồng Nhân Dân tỉnh Kon Tum không một giới chức nào lên tiếng về chuyện thiếu đói, tệ trạng xã hội, và những mất mát cùng thua thiệt của sắc dân bản địa tại đây. Chỉ có mỗi “Vấn Đề Ném Đá Xe Khách Làm ‘Nóng’ Kỳ Họp HĐND Tỉnh Kon Tum” mà thôi – theo như cách đưa tin của Thông Tấn Xã Việt Nam:

Tại kỳ họp này, vấn đề ném đá xe khách được nhiều đại biểu quan tâm vì trong 2 tháng qua, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 11 vụ ném đá lên các phương tiện giao thông ở 4 huyện, thành phố trong tỉnh gồm Đăk Glei, Đăk Tô, Đăk Hà và thành phố Kon Tum.

Tại kỳ họp, các đại biểu Hội đồng Nhân dân tỉnh đều khẳng định việc ném đá trên là hành vi nguy hiểm cần được ngăn chặn. Các vụ ném đá đã gây tâm lý bất an đối với lái xe và hành khách đi trên xe, đồng thời ảnh hưởng nghiêm trọng đến công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông trên địa bàn…

Sự vô tâm này chỉ mang lại cho mọi người sự an lòng nhất thời và giả tạo. Rồi ra, tất cả chúng ta – Kinh cũng như Thượng – sẽ phải trả giá rất không rẻ vì thái độ “giả ngây” này.

Đã có những biến động lớn ở Tây Nguyên vào năm 20012004, và ở Mường Nhé năm 2011. Sẽ còn nhiều biến động khác nữa, trong tương lai gần, khi những tín hiệu gửi đi (bằng đá) từ những vùng đất này không được “giải mã” một cách nghiêm trang, và đứng đắn.

Ngày 9 tháng 7 vừa qua, báo Giáo Dục lại vừa loan tin nóng: “Trung Quốc Rót Tiền Cho Campuchia Làm Đường Đến Biên Giới Giáp Việt Nam.” Khi bị gạt ra bên rìa cuộc sống, và “buộc phải lang thang trên chính quê hương ngàn đời của mình” thì người ta không chỉ cầm đá mà còn sẵn sàng cầm súng, nếu có. Và vũ khí – từ nước lạ, nay mai – rất có thể sẽ được tuồn vào Tây Nguyên, theo biên giới phía Tây.

“Khi bọn bành trướng Bắc Kinh tràn sang hồi năm 1979, một bộ phận không nhỏ dân tộc thiểu số, sống ở vùng biên giới, đã đồng loạt ngả theo, làm tay sai cho ngoại bang. Ðó chính là hậu quả của chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc.” (Lý Hồng Xuân. Nhận Diện Chân Dung Nhà Văn. Văn Nghệ: California 2000,177).

Bằng cách này hay cách khác, chắc chắn, “Bọn bành trướng Bắc Kinh” cũng sẽ tìm cách “tràn sang” lần nữa. Dù vậy, “những chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc” thì mỗi lúc lại càng “sai lầm” tệ hại hơn!

TNT – 07/2015

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Ba O Hà Tĩnh

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Cuối cùng, Miến Điện cũng đã mở cửa với thế giới bên ngoài. Họ hơi bị chậm nên thực đơn trong hàng quán ở đất nước này – phần lớn – vẫn chỉ cứ in những dòng chữ Miến (ngoằn nghoèo, bí hiểm) và tuyệt nhiên không hề có hình ảnh gì minh hoạ đi kèm ráo trọi.

Thực khách, bởi thế, thường rất cô đơn (và vô cùng hồi hộp) khi phải đối diện với những lựa chọn khó khăn. Gọi lầm thức ăn là chuyện tự nhiên, và cũng thường xuyên, y như… cơm bữa.

Dĩ thực vi tiên!

Và (chắc) vì vậy nên sân bay Mandalay và Yangon trông đìu hiu thấy rõ, so với sự tấp nập và ồn ào của phi trường Don Mueang hay Suvarnabhumi của Thái.

Thực phẩm của Thái Lan thì khó ai có thể phàn nàn, nhất là người Việt. Gừng, nghệ, sả, riềng, tiêu tỏi, ớt hành, mắm muối… đều là những gia vị thân thuộc đối với khẩu vị của cả hai dân tộc này. Nhiều tiệm ăn bình dân ở thủ đô Bangkok còn thuê người Việt nữa.

Loanh quanh Vọng Các, tôi thử óc quan sát (cùng trực giác) của mình nhiều lần, và rất ít khi bị trật:

– O là dân Hà Tĩnh, đúng không?

– Dạ!

Tiếng “dạ” rụt rè, với nụ cười hiền lành và niềm vui (không dấu) trên nét mặt người đối diện khiến cho kẻ tha hương chợt cảm thấy có cảm giác ấm lòng. Đôi khi, tôi cũng trật nhưng chưa bao giờ xa quá:

– Dạ không, con ở Diễn Châu mà.

Hoặc:

– Cháu người Quảng Bình, chú à.

Hay:

– Không phải mô, quê con ở Huế tề.

Theo Tiến Sĩ Nguyễn Ngọc Lan (Học Viện Nghiên Cứu Đông Nam Á – The Institute of Southeast Asian Studies) có hơn năm trăm ngàn lao động Việt Nam ở nước ngoài, trong số này khoảng 50 ngàn người đang làm việc tại Thái Lan. Tất nhiên, chưa kể số người “làm chui” được gọi một cách lịch sự là những công nhân không có giấy tờ – undocumented workers.

Tuy là một lực lượng lao động đáng kể và cần thiết cho nước Thái, người Việt đến xứ sở này chưa bao giờ được đón nhận một cách đàng hoàng tử tế. Không những thế “nhiều kẻ còn bị bạc đãi bởi giới chủ nhân với đồng lương bóc lột, đến mức gần như phải làm việc trong môi trường nô lệ, và thường bị bắt bớ bởi giới chức có thẩm quyền” (many workers are underpaid, even to the point of almost slave labour conditions, mistreated by employers and often arrested by authorities) theo như nhận xét (“Vietnamese workers in Thailand: lesser known but valuable labour source”) của Christopher F. Bruton – Executive Director of Dataconsult Ltd – đọc được trên Bangkok Post hôm 21 tháng 7 năm 2016.

Ở ngoại ô Vọng Các, trong khu chợ Yong Charoen, có một cái quán (không biết tên CHI) mà cả ba cô giúp việc đều là người Hà Tĩnh nên tôi gọi là “Quán Ba O.” Chúng tôi hay đến đây vì gần chỗ trọ, vì giá cả vừa phải, và vì được “cố vấn” về những món nhậu (ngon rẻ) cùng với thái độ thân thiện của những o đồng hương rất hiền ngoan và vô cùng chân chất.

Cứ nhìn thấy Ba O Hà Tĩnh, cùng nụ cười rất tươi tuy hơi bẽn lẽn là tôi lại nhớ đến bốn câu thơ của Hồ Dzếnh:

Cô gái Việt Nam ơi
Nếu chữ hy sinh có ở đời
Tôi muốn nạm vàng muôn khổ cực
Cho lòng cô gái Việt Nam tươi

Quán mở cửa từ 11 giờ sáng đến tận khuya. Nhiều đêm không làm việc được, tà tà ra quán uống vài ly, chúng tôi vẫn thấy “Ba O Hà Tĩnh” đang tất bật với những công việc chả nhẹ nhàng gì: lau dọn, rửa chén, chạy bàn… Hỏi thăm mới biết là dù làm việc đủ bẩy ngày một tuần, mỗi ngày trên 12 tiếng, hàng tháng cả ba chỉ được trả số tiền vô cùng khiêm tốn (200 Mỹ Kim) chỉ bằng nửa số lương tối thiểu – theo qui định hiện thời của Bộ Lao Động Thái.

Điều an ủi là chủ quán cho ở trọ không phải trả tiền nhà, và chuyện ăn uống tại chỗ – tất nhiên – cũng hoàn toàn miễn phí. Nhờ vậy, tiền công của cả ba o đều gửi hết về quê để nuôi mấy đứa em và bố mẹ già. Ở Hà Tĩnh, theo lời của họ: “Biết làm chi cho ra tiền được!”

Hà Tĩnh Không chỉ nổi tiếng về đói nghèo, và “hầu như năm nào chính quyền cũng than thở là phải ‘còng lưng’ xin gạo.” Địa phương này còn được cả thế giới biết đến “về sự cố môi trường biển” và là nơi chôn lấp chất phế thải của công ty Formosa.

Tuy thế, Báo Hà Tĩnh (số ra ngày 24 tháng 10 năm 2016) vẫn hớn hở cho hay:

“Các thành viên Chính phủ nhiệm kỳ mới, những nhân sự đứng đầu Bộ Y tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên & Môi trường, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam… đều là người Hà Tĩnh. Người Hà Tĩnh không chỉ vinh quang bởi các Bộ trưởng, tư lệnh ngành mà Hà Tĩnh còn được biết đến là tỉnh có nhiều ủy viên Trung ương nhất trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, với số lượng 16 người.”

Giới tinh hoa của Hà Tĩnh, rõ ràng, hơi đông. Số người dân lưu lạc của tỉnh này cũng thế, cũng đông hơn rất nhiều nơi khác. Dường như có tỉ lệ thuận giữa con số “bộ trưởng, tư lệnh ngành, và ủy viên Trung ương trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng” của Hà Tĩnh với đám con dân của địa phương này đang phải sống đời lưu lạc.

Thảo nào mà dịch giả Phạm Nguyên Trường đã rất cẩn thận với hạn từ “tinh hoa” khi chuyển ngữ:

Nghĩa của từ ELITE: the richest, most powerful, best-educated, or best-trained group in a society cho nên nếu luôn luôn dịch là TINH HOA thì e rằng không đúng. Ví dụ, người nước ngoài khi nói về giới viết lách ở VN có thể sẽ coi Đoàn Hương, Hữu Thỉnh, Hồng Thanh Quang, Tạ Bích Loan… là nhóm elite trong văn giới, hay Vũ Huy Hoàng, Đinh La Thăng là nhóm elite trong chính trị…, nhưng nếu mình dịch lại thì mình chỉ viết “thuộc giới ăn trên ngồi trốc” mà thôi.

Dịch thuật như thế e hơi thiếu phần “thanh lịch” nhưng thực khó mà gọi đám người hiện đang cầm quyền ở Việt Nam (nói chung) và mười mấy vị Ủy Viên Trung Ương Đảng của Hà Tĩnh (nói riêng) bằng một hạn từ khác được. Tiểu luận (“Những Cơ Hội & Thách Đố Cho Lao Động Di Dân Việt Nam Tại Thái Lan”) của Linh Mục Antôn Lê Ngọc Đức, SVD, còn cho thấy rằng họ không chỉ là “bọn ăn trên ngồi trốc” mà còn là “đám ăn không ngồi rồi” nữa:

“ … hầu hết đến từ các tỉnh miền bắc và miền trung, trong đó Hà Tĩnh và Nghệ An chiếm phần đa số. Ngoại trừ một số trường hợp, hầu hết xuất thân từ những gia đình nông thôn…

Tính chất của một số công việc mà các lao động di dân Việt Nam làm tại Thái Lan lệ thuộc phần nào về tuổi tác và giới tính. Những công việc như xây dựng (cọ xang), trông bãi xe (rắp rốt), tẩm quất trong phòng vệ sinh nam (nuad hong nám) chỉ dành cho lao động nam. Các công việc giúp việc nhà (mae ban), chăm sóc người già trẻ con trong gia đình chủ thuê, bán hoa hồng dạo… thường dành cho lao động nữ.

Ngoài ra những công việc như may quần áo (yep pha), bán dạo (kem, trái cây, nước giải khát), mở quầy hàng (áo quần, thức ăn, hoa quả…), bán hàng trong các cửa tiệm bán lẻ… thì cả lao động nam và nữ đều tham gia…

Đối với lao động từ các nước như Lào và Miến Điện được đăng ký hợp pháp, mỗi người được cấp một thẻ bảo hiểm sức khỏe để được điều trị tại bệnh viện chính phủ với những quyền lợi tương đương với công dân Thái. Tuy nhiên đối với công nhân Việt Nam thì mỗi khi lâm bệnh hoặc gặp tai nạn và đi điều trị tại bệnh viện thì phải tự túc hoàn toàn.”

Hà Tĩnh có nhân sự đứng đầu Bộ Y Tế, Bộ Kế Hoạch/ Đầu Tư, Bộ Tài Nguyên/ Môi Trường, Ngân Hàng Nhà nước và cả đống Ủy Viên Trung Ương Đảng mà năm nào cũng ngửa tay đi xin gạo, và con dân địa phương thì phải tha phương cầu thực khắp nơi (làm việc như nô lệ ở xứ người) để có tiền gửi về nhà cứu đói thì có hãnh diện chi mà khoe khoang về cái “bọn ăn trên ngồi trốc” và cái “đám ăn không ngồi rồi” này!

Sổ Tay Thượng Dân K’ Tien – Nước mắt Tây Nguyên

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Nhà báo Bùi Tín, khi vui, tâm sự: “Có người nói đùa một cách chua cay rằng trên báo Nhân dân chỉ có tin dự báo thời tiết là có thể tin cậy phần nào (vì vẫn có trường hợp dự báo sai), có thể tin tưởng được hoàn toàn là tin buồn, tin cáo phó.” (Bùi Tín, Hoa xuyên tuyết, 2nd ed. Turpin Press, 1994, 42)

Dù đã rào đón (trước) đây chỉ là một cách nói đùa, kiểu đùa cợt của ông – ngó bộ – hơi kỳ, và cũng hơi… quá đáng! Nói nào ngay, ngoài tin thời tiết và tin buồn, cơ quan ngôn luận (chính thức) của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam – đôi lúc – cũng loan những tin tức khác, với độ khả tín và khả xác rất cao. Xin đơn cử một thí dụ:

Về số lượng học sinh sắc tộc được tuyển chọn vào đại học, nhật báo Nhân dân (số ra ngày 9 tháng 12 năm 2000) đã ghi:“Các dân tộc Ba Na, Cà Dong, Chu Ru, Cà Tu, Hà Nhì, Xê Đăng, Thổ Chỉ có từ hai đến ba học sinh đạt tiêu chuẩn. Đáng chú ý, mỗi dân tộc: Cơ Lao, Xtiêng, Giáy, Cơ-ho, Lào, La Chí chỉ có một học sinh đủ tiêu chuẩn cử tuyển vào học các trường đại học, cao đẳng.”

Đã có lúc tôi cứ ngỡ đây là con số đại biểu quốc hội, của những nhóm đồng bào sắc tộc, chứ không phải là số lượng “học sinh đủ tiêu chuẩn cử tuyển vào các trường đại học”. Vì nghi ngại có sự “lầm lỗi của ấn công”, tôi đã gửi điện thư đến [email protected] (nhiều lần) để xin xác minh về vấn đề này. Thư cứ đi nhưng tin không lại.

Mãi cho đến mấy hôm gần đây, sau khi đọc bài viết “Phát triển bền vững ở Tây Nguyên” của nhà văn Nguyên Ngọc (www.diendan.org, ngày 20 tháng 8 năm 2008), tôi mới biết chắc rằng tin tức mà báo Nhân dân đã loan là (vô cùng) chính xác. Chuyện tôi yêu cầu tòa soạn xác nhận, đính chính, cáo lỗi, hay thanh minh (thanh nga) là việc – rõ ràng, và hoàn toàn – vớ vẩn.

Theo như cách nói của người dân Tây Nguyên thì Nguyên Ngọc là một già làng – trong làng văn và làng báo Việt Nam – với tất cả những đức tính mẫu mực, đáng quý của một người cầm viết: tài năng, uyên bác, đức độ, dũng cảm, và khả tín.

Ông viết: “Người Châu ở trong thung lũng Mường Hon của núi Ngok Linh, chỉ có khoảng 80 người…” Thế mới biết các dân tộc Ba Na, Cà Dong, Chu Ru, Cà Tu, Hà Nhì, Xê Đăng, Thổ Chỉ, Cơ Lao, Xtiêng, Giáy, Cơ-ho, Lào, La Chí… còn may mắn chán. Dân số của họ chắc chắn phải còn hơn tám mươi người. Nếu không, làm sao còn có được một (hay hai) học sinh đủ tiêu chuẩn cử tuyển vào học các trường đại học!

Nếu có ai thắc mắc, sao giữa thời đại “bùng nổ nhân số”, nhân loại đẻ đái tùm lum mà ở Việt Nam lại có những sắc dân chỉ còn sót lại vài chục mạng (loe ngoe) như thế… thì xin thưa: đó lại là chuyện khác, dài dòng hơn chút đỉnh. Muốn biết thêm chi tiết, xin vui lòng đọc tiếp – vài đoạn trích dẫn (rút ngắn) từ bài viết rất thấu đáo và cô đọng, dài chừng 30 trang đánh máy khổ 8×11 – của nhà văn Nguyên Ngọc:
“Từ sau năm 1975, đối với Tây Nguyên chúng ta có hai chủ trương chiến lược:

  • Xây dựng Tây Nguyên thành một địa bàn vững chắc về an ninh và quốc phòng.
  • Xây dựng Tây Nguyên thành một vùng trọng điểm kinh tế của cả nước.

Để thực hiện chủ trương chiến lược đó, đã :

  • Tăng cường lực lượng lao động lớn cho Tây Nguyên bằng cách tiến hành một cuộc đại di dân chưa từng có, chủ yếu từ đồng bằng châu thổ sông Hồng và vùng duyên hải Nam Trung Bộ lên Tây Nguyên…
  • Tổ chức toàn bộ Tây Nguyên thành các đơn vị kinh tế lớn… Toàn bộ đất và rừng ở Tây Nguyên được quốc hữu hoá, được lấy giao cho các binh đoàn làm kinh tế, các LHXNLCN, các nông trường, lâm trường, và giao cho dân di cư từ đồng bằng lên. Người bản địa chỉ còn phần đất thổ cư và một ít đất làm rẫy.”

Hệ quả, hay nói đúng ra là hậu quả của “hai chủ trương chiến lược” này, vẫn theo nhận xét của Nguyên Ngọc – có những chữ in đậm, như nguyên bản – như sau:

  1. Dân số Tây Nguyên tăng nhanh, đột ngột, với cường độ lớn… Đầu thế kỷ XX, các dân tộc bản địa chiếm 95% dân số. Đến năm 1975, tỷ lệ này là 50%. Hiện nay người bản địa chỉ còn 15-20% trên toàn địa bàn…
  2. Sự tan vỡ của làng Tây Nguyên. Từ sau năm 1975, quyền sở hữu tập thể truyền thống của cộng đồng làng đối với đất và rừng nghiểm nhiên bị xoá bỏ, tất cả đất và rừng đều bị quốc hữu hoá. Như đã thấy ở trên, quyền sở hữu này chính là nền tảng vật chất, kinh tế của làng ; bị bứng mất đi nền tảng này, làng, tế bào cơ bản của xã hội Tây Nguyên, tất yếu tan vỡ…
  3. Môi trường bị tàn phá nghiêm trọng. Cho đến nay, trừ một vài vùng nhỏ như một ít khu vực quanh núi Ngok Linh, vùng Komplong…, có thể nói về cơ bản rừng Tây Nguyên đã bị phá sạch, hậu quả về nhiều mặt không thể lường.
  4. Người bản địa bị mất đất. Việc mất đất, không phải trong một xã hội bình thường mà là từ tay người dân tộc bản địa sang tay người nơi khác đến là người Việt, đã khiến vấn đề đất đai trở thành vấn đề dân tộc. Đây chính là nguyên nhân trực tiếp của sự mất ổn định nghiêm trọng đã và đang diễn ra ở Tây Nguyên.
  5. Văn hoá Tây Nguyên bị mai một. Việc mất rừng, tan vỡ của làng, cơ cấu dân cư bị đảo lộn lớn và đột ngột, người bản địa bị mất đất và mất gốc rễ trở thành lang thang trên chính quê hương ngàn đời của mình… tất yếu đưa đến đổ vỡ về văn hoá.

Nhà văn Nguyên Ngọc cũng có đề cập đến những “lời cảnh báo sớm của một nhóm nghiên cứu về tình hình Tây Nguyên”, cùng với lời giới thiệu trang trọng:
“Năm 1997, một nhóm nghiên cứu thuộc Viện Dân tộc học Việt Nam gồm các tác giả Vũ Đình Lợi (nay đã mất), Bùi Minh Đạo và Vũ Thị Hồng đã hoàn thành một công trình có tên là Sở hữu và sử dụng đất đai ở Tây Nguyên, được giáo sư Đặng Nghiêm Vạn viết lời giới thiệu vào năm 1999, và ấn hành tại nhà xuất bản Khoa học Xã hội vào năm 2000. Sau khi đã trình bày các dữ liệu, phân tích toàn diện và tỉ mỉ tình hình đất và rừng ở Tây Nguyên từ sau năm 1975, các tác giả đã đưa ra lời cảnh báo mạnh mẽ như sau :

‘Sẽ là không quá sớm khi đưa ra lời cảnh báo rằng nếu không kịp thời có giải pháp khắc phục những khiếm khuyết của quá trình khai thác và sử dụng đất đai thì ‘vấn đề dân tộc’ sẽ rất có thể phát sinh trong thực tế nay mai ở Tây Nguyên, chí ít là mất ổn định, nghiêm trọng là máu lại đổ, với sự can thiệp vừa kín đáo, vừa trắng trợn của kẽ thù dưới chiêu bài bảo vệ người dân tộc, bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Một khi vấn đề dân tộc và tôn giáo quyện vào nhau thì nguy cơ tới thật khó lường.

Đây thật sự là một lời cảnh báo đầy trách nhiệm, trung thực, dũng cảm và đã được chứng tỏ là hoàn toàn chính xác. Rất tiếc là nó đã hoàn toàn bị bỏ ngoài tai, thậm chí cả sau khi những điều cảnh báo đã thành hiện thực!

Như vậy, sau hơn 30 năm triển khai, hai mục tiêu chiến lược được đề ra từ đầu đối với Tây Nguyên đã không thực hiện được. Tây Nguyên đã trở thành một vùng mất ổn định nhất trong cả nước; và việc xây dựng một vùng trọng điểm phát triển kinh tế trên một cơ sở mất ổn định như vậy chắc chắn không thể bền vững. Lãnh thổ tuy có được phát triển – cũng là một cách méo mó – nhưng chủ nhân của lãnh thổ thì bị bần cùng hoá và bế tắc. Tìm một con đường khắc phục những thực trạng đó hiện nay ở Tây Nguyên đã trở nên rất khó khăn.”

Ở góc nhìn của một kẻ hậu sinh (sinh trưởng nơi vùng cao nguyên Lâm Viên) tôi thành thực tin rằng chuyện “tìm một con đường khắc phục những thực trạng khó khăn ở Tây Nguyên” sẽ còn khó khăn hơn nữa, nếu vấn đề vẫn được nhìn theo nhãn quan của những nhà nghiên cứu thuộc Viện Dân Tộc Học – như nhà văn Nguyên Ngọc vừa trích dẫn: “Với sự can thiệp vừa kín đáo, vừa trắng trợn của kẽ thù dưới chiêu bài bảo vệ người dân tộc, bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Một khi vấn đề dân tộc và tôn giáo quyện vào nhau thì nguy cơ tới thật khó lường.”

Ủa, chớ quí vị nói đến “kẻ thù” nào vậy cà? Và “kẻ thù,” cũng như “nguy cơ, của ai mới được chớ? Của Đảng Cộng sản Việt Nam hay của những nguời dân cùng khổ, bất hạnh ở Tây Nguyên?

Coi: đất đai thì mất trắng, môi trường bị tàn phá, văn hoá bị hủy hoại, xóm làng xơ xác tiêu điều, ngơ ngác đói khát trên mảnh đất quê hương ngàn đời của chính mình, không còn lối thoát nào khác nên cuối cùng người dân Tây Nguyên phải nổi dậy. Sau đó, họ bị đàn áp, săn đuổi (và săn đuổi đến cùng) như thú vật giữa rừng hoang – theo như tường thuật của đặc phái viên Nguyễn Khanh, thuộc đài tiếng nói Á châu Tự do, nghe được hôm 4 tháng 5 năm 2004:

“Hiện có một số người Thượng đang lẩn trốn trong rừng sâu ở tỉnh Mondulkiri nằm sát biên giới với Việt Nam. Những người này từ Tây Nguyên băng rừng sang đến Xứ Chùa Tháp hơm 16 tháng trước, tức sau cuộc biểu tình đòi tự do tôn giáo ở Dak Lak và Gia Lai…

Ðiều không mấy ai biết là trước đó vài ngày, công an địa phương cũng đã bắt giữ một số người Thượng, cáo buộc họ hoạt động chính trị, âm mưu lật đổ nhà cầm quyền. Một vài người trong số này may mắn trốn ra khỏi tù và nhanh chân chạy được vào rừng sâu chạy sang Kampuchea…

Ðiều này được chính các viên chức địa phương Cambodia xác nhận, đồng thời nói thêm là phía Hà Nội treo giải thưởng, cứ mỗi người Thượng trao trả lại cho Việt Nam sẽ được thưởng 125 đô la Mỹ. Với phần đông dân chúng Kampuchea thì đây là một số tiền lớn và khoản tiền thưởng này chính là động lực thúc đẩy binh sĩ, cảnh sát Mondulkiri truy lùng những người Thượng đang lẩn trốn trong địa phương của họ.”

Kẻ ở lại thì bị bị “đấu tố” bằng cách ép buộc phải đứng nhận tội trước làng, và những quan chức địa phương, thề phải ngưng liên lạc với người ngoài, và từ bỏ tôn giáo của mình (Villagers who had participated in the February 2001 demonstrations were forced to stand up in front of their entire village and local authorities to admit their wrongdoing, pledge to cease any contacts with outside groups, and renounce their religion. – “Vietnam’s Repression of Montagnard”, Human Rights Watch Press, New York, April 23, 2002)

Không lẽ trên đời này còn có loại “kẻ thù” nào khác, tàn ác và đáng sợ hơn thế nữa, hay sao?

Và vì quí vị đã nhắc đến hai chữ “kẻ thù”, tôi cũng xin phép được nói luôn: sống với những người cộng sản Việt Nam thì có bao giờ mà thiếu… kẻ thù, bất kể vào thời bình hay thời chiến. Chỉ có điều khác biệt là vào thời chiến thì họ động viên toàn dân xáp vào để đánh, chỉ còn cái khố cũng (phải) đánh, nhưng đến thời bình thì Đảng và Nhà Nước lại dành độc quyền bắt tay làm hoà (và… làm tiền) với kẻ thù!

Tôi xin lỗi vì nóng giận (và mất bình tĩnh) nên đã đi hơi xa vấn đề cần bàn, chút xíu. Xin được trở lại với bài viết “Phát triển bền vững ở Tây Nguyên” của nhà văn Nguyên Ngọc. Nơi phần kết luận, ông đã trích dẫn một câu nói “ để đời” (của nhà dân tộc học Jacques Dournes) khi nghiên cứu về các dân tộc miền núi Nam Đông Dương: “Nếu phải hiểu để mà có thể yêu, thì lại phải yêu để mà có thể hiểu.” (*)

Chính Nguyên Ngọc cũng viết thêm đôi dòng chữ ưu ái và thân ái chí tình, về mảnh đất này: “Đối với Tây Nguyên, cần một sự hiểu biết và một tình yêu đầy sự tôn trọng thật sự, một sự tôn kính chân thành và đầy ưu tư đối với một vùng đất và một vùng văn hoá vào loại độc đáo nhất còn lại trên đất nước ta và trên thế giới ngày nay.”

Thương yêu, hiểu biết, tôn kính, chân thành, tận tụy… – theo như quan niệm nhân bản của Jacques Dournes hay Nguyên Ngọc – đều là những thứ tình cảm (vô cùng) xa xỉ, chưa bao giờ thấy được ở Tây Nguyên, kể từ khi vùng đất này “được hoàn toàn giải phóng.” Xin lược thuật một vài sự kiện chính, để thấy lòng dạ “chân thành” hay “tôn kính” của những quan chức cộng sản nơi vùng sơn cước, cũng như tâm tình (chán ngán) của người dân bản địa đối với Nhà nước – ra sao?

Ngày 6 tháng 9 năm 2002, hãng thông tấn AFP loan tin nhà đương cuộc Hà Nội đã bắt giữ khoảng 30 người Thượng – sau khi họ tham dự vào một cuộc biểu tình phản đối chính phủ tại làng Sao, huyện Madrak, thuộc tỉnh Dac Lak. Tuy nhiên, khi được hỏi về biến cố này, ông Nguyễn Văn Lạng – Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Dac Lak – đã lắc đầu quầy quậy:” Làm gì có biểu tình, bất ổn hay bắt bớ những người dân thiểu số trong thời gian gần đây. Không, tuyệt đối là không có…” (There have been no demonstration, unrest or arrest of any ethnic minorities in recent days. No, absolute, not… – theo như tường thuật của AFP, vào ngày 6 tháng 9 năm 2002, “Demonstrators Arrested in Vietnam’s Central Highlands”.)

Tưởng ai xa lạ, chớ ông Lạng thì tôi đã có lần nhìn thấy hình trên tờ Việt Mercury (trang 44, số phát hành ngày 23 tháng 3 năm 2001) khi ông ấy đang trả lời phỏng vấn, về những biến động xẩy ra ở Dac Lak – hồi tháng 2 năm 2001. Bữa đó ông Lạng cũng nhún vai, bầy tỏ một thái độ (thản nhiên) tương tự: “Ðấy chả qua chỉ là những vụ cãi vã giản dị về văn khế đất đai tại hai ngôi làng mà thôi… Con số của người biểu tình đã tăng lên là do sự thổi phồng của những tay cực đoan phản cách mạng!”

Cái được ông Nguyễn Văn Lạng mô tả là “những vụ cãi vã giản dị… giữa hai ngôi làng”, theo như những nguồn tin đáng tin cậy khác, gồm “nhiều ngàn nông dân đã xử dụng vũ khí – phần lớn là cuốc xẻng và dao rựa – để đấu tranh chống lại sự thối nát của của Ðảng Cộng sản và những chính sách của chính phủ về chuyện đất đai (Credible reports suggest that several thousand peasants took up arms – mostly shovels, hoes and machetes – to do battle over Communist Party corruption and government policies on land use, theo như tường thuật của Mark Mc Donald [từ Việt Nam] qua bài báo “Peasants Battling Hanoi Over Land In Central Highlands Fight Over Premier Coffee-Growing Region Taking On Political And Religious Overtones”, San Jose Mercury News, 26 Feb 2001, A10.)

Sau đó, ai cũng biết là Hà Nội phải huy động cả lực lượng công an cũng như bộ đội và đã xử dụng đến trực thăng để uy hiếp và truy lùng những kẻ đã tham dự vào “những vụ cãi vã giản dị” này. Hàng trăm người Thượng đã bị bắt giữ, hàng ngàn người khác đã bị truy nã. Họ đã chạy sang Cao Miên xin tị nạn.

Theo lời bà Phan Thúy Thanh, phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao, đọc được tên báo Nhân dân – số ra ngày 7 tháng 3 năm 2002 – đây là những kẻ “do bị kích động, lừa gạt nên đã vượt biên trái phép sang Cam-pu-chia”. Một tuần lễ sau, hôm 13 tháng 3 năm 2002, khi được hỏi về thái độ của chính phủ Việt Nam đối với những người này, bà Phan Thúy Thanh đã nói với phóng viên David Brunstrom của hãng thông tấn Reuters rằng “thật đáng tiếc là chỉ có 15 người dân thuộc sắc tộc thiểu số từ Cam Bốt đã được Cao uỷ Tị nạn giao trả lại cho Việt Nam, mặc dù hầu hết họ đều có ‘khát vọng nóng bỏng’ được hồi hương” (‘the burning desire’ of most of them to come back.).”

Bà Thanh, rõ ràng, nói láo! Sự thực, khi được cho phép định cư ở một quốc gia đệ tam, không một ai trong số 905 người Thượng tị nạn tại Cao Miên đã thực hiện “cái khát vọng nóng bỏng được hồi hương” – như bà Thanh đã bịa đặt ra như vậy. Tất cả đều đã xin tị nạn và đã được phép định cư ở Hoa Kỳ, từ tháng 6 năm 2002.

Mấy năm sau, vào ngày 10 tháng 4 năm 2004, một cuộc biểu tình vĩ đại khác diễn ra tại Tây Nguyên. Lại đàn áp, trốn chạy, thương tích, tử vong…, không khác gì lần trước. Và cũng như lần trước, khi bị chất vấn về con số thương vong của người thiểu số, ông Lê Dũng, phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao – người kế nhiệm bà Thanh – cũng đã lắc đầu nguây nguẩy là “hoàn toàn không có ai bị đánh chết ở Buôn Ma Thuột như tin của Human Rights Watch. Chúng tôi cực lực bác bỏ tin này.”

Theo truyền thống của Nhà nước CHXHCNVN thì (ta) cứ “cực lực bác bỏ” – nghĩa là chối ngay, chối bay, chối biến, chối phăng, chối phắt, chối nằng nặc, chối bai bải, chối đây đẩy, chối quầy quậy, chối tuốt luốt, chối hết – là kể như… xong chuyện, và hết chuyện! Truyền thống này, tiếc thay, hơi khó giữ vào thời đại thông tin.

Bởi vậy, mấy bữa sau, ngày 17 tháng 4 năm 2004, ông Phạm Thế Duyệt – Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc – đành phải miễn cưỡng nhận rằng: “Chỉ có hai người trong số những người cố ý gây rối trật tự công cộng bị chết do chính họ ném đá vào nhau. Ngoài ra, còn có vài chục người bị thương trong các cuộc ẩu đả lẫn nhau.”

Ý, giàng ơi! Sao khi khổng khi không cái hàng chục ngàn người Thượng, bỏ buôn làng, kéo vô thành phố, chia làm hai phe, dàn hàng ngang rồi “ném đá vào nhau” và “ẩu đả lẫn nhau” cho… tới chết luôn – như vậy, hả trời? Nói (đại) như vậy mà nói được sao, cha nội? Cũng như bà Thanh, và ông Dũng, thằng chả – rõ ràng – cũng nói láo như… ranh. Thiệt là thầy chạy!

Mà người dân miền núi thì không quen dối trá. Họ không thể tiếp tục sống mãi với những kẻ (cứ mở mồm ra là) nói láo xoen xoét như thế. Bởi thế, sau khi trốn thoát được đến Cao Miên, theo tường thuật của BBC, nghe được vào hôm 21 tháng 7 năm 2004, ông Ralampee – một người tị nạn từ Tây Nguyên – đã nói với phóng viên của hãng tin Reuters rằng: “Tôi thà chết ở đây, chứ không trở lại Việt Nam và chết ở nơi đó (I would be happy to die right here, rather than go back to Vietnam and die there).”

Ông Ralampee không phải là người đầu tiên, cũng không phải là kẻ cuối cùng (hay duy nhất) đã bầy tỏ một thái độ quyết liệt như vậy. Có hàng trăm ngàn người dân miền núi, và hàng triệu đồng bào của họ ở miền xuôi, cũng đã dùng đến sinh mạng của mình để bỏ phiếu (bằng chân hoặc bằng thuyền) theo phương cách tương tự.

Tai hoạ mà cộng sản mang lại đâu chỉ giới hạn ở Tây Nguyên. Hãy đọc lại, một lần nữa, những vấn đề mà nhà văn Nguyên Ngọc vừa nêu xem. Xin vẫn được in đậm, theo nguyên bản:

  1. Dân số Tây Nguyên tăng nhanh, đột ngột, với cường độ lớn;
  2. Sự tan vỡ của làng Tây Nguyên;
  3. Môi trường bị tàn phá nghiêm trọng;
  4. Người bản địa bị mất đất;
  5. Văn hoá Tây Nguyên bị mai một.

Chớ có cái làng quê nào ở miền Bắc mà không “tan vỡ”, sau Cải cách Ruộng đất? Có dòng sông nào, khu rừng nào – xuyên suốt cả hai miền đất nước – không bị ô nhiễm, tàn phá, hủy hoại chứ đâu có riêng chi môi trường ở Tây Nguyên?

Dù chính sách hợp tác xã nông nghiệp không được thực thi ở miền Nam, chủ trương xây dựng lâm trường và nông trường cũng khiến cho vô số người dân miền xuôi mất trắng đất hết đai. “Tiếng kêu giữa rừng U Minh Hạ” (được ghi lại bởi phóng viên Hoàng Trí Dũng, đọc được trên Tuổi trẻ Online, vào ngày 18 tháng 9 năm 2005) nghe cũng ai oán, và thảm thiết đâu có khác gì tiếng nấc của núi rừng ở Tây Nguyên:

Tôi đã đến nhiều miền quê nghèo khó vùng sông nước ĐBSCL, nhưng có lẽ chưa lần nào tơi bị ‘sốc’ như chuyến đi lần này. Nơi tôi đến là một vùng quê giáp ranh giữa hai tỉnh Kiên Giang – Cà Mau, cách không xa trung tâm hai thành phố Rạch Giá và Cà Mau, vậy mà đã 30 năm sau ngày đất nước thống nhất vùng quê ấy vẫn còn là bức tranh buồn thảm với nhiều nỗi bức xúc: không điện, đường, trường, không trạm xá, không hộ khẩu, không đất sản xuất…

Trái ngược với hình ảnh ấy là cơ ngơi của các quan chức địa phương – những người đang giành giật đất đai của dân. Đó là chuyện thật ở ngay một góc Lâm trường U Minh 2, ấp 4, xã Khánh Hịa, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau.

[…]

Cách đây hai năm một cháu bé tên Hằng, 10 tuổi, con của hai vợ chồng trẻ không may bị bệnh viêm ruột thừa cấp tính, nhưng ở giữa rừng không có trạm y tế, mà lòng kênh trơ đáy khô queo, còn trên bờ thì không có đường đi rốt cuộc đành ngồi nhìn con chết mà bất lực vì không cách nào chuyển đi bệnh viện…”

Tương tự, “văn hóa bị mai một” hay suy đồi là “tình trạng chung của cả nước,” chớ đâu có riêng chi ở Tây Nguyên! Tôi cũng chả thấy có sự dị biệt nào giữa hai cuộc biểu tình của dân chúng ở Tây Nguyên, với những cuộc biểu tình ở các tỉnh đồng bằng: Thái Bình, Đông An, Nam Hà, Nghệ An, Trà Cổ… Tựu trung, đó chỉ là những phản ứng tự nhiên của những người dân chân chất – khi bị dồn đến chân tường, thế thôi.

Và tôi e rằng đa số người dân đã bị dồn đến chân tường rồi. Trước tình trạng này những đề nghị phát triển , hay “phát triển bền vững”, đều bất khả thi. Kinh nghiệm của nạn nhân cộng sản, ở những quốc gia khác, cho thấy là thể chế này chỉ có thể thay thế chứ không thể nào thay đổi được

Còn làm thế nào thay thế được nó thì (sorry) tôi không biết. Và đây, chắc chắn, cũng không phải là “chuyện riêng” của người dân miền núi chúng tôi. Tây Nguyên, nghĩ cho cùng, chỉ là hình ảnh của một Việt Nam thu nhỏ, với những nét khắc khốc liệt và tàn bạo hơn (đôi chút) thế thôi.

K’ Tien
10/2008

(*) Jacques Dournes còn có bút danh là Dam Bo, tác giả công trình nghiên cứu Các dân tộc miền núi Nam Đông Dương, được giới thiệu vào đầu năm 1950, trên Tạp chí Pháp – Á (France-Asie 49-50 Numero Special Consacre aux Populations Montagnardes du Sud-Indochinois: Saigon,1950) và đã được chuyển dịch là Miền đất huyền ảo, một cách hết sức gẫy gọn và tài hoa bởi nhà văn Nguyên Ngọc.


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Thời tiết & biệt phủ

Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Cứ theo như lời của nhiều vị chuyên nghề xem vận mệnh qua chỉ tay thì tôi có đường may mắn rất dài, và đường học vấn cũng dài không kém. Hồi trẻ, tôi tưởng thiệt. Sự thật, tiếc thay, chỉ đúng được chừng (gần) phân nửa.

Tôi quả là may mắn vì có nhiều khoảng thời gian được cắp sách đến trường, kể cả những trường đại học ở nước ngoài. Chỉ có điều đáng tiếc là tôi hơi chậm hiểu (và rất chóng quên) nên đến già kiến thức vẫn rất mơ hồ, về mọi mặt.

Có năm, tôi ghi danh vào một lớp khí tượng tại San Jose State University vì nghĩ rằng chuyện thời tiết (gió mưa là bệnh của trời/ tương tư là bệnh của tôi yêu nàng) nếu không hoàn toàn thi vị thì cũng “dễ ăn” thôi. Tôi lầm, và lầm lắm.

Cầm hai cuốn giáo khoa trên tay, tổng cộng dám cỡ bẩy tám trăm trang, mà tôi muốn ứa nước mắt. Khó nuốt thấy rõ. Sách đã dầy lại lắm biểu đồ, và nhiều hạn từ lạ hoắc. Tra tự điển muốn khùng luôn mà vẫn chỉ hiểu rất lơ mơ.

Cả hai bài thi giữa khóa của tôi đều không đủ điểm trung bình. May là dường như cả lớp cũng đều lết bết như nhau nên vị giáo sư phụ trách rộng lòng ban cho chúng tôi một đặc ân, một cơ hội để “thua me gỡ bài cào.” Ông sẽ nâng điểm cho sinh viên nào nộp term paper (ngắn thôi cũng được nhưng tối thiểu phải 500 chữ) viết về kinh nghiệm cá nhân, liên quan đến thời tiết hay khí hậu.

Mừng hết biết luôn! Tôi nghĩ ngay ra cái tựa rất kêu (“Kinh Nghiệm Về Thời Tiết Ở Việt Nam Qua Tục Ngữ”) và “nổ như tạc đạn” vì tin chắc rằng ông thầy mình hoàn toàn không hề biết chi về những điều này:

– Gió bấc hiu hiu/ Sếu kêu thì rét

– Mây xanh thì nắng/ Mây trắng thì mưa

– Chơm chớp đằng Đông vừa trông vừa chạy/ Chơm chớp đằng Nam vừa làm vừa chơi

– Chuồn chuồn bay bay thấp thì mưa/ Bay cao thì nắng bay vừa thì râm

– Trăng quầng thì hạn/ Trăng tán thì mưa

Tôi cẩn thận gạch dưới những từ vần điệu: nắng/trắng, mưa/vừa, hạn/tán … và giải thích rằng đây là phương cách để kinh nghiệm của người xưa được lưu truyền một cách dễ dàng.

Excellent ! Tôi được khen ngợi, được cho điểm tối ưu, cùng với lời mời đi ăn “để chúng ta trao đổi thêm những kinh nghiệm lý thú về thời tiết ở Việt Nam qua văn chương truyền khẩu.”

Tôi biết (mẹ) gì mà “trao đổi,” cha nội? Cả đời tôi sống trong phố thị, có thấy “chơm chớp đằng Đông/đằng Tây” hồi nào đâu? Tôi cũng không dám chắc “sếu” có phải là tên gọi khác của “cò” không nữa? Nếu không thì e là tôi chưa nhìn thấy con sếu (bằng xương bằng thịt) bao giờ!

Vốn liếng về ca dao và tục ngữ của tôi đều từ cuốn Văn Học Việt Nam – được giảng dậy ở trường văn khoa Đà Lạt, trước năm 1975 – của tác giả Phạm Văn Diêu. Và vỏn vẹn chỉ có bi nhiêu đó thôi à. Bởi vậy, tôi quyết định “trốn” luôn ông thầy dậy môn khí tượng… cho nó đỡ phiền!

Chuyện phiền phức, tuy thế, vẫn cứ theo đuổi cho đến mãi tuần rồi. Tuần rồi, tôi gặp hai vợ chồng người Tân Tây Lan ở phòng ăn trong một quán trọ ở thủ đô Manila. Khách vắng, không ai ngoài ba chúng tôi nên họ bắt chuyện làm quen, rồi hỏi rằng tôi là người Đài Loan hay Nhật Bản?

Cái đù! Tôi chưa bao giờ cảm thấy hãnh diện gì (ráo) về dòng dõi tiên/rồng nhưng luôn luôn “cải chính” tới bến luôn, nếu bị thiên hạ tưởng lầm rằng mình thuộc một giống dân (bậy bạ) nào khác – chớ không phải là người Việt. Chả may, ông bà Tân Tây Lan lại đang có dự tính du lịch Việt Nam nên quay ra hỏi tới tấp về khí hậu và thời tiết ở quê nhà.

Tôi ngọng, tất nhiên. Tôi sống tha phương đã hơn nửa đời người, có biết chi đâu về chuyện nắng mưa ở cố hương (ngoài năm ba câu tục ngữ học thuộc đã lâu) mà dám nói lăng nhăng với người ngoại quốc.

Trăng của vũ trụ thì vẫn lúc quầng, lúc tán. Mây của bầu trời thì vẫn lúc trắng, lúc xanh. Ở đâu thì chuồn chuồn bay thấp cũng mưa, bay cao cũng nắng, bay vừa cũng râm nhưng riêng ở Việt Nam thì chưa chắc à nha. Khí hậu và thời tiết ở đất nước tôi – gần đây – bỗng trở nên rất bất thường và hoàn toàn ngoài dự đoán vì thiên nhiên bị hủy hoại (không thương tiếc) hằng ngày, nhất là nạn phá rừng.

Hậu quả nhãn tiền và tàn khốc – theo lược thuật của tác giả Đào Đức Thông, trên trang VNTB:

“Thiên tai luôn luôn đe dọa cuộc sống bình yên của con người Việt Nam. Từ xưa đến nay, dù bằng cách nào người ta cũng không thể chế ngự được thiên tai, nhưng có một nghịch lý là chính con người lại gây ra những tai họa do sự thiếu trách nhiệm, do cẩu thả… khiến cho thiên tai nghiêm trọng hơn.”

Trong một bài viết khác (“Nhà Gỗ Xác Dân”) facebooker Trương Châu Hữu Danh cho biết thêm : “Chỉ trong vòng 40 năm, những cánh rừng bạt ngàn của Việt Nam gần như bị xoá sổ. Bao nhiêu năm chiến tranh, hứng chịu bom đạn, rừng vẫn bạt ngàn xanh… Sau chiến tranh thì rừng mất sạch. Rừng đi đâu?…

Trên khắp dải đất hình chữ S này, nhà gỗ triệu đô không hiếm. Nhưng những căn nhà này không thuộc về giới siêu giàu, giới doanh nhân. Những căn nhà này, trớ trêu thay, lại là của cán bộ. Sau lệnh đóng cửa rừng, các món đồ gỗ, nhà gỗ này càng trở nên vô giá. Một thực tế là nhà cán bộ càng to thì lũ càng lớn, dân chết càng nhiều. Những căn nhà xa hoa này được đánh đổi bằng mạng dân. Các vị ngủ có ngon không khi dưới chân mình là xác dân lập lờ trong lũ dữ?”

Không sao đâu. Quí vị cán bộ đều vẫn “ngủ rất ngon” lành. Họ vẫn cứ “kê gối cao mà ngủ” như thường – theo nguyên văn của bản tin trên trang Tiếng Dân, về vụ biệt phủ Yên Bái:

Báo VTC có bài: Thanh tra Chính phủ thừa nhận không thể xử lý được khối tài sản ‘khủng’ của ông Phạm Sỹ Quý. Về câu hỏi “theo quy định pháp luật hiện chưa có quy định nào để truy suất nguồn gốc tài sản của vợ, con ông Phạm Sỹ Quý, điều này có đúng hay không“, ông Bùi Ngọc Lam, Phó Tổng TTCP cho biết, “trong quy định pháp luật về lĩnh vực này còn có nhiều tồn tại”… Các “đồng chí” cho vợ, con đứng tên tài sản vẫn kê cao gối mà ngủ.

Báo Công an Nghệ An có bài: Không có ‘vùng cấm’ trong chống tham nhũng, tiêu cực. Rõ ràng là không có vùng cấm, nhưng người dân phải chờ đợi mỏi mòn, sau gần chục lần hoãn công bố kết quả, dưới sức ép của dư luận, Thanh tra Chính phủ mới cho công bố. Còn xử lý thì giao về cho địa phương. Cuối cùng thì ông Quý chỉ đổi ghế, còn tài sản thì vẫn chưa bị thu hồi.

Thảo nào mà nhà báo Biên Thùy có bài “Chúc Mừng Ông Phạm Sĩ Quý” vì sau “thiên tai rồi ‘nhân họa’ liên tiếp ập đến mà ‘biệt phủ’ của gia đình ông chẳng mảy may chút gì cả” và “trên thực tế thì ông mới chỉ ‘hạ độ cao’ chứ chưa đáp xuống mặt đất. Nhưng đây cũng là một điều đáng chúc mừng nữa. Phó Chánh Văn phòng HĐND tỉnh tương đương với Phó Giám đốc cấp Sở, như vậy sự xê dịch không đáng là mấy.”

Tôi thì tin rằng công luận sẽ đỡ phẫn nộ (đôi phần) nếu mọi người hiểu ra rằng không riêng gì ông Phạm Sỹ Quý mà tất cả quan chức của chế độ hiện hành cùng ở trong tâm trạng bất an của những kẻ đang nhấp nhổm trên con tầu vét tốc hành. Họ đều vội vã, hối hả, giành giật thu vén nên còn tâm trí đâu mà nghĩ đến nhân cách hay danh dự – nói chi đến những chuyện xa xỉ như thời tiết, khí hậu, hay quân bình sinh thái.


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Quà sinh nhật muộn

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

“Không Có Gì Quý Hơn Độc Lập Tự Do” là tên của một bài thơ mà Nguyễn Chí Thiện viết từ năm 1968. Tuy hơn nửa thế kỷ đã qua, tác phẩm này vẫn được nhiều người trích dẫn (đều đều) vì tâm đắc hay yêu thích:

Tôi biết nó, thằng nói câu nói đó

Tôi biết nó, đồng bào miền Bắc này biết nó

Việc nó làm, tội ác nó ra sao

Tác giả, và độc giả mến mộ những câu thơ thượng dẫn – xem ra – đều hơi quá lạc quan khi tin rằng “đồng bào miền Bắc” đều biết” rõ “việc làm”, và “tội ác” của ông Hồ Chí Minh (HCM) người đã từng là Chủ Tịch Nước kiêm Chủ Tịch Đảng CSVN suốt hai mươi bốn năm dài (1945 – 1969) gần một phần tư thế kỷ.

Tuy cũng sinh cùng nơi, và sống cùng thời, với nhà thơ Nguyễn Chí Thiện nhưng cái nhìn của nhà văn Lê Phú Khải lại khác: “Độc lập và dân chủ là hai phạm trù lớn nhất, được cả dân tộc nhắc đến nhiều nhất trong thế kỷ qua. Độc lập thì Hồ Chí Minh là hình tượng…”

G.S Tương Lai cũng thế. Ông tuyên bố: “Dứt bỏ mọi liên hệ với đảng Nguyễn Phú Trọng thao túng, để tiếp tục chiến đấu với tư cách đảng viên Đảng Lao Động Việt Nam, đảng của Hồ Chí Minh.”

Nhà văn Dương Thu Hương cũng dành cho nhân vật lịch sử này không ít thiện cảm cùng nhiều lời ưu ái:“Đó cũng là nguời sáng suốt nhất giữa đám nguời cầm quyền Việt Nam cùng thời đại.”

Theo bác Hà Sĩ Phu thì đây là chuyện: “… không lạ, vì nhiều trí thức trong nước hiện nay, dù là đảng viên trung thành hay trí thức phản biện, cũng có cùng quan điểm như Dương Thu Hương (phê phán Cộng sản nhưng tôn vinh Hồ Chí Minh), trong khi Hà Sĩ Phu và nhiều người khác thì lại có những ý kiến có phần khác biệt. Vấn đề khó, không dễ nhất trí ngay, xin cứ lưu lại tất cả để cùng suy ngẫm.”

Với ít nhiều chủ quan, tôi thì tin rằng vấn đề chả có “khó khăn” gì ráo trọi và cũng không có chi để mà “suy gẫm” nữa. Ngoại trừ một số ít quý vị nhân sỹ vẫn còn tiếc nuối cái Thời Đại Hồ Chí Minh Quang Vinh (“Thời Đại Rực Rỡ Nhất Trong Lịch Sử Dân Việt”) dù “nó” đã đi rất xa, và rất sâu, vào tận trong lòng của quần chúng mất rồi:

  • Đả đảo Thiệu, Kỳ cái gì cũng có/ Hoan hô Hồ Chí Minh cái đinh cũng phải xếp hàng.
  • Chiều chiều trên bến Ninh Kiều/ Dưới chân tượng bác đĩ nhiều hơn dân.

Nói chi ngay tại bến Ninh Kiều, ở tuốt luốt dưới miệt Năm Căn mà lắm người cũng “biết,” và cũng căm (“nó”) lắm:

 Vừa có thông báo lăng Ba Đình sẽ được dùng làm nhà xí công cộng một thời gian, trước khi đập bỏ, ông Tư Ngộ (ở Năm Căn) vội vã bay ra Hà Nội. Ông định xin ở trọ nhà một người quen vài hôm để có dịp vào thăm lăng Bác cho thoả ước nguyện ấp ủ cả đời người. Đến nơi, chủ nhà rẫy nẩy: Sao ở vài ngày mà xong được. Thiên hạ đã đăng ký và xếp hàng dài ra tới tận đèo Cù Mông rồi. Ông cứ về lại Năm Căn đi, chờ vài năm nữa rồi ra lại đây vẫn chưa muộn.

 Chờ “vài tháng” thì ok chớ chờ “vài năm” thì sợ muộn vì cái lăng này đã bị nhà thơ Nguyễn Quốc Chánh canh me (và lăm le, hoặc hăm he) từ lâu:

“Tôi đề nghị một phương pháp xử lý lăng Hồ Chí Minh như vầy: chôn ông ta thật sâu dưới lòng đất, ngay nơi xác ông ta đang quàn, rồi dán lên bên trong, bên ngoài của tất cả những bức tường, trần và các lối đi trong lăng những đầu lâu của những nạn nhân, ưu tiên là những nạn nhân trong cải cách ruộng đất, và đổi tên thành: LĂNG NHỮNG NẠN NHÂN CỦA CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN VIỆT NAM.”

Đề nghị “bất nhơn” của ông thi sỹ khiến tôi thoáng nhớ đến cái ý niệm “tri thức tập thể” (collective consciousness) của Émile Durkheim. Đây có lẽ chính là “túi khôn của loài người,” hay “vốn sống” của một giống nòi – nếu chỉ xét ở mức độ quốc gia.

Khi vô thức tập thể (collective unconsciousness) của một dân tộc đã trồi lên đến bình diện ý thức, và đã được chuyển hóa thành hò vè/ ngạn ngữ/tục ngữ/ca dao/chuyện hài … về một sự kiện (hay nhân vật) nào đó thì dân gian … rất ít khi sai:

  • Dối như Cuội
  • Láo như Vẹm
  • Mất mùa là tại thiên tai/Được mùa là bởi thiên tài đảng ta!
  • Một năm hai thước vải thô/Làm sao che nổi cụ Hồ hỡi em?

Che chắn không được, bênh vực cũng xong vì thời thời gian không đứng về phía Bác và thời thế cũng đã hoàn toàn đã khác. Cái nhìn của giới trẻ hiện nay về Người trần trụi và tỉnh rụi hà:

– Phạm Chí Dũng:

“Tôi tôn trọng quan điểm của giáo sư Tương Lai, nhưng tôi thấy khó chia sẻ suy nghĩ trở về đảng Hồ Chí Minh của ông.”

– Phạm Thanh Nghiên:

“Chẳng có đảng nào là đảng ‘của ông Hồ’ hay ‘của ông Trọng’ đâu ông Tương Lai ạ. Nó đích thị chỉ là một, tên gọi của nó là đảng cộng sản Việt Nam, thủ phạm gây ra mọi tội ác với nhân dân Việt Nam trong suốt mấy chục năm kể từ ngày ra đời 3-2-1930 đến nay. Hồ, Duẩn, Linh, Mười, Mạnh, Trọng… chỉ là những kẻ luân phiên nhau cầm đầu cái đảng ấy để làm khổ người dân VN thôi ông ạ.”

– Phạm Hồng Sơn:

“Ai là người có thẩm quyền chính trị cao nhất đã để cho đất tư từ hàng ngàn năm biến hết thành đất ‘sở hữu toàn dân’, đã tiến hành cuộc ‘cách mạng long trời lở đất’ ở nông thôn cách đây hơn nửa thế kỷ mà vẫn khiến lòng người hôm nay bấn loạn, hãi hùng, rồi cũng chính người ấy lại đưa tay chấm nước mắt tiếc thương nhưng vẫn giữ trọn ngai vàng cho tới lúc chết?

“Ai là người vừa là Chủ tịch nước kiêm Chủ tịch đảng cầm quyền trong lúc ông Thủ tướng Phạm Văn Đồng hạ bút ký một công hàm công nhận lãnh hải Trung Quốc bao phủ cả hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa? Chắc chắn 54 năm chưa phải là thời gian quá lâu để mọi người quên mất người đó là Hồ Chí Minh …”

Đó là tôi mới điểm qua (theo thứ thự alpha) vài vị thức giả thuộc dòng họ Phạm thôi đó nha, chớ nếu ghi lại ý kiến của cả trăm dân muôn họ thì chắc phải ngồi gõ bàn phím cho tới Tết (hoặc dám tới chết) luôn nữa – không chừng!

Chuyện đề HCM, tuy thế, chưa thể chấm dứt ngang đây. Trong một bài tiểu luận khác (“Bỏ Đảng Vì E Tội Cõng Rắn”) bác Hà Sĩ Phu lại đặt ra tiền đề sau: “… muốn Thoát Trung phải Thoát Cộng, muốn Thoát Cộng phải Thoát Hồ.”

Cũng như tuyệt đại đa số người Việt, tôi tin chắc là chúng ta đã “Thoát Hồ” rồi. Chuyện “Thoát Cộng” thì vẫn còn phải đợi, và chắc là phải đợi hơi lâu.

Tức nước vỡ bờ!

Nước chưa đủ tức? Ý thức và ý chí của kẻ bị trị chưa đủ mạnh? Hay đơn giản có thể chỉ vì vận mệnh của dân tộc này vẫn còn đen đủi lắm?

Thường dân như tôi, tất nhiên, không đủ tư cách để bàn đến những chuyện lớn lao cỡ đó. Còn những chuyện lặt vặt (cỡ “nó”) thì dễ ợt nên tôi nào có ngại chi đôi câu … thanh nghị: Chúng ta đã bị thế giới loài người bỏ lại phía sau xa lắc, xa lơ rồi. Xin đừng tiếp tục phí thì giờ cho một con chó chết nữa. Quên “nó” đi!

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Chùa Xưa Người Cũ

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Tôi không có duyên lắm với những người phụ nữ cầm bút, đặc biệt là những cô hay những bà làm thơ, kể cả Bà Huyện Thanh Quan. Vấn đề hoàn toàn chả phải vì lý do cá nhân, hay tư riêng gì ráo. Điều không may chỉ vì tôi gặp nữ sỹ hơi quá sớm, thế thôi!

Thuở ấy, thuở mười ba mười bốn, tôi mới bước chân vào trung học mà đã giáp mặt với nàng thơ rồi. Có hôm, tôi vừa hối hả rời sân bóng đá (chạy vào phòng học) mồ hôi chưa kịp ráo lưng, đã nghe vị thầy phụ trách môn Việt Văn trầm giọng đọc bài Thăng Long Hoài Cổ :

Tạo hoá gây chi cuộc hý trường,
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá vẫn 
trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn chau mặt với tang thương…

Tôi vừa cắm cúi ghi chép, vừa khuých tay thằng ngồi cạnh :

– Cuộc hý trường là cuộc gì?
– Không biết.
– Thăng Long ở đâu?
– Không biết luôn.

Thằng bạn chung bàn của những ngày xưa thân ái đã xa xôi và phôi pha ấy (nay) chả hiểu đã lưu lạc phương nào, sống chết ra sao? Còn tôi, sau cái cuộc hý trường (1975) thì lâm vào cảnh đời tha phương cầu thực và tha hương cho mãi đến bây giờ. Chiều qua, ở một góc trời xa, tôi tình cờ đọc lại một truyện ngắn (“Mái Chùa Xưa”) của Võ Hồng và mới chợt hiểu (thấm thía) thế nào là nỗi niềm hoài cổ :

Làng tôi có ba ấp, mỗi ấp có một ngôi chùa. Tôi ở ấp Quảng Đức, lên năm tuổi đã biết tên chùa là Châu Lâm…, đã thấy ông thầy chùa đầu tiên trong đời, thỉnh thoảng đi về trên con đường xuyên qua xóm.

Ngoại trừ cái áo nâu dài mặc đi ra đường là tươm tất, còn khi ở chùa thì thầy mặc áo vải thô vạt hồ màu xám có nhiều mụn vá nơi vai hoặc nơi cùi chỏ. Cái vạt áo nhọn làm cho dáng thầy từ mảnh mai trở nên gầy gò… Đi ra đường thì thầy mang guốc sơn, còn ở chùa thì mang guốc bằng gỗ cây sầu đông tự thầy đẽo lấy. Quai guốc là một mảnh da trâu cứng.

Một cảnh chùa nghèo nàn như vậy không thể ban phát lợi lộc vật chất cho ai hết, nhưng nhờ đó mà nó trở nên thân mật với mọi người. Ai muốn ghé chơi chùa cũng được, ghé vào giờ nào cũng được, cửa Tam quan gần như không bao giờ đóng. Nhà chùa không phải coi chừng kẻ trộm cắp vì chẳng có chi đáng để trộm cắp…

Trải qua cuộc chiến giằng co, ấp Quảng Đức của tôi đã thành bãi chiến trường. Đồng bào bỏ nhà cửa ruộng vườn lũ lượt gồng gánh ra đi. Ngôi chùa xưa chắc còn tịch liêu tàn phế hơn xưa, những con chim chào mào chìa vôi chắc cứ ngang nhiên làm tổ ngay ở chái sau, hiên trước.

Cuối cùng “cuộc chiến giằng co” rồi cũng đến lúc kết thúc, hoà bình được tái lập. Chùa chiền nhiều nơi được trùng tu với qui mô lớn, đạt kỷ lục thế giới bởi những quần thể tu viện mênh mông và những pho tượng phật khổng lồ. Đây đều là những công trình tập thể, đòi hỏi sự kết hợp của nhiều thành phần xã hội – theo nhận xét của T.S. Nguyễn Xuân Diện :

“Để tạo thành được những Chùa Bái Đính, Chùa Ba Vàng, Chùa Tam Chúc, Chùa Yên Tử như hiện nay, phải hội đủ ba mặt: Chức sắc Phật giáo + Chính quyền huyện đến tỉnh sở tại + Đại gia. Thiếu một trong ba thì không thể nào vẽ ra được các khu kinh doanh như vậy.”

Sau khi đã “vẽ” xong “các khu kinh doanh như vậy” thì vấn đề kế tiếp là điều hành, quản lý. Đây là giai đoạn cần sự “can thiệp” của Chính Quyền Trung Ương và Bộ Nội Vụ, với những ban ngành “có nhiệm vụ đào tạo sư sãi để ‘yểm’ Hội Phật Giáo Việt Nam, để trấn giữ hệ thống chùa toàn quốc.”

Phương thức tổ chức này được nhập khẩu (nguyên con) từ nước bạn Trung Hoa Vỹ Đại :

“Tất cả các nhóm tôn giáo dựa trên đức tin ở Trung Quốc, bao gồm 41 viện nghiên cứu Phật giáo trên toàn quốc, đều được Ban Tôn giáo Chính phủ [State Administration of Religious Affairs] giám sát.” (“The decline and fall of Chinese Buddhism: how modern politics and fast money corrupted an ancient religion.” South China Morning Post, Sep. 21, 2018 translated by Hoàng Kim Bảo).

Chỉ có điều hơi khác là ta “can thiệp” rất vụng về và “giám sát” quá sống sượng nên đã gây rất nhiều điều tiếng :

Từ Thức: “Qua cửa BOT của chùa VN ngày nay, người ta bước vào thế giới ma quái của oan hồn, của ‘vong’ ngất nghểu, ra rả đòi tiền như nặc nô đòi nợ.”

Nguyễn Văn Tuấn: “Thuở đời nay nhà sư đã xuất gia mà ăn thịt chó, uống tiết canh, hút thuốc lào, uống rượu Tây, say xỉn bí tỉ. Đó không phải là nhà sư nữa (chưa nói đến bậc chân tu), mà là dân ‘giang hồ’ rồi.”

Đặng Văn Sinh: “Có những hòa thượng vốn là nhân viên công lực hàm cấp cao tót vời, khoác áo cà sa trụ trì ở những chùa lớn theo dõi nhất cử nhất động của giới tăng ni phật tử.”

Mạnh Kim : “Những gì đang diễn ra khiến diện mạo Phật giáo ngày càng bi thảm là kết quả của chính sách ‘nhuộm đỏ’ Phật giáo, trong lớp áo ‘Đạo pháp và Dân tộc’ ra đời từ đầu thập niên 1980.”

Vương Trí Nhàn: “Ngày Phật đản… Sao ở giữa cảnh đèn nhang nghi ngút của chùa Quán Sứ, giữa bao nhiêu cụ bà thành tâm cúng vái, lại thấy một vị sư tuổi còn thanh niên, có nét mặt trông như một trung đoàn trưởng, tiểu đoàn trưởng nào đó, mà tôi từng thấy ở các mặt trận.”

Những vị sư “có nét mặt trông như một trung đoàn trưởng nào đó” – đôi lúc – vẫn tưởng rằng mình đang ở giữa mặt trận nên đã phát biểu như một chiến sĩ (thực thụ) khiến công luận không khỏi bàng hoàng: “Chúng ta phải quyết tâm xây dựng quân đội nước ta mạnh như là quân đội của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên.

Ảnh: vietnamnet

Bây giờ thì còn tìm đâu ra một ngôi chùa nhỏ bé, nghèo nàn nhưng thân thiết như chùa Châu Lâm trong ký ức tuổi thơ của Võ Hồng :

“Ai muốn ghé chơi chùa cũng được, ghé vào giờ nào cũng được, cửa Tam quan gần như không bao giờ đóng. Nhà chùa không phải coi chừng kẻ trộm cắp vì chẳng có chi đáng để trộm… Sự liên hệ giữa dân xóm và nhà chùa là một liên hệ tinh thần, dầu không sâu đậm thiết tha nhưng mà lúc nào cũng sẵn sàng hiện diện. Khi có niềm đau nỗi buồn quá sức giải quyết của người thì về chùa để tìm sự an ủi và hy vọng. Nhà có tang mời thầy tụng kinh siêu độ, nhà có người đau ốm trầm kha mời thầy tụng kinh cầu an.

Mười năm một lần, ban trị sự Ấp tổ chức đàn tràng mời thầy hành lễ, làm chay múa lục cúng suốt ba ngày đêm để cầu an cho dân chúng cả Ấp. Người lớn trẻ con, thanh niên thiếu nữ dập dìu tới dự, áo quần tươm tất mặt mày tươi vui khiến tôi nghĩ rằng đây vừa là lễ Tạ Ơn cho mười năm đã qua vừa là Lễ Cầu An cho mười năm sẽ tới. Cỗ bàn dọn ra, ai có mặt cũng được mời ngồi và cầm đũa thọ trai, không phân biệt kẻ lớn người nhỏ kẻ sang người hèn. Y như trong những ngày lễ lớn làm chay ở chùa vậy.”

Những vị tu sĩ “mặc áo vải thô vạt hồ màu xám có nhiều mụn vá nơi vai hoặc nơi cùi chỏ, mang guốc bằng gỗ cây sầu đông tự thầy đẽo lấy” cũng đều đã biệt tăm/biệt tích. Những người muôn năm cũHồn bây giờ ở đâu?


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Cải lương, ca trù, nhạc đỏ, nhạc sến

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

28/05/2023

Lúc vui miệng, soạn giả Nguyễn Phương đã kể lại chuyện ông Chín Trích đập vỡ cây đàn:

“Ngày cô Năm Phỉ mất, người đến viếng tang nghe nhạc sĩ Chín Trích đàn ròng rã mấy ngày liên tiếp bên quan tài… Ông vừa đờn vừa khóc. Đến lúc động quan, trước khi đạo tỳ đến làm lễ di quan, nhạc sĩ Chín Trích đến lậy lần chót, ông khóc lớn: ‘Cô Năm đã mất rồi, từ nay Chín Trích sẽ không còn đờn cho ai ca nữa…’ Nói xong ông đập vỡ cây đờn trước quan tài người quá cố.” (Thời Báo USA, số 321, 18/02/2011).

Cô Năm Phỉ qua đời năm 1952, vì tai biến mạch máu não, khi đang trình diễn tại rạp Nam Quang. Cái chết đột ngột của người nghệ sỹ tài ba này – ngay trên sân khấu của gánh hát Nam Phi – được tất cả các tờ nhật báo ở miền Nam trang trọng loan tin, khiến cho khán giả mộ điệu bốn phương bàng hoàng nuối tiếc!

Thập niên 50 và 60 là thời vàng son của nền cổ nhạc, vẫn theo như lời kể của Nguyễn Phương :

“Saigon và các tỉnh thành ở miền Nam Việt Nam, có nhiều đoàn hát cải lương như đoàn hát Nam Đồng Ban, Huỳnh Kỳ, Trần Đắc, Phước Cương, Văn Hí Ban, Văn Võ Hí Ban, Tân Thinh, Hữu Thành, Phụng Hảo, Nam Hưng, Kỳ Quan, Tập Ích Ban, Thái Bình, Tiến Hóa, đoàn cải lương Hậu Tấn – Năm Nghĩa, Hậu Tấn – Bảy Cao, Việt Kịch Năm Châu, đoàn Mộng Vân, đoàn Sống Mới – Năm Nở, đoàn hát Phát Thanh, đoàn Tiếng Chuông … (còn nhiều nữa, kể không xiết…)”

Cùng lúc, đây cũng là thời mà “cái nghề nghiệp ca trù (bị) truy nã tận cùng” – ở bên kia giới tuyến – theo như cách nói của Phùng Cung. Qua truyện ngắn Mộ Phách, tác giả đã kể lại chuyện đập vỡ một cây đàn khác (của một đôi nghệ sĩ khác) sau khi thời thế đã buộc họ phải bỏ nghề:

“Vợ chồng kép Chản, đào Khuê lặng buồn, trăn trở thầm kín, nuối tiếc không phải là sự thất thoát lưng cơm, manh áo, mà là sự đổi thay từ dáng dấp đến vẻ mặt, đến lời ăn tiếng nói của cả vợ chồng. Tư Chản rầu rĩ thương nghề, thương vợ mà không một lời phàn nàn ra miệng.

“Ngày nào ông cũng hai lần nâng tấm khăn, nhìn kỹ toàn cây đàn. Sóc, vọng hai lần mỗi tháng; vào buổi tối, ông đều lau bụi, và bàn tay lại chạm khẽ lên dây tơ, lặng nghe tiếng xa xưa vọng lại. Ông đứng ngẩn ngơ, quên, nhớ mông lung. Trước khi quay lưng ông không quên chắp tay thành kính vái cây đàn đủ bốn vái.”

Sự “rầu rĩ thương nghề” của kép Chản, cũng như thái độ “thành kính” của ông với cây đàn – tất nhiên – không qua khỏi tai mắt nhân dân và (cuối cùng) đã lọt đến tai cậu con trai, đang đi bộ đội ở xa. Khi được về phép thăm nhà, cậu không bỏ lỡ cơ hội để “động viên” hai đấng sinh thành :

  • Bố mẹ bình tĩnh nghĩ xem, việc làm lạc hậu ấy, nó kìm hãm bước tiến của con. Có lẽ đâu gia đình của một quân nhân cách mạng lại như vậy. Bố mẹ vẫn tự cùm mình trong thành phần tiểu tư sản nông thôn. Con chậm kết nạp Đảng là vì vậy: là vì cây đàn!
    ….

Ông Chản như bị cứng lưỡi, không dám nhìn lại con, ngơ ngác; đi lùi lại hai bước; vẫn không cất nên lời. Thuyên giục bố:

  • Bố cứ đập quách nó đi!

Ông Chản nhìn lên cây đàn, mặt nhợt đi, miệng lắp bắp lạc giọng:

– Thôi! Mày đập đi Thuyên ạ!

– Vâng, để con! Mắt Thuyên long lên…

‘Choác!’ một tiếng trước cửa bếp.Thuyên mắm môi, quắc mắt, tay đập, chân đạp vào cần vào đáy đàn khiến cây đàn biến thành củi. Ngoài sân, ông Chản bưng tai như nghe sét đánh, liêu xiêu bước ra ngõ.”  [Phùng Cung. “Mộ Phách.” Truyện Và Thơ (Chưa Hề Xuất Bản). Văn Nghệ: California, 2003].

“Mộ Phách,” theo nhận xét của nhà phê bình văn học Thụy Khuê: “Là bài điếu văn cho thi ca, cho âm nhạc trong một thời mà nghệ thuật đích thực không còn chỗ đứng.”

Nghệ Thuật Cách Mạng, rồi ra, cũng không “trụ” được lâu – theo như lời “phàn nàn” của giáo sư âm nhạc Đặng Hữu Phúc :

“Như vậy, ‘sự kiện âm nhạc’ nổi bật trong thời gian trước thềm Đại lễ lại là những đêm nhạc ‘Sến’ của Hương Lan, Tuấn Vũ (!!!) Những chuyện này trước đây không thể xảy ra. Còn nhớ năm 1970, dịp kỉ niệm 200 năm ngày sinh Beethoven, 10 đêm nhạc Beethoven ở Nhà Hát Lớn lúc nào cũng đông nghịt người.

Bây giờ chắc không thể được như thế, ngay mới đây thôi, hai tối 17&18/9/2010, chương trình hòa nhạc ‘VNSO Beethoven cycle Vol.5’ với nghệ sĩ piano nổi tiếng người Nhật Michie Koyama (Người đoạt cả 2 giải quốc tế vào loại lớn nhất : Chopin và Tchaikovsky) thì vắng người xem… Bây giờ thì số đông người ta chọn nghe Hương Lan – Tuấn Vũ. Vậy văn hóa Hà nội đang xuống cấp so với chính ta?”

Nói thiệt: không nhờ cái ông Phúc này thì phen này tui hố nặng. Ai mà dè rằng người Hà Nội chỉ sính nghe nhạc cổ điển Tây Phương, và những “đêm nhạc Beethoven ở Nhà Hát Lớn lúc nào cũng đông kìn kịt người” như thế. Vậy mà tui cứ tưởng là dân Hà Thành chỉ toàn nghe loại nhạc loa (giăng mắc khắp Ba Mươi Sáu Phố Phường) thôi chớ.

Tôi thực lấy làm tiếc vì sự hồ đồ của mình, và vô cùng cảm kích vì những thông tin rất quí giá (và cũng hơi quí tộc) mà ông giáo sư vừa cung cấp. Tôi chưa bao giờ có cơ duyên được đặt chân đến mảnh Đất Ngàn Năm Văn Vật. Một kẻ xa lạ (tới cỡ đó) mà cứ tiếp tục huyên thuyên nói mãi về Hà Nội, và Thời Đại Hồ Chí Minh Quang Vinh – xem ra – cũng có hơi kỳ, nếu chưa muốn nói là … lố bịch!

Xin nhường lời lại cho một ông bạn cố tri, vốn người đất Tràng An, một tác giả sinh trưởng trong lòng cách mạng:

“Nơi em về trời xanh không em… ? Bên này vĩ tuyến 17 không có một câu hỏi thơ mộng, lãng mạn như vậy, còn các Vũ Hoàng Chương, Khái Hưng, Hàn Mặc Tử… đã bị đánh bật rễ khỏi người đọc, gom lại trong cái nghĩa địa văn hóa cổ, le lói trong ký ức người già. Các tay ‘yêu’ lừng lẫy một thời vẫn còn đấy, nhưng đã biến thành Xuân Diệu Xuân Xanh Xuân… Tóc Đỏ.”  (Thế Giang. Thằng Người Có Đuôi. Nguời Việt: California, 1987).

Thảo nào, khi Hương Lan và Tuấn Vũ mang những bản nhạc sến của miền Nam ra trình diễn thì “họ ăn khách Thủ đô đến ngỡ ngàng.”

Còn “ngỡ ngàng” cái con bà gì nữa, cha nội ?

Chớ (không lẽ) suốt ngày cứ bâng khuâng “nhớ đôi dép đơn sơ đôi dép bác Hồ,” suốt đêm cứ nằm mơ thấy “râu Bác dài, tóc Bác bạc phơ,” và suốt đời lúc nào cũng chỉ có mỗi một “nguyện vọng duy nhất” là được dịp “dâng lên cho Đảng cả niềm tin chiếu sáng ngời” sao?

Hát hò kiểu đó hoài, mắc cở chết mẹ, chịu đời sao thấu? Thỉnh thoảng cũng phải có Chuyện Tình Lan Và Điệp, Hoa Sứ Nhà Nàng, Giọt Lệ Đài Trang, Lâu Đài Tình Ái, Người Yêu Cô Đơn… này nọ – cho nó hợp với tính thật của mình, và đỡ ớn (chè đậu) chút xíu chớ – đúng không?

Đi nghe Hương Lan và Tuấn Vũ hát thử một đêm, giữa lòng Hà Nội, cũng tựa như đi ăn  một bữa phở chui vào thời bao cấp vậy. Dù “nhạc sến” không được “chất lượng” gì cho lắm nó vẫn có thể khiến cho thiên hạ bùi ngùi, xuýt xoa hay hít hà và nước mắt nước mũi ướt khăn chỉ vì họ đã (lỡ) phải ăn những tô phở quốc doanh – không người lái, cũng chả tiêu ớt/hành ngò gì ráo – quá lâu rồi!

Giản dị, và trần trụi, chỉ có “thế thôi” mà giáo sư âm nhạc Đặng Hữu Phúc đặt vấn đề rất trầm trọng (nghe) thấy ghê quá hà :

“Nếu ta cứ khuyến khích thế hệ trẻ nghe và ta cứ quảng bá những loại nhạc ‘rác’, nhạc bình dân, ca khúc quần chúng mãi, thì rồi sẽ đến một lúc họ sẽ quay lưng lại với Bach, Beethoven, Chopin…  với Quan họ, Chèo, Ca trù… với văn hoá đích thực. Đó sẽ là chuyện tất yếu và đã xảy ra rồi.”

Coi: Đảng và nhà nước (ta) có “khuyến khích” và “quảng bá những loại nhạc rác” cũng như “nhạc vàng, nhạc sến” bao giờ đâu, hả Giời? Nói theo nguyên văn lời của Phùng Cung là chúng bị “truy nã đến tận cùng,” từ hơn nửa thế kỷ nay, nhưng vẫn (may mắn) thoát nạn đấy chứ. Chúng bị cả chục “nghị quyết” (rắp tâm) chôn sống nhiều lần nhưng vẫn không (chịu) chết đấy thôi.

Và nếu (lỡ) quần chúng có quay “lưng lại với Bach, Beethoven, Chopin…  với Quan họ, Chèo, Ca trù… với văn hoá đích thực” thì hãy chỉ mặt vào thủ phạm mà … mắng chửi, chứ sao lại (tráo trở) đổ thừa cho nạn nhân như vậy chớ?

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Võ Văn Thưởng, Nguyễn Mạnh Hùng, Nguyễn Công Khế & Trần Huỳnh Duy Thức

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả:  Tưởng Năng Tiến

26/05/2023

Trang Dân Luận có đăng tải một bài viết ngắn (“Tại Sao Báo Chí Chính Thống Không Có Một Dòng Nào Về Chuyện Trần Huỳnh Duy Thức Tuyệt Thực”) của nhà báo Nguyễn Công Khế, với phần kết luận – như sau:

“Còn một việc nữa, mấy hôm nay, râm rang trên mạng xã hội, và các cơ quan báo chí nước ngoài đang nói chuyện tù nhân chính trị Trần Huỳnh Duy Thức tuyệt thực 27 ngày có nguy cơ dẫn đến nguy hiểm tính mạng. THDT cũng được trên mạng xã hội và truyền thông nước ngoài đánh giá là một người có trí tuệ trong giới bất đồng chính kiến. Thế thì tại sao trước một tin tức như vậy, phía Nhà nước và báo chí chính thống không hề có một dòng nào, hoặc có việc đó, hay không có?

Tôi luôn nghĩ rằng, và luôn nhắc lại rằng, bài toán minh bạch thông tin sẽ giải quyết được rất nhiều vấn nạn trong xã hội ta, và từ đó mới loại được những tin giả, tin ‘bịa như thật’ trên mạng xã hội.

Và tôi cũng tin rằng, hai nhân vật chủ yếu nắm công tác tư tưởng hiện nay làm được việc này. Đó là ông Võ Văn Thưởng và ông Nguyễn Mạnh Hùng.”

Ngay bên dưới bài viết này là phản hồi của hai vị độc giả vô cùng nhanh nhảu:

Nguyễn PhươngSao nó tuyệt thực lâu vậy mà chưa chết nhỉ?

Đức CườngNó có dám tuyệt thực đéo đâu, nó lừa cho mấy thằng ngu hải ngoại tin để cho tiền nó mà.

Hai ông Nguyễn Phương và Đức Cường đã giúp cho người đọc lý giải được, phần nào, nỗi băn khoăn (“Tại Sao Báo Chí Chính Thống Không Có Một Dòng Nào Về Chuyện Trần Huỳnh Duy Thức Tuyệt Thực”) của nhà báo Nguyễn Công Khế. Ngoài những phản ứng kịp hời (thượng dẫn) còn có rất nhiều trang trang mạng, với vô số những bài viết có liên quan đến Trần Huỳnh Duy Thức:

Giọng điệu, cũng như lời lẽ, của những cái “loa phường” kể trên (nghe) quen lắm, cũng y như cách ăn nói của đám dư luận viên thuộc Binh Đoàn 47 vậy thôi. Bởi vậy, hai ông ông Võ Văn Thưởng và Nguyễn Mạnh Hùng khó mà chối được rằng mình (hoàn toàn) vô can với cái thứ ngôn từ “đầu đường xó chợ” này.

VNTB – Dư luận viên: Từ “chuyên gia bút chiến” đến bị coi là bò đỏ (kỳ ...

Trong nhiều “trường hợp nhậy cảm,” nhà nước CHXHCNVN vẫn thường dùng “quần chúng tự phát” (hay đám dân phòng) vào việc “trị an,” thay vì lực lượng công an sắc phục. Tương tự, Ban Tuyên Giáo và Bộ Thông Tin đang xử dụng đám dân phòng trên mạng – thế cho báo chí chính thống – là điều hoàn nhất quán với đường lối và chính sách của Đảng hiện nay.

Có thể vì bận rộn công việc gia đình (vì phải xuất ngoại thường xuyên) ông Khế đã không nắm vững tình hình nên đặt vấn đề trật (lất). Trong khi Nguyễn Công Khế chất vấn “hai nhân vật chủ yếu nắm công tác tư tưởng hiện nay” thì dưới bài viết (thượng dẫn) của ông, cũng có vị độc giả nêu câu hỏi như sau:

Xuan Nguyen VanNguyễn công khế từ thằng chiêu hồi đến kẻ cơ hội nay trở thành kẻ biến chất. Không đủ tuổi và tư cách để chém gió về vấn đề dân chủ và minh bạch chính hắn môi giới để Thằng Phước tặng sách cho nguyên chủ tịch nước rồi tung lên mang thực hiện cáo mượn oai hùm bị cựu chủ tịch nước nổi giận yêu cầu rỡ xuống không hiểu ông khế có thấy xấu hổ không?

Tôi hoàn toàn không biết chi về những chuyện lùm xùm (“tặng sách cho nguyên chủ tịch nước, cáo mượn oai hùm”) vừa dẫn. Lời than phiền của ông Nguyễn Văn Xuân chỉ khiến tôi chợt nhớ đến một trường hợp khác, một nghi vấn khác, theo như cách nhìn (khe khắt) của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn:

“Thế tại sao Nguyễn Khải lại viết Đi tìm cái Tôi đã mất? Theo tôi, trường hợp này cũng giống như Chế Lan Viên viết Di cảo thơ, và Tố Hữu tâm sự với Nhật Hoa Khanh. Thực chất cái việc các ông ‘cố ý làm nhòe khuôn mặt của mình’ như thế này là cốt để xếp hàng cả hai cửa.

Cửa cũ, các ông chẳng bao giờ từ. Còn nếu tình hình hình khác đi, có sự đánh giá khác đi, các ông đã có sẵn cục gạch của mình ở bên cửa mới (bạn đọc có sống ở Hà Nội thời bao cấp hẳn nhớ tâm trạng mỗi lần đi xếp hàng và không sao quên được những cục gạch mà có lần nào đó mình đã sử dụng).”

Tôi chả có sống “ở Hà Nội thời bao cấp” ngày nào cả nhưng vẫn thông cảm được cái “tâm trạng” xếp hàng hai cửa, nếu đúng, của một người ở hoàn cảnh (chân trong/chân ngoài ) như ông Nguyễn Công Khế. Tôi cũng hoàn toàn chia sẻ mọi nỗi khó khăn, với hai ông Võ Văn Thưởng và Nguyễn Mạnh Hùng, nơi chốn quan trường của nước CHXHCNVN.

Nói một đằng làm một nẻo là chủ trương xuyên suốt của Đảng cầm quyền. Do đó, tuy tuyên bố là “tổ chức đối thoại” nhưng ông Trưởng Ban Tuyên Giáo và ông Bộ Trưởng Thông Tin Tuyên Truyền vẫn thản nhiên xua đám lâu la ra “đối thụi” bằng cái thứ ngôn ngữ của bọn đầu đường xó chợ.

Trong một xã hội mà không có nhân cách người ta vẫn sống, thậm chí còn sống béo tốt hơn nên qúi ông Võ Văn Thưởng, Nguyễn Mạnh Hùng, Nguyễn Công Khế … có thể dùng mọi phương tiện để biện minh cho cứu cánh của mình. Điều an ủi là giữa lúc nhiễu nhương như hiện cảnh tổ quốc vẫn còn có những người từ chối sống béo tốt, và sẵn sàng hy sinh tính mệnh vì lẽ phải như ông Trần Huỳnh Duy Thức.

Nhà báo Mạnh Kim nhận xét: “Ông Trần Huỳnh Duy Thức sẳn sàng chấp nhận cái chết đến, vì biết khó mà thuyết phục một nhà cầm quyền như Việt Nam biết thượng tôn pháp luật một cách đơn giản theo lẽ nhân loại văn minh.”

Nếu chả may mà sự việc có xẩy ra bi thảm như vậy chăng nữa thì cái chết của ông cũng khiến cho đám thường dân đỡ phần tủi hổ. Chúng tôi cảm thấy vô cùng yên ủi khi biết rằng dù quê hương rơi vào hoàn cảnh bi đát đến thế nào chăng nữa thì đất nước này vẫn còn có những vị nhân sĩ đáng kính, hết lòng vì dân tộc, chứ không chỉ thuần là một lũ trí thức trùm chăn hay một đám cơ hội ăn theo.

09/13/2018

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Ghẹo cho chúng chửi

Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Tôi có dịp được đi nhiều nơi, được gặp gỡ nhiều người, và cũng được nghe lắm lời bình phẩm (không được tử tế hay tế nhị gì cho lắm) về quê hương và đất nước của mình. Tuy thế, tôi chưa bao giờ bị một “vố” nặng như Trần Đĩnh cả.

Ông kể chuyện có lúc nằm chung phòng bệnh với một viên tham tán thương mại Ba Lan, và đã được nhân vật này “rủ rỉ” đôi câu – như búa bổ:

“Chúng tao bảo giá nước chúng mày dọn ra một hòn đảo giữa Thái Bình Dương rồi cả thế giới cung phụng cho mà sống thì gọn được biết bao nhiêu là chuyện cho … thế giới.” (Trần Đĩnh. Đèn Cù II, Westminster, CA: Người Việt, 2014).

Ơ hay! Nói thế chả hóa ra là Đảng và Nhà Nước đa sự lắm sao?

Hỏi cho có (hỏi) thế thôi chứ “ta” thì quả lắm điều nhiều chuyện thật và toàn là những chuyện tào lao, chỉ ghẹo cho chúng chửi thôi! Khi khổng khi không, Phát Ngôn Viên Phạm Thu Hằng  (Bộ Ngoại Giao) tuyên bố là : “Việt Nam lấy làm tiếc và kiên quyết phản đối việc Úc đã phát hành các vật phẩm với hình ảnh ‘cờ vàng’, cờ của một chế độ đã không còn tồn tại.”

Bà Hằng làm nhiều người đỏ mặt vì xấu hổ, và khiến không ít kẻ phải dậm chân/bứt tóc (la làng) vì tức giận:

Đây không phải là lần đầu tiên (hay duy nhất) nhà nước CHXHCNVN đã hành sử “vô duyên” như vậy đâu nha. Họ cũng đã từng phản đối Mã Lai và Nam Dương vì hai tấm bia tưởng niệm thuyền nhân, và cũng đã bị chửi cho tắt bếp nhưng vẫn không chừa được cái thói điêu ngoa và lắm chuyện!

Hà Nội hết than phiền chuyện này rồi lại phản đối chuyện khác, toàn là những chuyện lãng xẹt hay vô cùng lố bịch nhưng khi đối diện với những vấn đề quốc tế (có ảnh hưởng đến cả an ninh cũng như quốc thể) thì thái độ của dân làng Ba Đình lại hoàn toàn khác hẳn – nếu không “bỏ phiếu trắng” thì cũng chỉ dám … ăn theo và nói leo thôi. BBC ghi nhận:

Với diễn biến mới nhất, nhiều người chỉ ra sự “đồng điệu” cả sáu lần bỏ phiếu tại Đại hội đồng LHQ giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Cụ thể, lần đầu tiên, ngày 1/3/2022, khi bỏ phiếu nghị quyết lên án cuộc xâm lược của Nga đối với Ukraine trong phiên họp đặc biệt khẩn cấp lần thứ 11 của Đại hội đồng LHQ, Việt Nam bỏ phiếu trắng.

Lần thứ hai, ngày 24/3, Đại hội đồng LHQ ra nghị quyết yêu cầu bảo vệ dân thường, Việt Nam cũng bỏ phiếu trắng.

Lần thứ ba, ngày 7/4/2022, đề nghị trục xuất Nga khỏi Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, Việt Nam bỏ phiếu chống.

Lần thứ tư, ngày 12/10 rạng sáng 13/10/2022 theo giờ Việt Nam, Việt Nam tiếp tục bỏ phiếu trắng đối với Nghị quyết kêu gọi các quốc gia trên thế giới chống Nga sáp nhập bốn vùng lãnh thổ của Ukraine.

Lần thứ năm, ngày 23/2/2023, Việt Nam tiếp tục bỏ phiếu trắng như Trung Quốc đối với nghị quyết lên án Nga xâm lược Ukraine và kêu gọi chấm dứt cuộc xung đột Nga – Ukraine, trong bối cảnh tròn một năm chiến sự.

Lần mới nhất này, ngày 26/4, Việt Nam và Trung Quốc “gia nhập” phe đa số, ủng nghị quyết về Liên Hợp Quốc và Hội đồng Châu Âu tăng cường hợp tác ở tất cả các cấp để giải quyết hiệu quả nhiều chủ đề khác nhau. Trong đó có việc thừa nhận hành động xâm lược quân sự của Nga đối với Ukraine.

Bởi chỉ là kẻ ăn theo nói leo và luôn cam phận phục tùng nên dù lãnh thổ / lãnh hải / biển đảo bị xâm lấn, dân chúng bị bức hại (hay sát hại) lực lượng hải quân VN vẫn nhất định bám bờ. Giới lãnh đạo hiện hành thì lúc nào cũng im thin thít, chỉ ồn ào phát cờ cho ngư phủ bám biển, và đẩy ngư dân ra làm cái loa phản bác:

– Báo VietnamPlus (07/07/2014): Hội Nghề cá Việt Nam phản đối Trung Quốc bắt giữ 6 ngư dân và tàu cá.

– Báo Pháp Luật (11/7/2015): Hội Nghề cá Việt Nam phản đối việc làm phi nhân đạo của phía Trung Quốc đối với ngư dân Việt Nam.

– Báo Người Lao Động (14/03/2016): Hội Nghề cá Việt Nam cực lực phản đối hành động phi pháp, vô nhân đạo của lực lượng Hải cảnh Trung Quốc sử dụng roi điện và gậy đập phá tài sản trên tàu ngư dân Việt Nam như những tên cướp biển.

– Báo Mới (04/05/2016): Nghiệp đoàn nghề cá Việt Nam ra tuyên bố phản đối tàu lạ đâm chìm tàu cá của 34 ngư dân ở Hoàng Sa.

– Báo VnExpress (02/03/2017): Hội nghề cá phản đối Trung Quốc đơn phương cấm đánh cá ở biển Đông.

– Báo Tiền Phong (26/03/2018): Hội nghề cá phản đối Trung Quốc cấm đánh bắt cá trên biển Đông.

Ngư dân cứ “phản đối” Trung Quốc từ năm này qua năm khác (hết thập niên này sang thập niên kia) còn Đảng và Nhà Nước thì vẫn nhất định làm thinh khiến cho dân Việt sốt ruột và xót ruột. Nhiều người đã cùng nhau lên tiếng, qua bản Tuyên Bố (Phản Đối Trung Quốc Vi Phạm Chủ Quyền, Quyền Chủ Quyền và Quyền Tài Phán Của Việt Nam Trên Biển Đông) được phổ biến vào hôm 2 tháng 5 năm 2023:

Chúng tôi, các tổ chức xã hội dân sự và các cá nhân luôn luôn mong muốn có cuộc sống hòa bình với nhân dân Trung Quốc, nhưng không thể chấp nhận những hành vi giẫm đạp lên luật pháp quốc tế của nhà cầm quyền Trung Quốc, phá hoại cuộc sống yên bình của đất nước và nhân dân Việt Nam. Chúng tôi tuyên bố:

  1. Trung Quốc phải chấm dứt mọi sự gây hấn, phá hoại việc đánh bắt thủy hải sản của ngư dân Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
  2. Trung Quốc phải bồi thường các thiệt hại của ngư dân Việt Nam mà Trung Quốc đã gây ra từ trước đến nay.
  3. Trung Quốc phải chấm dứt các hành vi cản trở phá hoại các hoạt động dầu khí của Việt Nam trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
  4. Trung Quốc phải chấm dứt mọi việc xây dựng trái phép, phá hoại môi trường biển tại các đảo của Việt Nam bị cưỡng chiếm.

5.Cực lực phản đối hành vi đơn phương áp đặt chủ quyền bất hợp pháp của Trung Quốc qua lệnh CẤM BIỂN trước nhân dân trong nước và nhân dân toàn thế giới.

Bản Tuyên Bố thượng dẫn của nhiều vị nhân sỹ, cùng các tổ chức xã hội dân sự – tất nhiên – rất đáng được quan tâm và trân trọng. Vấn đề, tuy thế, e không thể giải quyết một cách hiệu quả bằng lời nói. Trước “những hành vi giẫm đạp lên luật pháp quốc tế của nhà cầm quyền Trung Quốc” thì VN cần phải có những phản ứng cụ thể, cương quyết và thích đáng hơn. Sự cần thiết này – tiếc thay – vô phương thể hiện khi đất nước vẫn bị dẫn dắt bởi đám người bất nhân, bất nghĩa, bất trí, bất tín, và bất chính: chính danh, chính đáng hay chính nghĩa … trớt quớt hết trơn!

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến – Thư về làng & giấc mơ hồi hương

Nguồn: Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Tôi tình cờ tìm được ấn bản Lá Thư Về Làng của nhạc sỹ Thanh Bình (1932 – 23/05/2014) do nxb Lúa Mới phát hành 1956. Vào thời điểm đó, tuy chưa đủ tuổi để cắp sách đến trường nhưng tôi cũng đã thuộc lời của nhạc phẩm này rồi vì nghe mấy bà chị và radio hay hát:

Từ miền Nam, viết thư về thăm xóm làng
Sắt son gửi trong mấy hàng
Thăm bà con dãi dầu năm tháng
Từ Tiền giang thương qua đèo Cả thương sang
Đêm đêm nhìn vầng trăng sáng
Thương những già khuya sớm lang thang
Em thơ ơi có còn học hành sớm tối
Áo nâu tươi gái làng còn che môi cười
Và đàn bò còn nghe chim hót lưng đồi
Nhớ nhung rồi thương quá lắm bé thơ ơi!

Ruộng đồng yêu ơi!
Thôn làng ruộng đồng yêu ơi!
Đường về làng tôi
Lúa đồng rạt rào đón mời.

Và người yêu quê
Đau sầu từ ngày anh đi
Có sớm anh về
Mừng mừng ướt má hoen mi.

Nhà văn Nguyễn Đình Toàn bình luận:

Trong sinh hoạt âm nhạc của chúng ta, thỉnh thoảng lại thấy xảy ra hiện tượng: Không vì lý do nào cả, bỗng nhiên một ca khúc hay một tác giả nào đó, bị quên lãng, không thấy ai hát hay nhắc tới nữa. Sự việc có thể kéo dài hay chỉ trong một thời gian ngắn.

Thanh Bình không hẳn ở trong trường hợp ấy.

Nhưng, trong số các băng, đĩa nhạc được thu ở hải ngoại trong mấy chục năm rồi, hình như chỉ thấy có một bài, do Khánh Ly hát, đó là bài “Tình Lỡ”.

Nhớ lại những năm sau 54, bài “Lá Thư Về Làng” của Thanh Bình đã gây xúc động trong lòng bao người vừa rời bỏ miền Bắc trong cuộc di cư vào Nam. Càng cảm nhận ra rằng mình được bao dung, yên ổn, trong vùng đất mới, người ta càng xót xa nhớ thương quê cũ.

Thanh Bình từ trần vào ngày 23/05/2014 tại Sài Gòn. Tháng 5 vừa qua, FB  Lâm Ái có ghi lại đôi ba chi tiết (đau lòng) về những tháng ngày cuối cùng và cái chết của ông:

Ở cái tuổi 80, ít ai tin rằng một nghệ sĩ nổi tiếng nhưng không nhà không cửa, lang thang xin ăn ở chợ, bến xe. Các anh công an đưa ông về trại dưỡng lão thì phát hiện ra là nhạc sĩ Thanh Bình và đưa ông về ở với cháu gái (con gái của chị ruột).

 Vợ chồng cháu gái làm công nhân, làm thuê đời sống hết sức khó khăn. Đầu năm nay ca sĩ Ánh Tuyết đã tổ chức đêm nhạc cho ông, chị cũng đã làm được 2 sổ tiết kiệm. Nhưng vì ông đột ngột mất, con gái đang đi tù nên không thể rút được tiền làm đám tang.

 Ca sĩ Ánh Tuyết lại là người bên ông, lo cho đám tang của ông. Điều đáng buồn, dù ca sĩ Ánh Tuyết có kêu gọi hỗ trợ nhưng dường như số tiền vẫn không đủ để lo cho đám tang, đành xin quan tài lục giác của chùa để an nghỉ.

Sau cuộc hý trường 1975 thì có biết bao nhiêu cảnh đời bầm dập, và biết bao nhiêu mảnh đời tan nát. Nhọc nhằn, đắng cay, tủi nhục (nào có chừa ai) chứ đâu riêng chi nỗi bất hạnh của một người nhạc sỹ. Tuy thế, sao tôi vẫn xót thương cho cái ước vọng nhỏ nhoi của Thanh Bình, vào thuở thanh xuân, khi vừa bước chân vào đến miền Nam: “Có sớm anh về/Mừng mừng ướt má hoen mi.”

Cho mãi đến cuối đời Thanh Bình vẫn chưa bao giờ “có sớm” trở về, giữa “lúa đồng rạt rào đón mời”, bên cạnh cô em “ướt má hoen mi”, như mong đợi cả. Thời cuộc đã biến ông thành một lão ăn mày, sống vất vưởng ngoài bến xe, rồi chết dấm dúi trong một ngôi chùa (nào đó) ở miền Nam.

Đồng nghiệp (và đồng thời) với Thanh Bình, có những người tuy không đến nỗi sa chân đến bước đường cùng nhưng lắm kẻ cũng rơi vào cảnh bẽ bàng tương tự. Lúc rời bỏ “phần đất quê hương tù đầy,” Hoàng Anh Tuấn và Phạm Đình Chương (tác giả của nhạc phẩm Mưa Sài Gòn Mưa Hà Nội) cũng đều thiết tha mong chờ một ngày hồi hương với …  mây trắng vui tươi và tự do phơi phới. Giấc Mơ Hồi Hương của Vũ Thành an vui không kém: Tắm nắng hồng của một sớm mai/ Say hương thanh bình khắp nơi.

Chiến tranh tuy đã chấm dứt gần nửa thế kỷ qua nhưng “hương thanh bình” chưa bao giờ thoáng hiện tại bất cứ nơi đâu. Khi ra đi nhạc sỹ Thanh Bình đã để lại những cô “gái làng” (còn che môi cười) và những “em thơ” (còn học hành sớm tối) cùng những “đàn bò” (còn nghe chim hót lưng đồi)…

Nay thì làng quê ở miền Bắc Việt Nam đã hoàn toàn đổi khác, theo như ghi nhận của một nhân chứng thế giá – nhà văn Nguyễn Khải:

“Ai cũng giàu có hơn trước, nấu cơm bằng nồi cơm điện, tối xem tivi mầu, giờ rảnh thì xem phim bộ. Mỗi xóm đều có cửa hàng cho thuê băng vidéo, có gái điếm cho ngủ chịu đến mùa trả bằng thóc, có cờ bạc, có hút thuốc phiện và chích heroin, thành phố có gì ở làng quê đều có…”

Thị thành cũng thế, cũng đã đổi thay ngoài sức tưởng tượng của bất cứ ai. Hà Nội Ba Mươi Sáu Phố Phường, dường như, không còn nữa. Bây giờ chỉ toàn là những đường phố lạ:

Chả trách mà nhà thơ Cao Tần cảm thán: Với danh thiếp những tên đường đã đổi/

Những số nhà chớp mắt bỗng tang thương.

Điều an ủi là Phạm Đình Chương, Vũ Thành,  Hoàng Anh Tuấn … đều đã qua đời trước khi “Bún Mắng Cháo Chửi Đang Ngày Càng Phổ Biến Ở Hà Nội” – theo như (nguyên văn) tiêu đề bản tin của báo Dân Trí, số ra ngày 21/01/2016.

Tuy “phát triển” nhưng nước Việt – xem ra – mỗi lúc một thêm khó sống với rất nhiều người. Hai mươi năm trước, sau khi biến động xẩy ra vào tháng 2 năm 2001 tại Cao Nguyên Trung Phần, thanh niên Y Bion cùng 905 người dân bản địa khác đã rời bản làng để ra nước ngoài lánh nạn.

Khi được hỏi về dự tính của mình cho tương lai, Y Bion cho biết: “Khi vùng Tây Nguyên được tự do, tôi sẽ quay về.” (“Người Thượng Sẽ Ði Mỹ Ðịnh Cư Nhưng Trở Về Khi Quê Hương Tự Do.” Nhật báo Người Việt – 02/05/2002).

Y Bion không phải là người Việt tị nạn đầu tiên (hay cuối cùng) đến Mỹ. Anh cũng không phải là người duy nhất (vừa bước chân đi) đã ôm mộng trở về xây dựng lại quê hương. Tâm sự của Y Bion, chắn chắn, đã làm nao lòng rất nhiều người – những người vượt biên vào cuối thập niên 70 (và đầu thập niên 80) khi phong trào vuợt biển tìm tự do lên đến điểm cao nhất, cũng đã cắn răng rời bỏ quê hương, và cũng đều đã nhủ lòng rằng: Mai này chúng ta cùng về Việt Nam.”

Từ đó đến nay, hàng triệu người đã “cùng về Việt Nam” nhưng phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, đều chỉ về qua (hay về chơi) chút xíu thôi!

Kẻ ly hương mới nhất, B.S Hồ Hải, cũng vừa phát biểu (qua livestream) vào hôm 19 tháng 5 năm 2021 rằng: “Tôi sẽ về và đem đến những gì tốt đẹp đến với quê hương, nơi chôn rau cắt rốn của mình trước khi tôi trở về với cát bụi.”

Lời lẽ gan ruột của ông lại khiến tôi nhớ đến “Thư Về Làng” của Thanh Bình và “Giấc Mơ Hồi Hương” của Vũ Thành. Hết thế hệ này đến thế hệ khác, những kẻ đành đoạn quay lưng đều tự xoa dịu nỗi đau bằng những ước vọng rất chân thành.

Với thời gian, mọi ước vọng đều trở nên những niềm hoài vọng xa xăm trong khi cái mảnh đất quê hương khốn khổ (và bao người ở lại) thì vẫn ngóng trông … mỏi cổ!

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Mặt sau của vài tấm ảnh

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Nhà văn Võ Đắc Danh vừa gửi đến độc giả và thân hữu một bức ảnh khá lạ mắt, cùng với đôi lời phân giải:

“Nhà báo Đoàn Khắc Xuyên cho rằng bức ảnh xứng đáng được trao giải thưởng… thư ký tòa soạn một tờ báo lớn ở SG hiểu lầm tưởng tôi là tác giả nên nhắn tin xin file gốc để đăng báo. Và sau đó, một người bạn đang làm việc ở một trường đại học bắc Cali gọi điện cho tôi, anh vừa khóc vừa nói: ‘Anh có cách nào tìm ra người phụ nữ trong bức ảnh, tôi muốn giúp đỡ cô ấy, biết rằng những mảnh đời như cô ấy ở VN không ít, nhưng bức ảnh làm tôi nghẹn ngào rơi nước mắt, tôi muốn giúp cô ấy cũng chính là giúp tôi vơi bớt nỗi đau…”

FB CaoSon HD  cho biết thêm “bức ảnh người phụ nữ chạy xe Grab mưu sinh phải mang theo cả con nhỏ khi đi chở khách được lan truyền mạnh mẽ trên Facebook đã làm nhiều trái tim nghẹn đắng lòng.”

Nói thế e có quá lời chăng? Cuộc sống lam lũ của lắm người dân Việt hiện nay nào có xa lạ (hay mới mẻ) chi đâu mà khiến cho “nhiều trái tim nghẹn đắng lòng” tới “rơi nước mắt” luôn, dữ vậy?

Xay lúa thì khỏi bồng em là cách phân nhiệm công bằng (và hiệu quả) trong nếp sống định canh ở Việt Nam, từ nhiều ngàn năm trước. Sự phân chia truyền thống này đã biến đổi lâu rồi.

Nhà văn Phạm Thị Hoài cho biết: “Ngày 22-3-1965, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phát động một phong trào mang tên ‘Ba đảm nhiệm’, gồm đảm nhiệm sản xuất và công tác, đảm nhiệm gia đình, đảm nhiệm chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Nhưng Hồ Chủ tịch không ưng ‘đảm nhiệm’ nên chuyển thành ‘đảm đang’ và chính thức phát động phong trào…”

Phải “đảm” tất tần tật như thế nên vừa xay lúa vừa bồng em thì mới có thể hoàn thành được nhiệm vụ. Đó là chưa kể những lúc phải tranh thủ làm đêm (và làm thêm giờ nghỉ) để thi đua vượt chỉ tiêu. Chớ còn vừa chạy xe Grab, vừa bồng con thì kể như chỉ là chuyện nhỏ thôi. Có chi nghiêm trọng lắm đâu mà phải động lòng thương hoa tiếc ngọc!

Cùng vào thời điểm này, Trung Ương Đoàn cũng đã phát động Phong Trào Thanh Niên Ba Sẵn Sàng (vừa chiến đấu vừa sản xuất, vừa học tập vừa thi đua xây dựng cuộc sống) chớ bên phái nam cũng đâu có ai rảnh rang gì.

Sau nhiều thập niên tất bật và túi bụi cả ngày lẫn đêm (bỗng) có người chợt ngừng tay, thắc mắc: Thi đua ta quyết thi đua/ Thi đua ta quyết tiến lên hàng đầu/

Hàng đầu rồi biết đi đâu?

Rồi không ít kẻ nhao nhao lên tiếng khiếu nại: Một người làm việc bằng hai/ Để cho chủ nhiệm mua đài mua xe/ Mỗi người làm việc bằng ba/ Để cho cán bộ xây nhà xây sân!

Như vậy đâu có được (bất công thấy rõ) nên cuối cùng đồng chí đương kim  TBT, kiêm CTN, Nguyễn Phú Trọng đã vào cuộc để giải quyết vấn đề. Báo Tuổi Trẻ, số ra ngày 12/01/2021, hân hoan thông báo: “Năm năm xử 14.540 bị cáo tham nhũng, kinh tế, chức vụ; thu hồi hàng chục ngàn tỉ đồng.”

Dữ vậy sao? Hả hê chưa?

Chưa! Dư luận, ngó bộ, vẫn chưa đồng tình cho lắm. Thiên hạ coi đây chỉ là một thứ “nỗ lực” bắt ruồi quanh đống cứt. Người có giáo dục thì phát biểu ôn tồn và nhã nhặn hơn. Họ xem “hàng chục ngàn tỉ đồng thu hồi” chỉ là phần nổi của một tảng băng sơn.

Tuyệt đại đa số các đồng chí vẫn chưa bị lộ, và không bao giờ bị cả, vì đều đã hóa thân thành những cánh tay nối dài của Đảng và Nhà Nước. Những bàn tay vô hình này thò vào túi quần (hay túi áo) của tất cả mọi người, bất kể nam/ phụ/ lão/ ấu.

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cho biết: “Một quả trứng chịu 14 loại phí, một con lợn cõng 51 thuế phí.”

Báo Thanh Niên tổng kết: “Nông dân ‘cõng’ hơn 1.000 loại phí.” Tất nhiên, đó là chưa kể … “phí cho trâu bò ăn cỏ!

Đám chạy xe Grab, như thiếu phụ bồng con trong bức ảnh của nhà văn Võ Đắc Danh – tất nhiên – cũng không ngoại lệ:

  • Phạm Minh Vũ: Sau năm lần tăng liên tiếp, ngày 25-02 vừa rồi giá xăng trong nước tăng mạnh gần 1000đ trên 1lít, A95 đã hơn 18k.
  • Ngô Du: “Sáng xách chiếc xe ra đổ 100 ngàn xăng để mưu sinh. Họ đã cúng cho nhà nước 64 ngàn. Chạy một cuốc xe… Nộp thêm 10% VAT nữa.”

Hết “cúng” lại “nộp” tứ phương như vậy nên vừa chạy xe Grab vừa địu con thì (may ra) mới đủ tiền mua sữa.

Sữa để em thơ lụa tặng già là chuyện chỉ có trong thơ Tố Hữu (và trong mơ) mà thôi. Thực tế thì già trẻ, lớn bé gì đều đầu tắt mặt tối và lam lũ ráo.

Hãy nhìn qua một lớp người bần cùng khác, cùng vài mẩu tin liên quan đến họ, xem bàn tay của nhà nước hiện hành dài tới cỡ nào:

Xổ số kiến thiết “góp” 10.000 tỷ đồng cho Nhà nước trong quý I

Xổ số đóng góp lớn vào ngân sách nhà nước

Xổ số  là nguồn thu chỉ sau dầu mỏ

Xổ số đóng góp gần bằng ngành dầu khí và vượt xa hàng không

Từ Việt Nam, nhà báo Hữu Danh  tường thuật:

“Ở vùng ĐBSCL, nhiều doanh nghiệp xổ số nộp ngân sách cả ngàn tỉ đồng/năm. Với nhiều địa phương, thu từ xổ số là nguồn thu chính. Để có nguồn thu này, các công xổ số đều dựa vào lực lượng bán vé số dạo.

Họ là ai? Là trẻ em, thay vì được đến trường thì áo quần rách rưới, tay cầm xấp vé số đi ‘bán cái rủi may’; là những ông bà lão bảy – tám mươi tuổi, lẽ ra phải được an hưởng tuổi già, vui vầy cùng con cháu thì phải còng lưng mời từng tờ vé số; là những người tật nguyền, khi mà hệ thống an sinh xã hội còn quá kém, phải vừa bò vừa lết ngoài đường, bò lết dưới chân trai thanh gái lịch trong những quán cà phê, nhà hàng để bán từng tờ vé số bằng cách kêu gọi lòng thương…”

Có điều ông nhà báo không biết (hoặc không ngờ) là “lực lượng bán vé số dạo” đã lan ra tới … nước ngoài tự lâu rồi. Tôi tình cờ gặp gỡ đông đảo đồng hương của mình nơi quán ăn Ba Số Bẩy – trong khu chợ Tô Sanh, ở Nam Vang – với không ít ngạc nhiên.

Ngồi uống chưa hết chai bia Cambodia mà đã có hơn chục người đến chào mời mua vé số, phát hành từ những tỉnh thuộc Đồng Bằng Sông Cửu Long. Sau khi xổ, vé trúng sẽ có người sẵn sàng mua lại ngay tại chỗ.

Đạo quân vé số ở thủ đô Phnom Penh gồm đủ thành phần cũng như tuổi tác nhưng phần lớn đều còn rất trẻ, rất hồn nhiên, và (tất nhiên) đều không có cơ hội đến trường. Dù không phải là thầy bói, tôi vẫn có thể đoán được là trong lòng bàn tay của tất cả các em đều có đường xuất ngoại nhưng thiếu đường may mắn.

Tôi tha phương cầu thực gần như trọn kiếp (và may mắn lạc bước đến những nơi không thiếu bơ thừa sữa cặn) nên bất ngờ nhìn thấy mảnh đời cùng quẫn thì không khỏi chạnh lòng. Nghe tiếng mời chào khẩn thiết, nhìn những khuôn mặt khẩn cầu của đồng bào mình mà muốn ứa nước mắt.

Tôi mời các em cùng ngồi dùng cơm, và mua không sót một tấm vé số nào, với hy vọng có thể tạo được đôi chút thảnh thơi cho tất cả. Tôi cũng hành xử y như ông bạn của nhà văn Võ Đắc Danh (“muốn giúp người và giúp cho chính mình vơi bớt nỗi đau”) hiện đang ở California.

Vơi được bao nhiêu, và bao lâu trong cái chế độ bất nhân này?