“Lạy Chúa, xin soi cho con biết đường lối Chúa muốn cho con đi.” (Tv 14:2) – Cha Vương

Ngày thứ 3 mát mẻ khoẻ mạnh trong biển cả tình thương và nhân hậu của Chúa nhé.

Cha Vương

Thứ 3: 26/08/2025   t7-23

TIN MỪNG: Mọi lời ta nói ra đều ngay chính, không có chi sai lạc, chẳng có gì quanh co. Đối với ai am hiểu, mọi lời của ta đều đứng đắn; đối với người có được tri thức, mọi lời của ta đều ngay thẳng. (Cn 8:8-9)

SUY NIỆM: Hỡi những ai toan tính việc lựa chọn thân phận, hãy bàn hỏi, hãy cầu xin Chúa, than thở với người như vua thánh Đa-vít: 

“Lạy Chúa, xin soi cho con biết đường lối Chúa muốn cho con đi.” (Tv 14:2) Ngoài ra, phải sống tử tế xứng đáng Chúa đoái thương ban ơn phù hộ. Nếu con không biết rõ thánh ý Chúa, hãy bàn hỏi với những vị thay mặt Người trên trần gian, các vị đó sẽ chỉ bảo minh bạch việc con phải thi hành.

Chúa Giê-su làm cho Sao-lô ngã ngựa giữa đường lúc sang Đa-mát, mà Chúa vẫn chưa tỏ thánh ý Người, song bắt Sau-lô đi gặp A-na-ni để Người dạy bảo. Chỉ nên bàn hỏi với cha mẹ khi nghĩa vụ buộc con, vì thường thường khuyên bảo con cái cha mẹ hãy vịn những lý do trần tục. Đó là điều đáng sợ. “Kẻ thù của mình chính là người nhà.”—Mt 10:36 (x. Sách Gương Đức Mẹ, Q1:8:4) 

LẮNG NGHE: Anh em thân mến, anh em đừng cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy cân nhắc các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian. (1 Ga 4:1)

CẦU NGUYỆN: Lạy Mẹ Maria, xin giúp con cải thiện đời sống con bằng cách đổi mới tâm hồn để con có thể nhận ra đâu là thánh ý Thiên Chúa, cái gì là tốt, cái gì là đẹp lòng Chúa, cái là hoàn hảo để được ở bên Chúa đến muôn đời.

THỰC HÀNH: Tập cân nhắc những điều bạn suy nghĩ, những lời bạn nói, và những hành động bạn làm hôm nay nhé. Có đúng hay sai, tốt hay xấu, có đẹp lòng Chúa hay không?

From: Do Dzung

****************************

Ngài Vẫn Thứ Tha (Phút Giây Tử Nạn) | St: Phạm Tôn Tẫn | Th: Phạm Tôn Tẫn – Kiều Oanh – Đăng Khoa

https://www.youtube.com/watch?v=ZOifdoTc_20

Làm sao mà bạn có thể sống vui, nếu bạn không biết trân trọng cuộc sống?

Cát Bụi

Trong cuộc sống, đôi khi bạn không biết trân trọng những gì mình đang có, nên bạn không thể sống vui là vì vậy!

Bạn có mắt, nhưng bạn lại luôn nhìn mọi người không thân thiện và cảnh vật u sầu. Trong khi người mù, họ chỉ ước ao để được nhìn.

Bạn có miệng, nhưng bạn lại luôn dùng nó để chửi người khác. Trong khi người câm, họ chỉ ước ao làm sao để nói được những lời yêu thương với những người họ yêu.

Bạn có tai, nhưng bạn lại không muốn nghe những lời hay ý đẹp. Trong khi người điếc, họ chỉ ước ao để được nghe và hiểu được mọi người nói.

Bạn có tiền, nhưng bạn lại xài phung phí. Trong khi người nghèo, họ chỉ ước ao có được một chén cơm.

Bạn có người yêu, nhưng bạn lại đòi hỏi đủ điều. Trong khi người cô đơn, họ chỉ ước ao có được một người để yêu thương.

Bạn có thời gian, nhưng bạn lại không biết dùng nó. Trong khi người đang hấp hối, họ chỉ ước ao để làm sao cho thời gian đi chậm lại.

Bạn đang có tất cả, nhưng bạn lại chán nản. Trong khi người đang khổ cực, họ chỉ ước ao có được một phần nhỏ may mắn của bạn thôi, là họ cũng vui rồi.

Vậy thì làm sao mà bạn có thể sống vui, nếu bạn không biết trân trọng cuộc sống?

Đừng than vãn rằng, tại sao cuộc đời tôi cứ gặp bất trắc. Đôi khi những bất hạnh của bạn không bằng một hạt cát của người khác. Vì vậy, cách sống vui là phải biết trân trọng và tận hưởng những gì mình đang có. Đừng tham lam và xem thường, nếu không thì bạn sẽ mãi mãi khổ vì những đòi hỏi quá mức của bạn!

ST


 

Cuba nghèo do Mỹ cấm vận hay cơ chế chính trị?-Trần Trung Đạo

Ba’o Tieng Dan

26/08/2025

Trần Trung Đạo

25-8-2025

Hai đảng Cộng sản Việt Nam và Cuba là hai anh em từng chia ngọt sẻ bùi trong suốt thời kỳ Chiến tranh lạnh, từng đổ máu cho tham vọng của các đảng Cộng sản đàn anh. Cuba đổ máu ở Angola, Nicaragua, CSVN đổ máu ở Miên, Lào.

Ngày 28 tháng 9 năm 2009, ông Nguyễn Minh Triết, chủ tịch nước CSVN, thăm Cuba và tại đây ông phát biểu: “Việt Nam Cuba, như là trời đất sinh ra, một anh ở phía Đông, một anh ở phía Tây, chúng ta thay nhau canh giữ hòa bình cho thế giới. Cuba thức thì Việt Nam ngủ, Việt Nam gác thì Cuba nghỉ”.

Nhiều người nghĩ ông Nguyễn Minh Triết ví von một cách vô duyên nên cười mai mỉa mà quên đi ý nghĩa rất thật trong câu nói của ông. Ông nói đúng. Giờ đây trong cảnh chợ chiều, những tên lái buôn quốc tế đã phá sản hay bỏ đi, hai anh em canh cánh một mối lo cho tương lai chủ nghĩa xã hội còn xa hơn đường lên sao hỏa. Nhìn lại hai đảng, thân thể già nua, bệnh hoạn, hai cánh tay tuyên truyền và trấn áp một thời gân guốc đang mỗi ngày thêm run rẩy và yếu dần. Trí nhớ còn tốt nhưng chỉ nhớ những chuyện đáng quên đi.

Chưa bao giờ người anh em Cuba của CSVN phải chịu đựng nghèo đói như hôm nay. Tại Cuba, ngoại trừ giới lãnh đạo đảng, người dân thiếu gần như mọi thứ cần thiết cho đời sống, từ điện nước tới thức ăn. Tháng 3 năm 2024, Cuba lần đầu tiên phải gởi thư lên Liên Hiệp Quốc để xin sữa cho trẻ em. (Cuba for the first time asks UN for urgent aid to provide milk for children, El Pais, MAR 01, 2024 – 07:04 EST).

Trong suốt thế kỷ 19, Cuba là nước giàu nhất ở châu Mỹ La Tinh với sự phát triển của các ngành thuốc lá, mía, café. Vào thời điểm 1959, GDP theo đầu người Cuba là 2.067 dollar. Mức phát triển này gần với các nước đang phát triển trong khu vực như Ecuador (1.975), Jamaica (2.541), Panama (2.322).

Theo cập nhật mới nhất của Federal Reserve Bank of St. Louise, GDP trên đầu người chính thức vào ngày 2 tháng 7 năm 2025 là 7.433 dollar nhưng lương trung bình của công nhân Cuba chỉ từ 15 đến 30 dollar mỗi tháng. Nếu khấu trừ mức lạm phát, tiền lương của công nhân Cuba không tăng một đồng nào trong suốt 20 năm qua.

Theo báo El País, tờ báo có uy tín nhất trong ngôn ngữ Spanish, “Gần 90 phần trăm dân Cuba sống trong nghèo đói cùng cực”. Trong số 10 người dân Cuba, có 7 người phải nhịn một bữa ăn trong ngày, bữa trưa hay bữa tối, vì không có tiền hay không có thức ăn. Chỉ 15 phần trăm dân chúng được ăn ngày ba bữa. (Carla Gloria Colomé, Almost 90% of the Cuban population lives in ‘extreme poverty’ according to new study, El País, July 29 2024).

Con đường từ tham nhũng độc tài tới chuyên chính toàn trị

Nhắc lại lịch sử Cuba hiện đại, phong trào nổi dậy chống chế độ tham nhũng Fulgencio Batista đầu tiên là Phong Trào 26 tháng 7 năm 1953 (Movimiento 26 de Julio). Thoạt đầu phong trào thu hút được một số đông nông dân bất mãn với các chính sách sản xuất và thu mua mía, sản phẩm chính của nông nghiệp Cuba và chính quyền vi hiến của Batista. Fulgencio Batista bị lật đổ và trốn sang Mỹ. Ông ta qua đời 26 tháng 8 năm 1973 tại Guadalmina, Spain.

Nhưng sau khi lật đổ Fulgencio Batista, Fidel Castro và Che Guevara thay vì tiến hành các cải cách kinh tế và mở rộng tự do chính trị như đã hứa, đã rập khuôn mô hình chính trị chuyên chế và kinh tế tập trung do Lenin để lại ở Liên Xô. Chế độ Cộng sản tại Cuba còn khắt khe hơn các các nước Cộng sản thuộc khối Đông Âu.

Chỉ sáu tháng đầu năm 1959, đoàn quân dưới quyền của Castro đã xử tử 550 người Cuba bị gán ghép tội “chống đối chính quyền cách mạng” hay đã từng “phục vụ trong chế độ Fulgencio Batista”. Chính Che Guevara thừa nhận đã ra lịnh giết 216 người được cho là “phản cách mạng”. Con số thật hiện vẫn chưa được biết. Danh sách những người bị Che giết đăng đầy đủ trong luận án tiến sĩ của Tiến sĩ Armando M. Lago (Armando M. Lago, Cuba: The Human Cost of Social Revolution, 216 Documented Victims Of Ché Guevara In Cuba: Cuba Archive).

Fidel Castro còn giao Che Guevara trách nhiệm cai quản nhà tù La Cabaña, kết quả hàng trăm người bị xử bắn. “Cuba Archive”, một đề án phi lợi nhuận phục vụ nhân quyền tại Cuba đã tổng kết được danh sách của 8,200 người bị mất tích dưới chế độ Castro và đề án này hiện đang tiếp tục được tổng kết.

Tiến sĩ Lago, thuộc đại học Havard, dựa theo các báo cáo của lực lượng tuần dương Mỹ đã ước lượng số người dân Cuba chết trên đường vượt biển là 77.000. Nhiều người bị giết trên đường vượt biển, không nằm trong danh sách đó, là do trực thăng của công an Cuba thả bao cát cho bè chìm, bắn thẳng xuống bè, ra lịnh tàu hải quân Cuba tông vào những chiếc bè mong manh. Trường hợp tàn sát “The Canimar River” hay “Tugboat massacre of 1994”, trong đó nhiều trẻ em bị giết được ghi nhận nhưng nhiều trường hợp khác sẽ không được biết, ít nhất cho đến ngày chế độ Cộng sản Cuba sụp đổ.

Sách Đen về Chủ Nghĩa Cộng Sản (The Black Book of Communism) ước lượng khoảng 15.000 đến 17.000 người Cuba bị xử tử dưới chế độ Cộng sản. Castro chết nhưng bộ máy vẫn còn nguyên và sau đó Raul Castro lên nắm quyền cai trị.

Fidel Castro quốc hữu hóa tài sản các công ty Mỹ, đầu tiên là công ty điện thoại ITT, sau đó là các nhà máy lọc dầu của các công ty Shell, Texaco, Esso.

Mỹ cấm vận Cuba

Phản ứng lại, ngày 19 tháng 10 năm 1960, TT Dwight D. Eisenhower trừng phạt Cuba bằng cách ra lệnh cấm vận các hàng hóa Mỹ xuất cảng sang Cuba ngoại trừ y tế.

Tháng 2, 1962, TT John F. Kennedy ra lịnh cấm vận các sản phẩm Cuba nhập vào Mỹ. Qua các thời kỳ tổng thống Mỹ từ Eisenhower đến nay, quan hệ giữa Mỹ và Cuba có khi nóng khi lạnh, khi nới lỏng khi siết chặt, nhưng các điểm trọng tâm trong chính sách cấm vận của Mỹ đối với Cuba vẫn không thay đổi. Chính sách cấm vận đối với Cuba chi phối bởi nhiều đạo luật Trading with the Enemy Act 1917 và Foreign Assistance Act nên muốn hủy bỏ phải được Quốc Hội Hoa Kỳ phê chuẩn và cho đến nay Quốc Hội chưa thông qua một đạo luật nào nhằm hủy bỏ cấm vận đối với Cuba.

Nhưng có phải vì cấm vận mà Cuba đi vào ngõ cụt như ngày nay?

Không phải. Cấm vận gây tác hại lớn nhưng không phải là nguyên nhân chính. Chính Fidel Castro và giới cai trị đã đưa đất nước Cuba từ một nền kinh tế ổn định trong giai đoạn trước 1959 thành một trong những quốc gia chậm tiến nhất Nam Mỹ và kéo dài cho tới hôm nay.

Các nghiên cứu tâm lý học cho thấy, trong các phương pháp tuyên truyền, phương pháp “lặp đi lặp lại” được xem là phương pháp hữu hiệu nhất không chỉ đối với những người chưa có câu trả lời chắc chắn mà còn có thể làm lung lay những người đã biết rõ nguyên nhân của một vấn đề. Áp dụng phương pháp “lặp đi lặp lại” này, Miguel Díaz-Canel, chủ tịch Cuba kiêm Bí thư Thứ Nhất đảng Cộng sản Cuba từ 2019 đổ lỗi chính sách cấm vận cho những khó khăn và bất ổn cho Mỹ. Nhiều người bị ảnh hưởng bởi phương pháp này nên đồng ý với Miguel Díaz-Canel rằng tình trạng suy thoái kinh tế và đời sống nghèo nàn của người dân Cuba phát xuất từ chính sách cấm vận của Mỹ.

Không phải vậy. Cuba không phải một quốc gia hải đảo hoàn toàn bị cô lập về mọi mặt mà là hội viên của WTO và có quan hệ kinh tế, thương mại với 138 quốc gia. Theo số liệu của World Integrated Trade Solution, năm 2022 Cuba xuất cảng 454 sản phẩm đủ loại đến 88 quốc gia và nhập cảng 3,437 sản phẩm từ 138 quốc gia. (Trade Summary For Cuba, 2022).

Ngoài Trung Cộng, nước có quan hệ thương mại hàng đầu, và Nga, Cuba còn có quan hệ kinh tế với các nước thuộc cộng đồng kinh tế Âu Châu, Canada, Venezuela. Nhưng quan trọng không phải có quan hệ kinh tế thương mại rộng rãi mà quan trọng là có gì để bán và có tiền để mua. Năm 2023, Cuba chỉ xuất cảng được vỏn vẹn 1.05 tỉ dollar, nhiều nhất qua Trung Cộng và bị xếp vào hàng thứ 158 trên thế giới. Giá trị xuất cảng tính theo đầu người của Cuba là 95.7 dollar đứng hàng thứ 191 trên 209 quốc gia được quan sát. (The Observatory of Economic Complexity (OEC)).

Mỹ có hoàn toàn cấm vận Cuba không?

Cũng không. Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ khẳng định: “Hoa Kỳ mong muốn một đất nước ổn định, thịnh vượng và tự do cho nhân dân Cuba. Hoa Kỳ theo đuổi sự hợp tác hạn chế với Cuba nhằm thúc đẩy lợi ích quốc gia và trao quyền cho người dân Cuba, đồng thời hạn chế các hoạt động kinh tế mang lại lợi ích không cân xứng cho chính phủ Cuba hoặc các cơ quan quân sự, tình báo hoặc an ninh của chính phủ, gây bất lợi cho người dân Cuba. Chính phủ Hoa Kỳ mong muốn thúc đẩy nhân quyền, tự do tôn giáo và dân chủ, khuyến khích phát triển viễn thông và internet tại Cuba, hỗ trợ sự phát triển của khu vực tư nhân và xã hội dân sự non trẻ của Cuba, và tham gia vào các lĩnh vực thúc đẩy lợi ích của Hoa Kỳ và nhân dân Cuba. (U.S-Cuba Relations, US State Department 2025).

Chỉ riêng tháng 6 đầu năm 2025 xuất cảng thực phẩm/nông nghiệp sang Cuba tăng 10% – Kim ngạch xuất cảng các sản phẩm thực phẩm và hàng hóa nông nghiệp từ Hoa Kỳ sang Cuba trong tháng 6 năm 2025 là 38.427.114 dollar so với 34.916.865 dollar trong tháng 6 năm 2024 và 37.071.007 dollar trong tháng 6 năm 2023. (Economic Eye On Cuba, August 2025).

Mức tăng GDP của Cuba năm 2023 là một số âm -1.9 trong lúc Congo ở Phi Châu là 6.7. Suốt 20 năm, người dân Cuba chưa bao giờ được phép biết con số thật sự về các chỉ số kinh tế của đất nước họ.

Theo Havana Times, “mặc dù chính phủ vẫn tiếp tục phủ nhận nghèo đói là một vấn đề xã hội trong xã hội Cuba hiện nay, thống kê cho thấy mối lo ngại của người dân Cuba về khủng hoảng lương thực (70%) đang gia tăng. Tiếp theo là lương (50%), lạm phát (34%) và y tế công (22%) là những mối quan tâm chính của người dân. Đáng chú ý, 86% số người được khảo sát chỉ trích cách quản lý kinh tế và xã hội của các nhà lãnh đạo, với 68% đánh giá là “rất tiêu cực”. Gần chín trong số mười gia đình chỉ kiếm được “đủ sống”, và 65% trong số họ thừa nhận gặp khó khăn ngay cả khi mua những mặt hàng thiết yếu nhất”.

Cơ chế chính trị chuyên chính độc tài đã trói chặt hai chân Cuba và giết chết mọi tinh thần cạnh tranh phát triển, tự do sáng tạo của con người.

Một phụ nữ tìm kiếm các vật dụng trong thùng rác ở Havana, Cuba. Ảnh chụp ngày 15-7-2025. Nguồn: AP

Sau 66 năm chịu đựng, ngày nay người dân Cuba biết rõ tội phạm là ai. Họ biết dù Mỹ có hủy bỏ cấm vận, nền kinh tế tập trung cũng sẽ không làm Cuba phát triển được, chế độ độc đảng sẽ không chấm dứt, đời sống của người dân cũng không cải thiện được và ánh sáng tự do dân chủ mà đa số con người trên thế giới đang hưởng vẫn sẽ không soi rọi vào đảo quốc Cuba cho đến khi nào chế độ Cộng sản Cuba sụp đổ.

Do đó, không ngạc nhiên, ngày 12 tháng 7 năm 2021, thay vì biểu tình đòi hỏi các cải cách kinh tế, người dân Cuba đã can đảm hô to các khẩu hiệu “Đả đảo độc tài”, “Đả đảo Cộng sản”, “Tự do!” Các lãnh tụ phong trào dân chủ như Jose Daniel Ferrer, Felix Navarro bị bắt nhiều lần nhưng tinh thần dân chủ vẫn còn sống mạnh.

Díaz-Canel lo sợ và kêu gọi các đảng viên Cộng sản và các thành phần ủng hộ giới cai trị Cộng sản, xuống đường để “bảo vệ cách mạng” đúng ra là “bảo vệ quyền lợi” của giới cán bộ, đảng viên có đặc quyền trong xã hội.

Dù chưa thành công, các cuộc biểu tình của người dân Cuba đã cho thấy có một giới hạn của sự chịu đựng và đặc tính dễ vỡ của cơ chế độc tài Cộng sản tại Cuba. Giới hạn đó cao thấp bao nhiêu tùy thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có cả lịch sử, văn hóa, kinh tế, địa lý và nhất là nhận thức chính trị của người dân.

Giống như người dân Cuba, người dân Việt Nam cũng có giới hạn nhưng dường như mức chịu đựng của người Việt Nam cao hơn người dân Cuba. Không ít người Việt Nam mỉm cười với số phận thay vì tìm cách thoát ra. Những ai tự gán cho mình trách nhiệm “khai dân trí” không nên trách móc mà phải tìm cho ra giới hạn đặt ở đâu để từ đó thúc đẩy sự thay đổi. Con đường chắc còn dài, còn khó nhưng nâng cao nhận thức để tự cứu lấy mình là con đường đúng nhất và không có con đường nào khác.

Bài học các cuộc cách mạng dân chủ đã diễn ra tại Mông Cổ hay Hungary hồi cuối thế kỷ 20 cho thấy đây là thời điểm của chọn lựa, không chỉ chọn lựa của người dân mà còn là chọn lựa của những người đang do dự và cả những người nằm trong giới cầm quyền. Nếu thành phần yêu tự do hay nghiêng về phía tự do dù đang đứng trong không gian nào tạo nên áp lực đủ mạnh, đất nước sẽ thay đổi.

Phong trào dân chủ Cuba hiện nay không phải tự nhiên bộc phát mà ngọn lửa tự do đã âm ỉ cháy từ nhiều năm trước. Các tổ chức như Ladies in White được giải nhân quyền Sakharov 2005, Đề án Varela (Varela Project) thu thập hơn 10 ngàn chữ ký đòi hỏi tự do nhân quyền, xương máu của rất nhiều người Cuba chết trong ngục tù Cộng sản là những viên gạch lót đường cho nền dân chủ Cuba sau này. (Cubans petition for democratic reforms, 1998-2003, Global Nonviolent Action Database).

Đảng phải biết, đàn áp càng đẫm máu chỉ làm cho bản án dành cho họ nặng nề hơn, cái chết của họ đau đớn hơn. Tổng Bí Thư đảng Cộng sản Hungary Károly Grósz không bị kết án sau các cuộc vận động dân chủ Hungary 1989 trong lúc vợ chồng Romania bị xử bắn. Cái chết của những kẻ độc tài để lại cho những ai còn đang cố bám lấy quyền lực một bài học: Tình đồng chí chỉ có giá trị khi chiếc ghế quyền lực còn vững chắc, một khi chiếc ghế quyền lực lung lay, kẻ xử bắn không phải ai xa lạ mà có khi chính là những kẻ trước đó không lâu đã thề thốt trung thành.

Dù tù đày hay đói khát, người dân Cuba vẫn tiếp tục đấu tranh cho tự do, no ấm và họ sẽ thành công. Không có sự hy sinh nào cho tương lai con cháu là hy sinh oan uổng.


 

THÁNH AUGUSTINO – GIÁM MỤC, TIẾN SĨ HỘI THÁNH – Enzo Lodi

 Enzo Lodi

 1.Ghi nhận lịch sử – phụng vụ

 Việc kính nhớ thánh Augustin, một trong bốn tiến sỹ lớn của Giáo hội la tinh, qua đời tại Hippone ngày 28 tháng 8 năm 430, đã xuất hiện trong sách các phép thế kỷ thứ III, và ở Roma từ thế kỷ XI.

 Aurelius Augustinus sinh ngày 13 tháng 11 năm 354 tại Thagaste (nay là Souk-Ahras, Algéric) ở Châu Phi thuộc Roma.  Là công dân Roma, con một người cha không công giáo tên Patricius và một bà mẹ công giáo tên Mônica, Augustin trước học văn phạm ở Madanre, đến năm 371, đi sang Carthage thủ phủ châu Phi Roma để theo học triết lý – Mê say đọc Hortensius của Cicéron, Augustin khám phá triết học và đam mê đi tìm chân lý.  Vì nhu cầu nuôi sống gia đình ông buộc lòng nhận dạy tu từ học ở Carthage.  Thời gian đó ông theo lạc thuyết Manichée trong chín năm, mong tìm được chân lý nơi tôn giáo này.  Trước tiên, ông bị mê hoặc bởi giáo thuyết này tưởng có thể giải thích sự tranh chấp giữa Thiện và Ác, cái đẹp và những điều lộn xộn nơi thế giới, nhưng rồi ông thất vọng.  Năm 383, Augustin bỏ Carthage sang Roma trước khi đến Milan lúc đó là thủ phủ đế quốc Roma phương Tây, tại đây ông cũng dạy tu từ.  Mẹ Ngài là bà Mônica đã đến tìm gặp ông ở đây, và cũng chính tại đây, đường chuyển biến tinh thần của Augustin kết thúc nhờ thánh giám mục Ambroise mở đường cho Ngài hiểu Kinh thánh và một thứ tân Platon thuyết có vẻ đáp ứng niềm khát mong chân lý nơi Ngài.  Giờ đây Augustin đã sẵn sàng cho bước nhảy tới Chúa, tức là trở lại.

 Một giai thoại nhiều người biết xảy ra trong vườn nhà Ngài ở Milan đã được thánh nhân kể trong quyển Tự Thuật: “Tâm hồn đau đớn, con tim tan nát, tôi đang khóc, bỗng tôi nghe từ nhà bên cạnh tiếng hát của một người con trai hay con gái không rõ.  Tiếng hát không rõ nhưng nghe lặp nhiều lần: Tolles, lege. Tolles, lege (Cầm lên, đọc đi!  Cầm lên, đọc đi!).  Vậy nên tôi vội vã đến chỗ Alypius ngồi, tôi cầm lấy cuốn sách của Thánh Tông đồ, mở ra và im lặng đọc khúc đầu tiên bắt gặp: Đừng chè chén say sưa, đừng chơi bời dâm đãng, cũng đừng cãi cọ ghen tuông.  Trái lại hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô và đừng chiều theo xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng (Rm 13,13)….  Chính lúc này, như có một luồng sáng tỏa lan hồn tôi phá tan mọi bóng tối nghi ngờ” (XIIII,12).  Tám tháng sau, thánh Ambroise rửa tội cho Ngài trong đêm Phục sinh đêm 24 rạng sáng ngày 25 tháng tư năm 387.

 Năm 388 sau khi mẹ qua đời tại Ostie, Augustin trở về Thagaste ở châu Phi cùng với ông bạn Alypius và Adeodat con trai.  Mong ước cuộc sống chuyên tu, Augustin tập hợp một số bạn hữu lại và cùng sống đời dòng tu, chuyên nghiên cứu và cầu nguyện trong ba năm (388-391), sau đó, thể theo đề nghị của giáo dân Hippone, Augustin thụ phong linh mục để giúp đỡ Đức giám mục Valère.  Năm 395 Ngài thụ phong giám mục và một năm sau, kế vị Đức giám mục Valère làm giám mục Hippone, thành phố lớn thứ hai châu Phi.  Từ đây, trong suốt ba mươi lăm năm trong đại thánh đường An Bình, Ngài chú giải Thánh vịnh và các Sách thánh, ngồi tòa xử án, theo dõi việc quản trị tài sản Hội thánh, trả lời các thư tín đến từ khắp phương Tây, biện luận đả kích lạc giáo, đặc biệt là phái Donatus và Pélagius.

 Cùng với các giáo sỹ của mình sống đời tu trì, thánh Augustin cũng sáng tác một số tác phẩm rất quan trọng, như Confessions (397-401), Giáo lý dự tòng (400), Giáo lý công giáo (394-416).  Đối với phái Donatus vẫn tự phụ là Giáo hội của những người Trong Trắng, thánh thiện, Ngài dùng nhiều thái độ khác nhau liên tục, khi diễn thuyết, lúc tranh luận cho đến một cuộc tranh luận phản biện tại Carthage năm 411 dưới sự chủ tọa của một đại diện hoàng đế đã đến kết luận rằng người công giáo mà Augustin là phát ngôn nhân, thắng.  Từ đó những người theo phái Donatus bị cảnh sát hoàng đế truy đuổi.  Với phe Pélagius (bị Roma kết án năm 417), Augustin chứng tỏ là một tiến sỹ lớn về ân sủng và tiền định. Cũng trong thời gian đó một số tác phẩm khác ra đời: Đô thành Thiên Chúa (413-424), Chúa Ba Ngôi (399-422).  Cuốn những lời phản biện (Rétractations) viết vào những năm cuối đời (426-427) là chứng tá đức khiêm tốn thánh Augustin: “Tôi đọc lại các tác phẩm thô hèn của mình và nếu có đoạn nào gây cho tôi hoặc có thể gây cho người khác khó chịu thì lúc đó tôi lên án nó, có lúc phải giải thích ý nghĩa cần có để biện minh cho nó.”

 Những năm cuối đời của thánh Augustin nhuốm màu ảm đạm vì châu Phi Roma và Hippone, thành phố có toà giám mục của Ngài bị người Vandales vây hãm và xâm chiếm; lúc này đã bảy mươi sáu tuổi, thánh Augustin giám mục vẫn cần mẫn chu toàn bổn phận giáo huấn và quản trị, đồng thời lo cho rất nhiều người di cư đến tìm trốn tránh tại thành phố.  Tháng thứ ba kể từ ngày thành phố bị vây hãm, Người bị bệnh và qua đời ngày 28 tháng 8 năm 430, trối các sách vở của mình lại cho Giáo hội Hippone.  Mười lăm tháng sau khi người Vandales chiếm thành phố, mộ và thư viện thánh Augustin vẫn được tôn trọng.

 Các ảnh tượng về thánh Augustin rất nhiều chứng tỏ ảnh hưởng lan tỏa lạ thường của sự thánh thiện và giáo lý Người, đặc biệt là các tác phẩm của Fra Angelico và G.de Crayer (Louvre) và G.Coustou (Versailles).

2. Thông điệp và tính thời sự

 Lời nguyện trong ngày van xin Thiên Chúa cho chúng ta được tràn đầy tinh thần của thánh Augustinô, chỉ khao khát mỗi mình Thiên Chúa và chỉ tìm Người vì Người là nguồn của sự khôn ngoan.  Đề tài tìm kiếm chân lý là trọng tâm của đời sống thánh nhân; ngài nói với Cassiciacum: “Tâm hồn con xin nói Ngài: Con đã đi tìm nhan thánh Chúa!  Lạy Chúa, cho đến bây giờ, con vẫn đi tìm nhan thánh Ngài !” (Tự thuật IX,3). 

Trong bản văn Phụng vụ giờ kinh, vị thánh tiến sĩ thành Hippone ca tụng chân lý: “Chí có tình yêu mới có thể nhận ra chân lý.  Ôi chân lý vĩnh hằng!  Ôi tình yêu vĩnh cửu, Ôi sự đời đời đáng yêu!  Ngài là Thiên Chúa của con, con khao khát Chúa đêm ngày…  Cuối cùng con đã được ôm lấy Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người, Đức Giêsu Kitô!…  Chính Người đã gọi chúng con và nói rằng: Ta là Đường, là sự Thật và là sự sống” (Tự thuật VII, 10.18).  Bài đọc này trích đoạn nổi tiếng mà chúng ta gặp trong điệp ca Magnificat: “Ôi sự đẹp đẽ vừa cổ kính vừa mới lạ, Con đã yêu Người quá trễ!  Nhưng bây giờ: Ngài ở trong con, trong khi con còn ở bên ngoài, và ở bên ngoài con lại đi tìm Chúa… Chúa luôn ở với con, còn con con không ở với Chúa…  Ngài đã gọi con, đã kêu lớn tiếng, cuối cùng Chúa đã thắng sự điếc lát của con; Chúa tỏ sáng, Chúa bừng lên và Chúa đã xua đuổi sự tối mù của con…” (Tự thuật; Chúa tỏ sáng, Chúa bừng lên và Chúa đã xua đuổi sự tối mù của con…) (Tự thuật X,27).

 Sự khôn ngoan của thánh Augustinô được nhận thấy trong Lề luật viện tư tưởng, xuất phát từ những giáo huấn trong một lá thư của thánh tiến sĩ, được phổ biến rộng rãi vào thời Trung Cổ.  Bản Luật này cũng ảnh hưởng trên thánh Bênêđíctô, sau đó là các kinh sĩ của thánh Phanxicô và thánh Đaminh. “Từ một trái tim duy nhất và từ một tâm hồn duy nhất, hướng về Thiên Chúa” luôn là luật căn bản, như lý tưởng của chính cộng đoàn tiên khởi (x. Cv 2,42-47).

 Lời nguyện Hiệp Lễ lấy cảm hứng từ các Bài giảng của thánh nhân (57,7) làm nổi bật một khía cạnh khác của giáo lý thánh Augustinô: bí tích Thánh Thể giúp chúng ta đồng hình đồng dạng với Đấng mà chúng ta rước lấy.  Vì thế chúng ta cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cho việc thông phần vào Bàn Tiệc thánh hóa chúng con, để một khi chúng con là chi thể của Nhiệm Thể của Người, chúng con thật sự trở thành điều chúng con đã lãnh nhận.”

 Thánh Tiến sĩ Ân sủng, vì đã chống lại nhóm Pelagius, cũng là kẻ bảo vệ tự tự do của con người, vì sự tự do này không bị sự toàn năng của Thiên Chúa bóp nghẹt, nhưng ngược lại được nâng lên thật cao quí, vì Thiên Chúa một khi đội mão triều thiên cho công nghiệp của chúng ta (nhờ ân sủng) thì cũng đội triều thiên cho chính ân sủng của Người (sự tự do).

 Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã tuyên bố về thánh Augustinô: “Tất cả phẩm chất của các Giáo phụ nổi bật trong thánh nhân ở mức độ tuyệt diệu nhất.”  Thật vậy, không ai trình bày về Hội Thánh như ngài.  Say mê Thiên Chúa và con người, ảnh hưởng của ngài có thể nói là nổi bật nhất trong phạm trù công giáo.

 Enzo Lodi

From: Langthangchieutim


 

Sức mạnh của sự tha thứ – TRẦM THIÊN THU 

TRẦM THIÊN THU 

Một trong các khía cạnh tuyệt vời nhất của sự tha thứ là hệ quả tẩy rửa và cao quý, tạo nên tính cách của người tha thứ. Rõ ràng, người ta không chịu tha thứ vì chưa hiểu giá trị cao quý của lòng tha thứ. Người ta ít khi đạt tới đỉnh cao của sức mạnh và sự cao thượng nên khó loại bỏ cơn oán giận, khó tha thứ sai lầm của người khác.

 Chắc chắn sự trả thù không thể chấp nhận khi giải quyết xung khắc. Trong Bài Giảng Trên Núi, Chúa Giêsu đưa ra phương pháp tốt nhất mà không cần phải trả thù: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5:7).

 Thánh Phaolô cũng khuyên: “Hãy chúc lành cho những người bắt bớ anh em, chúc lành chứ đừng nguyền rủa: vui với người vui, khóc với người khóc. Hãy đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn. Anh em đừng cho mình là khôn ngoan, đừng lấy ác báo ác, hãy chú tâm vào những điều mọi người cho là tốt. Hãy làm tất cả những gì anh em có thể làm được, để sống hoà thuận với mọi người. Anh em thân mến, đừng tự mình báo oán, nhưng hãy để cho cơn thịnh nộ của Thiên Chúa làm việc đó, vì có lời chép: Đức Chúa phán: Chính Ta sẽ báo oán, chính Ta sẽ đáp trả. Trái lại, kẻ thù ngươi có đói, hãy cho nó ăn; có khát, hãy cho nó uống; làm như vậy, ngươi sẽ chất than hồng lên đầu nó. Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác” (Rm 12:14-21). Thế nhưng nhiều người lại cho rằng đời sống thực tế phức tạp hơn nhiều, khó có thể yêu thương và tha thứ cho mọi người.

 Tuy nhiên, hãy cân nhắc các vụ khủng bố thường xuyên xảy ra và giết người bừa bãi ngày nay, đó là hậu quả của các cuộ xung đột giữa các quốc gia, sự tha thứ là khí cụ rất cần thiết để chữa lành các vết thương của thế giới đầy những thứ rắc rối này. Tha thứ là thách đố lớn vì hòa bình thế giới, tha thứ là điều cấp bách và không thể coi thường. Xã hội luôn cần có hòa bình và tha thứ. Các gia đình, các giáo xứ, các cộng đoàn tu trì, các hội đoàn, các nhóm, các tổ chức, các quốc gia, và cả cộng đồng quốc tế luôn rất cần sự tha thứ để phục hồi các hệ lụy đã bị rạn nứt hoặc bị tách rời

 Cựu Ước giới thiệu Thiên Chúa là Đấng “có lòng thương xót và hay tha thứ” (Đn 9:9). Đức Chúa là Thiên Chúa của ân sủng, thương xót không ngừng, và sẵn sàng tha thứ, mặc dù chúng ta “cứng đầu cứng cổ không vâng lệnh Chúa truyền, giả điếc làm ngơ, cũng chẳng thèm ghi nhớ những kỳ công Chúa làm” (Nkm 9:16). Trong Tân Ước, lòng tha thứ được thể hiện bởi Thánh Stêphanô và Thánh Phaolô, nhưng đỉnh cao và kiểu mẫu của sự tha thứ được diễn tả nơi Đức Giêsu Kitô. Trái tim tha thứ là biểu tượng của sự vĩ đại. Chúng ta có mẫu gương về sự chịu đựng, sự tử tế, lòng bác ái và lòng tha thứ mà Thiên Chúa đã tạo ra hoàn hảo nơi Chúa Giêsu, và chúng ta phải nỗ lực noi gương.

 Chúa Giêsu bị hành hạ, bị sỉ nhục, bị đội vòng gai, bị mỉa mai,… Nhưng Ngài vẫn chịu đựng mọi nhục hình mà con người áp đặt. Khi bị treo trên Thập Giá, Ngài đã nhìn những người lính Rôma bằng ánh mắt nhân từ và bênh vực họ trước mặt Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23:34).

 Chúa Giêsu đã tha thứ cho chúng ta đến giọt máu cuối cùng, vô điều kiện, thế thì chúng ta không thể không thương xót và không tha thứ cho nhau!

 TRẦM THIÊN THU 

(Viết theo DivineMercy.org)

From: NguyenNThu

Sống và yêu – Trầm Thiên Thu

Trầm Thiên Thu

 Chị Brittany Maynard, 29 tuổi, được chẩn đoán có khối u ác tính trong não ở giai đoạn 4 từ hồi tháng 4-2014, và bác sĩ nói chị chỉ còn sống thêm trong vòng 6 tháng.

 Ngày 1-11-2014, chị sẽ kết thúc cuộc đời với sự trợ tử của bác sĩ bằng phương pháp “an tử” (làm cho chết êm ái). Chị cho biết rằng chị không muốn chị và gia đình chịu nỗi đau khổ vì chứng ung thư não của chị. Chắc chắn đây là tình cảm tốt đẹp khi người ta không muốn những người thân chịu đau khổ, nhưng đó không phải là cách yêu thương!

 Các phương tiện truyền thông hết lời ca tụng quyết định của Brittany là can đảm. Thật mắc cười khi các phương tiện truyền thông khen chị dám chết vì không muốn gia đình đau khổ, và kêu gọi những người khác hủy hoại sự sống mà không cần bác sĩ trợ tử. Nhưng các phương tiện truyền thông ca tụng một phụ nữ trẻ mới kết hôn mà lại muốn chết chứ không muốn sống. Các phương tiện truyền thông ca tụng sự chết, dù đó là phá thai, an tử, hoặc trợ tử, họ gọi đó là sự chọn lựa, sự tự do, hoặc sự can đảm. Tuy nhiên, Thiên Chúa cấm chúng ta nghĩ rằng chúng ta có thể là gánh nặng cho người khác vì sức khỏe giảm sút hoặc cần được chăm sóc về y tế.

 Sợ hãi là động lực có thật: Sợ những gì ở phía trước, sợ đau khổ, sợ không thể kiềm chế,… Các phương tiện truyền thông và xã hội muốn chúng ta sống trong nỗi lo sợ vì nỗi lo sợ khiến chúng ta phải kiểm soát. Nỗi lo sợ biến chúng ta thành nô lệ dưới chiêu bài của sự tự do, sự can đảm, và sự tự tha thứ cho mình. Nỗi lo sợ xoay chúng ta hướng vào bên trong (tự hướng nội) và làm cho chúng ta tin rằng mình đáng bị thu nhỏ lại.

 Chân phước Chiara Luce Badano đã không sống trong nỗi lo sợ mặc dù Chị chịu đau khổ và chết vì chứng ung thư xương rất đau nhức khi còn ở độ tuổi thiếu niên. Thay vì đầu hàng nỗi đau đớn thể lý, Chị đã chịu đựng đau khổ và nhìn cha mẹ thấy Chị chống chọi với bệnh tật. Chị dùng đau khổ để thánh hóa chính mình và những người khác. Chị dùng đau khổ làm phương tiện để hy vọng.

 Ngược lại, chị Brittany Maynard lại dùng đau khổ làm phương tiện để tuyệt vọng! Buồn biết bao khi Brittany cho phép bóng tối làm tiêu tan chính mình. Chân phước Chiara được một người bạn đặt cho biệt danh Luce khi Chị gia nhập phong trào Focolare, vì Chị là ánh sáng cho người khác. Chị như ánh đuốc soi sáng trong bóng đêm của cuộc sống này để đi tới Chúa Giêsu và sự sống đời đời.

 Các phương tiện truyền thông chẳng bao giờ ca tụng những loại ánh sáng này của con người. Bạn sẽ không bao giờ nghe nói về những con người thầm lặng chịu đau khổ trên đời này, hoặc thời gian kỳ diệu mà họ cố gắng sống tốt, và hôm nay họ vẫn sống vô thường dù ngày mai họ sẽ chết, họ sống như thể là bất tử. Những con người này là những ánh đuốc sáng thực sự trong thế giới này, họ đối diện với bóng tối và tuyên bố: “Mi cứ làm điều tồi tệ nhất! Tôi sẽ không bị hủy diệt”. Những người này sống trọn vẹn tình yêu thương, hoàn toàn biết từ bỏ mình, ngay cả khi họ phải đối diện với tử thần, họ không bao giờ chịu thua sự cám dỗ của nỗi thất vọng, vì họ biết rằng SỰ SỐNG và TÌNH YÊU đáng tận hưởng. Dù sao thì cuộc đời cũng vẫn đáng sống, không đáng chấm dứt.

 Bạn sẽ chẳng bao giờ nghe nói về những con người như Ginnie Levin. Chị được chẩn đoán bị ung thư vú, mặc dù cắt cả hai vú và các khối u, chứng ung thư vẫn di căn tới nhiều bộ phận khác trên cơ thể. Chỉ còn ít thời gian ngắn ngủi trên thế gian này, chị muốn dành tất cả cho gia đình. Người bà và người mẹ của chị đã chết vì ung thư, người cha của chị cũng đang phải điều trị ung thư. Ginnie muốn tới thế giới của Walt Disney với gia đình một lần nữa, tạo ký ức vui mừng một lần cuối. Xin mọi người hãy cầu nguyện nhiều cho chị Gennie Levin!

 Trong một thế giới ca tụng việc hủy hoại sự sống, chúng ta hãy ca tụng Sự sống. Hãy tạo sự khác biệt trong cách sống của chúng ta hôm nay!

 Thánh nữ Teresa Margaret Thánh Tâm Chúa (Dòng Kín Chân Đất, 1747-1770) nói: “Không có gì phải than phiền, tôi sẽ chịu đựng mọi thứ vì yêu mến Chúa, tôi không có gì phải lo sợ”. Chân phước Chiara Luce được an táng với chiếc áo cưới vì Chị sẽ đi gặp Đức Lang Quân là Chúa Giêsu trong cõi trường sinh. Chết lúc mới 19 tuổi vì bệnh trầm kha, nhưng chân phước Chiara Luce vẫn khả dĩ nói: “Tôi không còn lại gì, nhưng tôi vẫn còn trái tim, và tôi có thể yêu thương bằng trái tim đó”.

 Chị Chiara Luce Badano sinh ngày 29-10-1971 tại ngôi làng nhỏ Sassello ở Ý quốc, qua đời ngày 7-10-1990 sau một năm đau đớn vì chứng ung thư xương. Chị được Giáo hội tôn phong chân phước ngày 25-9-2010.

 TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ IgnitumToday.com)

From: Thu & Mai


 

THÁNH THẤT – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

THÁNH THẤT – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Hãy rửa cho sạch bên trong!”.

“Sự vinh hiển của người lành ở trong lương tâm họ, chứ không phải ở miệng lưỡi của người khác!” – Carl Henry.

Kính thưa Anh Chị em,

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho thấy sự vinh hiển của người Pharisêu không ở bên trong – ‘thánh thất’ tâm hồn họ – nhưng ở miệng lưỡi của người đời.

Điều Chúa Giêsu muốn nói là chúng ta phải thực sự trở nên thánh thiện, chứ không chỉ ‘có vẻ’ thánh thiện hoặc ‘xem ra’ thánh thiện. Từ sự thánh thiện bên trong này, chúng ta nhất định sẽ toả chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa cho thế giới. Vì thế, chớ gì những lời thẳng thắn của Chúa Giêsu dành cho những người Pharisêu – “Khốn cho các người, những kẻ đạo đức giả!” – sẽ là những lời yêu thương chính Ngài đang mời gọi bạn và tôi hoán cải! “Hãy coi chừng kẻo thành những vị thánh trong mắt người đời mà lại trống rỗng trước nhan Thiên Chúa!” – Thomas à Kempis.

Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng có một định nghĩa tuyệt vời về lương tâm, “Lương tâm là tâm điểm sâu kín nhất, là cung thánh của con người; nơi đây, con người hiện diện một mình với Thiên Chúa và tiếng nói của Ngài vang dội trong thâm tâm họ!”. ‘Thánh thất’ bên trong này là điều Chúa Giêsu rất mực quan tâm – đang khi – chúng ta lại thường bị cám dỗ quan tâm nhiều đến việc ‘tôi thế nào’ trước mắt người khác. “Chúa Kitô không hỏi bạn được người đời nhìn thế nào, nhưng hỏi bạn đứng thế nào trước Ngài trong cung thánh lòng bạn!” – Thomas Merton.

Phaolô viết, “Không bao giờ chúng tôi đã tìm cách để được một người phàm nào tôn vinh, dù là anh em hay người khác”; điều quan trọng với Phaolô là khi rao giảng, “Không phải để làm vừa lòng người phàm, mà để làm đẹp lòng Thiên Chúa!” – bài đọc một – Đấng mà Thánh Vịnh đáp ca nói, “Ngài dò xét con và Ngài biết rõ!”. Vì thế, những gì người khác nghĩ và nói, khen và chê không là vấn đề; vấn đề là sự thật mà chỉ một mình bạn và Thiên Chúa thấy trong tim bạn! Người biệt phái không hiểu lẽ thật thiết yếu này nên họ dồn tâm sức vào việc thể hiện mình, đang khi bỏ bê ‘thánh thất’ bên trong. “Trong cung thánh lương tâm, chỉ ánh mắt Thiên Chúa mới quan trọng; còn tất cả chỉ là bóng mờ chóng tàn!” – Henry Newman.

Anh Chị em,

“Hãy rửa cho sạch bên trong!”. Bạn có thường xuyên nhìn vào nội tâm, thành thật với bản thân, thừa nhận tội lỗi và biết ơn những đức hạnh của mình? Hay bạn nằm trong số những người chỉ quan tâm đến việc ‘tôi trông thế nào’ trong mắt người khác? Hãy ‘chìm sâu vào trong’, bởi chính trong không gian ‘thánh thất’ kín nhiệm đó, bạn sẽ gặp Chúa, Chúa sẽ gặp bạn và Ngài sẽ nói cho bạn những gì cần thiết! “Bạn có quyền kiểm soát tâm trí của mình – chứ không phải các sự kiện bên ngoài. Hãy nhận ra điều này, và bạn sẽ tìm thấy sức mạnh!” – Marcus Aurelius. Từ đó, bạn lớn lên trong sự thánh thiện và sau đó, toả sáng sự thánh thiện thực sự này trong thế giới. Khi điều đó xảy ra, Chúa có thể sử dụng bạn để hướng dẫn người khác nên thánh!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con dao động bởi hào quang thế gian, uốn nắn con một chỉ chạy theo ánh sáng Ngài, hầu mọi bước đi của con trở thành dấu chỉ của Chúa!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

**********************************************

Lời Chúa Thứ Ba Tuần XXI Thường Niên, Năm Lẻ

Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.     Mt 23,23-26

23 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các kinh sư và những người Pha-ri-sêu rằng : “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu đạo đức giả ! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ. 24 Hỡi những kẻ dẫn đường mù quáng ! Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà.

25 “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu đạo đức giả ! Các người rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ. 26 Hỡi người Pha-ri-sêu mù quáng kia, hãy rửa bên trong chén đĩa cho sạch trước đã, để bên ngoài cũng được sạch.”


 

 Chuyện quanh chiếc bánh ít – Trần Hoàng Vy 

Kimtrong Lam

Trần Hoàng Vy 

– 24 tháng 8, 2025

(Hình minh họa: YouTube “Vành Khuyên Lê”).

Có lẽ không có người Việt Nam nào là không biết chiếc bánh ít, có điều tùy theo vùng miền mà có hình dáng khác nhau như hình tam giác, hình vuông ở miền Bắc, hình trụ ở miền Trung, hình tháp ở miền Nam, và tùy theo nguyên liệu gói bánh hay nhưn bánh mà có tên gọi: Bánh ít trần, bánh ít lá gai, bánh ít nhân trần, bánh ít nhân mặn…

Theo truyền thuyết trong nghệ thuật ẩm thực, người Việt Nam từ thời xa xưa đã biết làm nhiều loại bánh. Ngoài sự tích bánh chưng, bánh dày, món quà dâng cha mẹ của chàng Lang Liêu hiếu thảo, truyện cổ tích còn kể về nàng Út Ít, cũng là con gái vua Hùng học theo Lang Liêu, dùng nếp làm ra bánh ít.

Và tên chiếc bánh ít cũng đã có mặt rất sớm trong kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam, như lời trách khéo của chàng trai với cô gái: “Bánh cả mâm sao em gọi là bánh… ít /Trầu cả chợ sao em gọi là trầu không?” hay để chỉ sự trao đổi, thỏa thuận qua lại: “Bánh ít đi, bánh quy lại,” và để nhắc nhở về các vùng đất, người xưa đã có ca dao: “ Muốn ăn bánh ít lá gai/Lấy chồng Bình Định sợ dài đường đi.” Hay: “ Muốn ăn bánh ít nhân mè/Lấy chồng Hòa Đại đạp chè thâu đêm/Muốn ăn bánh ít nhân tôm/Lấy chồng Hòa Đại ăn cơm củ mì.” Hoặc đưa vào lời rao: “Ai mua bánh ít bán cho/Nhưn tôm, nhưn thịt, nhưn dừa ngọt ngon!”

Như vậy, bánh ít đã có từ rất lâu đời trong đời sống ẩm thực và cả văn hóa của dân tộc Việt, trong quá trình mở cõi về phương Nam, bánh ít đã theo chân cha ông trong quá trình mở cõi, và qua phát âm theo thói quen của người miền Nam, bánh ít được phát âm thành “Bánh ích,” lý giải về điều này, nhà nghiên cứu văn hoá Hồ Nhật Quang, cho rằng tên gọi và hình dáng của chiếc bánh dân dã này là cả một nét văn hoá sâu sắc của người dân phương Nam: Đó là tên bánh dựa trên hình dáng của nó. Bánh có hình tam giác, theo Hán tự là hình chữ “Ích”.

Trong kinh dịch, 1 trong 64 quẻ dịch là “Phong lôi ích” hay còn gọi tắt là quẻ ích (phong là gió, lôi là sấm, có gió có sấm là sẽ có mưa xuống, mùa màng tươi tốt, là điềm tốt, có ích). Ích có nghĩa là thêm được lợi, vươn lên suôn sẻ, là tăng lên, làm tốt cho nhau.

Hình dáng bánh như hình tam giác mang hình ảnh rất đặc sắc của dân khai khẩn, đó là hình lều trại.

Thuở khai hoang của cư dân Việt thế kỷ 16, 17, miền Nam rất hoang vu, lưu dân vùng Ngũ quảng đến phương Nam phải dựng lều trại để nương thân, lập nghiệp. Mép gấp của bánh tượng trưng cánh cửa của lều. Người miền Nam khi gói bánh ích còn gấp đỉnh đầu xuống một chút, có nơi gọi là bánh nóc chùa. Điều này mô tả thời khai khẩn, người ta phải nương náu cùng nhau trong những đền chùa…”

Bánh ít thường được làm trong những dịp lễ Tết, đám giỗ để dâng cúng Tổ tiên, tưởng nhớ ông bà và thường được kèm với trái cây, vật phẩm cúng tế để làm quà mang về nhà cho người đến dự lễ hay đám giỗ nên thường đi đôi với câu nói “ giỗ quải”  mà theo từ điển Tiếng Việt, “Quải” là phương ngữ có nghĩa là “vãi hay rải thóc… cho gà ăn”, ở đây có ý chia cho và mang về, hay nói vui theo… dân gian là lo đám giỗ thì phải… “quải” oải người, mệt người! Hay đi ăn giỗ thì phải “quải về”, mang vác quà về…?

Nói đến bánh ít, thì phải nói đến tài nội trợ khéo léo và đảm đang của người phụ nữ làm ra chiếc bánh ít, đó là công đoạn chế biến chiếc bánh ít từ những cân nếp thơm, đậu xanh, cơm dừa nạo, đậu phộng, thịt heo, tôm sú và cả những chiếc lá gai hay lá chuối nữa…

Ngày bé, bọn trẻ chúng tôi thường theo mẹ hay bà, ngồi nhìn bàn tay khéo léo của bà, của mẹ, cẩn thận vo, gút từng nắm nếp thơm trong nước cho sạch, xong để ráo, rồi bỏ vào cối xay gạo, xay nhuyễn thành bột gạo, xong bỏ vào bòng, lấy cối đá dằn lên cho ráo nước chờ nặn thành bánh (hiện nay, đã có máy xay bột, đỡ bớt công đoạn cực nhọc nhất cho người làm bánh).

Trong khi chờ bột, lại phải lo chuẩn bị nhân, tùy theo muốn làm bánh “ngọt” hay “mặn” chia ra bánh nhân hay còn gọi là nhưn: đậu xanh, nhân dừa, đậu phộng, thịt heo hay tôm chấy…, rồi đến chuyện hấp trần, hay gói lá chuối, lá gai.

Bánh gói lá chuối cho bánh màu xanh nhẹ, gói lá gai cho bánh màu đen bắt mắt, bỏ thêm ít lá dứa, bánh có mùi thơm nhẹ, kích thích vị giác của người ăn, và mỗi chiếc bánh ít… lại tràn đầy tình cảm của người gói, của tấm lòng con cháu cúng dâng lên các đấng hiền nhân, tổ phụ, ông bà… và cả tấm lòng san sẻ, chia cho con cháu, hàng xóm, láng giềng đến cùng chung chia sẻ, tưởng nhớ.

Bánh ít còn được dâng cúng trong đền chùa, miếu mạo mỗi kỳ tế lễ và luôn được coi là món quà thanh khiết được cúng dường bởi những con trẻ, tín đồ… đầy lòng thành kính!

Chiếc bánh ít nhân đậu xanh, ngọt bùi. Chiếc bánh nhân dừa, vị ngọt béo, sừng sực của những hạt đậu phộng chín… hay phong vị thơm ngon của thịt heo, của tôm chấy, đủ cả… ngũ hành trong ẩm thực và cả âm dương, cân bằng trong ăn uống dưỡng sinh của người xưa… gợi nhớ bao kỷ niệm của đấng sinh thành và người thân ruột thịt trong mỗi kỳ lễ cúng. Gợi nhớ cả tuổi ấu thơ của một vùng quê với bao họ hàng thân thích.

Tên là chiếc “bánh ít” nhưng đầy và nhiều những tình cảm họ hàng dòng tộc mỗi khi đến kỳ giỗ chạp hay cúng kỵ tiền nhân mở cõi.


 

 Vụ TS Hoàng Phương Mai và những khuất tất mà không một ai nhắc tới

My Lan Pham

Cái chết thương tâm của TS Hoàng Phương Mai – cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm – đã gây bàng hoàng cho cộng đồng nghiên cứu khoa học. Thế nhưng, thay vì làm rõ nguyên nhân, dư luận chỉ nghe thấy những lời xoa dịu, những bình luận vòng vo về “uy tín tập thể” và “không nên quy trách nhiệm”.

Sự im lặng của báo chí chính thống, cộng với việc đồng nghiệp đương nhiệm tập trung công kích người nêu câu hỏi (như bà Phạm Thúy Vinh), càng khiến cái chết của TS Mai bị bao phủ bởi bóng tối của những điều không ai muốn nhắc tới.

Nút thắt: vụ scan sách cổ năm 2017

Theo thông tin từ những người từng quan tâm đến sự ra đi của TS Mai, vụ việc bắt nguồn từ chuyện sách cổ quý hiếm của Viện bị scan và đưa lên mạng.

  • Năm 2017, TS Nguyễn Xuân Diện đã gửi đơn tố cáo lên ông Nguyễn Quang Thuấn, Chủ tịch Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam.
  • Trong đơn, ông Diện nêu đích danh Nguyễn Phúc Anh, lúc đó là giảng viên Bộ môn Hán Nôm, ĐH KHXH&NV Hà Nội, đồng thời phụ trách Thư viện Nhân học, là người đã chia sẻ công khai 1.702 đầu sách Hán Nôm, trong đó có nhiều bản scan quý hiếm như:

o Toàn Việt thi lục (A.132, 1492 trang),

o Toàn Lê tiết nghĩa lục (A.2705),

o Nam Sơn tùng thoại (VHv.246/1).

https://xuandienhannom.blogspot.com/…/ts-nguyen-xuan…

Nhiều nguồn còn cho rằng, ông Phúc Anh có quan hệ gia đình với lãnh đạo Viện Hán Nôm thời điểm đó.

Vụ việc nghiêm trọng đến mức ảnh hưởng an ninh văn hóa quốc gia, nhưng cuối cùng lặng lẽ chìm xuống. Người bị nêu tên không bị truy cứu trách nhiệm. Lãnh đạo cũng không ai chịu trách nhiệm.

Trong khi sai phạm gốc không được xử lý, thì TS Hoàng Phương Mai, vốn phụ trách mảng thư viện sau này, liên tục bị đánh giá “không hoàn thành nhiệm vụ” trong suốt 3 năm. Bà trở thành “người gánh” cho một lỗi hệ thống mà thủ phạm thực sự đã thoát.

  • Bị xếp loại kém liên tiếp, bà bị cho thôi việc???
  • Bà làm đơn khiếu nại lên Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, nhưng không được giải quyết thỏa đáng???
  • Bị cô lập trong cơ quan, áp lực tinh thần đè nặng, bà rơi vào trầm cảm và cuối cùng tự tử???

Không chỉ dừng lại ở năm 2017. Năm 2023, báo chí ghi nhận hơn 100 quyển sách cổ bị mất, bị phá hủy tại Viện Hán Nôm

https://dantri.com.vn/…/khong-the-chap-nhan-viec-sach…

TS Nguyễn Xuân Diện khi trả lời BBC News Tiếng Việt đã nêu rõ: những sách mất bao gồm Toàn Việt thi lục, Việt âm thi tập, Nam Việt thần kỳ hội lục, Hoàng Việt địa dư chí… Đặc biệt, Hoàng Việt địa dư chí của Phan Huy Chú là bản sách liên quan trực tiếp đến chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa.

https://www.bbc.com/vietnamese/articles/c80rn05zllyo

Nghĩa là, sách ở Viện Hán Nôm không chỉ là di sản, mà là chứng cứ về chủ quyền quốc gia.

Trong bình luận dài hơn 1.000 chữ của cán bộ đương nhiệm Đào Phương Chi dưới bài viết của bà Phạm Thúy Vinh, người ta chỉ thấy vô vàn lời rào đón về “nhân nghĩa”, “tình yêu Viện”, “không nên quy chụp”… nhưng tuyệt nhiên không có một dòng nào liên quan đến vụ scan sách hay vụ mất sách cổ năm 2023.

Những người từng nhiệt tình bảo vệ “danh dự cơ quan” hôm nay đã ở đâu khi di sản quốc gia bị xâm hại? Họ đã ở đâu khi một nữ đồng nghiệp bị dồn ép đến mức trầm cảm và tự tử?

Cái chết của TS Hoàng Phương Mai không thể tách rời khỏi bối cảnh những khuất tất bị chôn vùi trong quản lý sách cổ tại Viện Hán Nôm. Đó là một chuỗi:

  • Sai phạm rõ ràng (scan, thất thoát sách),
  • Không truy cứu trách nhiệm,
  • Đổ gánh nặng lên một cá nhân,
  • Đẩy người đó vào tuyệt vọng.

Ngày nay, khi đồng nghiệp của bà Mai rào đón để “bảo vệ uy tín cơ quan”, câu hỏi công luận cần đặt ra là:

Uy tín của tập thể đó có giá trị gì nếu những người trong tập thể đó đã im lặng khi thấy tài sản quốc gia bị thất thoát, và quan trọng hơn là sinh mạng của một đồng nghiệp vừa bị tước đoạt do bị dồn đến đường cùng bởi sự im lặng này?

Công lý hay công bằng trong vụ việc này dù có tới bằng cách nào đi chăng nữa thì cũng đã quá muộn màng bới một mạng người đã mất. Cũng như vụ Tai nạn giao thông khiến người cha của cháu gái đã tử vong phải tự mình đi tìm công lý trong cơn phẫn uất tột cùng, TS Mai đã khép lại cuốn sách của cuộc đời làm khoa học của mình trong khi đồng nghiệp của chị vẫn đang cố bảo vệ cơ quan sau nhiều ngày đứng nhìn chị rơi dần vào vùng xoáy trầm cảm.

P.S.: Dưới đây là nguyên văn bình luận của bà Đào Phương Chi được dẫn lại từ FB Pham Thuy Vinh:

Đào Phương Chi

Kính thưa cô Pham Thuy Vinh, với tư cách là một cán bộ đương nhiệm tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm và với lòng kính trọng của một người nhỏ tuổi hơn đối với cô, cháu có đôi lời thế này ạ:

Từ khi nghe hung tin về em M, toàn thể cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm không ai không shock và ai cũng bị xáo trộn tâm lý ít nhiều. Nhưng từ hôm qua, sau khi xuất hiện bài viết của cô trên FB về sự ra đi của em M, thì cuộc sống của hầu hết cán bộ Viện bị ảnh hưởng nghiêm trọng vì các cuộc đt và tn từ trong và ngoài Viện Hàn lâm KHXH. Đã bị phân tâm vì việc của em, nay lại phân tán vì các cuộc gọi và nt bất đắc dĩ, mà vì danh dự của Viện, vì minh oan cho những người có liên quan, bọn cháu vẫn phải hồi âm đầy đủ.

Cô ạ, khi đọc bài của cô, cháu nghĩ rằng cô chỉ nghe thông tin từ em M, mà không có các kênh khác. Nhưng đến hôm nay, cháu mới biết rằng cô đã biết được thông tin từ chiều khác, ít nhất là từ em Thuy Truong (Trưởng phòng HC) và em Tre Việt (khi đó đang là CT Công đoàn). Các em không kể hết đầu đuôi sự việc với cô, hay các em kể mà cô không nhớ, hay cô không tin các em ạ?

Hai hôm nay, những người tinh ý cũng đang xôn xao trên MXH vì một việc nghiêm trọng như thế, tại sao không thấy bất kỳ một cán bộ đương nhiệm nào của VHN lên tiếng? Người trong Viện không lên tiếng, không đăng bài, vì mọi người hiểu rõ sự tình và muốn người vừa nằm xuống sớm được yên nghỉ, chứ không phải vì sợ, vì che giấu, hay vì điều nào khác. Nếu như VHN thực sự làm ra những điều khủng khiếp như một số người hiểu – qua diễn ngôn của cô – thì cháu chắc chắn rằng sẽ có người trong chính VHN đưa tin trước cô nhiều rồi ạ.

Cô nói rằng cô “chỉ đề cập đến những gì đã nghe, đã biết”, “không có ý gì đổ lỗi cho ai, vì làm sao biết mà đổ lỗi?”. Nhưng rất tiếc là khi đọc bài của cô, đa số mọi người – trong đó có cháu – dựa trên câu chữ mà đều hiểu rằng nguyên nhân dẫn đến kết cục đau đớn đó là do em M bị cho thôi việc một cách oan uổng. Nghĩ rằng có thể do cô diễn đạt không chuẩn, nên khiến cháu và nhiều người hiểu lầm, cháu đã chờ hơn một ngày. Nhưng tiếc rằng, trước những bình luận gay gắt với ý tứ buộc tội rõ ràng như vậy, mà không hề thấy một lời đính chính/bào chữa nào từ cô, mà chỉ có những biểu cảm mang tính đồng thuận của cô dưới mỗi cmt đó. Im lặng là đồng ý – cô cho những nhận định của mọi người về việc này là đúng. Cháu hiểu như vậy không biết có chính xác không ạ? Nếu cháu hiểu đúng, thì liệu có phải cô “không buộc tội ai”?

Cháu cũng có chung quan điểm với chị Hằng Lã Minh – người nghỉ hưu sau cô và là một trong những người thân thiết với em M nhất tại VHN: nếu chưa rõ thì đừng đưa tin. Nếu muốn rõ thì hãy tìm hiểu. Nếu như cô thấy thông tin từ các cán bộ VHN đưa ra không khả tín, thì có một kênh đáng tin nhất là anh Dương, người vừa là chồng vừa là đồng nghiệp của em M và đồng thời cũng theo dõi diễn biến sự việc từ đầu đến cuối. Hoặc nếu cô muốn, cháu cũng có thể tìm lại những văn bản hữu quan đã được gửi lên group Viện, để cô nắm tình hình. Nếu không tìm hiểu, mà chỉ đưa tin theo cách hiểu của mình, khiến người đọc bị dẫn dắt đi theo một định hướng không chuẩn thì hậu quả khôn lường cho cả uy tín cá nhân lẫn uy tín tập thể. Theo cháu, sự thương xót chỉ thật sự có ích khi đi kèm trách nhiệm. Và uy tín của Viện có được là nhờ một phần rất lớn của những người đã và đang công tác tại Viện – đặc biệt là những người cao tuổi có học hàm học vị, chứ nó không tự có được đâu, cô ạ. Chúng ta không bao che cho điều xấu, nhưng cũng không nên tự bôi xấu, hoặc khiến người khác hiểu lầm về Viện – nơi ta đã có một thời gian dài cống hiến và yêu mến.

Cháu không muốn nói về người đồng nghiệp bạc mệnh của mình lúc này, nhưng nếu không lên tiếng, thì việc này không biết sẽ kéo dài đến bao giờ? Em M có yên nghỉ được khi ngày nào cũng có hàng chục hàng trăm người nhắc tên? Bố mẹ, chồng con em có nguôi ngoai hơn khi đọc những bài viết kèm theo những cmt tiêu cực như trong FB của cô? Cháu nghĩ rằng, trong thời điểm hiện tại, điều tốt nhất chúng ta có thể làm cho em M và gia đình em là đừng để những dạng bài viết như thế này xuất hiện. Bởi, nếu vẫn tồn tại những bài viết kèm những cmt nặng nề do sự hiểu lầm kiểu này, người ra đi không thanh thản được, mà người ở lại chỉ thêm đau đớn.

Những lời trên đây xuất phát từ sự yêu mến Viện Nghiên cứu Hán Nôm và sự kính trọng nhất thiết phải có đối với cô. Nếu có gì không phải, mong cô bỏ quá cho cháu!

Cháu cảm ơn vì cô đã đọc ạ!

Fb Nguyễn Ngọc Như Quỳnh


 

LỜI XƯA VANG VỌNG, NGƯỜI NAY MUỘN PHIỀN…

Tu Le – Những Câu Chuyện Thú Vị

Có những tin tức đọc qua rồi quên, nhưng cũng có những cái tên, những câu chuyện day dứt mãi không thôi. Với tôi, cái chết của tiến sĩ Hoàng Phương Mai – tuổi 49, hai con thơ, chồng đau yếu – là một trong những nỗi ám ảnh như vậy.

Một người phụ nữ đã đi hết chặng đường dài học thuật, đạt học vị tiến sĩ, có sách in, có nghiên cứu, có danh xưng… lẽ ra đó phải là chỗ dựa tinh thần cho cả gia đình. Vậy mà, bi kịch đến nhanh như một nhát dao vô hình. Sau khi bị cho thôi việc ở Viện Hán Nôm, chị ngày ngày đến ngồi nơi phòng tiếp khách – vẫn tin mình còn thuộc về chốn ấy. Khi cánh cửa ấy cũng bị đóng sập bằng lệnh cấm lui tới, chị chọn cách ra đi nghiệt ngã nhất.

Tôi không quen chị. Chỉ biết chị là tác giả của Lời xưa vang vọng, một khảo cứu văn học thế kỷ XVIII. Tôi nhớ cái bìa sách màu trầm, chữ in mộc mạc, nội dung nghiêm cẩn mà tha thiết. Người đọc bình thường có khi chỉ lật vài trang rồi gấp lại, nhưng với tôi, đó là minh chứng của sự cần mẫn. Bởi khảo sát văn bản cổ không bao giờ dễ dàng – đó là hành trình vừa trí tuệ vừa tâm huyết, cần cả kiên trì lẫn lòng yêu mến di sản dân tộc.

Vậy mà, một trí thức như chị, cuối cùng đã bị ruồng bỏ như một “kẻ vô tích sự”.

Phó Giáo sư Phạm Thùy Vinh kể lại: Viện Hán Nôm từng gợi ý chị viết đơn “tự nhận sức khỏe yếu, không hoàn thành công việc” để được rút lại quyết định sa thải. Chị từ chối. Chị tin mình không sai, tin vào công lý ở cấp cao hơn. Và chị vẫn lạc quan, vẫn chờ đợi “cấp trên cứu xét”. Có lẽ, chính sự trong sáng ấy mới khiến bi kịch trầm trọng. Trong một guồng máy nơi “quan quan tương hộ”, sự ngay thẳng nhiều khi trở thành cái gai bị nhổ bỏ.

Người đời ca ngợi “kinh tế tri thức”, nhưng chúng ta chưa bao giờ xây dựng nổi một môi trường cho trí thức thực sự tự do, tự trọng. Trí thức phần nhiều phò chính thống, lụy danh lợi, ham bè phái. Ai giữ khí tiết, không chịu a dua, thì sớm muộn cũng bị lạc loài. Một Viện, một Hội, một “ngân sách nhà nước” – đều trở thành chốn đấu đá vặt vãnh, nơi mà kẻ mạnh không phải là kẻ có học vấn, mà là kẻ khéo luồn lách.

Tiến sĩ Hoàng Phương Mai rốt cuộc không chịu được những vòng xoáy rẻ rúng ấy. Chị ra đi, mang theo niềm tin vụn vỡ.

Tôi thương chị, và thương cho cả cộng đồng trí thức nước mình. Chúng ta nói nhiều về “tri thức”, nhưng lại để mặc những người như chị bơ vơ, không có nổi một chỗ dựa tinh thần, không có nổi sự nâng đỡ khi vấp ngã. Người phụ nữ ấy sống bằng nguyên tắc, và chết cũng vì nguyên tắc. Câu thơ xưa của Bùi Huy Bích bỗng ứng nghiệm trong cảnh đời nay: “Kiến thuyết quan binh công lược bạo/ Dân gia phiến tịch đãng vô di” – nghe chuyện quan binh tàn bạo, dân gia không còn nổi một manh chiếu.

Nay, tôi viết đôi dòng, như nén hương tưởng nhớ một người phụ nữ trí thức đã chọn kết thúc đời mình trong nỗi u uất. Để nhắc mình, nhắc bạn: trong thế giới ồn ào chức tước, hãy giữ lại cho nhau một chút lòng nhân. Để còn có thể an ủi, nâng đỡ những người dám sống bằng lẽ phải, thay vì bỏ mặc họ chìm vào bóng tối.


 

 Hai ông Tiến Sĩ Xuân: Một nấm mồ lạnh và một vòng hoa đỏ – Đoàn Xuân Thu

LƯƠNG VĂN CAN K 76.- Kimtrong Lam 

Đoàn Xuân Thu –

25 tháng 8, 2025

Ông Nguyễn Duy Xuân (trái) (Hình: vietnamvanhien.org) và ông Võ Tòng Xuân (Hình: VnExpress).

Người Việt mình hay tin chuyện trùng tên. Nào là “trùng tên dễ trùng số phận,” nào là “đồng âm ắt đồng mệnh.” Nhưng coi bộ… cũng chưa chắc đâu.

Thí dụ, hai ông Xuân – một ông Nguyễn Duy Xuân, một ông Võ Tòng Xuân. Cùng học cao hiểu rộng, cùng từng đứng bục giảng Viện Đại Học Cần Thơ, cùng đeo cái mác “tiến sĩ – giáo sư” sáng loáng, Nhưng trời đất xoay vần, một ông thì chết tức tưởi trong trại cải tạo, lạnh lẽo dưới mưa phùn miền Bắc. Còn một ông lúc sinh thời sống khỏe re, áo mão cân đai, nụ cười đỏ chói dưới lá cờ sao vàng.

“Đốc tờ Lúa và người trí thức chết trong tù”

Thế mới thấy: tài chưa đủ, phải thêm “hên” và… biết nịnh.

Từ tiếng cười đến tiếng khóc

Ngày trước 1975, ai ở miền Nam hẳn còn nhớ chương trình “Gia đình Bác Tám” trên Đài phát thanh Sài Gòn. Một thứ kịch truyền thanh bình dân, có tiếng gà gáy, chó sủa, ếch nhái kêu, xen lẫn chuyện đời thường. Đạo diễn, theo nhiều tài liệu, là nghệ sĩ Năm Châu, bậc thầy sân khấu cải lương. Dân quê nghe để cười, dân tỉnh nghe để quên mệt, dân Sài Gòn nghe để thấy chút hồn Miền Tây giữa lòng phố thị.

Rồi một sáng Tháng Tư, “giải phóng” tràn vô, chương trình dẹp cái rụp. Thay tiếng cười là tiếng loa phường rè rè kể chuyện “anh A hợp tác xã nuôi heo” hay “chị B thi đua may mặc vượt chỉ tiêu.”

Kết quả, làng quê Nam Bộ từ đó vang nhiều hơn tiếng chửi thề, tiếng thở dài. Thay cho tiếng cười Bác Tám là những câu chuyện bi hài: anh em chém nhau giành đất, chồng giết vợ vì cái đói, thanh niên bỏ xứ làm cu li, thiếu nữ lấy chồng Đài Loan kiếm tiền báo hiếu, tạ cái ơn sanh thành cùa má dưỡng dục của ba. Văn nghệ cách mạng làm dân chỉ biết khóc, khóc ròng.

Võ Tòng Xuân – “người đâu cũng có mặt”

Ấy vậy mà sau này, ông Võ Tòng Xuân xuất hiện và… giành luôn bản quyền! Ông nói như đinh đóng cột rằng chính mình mới là tác giả “Gia đình Bác Tám.” Ông bảo mình viết kịch bản, kiêm diễn viên, và chương trình “hấp dẫn tới mức mấy chú, như chú Sáu Dân tức Võ Văn Kiệt, trùm VC giải phóng trong mật khu, cũng khoái nghe.” Nghe mà cười té ghế! Đài phát thanh Sài Gòn, “sản phẩm Mỹ – Ngụy,” mà giải phóng trong bưng bật radio nghe khoái trá? Nếu có thiệt, chắc mấy ổng nghe để… rút kinh nghiệm tuyên truyền thì có.

Chưa hết, ông Xuân còn kể lể: nào là Sáu Dân (Võ Văn Kiệt) từng mê Bác Tám, nào là khi tiếp quản Đại Học Cần Thơ, ông Phạm Sơn Khai, tức đồng chí Bảy Khai hỏi ngay: “Giáo sư Võ Tòng Xuân Gia đình Bác Tám còn đây không?” Nghe thiệt oai, nhưng thử hỏi: một ông tập kết ra Bắc, sống mấy chục năm với báo Nhân Dân và “Văn nghệ Quân đội” thì biết quái gì “Gia đình Bác Tám” mà quan tâm? Chuyện nầy nghe giống… “Bác Tám” kể hơn là lịch sử.

Tóm lại, cái tài của ông Võ Tòng Xuân không phải ở nông học, mà ở cái miệng: mâm nào cũng có ổng. Nông nghiệp có, kịch nghệ có, tuyên truyền cũng có. “Trí thức cách mạng” mẫu mực!

Nguyễn Duy Xuân – trí thức bị CS bức tử

Trái lại, ông Nguyễn Duy Xuân (1925–1986) mới đúng là trí thức Nam Bộ thứ thiệt. Ông sinh ở Ô Môn, học Collège de Cần Thơ, rồi sang Pháp lấy cử nhân Kinh tế, sang Anh lấy cao học, qua Mỹ lấy tiến sĩ ở Vanderbilt. Về nước, ông làm tổng trưởng kinh tế, cố vấn Tổng Thống Thiệu, rồi viện trưởng Viện Đại Học Cần Thơ.

Ông xây dựng đại học theo mô hình tín chỉ của Mỹ, gửi giảng viên đi du học, mở ngành nông nghiệp, sư phạm, đào tạo cả một thế hệ trí thức miền Tây. Và chính ông – chứ không ai khác – đã mời Võ Tòng Xuân từ Viện Lúa quốc tế Los Baños về giảng dạy năm 1972. Nghĩa là thầy mời trò về, chứ không phải trò tự “vác lúa giống IRI” về như báo chí sau này khoe.

Đến Tháng Tư, 1975, ông Nguyễn Duy Xuân chọn ở lại, tham gia nội các Vũ Văn Mẫu. Và như một lẽ “cách mạng” phải có, ông bị tống đi cải tạo tận miền Bắc. Sau 11 năm giam cầm, ông chết tức tưởi ở trại Ba Sao, Hà Nam. Mộ phần heo hút, không vòng hoa, không điếu văn. Cái chết của một trí thức lớn chỉ còn lại tiếng khóc lặng lẽ của gia đình. Một nấm mồ lạnh.

Võ Tòng Xuân – “đốc tờ Lúa” khéo xu thời

Trong khi đó, ông Võ Tòng Xuân (1940–2024) lại lên như diều gặp gió. Ông nhanh chóng thành “đốc tờ Lúa” của chế độ, là “cha đẻ nhiều giống lúa mới,” là “người hùng cách mạng xanh.” Báo chí quốc doanh thi nhau ca tụng: nào là Anh Hùng Lao Động, Nhà Giáo Nhân Dân, giải thưởng VinFuture. Khi ông mất, tang lễ đầy vòng hoa đỏ, huân chương lấp lánh, lãnh đạo xếp hàng chia buồn. Một vòng hoa đỏ rực rỡ tiễn đưa.

Ai từng tiếp xúc đều thấy: cái tài thật sự của ông Xuân là biết nói vừa tai lãnh đạo CS. Khi thì kể chuyện “Gia đình Bác Tám” như công trình cách mạng, khi thì khéo gắn mình với Sáu Dân, Bảy Khai để chứng minh “có công với cách mạng.” Cái tài nông học có, nhưng cái tài nịnh thì vượt xa. Đúng nghĩa “người biết xu thời sống thảnh thơi.”

Hai ông Xuân – hai con đường

Nguyễn Duy Xuân: trí thức chính danh, học cao hiểu rộng, tận tụy cho đại học, cuối cùng chết thảm trong tù. Một nấm mồ lạnh. Võ Tòng Xuân: biết nịnh, biết khéo, mượn gió bẻ măng, cuối cùng sống an nhàn, chết trong vinh quang đỏ chói. Một vòng hoa đỏ. Cùng tên Xuân, nhưng một ông tàn tạ như cây khô mùa bấc, một ông được ca tụng như cành đào ngày Tết. Đó chính là bi kịch trí thức Việt Nam sau 1975.

***

Câu hỏi để lại cho hậu thế: trí thức Việt Nam nên chọn con đường nào? Giữ nhân cách để chết lặng lẽ trong tù? Hay cúi mình nịnh bợ để sống khỏe, để được gọi “anh hùng lao động?”

Lịch sử rồi sẽ phán xét. Nhưng dân gian thì khỏi cần chờ: một nấm mồ lạnh đã đủ làm chứng, và một vòng hoa đỏ đã đủ để cười chê: “Trí thức gì mà kỳ vậy chớ?”

(Melbourne)