Thánh Vinh-sơn Phaolô, (St. Vincent de Paul)- Cha Vương

Hôm nay 27/09 Giáo Hội mừng kính Thánh Vinh-sơn Phaolô, (St. Vincent de Paul), nguyện xin thánh nhân chuyển cầu cho Bạn và gia đình nhé.

Cha Vương

Thứ 7: 27/09/2025  t4-23

Thánh nhân sinh năm 1581 tại Gát-côn, nước Pháp. Người làm linh mục rồi đi Pa-ri phục vụ một giáo xứ. Người sáng lập tu hội Thừa Sai để giúp đào tạo các giáo sĩ và nâng đỡ những người nghèo. Được thánh nữ Lu-y Ma-ri-lắc cộng tác, người đã lập tu hội Nữ Tử Bác Ái. Người là gương mẫu hoàn hảo về việc sống đức bác ái như Chúa Ki-tô dạy, luôn sẵn sàng cứu giúp những người cùng khốn. Người nhận ra khuôn mặt của Chúa Ki-tô nơi bất cứ ai đang gặp đau khổ. Người qua đời tại Pa-ri năm 1660.

Khi gần chết, ngài đã thốt lên: “Lạy Chúa, con đã làm những việc theo lệnh Chúa, nay xin Chúa ban cho con những gì Chúa đã hứa.” Ngài đã an nghỉ trong Chúa vào ngày 27 tháng 9 năm 1660, lúc 80 tuổi.

    Đức Giáo Hoàng Lêô 13 tôn thánh Vincent làm bổn mạng các hội Từ thiện Công Giáo. Ngày nay trên thế giới , hội Bác ái Vinh sơn đã lan tràn rất nhiều nơi.

       Sau đây là những câu nói để đời của Thánh Nhân, Bạn hãy bỏ ra mấy phút để đọc và lắng nghe coi thánh nhân đang muốn nhắn nhủ Bạn điều gì mà đến gần với Chúa hơn.

(1) Anh em hãy nhớ rằng cuộc sống Kitô hữu là một cuộc sống hoạt động; chứ không phải chỉ là lời nói và mộng mơ.

(2) Vũ khí mạnh nhất để chống lại ma quỷ là đức khiêm nhường. Bởi vì, như ma quỷ không có bất cứ một ý niệm nào về sự “khiêm nhường” thì ma quỷ cũng không biết làm thế nào để rũ bỏ sự “khiêm nhường”.

(3) Chúng ta nên đơn giản trong tình cảm, ý tưởng, hành vi và ngôn từ, chúng ta nên làm những gì chúng ta thấy không có sự giả tạo hoặc lừa lọc trong đó. 

(4) Tôi ước muốn từng giây phút quá khứ, hiện tại và tương lai đều được tôi cũng như mọi người sử dụng một cách tốt nhất.

(4) Trên thiên đàng chúng ta sẽ nghỉ ngơi.

(5) Một người càng tấn tới trong việc yêu mến Thiên Chúa thì nhất định càng yêu thích đau khổ, chịu bị khinh thường, đó chính là dấu hiệu của lửa tình ái, những thứ khác đều là mây khói.

Câu nào đánh động bạn nhất? Đối với mình thì câu (3) và (4) 

From: Do Dzung

***********************

NHẠC THÁNH CA VPV || XIN ƠN KHIÊM NHƯỜNG

VỰC THẲM-Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn!”.

“Một thế giới của những người tử tế – vốn chỉ hài lòng về sự tốt đẹp của họ – sẽ rất cần cứu rỗi như một thế giới khốn khổ – và thậm chí có thể khó cứu hơn!” – Charles Hodge.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay cho biết, chính sự tự mãn của những con người tử tế đã âm thầm đào nên những ‘vực thẳm’ ngăn cách họ với Chúa, ngăn trở họ với tha nhân.

Đó không chỉ là khoảng cách giữa thiên đàng – địa ngục, mà còn là khoảng trống vô hình giữa một con tim tự mãn và tình yêu của Thiên Chúa. Người phú hộ của dụ ngôn dường như đã được Amos phác thảo từ ngàn xưa, đó là “lũ quân phè phỡn” “nằm dài trên giường ngà, ngả ngớn trên trường kỷ”, chỉ biết “sống an nhiên tự tại” cho bản thân mà quên bẵng những người cùng khổ – bài đọc một. Vậy mà Thiên Chúa của Cựu Ước và Tân Ước chỉ là một, “Ngài là Vua các vua, Chúa các chúa” – bài đọc hai – Đấng sẽ hạch tội những kẻ vị kỷ và phục hồi phẩm giá hạng cơ bần, “Ca tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi!”, “Đấng cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên” – Thánh Vịnh đáp ca.

Người giàu này quả là ‘tử tế’; ít là ông không ác tâm, không hại ai. Kết thúc cuộc đời, ông cam phận cách nhu mì; ông không yêu cầu rời khỏi địa ngục, chỉ xin vài giọt nước để làm dịu cơn khát đang cháy bỏng. Và khi không được đáp ứng ‘nhiều’ đến thế, ông xin nhắn về gia đình, với hy vọng năm anh em của ông sẽ không chịu chung số phận. Tuy nhiên, tất cả những điều ‘tử tế’ đó vẫn không cứu được ông. Vậy chỉ cần ‘tử tế’, tôi sẽ đạt thấu thiên đàng? Không đâu! “Lòng trắc ẩn không chỉ là cảm thông, mà là hành động để xoa dịu nỗi đau!” – Desmond Tutu.

Điều đáng trách của người phú hộ là dường như ông không bao giờ bận tâm đến sự có mặt của Lazarô. Ông không đuổi, nhưng ông ‘không thấy’ Lazarô; phải chăng khẩu độ ‘vực thẳm’ giữa ông và người nghèo là quá lớn! Đó là tội thiếu sót. Ông mất linh hồn không vì những gì đã làm, mà vì những gì đã không làm! “Bạn có thể chọn ngoảnh mặt đi, nhưng không bao giờ có thể nói rằng mình không biết!” – William Wilberforce.

Anh Chị em,

Bỏ qua một người nghèo là tạo thêm một ‘vực thẳm!’. Nhiều người thường vờ như không thấy người nghèo; với họ, người nghèo không tồn tại. Vậy mà, không một sứ giả nào, không một sứ điệp nào có thể thay thế những người nghèo mà chúng ta gặp trên đường đời; bởi chính trong họ, Chúa Giêsu đến gặp chúng ta. Người phú hộ không có lỗi gì, nhưng hầu như ông nhìn Lazarô chỉ như một vật trang trí cho cảnh quan xa hoa nhà mình; ông bỏ qua giới răn trọng nhất. Đừng quên, Lazarô không chỉ là những người ngoài cánh cổng; nhưng còn là những người thân trong gia đình, trong cộng đoàn mình. Hãy sống làm sao để đừng hối tiếc vì đã không làm nhiều hơn cho họ! “Nếu bạn không nhận ra Đức Kitô nơi người ăn xin trước cửa nhà thờ, bạn cũng sẽ không gặp Ngài trong chén thánh!” – Gioan Kim Khẩu.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, giúp con nhận ra chính Chúa trong những người con dễ bỏ qua, để mỗi ngày là một bước con lấp đầy ‘vực thẳm’ bằng lòng thương xót!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

********************************************

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN, NĂM C

Con đã nhận phần phước của con rồi ; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.     Lc 16,19-31

19 Khi ấy, Đức Giê-su nói với người Pha-ri-sêu dụ ngôn sau đây : “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. 20 Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, 21 thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. 22 Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn.

23 “Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa, và thấy anh La-da-rô trong lòng tổ phụ. 24 Bấy giờ ông ta kêu lên : ‘Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát ; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm !’ 25 Ông Áp-ra-ham đáp : ‘Con ơi, hãy nhớ lại : suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi ; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. 26 Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.’

27 “Ông nhà giàu nói : ‘Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh La-da-rô đến nhà cha con, 28 vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này !’ 29 Ông Áp-ra-ham đáp : ‘Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó.’ 30 Ông nhà giàu nói : ‘Thưa tổ phụ Áp-ra-ham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối.’ 31 Ông Áp-ra-ham đáp : ‘Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin’.”


 

THÁNH MICHAEL TỔNG LÃNH THIÊN THẦN- Cha Michael Joseph Hurley, OP

 Cha Michael Joseph Hurley, OP 

Thánh Michael Tổng lãnh thiên thần, một hậu vệ mạnh mẽ trong tất cả các trận chiến.

Vào lúc 1949:10 tối, thứ Hai Phục Sinh năm 45, các linh mục đã thực hiện lễ trừ tà của một thanh niên tên là “Robbie” đã có một bước đột phá.  Được sở hữu bởi mười con quỷ, Robbie đã bị ám ảnh trong nhiều năm sau khi sử dụng bảng Ouija để liên lạc với người bà đã khuất của mình.  Sau nhiều tháng trừ quỷ, các linh mục đã cầu khẩn Thánh Michael để đuổi quỷ.  Đột nhiên, một giọng nói tự nhận mình là Thánh Michael ra lệnh cho lũ quỷ khởi hành.  Theo lời kể của những người chứng kiến, Robbie lên cơn co giật dữ dội và những con quỷ bỏ đi với một “âm thanh bùng nổ.”  (Các linh mục đang cầu nguyện Văn phòng Thần thánh trong một nhà thờ gần đó cũng nghe thấy tiếng “bùng nổ âm thanh” này và nhìn thấy một thứ ánh sáng lạ thường chiếu sáng cả nhà thờ.)  Khi Robbie thoát ra khỏi trạng thái mê man, anh ta kể lại việc anh ta đã nhìn thấy Thánh Michael đánh bại Satan như thế nào trong một trận chiến cho linh hồn của mình.  Mặc dù nhiều người biết câu chuyện này qua cuốn sách và bộ phim nổi tiếng năm 1970 dựa trên những sự kiện có thật này, nhưng vai trò của Thánh Michael phần nào bị tắt tiếng trong các tài liệu hư cấu.

 Vì lý do này, lời cầu nguyện với Thánh Michael Tổng lãnh thiên thần là một phần thiết yếu của sức khỏe tâm linh của chúng ta.  Ban đầu được rút ngắn từ sáng tác mạnh mẽ hơn của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII mà ngài buộc phải chấp bút sau kinh nghiệm huyền bí rắc rối của mình với “làn khói của quỷ Satan,” lời cầu nguyện đơn giản này tạo ra sức mạnh và sự bảo vệ thiêng liêng năng động, cả trong cuộc sống của chúng ta và trong cuộc sống của Giáo hội.  Khi có rất nhiều cuộc đấu tranh trong cuộc sống của gia đình và nền văn hóa của chúng ta, sự bảo trợ của Thánh Michael sẽ kích hoạt toàn bộ nguồn lực của vật chủ trên trời.  Thánh Phao-lô nói rõ rằng mọi cuộc đấu tranh, dù trần tục đến đâu, đều có chiều kích thuộc linh (Ê-phê-sô 6:12).

 Thế giới tâm linh, như một số người có thể nghĩ, không phải là một thế giới của ánh sáng và sự tốt lành rõ ràng.  Có một khía cạnh bất chính của thế giới tâm linh, nơi gieo mầm của hỗn loạn, bạo lực và bóng tối.  Cái ác thoát ra trước tiên, và chủ yếu, trong lĩnh vực tâm linh.  Dù chúng ta gặp khó khăn gì, Thánh Michael cho phép chúng ta linh hoạt các cơ tâm linh của mình và chúng ta cảm nhận được sự trợ giúp của ngài theo nhiều cách.

 Một cách cụ thể là cách Thánh Micae giúp chúng ta vượt qua cám dỗ hàng ngày và trưởng thành trong nhân đức.  Hãy xem xét câu chuyện về nguồn gốc của Thánh Michael từ Kinh thánh và Truyền thống (Ê-sai 14:12, Khải Huyền 12).  Trong cuộc biến động vũ trụ đầu tiên giữa Đức Chúa Trời và sự sáng tạo của Ngài, khi Sa-tan thách thức Đức Chúa Trời và báng bổ Danh Thánh, người lãnh đạo của chủ nhà trên trời đáp lại: “Ai giống như Đức Chúa Trời?” bằng tiếng Do Thái, Mikha’el. 

 Câu hỏi tu từ đầu tiên trong lịch sử là cái tên Michael.  Tên này cho thấy khả năng khiêm tốn khi nó được pha trộn với lòng dũng cảm.  Để chống lại sự kiêu ngạo bắt nguồn từ cái tôi (trung tâm của tội lỗi luôn là “Tôi”), Michael thể hiện sự khiêm tốn vốn là nền tảng của đức hạnh.  Khiêm tốn nhìn nhận rằng chỉ một mình Thiên Chúa là nguồn gốc của mọi sự sống và hạnh phúc.  Không có Chúa, chúng ta chẳng là gì cả.  Nếu chúng ta muốn hạnh phúc, khiêm tốn là bước đầu tiên dẫn đến chiến thắng của chúng ta trong trận chiến của lòng ích kỷ.  Ngoài ra, để chống lại một loại khiêm tốn giả tạo, Michael thể hiện một lời can đảm.  Sự khiêm tốn giả tạo cho rằng chúng ta bất lực trong các cuộc đấu tranh tinh thần.  Rốt cuộc, chúng ta là ai để chiến thắng ma quỷ, ai là người có sức mạnh vượt quá sức mạnh của chúng ta.  Tuy nhiên, lòng can đảm nhận ra rằng với Chúa, chúng ta có thể làm bất cứ điều gì.  Không có gì là không thể đối với Chúa, và Thánh Michael đã dứt khoát hạ gục các vật chủ của ma quỷ bằng sức mạnh thần thánh chảy qua người.

 Nếu chúng ta muốn đứng vững để vượt qua những cám dỗ hàng ngày, nếu chúng ta muốn chiến thắng sự ích kỷ của mình, nếu chúng ta muốn quyền năng của Thiên Chúa phát triển trong chúng ta ngay cả khi đối mặt với những tình huống vô vọng nhất, thì lòng can đảm khiêm tốn của Thánh Michael đã mang lại cho chúng ta tên và sự bảo trợ, chúng ta nên gọi cho ai.  Khi ai đó yêu cầu tôi một cách đơn giản để họ có thể lớn lên trong sự thánh thiện và hạnh phúc, tôi luôn đề nghị cầu nguyện với Thánh Michael hàng ngày.  Thánh Michael rất mong muốn được đồng hành với chúng ta trong những cuộc đấu tranh hàng ngày, vì vậy chúng ta hãy mạnh dạn cầu xin!

 Cha Michael Joseph Hurley, OP

 Kinh Cầu Cùng Tổng Lãnh Thiên Thần Micae

 Lạy ơn Tổng Lãnh Thiên Thần Micae, xin giúp chúng con trong cơn giao chiến, đánh phá sự hiểm ác mưu sâu quỷ dữ.  Chúng con sấp mình nguyện xin Chúa chế trị nó, cùng xin nguyên soái cơ binh trên trời, lấy quyền phép Chúa mà hạ Satan cùng các quỷ dữ, đang rong ruổi khắp thế giới làm hại các linh hồn, bắt chúng giam cầm trong hỏa ngục. Amen.

From: Langthangchieutim


 

NÔNG DÂN CAN TRƯỜNG- Huynh Ngoc Chenh

Huynh Ngoc Chenh

Hôm nay tòa án Đà Nẵng đưa người nông dân can trường hiếm có Trịnh Bá Phương ra xét xử vì đã viết mảnh giấy nhỏ “đả đảo cộng sản” cất trong phòng giam.

Án chắc đã có sẵn, án chồng lên án 10 năm tù giam và 5 năm quản chế mà người thanh niên nông dân can trường này đã lãnh trước đó vì dũng cảm đứng lên giữ đất cùng gia đình.

Hồi đảng nổi dậy chống Pháp rồi đánh Mỹ rất cần những người nông dân can trường như thế, chính họ đã không biết sợ gì, sẵn sàng lao vào lửa đạn, vượt qua tra tấn, chịu dựng đau đớn và hy sinh cả tính mạng để giúp đảng cộng sản đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Không có những người nông dân tinh hoa can trường này, đảng sẽ chẳng làm được gì nên chuyện để có như ngày hôm nay.

Hồi đó nông dân can trường nhiều lắm, bây giờ sau 80 năm, chẳng còn nhiều, có thể kể hết ra đây được vài dòng.

Đó là gia đình chị Cấn Thị Thêu với hai con trai Trịnh Bá Phương và Trịnh Bá Tư cùng với chị Nguyễn Thị Tâm ở Dương Nội. Đó là anh em Đoàn Văn Vươn ở Hải Phòng, đó là tập thể dân làng Đồng Tâm đứng dầu là gia đình cụ Kình …

Những người đó là tinh hoa của đất nước, là gen trội của dân tộc, lẽ ra phải được nuôi dưỡng để phát huy và nhân rộng. Nhưng không, cụ Kình đã bị bắn chết, con cháu cụ bị xử tử hình hoặc bị tù đày đến chung thân, anh em Đoàn Văn Vươn cũng phải đi tù vài năm suýt tiêu tan gia đình và của cải, còn gia đình chị Cấn Thị Thêu và chị Nguyễn Thị Tâm vẫn còn chịu án tù lâu dài.

Đảng bây giờ đã có được giang sơn rồi nên đảng không cần những người nông dân can trường dũng cảm nữa, đảng cần những người nông dân sợ hãi và tuân phục luôn chấp hành mọi mệnh lệnh của đảng dù đúng hay sai. Quân xử thần tử thần bất tử bất trung.

Ngày xưa phải chống lại Tây Sơn để phục hồi ngai vàng của dòng họ, Nguyễn Ánh đã ra sức xúi giục, chiêu dụ, tập hợp những người nông dân can trường, bỏ vợ con, ruộng vườn để đi theo ông. Không có những người nông dân can trường phản kháng chế độ Tây Sơn thì Nguyễn Ánh không thành vua Gia Long.

Sau khi cướp được chính quyền khôi phục được ngôi vàng của tổ tiên, vua Gia Long và con cháu ông không cần những người nông dân phản kháng và can trường nữa, triều đình chỉ cần những người nông dân tuân phục để dễ cai trị và quan trọng là để bảo vệ muôn năm ngai vàng dòng họ Nguyễn.

Những hình phạt nặng nề du nhập từ các triều đại phong kiến phương Bắc được áp dụng để đe nẹt, trấn áp, dập tắt, tiêu diệt mọi mầm mống phản kháng của người nông dân. Những người nông dân can trường nào xuất hiện là bị bắt ngay, bị xử lăng trì (là xẻo từng miếng thịt cho đến chết), bị tru di tam tộc để tiêu diệt sạch gen trội can trường.

Nhờ vậy mọi cuộc nổi dậy của nông dân trong suốt 80 năm độc tài toàn trị của nhà Nguyễn đều bị dập tắt trong biển máu.

Sau 80 năm, đất nước chỉ còn tồn tại những nông dân sợ hãi tuân phục.

Từ tuân phục chuyển qua hèn nhát u mê chỉ một bước chân. Một thế hệ nông dân hèn nhát ngu muội ra đời. Ngai vàng nhà Nguyễn được bảo vệ nhưng nước mất.

Quá sức nhục nhã và đau đớn, chỉ vài phát súng đùng đoàng của lính Pháp, quân dân ta mà nòng cốt là những người nông dân hèn nhát và u mê đã bỏ chạy sạch. Pháp thôn tính Nam Kỳ dễ như trở bàn tay.

Tệ hơn nữa, hai lần Pháp ra Bắc Kỳ với vài trăm quân chỉ nổ vài phát súng, những người nông dân hèn nhát và ngu muội làm nên đội quân chính quy đông đúc của chiến tướng Nguyễn Tri Phương và của tổng dốc Hoàng Diệu buông vũ khí chạy sạch, bỏ lại thành Hà Nội trống không với chủ tướng đơn độc.

Trong suốt 100 năm Pháp đóng chiếm, rất nhiều cuộc nổi dậy của nông dân nhưng hầu hết đều bị thất bại do thiếu lực lượng, thiếu những người nông dân can trường. Cuộc khởi nghĩa nào cũng chỉ quy tụ chừng vài chục nông dân can trường thì làm sao chống lại giặc Pháp hùng mạnh.

Bây giờ, đảng CSVN, tổ chức độc quyền toàn trị đất nước, đang dẫm vào những bước chân lầm lỗi của Triều đình nhà Nguyễn. Đảng cũng chỉ cần những người nông dân tuân phục.

Chính vì lẽ đó mà thanh niên nông dân can trường Trịnh Bá Phương đã bị 10 năm tù nay lại phải ra tòa để nhận thêm nhiều nằm tù giam nữa. Chính vì lẽ đó mà Cấn Thị Thêu, Trịnh Bá Tư, Nguyễn Thị Tâm, anh em Đoàn Văn Vươn phải đi tù. Chính vì lẽ đó mà cụ Kình và một số con cháu phải bị tử hình, số còn lại và những người nông dân Đồng Tâm can trường khác phải ngồi tù lâu dài.

Với cách làm này sẽ thành công cho đảng, đất nước chỉ còn lại các thế hệ nông dân tuân phục cùng với các tầng lớp người dân khác cũng tuyệt đối tuân phục.

Mà “tuân phục” chỉ cách “hèn nhát” một sợi tóc.

Đảng sẽ được tồn tại khá lâu, nhưng…


 

Nỗi đau lớn nhất không phải là nhà trống trải.

Trầm Mặc Huơng Lai

Bảy mươi tuổi tôi mới hiểu: nỗi đau lớn nhất không phải là nhà trống trải.

Tôi tên là María.

Năm nay tôi tròn bảy mươi. Con số tròn, nghe sang thật đấy, mà chẳng đem lại chút niềm vui nào. Cả cái bánh sinh nhật con dâu làm cũng nhạt thếch. Hay có lẽ tôi đã mất vị giác — với đồ ngọt lẫn với sự quan tâm.

Lâu lắm rồi tôi vẫn nghĩ: già nghĩa là cô đơn — một căn nhà im ắng, điện thoại chẳng reo, cuối tuần chẳng ai ghé. Tôi tưởng đấy mới là nỗi đau tệ nhất.

Bây giờ tôi biết: còn tàn nhẫn hơn cả khoảng trống, là một ngôi nhà đầy người nhưng mình bị vô hình.

Chồng tôi mất mười năm trước.

Bốn mươi năm bên nhau. Một người đàn ông mộc mạc, vững chãi. Ông sửa được cái cửa kẹt, nhóm được bếp lửa, và luôn tìm đúng một câu ngắn gọn để tôi thấy yên lòng. Ông đi rồi, chân tôi như đứng trên khoảng không.

Tôi ở lại với hai đứa con — Carlo và Laura. Tôi cho chúng tất cả. Không phải vì bổn phận, mà vì tôi chẳng biết yêu theo cách nào khác. Chẳng có chuyến đi xa hay bằng cấp oách, nhưng tôi luôn có mặt: lúc con sốt, lúc làm bài, lúc gặp ác mộng. Tôi nghĩ tình thương rồi sẽ quay lại với mình.

Dần dần, những lần ghé thăm thưa hẳn.

— Mẹ ơi, con bận.

— Cuối tuần này cũng không được đâu mẹ.

Và tôi chờ.

Một ngày, Carlo bảo:

— Mẹ về ở với tụi con đi, cho mẹ có người bầu bạn.

Tôi xếp đồ. Cái mền tặng cô hàng xóm, cái ấm pha cà phê đem cho, cây đàn piano thì bán — rồi tôi về căn nhà rộng rãi, sáng sủa của con.

Ban đầu, dễ chịu lắm. Cháu trai ôm tôi, Laura rót cà phê cho tôi. Rồi mọi thứ đổi khác.

— Mẹ ơi, vặn nhỏ tivi lại.

— Mẹ ở trong phòng nhé, nhà có khách.

— Mẹ chưa bỏ đồ giặt chung với tụi con sao?

Và những câu nói cứ dính chặt lên tường:

— Tụi con mừng vì mẹ ở đây, nhưng đừng làm nhiều quá.

— Mẹ ơi, đây không còn là nhà của mẹ nữa.

Tôi cố giúp: nấu ăn, giặt giũ, trông cháu. Nhưng như thể tôi không tồn tại. Hoặc tệ hơn: tôi là gánh nặng.

Một đêm, tôi nghe Laura nói chuyện điện thoại:

— Mẹ chồng như bức tượng ở góc nhà. Có cũng như không. Thế lại… dễ cho mình hơn.

Đêm đó tôi không ngủ. Nhìn trần nhà và hiểu: người thân ở ngay bên, mà mình cô độc nhất đời.

Một tháng sau, tôi đi. Tôi nói có bạn rủ về quê ở chung.

— Mẹ đi vậy cũng tốt, Carlo đáp, nghe như thở phào.

Giờ tôi ở một căn phòng nhỏ ngoài rìa Granada. Tôi tự pha cà phê, đọc sách, viết những lá thư chẳng bao giờ gửi. Không ai chen ngang, không ai phán xét. Bảy mươi tuổi, tôi không mong gì nhiều. Chỉ muốn còn cảm thấy mình là một con người — không phải gánh nặng, không phải cái bóng.

Tôi đã hiểu:

Cô đơn thật sự không phải là sự im lặng của căn nhà.

Đó là khi những người mình yêu ở ngay gần, mà chẳng ai nhìn thẳng vào mắt mình.

Khi người ta chịu đựng mình thay vì lắng nghe.

Khi mình vẫn ở đó, nhưng đã bị coi như vô hình.

Tuổi già không nằm trên nếp nhăn.

Tuổi già là tình yêu bạn đã từng cho đi…

và  còn ai cần đến nữa.

TG Văn Chương


 

Tiểu Tử, những giọt nước mắt, những tiếng thở dài

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Từ Thức

26/09/2025

Nhà văn Tiểu Tử Võ Hoài Nam (1930-2025)

 LTG: Nhà văn Tiểu Tử, 95 tuổi, vừa từ trần tại Noisy le Grand, ngoại ô Paris, ngày 18/9/2025, sau nhiều năm chống chọi với bệnh tật.

Với lối hành văn ‘’miệt vườn’’, đặc biệt miền Nam, ông ghi lại một cách sống động những màn kịch vừa bi thảm vừa khôi hài ở miền Nam sau 1975. Ông nói thay hàng triệu người cái u uất, cái đau buồn một buổi sáng thấy mình mất quê hương, mất dĩ vãng.

Để tưởng niệm tác giả, xin gởi lại dưới đây bản ghi lại bài nói chuyện nhân dịp ra mắt sách Tiểu Tử trước đây tại Paris, Pháp

 *****

André Gide nói ‘’ Cest avec les beaux sentiments quon fait de la mauvaise littérature ‘’ (Với những tình cảm tốt, người ta làm văn chương dở) (1).

Tiểu Tử là một nhà văn đã chứng minh ngược lại, có thể viết hay với những tình cảm tốt. Trong tác phẩm của ông, hầu như chỉ có những tình cảm tốt , chỉ có tình người.

Một nhân vật nói về một nhân vật khác trong truyện ngắn ‘’Made in Vietnam’’ : người chi mà tình nghiã quá héng ? ‘’ . Độc giả nghĩ tới câu đó mỗi lần đối diện với những nhân vật của Tiểu Tử. Người chi mà tình nghiã quá héng.

Độc giả chai đá tới đâu , đọc Tiểu Tử cũng không cầm được nước mắt. Người ta khóc, nhưng sau đó thấy ấm lòng, vì thấy trong một xã hội đảo lộn, vẫn còn đầy tình người, vẫn còn đầy thương yêu, vẫn còn nghiã đồng bào, vẫn còn những người tử tế . Và thấy đời còn đáng sống.

Một nhà văn Pháp nói văn chương, trước hết là xúc động. Trong truyện ngắn của Tiểu Tử, sự xúc động hầu như thường trực, chan chứa.

MIỆT VƯỜN

Tiểu Tử là một nhà văn miền Nam điển hình, con đường nối dài của những Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam.

Văn của ông là lối kể chuyện của người miền Nam, bình dị nhưng duyên dáng, duyên dáng bởi vì bình dị, tự nhiên.

Tiểu Tử không ‘’ làm văn ‘’.

Không có chữ thật kêu, không có những câu chải chuốt. Với cách viết, với ngôn ngữ chỉ có những tác giả miền Nam mới viết được. Không hề có cường điệu, không hề có làm dáng. Người đọc đôi khi có cảm tưởng tác giả không mấy ưu tư về kỹ thuật viết lách. Ông viết với tấm lòng. Không có ưu tư văn chương, đó là một nhận xét gây tranh cãi sôi nổi về các nhà văn miền Nam trên một tờ báo văn học Sài Gòn trước 75. Nhưng nếu Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc viết như kể chuyện, Sơn Nam – với Hương Rừng Cà Mâu- và sau này, Nguyễn Ngọc Tư- với Cánh Đồng Bất Tận –có văn phong riêng, độc đáo.

Văn chương, trước hết là ‘’ style ‘’. Toni Morrison, nhà văn nữ Hoa Kỳ, Nobel văn chương, nói: nếu tôi đánh rơi vài tờ bản thảo, người lượm được sẽ nói: đây làn ăn thảo của Toni Morrison.

Có hai loại nhà văn : có văn phong hay không . Tiểu Tử thuộc loại nhà văn thứ nhất. Đọc vài câu, người ta biết là văn Tiểu Tử.

Ngay cả tên những nhân vật cũng đặc miền Nam, không có Lan, Cúc, Hồ Điệp , Giáng Hương, như trong tiểu thuyết miền Bắc, không có Nga My, Diễm My , Công Tằng Tôn Nữ như Huế, chỉ có những con Huê, con Nhàn, con Lúa, thằng Rớt, thầy Năm Chén, thằng Lượm , bà Năm Chiên, bà Năm Cháo lòng…

Các địa danh cũng đặc Nam kỳ, không có Cổ Ngư, Vỹ Dạ, Thăng Long, chỉ có những Nhơn Hoà, Cồn Cỏ, Bò Keo, Bình Quới, những tên, những địa danh rất ‘’miệt vườn’’, chỉ đọc cũng đã thấy dễ thương, lạ tai, ngồ ngộ. Âm thanh như câu vọng cổ ai ca bên bờ rạch.

Tiểu Tử , 88 tuổi, kỹ sư dầu khí, tác giả nhiều tập truyện ngắn ( Những Mảnh Vụn, Bài ca Vọng Cổ, Chuyện Thuở Giao Thời ) học ở Marseille, hiện sống ở ngoại ô Paris, nhưng văn của ông không lai Tây một chút nào. Rất Việt nam, đúng ra rất Nam Việt, với lối viết như người ta kể chuyện bên ly la de, bên tô hủ tíu, với những chữ nghen, chữ héng, chữ nghe..’’. ‘’ Cần gì cứ nói nghe cô Hai, đừng ngại. Mình với nhau mà ..’’.

Dưới ngòi bút của một tác giả người Bắc, người Trung, gọi người đàn bà là con Huê, con Nhàn có vẻ hỗn, ở Tiểu Tử, nó chỉ có sự thân ái. Ở ngoài đời cũng vậy, nghe ông gọi ‘’ con nhỏ ” này, con nhỏ kia, người nghe chỉ thấy chỗ thân tình

Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Tiểu Tử đã chứng tỏ ngôn ngữ địa phương, cách diễn tả địa phương làm giầu cho văn hoá dân tộc. Cố gắng bắt chước lối diễn tả Hà Nội là một lầm lỗi, nó chỉ làm cái vốn văn hoá của ta nghèo đi. ( Và đó là nói về Hà Nội ngày xưa, HN của ngàn năm văn vật. Hà Nội ngày nay không còn gì là nơi văn vật, cái gì cũng ‘’ đéo ‘’, như câu đối thoại ở một sạp báo, không biết có thực hay chỉ là chuyện tếu: ”Còn báo Nhân Dân không ? – Đéo còn nhân dân, chỉ còn Người Hà Lội ” )

NHỮNG GIỌT NƯỚC MẮT

Văn chương là hư cấu, nhưng đọc Tiểu tử, người ta thấy cái chân thực, có cảm tưởng không có chi tiết nào là kết quả của tưởng tượng.

Tất cả đều là những chuyện tác giả đã sống, hay đã nghe kể lại . Vả lại, ở Việt Nam, thực tế vượt xa tưởng tượng. Cái đau đớn, cái thảm kịch mỗi người Việt Nam đã, đang sống, không có người viết văn nào, giầu óc tưởng tượng tới đâu, có thể bịa ra. Orwell, Kafka sống dậy cũng chào thua, thấy óc tưởng tượng của mình có hạn.

Trong ‘’ Thầy Năm Chén ‘’, ông thầy thuốc, suốt đời làm việc nghiã, bị cách mạnh hành hạ, chuẩn bị cho con vượt biên. Khi giã từ con, ông đưa cho con, thằng Kiệt, ‘’ một cái gói mầu đỏ đã phai màu, cột làm nhiều gút’’ , nói : ‘’cho con cái ni. (ông già người gốc Huế ). Con giữ trong người để hộ thân.’’ Kiệt đến Cannada an toàn, một ngày dở cái gói của cha cho ngày vượt biển. Trong đó có … ba cái răng vàng. Thầy Năm Chén, nhờ ơn cách mạng, trở thành vô sản, đã cạy ba cái răng vàng cho con làm của hộ thân đi tìm đường sống ở xứ người. Độc giả hiểu tại sao từ ngày con đi, ông Năm Chén chỉ húp cháo.

‘’ Chiếc Khăn Mùi Xoa ‘’ có thể coi là điển hình cho truyện ngắn Tiểu Tử , trong đó có sự xúc động cao độ, đẫm nước mắt, với những nhân vật nhân hậu, giầu tình nghiã, những chi tiết éo le như một cuốn phim tình lãng mạn, nhưng đơn giản, chân thực.

Một người Việt tị nạn ở Pháp về thăm nhà, gặp những người bạn học cũ, trong đó có nhân vật chính, ‘’ con Huê ‘’, sự thực là một người đàn bà đã đứng tuổi. Ông ta kể lại : ‘’Con Huê tiễn tao ra cổng, đứng ngập ngừng một lát rồi bỗng nói một mạch, là lạ, như tụi mình trả bài thuộc lòng thuở nhỏ : Anh qua bên Tây , gặp anh Cương nói em gởi lời thăm ảnh . Nó nói rồi bỏ chạy vội vào trong, tao thấy nó đưa tay quệt nước mắt mấy lần. Tao đứng chết trân, nhớ lại lời con Nhàn, em con Huê, nói với tao : Anh biết không, chị Huê thương anh Cương từ hồi còn nhỏ lận . Người con gái ở quê mình nó thật thà, trung hậu đến mức độ mà khi trót thương ai thì thương cho đến chết. Họ coi đó là tự nhiên , phải có nước lớn nước ròng ‘’.

Tiểu Tử viết chuyện tình âm thầm của người đàn bà từ ngày còn đi học, tới ngày nay đã bạc đầu, với người bạn trai ngày xưa tên là Cương, nhưng sóng gíó 75 đã khiến người đàn ông bỏ nước đi lánh nạn. Người con gái của ông Cương, đang sống ở Bruxelles, đọc truyện, cho tác giả hay bố mẹ đều đã qua đời. Trước khi chết, Cương dặn con gái : ‘’ Con ráng tìm cách về Nhơn Hoà, Cầu Cỏ, trao cái này cho cô Hai Huê, nói ba không quên ai hết ‘’. Chữ ” ai ”, đặc Nam kỳ, dễ thương chi lạ. ‘’Cái này ‘’ là một bao thư, trong đó có chiếc khăn mùi xoa cô Huê đã tặng Cương thời trẻ. Người con gái thấy thương bố , thương cô Hai Huê không cùng. Cô gái đi Việt Nam, một xứ xa lạ, tìm về Nhơn Hoà, Cầu cỏ, tìm người đàn bà tên Huê để trao lại kỷ vật của người đã qua đời. Cô Hai Huê xỉu đi khi nghe tin người bạn xưa đã chết. Hai người đàn bà, một già, một trẻ ôm nhau khóc. Cô gái mang cô Hai Huê sang Bỉ, sống với nhau như mẹ con. Người chi mà…

Nếu bạn là người tưởng mình có tâm hồn sỏi đá vì đã sống, đã chứng kiến đủ mọi thảm kịch của đời sống, nhất là đời sống của một người Việt Nam, bạn sẽ ngạc nhiên thấy mình đang lau nước mắt.

KHÔNG ĐIÊN CŨNG KHÙNG

Thế giới truyện ngắn của Tiểu Tử xoay quanh hai đề tài chính: những kỷ niệm về một Miền Nam hiền hoà, chất phác, nhân hậu ngày xưa, với những trò vui đùa, nghịch ngợm của đám bạn bè trẻ, những mối tình mộc mạc của những người dân quê và, sau đó, những đảo lộn sau 75, khi tai họa trên trời giáng xuống. ‘’ Tất cả đều bị xáo trộn, bị nghịch lý đến nỗi tao sống trong đó mà lắm khi phải tự hỏi : làm sao có thể như vậy được ‘’. Một xã hội vô tư, kể cả vùng quê, hiền hòa, trở thành địa ngục. Chỉ còn hận thù, phản trắc, gian sảo, cướp đoạt, dối trá.

Những nhân vật của Tiểu Tử không còn cười đuà, vui chơi, dễ dãi nữa. Đó là những nhân vật đầy ưu phiền như ông Tư, như bà Hai, như thầy Năm Chén, như anh Bẩy, như bà Năm Cháo lòng. Một xã hội đổ nát, rách bươm. ‘’Những người ‘’cách mạng’’ xông vào nhà, ngang nhiên hùng hổ, như một bọn cướp. Họ ‘’bươi ‘’ từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới, từ trước ra sau, từ sau ra trước…giống như gà bươi đống rác.Gặp gì kiểm tra nấy. Vậy rồi…hốt hết. ‘’

Sau 75 , người ta truyền nhau một câu ca dao mới : Thằng khôn thì đã vượt biên. Những thằng ở lại không điên cũng khùng.

Các nhân vật của Tiểu Tử, vốn là những người miền Nam hiền lành, dễ tin, yêu đời, nhiều người đã hết lòng với ‘’kháng chiến ‘’, sau ”cách mạng’’, đều bị đàn áp, gia sản bị cướp đoạt trắng trợn trong những chiến dịch ‘’ đánh tư sản mại bản ‘’ trở thành không điên cũng khùng.

Ông Tư ( trong IM LẶNG ) là người có gia sản ở Saìgòn, đã bí mật đóng góp tài chánh cho ‘’Giải Phóng’’. Khi Cộng Sản chiếm miền Nam, không những không được trả ơn, mà bị hành hạ, gia sản bị cướp sạch. ‘’ Bỗng nhiên ông Tư nhận thức rằng tất cả những gì thuộc về ông bây giờ chỉ còn lại người vợ cuả ông đang chờ đợi ông ở nhà ‘’. Nhưng bà vợ tiếc cuả, uất hận vì bị cách mạng lưà gạt, suốt ngày đay nghiến, trách móc chồng. Rốt cuộc hai vợ chồng tìm được cách chạy sang Pháp, nơi con trai ông đã được bố mẹ gởi đi du học, đã thành đạt, có nhà cưả sang trọng. Ông con hỏi bố ở chơi bao nhiêu ngày. Ông Tư nói ở lại luôn. Ông con nói, giọng đặc ‘’Việt kiều yêu nước’’ : ‘’ Ủa, sao lại ở luôn. Bây giờ nước nhà độc lập rồi, không còn thằng nào ngồi trên cổ mình hết; vậy mà ba má bỏ qua đây luôn. Thiệt là vô lý ‘’. Ông Tư trở thành một người câm, không nói gì với ai nưã. Cho đến một hôm ông lầm lũi lội xuống biển cho nước cuốn đi. Ông Tư là một ‘’ thằng khôn’’ đã vượt biên, nhưng cái đau đớn bám ông già cho dù có trốn ở cuối chân trời, cuối cùng chỉ có nước biển mới rửa sạch.

Bà Hai ( trong Thằng Đi Mất Biệt ), con cái chết, gia tình tan nát, suốt ngày ngồi chờ đưá con trai còn lại bị đưa đi cải tạo. ‘’ Khi trời nắng ráo, bà đi tuốt ra ngoài vàm rạch, lên ngồi trên môi đất có thể nhìn thẳng qua bên kia sông. Như vậy, khi nào thằng nhỏ nó về, mình thấy nó từ đằng xa, nó có đi đò, trong đám đông, mình cũng nhìn ra đươc nó liền hà ‘’.

Thầy Năm Chén, phòng mạch bị chiếm, con trai phải bỏ đi vượt biển. ‘’Chia tay nhau mà hai cha con không dám ôm nhau. Sợ người ta để ý. Thầy không đưa con ra cổng nghiã trang. Sợ người ta để ý. Thầy không dám để rơi một giọt nước mắt. Sợ người ta để ý. Thầy chỉ thở dài. Thời buổi bây giờ chỉ thở dài là không ai để ý. Bởi vì ai cũng thở dài hết ‘’.

Ông già bới rác ( truyện cùng tên ) là một ông già có công với ‘’cách mạng’’, bi cách mạng cướp hết không còn manh giáp, trở thành khùng, suốt ngày lang thang ngoài đường bới rác, ‘’ tao bới rác để kiếm mấy thằng Việt Cộng tao đã nuôi trong nhà ‘’

Trong Những Mảnh Vụn , người yêu ‘’ đi chui bán chánh thức ‘’, nghiã là đi vượt biển do cán bộ tổ chức, biệt tăm, chắc mất xác vì tầu quá cũ bị chìm , anh Bâỷ suốt ngày, như một người mất hồn, đi qua lại tất cả những nơi ngày xưa hai người vẫn hẹn hò. ‘’ Bẩy không biết mình đang đi lượm những những mảnh vụn của cuộc tình. Nếu không có cái ‘’ngày cách mạng thành công ‘’ đã thật sự thành công trong nhiệm vụ đập nát tất cả những gì của miền Nam, kể cả những gì nhỏ bé nhứt, tầm thường nhứt như tình yêu của chàng trai và cô gái đó ‘’.

Bà Năm cháo lòng ‘’ vẫn bán cháo lòng, lâu lâu vẫn chửi thằng con mà giống như bà chửi cả nước ‘’

Mỗi truyên ngắn Tiểu Tử thể hiện sống động một giai đoạn lịch sử, tóm tắt trong câu thơ mà người ta gán cho Bùi Giáng, vì trong cái điên loạn của xã hội, người điên tỉnh hơn cả người tỉnh : Đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào. Đánh cho chết mẹ đồng bào miền Nam.

NHỮNG NỤ CƯỜI

Đọc Tiểu Tử, người ta không thể không xúc động. Nhưng văn Tiểu Tử cũng đầy nét khôi hài, những nhận xét ngộ nghĩnh. Phòng mạch của Thầy Năm Chén ‘’bịnh nhơn cũng vắng. Làm như người ta sợ quá rồi…quên bịnh. Trái lại, bên phía chùa thì lại đông người lui tới và ngày nào cũng có người. Làm như người ta chỉ còn biết …dựa vào Phật ‘’.

Qua vài nét chấm phá, ông ghi lại những cảnh trái tai gai mắt, những cảnh lố bịch của những người thắng trận. Những cảnh không biết nên cười hay nên khóc diễn ra trước mắt, mỗi ngày, chỉ cần ghi lại, không cần thêm thắt, bình luận. André Gide : Plus un humouriste est intelligent, moins il a besoin de déformer la réalité pour le rendre significative ( Một nhà khôi hài càng thông minh, càng không cần bóp méo sự thực để làm cho nó có ý nghiã ).

Tiểu Tử không cần bóp méo sự thực, chỉ việc cúi xuống lượm, ghi lại những cái lố lăng, đảo lộn luân thường diễn ra mỗi ngày, trước mắt. Nói như vậy, sự thực không dễ. Phải tinh tế, nhạy cảm mới biết ‘’ lựa ‘’ cái gì, trong một cửa hàng ê hề là xã hội VN những năm sau 75.

Muốn hiểu lịch sử, hay xã hội trong một giai đoạn lịch sử, không gì hơn là đọc các nhà văn. Hơn là những sử gia, những nhà biên khảo, nhà văn, trong vài chữ, vài nét, cho thấy mặt thực của xã hội.

Salman Rusdhie nói ông viết văn, bởi vì đó là cách hay nhất ông tìm thấy để hiểu thế giới chung quanh.

Văn chương đi vào trái tim, trong khi biên khảo chỉ đi vào trí óc. Không có xúc động, rất khó có cảm thông. Không có cảm thông, không sống với người trong cuôc, làm sao hiểu được ?. Staline : ‘’ một người chết là một bi kịch, một triệu người chết chỉ là một con số thống kê ‘’.

Nhà văn không làm thống kê, chỉ ghi lại bi kịch của mỗi nhân vật, của tôi, của anh, của mỗi người. Mỗi câu chuyện là một bi kịch ; hay bi hài kịch – farces tragiques-của một thời đảo điên.

KÝ ỨC CỦA MỘT XÃ HỘI TỬ TẾ

Truyện ngắn Tiểu Tử, với lối hành văn bình dị, linh động là một cuốn tự điển sống của ngôn ngữ miền Nam thời chưa loạn. Đó là kho tàng quý; trong khi ở hải ngoại, chữ Việt càng ngày càng lai Tây, lai Mỹ; trong nước càng ngày càng lai Tầu, với những chữ, những lối nói ngớ ngẩn, đôi khi kỳ quái, khiến tiếng Việt không còn là tiếng Việt, báo hiệu một ngày người Việt không còn là người Việt. Và, từ đó, nước Việt không còn là nước Việt. Nguyễn Văn Vĩnh : tiếng Việt còn, nước Việt còn.

Truyện ngắn Tiểu Tử là những giọt nước mắt, những tiếng thở dài, nụ cười đùa cợt trong những ngày bình an và ngay cả, nhất là, trong cơn đớn đau cùng cực. Ông là một nhân chứng quý báu của một giai đoạn bi thảm của một thuở giao thời. ‘’Chuyện Thuở Giao Thời ‘’ là tựa một tập truyện của tác giả. Nhưng chữ thuở giao thời còn nhẹ quá. Phải nói là một cuộc đổi đời ghê rợn nhất trong lịch sử dân tộc Việt, một dân tộc vốn đã quen ăn nằm với máu và nước mắt .

Độc giả trân trọng với truyện ngắn Tiểu Tử , có lẽ bởi vì đó là một tài liệu quý . Một cuốn phim sống động về một xã hội tử tế đang phá sản, đặc biệt là phá sản về luân lý , về tình người.

Cái xã hội tử tế tử tế đó càng xa dần, càng biệt tăm, rã rời, và biến mất, người ta càng xúc động, như một chiều rảnh rỗi, không cầm được nưóc mắt khi coi lại những tấm hình cũ, thật đẹp, thật thơ mộng, của chính mình ngày xưa.

TƯ THỨC. Paris

1 . A.Gide muốn nói viết văn, phải đi vào tận cùng tâm khảm của con người. Và nếu đi tới cùng, sẽ thấy nhiều cái xấu, cái lở lói. Bản chất con người phức tạp, đời sống phức tạp, cái xấu cái tốt lẫn lộn. Văn chương phải lột trần được cái sự thực đó.

  1. Trên đây là bài nói chuyện của tác giả nhân dịp ra mắt sách của Tiểu Tử ở Paris, ngày 03/01/2015 . Những đoạn văn được trích dẫn từ ba tuyển tập truyện ngắn : Những Mảnh Vụn , Tiếng Ca Vọng Cổ, ChuyệnThuở Giao Thời.

 

NGƯỠNG MỘ – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Con Người sắp bị nộp vào tay người đời!”.

“Bạn không thể trải qua một ngày ‘cách thành kính’ trừ khi bạn coi đó là ngày cuối đời. Thật đáng ngưỡng mộ với một người luôn nghĩ về cái chết. Ai cống hiến hết mình cho nó hàng giờ chắc chắn sẽ là một vị thánh! Một người từng nghe bản án tử hình của mình sẽ không lo lắng về cách vận hành của các rạp hát!” – John Climacus.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay chỉ ra ‘vị thánh’ Climacus phác hoạ – Chúa Giêsu! Bởi lẽ, đang khi mọi người ‘ngưỡng mộ’ Ngài, thì Ngài – như không quan tâm về cách vận hành của các rạp hát – tuyên bố cuộc khổ nạn của mình, “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời!”.

Luca ghi nhận, “Mọi người bỡ ngỡ về tất cả các việc Chúa Giêsu làm”; đang khi chỉ mình Ngài biết, sự ‘ngưỡng mộ’ đó chỉ nhất thời, Ngài sắp lên Giêrusalem với những gì đang đợi. Ngài nói, “Con Người sắp bị nộp!”; “Các môn đệ không hiểu”. Họ không hiểu là phải, vì điều Ngài nói quá nghịch thường với những gì họ kỳ vọng. “Sự ngưỡng mộ phai nhạt khi sứ điệp chạm vào vùng an toàn của người nghe!” – Brennan Manning. Giả thiết Ngài nói, ‘Tuần sau, Thầy sẽ đăng quang làm vua’; họ hiểu ngay! Thứ đến, họ quá ‘ngưỡng mộ’ Ngài – dẫu là tốt – và sự ‘ngưỡng mộ’ lấn át lý trí này là vật cản khiến họ không hiểu kế hoạch tiềm ẩn của Chúa Cha – hiến dâng mạng sống để cứu độ nhân loại. “Sự ngưỡng mộ chỉ là một đam mê ngắn ngủi; nó sớm phai nhạt thành dửng dưng!” – Joseph Addison.

Chúa Giêsu không bị thúc đẩy bởi nhu cầu khen lao từ phía con người. Ngài được thúc đẩy bởi sự khen lao của Chúa Cha, chỉ ước muốn làm theo ý Cha, đó là lý do tại sao Ngài lên Giêrusalem, nơi không hứa hẹn điều gì khác ngoài cái chết. Điều tương tự cũng xảy ra với chính Giêrusalem. Niềm tự hào thực sự về nó không phải vì nó “Rộng bao nhiêu, dài bao nhiêu”, nhưng vì nó “Được Thiên Chúa ở cùng!” – bài đọc một – vì “Chúa canh giữ chúng ta, như mục tử canh giữ đàn chiên!” – Thánh Vịnh đáp ca. “Nơi Thiên Chúa ngự, kích thước hay huy hoàng chẳng còn nghĩa lý gì!” – C.S. Lewis. Vì thế, thay vì mải mê tìm kiếm sự tán dương phàm nhân, chúng ta được mời gọi tìm “nụ cười của Thiên Chúa” trong từng bổn phận nhỏ bé mỗi ngày. “Tiếng hoan hô của đám đông sớm tàn; nụ cười của Thiên Chúa tồn tại mãi mãi!” – Max Lucado.

Anh Chị em,

Chúa Giêsu biết rõ lòng người. Ngưỡng mộ hôm nay có thể đổi thành khước từ mai ngày. Vì thế, Ngài không tìm sự ủng hộ hay sự uỷ lạo từ thế gian; thay vào đó là sự hiện diện và vinh quang của Chúa Cha, làm trọn ý Cha, dù ý ấy dẫn đến thập giá. Ngài cho thấy, chỉ khi tâm hồn được neo trong sự hiện diện của Thiên Chúa, chúng ta mới có thể bước đi bình an, bất chấp mọi tán thưởng hay chê bai. “Thiên Chúa ở cùng chúng ta là trọng tâm của mọi lời hứa!” – Dietrich Bonhoeffer. Chính sự đồng hành của Thiên Chúa mới là vinh quang của Giêrusalem, cũng là vinh quang của mỗi người chúng ta.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cứu con khỏi bệnh “ghiền like” và “nghiện vỗ tay”. Dạy con ghi nhớ, gió đến thì đi, còn hơi thở của Cha mới là điều giữ con đứng vững!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

*************************************************************

Lời Chúa Thứ Bảy Tuần XXV Thường Niên, Năm lẻ

Con Người sắp bị nộp vào tay người đời. Các ông sợ không dám hỏi lại Người về lời ấy.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.  Lc 9,43b-45

43b Khi ấy, đang lúc mọi người còn bỡ ngỡ về tất cả các việc Đức Giê-su làm, thì Người nói với các môn đệ rằng : 44 “Phần anh em, hãy lắng tai nghe cho kỹ những lời sau đây : Con Người sắp bị nộp vào tay người đời.” 45 Nhưng các ông không hiểu lời đó, vì đối với các ông, lời đó còn bí ẩn, đến nỗi các ông không nhận ra ý nghĩa. Nhưng các ông sợ không dám hỏi lại Người về lời ấy.


 

Mừng kính 2 thánh  Cót-ma và Ða-mi-a-nô, thế kỷ thứ 3.- Cha Vương

Chúc bình an! Hôm nay 26/9 Giáo hội mừng kính 2 thánh  Cót-ma và Ða-mi-a-nô, thế kỷ thứ 3. Các ngài được xem như là  bổn mạng bổn mạng các thầy thuốc và những y tá.

Cha Vương

Thứ 6: 26/9/2025   t5-24

Vào khoảng thế kỷ thứ III, tại miền Égée thuộc nước Ả Rập, có hai anh em sinh đôi tên là Cót-ma và Ða-mi-a-nô. Ngay quãng đầu đời, hai anh em đã gặp cảnh khó khăn, thử thách. Số là cha hai Ngài mất sớm, hai Ngài rơi vào cảnh mồ côi cha. Chúa vô cùng thương xót đã cho hai Ngài có bà mẹ đạo đức, thánh thiện, nhân ái. Hai Ngài đã được tình thương của mẹ ủ ấp, mẹ các Ngài đã giáo dục các Ngài theo đường hướng Giáo Hội và Chúa Kitô.  Hai Ngài đã được hấp thụ một nền giáo dục nhân bản thật tốt, đã được trui luyện theo đường hướng Phúc Âm của Chúa. Ðược Chúa soi sáng, Thánh Thần tác động, hướng dẫn, hai Ngài lớn lên đã mau chóng đạt được bằng cấp y dược và trở thành những lương y lành nghề, đạo đức. Với y đức có được, với lòng đạo đức, tâm hồn hướng về Chúa, thánh Cót-ma và Ða-mi-a-nô đã hành nghề lương y mà không nhận một khoản tiền thù lao nào đối với bất cứ một ai. Chính vì thế, tiếng tăm đạo đức của hai Ngài vang dội khắp nơi.

   Giáo Hội của Chúa Kitô ít khi được an bình, con cái thế gian luôn tìm cách phá hại Hội Thánh của Chúa. Giáo Hội vào thời hai Ðấng lúc đó gặp cảnh cấm cách, bắt bớ của Hoàng đế Ðiôclêtianô và Maximianô, Cótma và Ðamianô bị bắt, bị dẫn giải tới quan Lydia. Thánh Cót-ma và Ðamianô không sợ sệt, không run sợ, không nhát đảm, các Ngài luôn tuyên xưng mình là Kitô hữu. Quan Lydia truyền đánh đòn hai Ngài một cách dã man, tàn ác, ra lệnh xích tay chân và quăng hai Ngài xuống biển. Chúa nhiệm mầu và quyền năng đã cứu hai Ngài khỏi chết. Tức giận vì phép lạ Chúa giải cứu hai Ngài khỏi chết, Lydia đã ra lệnh đốt một đống lửa cháy to và đẩy hai Ngài vào đống lửa đang cháy. Hai Ðấng vẫn ung dung, vừa đi vừa cầu nguyện giữa đống lửa đang bừng bừng cháy lớn. Phép lạ Chúa quả quá tỏ tường, nhiều người chứng kiến phép lạ lớn lao ấy đã được ơn quay trở lại.

   Như một con thú khát máu, Lydia đã ra lệnh khẩn cấp đem hai Ngài đi chém đầu. Hai thánh nhân trước khi để cho đao phủ chém đầu mình đã can đảm ngước mắt lên trời cầu xin Chúa thứ tha cho những kẻ làm hại các Ngài. Thánh Cót-ma và Ða-mi-a-nô đã được phúc tử vì đạo vào ngày 27/9/297. Chính đức tin sắt đá và lòng nhân từ của các Ngài đã giúp các Ngài được phúc lãnh nhận ơn chết vì đạo.

SỨ ÐIỆP: Hai anh em sinh đôi Cot-ma và Ða-mi-a-nô đã sống trung thành với giáo lý chân chính của chúa, của Giáo Hội. Các Ngài cảm nghiệm tình thương vô biên của Chúa. Tình thương đã tha thứ cho người trộm lành. Tình thương đã hoán cải con người Mađalêna và tình thương đã cải hóa ông Gia-kêu, người thu thuế. Ý thức sâu xa, con đường của Chúa đã đi, lời Chúa đã dậy, thánh Cót-ma và Ða-mi-a-nô đã nói lên cho nhân loại điều này: “Chỉ có tình thương tha thứ mới giải thoát được con người “.  Chúa đã yêu thương, tha thứ cho nhân loại tội lỗi, Chúa đã kê vai gánh tội cho nhân trần, tại sao nhân loại lại không thể cảm thông tha thứ cho nhau? Thánh Cót-ma và Ða-mi-a-nô đã nói lên chân lý này: “Thiên Chúa là tình yêu”. Con người nhận Chúa làm gia nghiệp phải sống tình yêu của Chúa. 

(Nguồn: Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)

   Thánh Grégoire de Tours, thế kỷ VI, làm chứng lòng sùng kính hai vị tử đạo “chữa bệnh” này tại xứ Gaule: “Hai anh em y sĩ Cosma và Đamianô đã trở thành Kitô hữu; chỉ nhờ công phúc nhân đức và lời cầu nguyện của các ngài, nhiều bệnh tật đã được xua đuổi. Sau một số cực hình khác nhau, các ngài lại đoàn tụ với nhau trên trời và làm nhiều phép lạ. Nếu có một người bệnh đến mộ các ngài và tin tưởng cầu xin, người đó đã gặp thầy gặp thuốc. Người ta kể các ngài hiện đến với các bệnh nhân trong giấc mộng, cho họ toa thuốc, bệnh nhân cứ thế nghe theo và họ được chữa lành” (In. Glor.Mart 98).

   Lạy thánh Cót-ma và Ða-mi-a-nô xin chữa lành những bệnh tật mà chúng con đang có và xin cầu bầu cùng Chúa giúp chúng con biết yêu thương, tha thứ cho những người làm hại chúng con như hai thánh đã xin Chúa thứ tha cho những kẻ giết thân xác hai Ngài.

From: Do Dzung

**************************

Tha Thứ Chữa Lành – Lm. Giuse Vũ Đức Hiệp

Kinh Hôn Nhân Gia Đình

Lạy Thánh Gia, xưa Thánh Cả Giuse đã dẫn đưa Mẹ Maria và Chúa Giêsu trốn sang Ai Cập. Thánh Gia đã chia sẻ những tân toan trong đời sống gian nan.

Xin cho gia đình chúng con:

Biết CẢM THÔNG và SỐNG theo Lời Chúa dạy trong Thánh kinh,

Biết LẮNG NGHE và KÍNH TRỌNG NHAU, lúc vui cũng như khi buồn,

Biết NHẪN NHỤC và HÒA GIẢI. khi tính tình và cách cư xử khác nhau,

Biết HIẾU NGHĨA và CHUNG THỦY, từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội,

Biết lấy GƯƠNG LÀNH, mà dưỡng dục con cái.

   GIÊSU – MARIA – GIUSE

Đời chúng con sóng gió ba đào, xin Thần Linh Chúa ban ơn CAN ĐẢMKIÊN TRÌ.

Gia đình chúng con TRẺ GIÀ XUNG KHẮC, xin ban ơn QUẢNG ĐẠI,

THỨ THA, để chúng con AN VUI CHẤP NHẬN LẪN NHAU.

Giáo Hội Chúa cần nhiều tín hữu NHIỆT THÀNH SỐT MẾN,

xin cho chúng con biết PHỤNG SỰ, TIN YÊU, để cùng nhau XÂY DỰNG NƯỚC CHÚA MUÔN ĐỜI.

Giêsu-Maria-Giuse, con mến yêu, xin thương cứu các linh hồn.

Giêsu-Maria-Giuse, con mến yêu, xin thương cứu các gia đình.

Giêsu-Maria-Giuse, con mến yêu, xin thương cứu gia đình con. Amen.

BÀ TIẾN HAY ÔNG LÙI CŨNG RỨA THÔI.

Nguyễn Hoành 

 Bài viết hơi dài “đụng chạm đến nhiều người” xin mọi người hãy chịu khó đọc hết nhé!

BÀ TIẾN HAY ÔNG LÙI CŨNG RỨA THÔI.

Câu chuyện như sau:

Năm 2008 tôi về Quảng Ngãi tìm tư liệu và chuẩn bị làm phim về cụ Huỳnh Thúc Kháng. Khi đang chụp ảnh phần mộ của cụ trên núi Thiên Ấn thì một bác già khả kính đến nói với tôi:

– Anh làm ơn chụp cho đoàn bác vài kiểu ảnh kỷ niệm. Máy bác hết phim ( hồi đó còn chụp bằng phim).

Nói rồi ông gửi tôi cái danh thiếp và hẹn gặp lại ở nhà khách UBND tỉnh Quảng Ngãi gần đường Hùng Vương.

Nhìn tấm danh thiếp tôi khoái ngay và chỉ sau một giờ tôi đã đem đến nhà khách biếu quý khách một bộ ảnh rất đẹp, không lấy tiền.

Cảm kích vì nghĩa cử đó và nhận ra mình là đồng hương, quê tôi ở Cẩm Khê, nhà ông ở Xuân Huy, Lâm Thao một làng nhiều Tiến sỹ nhất Việt Nam từ năm …1970 chỉ cách nhau hơn chục cây số, ông tiếp tôi rất nồng hậu.

Khi tôi khéo léo hỏi ông (có ghi âm) về chuyện Y đức thì vị giáo sư bạc đầu này nhận ra ngay.

Ông nói:

-Tôi không trả lời anh đâu, nhưng tôi kể cho anh nghe câu chuyện của chính gia đình tôi, rồi anh làm gì thì làm.

Tôi nghe xong câu chuyện mà xúc động. Câu chuyện này có lẽ đủ tư cách giải thích tất thảy những chuyện vui buồn của ngành y tế, từ chuyện tiêm vacxin chết người đến chuyện Cát Tường, chuyện dịch sởi v.v…

Dưới đây là câu chuyện của GS Võ Như Lành.

-Một lần tôi về phép đúng vào dịp người em tôi bị đau vùng bụng cấp, rất nguy kịch, phải đi bệnh viện ngay ban đêm.

Là nhà nghề tôi leo lên xe đi cùng. Vào khu vực phòng cấp cứu, tôi vui mừng nhận ra vị trưởng phòng cấp cứu là BS Huy, một học trò giỏi của tôi trong trường y.

Khi khiêng băng ca vào phòng, hai lần tôi giáp mặt với BS Huy nhưng tôi chợt nhận thấy hình như anh ta không muốn chào tôi.

Anh đeo khẩu trang nhưng làm sao tôi quên được vầng trán, ánh mắt, dáng đi của một SV đặc biệt đã học tôi 6 năm trời.

Và đêm ấy, theo gợi ý của cô y tá và sự chỉ dẫn của một người lạ, người nhà tôi phải chi ra 2 triệu bôi trơn cho kíp mổ.

Một tuần sau em tôi ra viện.

Tôi cầm tiền lên thanh toán viện phí và chủ trương đối diện với tay sinh viên xưa, nay đã trở thành kẻ bất trị này.

Khi tôi vào phòng y vụ, vừa chìa giấy tờ ra thì cô nhân viên chừng 30 tuổi đứng bật dậy, giọng nói trầm ấm, thân tình:

-Mời thầy đi theo em.

Mặc dù tôi chưa dậy cô này ngày nào nhưng nghe giọng nói thân thiện, tác phong rất chân tình, tôi vô thức bước theo cô.

Cô đưa tôi lên thẳng phòng …cấp cứu. Đến cửa, cô nói:

-Mời thầy vào, Xếp em đang chờ thầy!.

Cô mở cửa ấn tôi vào căn phòng mát rượi và đi ra.

Khi chỉ còn hai người, BS Huy ôm chầm lấy tôi. Anh nói ngay:

-Thầy ngồi đi, em biết là thầy giận em lắm. Rồi em sẽ giải thích ngay đểthầy hiểu.

Tôi lắng nghe.

Vẫn con người ấy, thông minh, lanh lợi, tin cậy và thân tình.. Anh ta nói:

…………..

“ Và nếu hôm đó, thầy trò mình nhận nhau, tay bắt mặt mừng thì có thể, người nhà thầy…chết!.

Nếu kíp mổ nhận thấy họ đang phải thức ba tiếng đồng hồ giữa đêm khuya để mổ một ca không – phong – bì thì chất lượng chuyên môn, các biện pháp hỗ trợ sẽ chạy theo kiểu không – phong – bì thầy ạ.

Bởi vậy, khi gặp thầy, em làm lơ, tính sau kíp mổ sẽ gặp lại thì Thầy đã về nhà rồi.

Hôm nay, em xin tạ tội cùng thầy và em phải nói rằng, em có được như ngày hôm nay là nhờ thầy, Xin thầy đừng từ chối món quà này của em, coi như vài thang thuốc bổ để chăm sóc thầy khi không được gần thầy” .

Huy nói rồi lấy một gói giấy mỏng, gói ghém chu đáo sẵn nhanh tay nhét vào túi trong áo veston của tôi.

Tôi hoàn toàn mất tự chủ.

Sự thể diễn ra hoàn toàn ngoài suy đoán, dự cảm của tôi. Huy vẫn như cậu sinh viên hiếu hạnh, chu đáo và giỏi giang năm xưa.

Cuối cùng, tôi hỏi:

– Tôi có dạy các anh làm thế không?.

– Dạ, thưa thầy, cái lỗi chính nằm ở chỗ ấy ạ. Cái chính là vì các thầy đã không dạy những cái đó, những cái cần – phải – dạy.

Tôi ớ ra, hỏi cho rõ thì BS Huy nhẹ nhàng:

-Ngày làm luận văn tốt nghiệp, các thầy cho một câu hỏi: Người BS chế độXHCN khác với người BS tư bản ở chỗ nào? Nếu ai trả lời rằng, điểm khác biệt đó là người BS XHCN không cần tiền bạc vẫn làm tốt chức phận của mình thì được điểm cao.

Thực tế không phải thế!

Tôi bắt đầu hiểu ra vấn đề. Hình như toàn bộ bi kịch là ở đây. Hình nhưchúng tôi có lỗi. Không có BS nào là không cần tiền cả. Tôi ngậm ngùi thăm hỏi hoàn cảnh BS Huy. Anh nói:

“ Sau khi ra trường, con về phục vụ tại một bệnh viện chuyên ngành chăm sóc cán bộ tại Hà Nội. Bệnh nhân của BV này toàn loại VIP.

Đến bữa trưa, con đem cặp lồng cơm đã nguội hắt có vài cọng rau muống đen xì và nửa quả trứng kho mặn vợ chuẩn bị ra ăn trong khi những bệnh nhân kia chơi gà luộc nửa con, giò chả ngập chân răng và họ luôn có quyền bắt ne bắt nét chúng con.

Đến một lúc, con nghĩ: tại sao cùng là người sao họ sướng thế. Sao mình ra sức phục vụ, ăn học từng ấy năm, tận tụy, hiểm nguy mà khổ thế. Phải “chặt”!.

Lần đầu con chặt, cầm cái phong bì hơi cũng run tay nhưng về sau quen dần, càng chặt càng bén, chặt nhát nào ra nhát ấy.

Về sau con cũng đứng lớp, cũng dạy học trò nghề y cao quý này, ra trường chúng cũng biết chặt, chúng chặt giỏi hơn con, chặt nhát nào ra nhát ấy”.

Tôi không biết nói gì lúc này nữa.

Trong không gian này, tôi không biết ai là thầy, ai là trò nữa. Hình như BS Huy đang dạy cho tôi bài học vỡ lòng về sự bất hợp lý trong những vận động xã hội đã xảy ra, đang xảy ra.

Trên đường về, tôi giở phong bì ra, đếm được mười triệu. Tôi lẩm cẩm nghĩ: Lãi 8 triệu và một bài học quý từ cuộc sống, thôi thì….

Câu chuyện của GS Lành đến đây là hết. Không gian nhà khách UBND tỉnh Quảng Ngãi trầm hẳn xuống. Tôi cũng chẳng biết bình luận gì thêm.

Phải chăng, chúng ta đã tạo ra một không gian để phát triển một loại mâu thuẫn xã hội đằng đẵng dăm chục năm và rồi hôm nay ta đắm mình trong bi kịch đó, bi kịch mà một nhà văn đã nói:

Cái lò xo bị nén xuống ba tấc, khi bật lên, nó sẽ bật lên chín tấc.

Những tiêu cực trong ngành y tế sẽ còn dài chứ không dừng lại ở đây kể cảkhi thay ba bộ trưởng.

Bao giờ cái thiết chế y tế, từ đào tạo đến các nguyên tắc về phúc lợi, nhân đạo, chính trị thay đổi theo hướng tích cực, có lý có tình thì tình hình sẽ tựnó tốt lên, các bạn ạ.

st có chỉnh sửa

Cóp từ FB Nguyễn Khang


HƯƠNG THINH LẶNG – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Hôm ấy, Đức Giêsu cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với Người”.

“Khi thế giới quên Thiên Chúa và các ngả đường vang dội tiếng người bất an, lời cầu nguyện thầm kín của bạn trở thành trụ cột giữ cho bầu trời khỏi sụp đổ!” – Fulton Sheen.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay thật lạ, Chúa Giêsu cầu nguyện một mình – dù các môn đệ ở bên. Dẫu quanh mình náo động, Ngài vẫn toả hương cầu nguyện, gắn bó sâu xa cùng Cha. Bài học cho chúng ta: giữa công việc, “giữa các ngả đường vang dội tiếng người bất an”, người môn đệ được mời toả ‘hương thinh lặng’ bằng lửa cầu nguyện luôn cháy!

Dường như Chúa Giêsu không cần phải tách biệt khỏi mọi người để có thể cầu nguyện; Ngài hiệp thông sâu sắc với Chúa Cha ngay khi ở bên các môn đệ. Đôi khi chúng ta nghĩ, cần một môi trường hoàn hảo để có thể cầu nguyện đúng cách; cần một mình để có được bình an và tĩnh lặng hoàn toàn. Tuy nhiên, Chúa Giêsu cho biết, cầu nguyện có thể thực hiện ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào; chỉ cần chú tâm đến sự hiện diện của Chúa, Đấng luôn chú tâm đến chúng ta; chú tâm đến Chúa cả khi ở giữa những người khác không cầu nguyện. “Trái tim biết cầu nguyện có thể mang thinh lặng xuyên qua những con phố ồn ào nhất!” – Henri Nouwen.

Sau khi cầu nguyện, Chúa Giêsu đặt ra hai câu hỏi. Dường như Luca muốn nói, những gì Chúa Giêsu đặt ra đã hình thành trong Ngài khi Ngài cầu nguyện. Lời cầu nguyện của Ngài cách nào đó đã định hình nên những lời Ngài nói với người khác. Cũng thế, lời cầu nguyện của chúng ta cũng sẽ định hình chúng ta; định hình ‘những gì chúng ta nói’, ‘cách chúng ta nói’; ‘những gì chúng ta làm’, ‘cách chúng ta làm’, mặc dù chúng ta có thể không luôn nhận thức được mối liên hệ giữa lời cầu của mình và phần còn lại của cuộc sống. Đó là ‘hương thinh lặng’ của người môn đệ! “Cầu nguyện chạm khắc linh hồn, và linh hồn được chạm khắc – sẽ chạm khắc thế giới bằng lời nói và việc làm của nó!” – Søren Kierkegaard.

Khi cầu nguyện, chúng ta mở lòng mình trước Chúa; cho Ngài thêm không gian và phạm vi để tác động đến suy nghĩ, lời nói và hành động, thực sự là toàn bộ cuộc sống. Chính ở đó, Thiên Chúa âm thầm uốn nắn, để từng ngày, cả cuộc đời chúng ta dần mang dấu ấn của Ngài. Khi chúng ta bền bỉ dành thời gian cho Chúa, các quyết định lớn nhỏ, những phản ứng tự phát, thậm chí cả những ánh mắt nụ cười cũng được thấm nhuần bởi sự dịu dàng và khôn ngoan của Ngài.

Anh Chị em,

Giữ lửa cầu nguyện, chúng ta không chỉ tìm sức mạnh cho riêng mình, nhưng còn để trở nên dấu chỉ của Chúa cho người khác. Giữa công sở ồn ào, trên tàu xe đông đúc hay trong những buổi họp căng thẳng, một tâm hồn quen thuộc với Chúa sẽ tự nhiên toả ra bình an, cảm thông, và một sự kiên nhẫn hiếm thấy. Khi đó, người khác có thể không nghe lời cầu nguyện của chúng ta, nhưng họ cảm được ‘hương thinh lặng’ chúng ta mang theo. Và hương ấy là chứng tá âm thầm, bền vững và mạnh mẽ nhất.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, ước gì giữa đám đông ồn ã, con vẫn mang theo một ‘góc trời’ bình an, để bất cứ nơi nào con hiện diện cũng phảng phất hương thơm của Chúa!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

******************************************************* 

Lời Chúa Thứ Sáu Tuần XXV Thường Niên, Năm lẻ

Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa. Con Người phải chịu đau khổ nhiều.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.      Lc 9,18-22

18 Hôm ấy, Đức Giê-su cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với Người, và Người hỏi các ông rằng : “Dân chúng nói Thầy là ai ?” 19 Các ông thưa : “Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại.” 20 Người lại hỏi : “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?” Ông Phê-rô thưa : “Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa.” 21 Nhưng Người nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai.

22 Người còn nói : “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy.”


 

Vấn đề Hỏa Ngục – TRẦM THIÊN THU

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ all-about-the-virgin-mary.com)

21 Oct /2014   

Hỏa Ngục có thật, không là chuyện mơ hồ hoặc bịa đặt để hù dọa. Hỏa Ngục như một Biển Lửa, lửa-của-các-loại-lửa, cực mạnh và vô cùng khủng khiếp, không như lửa bình thường ở thế gian này. So với Lửa Hỏa Ngục và Lửa Luyện Hình, lửa thế gian chỉ như “gió mát” mà thôi. Đừng cứng lòng mà phải khốn nạn đời đời!

Bài chia sẻ này gồm vài chứng cớ mạnh mẽ và khủng khiếp mà các thánh nhân đã được mặc khải và trực tiếp cảm nghiệm thực tế về nơi ở ngùn ngụt lửa của ma quỷ . Các mặc khải này đã được Giáo hội chuẩn nhận vì hoàn toàn phù hợp với các giáo huấn trong Phúc Âm. Kitô hữu không buộc phải tin các mặc khải tư, nhưng các mặc khải về Hỏa Ngục này khả dĩ giúp chúng ta suy nghĩ nghiêm túc hơn và sâu sắc hơn về sự bí ẩn và thực tế của Hỏa Ngục.

Tháng Mười Một, tháng cầu cho các linh hồn nơi Luyện Hình, là dịp thuận tiện để chúng ta cùng kiểm tra và xác định lại đức tin của chính mình. Hãy chú ý các “bí quyết” mà ma quỷ áp dụng để cám dỗ và khiến chúng ta phạm tội. Mưu ma chước quỷ thật đáng sợ!

1. THÁNH TIẾN SĨ TERESA ÁVILA (1515–1582)

Thánh nữ Têrêsa Ávila là nhà thần bí, tiến sĩ Giáo hội. Bà cho biết:

“Một hôm, khi tôi đang cầu nguyện, tôi thấy chính mình trong một lúc, không biết thế nào, rõ ràng chìm vào Hỏa Ngục. Tôi biết đó là Ý Chúa muốn tôi thấy nơi mà ma quỷ đang sẵn sàng đối với tôi, tôi đáng như vậy vì tội của tôi. Thời gian kéo dài một lúc, nhưng có vẻ như tôi không thể quên được dù tôi còn sống nhiều năm sau đó. Lối vào có vẻ hẹp và dài, giống như lò lửa, rất tối tăm và chật chội. Nền như đầy nước, bùn lầy, hôi thối, kinh tởm, và đầy sâu bọ gớm ghiếc. Phía cuối là khoảng trống rỗng như khoang trống ở trên vách tường, tôi thấy mình bị nhốt giam ở đó. Không có gì khoác lác trong lời tôi nói đâu” .

“Với những gì tôi cảm thấy lúc đó, tôi không biết bắt đầu từ đâu nếu tôi phải diễn tả nơi đó. Rất khó giải thích. Tôi cảm thấy lửa trong linh hồn tôi nhưng tôi không thể diễn tả. Đau khổ thể lý của tôi không thể chịu nổi. Tôi chịu các đau khổ nhất trong đời, như các thầy thuốc diễn tả là teo gân khi tôi bị tê liệt, không thể so sánh với các dạn bệnh khác, ngay cả những gì tôi nói, Satan bắt tôi phải chịu. Nhưng những điều đó chẳng là gì so với những gì tôi cảm thấy lúc đó, nhất là khi tôi thấy không có sự tạm ngưng hoặc kết thúc cực hình”.

“Các cực hình đó không là gì so với nỗi thống khổ của linh hồn tôi, một cảm giác áp bức, ngột ngạt, đau nhói, cùng với cảm giác vô vọng và tàn khốc, tôi không biết mô tả như thế nào. Nếu tôi nói rằng linh hồn tiếp tục bị xé ra khỏi thân xác thì cũng chưa chính xác, vì điều đó ngụ ý nói sự hủy diệt sự sống bằng tay của người khác, nhưng ở đây, chính linh hồn tự xé ra từng mảnh. Tôi không thể mô tả lửa hoặc nỗi vô vọng trong lòng, hơn cả mọi sự giày vò và đau khổ. Tôi chưa thấy ai bị hành hạ như tôi, tôi cảm thấy mình đang cháy và bị xé ra từng mảnh. Tôi lặp lại rằng đó là lửa trong lòng, và nỗi vô vọng là cực hình khủng khiếp nhất ”.

“Khi vào nơi khủng khiếp đó, không còn hy vọng được thoải mái, tôi không thể ngồi hoặc nằm, không có khoảng trống nào hết. Tôi như bị đặt vào khoảng không trên vách tường, nhìn mình rất khủng khiếp, xung quanh tôi là những tiếng rên la. Tôi không thể hít thở. Không có ánh sáng, chỉ có bóng tối dày đặc. Tôi không biết mô tả nó như thế nào. Dù không có ánh sáng, nhưng mọi thứ có thể gây đau khổ bằng cách bị thấy mà vô hình”.

“Lúc đó, Đức Mẹ không cho tôi thấy Hỏa Ngục nữa. Sau đó, tôi có một thị kiến khủng khiếp nhất, trong đó tôi thấy hình phạt của các tội lỗi. Các hình phạt nhìn rất khủng khiếp, nhưng vì tôi không còn đau đớn nữa, nỗi kinh hoàng của tôi cũng không còn ghê gớm…”.

“Tôi quá đỗi hoảng sợ khi thấy thị kiến đó, nhìn như nơi mà tôi thấy sáu năm trước, sức nóng tự nhiên của cơ thể khiến tôi rùng mình mỗi khi tôi nghĩ tới nó. Vì thế, trong mọi đau khổ mà tôi có thể phải chịu, tôi luôn nhớ rằng mọi đau khổ trên thế gian này không là gì cả. Có vẻ chúng ta than phiền vô cớ. Tôi lặp lại rằng thị kiến này là một trong các điều thương xót của Thiên Chúa. Đó là điều tuyệt vời nhất đối với tôi, vì điều đó đã hủy diệt nỗi lo sợ của tôi về sự rắc rối và sự mâu thuẫn của thế gian, vì điều đó đã làm tôi đủ mạnh mẽ để chống lại, tôi tạ ơn Đức Mẹ là Đấng giải thoát tôi khỏi những nỗi đau khổ kinh khủng và lâu dài như vậy”.

2. NỮ TU JOSEFA MENENDEZ (1890–1923)

Nữ tu Josefa Menendez, người Tây Ban Nha, qua đời năm 1923 ở tuổi 33, là một trong các nhà thần bí “nổi tiếng” của thế kỷ XX. Nữ tu này có cuộc đời ngắn ngủi nhưng chịu nhiều đau khổ, và được mặc khải trong đa phần cuộc đời, gom lại trong cuốn “The Way Of Divine Love” (Cách Thức của Tình Chúa). Bà đã được đưa tới Hỏa Ngục để chứng kiến và cảm nhận nỗi thống khổ. Nữ tu Josefa buộc lòng phải viết về Hỏa Ngục, vì bà làm vậy chỉ là làm theo ý muốn của Chúa. Đây là chứng cớ:

“Linh hồn tôi rơi vào vực thẳm, rộng bao la, không thấy đáy… Rồi tôi bị đẩy vào một hồ lửa, giống như ở giữa các tấm ván đang cháy, các đinh nhọn sắc và các thanh sắt nóng đỏ như muốn đâm vào da thịt tôi. Tôi cảm thấy như thể chúng muốn tuốt lưỡi tôi ra nhưng không thể. Cực hình này khiến tôi đau đớn đến nỗi mắt tôi như không còn nhìn thấy. Tôi nghĩ đó là vì lửa cháy, bừng cháy… Không móng tay nào của tôi không đau đớn, người ta không thể nhúc nhích dù chỉ một ngón tay để cho bớt đau nhức, không thể thay đổi tư thế, vì cơ thể có vẻ như bị dát mỏng và bị gấp đôi lại. Các âm thanh khó phân biệt và lời phỉ báng không ngừng, dù chỉ trong một thoáng. Mùi hôi thối kinh tởm làm ngột ngạt và làm hư hại mọi thứ, như thể mùi thịt thối rữa bị cháy, pha lẫn với mùi hắc ín (nhựa đường) và lưu huỳnh… Đó là sự pha tạp mà không thể so sánh với bất cứ mùi gì khác trên thế gian này… Mặc dù các cực hình này rất rùng rợn, không thể chịu đựng nổi, không thể mô tả được… Những gì tôi viết ra đây chỉ là bóng mờ nhạt của những gì mà linh hồn phải chịu, không lời nào có thể mô tả nỗi đau khổ khốc liệt như vậy” (ngày 4-9-1922) .

“Đêm nay, tôi được đưa tới một nơi hoàn toàn tăm tối … Xung quanh tôi có bảy hoặc tám người. Tôi chỉ có thể thấy họ qua ánh lửa. Họ ngồi nói chuyện với nhau. Một người nói: Chúng ta phải rất cẩn thận kẻo bị phát hiện, vì chúng ta dễ bị phát hiện lắm”.

“Ma quỷ nói: Hãy xúi giục họ bất cẩn … nhưng hãy ở phía sau để không bị phát hiện… cứ dần dần rồi họ sẽ chai lì, chúng ta sẽ kéo nó về phía xấu xa. Hãy cám dỗ những người khác tham lam, ích kỷ, giàu có mà không cần làm việc, dù đúng luật hay không. Hãy kích thích người ta khoái nhục dục và ham vui. Hãy làm cho thói xấu làm mờ mắt họ… Với những người khác… hãy vào trái tim họ… nên biết khuynh hướng của tâm hồn họ…! Hãy làm cho họ yêu thích… yêu thích say đắm…! Hãy làm việc hết sức… đừng nghỉ ngơi… đừng thương hại! Cứ để họ say mê ăn uống! Như vậy sẽ dễ cho chúng ta… Hãy để họ tiếp tục tiệc tùng và chè chén. Ham vui là cửa ngõ để chúng ta đến với họ…” (ngày 3-2-1923).

“Tôi thấy vài linh hồn sa Hỏa Ngục, trong số đó có một em gái mới 15 tuổi, nó nguyền rủa cha mẹ đã không dạy nó kính sợ Thiên Chúa và không cho nó biết có Hỏa Ngục. Nó cho biết rằng đời nó ngắn ngủi nhưng đầy tội lỗi, vì nó đã chiều theo mọi thứ mà thể xác và đam mê đòi hỏi…” (ngày 22-3-1923).

“Hôm nay, tôi thấy rất nhiều người phải vào lò lửa… Họ có vẻ như người trần gian và một quỷ hét lớn: Thế giới đã chín muồi cho ta thu hoạch…! Ta biết rằng cách tốt nhất để bắt giữ các linh hồn là khuấy động lòng ham vui của người ta… Hãy ưu tiên tôi… Tôi trước mọi người… không có sự khiêm nhường đối với tôi! Hãy cứ để tôi vui thỏa… Với dạng này chắc chắn chúng ta chiến thắng… và chúng sẽ xuống Hỏa Ngục” (ngày 4-10-1923).

3. THÁNH NỮ FAUSTINA (1905–1938)

Nữ tu Faustina, người Ba Lan, được Giáo hội tuyên thánh ngày 30-4-2000, đã được Chúa cho thấy Hỏa Ngục năm 1936. Chị ghi trong Nhật Ký số 741:

“Hôm nay, tôi được thiên thần dẫn tới vực thẳm Hỏa Ngục. Đó là nơi tra tấn dữ dội, rất khủng khiếp và rộng lớn! Các cực hình tôi thấy: Cực hình thứ nhất tạo thành Hỏa Ngục là mãi mãi xa cách Thiên Chúa ; cực hình thứ hai là lương tâm cắn rứt đời đời ; cực hình thứ ba là tình trạng mãi mãi bất biến ; cực hình thứ tư là lửa thiêu đốt mà không hủy diệt linh hồn – đau khổ khủng khiếp, vì đó là lửa tinh thần (không như lửa thường), đốt lên bởi cơn giận của Thiên Chúa; cực hình thứ năm là bóng tối dầy đặc và ngột ngạt khủng khiếp , mặc dù tối tăm, ma quỷ và các linh hồn vẫn thấy nhau, thấy người khác và thấy chính mình; cực hình thứ sáu là đời đời ở với Satan ; cực hình thứ bảy là tuyệt vọng , căm thù Thiên Chúa, với các lời phỉ báng và nguyền rủa hèn hạ . Các linh hồn hư mất phải cùng nhau chịu các cực hình này, nhưng đó không là chấm dứt đau khổ. Có các loại cực hình đặc biệt dành cho các linh hồn cá biệt. Có các cực hình của ngũ quan. Mỗi linh hồn chịu những nỗi đau khổ khủng khiếp, không thể diễn tả nổi, liên quan những gì họ đã phạm tội. Có các hang động và hầm hố có các cực hình khác nhau. Hẳn là tôi đã chết giấc khi nhìn thấy các cực hình này nếu Thiên Chúa không nâng đỡ tôi. Hãy cho các tội nhân biết rằng họ sẽ chịu cực hình đời đời theo các giác quan mà họ đã dùng để phạm tội ”.

“Tôi viết điều này theo lệnh của Thiên Chúa, để không linh hồn nào có thể viện cớ gì mà nói rằng không có Hỏa Ngục hoặc không có ai ở đó, vì thế không ai có thể nói như vậy. Tôi là Nữ tu Faustina, theo lệnh của Thiên Chúa, đã được thăm Hỏa Ngục để tôi có thể nói cho các linh hồn biết về Hỏa Ngục và làm chứng về sự hiện hữu của Hỏa Ngục ”.

“Tôi không thể nói về Hỏa Ngục bây giờ, nhưng tôi đã được lệnh của Thiên Chúa viết về Hỏa Ngục. Ma quỷ rất căm thù tôi, nhưng chúng phải vâng lời tôi theo lệnh của Thiên Chúa. Những gì tôi viết chỉ là bóng mờ nhạt của những gì tôi thấy. Nhưng tôi chú ý một điều: Đa số các linh hồn ở đó là những người đã không tin có Hỏa Ngục. Khi tôi tới đó, hầu như tôi không thể hồi phục vì hoảng sợ. Các linh hồn chịu cực hình ở đó thật khủng khiếp! Cuối cùng, tôi cầu nguyện tha thiết hơn để xin ơn hoán cải cho các tội nhân. Tôi không ngừng cầu xin lòng thương xót của Thiên Chúa tuôn đổ trên họ. Lạy Chúa Giêsu của con, thà con chịu khổ cực cho đến tận thế, giữa các đau khổ nhất, còn hơn con phản nghịch Ngài vì tội nhỏ nhất ”.

4. FATIMA – BA TRẺ THẤY HỎA NGỤC

Năm 1917, trong thời gian Thế Chiến I, Đức Mẹ đã hiện ra với ba trẻ nhỏ tại Fatima, Bồ Đào Nha, vào các ngày 13 từ tháng Năm tới tháng Mười. Trong lần hiện ra ngày 13-7-1917, Đức Mẹ đã cho ba trẻ em này thấy Hỏa Ngục. Đây là chứng cớ:

“Đức Mẹ xòe tay ra, những tia sáng như xuyên thấu thế gian, chúng tôi thấy như là biển lửa. Chìm trong biển lửa đó là ma quỷ và các linh hồn trong dáng vóc con người, như than hồng trong suốt, mọi thứ như đồng đen hoặc hoặc bóng lộn, lơ lửng trong lửa cháy, lửa bốc cao đưa người ta lên như đám khói, rồi lại rơi xuống như những đốm lửa trong ngọn lửa lớn, không trọng lượng hoặc mất thăng bằng, ở giữa những tiếng la hét và kêu than vì đau khổ và tuyệt vọng, điều đó làm chúng tôi sợ hãi và phát run vì hãi hùng. Cảnh tượng đó khiến chúng tôi bật khóc, như thể người ta nghe được vậy”.

Ma quỷ có thể phân biệt bằng cách nhìn chúng giống như những con vật lạ lẫm, gây hoảng sợ, cự tuyệt, đen đủi và trong suốt như những cục than hồng. Chúng tôi sợ hãi và xin Đức Mẹ cứu giúp, Đức Mẹ nói với chúng tôi bằng giọng buồn: “Các con đã thấy Hỏa Ngục, nơi các linh hồn tội lỗi phải vào. Như vậy, khi các con đọc Kinh Mai Côi, hãy đọc câu này sau mỗi chục kinh: Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con, xin cứu chúng con cho khỏi Hỏa Ngục, xin đem các linh hồn lên Thiên Đàng, nhất là những linh hồn cần đến Lòng Chúa Thương Xót hơn ”.

Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Nếu tay hoặc chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; thà cụt tay cụt chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay hai chân mà bị ném vào lửa đời đời. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã thì hãy móc mà ném đi; thà chột mắt mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào lửa hoả ngục” (Mt 18:8-9).

Chúng ta cùng sám hối và chân thành cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài” [Tv 50 (51):3-6].

Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy Chúa, muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe tiếng con. Dám xin Ngài lắng tai để ý nghe lời con tha thiết nguyện cầu. Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài” [129 (130):1-4].