S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Vĩnh Biệt Sơn Nam (11/12/1926 – 13/08/2008)

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

09/08/2023

Trong cuốn Một Mảnh Tình Riêng, do nhà Văn Nghệ (VN) xuất bản năm 2000, Sơn Nam tâm sự:

“Mẹ tôi đi làm dâu nơi xa nhà hàng năm mươi cây số đường giao thông hồi đầu thế kỷ khó khăn, vượt rừng qua hai con sông đầy sóng gió… Lâu năm lắm mẹ tôi với về quê thăm xứ một lần, tình trạng này tôi thử hư cấu, qua truyện ngắn ‘Gả Thiếp Về Rừng’… Qua sông Cái Bé thì dễ, nhưng gian nan nhất là qua sông Cái Lớn.”

Muốn biết chuyện làm dâu nơi xa, hồi đầu thế kỷ trước, gian nan và khó khăn ra sao, xin đọc lại vài đoạn (chính) trong truyện ngắn này của Sơn Nam:

“Câu chuyện xảy ra tại rạch Bình Thủy, làng Long Tuyền, tỉnh Cần Thơ, đâu cũng vào khoảng năm 1939 … tháng chạp năm đó, nhà ông Cả treo bông kết tuội để gả con, giữa tiếng dị nghị của bao chàng trai tơ ở rạch Bình Thủy.
Cô Út về làm dâu đất Cạnh Đền.
Hai năm qua.
Ba năm qua…
Chuyến đầu, đôi vợ chồng về thăm ông Cả bà Cả, đèo theo một đứa con gái nhỏ… sổ sữa dễ thương.
Chuyến sau họ về, lại thêm một đứa gái và một đứa thứ ba nữa đang nằm trong bụng mẹ.
Hai ông bà quá đỗi vui mừng.
Nhưng liên tiếp mấy năm sau họ bặt tin, ngày Tết ngày giỗ cũng chẳng về. Lo ngại quá! Có chuyện gì xảy ra bất lành không?
Hai ông bà muốn xuống Cạnh Đền thăm con nhưng ngại mình già sức yếu, đường xa xôi, phải vượt qua sông Cái Lớn. Nằm đêm, lắm khi bà khóc lóc mà trách ông:
– Tôi nói muỗi rừng ăn thịt hai đứa nó rồi. Xứ gì mà muỗi kêu như sáo thổi. Không đau bịnh rét thì cũng chói nước lớn bụng mà chết… Hồi đó ông cãi tôi, nhớ không?
“Ông Cả vô cùng buồn bực. Nhứt là khi nghe con nít chòm xóm hát đưa em:
Má ơi đừng gả con xa,
Chim kêu vượn hú, biết nhà má đâu?

Suốt tháng ngày, ông chống gậy đi quanh quẩn bên gốc tre già ở mé sông, mắt mòn mỏi nhìn bóng dáng các ghe thương hồ qua lại.
Trời đất nào phụ kẻ có lòng như ông!
Mãi đến buổi trưa đó, có chiếc ghe chèo chậm chậm ngang bến. Chồng trước mũi hỏi vợ sau lái:
– Phải chỗ cây mù u này không? Cậu Quỳnh nói nhà bên vợ ở đâu đây.
Chị vợ đáp:
– Không chừng… Đúng quá, cách ngã ba, qua hai cây cầu khỉ, nhà ngói có vườn quít.
Anh chồng ngó tới ngó lui, cãi lại:
– Mình mới qua một cây cầu. Chèo tới trước chỗ cây cầu khỉ, đằng kia kìa, họa may…
Ông Cả cố gom tất cả sức già, la lớn:
– Ở đây nè, bà con ơi! Nhà vợ thằng Quỳnh ở đây nè…Ghe đậu lại. Hai vợ chồng nọ được mời lên ăn cơm với thịt gà tại bộ ván gõ giữa nhà ông Hương cả. Trong đời, họ chưa bao giờ được hân hạnh lớn như vậy! Ông Cả, bà Cả, người lối xóm xúm lại hỏi nhiều câu quá. Họ bối rối, trả lời vắn tắt:
– Dạ, vợ chồng cậu Quỳnh mạnh khỏe. Nhờ trời sanh được sáu đứa con. Bốn đứa sau đều là con trai.
Bà Cả mừng quýnh:
– Úy! Bộ con Út đẻ năm một sao? Con nhỏ đó thiệt giỏi!
Khách trả lời:
– Dạ, đẻ năm một. Đứa ăn thôi nôi, đứa lôi đầy tháng. Mẹ tròn con vuông. Hồi tôi đi đây, cô Út gần nằm chỗ một lần nữa. Thưa ông bà, miệt dưới ai cũng vậy. Như vợ chồng cháu đây có tám đứa con.
– Sao vậy cà? Sao vậy cà? Ở dưới cỡ này ra sao mà thiên hạ “đẻ nhiều” quá vậy?
Khách ngượng nghịu, chập sau mới nói:
– Dạ ở miệt dưới muỗi dữ lắm. Chạng vạng là cả nhà, vợ “chồng con cái rút vô mùng… nói chuyện”. Ít ai đi đâu.
Ai nấy phá lên cười to. Đến lúc bấy giờ, ông Cả bà Cả mới hiểu thêm một sự bí mật quan trọng của tiếng ‘muỗi kêu như sáo thổi’ ở Cạnh Đền. Nó làm hại sức khỏe con người. Nhưng nó gắn bó mối tình chồng vợ hơn ở xứ không có muỗi.
Để đánh trống lảng, ông nói:
– Ừ! Phải vậy mới được. Xứ mình cần có dân đông để tạo lập thêm ruộng vườn, khai phá đất hoang.
Bà Cả nóng ruột:
– Anh chị đây có nghe vợ chồng nó nhắn chừng nào đem mấy đứa cháu ngoại của tôi về cho biết mặt?
Khách trả lời:
– Dạ không nghe. Con cái lũ khũ cả bầy, chắc vợ chồng cậu Quỳnh khó đi xa. Năm rồi mùa màng thất bát, ai cũng lo tay làm hàm nhai để nuôi con. Sông Cái Lớn mấy năm nay lại thêm sóng gió bất thường.
Bà thở dài, nói như rên siết:

– Nhớ mấy đứa nhỏ quá. Ông ơi! Hồi đó ông cãi tôi…

Ông Cả im lặng, nghĩ đến cái ngày gần đất xa trời của mình. Nó không còn bao xa nữa. Ngày đó, ai phò giá triệu, ai rinh quan tài? Nhìn bụi tre già dưới bến mà ông tủi thân: Măng non mọc kề bên gốc.

Phận ông có khác; con gái, con rể và đám cháu ngoại ở chốn xa xôi kia làm sao được gần gũi để ông thấy mặt lần đầu- và cũng là lần chót – khi ông tàn hơi. Nước mắt muốn tươm ra, ông cố dằn lại. Ông hiểu đời ông chưa tới mức đen tối, còn chút ánh sáng lập lòe trong tương lai vô biên vô tận:
– Ờ… ở dưới nó có lập vườn chưa? Lát nữa, anh chị chịu khó chở về giùm cho vợ chống con Út một gốc tre Mạnh Tông để làm giống. Chừng thấy măng non cận gốc già, mấy đứa cháu của tôi luôn luôn nhớ ông ngoại bà ngoại nó trên Bình Thủy.
Phật Trời thiêng liêng xin phù hộ chứng giám! Từ bao nhiêu thế kỷ rồi, trên đất nước mình luống chịu cảnh sinh ly như ông Cả, như cô Út. Ðể cho nước mạnh dân còn” (*).
Truyện “Gả Thiếp Về Rừng” lấy bối cảnh rạch Bình Thủy, làng Long Tuyền, tỉnh Cần Thơ, vào khoảng năm 1939 – 40, khi tôi chưa ra đời. Ba mươi năm sau, lúc tôi đã đủ lớn để đọc và yêu thích Sơn Nam thì ghe thuyền gắn máy (đuôi tôm) đã chạy dọc ngang tá lả khắp sông rạch miền Nam.
Thế hệ của chúng tôi khó mà hiểu được nỗi “gian truân” của một người con gái lấy chồng xa nhà (cỡ) … năm mươi cây số! Dù vậy, tôi vẫn cứ mến thương hết sức cái tình của Sơn Nam dành cho lớp người tiên phong, đi khai khẩn miền cực Nam của quê hương.
Cùng với Sơn Nam, nhà văn Bình Nguyên Lộc cũng ghi lại nhiều tình cảm sâu đậm của mình đối với những lưu dân. Trong truyện ngắn Rừng Mắm của ông, có đoạn đọc mà muốn ứa nước mắt:
“Bờ biển nầy mỗi năm được phù sa bồi thêm cho rộng ra hàng mấy ngàn thước. Phù sa là đất bùn mềm lủn và không bao giờ thành đất thịt được để ta hưởng nếu không có rừng mắm mọc trên đó cho chắc đất. Một khi kia cây mắm sẽ ngã rạp. Giống tràm lại nối ngôi mắm. Rồi sau mấy đời tràm, đất sẽ thuần, cây ăn trái mới mọc được.
Thấy thằng cháu nội ngơ ngác chưa hiểu, ông cụ vịn vai nó mà tiếp:
Ông với lại tía của con là cây mắm, chân giẫm trong bùn. Ðời con là tràm, chân vẫn còn lấm bùn chút ít, nhưng đất đã gần thuần rồi. Con cháu của con sẽ là xồi, mít, dừa, cau.
Ðời cây mắm tuy vô ích, nhưng không uổng, như là lính ngoài mặt trận vậy mà. Họ ngã gục cho kẻ khác là con cháu của họ hưởng”.
Đã bao nhiêu đời tràm, bao nhiêu đời mắm ngã rạp, bao nhiêu thế hệ phải chịu cảnh sinh ly như ông Cả, như cô Út … nhưng quê hương mỗi lúc một lụn bại hơn, chứ không giàu mạnh thêm – như kỳ vọng của Sơn Nam hay Bình Nguyên Lộc. Và vì nghèo đói, cảnh chia ly xẩy ra mỗi ngày một nhiều.

“Hiện nay, ở Nam Hàn, trên bất kỳ nhật báo nào cũng dễ dàng tìm thấy những lời quảng cáo:‘Người già, người muốn tái hôn, người khuyết tật đều có thể kết hôn với những trinh nữ xinh đẹp ở Việt Nam … Thậm chí những quảng cáo này còn liệt kê ưu điểm của con gái VN như ‘xuất giá tòng phu’, ‘tôn trọng người già, thờ cúng tổ tiên đến bốn đời’, ‘dáng người đẹp nhất thế giới’, ‘giữ gìn trinh tiết và chung thủy với chồng” (Bán tuần báo Việt Luận, số 2063, phát hành từ Sydney ngày 28/04/2006).
Chuyện “lấy chồng xa” của phụ nữ VN đã trở thành kỹ nghệ, ở mức “đại trà” – theo như tin của nguyệt san Khởi Hành, số 134, phát hành từ California, tháng 4 năm 2006:
“Cảnh sát Cam Bốt mới khám phá một tổ chức bán các bé gái Việt Nam tại một khu phố ở Nam Vang. Các em cho biết đã được chở từ quê nhà vùng nông thôn miền Nam qua biên giới trong những thùng sắt dùng trở hàng xuất cảng”.
Những chuyện tủi nhục xót xa như thế đã xẩy ra (thường xuyên) từ mấy thập niên qua. Trong thời gian này, Sơn Nam vẫn cặm cụi cầm bút và vẫn in ấn đều đều. Tác phẩm mới nhất của nhà văn, có tên là Bình An, tập cuối trong bộ hồi ký của ông, và được giới thiệu là cuốn sách đề cập đến những biến đổi lớn lao của Sài Gòn kể từ ngày giải phóng miền Nam 30/04/75 đến nay…. Hồi ký Sơn Nam không chỉ là chuyện kể về cuộc đời của một con người mà còn là chuyện kể về một giai đoạn lịch sử của vùng đất Nam Bộ.

Dù không phải là thầy bói, tôi vẫn biết chắc rằng, trong cả bốn tập hồi ký của Sơn Nam sẽ không có một dòng chữ nào – nửa dòng cũng không – viết về những em bé Việt Nam bị “gả” đi xa, “trong những thùng sắt dùng chở đồ xuất cảng” từ vùng đất Nam Bộ.
Tập Hương Rừng Cà Mau, trong đó có truyện “Gả Thiếp Về Rừng,” được mở đầu bằng một bài thơ của Sơn Nam, có đoạn như sau:

Trong khói sông mênh mông,
Có bóng người vô danh
Từ bên này sông Tiền
Qua bên kia sông Hậu
Mang theo chiếc độc huyền
Ðiệu thơ Lục Vân Tiên
Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả

Cái gì đã giết chết tinh thần “kiến nghĩa bất vi vô dõng giả” và quan niệm sống “lộ kiến bất bình vung đao bạt tụy” – của Lục Vân Tiên – trong con người Nam Bộ của Sơn Nam? Ở tuổi 80, ông còn ngại gì nữa mà không (dám) nói lên đôi lời phải/quấy với bọn giặc cướp – đang tụ họp ở làng Ba Đình, Hà Nội – trước khi nhắm mắt?
Câu trả lời có thể tìm được trên Tuổi Trẻ Online, số ra ngày 7 tháng 3 năm 2004:
“Ngày 7-3, tổng công ty du lịch Sài Gòn khánh thành tượng chân dung nhà văn Sơn Nam tại làng du lịch Bình Quới 1 (Thanh Đa), để ghi nhận đóng góp của ông đối với nền văn hóa phương Nam”
Té ra, Sơn Nam đã bị hóa đá. Hèn gì, ông không còn nghe được tiếng dân kêu ai oán ở rừng U Minh Hạ. Ông cũng không còn bận lòng gì nữa về số phận gian truân của những người đồng hương đi lấy chồng xa – dù là xa nhà đến năm ngàn (hoặc hơn) chứ không phải chỉ là năm mươi cây số – và sang sông (tập thể) bằng tầu chở hàng, trong thùng container, thay vì bằng một chuyến đò ngang hay đò dọc.

Khi bàn về số phận của một số những người cầm bút ở miền Nam – bị cấm viết sau tháng 4 năm 1975 – nhà văn Võ Phiến gọi họ là những “tài năng bị chôn sống.” Sơn Nam dù không bị cấm viết, ông vẫn bị chôn (sống) bằng một hình thức khác.

Vĩnh biệt Sơn Nam!

May 2006

VNTB – Nhà văn Sơn Nam

10.08.2023 2:04

 S.T.T.D Tưởng Năng Tiến 

(VNTB) – Sơn Nam qua đời vào ngày 13 tháng 8 năm 2008 nhưng ông đã chết (trong tôi) hơi lâu, trước đó.

Mấy năm trước, sau khi ghé thăm Lý Chánh Trung, giáo sư Nguyễn Văn Lục đã có nhận xét như sau về người bạn đồng nghiệp cũ :

“… sau 1975 … có mấy nhà văn, nhà báo trong Nam được cầm bút lại như Lý Chánh Trung. Con số đếm chưa hết một bàn tay… Trước 75, ông viết như thể một người nhập cuộc, kẻ lên đường, kẻ làm chứng, người trí thức dấn thân. Ông viết với một tấm lòng nhiệt huyết. Sau 1975, ông viết như một kẻ đứng bên lề, xem đá banh và vỗ tay.”

Tôi có ngồi học với giáo sư Lý Chánh Trung đâu chừng cỡ… nửa giờ, ở trường Văn Khoa Đà Lạt. Nhất tự vi sư, bán tự vi sư. Tôi không dám bàn luận lôi thôi gì (thêm) về chuyện viết lách của một người thầy học cũ.

Nhận xét dẫn thượng, chả hiểu sao, bỗng khiến tôi nhớ đến nhà văn Sơn Nam. Ông cũng là một trong những người may mắn hiếm hoi của miền Nam (trong “con số đếm chưa hết một bàn tay”) vẫn được phép cầm viết, sau 1975, và là một trong những nhà văn mà tôi vô cùng mến mộ.

Tác phẩm (có lẽ) đắc ý nhất của Sơn Nam là cuốn Hương Rừng Cà Mau, trong đó có truyện “Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư.” Tác giả kể lại chuyện một người dân ở U Minh Hạ, đặt mua báo dài hạn nhưng không trả tiền nên nhà báo phải cử người đi đòi nợ. Xin trích vài đoạn đọc chơi cho nó … đã :

“- Từ đây tới nhà ông Trần Văn Có gần hay xa vậy thầy?

Thầy xã trưởng đáp:

– Ở xóm Cà Bây Ngọp lận! Để tôi ra lịnh cho phó hương ấp đòi tên đó lên công sở… 

Thầy phái viên nhà báo “Chim Trời” giựt mình:

– Tôi là phái viên, đâu có quyền hạn đó đối với quí vị độc giả thân mến gần xa.

Thầy xã hỏi:

-Phái viên là gì vậy thầy?

– Là người thay mặt cho tờ báo đi cổ động và thu tiền.” (Sơn Nam. “Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư.” Hương Rừng Cà Mau. Sài Gòn: Trí Đăng, 1972).

Nhân vật chính trong truyện, ông Trần Văn Có, theo như lời dân cùng xóm, là một người độc thân, làm nghề giăng câu, nuôi heo, lấy tổ ong, và hơi ba hoa chút đỉnh: “Anh ta công kích tờ Lục Tỉnh Tân Văn của nhà nước Lang Sa gởi xuống công sở; đi ăn giỗ thì nói chuyện Hít-le, chuyện nước Ý đánh nước Á, chừng hỏi kỹ mấy nước đó ở đâu, anh ta bí lối nói lảng qua chuyện Tầu…”

Nghe nói vậy nhưng không phải vậy. Khi phái viên báo Chim Trời giáp mặt độc giả Trần Văn Có, ngay tại nơi cư trú của ông, cuộc hội kiến – rõ ràng – rất là trang trọng và (vô cùng) thắm thiết:

“Buổi cơm chiều ngon lành làm sao! Ăn cá lóc nướng trui, uống rượu… Tư Có kèm thầy phái viên ở lại ngủ một đêm, chú hứa sáng mai bơi xuồng đưa thầy trở lại công sở mà đón tàu đi. Thếp đèn dầu cá kèo thêm một tim thứ nhì nữa, cháy khá sáng. Bếp un dưới đất tỏa lên cuồn cuộn, tỏ rõ từng sợi khói mịn màng như mành lưới tơ giăng bủa khắp căn chòi nhỏ hẹp.

Tư Có bỏ mùng xuống, chun vô tấn ba phía rồi mời:

– Thầy Hai vô trong này ngồi nói chuyện cho vui. Ở ngoài muỗi cắn. Khói như vậy mà muỗi cứ bu lại rớt lềnh trong thếp đèn dầu cá đó.

Ngượng nghịu, thầy phái viên nhà báo Chim Trời rón rén dở mí mùng, chui lẹ vào ngồi kế bên:

– Xứ gì lạ quá! Anh Tư ở đây hồi sanh bịnh chết.

Tư Có đáp:

– Xứ Cà Bây Ngọp, tiếng Khơ Me nghĩa là trâu chết. Hồi đó nghe nói trâu “len” tới đây thất bại, phong thổ ẩm thấp trâu chết nhiều quá. Họ đặt tên kỷ niệm luôn… Bởi vậy dân tình bịnh hoạn, thưa thớt, làng này chưa cất nổi cái trường học.

Thầy phái viên trố mắt:

– Vậy à? Còn mấy làng khác?

– Ðông Thái, Ðông Hồ, Ðông Hưng, Vân Khánh Ðông… không làng nào có trường hết. Thầy nghĩ coi…

– Hèn chi miệt này chỉ một mình anh Tư là độc giả báo Chim Trời của chúng tôi… Báo có thích hợp không anh Tư?

– Làm báo thì cần nhiều trí óc lắm phải không thầy phái viên? Tiếc là hồi nhỏ cha tôi chết sớm. Hồi đó, ổng làm thầy giáo cũng đặt thơ bát cú, tứ cú. Cha tôi chết, má tôi giữ mấy pho sách, dạy lại tôi. Ðó là sách Quốc Văn giáo khoa thư, thầy còn nhớ không?

Thầy phái viên cười:

– Nhớ chớ. Làm sao mà quên được! Hồi nhỏ tôi hớt “ca rê”, tay xách toòng teng bình mực đi học ở trường làng. Hồi đó, trí óc minh sáng suốt, nhớ dai lắm. Bây giờ lớn tuổi, đầu bạc hoa râm, đi làm ăn rày đây mai đó, nhớ nhà, nhớ trường học, nhớ làng xưa.

Tư Có nói:

– Chắc là thầy muốn nói bài ‘chốn quê hương đẹp hơn cả’ chớ gì?

Rồi chú đọc một hơi:

– Một người đi du lịch đã nhiều nơi. Hôm về nhà, kẻ quen người thuộc, làng xóm, láng giềng đến chơi đông lắm. Một người bạn hỏi: ông đi du sơn du thủy…

– Ðó đa! Ðó đa! Anh Tư nhớ kỹ quá… Người du lịch mới trả lời: ở chốn quê hương… từ cái bụi tre ở xó vườn cho đến con đường khúc khuỷu trong làng, cái gì cũng gợi cho tôi những mối cảm tình chứa chan… Bài đó có hình ông già mang kiếng, chống gậy nói chuyện với mấy người khăn đống áo dài.

– Thì hình nào cũng khăn đống áo dài. Trừ ra cái hình thằng nhỏ chăn trâu cầm roi: ai bảo chăn trâu là khổ… Không, chăn trâu sướng lắm chứ.

Thầy phái viên phụ họa theo như cùng hợp xướng:

– Ðầu đội nón mê như lọng che, tay cầm cành tre như roi ngựa, ngất nghểu ngồi trên mình trâu, tôi nghe chim hót trong chòm cây, mắt trông bướm lượn trên đám cỏ…

Không ai bảo ai, hai người lại nằm xuống lim dim… 

Giọng Tư Có nói nhỏ:

– Ngủ chưa, thầy phái viên?

– Ngủ chưa anh Tư?

– Chưa!

– Tôi nãy giờ cũng vậy, muốn ngủ sớm để mai về nhà, mà không thấy mệt.

Im lặng một hồi lâu, rất lâu, Tư Có nói ngậm ngùi sau một tiếng thở dài:

– Biết lấy gì làm sở phí cho thầy. Thầy nói thiệt tình nghe coi… Chắc thầy tới đây thâu tiền.

– Ðâu có! Ðâu có! Mình là bạn đời với nhau…

– Thầy hiểu cảnh tôi. Không lẽ gởi cá lóc, rùa, mật ong… nhờ thầy đem về Sài Gòn gọi là tiền của tôi trả cho nhà báo. Tôi “đăng” là vì ái mộ báo Chim Trời chớ ít đọc lắm. Mấy thầy viết cao quá. Tôi mua để dành về sau cho đủ bộ.

– Anh Tư đừng ngại chuyện đó. Cứ tiếp tục đọc. Lâu lâu dò nơi mục Thư tín không chừng có lời của tôi thăm hỏi anh Tư. Nếu thấy báo đăng đòi tiền các độc giả, xin anh Tư hiểu rằng đó là nhắc nhở các người khác. Tôi hứa nói lại với ông chủ nhiệm mỗi kỳ gởi tặng anh Tư một số báo, hoài  hoài cho tới số chót.
Chú Tư Có vô cùng cảm động…”
(sđd 111-116).

Tôi đọc truyện “Tình Nghĩa Gíao Khoa Thư” khi còn ở tuổi đôi mươi. Tuổi trẻ bao giờ cũng nhiều lý tưởng. Tôi và bè bạn vẫn tâm nguyện rằng, sau cuộc chiến, thế hệ của mình sẽ cố góp hết sức để dựng xây những phần đất quê hương (bị lãng quên) như vùng U Minh Hạ.

Hòa bình, tiếc thay, đã không mang lại cuộc sống an bình như mọi người mong muốn. Không những thế, nó còn khiến cho hàng triệu kẻ đã phải liều mạng rời bỏ quê hương, để mưu cầu một cuộc sống khả kham (hơn) nơi đất lạ quê người.

Tôi là một trong những kẻ đã (đành đoạn) bỏ đi như thế. Vài chục năm sau, khi tóc đã điểm sương, ở một góc trời xa, tình cờ đọc được bài báo (“Tiếng Kêu Giữa Rừng U Minh Hạ”) của phóng viên Hoàng Trí Dũng mà không khỏi băn khoăn nhớ về quê cũ :

Tôi đã đến nhiều miền quê nghèo khó vùng sông nước ĐBSCL, nhưng có lẽ chưa lần nào tôi bị ‘sốc’ như chuyến đi lần này. Nơi tôi đến là một vùng quê giáp ranh giữa hai tỉnh Kiên Giang – Cà Mau, cách không xa trung tâm hai thành phố Rạch Giá và Cà Mau, vậy mà đã 30 năm sau ngày đất nước thống nhất vùng quê ấy vẫn còn là bức tranh buồn thảm với nhiều nỗi bức xúc: không điện, đường, trường, không trạm xá, không hộ khẩu, không đất sản xuất…”

“Trái ngược với hình ảnh ấy là cơ ngơi của các quan chức địa phương – những người đang giành giật đất đai của dân. Đó là chuyện thật ở ngay một góc Lâm trường U Minh 2, ấp 4, xã Khánh Hịa, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau.”

“Cách đây hai năm một cháu bé tên Hằng, 10 tuổi, con của hai vợ chồng trẻ không may bị bệnh viêm ruột thừa cấp tính, nhưng ở giữa rừng không có trạm y tế, mà lòng kênh trơ đáy khô queo, còn trên bờ thì không có đường đi rốt cuộc đành ngồi nhìn con chết mà bất lực vì không cách nào chuyển đi bệnh viện. ..”

“Ông chủ nhà Nguyễn Trung Liệt – một lão nông có uy tín trong vùng – vào chuyện: ‘Trên 60 tuổi rồi, hơn chục năm, ba thế hệ với hơn 30 người sinh ra và lớn lên tại khu rừng này, nhưng ngặt một nỗi nhà tui không ai có được tấm hộ khẩu, cũng chẳng hề có giấy chứng minh nhân dân. Người lớn còn đỡ chứ tội nghiệp sắp nhỏ, năm đứa cháu nội ngoại ra đời trong ruột rừng này hiện tại đều thất học như ông cha nó…’
Chú Ba Vinh thì kêu:“Cả trăm gia đình bà con ở đây khổ lắm, không thua gì thời kỳ Pháp thuộc…” 

Chú Ba Vinh (nào đó) tuổi đời – có lẽ – còn hơi ít nên không biết rõ cảnh sống của dân chúng ở U Minh Hạ vào thời Pháp thuộc. Chớ hồi đó, cứ theo như lời kể của ông già Nam Bộ Sơn Nam, nơi đây đã có người đặt mua dài hạn báo Chim Trời ở tận Sài Gòn, có kẻ giữa bữa giỗ (dám) bàn chuyện quốc sự và lớn tiếng chê bai tờ Lục Tỉnh Tân Văn của nhà nước Lang sa.

Những chuyện “tầm ruồng” như thế, xem ra, có vẻ như một giấc mơ (đã) xa xôi lắm đối với người dân ở U Minh Hạ – bây giờ. Trong bài phóng sự (thượng dẫn) không nghe phóng viên báo Tuổi Trẻ kể lại chuyện có bữa nhậu lai rai mấy con cá lóc nướng trui với người dân địa phương, và dùng chung với họ một bữa cơm chiều (“ngon làm sao”) như đặc phái viên của báo Chim Trời – hồi đó. Chuyện người ta ăn ở cư xử tử tế với nhau, theo kiểu “Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư” (ngó bộ) cũng miễn có luôn.

Ở U Minh Hạ, ngày nay, theo như nguyên văn tường thuật của nhà báo Hoàng Trí Dũng: “30 năm sau ngày đất nước thống nhất vùng quê ấy vẫn còn là bức tranh buồn thảm với nhiều nỗi bức xúc: không điện, đường, trường, không trạm xá, không hộ khẩu, không đất sản xuất.” Có chăng chỉ là tiếng kêu gào ai oán, của những người dân khốn cùng và uất hận, vì bị cướp bóc trắng trợn mà thôi.

Sơn Nam, có lẽ, vì tuổi đời đã cao nên không còn nghe và thấy được những tiếng kêu thương và cảnh đời vô vọng (đến thế) từ nơi sinh trưởng của ông. Ngày 18 tháng 8 năm 2008, trên diễn đàn talawas, tôi nghe nhà văn Lê Phú Khải kể chuyện này :

“Có lần tôi nhờ ông viết một bài cho Đài Tiếng nói Việt Nam để kỷ niệm Cách mạng tháng Tám ở Nam bộ. Mấy ngày sau, cũng tại quán café ở Gò Vấp, ông đưa tôi bài: ‘Nhớ ngày Cách mạng tháng Tám ở U Minh’, đánh máy bằng cái máy chữ, chữ nhỏ li ti như con kiến. Ðài phát xong tôi thấy ‘tiếc’ quá! Vì chữ nghĩa phát lên trời rồi gió bay đi… Tôi bèn gửi bài đó cho báo Cà Mau.

Khi bài báo đó được in trên giấy trắng mực đen ở Cà Mau thì bạn đọc, cán bộ, đồng bào và các nhà nghiên cứu của vùng đất này đều kinh ngạc về trí nhớ của Sơn Nam. Bài báo đó là một tư liệu lịch sử sống động về Cách mạng tháng Tám ở U Minh, chưa từng được ai ghi chép lại sinh động như thế. Thư gửi về toà soạn tới tấp… Xin trích đăng lại đoạn cuối của bài báo đó :

“Tại dinh chủ quận trước kia, cờ đỏ sao vàng bay phấp phới. Từ những thôn xóm hẻo lánh, đồng bào đến dự ngày lịch sử trọng đại. Ðã có ban trật tự sắp xếp chỗ đậu xuồng ghe. Ðồng bào người Khmer cũng đến dự với các sãi áo vàng. Xuồng ghe đậu dài hàng kilômét. Nhiều người trung niên ‘quần bao áo bố’ cõng con trên vai để nó trông lên khán đài.

Tiếng loa phát ra vang vang, báo tin đại diện của tỉnh bộ Việt Minh đã đến. Có múa lân. Vài ông lão tụ tập lại, dạy võ thuật cho thanh niên. Loa lại vang lên, khuyên đồng bào yên tâm, cứ chịu đói buổi sáng, sau đó sẽ có phân phát bánh tét, ăn thay cơm. Trời chuyển mưa. Ðồng bào vẫn đứng chịu mưa tại chỗ.”

Câu chuyện này cũng lại khiến tôi liên tưởng đến nhận xét của giáo sư Nguyễn Văn Lục về một vị thầy học cũ của mình :

“Trước 75, ông viết như thể một người nhập cuộc, kẻ lên đường, kẻ làm chứng, người trí thức dấn thân. Ông viết với một tấm lòng nhiệt huyết. Sau 1975, ông viết như một kẻ đứng bên lề, xem đá banh và vỗ tay.”

Sơn Nam qua đời vào ngày 13 tháng 8 năm 2008 nhưng ông đã chết (trong tôi) hơi lâu, trước đó.

Tưởng Năng Tiến – 8/2011

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Trường làng Kandal

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

20/02/2022

Người Việt rất lạc quan và hãnh diện về tính hiếu học của dân tộc mình, trừ nhà văn Phạm Thị Hoài:

“Nhân đây cũng xin nói ngoài lề là cái tinh thần rất nổi tiếng và thường xuyên được ca ngợi rằng, người Việt hiếu học, cha mẹ muốn con hay chữ, yêu thầy, theo tôi một phần cũng rất đáng kể xuất phát từ tinh thần yêu địa vị và trọng quyền lực. Nếu chữ nghĩa không mở ra được một triển vọng thơm tho như vậy, một người đi học thi đỗ làm quan thì cả họ được nhờ, tôi tin rằng cái sự hiếu học kia chắc chắn là giảm đi đáng kể.”

Cái kiểu nói (“nhân đây”) của bà nhà văn nghe “mích lòng” thấy rõ nhưng e là hoàn toàn không trật, với mọi người dân Việt – trừ ông Út Em:

– Đời mình thì chịu thua rồi nhưng con cháu thì phải lo cho tụi nó học được cái chữ, con số để mai mốt lỡ mượn tiền ai rồi lúc trả còn biết đường ghi vô sổ là mình đã trả ngày nào, hay đã trả bao nhiêu, để không họ cứ đòi hoài cái chết mẹ … – anh Tư thấy ý tui nói đúng không?

– Dạ, đúng!

Tui lật đật tán thành ý kiến của Út Em, dù hoàn toàn không thấy đương sự có gửi gắm chút mộng ước quan quyền gì ráo trọi cho tương lai con cháu, trong khi chúng tôi đang ngồi nhậu (lai rai) tại căn nhà nổi của ổng ở làng Kandal – xã Phsar Chhnang –  thuộc tỉnh  Kampong Chhnang.

Địa phương này nằm trên giòng Tonlé Sap, tuy chỉ cách thủ đô Nam Vang chưa tới một trăm cây số nhưng lại quá xa những địa điểm du lịch nên chả có ma nào ghé.

Và có lẽ vì vậy (vì cái gì hiếm thì qúi) nên tôi được Út Em tiếp  đãi rất tận tình, dù không được linh đình gì lắm. Trước khi ngồi “uống sương sương vài ly” ổng đã chống ghe đưa tôi đi thăm ngôi trường Samaki, cùng với lời giới thiệu say sưa và hãnh diện:

Việt kiều bên Úc xây đó, tốn cả trăm ngàn đô chớ không phải ít đâu nha.

Sao tự nhiên ngay lúc đó tui muốn mình biến được (liền) thành một “Việt kiều bên Úc.” Thiệt là quá đã. Đúng là một niềm hãnh diện lớn lao.

Giữa cái làng nổi chen chúc lổn nhổn những mái lá xiêu vẹo xác sơ thì trường Kami nổi bật như một công trình kiến trúc hết sức tân kỳ, và vô cùng hoành tráng. Út Em tự hào là phải.

Dù trường ốc đã có sẵn sàng, và đàng hoàng đâu ra đó nhưng “quan niệm và triết lý giáo dục” (rất khiêm tốn) của Út Em – xem chừng –  vẫn chưa được phần đông người dân địa phương chia sẻ. Đời sống có những nhu cầu căn bản được sắp sẵn, theo thứ tự ưu tiên: ăn/học. Ăn  chưa đủ no, lo chi tới học!

Mà trường làng Kandal lại dậy tới ngày hai buổi lận: sáng học tiếng Miên, chiều tiếng Việt. Coi như mất nguyên ngày.

Tuổi thơ là một thành quả đặc thù thế kỷ XX. Trước đó, nhân loại phải dồn hết nỗ lực vào việc mưu sinh nên trẻ con chỉ là một người lớn thu nhỏ (miniature adult) với trách nhiệm đè nặng lên vai gần như bố mẹ.

Nhân loại đã bước vào thế kỷ 21 nhưng dân làng Kandal thì chưa, và chắc còn phải chờ lâu. Hy sinh “nguyên” cả một thành viên trong gia đình cho việc giáo dục là một kiểu đầu tư hơi xa xỉ (và cũng có vẻ rất xa vời) ngoài tầm tay với của rất nhiều cư dân, ở nơi đây.

Tui chợt “ngộ” ra điều này nhưng loay hoay mãi vẫn chưa tìm ra được thứ ngôn ngữ thích hợp để chia sẻ ý nghĩ của mình với ông bạn đồng hương, và đồng ẩm, ngồi bên. Út Em vẫn chậm rãi nhai khô (thứ thực phẩm mà tôi nghi ngại là thằng chả phải nhai một ngày hai lần, và đúng 365 ngày mỗi năm) chợt hất hàm nhìn ra phía trước:

– Anh Tư ngó cái con Sáu bán chuối nướng này nè. Nó đi bán mình ên cũng được vậy, ráng cực thêm chút xíu thôi, để cho thằng con tới trường mà nó nhứt định không chịu. Phải chi nó làm nghề cá mà tới mùa cần người phụ thì tui không trách …

“Con Sáu” đang chèo nghe ngang nhà, và chắc chắn không biết đang bị Út Em “đấu tố” nên còn ráng xề tới thiệt gần (chắc tại thấy khách lạ) cất tiếng chào mời:

– Ai chuối nướng hông?

Người phụ nữ còn rất trẻ nhưng đen đủi và gầy guộc như một con khô. Còn thằng bé thì tóc cháy nắng vàng hoe nhưng trông rõ có nét thông minh và lém lỉnh. Tôi không quen chụp ảnh nên lính quýnh một hồi mới mở được máy, và vì vụng về nên không thu được hình của cả hai mẹ con khi họ lướt qua.

– Chớ ba thằng nhỏ đâu anh Út?

Hai đứa đã khổ quá mà con này nó có cái tật hay nhằn nên thằng kia bỏ lên Nam Vang rồi. Nghe đâu đi phụ hồ nhưng bữa có việc, bữa không, không có tiền gửi về cho vợ nuôi con nên tui sợ nó trốn luôn quá. Nó với tui cũng có bà con xa nhưng mình lo thân còn chưa xong làm sao hụ hợ gì cho ai được.

– Anh Út ở đây bao lâu rồi vậy?

– Tui sinh ngay tại đây chớ đâu – giọng Út Em chợt có vẻ phẫn uất như thể tôi vừa mới chạm đến một vết thương (lòng) nào đó – hồi trào Lon Nol sợ bị nó “cáp duồn” nên tui chạy về bển. Tới chừng thấy êm êm vừa quay trở lại ở chưa ấm chỗ thì tiếp tới trào Khmer Rouge nên chạy thêm lần nữa, cứ chạy hoài thiếu điều muốn xút quần luôn.

Tất cả những người dân Việt sinh trưởng nơi đây thuộc thế hệ Út Em đều có có cái cái lý lịch (“chạy muốn xút quần luôn”) na ná như nhau cả. Họ sinh trưởng ở Cambodia, hốt hoảng bỏ về Việt Nam tị nạn (đôi lần) nhưng quê hương cũng không phải là nơi nương náu được nên rồi lại đành phải tiếp tục tha phương cầu thực.

Sau vài lần chạy qua/chạy về như vậy thì tài sản, đất đai, nhà cửa của đám Việt Kiều ở Miên đều mất ráo. Đến tấm giấy tuỳ thân để lận lưng (rồi) cũng mất luôn nên họ không còn gì để có thể chứng minh mình là ai nữa. Tình trạng vô tổ quốc của họ kéo dài từ đời mình … qua đến đời con cháu.

Út Em nói nghe như khóc:

– Ở đây thì tụi nó kêu mình là Duồn: “Tụi Duồn về quê mày hết đi.” Về tới bển thì họ kêu mình là Miên: “Đám Miên qua đây làm cái gì?” Riết rồi tui thiệt tình cũng không biết mình là cái giống gì nữa, anh Tư à.

Tôi ngồi chết trân, làm bộ ngó mông ra mặt sông đang loang loáng nắng, cứ như thể là mình không hề nghe gì về tình trạng không Miên/không Việt (“không biết mình là cái giống gì nữa”) của Út Em nhưng vẫn thấy mắt cay cay. Út Em ấm ức thêm:

– Đời tụi tui cam chịu như vậy thì đã đành rồi nhưng còn con cháu mình nữa chớ. Tui ước ao tụi nó đều được đi học. Học biết con số, biết cái chữ thì sẽ đỡ bị người ta ăn hiếp – đúng không, anh Tư?

– Dạ, đúng!

Tui lại nhiệt liệt tán thành “quan niệm và triết lý giáo dục” (vô cùng) khiêm tốn của Út Em, dù thâm tâm vẫn e ngại rằng niềm “ước ao” này  – xem ra – vẫn còn hơi xa, so với những thực tế (não lòng) mà tôi đang nhìn thấy ở đất nước này, trong mấy tháng qua.

Nhà cầm quyền Phnom Penh và Hà Nội có rất nhiều điểm dị biệt trong đường lối, và chính sách điều hành quốc gia nhưng chắc chắn họ có điểm này chung: cả hai đều (nhất định) bỏ mặc, không ngó ngàng gì đến đám dân Việt trôi sông lạc chợ ở Cambodia.

Thứ trưởng ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn đã từng mạnh miệng tuyên bố “sẽ không để vùng trống, vùng trắng trong công tác kiều bào.” Lẽ ra, ngài nên nói thêm rằng: “Trừ đám kiều bào ở Miên thì khỏi.”  N.Q 36 chắc cũng có một điều khoản bất thành văn, và chỉ được hiểu ngầm là: “Không tiền, không kiều hối gửi về quê mẹ thì khúc ruột gần/xa gì cũng đều là ruột thừa ráo nạo.”

– Anh Út còn ai ở VN không?

– Còn bà dì, em má, ở Trà Vinh nhưng già lắm nên chắc bả cũng chết luôn gồi.

– Bộ không liên lạc gì hết trơn sao?

– Liên lạc cách nào, Trời?

Thay vì rượu vào lời ra, tuy chúng tôi vẫn uống tì tì nhưng chuyện trò – rõ ràng – mỗi lúc lại một thêm buồn bã và bế tắc. Tôi rụt rè gợi ý:

– Anh Út chống ghe cho tui trở lại trường học Nghe nói buổi chiều dậy tiếng Việt nên tui muốn ngó qua mấy cái lớp học này coi sao?

– Ở đâu mà ra tới mấy lớp?

– Có cả trăm em học sinh lận mà.

Nhưng mà có một cô giáo tiếng Việt hà, nên dồn hết vô một lớp luôn.

– Ý Trời, đông quá ai mà dậy nổi? Sao không mướn thêm thầy cô?

– Ngoài cái cô này ra, cả xã có ai biết chữ đâu mà đòi làm thầy giáo hay cô giáo. Cổ ở Việt Nam mới qua đó.

Út Em nói không sai. Tôi gặp cô giáo VN rồi mới biết đây một cành lan hiếm hoi và quí giá của cái xã này, hay (dám) của cả tỉnh Kampong Chhnang luôn nữa.

– Cháu tên là Bạch Lan, quê ở Sóc Trăng. Cháu theo chồng qua đây …

– Làm sao cháu dậy được cả trăm em học trò.

– Dạ thì cháu cũng phải “ráng” thôi. Cái khó là các em học mấy trình độ khác nhau. Lớp một nhỏ thì mới học a,b,c. Lớp một lớn thì đọc chạy mặt chữ rồi. Lớp hai thì tập viết, và bắt đầu tập làm toán cộng trừ …Bị không có sách giáo khoa, cái gì cũng phải viết lên bảng nên mất thì giờ, và dậy chậm rì hà…

– Lương lãnh đủ sống không cháu?

– Dạ, hơn trăm đô. Chồng cháu cũng đi làm nên “ráng” thì cũng được nhưng hổng biết là sẽ được bao lâu nữa?

– Ủa, sao vậy?

Nghe nói là hội chỉ đủ tiền trả cho tới cuối năm thôi. Qua Tết mình thì chưa biết vì còn phải chờ ngân quỹ.

Tôi quay qua hỏi một nhân viên MIRO (Minority Rights Organization) người Khmer đứng cạnh:

– Tổ chức của ông có tiếp tục tài trợ cho trường không?

Thằng chả nhún vai, cứ y như là Tây vậy:

– Tụi tao là N.G.O (non governmental organization) chớ có phải là chính phủ Cambodia đâu mà có tiền để trả ai hoài hoài được. Nếu vẫn nhận được tiền từ Vidan Foundation thì “project” này vẫn tiếp tục chớ, còn không thì phải ngưng thôi.

Đúng lúc, tôi thấy anh Nguyễn Công Bằng, đại diện Hội Thiện Nguyện Vì Dân (trụ sở ở Houston, TX) đang sớ rớ gần bên nên hỏi tiếp:

– Sang năm hội còn tài trợ cho ngôi trường ở làng Kandal không anh?

– Hy vọng là còn, tụi tui đang “ráng”…

– Xin lỗi, anh nói “đang ráng” là “đang” làm sao?

–  Dạ thì “ráng” tiếp tục kêu gọi sự tiếp tay của đồng bào mình khắp nơi coi bà con ủng hộ ra sao. Có đủ tiền thì mới dám ký contract cho MIRO dạy tiếp, chớ đâu làm sao khác được…

Chiều vẫn rơi mênh mông trên sông, khiến tôi thốt nhớ đến bản nhạc Chiều Về Trên Sông của Phạm Duy:

Chiều buông trên giòng sông Cửu Long
Như một cơn ước mong, ơi chiều
Về đâu ơi hàng cây gỗ rong
Nghiêng mình trên sóng sông yêu kiều

Thấy tôi có vẻ trầm tư, Út Em nhắc nhỏ:

– Thôi mấy anh chuẩn bị trở lại thành phố đi. Ban đêm ngủ lại không tiện đâu. Nói nào ngay thì ở đây cũng không được an ninh gì cho lắm.

Nghe tới chuyện “không được an ninh” là tui lật đật nhẩy xuống ghe liền. Út Em ái ngại nhìn theo, ngập ngừng (chút xíu) rồi nói với:

– Bữa nào ghé nhậu nữa không, anh Tư?

– Ờ, thế nào tui cũng… “ráng” mà!

Thì cũng nói đại như vậy cho qua chuyện, chớ cái trường làng Kandal này mà đóng cửa luôn thì tui mặt mũi nào mà gặp lại Út Em cho được. Đ…mẹ, sao tui già đầu rồi mà vẫn cứ hay vướng vào nhiều chuyện lôi thôi (dữ) vậy Trời!

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Án oan

Báo Đàn Chim Việt

Tác GiảTưởng Năng Tiến

06/08/2023

Nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh hớn hở gửi đến cho độc giả một tin vui (lớn) từ quê hương, bản quán của ông :

“Đà Nẵng vừa tổ chức Lễ Khánh Thành Nhà Giam Quận Hải Châu, vào ngày 4 tháng 10 vừa qua… Phát biểu tại buổi lễ, Đại tá Lê Quốc Dân – Phó Giám Đốc Công An Thành Phố cho biết, đây là công trình có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và công tác đảm bảo ANTT.”

Lực lượng công an Đà Nẵng (nói riêng) và giới công nhân viên Việt Nam (nói chung) rất ưa đình đám & lễ lạt:

  • Lễ Đón Nhận Danh Hiệu Anh Hùng
  • Lễ Đón Nhận Danh Hiệu Đoạt Chuẩn Quốc Gia
  • Lễ Trao Tặng Vinh Dự Nhà Nước
  • Lễ Trao Tặng Dụng Cụ Cho Học Sinh Nghèo
  • Lễ Trao Tặng Huy Hiệu Đảng
  • Lễ Đón Nhận Bằng Khen
  • Lễ Tôn Vinh Doanh Nghiệp Xuất Sắc & Doanh Nhân Tiêu Biểu
  • Lễ Tôn Vinh Thương Hiệu Phát Triển Bền Vững
  • Lễ Tiếp Nhận Cán Bộ Chuyên Trách Về Công Tác
  • Lễ Tiếp Nhận Thiết Bị Phòng Thí Nghiệm
  • Lễ Vinh Danh Các Doanh Nghiệp Du Lịch Hàng Đầu
  • Lễ Vinh Danh Báo Cáo Thường Niên Tốt

Cách đây chưa lâu, L.S Lê Công Định còn cho biết thêm một thứ nghi lễ nữa, chưa từng có trong lịch sử : Lễ Trao Giấy Chứng Nhận Chấp Hành Xong Án Phạt Quản Chế.

Thiệt là quá đã và … quá đáng!

Thảo nào xứ sở lúc nào cũng vui như Tết và nơi nao cũng lễ lạt, tiệc tùng, chè chén tùm lum… Chả phải vô cớ mà ông Nguyễn Xuân Phúc đã mạnh miệng tuyên bố một câu chắc nịch : “Việt Nam tuy là nước có thu nhập thấp nhưng có chỉ số hạnh phúc cao thứ 5 thế giới.”

Nói vậy là còn khiêm tốn. Thiệt ra “chỉ số hạnh phúc’ của dân Việt nếu không nhất thì (giá chót) cũng phải nhì, chớ không thể thấp hơn vì họ rất dễ vui và thường xuyên hạnh phúc – nếu cứ theo như ngôn từ của giới truyền thông ở xứ sở này.

Hồi anh em ông Đoàn Văn Vươn, Đoàn Văn Quí mãn án tù, vào năm 2015, tất cả báo chí quốc doanh đều hớn hở loan tin :

–  Pháp Luật: “Gia đình vỡ òa trong niềm vui khi nghe tin chính thức anh em ông Đoàn Văn Vươn được đặc xá trong đợt 2-9.”

–  Tuổi Trẻ : “Niềm vui vỡ òa của người thân khi hai anh em ông Vươn bước ra khỏi cổng trại giam.”

–  Người Đưa Tin: “Gia Đình Đoàn Văn Vương Vỡ Oà Hạnh Phúc.”

–  Vietnamnet: “Chị Nguyễn Thị Thương, Nguyễn Thị Hiền, vợ của anh Đoàn Văn Vươn, Đoàn Văn Qúi mấy ngày gần đây đang lâng lâng trong niềm hạnh phúc.”

Coi: khi khổng khi không thì đất đai bị cưỡng chế, nhà cửa bị san bằng, thân mình bị giam cầm rồi (cái) chồng “vỡ oà niềm vui” và vợ thì “lâng lâng hạnh phúc” chỉ vì … mãn hạn tù. Niềm vui và hạnh phúc ở đâu (ra) mà dễ ẹc và lãng xẹt vậy – mấy cha?

Gia đình hai ông Đoàn Văn Vươn và Đoàn Văn Quí tuy thế, vẫn chưa vui sướng và hạnh phúc bằng gia đình của ông Trần Bê. Báo Khánh Hoà đã hân hoan cho biết:

Tại UBND phường Ninh Giang (thị xã Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà), ông Trần Đình Hồng – Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh, đại diện cho cơ quan này, đã công khai xin lỗi, phục hồi danh dự cho ông Trần Bê (sinh năm 1957, trú Ninh Giang, Ninh Hoà, Khánh Hoà), người bị tạm giam oan về tội giết người cách đây 38 năm. Chứng kiến buổi xin lỗi có lãnh đạo cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh, đại diện UBND phường và người dân phường Ninh Giang.

Ông Hồng nêu, thời điểm đó, việc khởi tố, phê chuẩn bắt tạm giam đối với ông Bê là oan sai. VKSND tỉnh xin lỗi ông Bê và gia đình vì những oan sai mà VKSND tỉnh Phú Khánh gây ra. Ông Bê chấp nhận lời xin lỗi và yêu cầu bồi thường thiệt hại về tinh thần, vật chất mà ông phải gánh chịu suốt 38 năm qua. Tuy nhiên, ông Hồng cho biết, theo Luật Bồi thường nhà nước năm 2009, đã hết thời hiệu xem xét xin lỗi, cải chính công khai đối với ông nên VKSND tỉnh Khánh Hòa không thực hiện được.

Cứ theo hình chụp thì vợ chồng Trần Bê, ngó bộ, không được vui vẻ hay hạnh phúc gì cho lắm. Vui gì nổi, hả Trời? Ông Bê vào tù khi vợ chồng đang ở lứa tuổi đôi mươi, và được minh oan khi đã ngoại lục tuần, chỉ với một lời xin lỗi suông và hai bó hoa thôi, chứ không một cắc đền bù vì vụ án “đã quá thời hiệu theo luật bồi thường!”

Luật cái mả cha, định cái mả mẹ chúng mày gì mà đốn mạt đến thế? Cả một tập đoàn truyền thông cũng không đứa nào thử đặt ra một câu hỏi nhỏ : “Hai nạn nhân khốn khổ, khốn nạn của cái ngành tư pháp này sẽ sinh sống cách nào cho hết quãng đời (tàn) còn lại?” Bán vé số hay đi ăn mày?  Dù cách nào thì họ vẫn cứ được đám ký giả (hay kỹ giả – whorespondent) mô tả là những công dân hạnh phúc, loại hạnh phúc ma dzê in Việt Nam.

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Thằng khốn nạn

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

31/07/2023

Bởi tính hà tiện (và cũng vì thói quen luôn thức sớm) tôi hay rời Bangkok lúc trời còn tối, và đến Phnom Penh khi vừa sáng bạch. Chuyến bay đầu ngày bao giờ cũng rẻ, ít ra thì cũng rẻ hơn được năm/bẩy Mỹ Kim. Đỡ được đồng nào hay đồng đó.

Phi đạo vắng ngắt nhưng phi trường thì ồn ào hơn thường lệ vì có nguyên cả một đoàn du khách Trung Hoa (gần cả trăm người) đang lào xào trò chuyện hơi lớn tiếng. Tôi gặp họ hoài, ở khắp mọi nơi, nghe riết cũng quen nên không có gì để phàn nàn cả. Hơn nữa – tự thâm tâm – tôi tận tình chia sẻ với nỗi “hạnh phúc vỡ oà thành tiếng” của hằng tỉ con người (vừa được xổ lồng) sau hơn nửa thế kỷ bị giam cầm, trong bức màn sắt

Khác với Lào hay Thái, tuk tuk ở xứ Cao Miên nhiều quá – tá lả khắp nơi – nên tiếng mời chào (khẩn thiết) nghe mà thương cảm. Tôi phóc đại lên cái xe gần nhất, nói nhỏ:

  • River side! Ra mé sông!

Gọn ghẽ vậy thôi nhưng cũng đủ cho chú em tài xế biết rằng tuy khách hàng bộ dạng hơi lớ ngớ nhưng là dân bụi đời chuyên nghiệp, khỏi cần phải ra giá (hay mặc cả) lôi thôi. Ngoài Việt Nam và California ra, Phnom Penh – có lẽ – là nơi tôi chôn chân lâu nhất, đủ lâu để biết về phố xá (gần) như dân bản xứ.

Nam Vang đi dễ khó về

Trai đi có vợ, gái về có con

Tui đã quá cái tuổi vợ con từ lâu lắm rồi nhưng vẫn lui/tới đây hoài hoài vì người Việt của mình ở đây đông quá, và khổ lắm. Nước sạch nhiều người cũng không có mà uống nữa, chớ đừng nói chi đến chuyện xa xôi như ăn chơi hay ăn học. Đến với họ, đôi lúc, cho nó có cái tình – tình đồng bào – chớ tôi đã ớn thức ăn của Miên (cũng như của Lào và của Thái) tới tận ngón chân út luôn rồi!

Tuy hơi mất công (chút xíu) nhưng tôi buộc phải tìm cho ra thức ăn Việt Nam, bằng mọi cách và mọi giá. Trên đường Preah Sisovath, dọc bờ sông, tiệm Chiang Mai Riverside có món Vietnamese Sour Soup (bảo đảm là không dở) dù cả chủ nhân lẫn đầu bếp đều không phải là người Việt. Tuy còn hơi sớm, tôi vẫn gọi một tô canh chua cá (sao tui không ưa canh chua tôm nha) với lời căn dặn “cho nhiều rau ngổ, càng nhiều càng tốt.”  Thực đơn chiều tui cũng tính luôn rồi: cá rô kho tộ của Ngon Restaurant (trên đại lộ Sihanouk Boulevard) tiêu rắc lấm chấm như mè, cay suýt xoa, thơm đậm đà, và ngon thấm thía.

Sáng thì tôi có chuyện phải vô làng nổi Kampong Luong, nằm cuối Biển Hồ, thuộc tỉnh Pursat. Từ Phnom Penh đến đây chỉ cỡ chừng 150KM nhưng dám có tới cả trăm bức hình của Hun Sen: khi ngồi, lúc đứng. Xen giữa là những bảng hiệu của Cambodian People’s Party (Đảng Nhân Dân Cam Bốt) với ảnh phóng lớn của đảng phó, và đảng trưởng. Lại cũng chính là cái bản mặt của thằng chả luôn, chớ còn ai vô đó nữa!

Không thấy vua cha Norodom Sihanouk, hoàng hậu Norodom Monineath hay vua con Norodom Sihamoni đâu ráo trọi. Trên thế giới này – có lẽ – chưa bao giờ, và không nơi đâu, có một quốc gia theo chế độ quân chủ lập hiến nào khác mà hoàng gia lại mờ nhạt (và thủ tướng lộng hành) như thế cả.

Hồi đầu năm ngoái, ở những tỉnh lỵ heo hút – lâu lâu – tôi còn thấy lưa thưa vài tấm bảng trưng Cambodia National Rescue Party. Nay thì hết nhẵn, cái đảng này đã bị Hun Sen “giải thể” hồi tháng 11 năm ngoái. Tờ Cambodia Daily cũng vậy, cũng bị đánh (thuế) cho “sụp tiệm luôn rồi. Phnom Penh Post thì đã sang tay qua một ông chủ mới (nghe đâu) cũng là chỗ quen biết, và thân thiết, với Hun Sen.

Thiệt là quá đáng nhưng … chưa hết!

Tất cả 125 dân biểu quốc hội đều là người của Đảng Nhân Dân Cam Bốt, 58 trong số 62 thượng nghị sỹ cũng vậy, cũng đều nằm trong túi áo của Hun Sen ráo trọi. Còn chính Hun Sen thì đã chui gọn trong túi quần của Tập Cận Bình.

Coi như là tiêu tan một giấc mơ dân chủ!

Nguyễn Quốc Tấn Trung, bỉnh bút của tạp chí Luật Khoa, nhận xét:

“Nhiều người cho rằng, Cambodia đã đi trước Việt Nam một bậc về mặt dân chủ, rằng xã hội dân sự đã nở hoa, rằng quốc gia này sẽ là người tiên phong của vùng Đông Dương về tự do, dân chủ và sự phát triển kinh tế – kinh trị. Vài năm sau, chúng ta bắt đầu khóc than về một nền dân chủ kiệt sức và hấp hối.”

Tới bữa nay thì, cái “nền dân chủ” này đã chết (“ngắc”) rồi, tôi thầm nghĩ vậy khi đi tà tà ngang qua Court of Appeal Office of the Prosecutor General – nằm cạnh bờ sông Tonle Sap. Mới chừng mươi năm trước (chính xác là ngày 10 tháng 12 năm 2014, Ngày Quốc Tế Nhân Quyền) tôi chứng kiến cả chục ngàn người dân Cam Bốt – sau khi tuần hành – đã tụ tập nơi đây để đòi hỏi chính quyền phải phóng thích những tù nhân lương tâm của xứ sở họ.

Cũng chính tôi –  ngay chiều hôm đó – đã vui sướng viết bài tường thuật (“Dư Âm Của Một Ngày Lễ Lớn”) cho RFA, với những lời có cánh: “Ai mà dè cái xứ Chùa Tháp này lại đàng hoàng và văn minh dữ dội vậy, Trời?”

 Những ngày vui, cũng như niềm vui, thường ngắn. Riêng nỗi hân hoan vui mừng mà tôi dành cho nước Cambodia e hơi quá ngắn. Tôi cay đắng (nghĩ thêm) như thế, sau khi đọc xong bài báo (“Thái Lan Hành Trình Dân Chủ Gập Ghềnh”) của L.S Nguyễn Văn Thân.

Tuy gập ghềnh và với nhiều sóng gió nhưng nước Thái Lan vẫn kiên tâm đi tới. Còn Hun Sen thì dẫn đất nước Cambodia bước lùi, theo lộ trình chuyên chế, cùng với Trung Hoa Lục Địa của Tập Cận Bình.

Nguyễn Quốc Tấn Trung, tác giả bài báo “Nền Dân Chủ Cambodia Hấp Hối” còn viết thêm: “Bắt đầu những năm 2010, Trung Quốc trỗi dậy như một thế lực có tầm ảnh hưởng quốc tế, và Cambodia trở thành một trong những ‘chư hầu’ nhận viện trợ đều đặn từ Bắc Kinh. Giới lãnh đạo Cambodia dần được tháo bỏ xiềng xích phương Tây, và trở mặt.”

Đoạn văn thượng dẫn khiến tôi chợt nhớ đến bức thư của Thủ Tướng Sirik Matak, gửi đại sứ Hoa Kỳ John Gunther Dean, hồi cuối thế kỷ trước:

Nam Vang, ngày 16 tháng 4, năm 1975.

Thưa Quý Ngài và Ông Bạn,

Tôi thành thật cảm tạ ngài đã viết thư và còn đề nghị giúp tôi phương tiện đi tìm tự do. Than ôi! Tôi không thể bỏ đi một cách hèn hạ như vậy! Đối với Ngài và nhất là đối với xứ sở vĩ đại của Ngài, không bao giờ tôi lại có thể tin rằng quý vị đã nhẫn tâm bỏ rơi một dân tộc đã lựa chọn tự do. Quý vị từ chối bảo vệ chúng tôi và chúng tôi chẳng thể làm được gì hết. Ngài ra đi, tôi cầu chúc Ngài và xứ sở của Ngài được hạnh phúc dưới bầu trời này. Nhưng xin Ngài nhớ cho rằng nếu tôi phải chết ngay đây và trên đất nước tôi yêu dấu thì tuy đó là điều đáng tiếc, nhưng tất cả chúng ta đều sinh ra và cũng sẽ chết vào một ngày nào đó. Tôi chỉ ân hận một điều là đã lỡ lầm đặt niềm tin quá lớn ở nơi quý vị, những người bạn Hoa Kỳ!

Thành tín,

Sirik Matak

Bằng vào kinh nghiệm máu xương của người tiền nhiệm thì Hun Sen có thể “trở mặt” với cứ phương nào (bất kể Đông/Tây) khi cần, nếu vì quyền lợi của đất nước Cambodia. Đương sự, tiếc thay, lại “trở mặt” ngay với chính đồng bào và dân tộc của mình, chỉ để bảo vệ cho tài sản của gia đình và phe nhóm. Đó mới là chuyện đáng buồn, và đáng nói: thằng khốn nạn!

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Ăn cướp

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả:  Tưởng Năng Tiến

30/07/2023

Từ xứ Thái trở về, blogger Phạm Hồng Phong có mang theo một câu chuyện làm quà mà chỉ cần nghe qua cũng muốn ứa nước mắt:

Bay chuyến cuối cùng trong ngày, từ Don Muang về Tân Sơn Nhất. Gặp một nhóm hơn chục người đi tay không, quần áo nhàu nhĩ áo phông trắng thì thành cháo lòng, áo màu thì cáu bẩn, người đi tông, người đi chân đất, ồn ào, nhốn nháo lên máy bay tìm ghế ngồi. Tất cả đều rất trẻ, tuổi từ 20, đến 31.

Khá ngạc nhiên, hỏi ra mới biết anh em ngư dân Sông Đốc – Cà Mau bị cảnh sát biển Thái Lan bắt khi đang câu mực ở Vịnh Thái Lan, tịch thu thuyền, tài sản, án tù 3 tháng. Gia đình vay tiền chạy chọt, ngồi tù được 55 ngày, hôm nay được thả về.
Cầm vé trên tay nhưng không biết ghế của mình chỗ nào. Mình cùng mấy cô tiếp viên Air Asia hướng dẫn từng chỗ ngồi vì anh em đều lần đầu bị đi bằng máy bay.

Ngồi hỏi chuyện và nghe kể mới biết sự cơ cực từ ngày bị bắt đến khi được tha. Để được thả, gia đình phải tự tìm cò, qua Thái, liên hệ Đại sứ quán VN ở Bangkok, xuống Songkhla gặp cảnh sát, cai tù…Rổ giá để được tự do:

  • Thuyền viên 12 -20 triệu/người
  • Tài công 80 -120 triệu/người tùy tội nặng nhẹ, tùy hứng của cò và cảnh sát.

Tiền vé máy bay riêng, nghe anh em nói là mỗi người 8 triệu nộp cho đại sứ quán mua và làm thủ tục cho cả nhóm, ngồi xe tù, cảnh sát chở tuột ra sân bay, gọi tên từng thằng phát cho cuống vé. (Giá bình thường mua cận ngày thì tối đa cũng chỉ 150$~ 3 triệu ông cụ). Mình bảo anh em, có thể do tiền cò, lệ phí giấy thông hành ĐSQ cấp và xăng xe tù, xe áp tải của cảnh sát Thái nên mới hết 8 triệu, chứ vé mình mua trước đây 5 ngày có 1800 Bath ~ 1,2 triệu…

Câu chuyện làm quà của Phạm Hồng Phong khiến tôi nhớ đến bài viết (“Tình Đồng Hương Của Dũng Việt Nam”) của phóng viên Đình Dân, trên Tuổi Trẻ Online:

Ở Philippines ngư dân ta đi biển gặp nạn được Dũng giúp đỡ rất nhiều’, ‘Không chỉ những người Việt đi biển gặp nạn ở Philippines biết tới Dũng, mà thậm chí nhiều thân nhân của họ đang sống ở quê cũng lưu trong điện thoại cầm tay cái tên Dũng Việt Nam’…

Đó là những thông tin mà tôi nghe được từ nhiều người dân ở đảo Phú Quý. Và tôi đã có cơ hội gặp gỡ ‘Dũng Việt Nam’ nhân chuyến đi Philippines viết về vụ 122 ngư dân bị giam giữ tại đây…”

“Chiều 23-8, trời Palawan vẫn mưa suốt. Sáng mai là ngày diễn ra phiên tòa xét xử 122 ngư dân nên chiều hôm đó những người từ Việt Nam qua ai cũng bận rộn lo giấy tờ, thủ tục chuẩn bị hầu tòa. Anh Dũng cũng cuống cuồng vừa chạy xe vừa điện thoại liên tục để hẹn các luật sư ở Philippines nhằm thiết kế các buổi gặp gỡ với các luật sư từ Việt Nam qua.

Vừa gặp luật sư xong, anh Dũng lại cùng anh Thoại – chủ DNTN Long Hải Long – vào nhà tù để mang thuốc tây và một ít tiền bà con ở đảo Phú Quý gửi cho người nhà của họ trong trại giam. Mưa to ướt hết áo, anh Dũng phải mượn áo một thuyền trưởng mặc vào để chạy tiếp…

 Ngày diễn ra phiên điều trần, từ sáng sớm anh Dũng đã ngồi trong chiếc xe ba bánh chờ dưới đường. Anh bảo chờ đi cùng 115 ngư dân từ nhà tù ra tòa án. Nhìn những ánh mắt âu lo qua song sắt của chiếc xe màu vàng bóp chặt khóa, anh Dũng ngậm ngùi: ‘Đồng hương mình cả. Mà toàn là ngư dân chân chất. Vợ con họ ở nhà mà thấy hình ảnh này chắc không cầm lòng được…’

Một số ngư dân ở Quảng Ngãi và Bình Thuận kể rằng từ năm 2004 đến nay, anh Dũng đã giúp đỡ khoảng 30 nhóm ngư dân Việt Nam bị mắc nạn và trôi dạt vào vùng biển của nước bạn…  Anh Dũng nói có một câu chuyện mà anh sẽ chẳng bao giờ quên.

Đó là vào đầu tháng 8 vừa rồi. ‘Hôm đó đã 22g đêm. Trời mưa to gió lớn. Tôi đang cho mấy đứa con đi ngủ thì nhận được điện thoại từ Việt Nam. Người đầu dây là anh Sơn – một chủ ghe ở tỉnh Quảng Ngãi: Dũng ơi, làm ơn cứu nạn cứu khổ giùm.

12 ngư dân của tôi đang đánh bắt ở vùng biển nước mình thì bị bão đánh chìm ghe. Họ điện về nói đã trôi dạt mấy ngày nay theo hướng nam về vùng biển Philippines. Họ đang cố đu bám vào thuyền thúng trôi dạt giữa biển. Anh nhờ người ở đó cứu giùm, không để đến sáng mai lạnh quá họ chết hết. Ngay trong đêm, bằng tất cả mọi mối quen biết, anh Dũng xác định lại chính xác tọa độ nơi 12 ngư dân bị nạn rồi lập tức cầu cứu hải quân Philippines…

Ủa, cái ông Dũng này là ai mà sao rảnh rỗi và “bao la” dữ vậy cà? Xin hãy nán đọc thêm một đoạn ngắn nữa, về người đàn ông Việt Nam vô cùng nhân ái và tháo vát này:

Một lần khi anh Dũng đang mải miết phiên dịch cho các ngư dân ở tòa án đến nỗi quên đi đón vợ, thế là vợ anh tự thuê xe chở cả bao dép bán dở đến tòa án tỉnh để tìm. Lúc này tôi mới biết người đàn ông thông thạo ba thứ tiếng Việt, Anh, Philippines này là một người bán giày dép trên hè phố…

Coi: một người dân Việt lam lũ, vợ dại con thơ, đang lưu lạc nơi đất lạ xứ người mà chăm lo cho những đồng hương của mình từ A tới Z (cung cấp toạ độ nơi ngư dân bị bão đánh chìm thuyền cho hải quân Phi, tham vấn với luật sư bản sứ, làm cầu nối giữa những ngư dân bị nạn và chính quyền địa phương, vào tù thăm non tiếp tế cho đồng bào đang bị giam dữ, rồi cùng đi với họ ra toà …) như vậy thì các Toà Tổng Lãnh Sự và Đại Sứ Quán VN làm gì ?

Làm… tiền!

Chớ họ còn có lựa chọn nào khác nữa đâu, theo như nhận xét của blogger Hương Vũ: “Sống và làm việc cách công chính như nhân viên sứ quán các nước khác, nhân viên sứ quán VN chỉ còn cách cắn dép gặm không khí qua ngày.”

Có thực mới vực được đạo chớ, “phong cách và đạo đức cách mạng” mà. Đại Sứ Trần Việt Thái đã “khai” như thế, trước tòa, vào hôm 12/07 vừa qua: “Việc chi bồi dưỡng cho cán bộ Đại sứ quán là việc phổ biến ở Malaysia, nếu không chi thì không huy động được người đi làm việc.”

Ở đâu mà không vậy, chớ có riêng chi cái đám cán bộ ngoại giao ở Mã Lai. Không cho ăn thì ai mà làm. Vấn đề chỉ là các vị quan sứ ăn quá bẩn (và quá dầy) nên mắc nghẹn thôi:

Tưởng là nhiều lắm chớ chỉ có mười một tỷ thì nào có là bao, và đây chỉ là cơ hội ngàn năm một thuở của các ông bà quan sứ ở nước ngoài thôi. Ở một xứ sở mà “một quả trứng chịu 14 loại phí, một con lợn cõng 51 thuế phí” thì dân làng Ba Đình đã ăn bao nhiêu tỷ bạc mỗi ngày, và ăn ròng rã như thế từ bao thập niên qua ?

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Thái Lan

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

27/07/2023

Đôi khi, tôi cảm thấy hơi buồn rầu (cùng với đôi chút tủi thân) khi chợt nhớ ra rằng mình chưa bao giờ có dịp được đi khắp hết quê hương. Tôi chưa được đặt chân đến cố đô Huế hay thủ đô Hà Nội một lần nào cả.

Thế mà những nước láng giềng kề cận thì tôi lại lui tới đều đều. Tôi đã ngược xuôi nước Lào, nước Miên, nước Miến năm bẩy lượt. Tôi đâm ngang đâm dọc nước Thái (chắc) đâu cũng cỡ chừng chục bận rồi.

Ở Thái Lan, dù bạn quay bên trái hay bên phải (nhìn tới hay nhìn lui) cũng đều thấy chân dung đức vua Bhumibol Adulyadej – Rama IX – không sót một góc nào. Ngài có mặt mọi nơi, khắp các nẻo đường, trong tất cả những công trình kiến trúc (bất kể công tư) và trên tường nhà của thần dân (bất kể sang/hèn) dù đã băng hà.

Sau đó, sau một khoảng lặng khá dài, thiên hạ mới bắt đầu nhìn thấy ảnh của vị vua thừa kế (Thái Tử Vajiralongkorn – Rama X) ở những nơi công cộng. Tuy đăng quang khi đã ngoại lục tuần, ông vẫn không xuất hiện một mình mà có cả hình vua cha và mẫu hậu Sirikit cạnh bên.

Người biết chuyện của vương triều Chakri đều hiểu rằng tuy Rama X kế vị là chuyện tất nhiên nhưng vì ông là một playboy (với rất nhiều tai tiếng) nên ở ngôi thiên tử khó tránh được điều tiếng xầm xì. Bởi thế, Vajiralongkorn cần phải có song thân phụ mẫu cận kề cho bớt (chút) … eo sèo nhân thế!

Ngoài giai cấp tăng lữ, chế độ quân phiệt Thái còn cần phải có giới quí tộc làm liên minh chính thống, với một đấng quân vương – nhân từ khả kính – để an dân và để hòa giải những xung đột (thường xuyên) giữa đám tướng lãnh của xứ sở này. So với tiên vương, Rama X kém cả tài lẫn đức quá xa (hay nói chính xác hơn là vô tài bất đức) nên xã hội lâm vào cảnh bất an – như hiện cảnh – không phải là chuyện lạ :

  • RFA: Cảnh sát Thái Lan giải tán hàng chục ngàn người biểu tình ôn hòa
  • VOA: Thái Lan ban bố tình trạng khẩn cấp sau cuộc biểu tình chưa từng có
  • RFI: Hai phe chống chính quyền và phe bảo hoàng cùng biểu tình ở Bangkok
  • BBC: Hàng ngàn người biểu tình ở Bangkok đòi cải tổ chính trị.

Từ VN, bỉnh bút Du Uyên (Tuần Báo Trẻ – Dallas) có đôi ba nhận xét khá thú vị về sự kiện này :

Rất nhiều người Việt quan tâm đến một cuộc thi nhan sắc ở đất nước Thái Lan – Miss Grand Thailand… Lý do khiến cuộc thi này nhận được nhiều sự quan tâm từ dư luận Việt là vì những sự ‘ngược đời’.

Thứ nhất, ở vòng chung kết cuộc thi này, ban tổ chức đặt ra một câu hỏi được xem là không tưởng với ‘truyền thống’ thi hoa hậu ở Việt Nam – Một câu hỏi vô cùng ‘nhạy cảm’, đầy ‘động cơ chính trị’:

“Bạn nghĩ gì về cuộc biểu tình đang diễn ra ở Bangkok?”

Những tưởng sẽ không người đẹp nào dám trả lời câu hỏi dễ gây ‘mích lòng’ này. Nhưng thí sinh Pacharaporn ‘Nam’ Chantarapadit (22 tuổi, đại diện thành phố Rayong) đã có câu trả lời đi ngược lại với ‘truyền thống’ thi hoa hậu của nước bạn – Việt Nam. 

 Vì cổ không nói: ‘Tôi chọn đứng về phía nhân dân. Nhưng nhân dân phải sống, làm việc theo hiến pháp và pháp luật, luôn luôn học tập theo gương nhà vua/triều đình Thái Lan vĩ đại.’ Hay ‘Bọn biểu tình là do thế lực kích động, thuê mướn.’ hoặc ‘Không thế lực nào có thể buộc tôi chọn bên’…

Mà cổ ‘dám’ trả lời:‘Từ đáy lòng mình, tôi chọn đứng về phía người biểu tình. Chúng tôi có quyền bày tỏ quan điểm cá nhân và chúng tôi muốn chọn những gì tốt nhất cho đất nước mình. Hơn thế nữa, tôi muốn nói với chính phủ. Nếu quý vị gọi đất nước này là Thái Lan thì chúng ta cần một nền dân chủ thực sự…

Và, bạn nghĩ xem, nếu là một hoa hậu (không ai đánh thuế ước mơ mà), bạn muốn làm hoa hậu ở đất nước ‘cộng hòa – xã hội – chủ nghĩa’ Việt Nam hay là hoa hậu ở đất nước có ‘nền dân chủ què quặt’, ‘bán độc tài’ Thái Lan hơn?

Hỏi gì mà lãng xẹt vậy Trời?

Ai thì cũng sẽ lựa chế độ bán độc tài hơn là cái thứ độc tài toàn trị chớ!

Tuy nhiên tưởng cũng cần phải nói thêm – cho hết lẽ – là sống ở VN khoẻ hơn ở Thái Lan nhiều, nếu chỉ xét về mặt ẩm thực. Thức ăn ở Thái chỉ có ưu điểm là an toàn – không bị nhiễm độc – và ăn thử chơi vài bữa thì cũng khá ngon, chớ ăn hoài (khao soi, green pap salad, tom yum, pad thai, tom kha …) là ớn thấy bà luôn.

Được cái là hệ thống Seven Eleven của Thái Lan vô cùng tiện lợi. Ở xứ sở này bạn nhìn đâu cũng thấy hình vua, và ngó đâu cũng thấy bảng hiệu của những tiệm bán lẻ tiện dụng này. Họ bán không thiếu một thứ gì (bia rượu đầy đủ cả) và đồ ăn liền thì vô cùng  phong phú, cho cả ba bữa: sáng, trưa, chiều tối.

Nếu so sánh thì 7/11 ở Singapore, Hong Kong, Manila, Jakarta, Kuala Lumpur Phnom Penh … (và ngay cả California nữa) đều thuộc vào hạng thứ. Đặc biệt nhất là cách phục vụ của những nhân viên bán hàng của hệ thống Seven Eleven ở Thái Lan. Trăm tiệm như một. Nơi đâu cũng bầy tỏ sự hiếu khách bằng những câu chào mời nồng nhiệt.

Nếu bạn là loại du khách có rất ít tiền nhưng muốn ở chơi tại Thái lâu thì chỉ nên ăn ở hàng quán mỗi ngày một bữa thôi. Bữa còn lại cứ vào 7/11 là hay nhất. Tiện lợi, nhanh chóng, giá cả nhẹ nhàng, và có thể đổi khẩu vị đều đều cho đỡ ngán: Italian Spagetti, Cantonese Dumpling, Brazilian Pizza, Hong Kong Congee, Korean Pork and Rice Porridge, Szechuan Noodles With Spicy Beef Sauce, Indian Green Chicken Curry With Coconut Milk, Crab Fried Rice Thai Style… Cơm trắng cá nục kho nước mắm (theo kiểu Việt Nam) cũng có luôn, chỉ thiếu vài trái ớt chỉ thiên để xuýt xoa cho nó đã thôi.

Tất cả – tất nhiên – đều đông lạnh và cần phải hâm lại nhưng nhân viên không bao giờ lấy đó làm phiền. Họ cũng chả bao giờ quên cho muỗng nĩa nhựa kèm theo, cùng với một lời cảm ơn, và nụ cười thân thiện. Thái độ tận tình và vui vẻ của họ luôn khiến tôi có đôi chút băn khoăn: phải chăng nền văn hóa khiêm cung và nhân bản của Thái Lan đã tạo ra được một thế hệ trẻ lành mạnh và có thể cậy trông như thế?

Bạn cứ nhìn chim trời cá nước (bay rợp những cánh đồng lúa chín, hay chen chúc lúc nhúc khắp nẻo sông hồ) nơi đất Thái rồi nhìn cung cách hoà nhã của những nhân viên trong hệ thống 7/11, ở khắp xứ sở này, để có thể đoán biết được rằng đất nước của họ vẫn còn có ngày mai – dù đang bị áp chế bởi một chế độ bán độc tài:

Thông tín viên Hoài Hương (VOA) cho biết thêm chi tiết :

“Cuộc biểu tình do nhiều nhóm sinh viên học sinh lãnh đạo hôm Chủ nhật 16/8, thu hút ước lượng 10.000 người, đám đông hô to ‘đả đảo nhà nước độc tài’, đòi Thủ Tướng Prayuth Chan-ocha từ chức, chấm dứt các hành động sách nhiễu và sửa đổi hiến pháp.”

Ở nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thì giới sinh viên, tất nhiên, không bao giờ hô to (“đả đảo nhà nước độc tài”) như thế. Hô nhỏ cũng hổng dám đâu. Nghe họ than thân mà muốn ứa nước mắt :

Thế hệ tôi, một thế hệ cúi đầu…

Bàn chân trần không dám bước hiên ngang

Thế hệ tôi , nhận quá nhiều những di sản hoang mang

Đâu là tự do, đâu là lý tưởng

Đâu là vì mình, và đâu là vì nước?

Quí ông Thủ Tướng ở Việt Nam khỏi cần “quan ngại” và “đối thoại” với bất cứ ai. Họ chỉ “đối thụi,” nếu cần. So sánh với cái nền dân chủ què quặt của Thái Lan để thấy cho rõ thế nào là một quốc gia Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc!

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến –  Ký sinh & tầm gửi

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Họa sỹ Lê Huy Cầm cho biết: “Vừa dứt xong cái tranh cho cựu sinh viên Đại Học Dalat sẽ đấu giá kiếm tiền cho sinh viên nghèo trong ngày họp mặt 20 năm.” Bên dưới thông tin này là lời nhắn của FB Hue Chau (“Nếu dành cho cựu SV ĐH Dalat pre 75 thì trên tháp chuông nhà Nguyện Năng Tĩnh kg phải là cái…ngôi sao – Lê Huy” và hồi đáp của tác giả: “Sinh viên ra trường năm 2000 nên vẽ như vậy.” )

Tôi rời Viện Đại Học Đà Lạt đã lâu, ngay sau Mùa Hè Đỏ Lửa, vào năm 1972. Gần nửa thế kỷ đã vụt đi với không biết bao nhiêu là nước suối, nuớc sông (cùng với nước mưa/nước mắt) đã ào ạt qua cầu và qua cống. Nhìn lại hình ảnh trường xưa không khỏi có thoáng chút bồi hồi, và cũng thấy có hơi hụt hẫng.

Tuy thế, tôi hoàn toàn đồng ý với lời giải thích thượng dẫn của tác giả bức tranh. Thấy sao thì vẽ vậy thôi. Mà sao vàng và cờ đỏ thì được “gắn” vào tất cả những công trình kiến trúc ở VN (trường học Yersin, nhà ga Đà Lạt, bưu điện Sài Gòn, Toà Đô Chính, Dinh Gia Long, Dinh Độc Lập …) chớ có sót chỗ nào đâu.

Ngó riết rồi cũng quen mắt thôi mà!

Chỉ riêng có “chỗ” này thì phải công nhận là nhìn hơi quá chướng, theo nhận xét của một nhà văn miền Nam – lần đầu đặt chân đến Hà Nội – hồi năm 1989 :

“Ô nhưng cái gì thế kia? Trên đỉnh Tháp Rùa có một ngôi sao! Cái này ra ngoài dự kiến của tôi về cảnh trí ở đây. Tôi chợt hiểu và liên tưởng ngay đến các ngọn tháp chuông ở điện Cẩm Linh mà tôi thấy trên báo chí Liên Xô, trên mỗi tháp cũng có gắn một ngôi sao. Dấu hiệu của Cách Mạng.

Chỉ tiếc khi nhìn ngôi sao trên đỉnh tháp Rùa thì trí tưởng tượng của tôi về câu chuyện con rùa đòi thanh gươm của Lê Lợi không thể nào hoạt động được, nó tê cứng như con chuột bị con rắn thôi miên vậy.

Tôi tự hỏi có phải trong trường hợp nào cũng cần phải đem cái hiện tại đè lên trên cái cổ truyền như thế không. Thỏa mãn một nhu cầu nhất thời có khi lại làm hại một sự thành tựu đã lâu đời. Và nếu ‘ý chí’ muốn rằng cái nhất thời phải thành vĩnh viễn trong tương lai thì nên tạo ra một công trình mới, ở chỗ khác, chứ sao lại sống tầm gửi vào những gì đã thành lịch sử như thế.” (Phạm Xuân Đài. Hà Nội Trong Mắt Tôi. NXB Thế Kỷ: Westminster 1994).

Ah, thì ra thế! Thế ra là chủ trương “sống tầm gửi” có nguồn gốc tuốt bên Nga, quê hương cách mạng tháng mười, từ hồi đầu thế kỷ trước lận (và đã trở thành truyền thống chung của khối anh em vô sản trên toàn thế giới) chớ đâu có phải là chuyện tình cờ hay cá biệt! Tuy thế, khách quan mà nói, chính sách “tầm gửi” khi vào đến Việt Nam thì mới phát huy được thêm hai “mảng” mới tinh: đám thuyền nhân (boat people) và bọn công nhân xuất khẩu.

Những kẻ trôi sông lạc chợ này sinh sống gần như là một loài cá vậy, cá hồi. Họ được (hay bị) Đảng và Chính Phủ đẩy ra khỏi nước, tứ tán khắp nơi, tha phương cầu thực. Tất cả đều chăm chỉ cần mẫn mưu sinh, và cần kiệm từng đồng, để mỗi khi hồi hương thì có được một mớ đô la nặng túi. Đó là chưa kể số tiền gửi về hàng quí, hay hàng tháng, cứ như thể là đóng hụi (chết) vậy.

Theo tạp chí Thương Gia Online: “Việt Nam tiếp tục trong top 10 nước nhận kiều hối nhiều nhất thế giới. Kiều hối chuyển về năm nay ước đạt 16,7 tỷ USD … tăng nhẹ so với 16 tỷ USD của năm 2018.” Nếu không có những đồng tiền thấm đẫm mồ hôi (và nước mắt) của hàng triệu khúc ruột xa ngàn dặm thì cái  “chính phủ tầm gửi” hiện hành, chắc chắn, đã không thể nào tồn tại được tới ngày nay.

Trong cái đám dân bá vơ này (thảng hoặc) cũng có vài cá nhân nổi bật, được Nhà Nước VN đặc biệt quan tâm. Nghệ sỹ dương cầm Đặng Thái Sơn là một người như thế. Từ Nga, có lần, ông gửi thư về cho thân phụ (một nhân vật bất đồng chính kiến – nhà thơ Đặng Đình Hưng) với những dòng chữ nhạt nhoà nước mắt :

“Con bị ốm nặng bố ạ, có lẽ vì hành trình đi Vac-sa-va quá dài mà con đi bằng xe lửa. Sứ quán bác đơn xin tiền lộ phí của con để đi thi, họ cũng khước từ bảo hộ cho danh xưng của con trong cuộc thi. Nhưng con quyết định liều và giáo sư Na-ta-xon một lần nữa lại giúp con, ông ấy cho con tiền đi đường, tiền thuê dàn nhạc đệm và tiền trọ… Trong cơn sốt 39.5 độ, con đã chảy nước mắt ròng: Các nước tham dự cuộc thi đều được chào cờ và cử quốc ca của mình, mà Việt Nam thì không có – Con tham dự với tư cách thí sinh tự do… Nhưng cũng nhờ sự cay đắng đó mà con gặp đươc Chopin – Những nỗi đau giao thoa với nhau đã bật lên tiếng đàn của hồn ông…” (Thế Giang. “Cây Đắng Nở Hoa.” Thằng Người Có Đuôi. Nguời Việt: Westminster 1987).

Ngay sau khi “cây đắng nở hoa” thì … thánh đế hồi tâm. Đặng Thái Sơn được trao  danh hiệu Nghệ Sỹ Nhân Dân, cùng với nhiều lời tung hô thái quá (tung toé) trên khắp những trang báo quốc doanh:

  • Âm thanh thế kỷ 20 dưới tiếng đàn Đặng Thái Sơn
  • Huyền Thoại Dương Cầm Đặng Thái Sơn
  • Cánh chim tìm về tổ
  • Đặng Thái Sơn, tiếng đàn vọng lên từ những căn hầm trú ẩn
  • Đặng Thái Sơn, những nổi đau của một dân tộc đấu tranh đòi độc lập

Bên cạnh câu chuyện đắng cay này, có không ít những lời bình vô cùng cay đắng:

  • Đặng Chương Ngạn: “Tiền đi thi không cho, đến cả cái danh xưng thí sinh Việt Nam cũng không cho, nhưng sau khi đoạt giải lại nhận ông ấy là người Việt Nam.”
  • Lê Công Định: “Tôi nhớ ngày anh Đặng Thái Sơn đoạt giải về nước, cả hệ thống truyền thông bu lại ca ngợi đảng và nhà nước đã hun đúc tài năng của dân tộc!”
  • Hoàng Khởi Phong: “Cha anh, nhạc sĩ và nhà thơ Đặng Đình Hưng được nhìn thấy con ông như một con cá kình, quẫy thủng cái lưới mà thoát ra biển khơi.”
  • Nhat Vu Hong: “Chính vì sự bội bạc đó nên Đặng Thái Sơn không về VN mà định cư tại Canada.”
  • Son Nguyen & Bùi Phi Hùng: “Cũng giống như Ngô Bảo Châu, người Việt được chăm bón, vun trồng ở tận đẩu tận đâu rồi thành quả, về ‘báo công’ cho nhà nước hít hà, phả ra đầy khí quyển những lời hào sảng hết cỡ; đưa tất cả lên đỉnh, tưởng chừng như thế gian này chỉ còn có người Việt; người Việt sẽ làm cho TG thăng hoa…”

Trường hợp của G.S Ngô Bảo Châu thì tương đối vẫn còn mới mẻ, rất nhiều người biết nên cũng chả cần phải rườm lời, trừ sự kiện này: ông không phải là một con cừu nên không quen bám lề, và thỉnh thoảng lại đi “trật đường rầy” một khoảng (hơi) xa. Có lẽ xa nhất là lời bình luận của ông vào hôm 19 tháng 5 năm 2016, nhân ngày sinh nhật lần thứ 126 của Hồ Chí Minh: “Có quý‎ mến ai thì mong họ thoát khỏi vòng luân hồi, đừng bắt họ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta.”

Thế là Nhà Nước VN xùy chó ra cắn ngay :

  • Ngô Bảo Châu  tiếp tục cổ súy cho các hành động sai trái chống phá đất nước của những tên phản động như Lê Công Định, Nguyễn Đình Thục, Đặng Hữu Nam, Mẹ Nấm…
  • Ngô Bảo Châu một con trâu biết làm toán
  • Ngô bảo Châu đã tìm cho riêng mình một con đường khác, đi ngược lại con đường mà đảng, Bác Hồ cùng nhân dân đã chọn hơn 70 năm qua…
  • Ngô Bảo Châu trên con đường ngụy dân chủ phản bội dân tộc.

Ngó bộ thì lũ chó này chưa chắc đã cắn rách được gấu quần của nạn nhân nhưng tư cách của đám chủ thì ai cũng nhìn thấy rõ: đồ ăn hại và phường vô lại.

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Thủ Thiêm

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả:  Tưởng Năng Tiến

21/07/2023

Từ Varsovie, nhà báo Mạc Việt Hồng vừa gửi đến độc giả của trang Đàn Chim Việt đôi (ba) câu chuyện hơi ngộ nghĩnh. Xin ghi lại một :

“Tôi đã từng đi xin giấy phép chặt một cây sồi trong chính mảnh vườn của nhà mình. Sự việc diễn ra vào năm 2011. Thủ tục này mất đúng 3 tuần. Khi tới quận kê khai đơn xin chặt cây, họ đã đặt ra những câu hỏi rất chi tiết như: Đó là cây gì, cao khoảng bao nhiêu, đường kính gốc bao nhiêu cm?

Nhưng có một câu hỏi, hoàn toàn bất ngờ và ‘đương sự’ ấp úng không trả lời được, vì thực sự không biết, không chú ý. Đó là: Trên cây có tổ chim hay không?

Sau đó vài tuần, một nhân viên hành chính quận tới thực địa. Ảnh ngó nghiêng chiếc cây rồi dùng một ống nhòm soi lên ngọn. Cây không có tổ chim. Và nhờ đó, gia đình tôi đã được phép chặt nó.

Vâng. Cơ quan hành chính Ba Lan ‘rỗi hơi’ vậy đó… ”

Những di dân da trắng ở Hoa Kỳ đều có nguồn gốc từ Châu Âu nên dân Mỹ cũng “rỗi hơi” không kém. Năm 1996, tiểu bang California bán 90 mẫu đất – vốn là khuôn viên của bệnh viện tâm thần Agnews, nơi mà tôi đã được gửi đến thực tập cả năm thuở còn đi học – cho công ty Sun Microsystems khai thác.

Tiền trao, cháo múc xong rồi thiên hạ mới khám phá ra là trong khu đất này có vài cây cổ thụ, vốn là nơi trú ngụ của một loài cú (burrowing owls) có tên trong danh sách cần được bảo vệ. Để giải quyết vấn đề chính quyền tiểu bang đồng ý mua lại một khoảnh đất thích hợp cho chim cú nương thân, với sự trợ giúp tài chính của cả thành phố San Jose lẫn công ty Microsystems.

Phú quí sinh lễ nghĩa chăng?

E cũng không hẳn thế. Trong phim Seven Years in Tibet, tôi nhớ có đoạn Đức Đạt Lai Lạt Ma bầy tỏ sự quan ngại về sinh mệnh của giun dế khi ngài nhìn thấy phu phen đang đào đất làm nền để xây tu viện. Mà Tây Tạng thì có giầu sang hay phú quí (mẹ) gì.

Năm ngoái, sau vài tháng đi giang hồ vặt (và tiêu sài đến đồng bạc cuối cùng) tôi buộc phải quay về với… mái ấm gia đình. Vì ở townhouse nên taxi đỗ sau nhà, ga ra đã mở sẵn, vừa xách ba lô ra khỏi xe đã thấy con gái đứng ngay cửa cười toe nhưng lại đưa ngón trỏ lên miệng, và bàn tay còn lại thì xua lia (xua lịa) ra dấu im lặng và dừng bước…

Tôi đứng yên ngơ ngác… Gần cả phút con bé mới chạy ào ra đón bố, giọng hớn hở:

– Có đôi chim di đến làm tổ trong giàn bông giấy bố ơi. Chim con nở rồi. Chim mẹ vừa tha mồi về nên nếu bố bước vào ngay sẽ làm nó sợ!

Sau đó, “ái nữ” phổ biến ngay qui định mới của gia đình vì nhà chúng tôi vừa có thêm mấy “thành viên” nữa :

– Từ nay, mỗi khi muốn ra sân sau tôi phải dòm chừng. Nếu chim bố hay chim mẹ đang tha mồi về tổ thì dừng bước ngay, chờ cho chim con ăn xong mới được tiếp tục…

– Từ nay, tôi phải hút thuốc ở sân trước vì khói thuốc có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ của lũ chim non.

– Từ nay, tôi phải…

Ah, đù!

Tôi mới rời nhà một khoảng thời gian ngăn ngắn mà khi quay lại đã bị “tịch thu” nguyên cả cái sân sau. Nói là cái sân (nghe cho nó bảnh) chứ thực ra chỉ là mảnh đất nhỏ xíu xiu, vừa vặn để giồng một cây ngọc lan và giàn bông giấy. Chấm hết.

Sân trước rộng nhưng là đất chung với nhiều căn khác. Chúng tôi chỉ sở hữu cái townhouse (cũng chung vách với nhà kế cạnh) bé tí teo, mua theo kiểu trả góp, và vẫn còn nợ ngân hàng cả đống tiền chứ không phải ít. Tài sản rất nhỏ hẹp, bấp bênh như thế mà con bé vẫn vui vẻ mang chia sẻ với lũ chim trời (ơi) không biết từ đâu đến.

Cái kiểu “rỗi hơi” của người dân Ba Lan, Hoa Kỳ (và ngay cả con cái trong nhà) khiến tôi cũng hơi bị… lây lan, rồi suy nghĩ lan man tới những vụ “thu hồi đất” ngang xương nơi quê hương đất nước của mình. EriK Harms (tác giả cuốn Luxury and Rubble Civility and Dispossession in the New Saigon) nhận xét như sau: “Những người dân Thủ Thiêm đã bị phớt lờ và thường bị đối xử như thể họ không hề tồn tại.”

Lạ nhỉ?

Trước khi cho phép bà Mạc Việt Hồng đốn hạ một cái cây – trong khu vườn của chính chủ nhân – nhà nước Ba Lan đã cử nhân viên đến tận nơi, dùng ống nhòm săm soi, sợ có dăm ba con chim mất ổ. Còn chính phủ Việt Nam hiện hành thì giải tỏa nguyên cả bán đảo Thủ Thiêm mà sáu chục ngàn cư dân ở phần đất này đều “bị phớt lờ và thường bị đối xử như thể họ không hề tồn tại” vậy!

Mục Sư Nguyễn Hồng Quang cảm thán: “Lòng Tham vô đáy của con người đã đẩy hơn 6 vạn dân bơ vơ tan lạc!”

Tác giả Lê Hồng Hà nhận diện : “Ở TP HCM, ‘bộ tứ’ Lê Thanh Hải – Nguyễn Văn Đua – Tất Thành Cang – Lê Hoàng Quân cũng cùng nhau ‘xẻ thịt’ đất đai Sài Gòn, bất chấp tất cả.”

Bốn vị quan chức cao cấp này đều là đảng viên của ĐCSVN khiến tôi không khỏi dư băn khoăn tự hỏi cái đảng này chủ trương thế nào, và giáo dục họ ra sao để tất cả đều có thể trở thành những kẻ “bất chấp” (và bất nhân) đến vậy?

Trước khi đốn hạ vài cái cây cổ thụ thiên hạ còn lo cho bầy cú, sợ chúng mất nơi nương náu. Vậy mà mấy ông đảng viên CSVN (“vì nhân dân quên mình, vì nhân dân hy sinh”) lại có thể nhẫn tâm cướp đất của cả trăm ngàn lương dân, và đẩy họ vào cảnh bần cùng (hay màn trời chiếu đất) một cách lạnh lùng và thản nhiên như thế – được sao?

Gần hai mươi năm sau, sau khi cả đống nước sông – cùng nước suối, nước mưa, nước mắt… – đã ào ạt chẩy qua cầu và qua cống, cho đến lúc vụ cưỡng chế đất Thủ Thiêm sắp chìm xuồng (tới đáy) thì bỗng có tin vui giữa giờ tuyệt vọng:

Tại buổi tiếp xúc cử tri quận 2 chiều 20 tháng 6 năm 2018, nhiều người đồng loạt vỗ tay khi Bí Thư Thành Ủy TP.HCM Nguyễn Thiện Nhân hứa hẹn: “Thành phố không gạt bà con Thủ Thiêm … bà con chờ một chút để 15-7 có kết luận chính thức.”

Chờ một chút thì đâu có nhằm nhò chi nên “bà con” chờ luôn … 4 năm cho nó chắc. Đến hôm 14 tháng 12 năm 2022, Bí thư Thành Uỷ TPHCM Nguyễn Văn Nên “phát biểu chỉ đạo phải giải quyết dứt điểm các vấn đề còn lại ở Khu đô thị mới Thủ Thiêm trước Tết âm lịch 2023.”

Sau Tết, vào chiều ngày 13 tháng 4 năm 2023, người dân Thủ Thiêm lại nhen nhúm chút hy vọng khi nghe Chủ tịch UBND TPHCM Phan Văn Mãi hứa hẹn “đến tháng 6 này giải quyết cơ bản các vấn đề khiếu nại, tồn đọng ở Khu công nghệ cao, Đại học Quốc gia TPHCM và Khu đô thị Thủ Thiêm.”

Tháng 6 đã qua nhưng lời hứa thượng dẫn vẫn còn lại đôi chút dư âm (nghe) không vui vẻ lắm:

Chớ sống trong một chế độ công an trị mà không “ngoan” sao được. Thà mất của vẫn hơn là bị ở tù chớ, đúng không?

Tưởng Năng Tiến

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Cuộc Cách Mạng Bung Đồng

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

17/07/2023

Tôi tình cờ đọc được một bài báo cũ (“Hành trình 60 năm của một chiếc bung hay câu chuyện hòa giải giữa địa chủ và bần cố nông”) nhưng nội dung vẫn còn nguyên tính thời sự, củ̉a nhà báo Huy Đức. Xin được ghi lại nguyên văn, cùng hình ảnh:

Cách đây hơn 4 tháng, trên Facebook này, tôi viết: Trong đám giỗ lần thứ 51 của chồng – ngày 28-11 năm Giáp Ngọ (18-1-2015) – cụ bà Đậu Thị Mực, sinh năm 1916 – thường gọi là bà Dương – dặn con cháu: “Trong hai vật dụng mẹ đưa từ Thanh Chương, Nghệ An, vào Bình Dương lập nghiệp năm 1990 chỉ có một là của nhà ta, cái bình vôi. Khi mẹ về làm dâu (cuối thập niên 1930s), bà nội đã dùng cái bình vôi (ăn trầu) này; còn cái bung đồng, năm Cải cách, đội lấy của các nhà giàu trong làng chia cho, nó không phải của nhà mình, các con nên tìm chủ mà trả lại”.

Cũng qua FB, bạn bè của anh Diễn Nguyễn Văn – con trai cụ Dương – đặc biệt là những cán bộ “Đội Cải cách” thời bấy giờ đã giúp truy tìm, cuối cùng, chiếc bung đồng được xác định là của gia đình “địa chủ” Trần Đống. Hôm nay, nhân ngày con cháu làm lễ mừng cụ Dương thọ tròn 100 tuổi, cháu nội cụ Trần Đống là anh Trần Văn Lê chủ công ty Phương Linh, sản xuất và kinh doanh hàng điện máy, đã bay từ Hà Nội vào mừng thọ cụ Dương (với bức tranh khắc gỗ có chữ Tâm) và nhận lại chiếc bung đồng.

Theo anh Lê, rất lạ là sau khi tin cụ Dương tìm người trả lại chiếc bung đồng, có thêm hai gia đình “bần cố nông” trong làng trả lại những “đồ quả thực” mà 60 năm trước họ được đội cải cách tước đoạt của địa chủ chia cho. Theo anh Lê thì con cháu cụ “địa chủ” Trần Đống về̀ sau dù ở quê hay đi xa đều thành công, có nhiều người “đủ tiêu chuẩn để bị đấu tố” nếu lịch sử  cải cách tái lập. Đặc biệt, con cháu của những người địa chủ này mỗi khi về làng vẫn thường giúp đỡ người nghèo, kể cả những người ngày xưa đã từng đấu tố cha ông họ.

Xét cho cùng thì họ cũng chỉ là nạn nhân.

Tôi hoàn toàn chia sẻ với quan niệm “xuê xoa” của nhà báo Huy Đức, và rất yêu thích “tinh thần hoà giải” trong câu chuyện thượng dẫn. Dù muộn – cuối cùng –  vào lúc gần đất xa trời, cụ Dương cũng đã hiểu ra cái lý lẽ thông thường của đất trời: của thiên trả địa!

Điều đáng trân trọng hơn nữa là cháu chắt của giới địa chủ chả những đã vui vẻ nhận lại cái bung đồng mà còn đến mừng tuổi thọ, cùng với quà cáp đàng hoàng. Đã thế, sau khi “cụ Dương tìm người trả lại chiếc bung đồng, có thêm hai gia đình ‘bần cố nông’ trong làng trả lại những ‘đồ quả thực’ mà 60 năm trước họ được đội cải cách tước đoạt của địa chủ chia cho” nữa.

Thật là quí hoá quá chừng!

Tôi chỉ có hơi chút băn khoăn là dường như có bàn tay của Ban Tuyên Giáo nhúng vào việc riêng của những gia đình bần cố nông và cường hào địa chủ kể trên. Hay nói gọn lại, theo như cách của dân gian là … lại diễn! Nếu không thì làm gì có việc “những cán bộ ‘Đội Cải cách’ thời bấy giờ đã giúp truy tìm … chiếc bung đồng.” Mấy ai trong số những người này còn sống sót đến nay?

Và cũng chả ai lại “rỗi hơi” đến thế? Cũng khó có chuyện cháu chắt của nạn nhân lại “bay từ Hà Nội vào” chỉ để “nhận lại chiếc bung đồng” mà ngay cả đến Giời cũng chưa chắc biết là sẽ dùng nó vào việc gì cả? Không lẽ để thờ? Đó là chưa kể những hình ảnh dàn dựng khá công phu, hơi tốn kém, và rất nặng phần trình diễn trong buổi lễ mừng thọ 100 năm của một cụ … bần cố nông.

Ở một xứ sở mà công an chúi mũi vào khắp mọi nơi : tu viện, chùa chiền, miếu đền, thánh thất, giáo đường (kể luôn chiếu giường/ chăn gối và người dân sắp có nguy cơ bị “đánh giá bằng điểm xã hội” đến nơi thì sự nghi ngại này – tất nhiên – không phải là hoàn toàn vô cớ.

Nhưng tôi cũng chỉ suy đoán thế thôi, chứ chả có chứng cứ nào liên quan đến “tay chân” của Bộ Thông Tin & Tuyên Truyền cả. Tôi cũng không tìm ra được cái “thông điệp” kín đáo nào của Ban Tuyên Giáo, qua cái “màn diễn bung đồng” thượng dẫn.

Sau Cải Cách Ruộng Đất rồi đến Hợp Tác Xã Nông Nghiệp thì toàn dân Việt đều trở nên vô sản ráo (chả ai có được một hòn đất để chọi chim) thì còn đâu địa chủ mà lo chuyện hoà giải với bần nông? Bài báo của tác giả Huy Đức, tuy thế, vẫn gợi cho độc giả vài suy nghĩ mới :

  • Nguyễn Thường Dân: “Thế chừng nào người ta mới trả lại nhà sách Khai Trí cho con cháu ông Nguyễn Hùng Trương? Cái bung trị giá vài triệu thì làm lễ trả lại nhưng nhà sách Khai Trí với miếng đất mặt tiền ở quận 1 trị giá nhiều ngàn tỷ thì nhất định là lờ đi nhé, dù ‘Xét cho cùng thì họ cũng chỉ là nạn nhân.”
  • Nguyễn Jung: “Nhà nước ‘ta’ đã, đang và sẽ làm gì với số tài sản, đất đai đã và đang ăn cướp của Dân, từ khi cướp được chính quyền ở miền Bắc, sau 1975 cũng như hiện tại?”

Như đã thưa, tôi vốn tính xuê xoa (chuyện gì đã qua là coi như xí xoá cho rồi) nên không cảm thấy thoải mái lắm với những “yêu sách” của nhị vị thức giả vừa nêu. Ông Nguyễn Hùng Trương đã từ trần, chuyện nhà sách Khai Trí tưởng cũng nên cho vào dĩ vãng. Miễn là con cháu của nạn nhân được để sống yên thân, không bị kỳ thị hay sách nhiễu, là tử tế lắm rồi.

Số tài sản, đất đai (cũng như hằng triệu mạng người) đã mất – kể từ gần hai phần ba thế kỷ qua – cũng thế, cũng nên quên ráo đi cho nó đỡ bận lòng. Chỉ cần Đảng & Nhà Nước ngừng tay cướp bóc cũng đã quí hoá rồi. Những mảnh đất vàng, đất bạc, bờ xôi/ruộng mật – tất tần tật – đã vào tay nhà nước cả. Từ nay, xin làm ơn bỏ cái thứ luật lệ bất nhân (“đất đai do nhà nước quản lý”) đi để toàn dân còn có chỗ trồng trọt/ cấy cầy, kiếm miếng ăn cho cả nước bỏ vào mồm, chứ không thì sớm muộn gì cũng sẽ lại vác rá đi ăn xin – y như trước – thôi.

Thử nghĩ xem : mỗi đồng chí lãnh đạo chỉ cần (độ) vài triệu dollar, cùng với năm ba cái biệt phủ hay biệt thự là… đã đủ rồi, đủ cho một cuộc sống ung dung (có thể kéo dài đến vài thế hệ) nếu đừng phung phá quá. Chỉ cần hô biến mấy quả đấm thép Vinashin thành những đống sắt vụn đã hoá ra đến mấy tỷ Mỹ Kim. Tiền bạc chia nhau còn chưa biết giấu vào đâu  (hay tiêu cách nào cho hết) thế mà quí vị còn nhất định “phải bàn cho ra” cái luật đặc khu, và làm đường sắt cao tốc Bắc/Nam để chạy thêm mấy chuyến tầu vét (tốc hành) để làm gì nữa?

Dù muộn, đến lúc gần đất xa trời, cụ Dương cũng đã “ngộ” ra rằng không ai có thể đem theo cái bung đồng nặng nề về bên kia thế giới. Vàng, bạc, châu báu …  cũng đâu có nhẹ nhàng hơn. Và con đò sinh tử của quí vị, xem ra, cũng chả còn xa bao xa nữa. Thế mà vẫn cứ còn cố kiếm thêm thì e rằng sẽ hơi quá tải, và cũng quá ngu!

Tưởng Năng Tiến

Sổ Tay Thượng Dân TNT – Kinh & Thượng

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả:  Tưởng Năng Tiến

18/07/2023

Tôi nghe T.S Mạc Văn Trang than phiền mà không khỏi sinh lòng ái ngại: “Bớt ‘nổ’ đi, bớt ‘diễn’ đi, Trung ương ‘diễn’ một thì cơ sở ‘diễn’ mười, cái gì cũng ‘diễn’ thành lố bịch, ấu trĩ, dối trá, đạo đức giả. Những cái đó ảnh hưởng xấu đến văn hoá, đạo đức toàn xã hội.”

Nói thế e có (hơi) quá lời chăng? Khối vở “diễn” vui lắm chớ, tuy tình tiết thì “lố bịch” thật nhưng cũng chả gây “ảnh hưởng xấu xa” gì (mấy) nên vẫn được tái diễn hằng năm.  Hôm 07/01/2023, blogger Trân Văn (VOA) tường thuật:

“Năm nay, chuyện thí sinh tham gia kỳ thi tốt nghiệp THPT ngủ quên, hư xe … được CAND hỗ trợ nên vẫn có thể dự thi, tiếp tục chiếm phần đáng kể trong nội dung của nhiều cơ quan truyền thông chính thức và trên mạng xã hội… có lẽ video clip được giới thiệu trên trang facebook có tên ‘Tuổi trẻ Công an huyện Ninh Phước’ thuộc loại được chia sẻ nhiều nhất và kèm theo nhiều bình luận nhất:

  • Viet Duong: “Hình như chở lộn phụ huynh rồi anh ơi!”
  • Tuan Hung Tran: “Chắc là con ngủ quên mẹ đi thi giùm.”
  • Truns Nguyen: “Nhìn tướng học sinh này chắc cũng đẻ mấy lứa rồi.”
  • Huỳnh Phương Thảo: “Không cần phải là chuyên gia nhân chủng học cũng sẽ nghi là chở… nhầm phụ huynh. Mà em học sinh này làm nail hơi kỹ.”
  • Thanh Trí Phan: “Đóng phim nhưng diễn thì quá tệ, gà móng đỏ chứ nữ sinh gì!”
  • Thịnh Lê Nguyên: “Anh CS quen đường chạy tới quán Karaoke hốt luôn má mì!”
  • Huỳnh Phi Long: “Lại chở nhầm phụ huynh học sinh vào nhà nghỉ!”
  • Chở nhầm phụ huynh vào… nhà nghỉ?

Ngay sau khi biết là chở nhầm người, và trông “đối tượng” thấy hơi diêm dúa nên nhân viên chức năng đã đưa ngay y thị vào nhà nghỉ. Thiệt là nhanh trí, và đúng ý, chớ mang “con gà móng đỏ” vô trường thi làm chi?

Vụ này, rõ ràng, không phải là lỗi của “thằng đánh máy” hay “thằng cơ chế” mà thủ phạm chính là thằng đạo diễn. Đúng là cái đồ rách việc, ẩu tả và cẩu thả hết biết luôn. Chuyện nhỏ cỡ con thỏ thôi mà cũng làm “hư bột hư đường” hết trơn hết trọi. Người ta cần lựa diễn viên đóng vai nữ sinh, sao lại đi mướn một bà (má mì) làm chi, cho chúng nó khi!

Nhưng nói tóm lại thì mọi chuyện vẫn vui thôi, và hoàn toàn vô hại. Chớ có chết ai đâu? Vấn đề, tuy thế, không phải show diễn nào của Đảng và Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam cũng “vô hại” cả. Có lắm màn kịch không chỉ nguy hiểm đến tính mạng cá nhân mà còn có thể gây ra một cuộc thảm sát đẫm máu giữa những tộc người ở xứ sở này.

Vào trung tuần tháng 6 vừa qua, báo chí quốc doanh đồng loạt đi tin:

FB Quang Phan nhận xét: “Họ lùa đuổi bắt giữ người bản xứ nhân danh… nhà nước và nhân dân, cùng làm… cùng bảo vệ an ninh trật tự. Họ không hề biết đến rằng cái hành động ngỡ như anh hùng ấy chỉ làm khắc sâu thêm những ẩn ức nơi cộng đồng bản địa. Và nguy cơ mâu thuẫn sắc tộc càng thêm chất chứa.”

Blogger Dương Quốc Chính cảm thán:

Xem mấy video được cho là người dân đi truy bắt khủng bố mà thấy đau lòng. Nhất là thấy cảnh đã bắt được nghi phạm, người ta quay video cận cảnh mặt để tra khảo. Những video này mà người đồng bào xem được sẽ càng đẩy thêm sự phẫn uất lâu nay.

Gọi là toàn dân, nhưng nhìn mặt và giọng nói là thấy người Kinh đi bắt người Thượng, giọng nói trong tất cả các video thì toàn Thanh Nghệ…  Cả trẻ con cũng cầm gậy đi cùng người lớn … anh em Kinh tộc đang hô hào rất khát máu, đòi báo thù, diệt tộc người ta.”

Cảnh tượng “người Kinh đi bắt người Thượng,” tay gậy gộc, miệng gào thét “đòi báo thù, diệt tộc người ta” – xem ra – không khác với hình ảnh trong phim Hotel Rwanda là mấy. Tác phẩm điện ảnh này được trình chiếu lần đầu vào năm 2004, giúp cho khán giả biết thêm về cuộc tàn sát đẫm máu ở Đông Phi vào cuối của thế kỷ vừa rồi.

Wikipedia ghi nhận:

Nạn diệt chủng Rwandacòn được biết dưới tên gọi Diệt chủng người Tutsi, là vụ giết người hàng loạt do chính quyền Rwanda do đa số người Hutu lãnh đạo nhắm tới sắc tộc Tutsi ở nước này. Ước chừng 500.000 tới 1.000.000 người Rwanda, tức 70% dân số người Tutsi, bị sát hại trong 100 ngày diễn ra nạn diệt chủng, từ 7 tháng 4 đến giữa tháng 7 năm 1994…

Sở dĩ con số nạn nhân có thể lên đến hàng triệu vì đó là chủ trương của nhà cầm quyền Rwanda, vào thời điểm đó. Ròng rã trong mấy tháng liền, đám lãnh đạo của xứ sở này không chỉ cung cấp dao búa cho người Hutu mà còn tận dụng mọi phương tiện truyền thông để kích động hận thù, và cổ vũ cho việc giết hại dân Tutsi với lý do họ là nhóm người thiểu số nguy hiểm và hạ đẳng (“dangerous and inferior minority group”).

Nhà đương cuộc Hà Nội cũng không ngần ngại dán nhãn “nguy hiểm” (khủng bố) cho bất người dân miền núi nào mặc quần áo rằn ri. Cùng lúc, họ còn bầy tuồng (dân quân một lòng) một cách vô cùng trơ trẽn và trơ tráo:

Bắt giữ những kẻ gây án và đưa họ ra xét xử một cách công minh là trách nhiệm của nhà nước. Lôi kéo người dân vào những hoạt động có thể nguy hiểm đến tính mạng (và gây ra bạo loạn) thì không chỉ là một việc làm phi pháp mà còn là một tội ác khó dung.

Mà nào có ai “gác ông việc tình nguyện nấu cơm cho lực lượng công an” tại Darlac, ngoài mấy bà hội viên của Hội Phụ Nữ Việt Nam. Bộ tưởng dân tình ở địa phương này mất trí nhớ hết trơn, hết trọi rồi sao chớ. Họ mới bị đàn áp, đánh đập thậm tệ mới hai tháng trước, vào hôm 20 và 21 tháng 4, chớ có phải xa xôi hay lâu lắc gì đâu. Hình ảnh tin tức còn nguyên vẹn đây nè:

Blogger Phạm Thanh Nghiên kết luận: “Chính công an, chính nhà cầm quyền là thủ phạm kích động thù hằn, khuyến khích bạo lực với những gì họ đang thể hiện qua vụ Đắk Lắk. Và đó là chính sách họ theo đuổi nhiều năm nay kể từ khi cướp được chính quyền năm 1945.”

Bà nhắc đến chuyện cũ (“từ hồi 1945”) làm nhiều người nhớ đến cái chết oan khốc của vô số nạn nhân trong thảm kịch Cải Cách Ruộng Đất vào đầu thập niên một chín năm mươi. Vào thời điểm này đã có hàng ngàn sân khấu được dàn dựng vội vàng khắp mọi nơi (và được mệnh danh là “Tòa Án Nhân Dân Đặc Biệt”) để hành hình hàng vạn nông dân vô tội.

Vở kịch đẫm máu và nước mắt về ruộng đất tuy được nhập cảng từ Trung Cộng nhưng đã được trình diễn rất đúng bài bản, và rất đạt ở miền Bắc VN. Nó thành công ngoài mong đợi nên đã phải có “chiến dịch sửa sai” vào năm 1956, nếu không nước sông Hồng (dám) biến thành mầu đỏ.

Với chính sách bất nhất cố hữu (“sáng đúng, chiều sai, ngày mai lại đúng”) của nhà nước hiện hành thì không có gì ngạc nhiên khi họ lại sẵn sàng dựng lại những phiên toà đấu tố thêm lần nữa, ở Tây Nguyên.

Ngoài bờ biển phía Đông ra, phần biên giới còn lại của Việt Nam đều là nơi cư ngụ của những dân tộc bản địa tự ngàn xưa. Với cuộc sống giản dị và hài hoà với thiên nhiên, họ đã giữ cho môi trường sinh thái được quân bằng bằng cách tạo một “vòng đai xanh” cho cả nước. Cũng chính họ là những vọng gác, ở tuyến đầu, để bảo vệ quốc gia. Cớ sao cứ nhất định phải đẩy họ đến bước đường cùng? Đã ác lại còn ngu nữa!

Tưởng Năng Tiến

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Côn Minh

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

12/07/2023

Chừng hai mươi năm trước, tôi hân hạnh được Đại Tá Phạm Văn Liễu gửi cho mấy tập hồi ký (Trả Ta Sông Núi) cùng lời yêu cầu viết một bài giới thiệu về tác phẩm của ông. Tôi thưa lại rằng mình rất vinh dự khi được nhờ cậy. Tuy nhiên, theo công tâm, tôi sẽ góp đôi lời về những trang sách mà tác giả đề cập đến những nhân vật quá cố (Ngô Đình Diệm & Hoàng Cơ Minh) với quá nhiều hằn học.

Ông không đồng ý như thế nên chút duyên nợ, về chữ nghĩa, giữa chúng tôi đã không có cơ thành tựu. Từ đó đến nay – thỉnh thoảng – tôi vẫn được đọc thêm những cuốn hồi ký khác, của nhiều nhân vật khác.

Phần lớn những người Việt Nam đi làm cách mạng, hồi đầu thế kỷ trước, đều có lúc phải sang Trung Hoa lánh nạn. Họ thường đi qua ngả Vân Nam vì địa danh này giáp giới với miền Bắc nước mình.

Phạm Văn Liễu cũng thế. Là một đảng viên Việt Quốc ông đã phải lưu lạc đến Côn Minh (thủ phủ của Vân Nam) khi còn là một thanh niên, ở tuổi đôi mươi. Ông kể lại rằng khi đang bơ vơ nơi đất lạ quê người thì may mắn được một phú gia người Hoa cho tá túc. Không những thế (và có lẽ vì cảm cái khí phách và nhân cách của chàng trai nước Việt) ông còn được vị ái nữ xinh đẹp, cùng cả gia đình, của vị đại gia này đem lòng thương mến.

Thiệt là quá đã!

Nếu tôi mà rơi vào hoàn cảnh tương tự thì cuộc đời cách mạng, tới đây, là … kể như rồi. Bôn ba làm chi, cho má nó khi. Làm rể người giầu – bất kể Tây/Tầu – là cơ hội hiếm, và (rất) không nên bỏ lỡ.

Quan điểm nhân sinh (nhỏ hẹp) của tôi, tất nhiên, cũng không được Phạm Văn Liễu đồng tình. Vì nghĩa lớn nên ông từ chối một cuộc sống ấm êm – bên cạnh mỹ nhân – và lại khoác áo lên đường, để lại biết bao là luyến thương (cùng sầu muộn) trong lòng người ở lại.

Tôi vốn hay thương vay khóc mướn nên cứ áy náy hoài về mối tình (dang dở) của vị tiểu thư Trung Hoa, và có cảm tình mãi với vùng đất mà cô sinh trưởng. Vì vậy nên ngay sau khi cầm được cái visa sang Tầu là tôi mua vé bay ngay đến Côn Minh.

Phi cơ hạ cánh giữa mưa. Nhìn núi đồi nhấp nhô và mờ nhạt xa xa khiến tôi cứ ngỡ như mình vừa đáp xuống phi trường Liên Khương, vào một chiều mưa nào đó (tưởng chừng) như vẫn chưa xa xôi lắm.

Cũng như Đà Lạt, Côn Minh ở độ cao hai ngàn mét nên khí hậu rất dịu dàng. Cây cỏ xanh tươi, đất trời mát rượi. Xa lộ dẫn vào thành phố khá tân kỳ. Đường rộng thênh thang. Hoa lá được chăm sóc kỹ càng, tử tế.

Tôi đã đặt phòng với giá rẻ nhất, chưa tới mười Mỹ Kim, bao luôn ăn sáng. Phòng ngủ chung nhưng nhà trọ vắng khách nên chỉ có mình tôi với mấy cái giường đôi, ngó trống trải thấy mà ái ngại.

Sau một giấc ngủ dài, tôi đeo máy ảnh đi loanh quanh khi trời chiều còn sáng. Đường phố rộng rãi, được phân làn rõ ràng và trật tự. Côn Minh không thiếu ô tô, và có nét đặc thù là rất nhiều xe hai bánh điện (e-bike) cùng không ít xe đạp.

Tranh cổ động dán ở khắp nơi. Dù không đọc được tiếng Hoa nhưng tôi cũng đoán được nội dung rất “lành mạnh” qua sắc mầu tươi vui, và những nét vẽ đơn sơ mộc mạc: giữ vệ sinh chung, nhường nhịn người già, chăm sóc cây cảnh …

Điều đáng nói là Côn Minh không chỉ làm đẹp bằng tranh cổ động. Du khách còn có thể thấy được “thiện chí” của thành phố này qua những con phố không bụi rác, và những nhà vệ sinh công cộng sạch sẽ (miễn phí) dù không dễ tìm.

Tuy nhiên, chỉ cần rời bỏ đại lộ với những cao ốc chọc trời và rẽ ngang vào bất cứ một con đường ngang nào khác là sẽ có ngay một Côn Minh khác. Nhà cửa cũ kỹ, mái ngói rêu phong, cái nghèo có thể nhìn thấy được qua những cánh cửa mở toang (giường tủ, bàn ghế bừa bộn, tuềnh toàng và qua những khuôn mặt buồn phiền, cam chịu.

Tua tủa hai bên những con đường nhỏ là những ngõ hẻm sâu, vừa chỉ vừa lọt một chiếc xe đạp hay hai người đi bộ trái chiều. Cái gì chứ cảnh nghèo ở Á Châu thì tôi nhìn thấy hoài mà (ở Miên, ở Miến, ở Lào đều như vậy tuốt) nên không có hứng thú tiếp tục lần dò tiếp vào những ngõ ngách khai khai, tôi tối, và âm ẩm của Côn Minh.

Trở ra đường lớn thì không thiếu hàng quán tấp nập nhưng tôi không có thói quen ăn tiệm mình ên nên mua một phần cơm chỉ hai món (đậu đũa xào và thịt heo kho trứng) hết mười lăm nhân dân tệ, cỡ hai MK, và một chai rượu nhỏ cùng giá. Về lại nhà trọ, tôi ngồi nhai trệu trạo vì bụng không thấy đói và rượu thì quá dở: đã nhạt phèo mà lại còn có vị hơi ngòn ngọt nữa. Thiệt là vô duyên hết biết luôn!

Tôi không vào được gmailface book, hay youtube. Mấy trang mạng quen thuộc cũng không luôn nên nghĩ rằng có lẽ vì mình thuê chỗ ở quá rẻ tiền nên wifi yếu. Thôi thì đành mua rượu uống nữa, dù là rượu dở, rồi lăn ra ngủ tiếp.

Sáng hôm sau tôi chạy ngay đi nơi khác, vào khách sạn có sao tử tế (Spring City Star Hotel) trên một con lộ lớn: No.636 Beijing Road, Panlong District 650051 China / Yunnan / Kunming. Pass word của wifi ghi sẵn luôn trong thang máy. Thiệt là văn minh chưa từng thấy. Nhận phòng xong là tôi mở labtop liền.

Tưởng sao?

Cũng y như hôm qua thôi. No Gmail, no face book, no youtube … , dù những hình ảnh quảng cáo khách sạn hay vé máy bay (Agoda, Travelgenio, Jetcost, Expedia, Cheapoair …) vẫn xuất hiện đều đều, và thử bấm chơi thì đều chạy vo vo.

Tới lúc đó tôi mới chợt nhớ ra rằng (thôi chết mẹ rồi) mình đang ở trong đất Tầu. Côn Minh đâu phải là Vientiane, Phnom Penh, Yangon, hay Bangkok. Đây là thủ phủ của một tỉnh thuộc Trung Hoa Lục Địa, và bưng bít thông tin vốn là “chủ trương xuyên suốt” của mọi đảng CS mà. Thảo nào mà những người trẻ, ở nơi này, chả thấy mấy ai chăm chăm cầm cái smart phone như nhiều nơi khác!

Tự nhiên lại chợt nhớ đến Lưu Hiểu Ba, và câu nói lạc quan của ông khi còn tại thế: “Internet là món quà Chúa ban cho Trung Quốc. Nó là công cụ tốt nhất cho nhân dân Trung Quốc đang mơ ước vất đi sự nô lệ và đạt đến tự do.”

Có lẽ vì món quà này quí báu quá nên Đảng CS Trung Hoa phải nhất định giằng lại” bằng mọi giá, kể cả cái giá là sự ngu dân để Nhà Nước dễ bề cai trị.

Thôi thì tạm quên Lưu Hiểu Ba, quên internet, và lại tiếp tục đi lòng vòng phố xá cho rộng tầm con mắt. Mắt tôi đụng toàn chữ Hán, đủ kích cỡ khác nhau nhưng đều đỏ rực như nhau – ngoại trừ tên mấy cái ngân hàng và khách sạn: China Construction Bank, Fudian Bank, Holiday Inn City Centre, Howard Johnson City of Flower Hotel …

Đi gần muốn rã cẳng luôn tôi mới chợt thấy một cái bảng hiệu tiếng Anh (Travel Agency) mà mừng muốn rơi nước mắt. Ôi Trời, tha hương ngộ cố tri!

Tôi cần một hướng dẫn viên, cần thuê một cái xe hơi, hay ít ra thì cũng phải mướn được một cái e-bike (cùng với bản đồ thành phố) để thăm thú Côn Minh cho biết sự tình. Chớ cứ lết bộ hoài, và xung quanh thì toàn là chữ Tầu không (chả hiểu cái con bà gì ráo trọi) thì chịu đời sao thấu?

Tôi hăm hở mở cửa bước vào văn phòng du lịch, với nụ cười tươi tắn, và một câu tiếng Anh thông dụng. Người đối diện đáp lại bằng tiếng Tầu. Tôi quay sang cô nhân viên ngồi kế, lập lại câu nói vừa rồi. Cô này cũng trả lời bằng tiếng Hoa, nghe từa tựa y như cô trước.

Coi như là hết thuốc!

Bây giờ thì tôi hiểu thế nào là một nhà tù lớn. Tuy không có chấn song nhưng kẻ ở bên trong cũng hoàn toàn bị cắt đứt mọi liên lạc với thế giới bên ngoài. No English, no face book, no youtube, no Gmail … mà tôi thì chỉ có gmail và không dùng điện thoại – bất kể loại nào.

Theo dự tính thì sau Côn Minh là sẽ đến Bắc Kinh (vài bữa, hoặc mươi ngày) nhưng tôi đổi ý. Tôi sẽ trở lại Phnom Penh hay Bangkok vào chuyến bay sớm nhất – khuya nay – với bất cứ giá nào. Côn Minh hay Bắc Kinh thì có khác gì nhau. Cả xứ sở này chỉ là một cái ngục tù bao la, có tên gọi là Trung Hoa Vỹ Đại!