Mẹ Tôi Người Vợ Lính Miền Nam – Đ.Văn- Truyen ngan HAY

Mẹ tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu có, ông bà ngoại là điền chủ ruộng cò bay thẳng cánh ở miệt Phú Xuân Nhà Bè. Mẹ được ăn học ở thành phố, sau thời trung học ở trường Gia Long rồi đến Đại học Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt. Ba tôi lại sinh trưởng trong gia đình nông dân nghèo khó, gia đình lại đông anh em, nhưng được cái Ba tôi học giỏi, hiền lành và rất có hiếu. Cũng vì gia đình bên ngoại ngăn cản nên Ba tôi “thất tình”, đăng lính dù cổng trường Đại học Văn Khoa, Sư Phạm đang rộng mở. 

Bà Ngoại làm mối cho Mẹ nhiều người nhưng Mẹ đều lắc đầu. Khi Ba tôi học xong khóa sĩ quan Thủ Đức 16 và được thăng cấp bậc Đại Úy, và Mẹ tôi thì cũng “chưa có ai” khi tuổi gần ba mươi. Có thể vì vậy mà bà ngoại tôi xiêu lòng và đồng ý cho Ba Mẹ tôi lấy nhau vào những ngày cuối năm 1969.

Dù bị ngăn cản từ đầu và phải qua nhiều khó khăn, thử thách, Ba Mẹ tôi mới đến được với nhau, nhưng sau đó, Ba tôi lại là người con rể được bà Ngoại yêu quý nhất.

Cưới xong là Ba tôi ra mặt trận, đi khắp các chiến trường miền Nam từ Quảng Trị, Khe Sanh đến Long Giao, Long Khánh, Bình Long, Phước Long. Ngày tôi chào đời, Ba tôi còn chiến đấu tận bên Lào, bên Cam Bốt. Ôi! Những người vợ lính thời chiến!

Chiến tranh leo thang trong giai đoạn 70-74 thật khốc liệt. Mùa hè đỏ lửa 72, những trận đánh dữ dội ở Khe Sanh, Bình Giã, Đồng Xoài…, tin tử trận dồn dập về từng giờ, từng ngày. Mẹ như ngồi trên đống lửa. Mẹ vừa đi làm ở Tòa Đô Chánh vừa nuôi dạy chúng tôi và trông ngóng tin tức của Ba ngoài mặt trận, đứng ngồi không yên.

Ngày mất miền Nam, Ba tôi đi tù. Mẹ bụng mang dạ chửa, một mình sinh nở. Thằng em tôi ra đời vào tháng Sáu năm đó, đúng lúc gia đình đau thương và túng quẫn nhất. Mẹ một thân một mình, mấy đứa con còn nhỏ xíu, không tiền bạc. Với cái lý lịch “ngụy quyền” và có chồng đi “học tập cải tạo” không còn nơi nào dám nhận Mẹ vào làm. Mẹ xoay sở mọi cách để chúng tôi có cái ăn hàng ngày, đồ đạc trong nhà lần lượt ra đi đến khi không còn gì có thể bán được, Mẹ phải đi bán hàng rong cực nhọc đủ điều, nhưng Mẹ không có nửa lời than van.

Tôi còn nhớ, mỗi lần tết đến, vì không có tiền mua quần áo mới cho chúng tôi, Mẹ ngồi cắt từng chiếc áo dài của Mẹ khi xưa để may cho chúng tôi những bộ đồ mới đi chúc Tết họ hàng. Mẹ không muốn chúng tôi buồn và tủi thân, một mình Mẹ cam chịu.

Sau vài năm bặt tin của Ba, gia đình nhận được tin về người ở tận trại tù vùng Hoàng Liên Sơn Yên Bái, mẹ tôi lại lo khăn gói lên đường thăm Ba. Thời đó, từ Nam ra Bắc quả là “gian khổ chập chùng”, phải đổi bao nhiêu chuyến tàu, chuyến xe, băng rừng lội suối mới tới chỗ Ba tôi bị giam giữ. Thân trong lao tù, nhưng Ba luôn an ủi khích lệ gia đình, cứ mỗi độ xuân về Ba lại gởi cho chúng tôi những bài thơ Ba làm, khuyên nhủ dạy bảo chúng tôi.

Re-Education Camp in Vietnam. Hit Song - YouTube

Suốt tám năm ròng, Mẹ tôi tảo tần nuôi con, nuôi chồng không quản thân mình. Có thời ngăn sông cấm chợ, Mẹ phải gởi chúng tôi cho bà Nội, đi buôn chuyến Sài Gòn Phan Thiết. Sau mấy lần bị tịch thu hàng, Mẹ tôi không còn vốn liếng đi buôn nữa nên tiếp tục việc chạy hàng rong ngoài chợ. Tôi cũng ôm thùng cà-rem ngồi bán ở góc đường đầu ngõ cùng mấy thứ bánh kẹo lặt vặt bán cho mấy đứa con nít trong xóm để kiếm thêm ít tiền phụ mẹ phần nào.

Khi tới mùa lúa, Mẹ tôi về Nhà Bè làm ruộng với gia đình cô tôi để được chia chút gạo trắng cho chúng tôi có những bữa cơm không độn khoai mì, bo bo. Từng là tiểu thư thành phố, có ăn có học, nhưng công việc nặng nhọc đã cướp đi vẻ quý phái của Mẹ tự khi nào. Nhìn mái tóc điểm sương, đôi tay thô ráp, gương mặt hằn nỗi nhọc nhằn sớm tối của Mẹ, chúng tôi thấy thương Mẹ vô cùng.

Hàng đêm trước khi ngủ, mấy mẹ con trên một chiếc giường chật như nêm nhưng chúng tôi rất thích, không ai chịu đi ra chỗ khác ngủ. Chúng tôi lớn dần theo những câu chuyện cổ tích của Mẹ kể. Mẹ tôi đã bươn trong rác rưởi đọa đày mà đi, nhưng Mẹ vẫn dành cho chúng tôi những niềm vui trẻ thơ, con cái vẫn là tài sản quý giá và quan trọng nhất đối với Người. Mẹ muốn chị em chúng tôi biết yêu thương nhau, biết hy sinh chia xẻ cho nhau; có ký ức tốt đẹp về tuổi thơ của mình; có kỷ niệm về gia đình êm ấm. Mẹ nói “Con người ta nghèo nàn về vật chất không sao, nhưng ai nghèo nàn về tâm hồn và tâm linh thì đáng tiếc lắm các con ạ. Mẹ muốn các con dù trong hoàn cảnh hiện tại khó khăn đói nghèo, nhưng tâm hồn mình không nghèo nàn”. Mẹ là người đi góp nhặt từng niềm vui, tiếng cười cho chúng tôi trong những hoàn cảnh bi thương nhất của cuộc đời.

Cuối cùng, sau bao nhiêu năm mỏi mòn trông ngóng, Ba tôi trở về từ trại tù. Nhưng gia đình chúng tôi đoàn tụ chẳng bao lâu thì Ba tôi từ trần, khi Mẹ mới vào cái tuổi bốn mươi hai. Nhiều tai nạn dồn dập đổ xuống gia đình tôi, nhưng một lần nữa, vì chúng tôi, Mẹ không ngã gục.

Sau khi chúng tôi tới được đất Mỹ, một lần nữa, vì con cháu, Mẹ đành bỏ lại quê hương, nơi Mẹ đã sống gần bảy mươi năm; sang một đất nước xa xôi, lạ lẫm, bất đồng ngôn ngữ, văn hóa. Lòng Mẹ đau đáu nhìn về nơi chôn nhau cắt rốn, đau xót; nơi ấy Ba tôi đã nằm xuống, mồ im mả lạnh.

Cuộc đời của Mẹ tôi, cũng như của tất cả những bà Mẹ Việt Nam cùng thời, buồn nhiều hơn vui. Thời chiến thì mất chồng, mất con, sống trong cảnh đạn bom khói lửa và những cuộc di cư lánh nạn triền miên; đến “thời bình” thì bị giam cầm, nghèo khổ trong trại tù lớn là cả quê hương Việt Nam. Sang đến Mỹ, một đất nước giàu có, tự do thì lại làm những công việc chân tay cực khổ, nuôi con ăn học. Nhưng khi con khôn lớn, lập gia đình, thì cũng chỉ một mình mẹ trong căn nhà trống vắng.

Những bài thơ về chữ Hiếu, stt báo hiếu cha mẹ

Trong mùa lễ Vu Lan, tôi tự hứa với lòng mình là sẽ làm mọi thứ để giữ nụ cười và chút niềm vui còn sót lại trên gương mặt đã già nua và hằn những vết đau khổ của Mẹ.

Cầu mong cho những tháng ngày còn lại của các bà mẹ được yên bình, vui vẻ bên cháu con.

Trang Diệp

Share Lại Người Lính Già TQLC

 From Tu – Phung

Câu chuyện: Già “khú đế” – BS Đỗ Hồng Ngọc

Những Câu Chuyện Thú Vị – Nguyen Minh

  Ngạc nhiên vì bài viết của BS Đỗ Hồng Ngọc được nhiều người tán thưởng…ngẫm ra độc giả …đa số đều già nên thấm thía những gì ông viết…

Mời các bạn đọc tiếp nhé :

Câu chuyện: Già “khú đế”

BS Đỗ Hồng Ngọc

  1. “Già khú” là giai đoạn một, thêm một bước nữa thì gọi là “già khú… đế”. Khú, Từ diển tiếng Việt bảo là “để thâm lại và có mùi hôi”, thí dụ dưa khú, tức là một thứ dưa để lâu quá, sắp hư. Khú đế là “vua” của khú, hơn hẳn các khú!

Thật là một sai lầm lớn khi ta nghĩ rằng già sẽ đến từ từ, cứ từ từ mà thích nghi, mà giải quyết mọi chuyện lần lượt. Không đâu. Già nó xồng xộc trên trời rơi xuống, dưới đất vọt lên. Không những xồng xộc nó còn gia tốc, tàn bạo như cơn sóng vỗ vào bờ đá, vội vã để mau chóng nhập vào dòng nước cuồn cuộn đuổi theo sau. Nó mạnh mẽ và tàn nhẫn, tung tóe, tan tác, lắng chìm, không một chút xót thương. Nó lãnh đạm bởi nhiệm vụ nó phải thế. Nó thú vị bởi nó không phân biệt. Giàu nghèo sang hèn, da trắng, da đen… Còn ta, ta chần chờ, chểnh mãng, làm ngơ… Hãy đợi đấy. Đi đâu mà vội… Không đâu! Một hôm già bỗng chuyển hệ sang già…khú, rồi khú đế đột ngột làm đảo lộn mọi thứ tính toan. Quên tuốt những ký ức, lẫn lộn điều nọ với điều kia, thứ này với thứ khác, tai không nghe rõ, nói không trôi chảy, mắt không nhìn tinh… như làn sóng đã bắt đầu tung tóe!

Già đến đột ngột và tàn bạo. Như một cơn động đất, không cần phải hỏi han, không cần báo trước. Như một cơn bão dữ, thổi ào qua, cuốn tất cả không thương tiếc. Khi nó khú đế, nó sẵn sàng làm ta trở nên lố bịch, buồn cười, ngớ ngẩn, đáng thương. Khi nhìn quanh những người già khú đế mà… còn khỏe, ta nghĩ ta chắc cũng sẽ như họ. Còn lâu. Số người như vậy rất hiếm.

Nhưng, như vậy phải chăng làm ta sẽ nhìn đời bi quan ? Không đâu. Trái lại. Nó làm cho cuộc sống của ta có chất lượng hơn, có ý nghĩa hơn. Người ta không cảm nhận được thời gian vì thực ra chẳng có thời gian.

  1. Thỉnh thoảng gặp người bạn thân lâu ngày chưa gặp lại, thấy bạn sao mà nhăn nheo, già khú, hỏi mới biết còn nhỏ hơn mình vài tuổi! Bạn kể cho nghe chuyện đôi khi gặp lại « người xưa » của bạn, tưởng tình ngỡ đã quên đi như lòng cố lạnh lùng, người ngỡ đã xa xăm bỗng về quá thênh thang… Ai dè không vậy. Đôi mắt huyền xưa, chiếc mũi dọc dừa… bây giờ khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang; vai gầy guộc nhỏ, từng ngón xuân nồng bây giờ chuối ngự…. Còn ta thì sao? Nguyên Sa bảo ta chỉ có thể đo đếm tuổi mình qua ánh mắt cố nhân. Thử nhìn vào gương. Có gì khác lạ đâu nào? Ấy là bởi mình quen nhau quá rồi nên chẳng kịp thấy đổi thay. Thế nhưng, đã không còn những dấu chân chim ở khóe mắt mà hằn sâu như vạn lý trường thành… Khóe miệng thì nặng nề trễ xuống như bị sức hút của quả đất. Ở một nơi không có trọng lực chắc không đến nỗi?

Bạn nhắc toàn chuyện nửa thế kỷ trước… Nào đi cắm trại Suối Lồ Ồ với Nguiễn Ngu Í, Lê Phương Chi, Hồ Xích Tú, Nguyễn Công Thuần, Quách Giao…, nào lang thang chợ sách vỉa hè Saigon, “truy lùng” sách quý, nào cà phê chiều tím, chiều nhớ thương ai… Mấy đứa cháu nội mười bảy mười tám ra vòng tay chào bác, chào bác… Bạn quắc mắt: “Ông” chớ sao lại bác! Thấy chưa, tụi nó gọi ông bằng ông nội mà gọi tui bằng bác, thấy chưa?

Bạn có khoảng đất rộng chơi cây kiểng một thời. Cả một vườn mai vàng rực cho những ngày Tết nay đà xơ xác. Căn nhà rộng đã nhường cho các con, cất một mái nho nhỏ bên cạnh như một cái am cốc, một tủ sách, một cái TV, và nhất định không xài điện thoại di động, vi tính… Đủ rồi đó, nay mai, sẽ dọn dần về những căn nhà nhỏ hơn, nhỏ hơn nữa. Rồi cùng mà cười. Bạn nói đã làm xong di chúc. Và cũng đã căn dặn, rải xuống sông Soài Rạp, quê nhà.

Phone cho người bạn ở tận miền Trung xem bạn đã khú ra sao. Bạn đi vắng. Không biết đi đâu. Chị càu nhàu. Hỏi “tình hình” sao rồi? Chịu hổng nổi ổng. Chị nói. Tôi chỉ muốn “cắn” ổng mấy cái! Ấy, chớ, đừng. Đừng cắn. Chị mà cắn ổng người ta tưởng chị “mê” ổng lắm đó. Tục ngữ có câu: “Yêu nhau lắm cắn nhau đau” mà, nhớ không? Hồi xưa hai ông bà mê nhau như điếu đổ! Anh bạn làm thầy giáo, một nhà thơ rất dễ thương, lấy bút hiệu con gái để dễ đăng những bài thơ mượt mà trên các báo thời đó. Giờ anh đi lai rai chỗ bạn bè, em cháu, những chốn chùa chiền…

  1. Nhân có bác sĩ Thịnh ở Mỹ về, chúng tôi ơi ới gọi nhau rôm rả ở một quán hải sản thành phố. Theo lời một anh bạn, quán hải sản có cấu trúc mỗi phòng như một khoang thuyền để mọi người lắc lư cùng sóng gió.

Thiệt là tay bắt mặt mừng. Nhiều khi ngớ ra. Biết mặt mà quên tên. Biết tên mà quên mặt. Học chung với nhau dưới mái trường y khoa Saigon đằng đẵng bảy năm trời, không thể không quen, vậy mà đôi lúc cũng ngỡ ngàng, chưng hửng! Người thì hom hem… người thì béo ị… người bạc trắng, người cà khêu… Ôi cái thời sinh viên y khoa hào hoa phong nhã, tếu táo vung trời! Có lẽ do cái sự học y dài lâu và nghiệt ngã, tiếp cận bao nỗi con người… nên bọn y khoa nổi tiếng là tiếu lâm hạng nhứt, mặc dù học hành nghiêm túc chẳng ai bằng!

Nhớ thời đó, ai vào y khoa cũng bị đặt cho một cái “biệt danh”, cái “hỗn danh”, cái “tục danh” chịu hổng nổi, rồi chết cứng với tên gọi đó suốt đời. Bạn bè gặp nhau chỉ cần kêu một tiếng thì cả một dĩ vãng ùa về…! Tên có thể quên chớ tục danh thì khó mà không nhớ. Thịnh, là Thịnh Văn Chương, “Chương còm”. Qua Mỹ mất tên, còn họ, “Doctor Thịnh”! Tại sao còm? Bởi còn có Chương “chuột”, rồi Cầm “chim”, Sơn “gà”…Tại sao chuột? Nhìn nó… chuột, thế thôi. Còm nay đã hết còm, chuột nay không còn chuột. Thế mà cái “tục danh” còn đeo đẳng mãi làm nhớ cái anh ốm nhom, lòm còm mà nhanh nhẹn, cái anh thấp lùn mà lém lĩnh, thông minh…. Còn anh bạn Mai cao nhòng, ngất ngưỡng, hình như có lúc làm ban đại diện lớp, được gọi là “Mai vói” (phát âm theo giọng Nam bộ!), bởi ai muốn nói chuyện với anh cũng phải vói lên một chút!. Rồi bạn C – có lẽ vì nghiêm trang, ít khi đùa giỡn – nên được gọi là “ C bặt”. Nhưng chuyện của anh bây giờ là một tấm gương luôn được bạn bè nhắc tới. Anh bị đủ thứ bệnh, toàn bệnh nặng, biến chứng tùm lum, mấy phen tưởng đã xong, thế rồi anh quyết định tự xây cho mình một cái kim tĩnh… Từ đó anh khỏe hẳn ra, không thèm bệnh, không thèm chết nữa!

Bỗng có bạn hỏi, Lộc bây giờ ở đâu? Lộc nào? Lộc nào? Nhao nhao lên. Lộc “tr” hả? Đang ở Úc, rồi Q heo, rồi H “nám”, để khác với H “Rhade”, H “mù”, H “con”… Rồi Cường “sùi”, Thăng “lùn”, Bá… kẻ còn người mất. Cả đám bác sĩ vào trường y nửa thế kỷ trước bây giờ đều trên dưới bảy mươi không mấy ai là không bệnh tật! Đã bệnh thì toàn thứ dữ. Bác sĩ mà! Nhồi máu cơ tim, nong, stent, by pass… tai biến mạch máu não, tiểu đường, thận, khớp,…

Nhưng thật lạ lùng, bạn bè cũ cứ ngồi với nhau một lúc nhắc những chuyện xưa bỗng dưng ai nấy đều trẻ lại không ngờ. Trẻ như không hề có thời gian.

Muốn tìm lại tuổi trẻ,

Cứ đi kiếm bạn già!

Chuyện xưa như pháo nổ,

Tuổi trẻ về tà tà

Thân người dùng quá đát,

Bệnh tật tới phà phà!!!

Chữa đây, nẩy ra đó?

Bực mình cười ha ha.

Chẳng chữa, xây kim tĩnh!

Quên quá, thì cứ khà,

Tụ tập khú và đế,


 

 Bhutan

  Bhutan

Bhutan là đất nước nhỏ nhắn nằm cheo leo trên những triền núi của dãy Hymalayas hùng vĩ. Được mệnh danh là đất nước hạnh phúc nhất thế giới, ở Bhutan không có sự phân biệt giàu nghèo, họ không coi trọng vật chất mà lấy thước đo tinh thần làm chỉ số đánh giá hạnh phúc trong cuộc sống. Người Bhutan luôn duy trì niềm vui trong cuộc sống và nụ cười mãn nguyện luôn nở trên môi.

Ở Bhutan, trẻ con không được hỏi rằng “Hôm nay con được mấy điểm?”, mà là “Hôm nay con có khiến ai mỉm cười không?”

Người Bhutan dạy con không phải bắt đầu từ những bài học về toán hay tiếng Anh, mà bắt đầu từ việc cúi đầu chào một cụ già, chia đôi bánh với bạn và buông tha cho một con kiến đang tìm đường về tổ.

Trong mỗi bữa ăn, họ nhắc con thầm cảm ơn người đã nấu, người đã gieo trồng, người đã gánh gạo qua núi rừng…

Lòng biết ơn ấy thấm dần thành sự tử tế không cần điều kiện.

Họ không trừng phạt khi con nổi giận, họ ngồi bên và nói:

“Con buồn phải không? Mình cùng thở nhé.”

Chỉ vậy thôi, cơn giận bé lại như một đám mây tan trên đỉnh núi.

Ở nơi ấy, lòng từ bi không phải điều cần dạy, mà là điều cần sống cùng mỗi ngày.

Từng cái nắm tay, từng cái ôm, từng lời nói dịu dàng – chính là mảnh đất để hạt giống yêu thương lớn lên trong con trẻ.

Có lẽ, ta không cần dạy con trở thành người giỏi nhất lớp.

Chỉ cần con biết không giẫm lên hoa, không cười khi bạn khóc, và biết xin lỗi khi lỡ làm ai buồn.

(Theo Những Câu Chuyện Nhân Văn)

 From: haiphuoc47 & NguyenNThu

BẢN DI CHÚC KỲ LẠ CỦA MỘT TỶ PHÚ

Xuyên Sơn

 Chừng 33 năm trước, vợ của một thương nhân ở Washington (Mỹ) đã bất cẩn đánh rơi chiếc túi da trong bệnh viện vào một buổi tối mùa đông.

Thương nhân vô cùng sốt ruột đi ngay trong đêm đó để tìm.

Bởi vì trong túi da không chỉ có 100.000 đô la mà còn có bản thông tin thị trường vô cùng cơ mật…

Khi người thương nhân đến bệnh viện đó, ông liền trông thấy ở một hành lang vắng lặng, lạnh giá của bệnh viện có một cô bé gầy gò đang co ro rét run bần bật ngồi dưới sát bức tường.

Thứ cô bé đang giữ chặt trong lòng chính là chiếc túi da mà vợ ông đánh mất.

Thì ra cô bé có tên là Siada này đến bệnh viện để trông nom người mẹ đang mắc trọng bệnh.

Hai mẹ con dựa vào nhau mà sống,gia cảnh rất nghèo, đã bán đi tất cả đồ đạc trong nhà, số tiền gom góp được vẫn chưa đủ chi phí thuốc men chữa bệnh trong một đêm.

Không có tiền ngày mai biết làm thế nào bây giờ?

Tối hôm đó, Siada bất lực đi đi lại lại trong hành lang bệnh viện, cô thành kính cầu Thượng Đế bảo hộ, có thể gặp được người hảo tâm cứu mẹ cô.

Bỗng nhiên một phụ nữ từ trên tầng đi xuống, khi đi qua hành lang thì chiếc túi da dưới nách cô rơi xuống.

Có lẽ do dưới nách cô vẫn còn vật gì khác nên khi túi da rơi mất mà cô vẫn hoàn toàn không phát hiện ra.

Khi đó hành lang chỉ có một mình Siada. Cô chạy lại nhặt chiếc túi lên và vội vàng chạy ra ngoài cửa đuổi theo người phụ nữ kia, nhưng người phụ nữ đó đã bước lên một chiếc xe con và phóng đi.

Siada trở về phòng bệnh. Khi cô mở túi ra, hai mẹ con cô kinh ngạc vì những tờ giấy bạc xếp thành từng xấp. Lúc đó trong lòng hai mẹ con đều hiểu rõ, dùng số tiền này có thể chữa khỏi bệnh mẹ. Nhưng mẹ cô lại bảo cô đem túi da quay trở lại hành lang, đợi người đánh mất đó quay lại lấy.

Mẹ của Siada nói:

-“Người mất tiền nhất định rất lo lắng. Trong cả cuộc đời con người thì việc đáng làm nhất chính là giúp đỡ người khác, lo lắng nỗi lo lắng của người khác. Việc không được làm nhất là tham lam tiền tài bất nghĩa, thấy tiền tài mà quên đạo nghĩa”.

Người thương nhân sau khi tìm lại được chiếc túi, cảm kích vô cùng, đã dốc hết sức mình giúp đỡ.

Nhưng mẹ của Siada vẫn để lại đứa con gái cô độc một mình mà ra đi mãi mãi.

Hai mẹ con Siada không chỉ đã giúp người thương nhân có lại được 100.000 đô la mà quan trọng hơn là lấy lại được thông tin thị trường cơ mật bị mất đó.

Nhờ thông tin này mà thương nhân đã làm ăn như diều gặp gió, rất nhanh chóng đã trở thành một triệu phú lớn.

Sau này, Siada được triệu phú nhận nuôi.

Sau khi học xong đại học, cô trở lại giúp cha nuôi của mình quản lý việc kinh doanh.

Việc kinh doanh rất phát đạt và người triệu phú nọ đã nhanh chóng trở thành một tỷ phú.

Tuy ông không ủy nhiệm cho Siada bất kỳ chức vụ thực tế nào nhưng bởi được rèn luyện trong thương trường lâu dài, lại được học hỏi rất nhiều từ cha nuôi, Siada đã trở thành một nhân tài kinh doanh đầy triển vọng.

Đến khi cha nuôi cô tuổi cao, sức yếu, rất nhiều ý kiến đều tham vấn Siada.

Tới khi vị tỷ phú lâm chung, ông đã để lại một bản di chúc khiến người ta ngạc nhiên:

“Trước khi tôi quen biết 2 mẹ con Siada, tôi đã là người có rất nhiều tiền rồi. Nhưng khi tôi đứng trước mặt 2 mẹ con nghèo khổ bệnh tật hiểm nghèo, nhặt được số tiền lớn mà không lấy, tôi đã phát hiện ra họ mới là những người giàu có nhất, bởi vì họ đã giữ được chuẩn mực cao nhất làm người.

Đây chính là điều mà những thương nhân như tôi lại thiếu nhất.

Tiền bạc của tôi dường như đều là có được từ việc lừa dối, đấu đá tranh giành.

Hai mẹ con họ đã khiến tôi hiểu ra được vốn liếng lớn nhất của đời người chính là phẩm hạnh.

Tôi nhận nuôi dưỡng Siada không phải bởi vì cảm tạ báo ơn, cũng không phải vì cảm thông với hoàn cảnh của cô bé, mà đó là thể hiện sự kính trọng với một tấm gương làm người.

Có cô bé ở bên, trên thương trường tôi luôn từng giờ từng phút ghi nhớ điều gì nên làm, điều gì không nên làm, tiền nào nên kiếm, tiền nào không nên kiếm.

Đây chính là nguyên nhân căn bản giúp sự nghiệp của tôi sau này hưng thịnh phát đạt, trở thành tỷ phú.

Sau khi tôi qua đời, toàn bộ tài sản hàng tỷ đô la của tôi đều để lại cho Siada thừa kế.

Đây không phải là tặng, mà là để cho sự nghiệp của tôi càng phát triển thịnh vượng huy hoàng hơn nữa.

Tôi hoàn toàn tin tưởng, đứa con trai thông minh của tôi sẽ hiểu dụng tâm của cha nó”.

Khi người con trai của tỷ phú từ nước ngoài trở về đã xem kỹ di chúc của cha, lập tức không do dự ký tên vào bản Giao kết thừa kế tài sản.

Anh ta viết:

“Tôi hoàn toàn đồng ý Siada kế thừa toàn bộ tải sản của cha tôi.

Tôi chỉ thỉnh cầu Siada có thể làm phu nhân của tôi”.

Siada đọc những dòng chữ con trai tỷ phú viết, trầm ngâm một lúc rồi cầm bút viết:

“Tôi xin tiếp nhận toàn bộ tài sản của cha nuôi để lại – bao gồm cả con trai ông”.

Bản di chúc kỳ lạ của một tỷ phú: Vốn liếng lớn nhất đời người là phẩm hạnh.

Theo Helino


 

Sách cũ miền nam 1954 -1975- Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

03/10/2025

Đã định tâm như thế rồi. Cho nên, khoảng 6 tháng trước khi về Sàigòn để thăm lại bạn bè, bà con mình, tôi đã nhờ bạn bè bên ấy tìm cho tôi những sách mà tôi muốn tìm. Thật ra ít có ai có thì giờ và có lòng để đi làm một công việc vô bổ như thế. Biết bao nhiêu phần đời tôi, biết tìm cái gì, biết mua ra sao…

…Rất may là tôi còn những người bạn có lòng để tâm giúp đỡ, tên anh là Hồ Công Danh. Đó không phải là đi mua sách cũ mà là một việc truy lùng, sục sạo, mò mẫm đầy bất trắc và may rủi, nhưng cũng đầy thú vị và mủi lòng.

Bởi vì sách vở thời ấy, số phận nó như số phận người. Nó cũng phải trốn chạy, chui rúc, ẩn náu. Chúng cũng rơi vào cảnh mồ côi cha mẹ, cảnh lạc đàn, cảnh tan nát, cảnh tan hoang mất còn. Vận người dân miền Nam thế nào, vận chúng như thế. Đứa may trốn thoát. Tôi có đứa cháu trai, hồi đó, 6, 7 tuổi. Khi đi di tản năm 1975, cháu chỉ mang cặp sách của cháu và nhặt một cuốn sách giáo khoa tâm lý học tôi viết thời đó. Sang sau vài năm, cháu đưa lại cho tôi. Kể cũng mừng và cũng buồn cười. Đứa yểu tử thì làm mồi cho cuộc phần thư. Đứa không may làm giấy gói xôi buổi sáng. Đứa bất hạnh làm giấy chùi đít. Đó là cuộc trốn chạy vô tiền khoáng hậu mà những kẻ đi truy lùng chỉ là các trẻ con lên 12, 13 tuổi. Các cháu ngoan bác Hồ. Họ xô những đứa trẻ con vô tội đó ra đường. Chúng quàng khăn đỏ hô hoán, reo hò như trong một vụ đi bắt trộm, hay đi bắt kẻ gian. Chúng lục soát tận tình, chúng đánh trống, chúng hát hò như một cuộc ra quân của một đoàn quân chiến thắng.

Gia đình nào cũng sợ hãi cái quang cảnh đó nên kẻ mà phải hy sinh đầu tiên chính là sách vở.

Sách vở gì cũng sợ nên sách gì cũng phải tẩu tán. Sách vở bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, mặc dầu chúng là người ngoại quốc, mặc dầu chả dính dáng gì đến chuyện chính trị hay chiến tranh Việt nam, chúng cũng chịu chung số phận. Tôi cũng có khá nhiều sách vở bằng tiếng Pháp, nhưng tôi biết rằng, trước sau gì tôi sẽ không bao giờ dùng đến chúng nó nên lôi ra bán ve chai mà không thương tiếc. Sách nhỏ bán trước, sách lớn bán sau, cuối cùng là bộ Bách Khoa tự điển bằng tiếng Anh tuần tự rơi vào tay các ông bà bán ve chai. Ở nơi ấy, chẳng mấy khi mà Aristote gặp được Kant. Cũng chẳng ai ngờ được Bùi Giáng gặp mặt được Heideigger.

Sách cũ đối với tôi là một ám ảnh mời gọi tìm về. Trong đó đặc biệt có truyện sưu tập tài liệu triết cũ. Cũng từ những sách cũ đó mà trước đây tôi lớn lên, được nuôi dưỡng và phát triển về trí năng mỗi ngày. Nếu cơm gạo miền Nam cho tôi lớn lên thì sách miền Nam nuôi dưỡng tôi thành người thông tuệ.

Đi truy lùng lại sách cũ là tìm lại một phần bản thân tôi vậy.

Nhưng khi tôi nói sách cũ thì không có nghĩa là sách cổ, mà là sách của miền Nam xuất bản trước 1975. Sách mà theo báo cáo của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng tại kỳ họp thứ nhất của Quốc Hội, ngày 26 tháng 6, năm 1976 là: “Việc xây dựng nền Văn Hóa mới đuợc tiến hành trong cuộc đấu tranh quét sạch những tàn dư mà Mỹ đã gieo rắc ở miền Nam. Đó là thứ Văn Hóa ‘nô dịch’, lai căng, đồi trụy, cực kỳ phản động..” [I].

Để thực hiện nghị quyết trên, họ đã làm mọi cách: tịch thu, tàng trữ và đốt sách và coi sách vở báo chí miền Nam chỉ là thứ rác rưởi. Phần tôi, tôi dám gọi đó là đống rác tinh thần, tài sản của tất cả trí thức, nhà văn, nhà nghiên cứu, nhà phê bình, nhà khoa học miền Nam trong vòng hai mươi năm đã bị đốt. Tóm lại, đó là đống rác thân yêu của miền Nam, cho người miền Nam gìn giữ lấy.

A.- Tình hình sách cũ hồi 1975.

Cộng chung số sách đã bị tịch thâu, hay bị đốt theo là bao nhiêu. Hình như chưa có ai hỏi câu hỏi đó và cũng chưa bao giờ có câu trả lời. Có thể chẳng ai biết được. Chỉ tính theo đầu sách thôi, các số liệu cũ của Bộ Thông Tin cho thấy, vào tháng 9-1972, theo Ủy Hội Quốc Gia Unesco, Việt Nam Cộng Hòa trung bình đã cấp giấy phép cho 3000 đầu sách được xuất bản một năm. Cộng chung từ năm 1954 đến 1975, đã có khoảng từ 50.000 – 60.000 đầu sách đủ loại được xuất bản, thêm vào đó 200.018 đầu sách ngoại quốc được nhập cảng. Giả dụ mỗi đầu sách in tối thiểu 3000 cuốn. Sẽ có 180 triệu cuốn sách tiếng Việt bị tiêu hủy. Đây chỉ là một lối tính ước chừng. Và như vậy số sách bị tịch thâu, bị đốt, bị bán ra vỉa hè hay ve chai là khoảng 180 triệu cuốn trên khắp miền Nam. Miền Nam theo nghĩa từ Bến Hải vào đến Cà Mâu.

Con số này đã không còn đúng nữa khi ta đọc một bài viết của ông Vũ Hạnh, một nhà văn thời VNCH và là một đảng viên cộng sản trong bài: “Mấy ý nghĩ về Văn Nghệ thực dân mới đăng trong tuần báo Đại Đoàn kết: Từ 1954 đến 1972, có 271 ngàn loại sách lưu hành tại miền Nam, với số bản là 800 triệu bản.” Trong khi đó sách của ông Trần Trọng Đăng Đàn đưa ra con số 357 ngàn loại. Và ông Đàn dám cả gan nói: Như vậy là con số của Vũ Hạnh gần như khớp với con số chúng tôi tìm được. Thưa ông Trần Trọng Đăng Đàn, con số cách nhau gần một trăm ngàn mà ông dám bảo là khớp thì tôi chịu ông. Các ông đã bao giờ biết nói thật chưa.

Cũng vậy, tờ Tin Sáng số ra ngày 1 tháng 8, năm 1976 tính rằng: Từ năm 1962 về sau, tại Nam Việt Nam đã xuất bản 208 bộ sách chưởng, gồm 850 quyển, con số phát hành này ước tính 5 triệu bản, bằng số sách giáo khoa trung học xuất bản cùng thời gian. [ii]

Con số này, xin nhờ những vị chuyên gia về Kim Dung cho biết xem thực hư ra sao. [iii]

Độc giả thân mến, xin ghi nhận những thống kê của Ủy Hội Quốc Gia Unesco VN là tài liệu đáng tin cẩn. Tôi chỉ xin nói một điều, nước Pháp hiện nay mỗi năm xuất bản khoảng 1000 đầu sách tiểu thuyết mới. Làm sao VNCH có thể xuất bản mỗi năm hơn 20 chục ngàn đầu sách một năm. Những con số của ông Vũ Hạnh hay gì khác là một thổi phồng đến phi sự thực. Tôi không dám bảo là ông ấy nói láo khoét. Hãy trả lại các ông ấy những gì các ông ấy viết. Chỉ cần so sánh con số dự đoán giữa ông và Trần Trọng Đăng Đàn đưa ra cũng cách nhau cả gần một trăm ngàn đầu sách. Điều đó muốn nói với chúng ta điều gì.

Nay tất cả những sách đó đều ra tro. Đây là một chính sách man rợ và xuẩn động của nhà cầm quyền Hà Nội. Dĩ nhiên, người ta đã không đốt hết mà mang bán, chính vì thế nay còn rơi rớt lại một số nhỏ nơi các tiệm bán sách.

Vì sợ hãi nên người ta mang sách vở tài liệu ra chợ bán ký, đó là thứ hàng vô dụng và nguy hiểm nhất trong lúc ấy. Người ta đốt những sách nào liên quan đến chính trị, nhất là sách vở chống Cộng. Người ta đốt những nhà văn nào liên quan đến chính trị như Nguyễn Mạnh Côn. Nhã Ca, Phan Nhật Nam v.v… Người ta cũng đốt tài liệu, hình ảnh cũ, giấy tờ, huân chương, bằng khen. Đó cũng là thứ mà những người chủ mới không muốn nó có mặt.

Người ta đốt tất cả những kỷ niệm, dù đẹp nhất của đời mình.

Mọi người phải tự hiểu rằng, phải đốt tất cả những gì cần đốt, không phải chỉ đốt những kỷ niệm mà tất cả những gì liên quan đến đời sống đó. Một đời sống mà tự nó đã là một điều xấu, một bản án.

Muốn sống yên, người ta phải đốt tất cả quá khứ đời một người cùng với những kỷ niệm, những sự nghiệp từ quá khứ đó mà ra.

Sách không đốt thì được bày bán lén hoặc công khai. Sự bầy bán sách vở như thế coi như dân chúng bắt mạch được thâm ý người chủ mới muốn gì. Nhưng trong số vạn người bán, vạn người mua, vẫn có những người nhà buôn bất đắc dĩ mà đặc loại là một số nhà văn, nhà giáo chế độ cũ nắm được cái chìa khóa của nhu cầu và ý nuốn của người đọc. Họ tìm ra giữa những kẽ hở để thấy được trong hàng tấn sách báo thải loại, cái nào là thứ hàng có giá trị, có giá đối với người chủ mới. Nạn chợ đen, nạn săn tìm sách cũ cho một thị trường mới nhờ thế càng phát triển.

Một cách nào đó, chính những nhà giáo, nhà văn, những kẻ bán sách lề đường, những tên lái sách trở thành những người bảo tồn Văn hóa miền Nam.

Sách phản động càng cấm, càng có giá. Đó là phản ứng ngược chiều ở thời điểm đó. Trên báo Đại Ðoàn Kết, ngày 10-11-1982, Đinh Trần Phương Nam thú nhận một thực tế phũ phàng như sau: “Các hoạt động của chúng ta vừa qua thật rầm rộ, thật phong phú và đa dạng, song các loại sách báo phản động đồi trụy, đã bị quét hết chưa. Xin thưa ngay là chưa.” Số Tiền Phong ngày 23-9-1985 cũng than thở “Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện nhiều đợt bài trừ sách báo xấu, nhưng hiện nay hiện tượng mua bán và cho thuê các loại sách báo xấu vẫn còn tồn tại.” [iv]

Những sách càng bị cấm lại càng có giá trên thị trường đen. Trên vỉa hè phố, những sách từ ngoài đó được phép bầy bán nằm chống mốc, cong queo ít được ai ngó tới. Người ta bầy những sách trên để che mắt mà thôi. Người mua sách sành điệu chỉ cần hỏi tên một tác giả nhà văn Ngụy. Năm phút sau, chạy đi một lúc có liền.

Lại một thách đố nữa cho người chủ nhân ông mới.

Sách Ngụy trở thành một thách đố chính quyền mới, thách đố ai hơn ai chứ không phải ai thắng ai.

Thách đố mang tầm vóc văn học, giá trị nghệ thuật dựa trên nhu cầu người đọc. Sách hay thì tìm đọc, sách tuyên truyền thì không đọc.

Đài phát thanh thành phố ra lệnh phải thu nộp tất cả các sách vở, báo chí, phim ảnh, tài liệu in ấn trước ngày 30 tháng tư được coi là đồi trụy. Nhiều người tiếc rẻ đem bán kilô. Các gói xôi bán buổi sáng, nay có tên Nguyễn Thụy Long, Nhã Ca, Thanh Tâm Tuyền. Vừa ăn, vừa đọc kể cũng vui. Nhiều chỗ mang sách vở cũ ra đốt. Mà phải đốt lén vào ban đêm.

Nhưng sau đó ai cũng thấy đốt là phí phạm. Không đốt thì sách vở đó đi đâu? Không ai biết nữa. Nhiều người nhắc nhở đến tên Tần Thủy Hoàng. Nhưng chẳng ai để ý đến có mối liên hệ gì giữa chuyện xưa và chuyện nay.

Tại sao lại dị ứng với văn học như thế? Không lẽ tất cả đều là phế liệu, tàn dư Mỹ Ngụy hết sao?

Sách nào là phản động, đồi trụy?

Vì thế sách cũ ở đây được đồng hóa với sách cực kỳ phản động, không phản động thì đồi trụy, không đồi trụy thì lai căng. Mấy chữ trên như những khẩu lệnh bao trùm và truy chụp hầu như bất cứ tác giả nào và bất cứ quyển sách nào.

  • Trước hết, các nhà xuất bản sách thiếu nhi bị cấm toàn bộ.

Đó là các nhà xuất bản như Tuổi Thơ, Nắng Sớm, Tuổi Hoa Niên, Sách Đẹp, Viễn Du, Hùng Dũng, Hoa Hồng, Hoa Hướng Dương, Hoa Mai.

  • Các dịch giả Kiếm Hiệp sau đây cũng bị cấm: Kim Dung, Cổ Long, Trần Thanh Vân, Nam Kim Thạch, Từ Khánh Phụng, Phan Cảnh Trung, Long Đức Nhân.
  • Các tác giả có sách bị cấm toàn bộ như: Bùi Giáng, Chu Tử, Dương Nghiễm Mậu, Duyên Anh, Doãn Quốc Sỹ, Đinh Hùng, Nguyễn Mạnh Côn, Hoàng Hải Thủy, Lệ Hằng, Mai Thảo, Nguyên Sa, Nguyễn Đình Toàn, Thế Uyên, Thanh Nam, Võ Phiến, Văn Quang, Vũ Hoàng Chương, Vũ Tài Lực, Nguyễn Mộng Giác, Thảo Trường, Nguyễn Thị Hoàng..

Nhận xét:

– Những nhà xuất bản sách thiếu nhi này ấn hành đặc biệt các truyện dành cho thiếu nhi. Những sách đó có tính cách giáo dục, giải trí, hay nêu gương tốt cho các em thiếu nhi. Nội dung lành mạnh và có chất lượng giáo dục. Những nhà xuất bản này thường bất vụ lợi, có sự tài trợ đằng sau của những tổ chức tôn giáo, hay những nhà xuất bản có lòng như trường hợp ông Khai Trí. Vậy mà tội tình gì cũng bị cấm. Cứ cấm là cấm, cấm một cách trùy dập vô tội vạ và vô ý thức.

Các trẻ em miền nam tự nhiên mù chữ vì không có sách đọc.

Về các dịch giả truyện Kiếm Hiệp cho thấy đây là những sách dịch vô tội vạ, vô thưởng vô phạt xét về mặt luân lý, giáo dục. Chủ đích của người dịch trước hết có thể là giải trí người đọc. Ai đọc truyện kiếm hiệp chả thấy hấp dẫn và hay, đọc để giải trí. Sau đó mới nói tới những chủ đề tình yêu, y học, võ thuật, nhân vật truyện, chất hài, chất ghen tuông, chất giang hồ, kiếm pháp trong các truyện kiếm hiệp ấy. Sách phải được coi là bổ ích và nó là bộ phận không nhỏ trong sinh hoạt Văn học miền Nam.

Trẻ đọc, già đọc, bình dân đọc, trí thức đọc… Mỗi người tìm ra được cái thích thú cho riêng mình.

Đến có thể nói, một trong những nét đặc thù trong sinh hoạt Văn Học miền Nam là sách của Kim Dung.

Kim Dung tên thật là Trà Lương Dung. Truyện võ hiệp đầu tay là Thư Kiếm Ân Cừu, xuất bản ở Hương Cảng, từ đó có bút danh Kim Dung. Năm 1957 ra bộ Anh Hùng Xạ Điêu, 1969 ra Lộc Đỉnh Ký. Cho mãi đến 1978 Đài Loan mới rút lệnh cấm tác phẩm Kim Dung và 1986, sau khi tiến lên 4 Hiện Ðại Hóa ở Trung Quốc mới xuất hiện Kim Dung. Truyện chưởng Kim Dung “độc bá quần hùng” trong sinh hoạt văn học ở miền Nam thời ấy. Vào năm 1968, khi xuất hiện Tiếu Ngạo Giang Hồ trên tờ Minh Báo thì có đến 44 nhật báo ở Sàigòn đều tranh nhau dịch và đăng lại. Tình trạng mê Kim Dung đến như thế, và kéo dài cho đến 1972-1974 khi bộ Lộc Đỉnh Ký ra đời. Và đây là lời Vũ Đức Sao Biển, tốt nghiệp Đại học Văn Khoa, Sàigòn, ban Hán Văn: “Tôi học cách làm người, cách đối xử nhân thế, đắc thủ được những kiến thức hoàn toàn không có trong giáo trình đại học từ các tác phẩm của một nhà văn nước ngoài chưa hề biết mặt.”

Với lượng tác phẩm đồ sộ như thế, với số người đọc đông như thế, không thể không tìm hiểu văn học miền Nam nhất là văn học dịch mà bỏ qua tác giả Kim Dung. Người ta có thể bàn về bất cứ vấn đề nào của con người, của xã hội. Có thể từ tình yêu, bạo lực, đạo đức, tâm lý hay sự đánh tụt giá của chủ nghĩa bạo lực trong truyện Kim Dung. Từ vấn đề nghệ thuật, cách xây dựng nhân vật tiểu thuyết, chất thơ, chất hài… đến chứng cứ kiếm pháp, Võ và Hiệp, cho đến những vấn đề có thể trở thành tranh luận văn học như hư cấu nhân vật, hư cấu lịch sử. Kim Dung đã hư cấu lịch sử Trung Hoa cách đấy ba thế kỷ mà vẫn hay với cấu trúc tiểu thuyết liên hoàn. Vương Sóc, nhà văn-nhà phê bình Trung Hoa (mà nghĩ đến ông tôi bắt nghĩ đến Trần Trọng Đăng Đàn của Việt Nam), đã gọi tiểu thuyết Kim Dung là một trong “tứ đại tục” bởi đã hư cấu méo mó hình tượng người Trung Hoa. Từ đó đã gây thành những tranh luận lớn khắp Hoa Lục. Lại còn vấn đề tôn giáo, giáo phái trong tiểu thuyết. Luận về anh hùng và những nhân vật biểu tượng như Kiều Phong, một đại trí, đại dũng lại rất giầu tình cảm và lòng nhân ái vời vợi? Trương Vô Kỵ, Lệnh Hồ Xung, tài trí hơn người, hành xử quang minh lỗi lạc, tốt bụng hơn người? Dương Quá, Địch Vân, Hồ Phỉ… Rồi còn nhân vật nữ, những mỹ nhân như Hân Tố Tố, Nhậm Doanh Doanh, Triệu Minh, Tiểu Siêu, Song Nhi, v.v… mỗi người mỗi vẻ, mỗi người một thông điệp. Không có những nhân vật nữ đó, tiểu thuyết Kim Dung còn gì?

Vấn đề tâm đắc đối với tôi: Vấn đề chính hay tà, vấn đề thị phi trong cuộc đời, giữa Hiệp nghĩa và xã hội đen, giữa danh môn chính phái và ma giáo. Ai chính, ai tà. Tà chính khác nhau chỗ nào? Đọc Kim Dung sẽ thấy sự phân biệt Chính và Tà là vô thực. Trong Kim Dung, có một cố gắng đánh tụt giá những người tự nhận là Chính Nghĩa, và qua họ, những giá trị mà họ tượng trưng. Sự sa đọa xuống tới sự bất nhân, sự dâm loạn, sự ngu xuẩn của những đệ tử phái Toàn Chân thì còn ai tin gì ở Chính Nghĩa?

Chuyện đã hay, cơ man nào nhân vật, cơ man nào tình tiết chòng chéo lôi kéo người đọc. Kim Dung phải là người kiến thức rộng, đọc nhiều, dùng Quan Thoại, một thứ ngôn ngữ trong sáng, lại kế thừa truyền thống của những nhà văn như Lâm Ngữ Đường, Tào Ngu, Lỗ Tấn… đã biến những chuyện võ hiệp tầm thường thành những tác phẩm để đời. Đã vậy, có những dịch giả như Hàn Giang Nhạn chuyển ngữ tài tình làm say mê độc giả VN.

Hễ hay thì người đọc, dở thì bị người bỏ quên.

– Về các tác giả, các nhà văn bị xóa sổ cho thấy tính cách tổng quát hóa và khái quát hóa đồng loạt. Tỉ dụ thơ của Vũ Hoàng Chương như Hoa Đăng, Thơ Say, Tâm Sự Kẻ Sang Tần thì tại sao cấm. Gìn Vàng Giữ Ngọc và Giòng Sông Định Mệnh của Doãn Quốc Sỹ thì chỗ nào là phản động, chỗ nào là đồi trụy. Duyên Anh với Hoa Thiên Lý, Sa Mạc Tuổi Trẻ, Ngựa Chứng Trong Sân Trường, Dấu Chân Sỏi Ðá thì chẳng những không đồi trụy mà còn có tác dụng giáo dục nữa. Thơ Nguyên Sa, Gõ Ðầu Trẻ, Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ thì hoặc là có tác dụng giáo dục, hoặc đặt ra những vấn đề tranh luận trong văn học. Hầu hết người ta không biết hoặc quên rằng Nguyên Sa còn có tập thơ “Những năm 1960”, trong đó là thứ thơ dấn thân, nhập cuộc. Thảo Trường với Người Ðàn Bà Mang Thai Trên Kinh Đồng Tháp thì có giá trị tố cáo sự tàn bạo của chiến tranh. Bùi Giáng với Mưa Nguồn, Đi Vào Cõi Thơ là những chất ngọc nào phải thứ đồi trụy rẻ tiền.

Có vẻ nhà cầm quyền lúc đó muốn truy chụp tác giả hơn là tác phẩm. Vũ Hoàng Chương, Mai Thảo, Duyên Anh, Đinh Hùng, Hoàng Hải Thủy, Nguyên Sa, Chu Tử, Thanh Tâm Tuyền, Nhã Ca, Võ Phiến, Văn Quang, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Mạnh Côn, Tạ Tỵ có viết gì cũng vẫn bị coi là thứ biệt kích văn nghệ.

Xin lấy trường hợp Vũ Hoàng Chương làm điển hình. Ai đã gặp Vũ Hoàng Chương rồi thì đều thấy đó là một thi sĩ gầy ốm tong teo, nói năng nhỏ nhẹ, lúc nào cũng ăn mặc rất chải chuốt, tươm tất, đầu chải mượt với cà rà vạt. Tác phẩm thì tóm gọn trong hai chữ mà thôi: Thơ Tình. Cả đời chỉ biết làm thơ. Và chỉ biết có thơ. Nhưng dù chỉ làm thơ cũng bị coi là người bội phản. Ông đã đi tù như một số nhà văn khác như trường hợp Hồ Hữu Tường. Khi ra khỏi tù được vài ngày thì ông chết.

Mai Thảo dù chỉ viết truyện thuần túy văn chương như Người Thầy Cũ, Mười Ðêm Ngà Ngọc, Căn Nhà Vùng Nước Mặn hay Bầy Thỏ Ngày Sinh Nhật cũng vẫn bị coi là tên biệt kích văn nghệ hàng đầu của miền Nam. Thanh Tâm Tuyền dù siêu thực hay lãng đãng bí hiểm như Tôi Không Còn Cô Ðộc, Bếp Lửa, Cát Lầy cũng là kẻ cấy mầm độc tư tưởng ngoại lai thoái hóa. Hủy diệt các niềm tin thì đã có Thanh Tâm Tuyền, Phạm Công Thiện. Duyên Anh có viết Dấu Chân Sỏi Ðá, Hoa Thiên Lý, Thằng Khoa, Gấu Rừng, Giặc Ô Kê cho trẻ con cũng vẫn là tên đầu sỏ văn nghệ nguy hiểm.

Người ta nhắm đánh vào người, nhắm thái độ lập trường chính trị để đánh giá tác phẩm của tác giả. Vì nhắm tác giả nên có nhiều nhà văn tự nhiên được sót tên một cách cố ý. Đó là những nhà văn một mặt nào đó có thể không chịu xếp hàng trong xã hội miền Nam cho dù thực sự họ cũng xếp hàng như mọi người. Có nghĩa là xét về mặt tác phẩm thì những nhà văn này cũng chẳng khác gì các nhà văn vừa kể ở trên. Có gì phân biệt được về phong cách viết giữa Bình Nguyên Lộc với Lê Xuyên hay với Võ Phiến. Nhưng Bình Nguyên Lộc được tha. Giữa Nguyễn Văn Trung và Lý Chánh Trung mà đôi khi ta tưởng hai người có cùng một lập trường, cùng một quan điểm và cùng một đường lối. Nhưng sách vở thì lại bị phân biệt đối xử khác nhau.

Trong số những người sót tên trong sổ đen phải kể đến Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Vũ Hạnh, Lý Chánh Trung, Lữ Phương, Nguyễn Trọng Văn, Thích Nhất Hạnh.

Sự đánh phá và truy chụp đó nói cho cùng là một sự muốn xóa trắng Văn học miền Nam. Xin trích dẫn vài tư liệu làm bằng cớ trong sách Văn Học VN dưới chế độ Cộng Sản của Nguyễn Hưng Quốc, trang 200: “Theo Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức, trong Nhà Văn VN, từ 1954-1975 có 286 bài viết nhằm vu khống, xuyên tạc văn học miền Nam. Chỉ thị của Lê Duẩn sau giải phóng, kỳ họp Quốc Hội khóa 5: Sau ngày giải phóng nhân dân ta đã làm rất nhiều việc nhằm quét sạch những dấu vết và di hại của thứ văn hóa ấy. Công việc này cần được tiếp tục một cách kiên trì, tích cực và triệt để.”

Về những bài viết, xin kể vài bài: Tiếp tục đấu tranh xóa bỏ tàn dư văn hóa mới. Nọc độc văn hóa nô dịch. Những tên biệt kích cầm bút. Lại bàn về nọc độc văn học thực dân mới Mỹ ở miền Nam những năm 1954-75.

Tên những người viết đó là: Trần Trọng Đăng Đàn, Lê Đình Ky, Trần Văn Giàu, Nguyễn Huy Khánh, Thạch Phương, Phan Đắc Lập, Bùi Công Hùng và cả Lữ Phương.

Miền Nam có thể thua cuộc. Nhưng cái văn học đó không có lý do gì bị xóa trắng oan uổng như thế. Bởi vì trong 20 năm sinh hoạt văn học đó, nó xác định cho thấy chỗ đứng của nó với sắc thái và cá tính của một nền Văn học đích thực. Một nền văn học mà sản phẩm của nó là kết quả của tự do suy nghĩ, tự do sáng tác. Đấy là cái ưu vượt của sinh hoạt văn học nghệ thuật miền Nam mà trong suốt mấy chục năm chia cắt và cả sau mấy chục năm thống nhất đất nước rồi, người ta vẫn chưa thực hiện nổi một điều đơn giản đó.

Đặc biệt các giáo sư Triết, dù bị phê phán vì rao truyền chủ nghĩa Hiện Sinh, nhưng sách vở của họ lại không bị cấm lưu hành toàn bộ như Lê Tôn Nghiêm, Trần Thái Đỉnh, Trần Văn Toàn, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung và các lớp giáo sư trẻ như Đặng Phùng Quân, Nguyễn Trọng Văn. Trừ một trường hợp đặc biệt, dù là giáo sư triết, nhưng viết văn nên cấm lưu hành toàn bộ như sách của Huỳnh Phan Anh và Nguyễn Xuân Hoàng.

Phần tôi nghĩ rằng, thời kỳ sau 1975, đó là thời kỳ Văn Học bất hạnh cho toàn miền Nam

Bất hạnh vì sách bị tịch thu, bị thiêu hủy. Bất hạnh vì hơn 200 nhà văn, nghệ sĩ bị đưa đi cải tạo. Bất hạnh theo suốt cả đời họ. Vì kể từ đó, họ bị khước từ là nhà văn, bản án tù cứ thế kéo dài mãi mãi vì họ không bao giờ còn có cơ hội để viết. Và kể từ đó đến sau này, ta không còn bắt gặp lại mảnh đất miền Nam với những cây trái văn học nữa, cùng lắm có những cây trái đau khổ, đọa đầy và hủy diệt.

Và cái người bất hạnh nhất, tiêu biểu nhất có lẽ là nhà văn Nguyễn Thụy Long mà người ta quen gọi là nhà văn ‘Loan mắt nhung’. Sau 1975, ông lê kiếp số phận nhà văn như một con chó đói, một loài chuột chui nhúc để kiếm sống.

Hãy nghe ông kể: “Tôi về sống với mẹ già ở Ấp Đông Ba Gia Định sau ngày ‘giải phóng’, bên này Cầu Bông, sau khi bị phía nhà vợ thuộc gia đình Cách mạng đuổi ra khỏi nhà… Tôi ngậm đắng nuốt cay bước ra khỏi nhà sau khi bị vu bao nhiêu là thứ tội, kể cả tội ăn cắp tài sản của chính mình, suốt nhiều năm cầm bút tạo thành… Mất nhà, mất vợ chẳng nói làm gì, vì đã cạn tầu ráo máng rồi, nhưng mất con tôi mới đau.” Sau khi hồ Con Rùa trên đường Duy Tân bị nổ, ông cùng nhiều trí thức, văn nghệ sĩ bị bắt vì vụ này. Xin đọc tiếp: “Những câu chuyện vặt trong phòng giam bỗng im bặt, khi tiếng nói thật lớn thật to ở phòng giam tử tội cuối hành lang cất lên: Chào tất cả các anh em bạn tù, chúng tôi ba người mang án tử hình, sẽ bị xử bắn vào sáng sớm ngày mai, chúng tôi có lời chào vĩnh biệt tất cả các anh em còn ở lại. Tôi là Nguyễn Xuân Hùng, tự Ali Hùng, hai người bạn tôi, một là linh mục, một là chiến sĩ. Tôi là một người Việt Nam lai da đen, xứ Phi Châu Sénégalais, mẹ tôi là người Việt Nam, vậy tôi xin nhận nơi này làm quê hương, vì mẹ Việt Nam của tôi đã nuôi tôi khôn lớn và thành người. Trong phòng giam của tôi, vị linh mục đang quỳ dâng mình cho Chúa, người bạn chiến sĩ thì đang huấn nhục. Tôi có giọng khỏe, xin được hát thân tặng lại tất cả những anh em còn ở lại. Những bài hát thấm đượm tình quê hương của Phạm Duy mà tôi rất ngưỡng mộ.”

Chúng tôi đã mất Sàigòn thật rồi. [v]

Sau này, theo bs Trần Ngọc Ninh viết lại trên tờ Khởi Hành, tháng 9-2005, ông từ chối không cho nhà xuất bản sửa dù một chữ những tác phẩm của ông: “Tôi còn gì để mất ngoài liêm sỉ, thà chết đói chứ tôi không sửa văn tôi viết trước kia được.”

Chính ông cũng kể lại về trường hợp có nhà xuất bản cho người đến đề nghị in lại cuốn Kinh Nước Ðen với điều kiện nó phải được sửa chữa lại. Ông đã từ chối không chịu.Nay thì tờ Khởi Hành đang tiến hành giải văn chương năm nay dành cho ông. Thực tế trước mắt là ông sẽ nhận được một số tiền để sinh sống ra khỏi kiếp chó đọa đầy.

B.- Tình hình sách cũ hiện nay.

Về Sàigòn hôm nay, chỉ ở Sàigòn thôi mà không ở Hànội, tôi tìm lại xem trong đống tro tàn đó còn lại được gì. Không còn bao nhiêu. Tôi thấy họa hiếm mới còn sót lại một vài cuốn truyện. Và càng ngày, số lượng nó càng ít đi, vì mua vào mà không bán ra hoặc theo thời gian bị tiêu ma vì không có thư viện bảo quản. Chỉ còn lại một số rất ít mà trên lý thuyết vẫn là sách cấm lưu hành, bất hợp pháp, nhưng lại được bày bán công khai như thể hợp pháp. Hơn thế nữa, các loại ‘sách cũ’ thuộc loại sách chưởng, kiếm hiệp, mặc dầu vẫn là sách cấm lưu hành lại được in lại, sách cũ trở thành ‘sách mới’, bày bán công khai và hợp pháp. Chẳng hạn những sách của Vũ Đức Sao Biển như Kim Dung Giữa Ðời Tôi gồm các quyển Kiều Phong, Khát Vọng Tự Do, quyển thượng, Thiên Hạ Ðệ Nhất Mỹ Nhân, quyển trung, Từ AQ Ðến Vi Tiểu Bảo, quyển hạ và Thanh Kiếm Và Cây Ðàn, quyển kết thì đã được Nhà xuất bản Trẻ in ấn và phát hành đoàng hoàng. Gần như toàn bộ các loại sách kiếm hiệp được in lại. Sách của nhóm Tự Lực Văn Đoàn cũng vậy. Sách Triết cũng được in lại rất nhiều với các tác giả Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm.

Thế thì những bá cáo chính trị suốt bao nhiêu năm cũng như những văn kiện, nghị quyết của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung Ương Ðảng Cộng sản phải chăng chỉ còn có giá trị như những tấm giấy lộn.

Để hiểu rõ thêm về phần sách cũ này, tôi có một nhận xét như sau: Kể từ 1975 đến 1985, Sàigòn hay miền Nam có hai bộ mặt sinh hoạt văn học: Mặt nổi và mặt chìm. Mặt nổi bao gồm những sách báo in ấn chính thức từ miền Bắc gửi vào. Đó là một thứ văn học Cộng Sản mà tự nó mang tính chất đồng phục, tính chất hợp pháp và giáo điều buồn nản và tầm thường. Tôi còn nhớ trên vỉa hè phố Sàigòn những cuốn sách dịch in trên giấy xấu đến khó coi cả từ bề ngoài đến tựa đề. Đọc lên nghe tức anh ách như: Mười Ngày Của Bôcaxiô. 10 ngày gì mới được chứ. Thằng Cười, dịch V.Hugô. Cửa Hàng Vì Hạnh Phúc Các Bà của E. Zôla… Dịch lạ quá, tôi đi tìm sách của nhà văn này, nhưng đành chịu không kiếm ra cái tựa đề Cửa Hàng Vì Hạnh Phúc Các Bà ở đâu. Trăm Năm Cô Ðơn của G. Market. Tuổi Thơ Mãi Mãi Cùng Ta của M. Karim, Đất Vỡ Hoang của M. Sôlôkhốp, Thời Gian Ðể Sống Và Ðể chết của E. Rơmacơ. Ông Già Và Biển Cả của E. Hemingway, Đồi Gió Hú của E. pônti. Cả ba cuốn này đều đã được dịch ở trong Nam trước đó rồi. Đốt Đỉnh Gió Hú, đốt Lão Ngư Ông Và Biển Cả, đốt Thời Gian Ðể Sống Và Ðể Chết của miền Nam mà chất lượng dịch đã hẳn là bảo đảm hơn miền Bắc để mang nguyên con những thứ đó vào miền Nam với phẩm chất không bảo đảm và giấy thì thật xấu. Để làm gì?

Vì thế dân chúng trong Nam vẫn chịu khó tốn công, tốn tiền đi tìm sách báo cũ để đọc, chuyền tay nhau để đọc. Bởi vì, chính những sản phẩm văn hóa đó đã làm nên họ, là của họ, là bản thân họ và trở thành biểu tượng của những giá trị quá khứ cần được nâng niu giữ gìn. Và như thể, nếu không có những thứ văn hóa phẩm đó được nuôi dưỡng thì họ không còn là họ nữa, khô chồi và thui chột.

Nhưng một phần thì sinh hoạt văn học miền Nam dừng lại ở đó, bằng lòng với tất cả những thứ đến từ dĩ vãng, quá khứ và trong tương lai sẽ mỗi ngày mỗi thưa vắng đi, bởi vì không có người làm công việc sáng tác nữa. Đó là thứ văn học không có tương lai mà chỉ còn mở ra một sinh lộ: Quay lại quá khứ của chính mình để nhớ, để thương và để sống lại. Nếu ở Hải ngoại thời đó người ta gọi VHHN là thời kỳ văn học lưu vong. Trong nước phải gọi là thời kỳ văn học của quá khứ, vang bóng một thời.

Từ một nền văn học đồng phục, bị động, nghèo nàn với những sách vở lưa thưa và chưa định hình. Sách báo miền Nam cũ vẫn có mặt mà chưa có kế thừa và thay thế. Kể từ đó, sau ngày 30-4, sách báo miền Nam vỉa hè, giống như số phận của chính nền văn học ấy, thực sự trở thành sinh động chỉ nhờ vào sách báo cũ. “Điều đáng chú ý là đa số chủ nhân các tụ điểm văn hóa này là những người có học. Không thể nói là họ không am hiểu nội dung và tác hại của thử sách ra. Lạ một điều là bất chấp mọi hậu quả, họ cứ thản nhiên bày bán, những thứ rác rưởi văn hóa đó, ngày này qua ngày khác. Cứ mỗi độ chiều về, ở những điểm này, người bán kẻ mua tấp nập.” [vi]

Không có gì lạ. Cái lạ là các ông không hiểu gì về nếp sống, nếp nghĩ, sinh hoạt văn học miền Nam cả. Những thứ mà quý ông gọi là rác rưởi thì dân miền Nam lại coi là thứ rác quý, rác hiếm.

Sau 30-4, miền Nam có nhiều thứ rác lắm. Những thứ rác có thể đốt. Nhưng đốt thứ rác sách vở, báo chí văn học nghệ thuật miền Nam, các ông đã đụng chạm đến tinh thần và niềm tự hào của cả một miền đất nước thân yêu của họ. Điều đó khó mà tha thứ được.

C.- Những người có công với sách cũ của Sàigòn.

Sách vở, báo chí miền Nam trở thành món ăn tinh thần là do công sức của các nhà văn, nhà phê bình, giáo sư đến các học giả. Điều hiển nhiên là thế. Nhưng sức bật, sự tác động để phổ biến những văn hóa phẩm ấy là nhờ vào một số lớn nhà xuất bản có công với Văn Học. Họ là những nhà xuất bản như Trình Bày, Nam Sơn, Nguyễn Đình Vượng, Văn Hóa Á Châu, Diên Hồng, Xưa nay, Khai Trí, Lá Bối, An Tiêm. Những nhà xuất bản này đã đóng góp vào việc xuất bản 200 triệu cuốn sách trong 20 năm. Con số thật không nhỏ.

1.- Ông Khai Trí:

Chẳng mấy ai biết tên thật của ông, thành ra thương hiệu nhà sách KT, 62 Lê Lợi được đồng hóa vào tên ông. Thật ra tên ông là Nguyễn Hùng Trương, với hai tay trắng làm nên sự nghiệp. Ông vừa là một doanh gia, vừa là người làm văn hóa. Ông biên soạn khoảng 15 cuốn sách như Thơ Tình Việt Nam và Thế Giới Chọn Lọc, Chánh Tả Cho Người Miền Nam… và chủ trương tuần báo Thiếu Nhi cùng với Nhật Tiến.

Sau giải phóng, nhà sách Khai Trí là nạn nhân của nạn hôi của, đốt phá. Sách vở tung toé khắp nơi từ trong nhà sách ra ngoài đường. Tôi đã chính mắt chứng kiến cảnh ấy trong nỗi bất lực, bất lực của một người tự xếp hàng vào người thua cuộc. Tôi không biết lúc bấy giờ ông Khai Trí đứng ở đâu. Đứng ở đâu thì cũng cùng tâm cảnh đau xót đó thôi. Khi đã chứng kiến cảnh này rồi thì đừng bảo tôi có thể nghĩ hay cho những người mới đến. Họ không hiểu được điều đó vì quá hăng say trong men chiến thắng hay họ chưa bao giờ biết nghĩ tới người dân muốn gì, nghĩ gì. Tiếp theo đó là hai kho sách lớn cũng bi trưng thâu. Hằng vài trăm ngàn cuốn sách ra khỏi kho, rồi biến mất dạng.

Ông trắng tay sau bao nhiêu năm tốn công gây dựng.

Sau này, ông ở Mỹ về VN một lần nữa, mang theo hy vọng làm được một chút gì cho đất nước. Ông đã mang về 2000 đầu sách để tiếp tục làm Văn hóa. Sách bị tịch thâu với lý do: in trước 75. Theo Nguyễn Thụy Long, phần lớn sách bị tịch thâu là các loại sách Học Làm Người, báo chí quý hiếm trước 1954, như bộ Loa rất nổi tiếng. Sách ông mang về ai cũng biết là sách về giáo dục, sách hiền, sách tốt cả. Mà dại gì ông mang sách dữ, mà làm gì kiếm ra đâu được sách dữ. Nó chỉ có một cái tội: Tội đã in trước 1975.

Trước 75 là xấu, vi phạm luật. Sau 75 là tốt.

Ông đau lòng vì sách, ôm đơn đi kiện. Kết cục chẳng đi đến đâu.

Trước khi ông mất, người ta đã không quên đặt tên ông cho một con phố nhỏ. Đúng như ông thày TQ nhận xét: Hôm qua nó giết mình, hôm sau nó mang vòng hoa đến phúng điếu.

…Ông ra đi lúc 5h15 ngày 11/3/2005, linh cữu quàn tại nhà riêng (237 Điện Biên Phủ, quận 3, TP HCM), lễ động quan lúc 6h ngày 14/3, hỏa táng tại Bình Dương. Nguyện vọng của gia đình là gửi tiền phúng điếu vào quỹ từ thiện thành phố.

Cụ Toan Ánh, năm đó 91 tuổi, trong bữa đưa đám ma ông Khai Trí than thở: tại sao mình sống lâu như thế, ông Khai Trí mới có 80 tuổi.

2.- Nhà Lá Bối:

Nhà Lá Bối do nguyên Đại đức Từ Mẫn, tên thật là Võ Thắng Tiết trông nom. Sau ông hoàn tục. Ông là người có lòng, để việc phụng sự văn học nghệ thuật lên trên tiền bạc. Từ Mẫn đã giúp các nhà văn có nơi xuất bản những đầu sách có giá trị và người đọc có cơ hội đọc những cuốn sách trang nhã, chăm sóc từng chút trong việc trình bầy ấn loát và cả đến nội dung sách. Tất cả sách của Nhất Hạnh đều từ đây mà ra. Nếu không có Lá Bối, những Chiến Tranh và Hòa Bình, Chiến Quốc Sách, Sử Ký Tư Mã Thiên, Kiếp Người của Sommerset Maugham, Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay và Lối Thoát Cuối Cùng của V. Georghiu sẽ nằm ở đâu? Nếu không có Lá Bối, nhiều sách chắc gì đã có cơ hội ra mắt bạn đọc. Nhất là bộ Chiến Tranh và Hòa Bình của Léon Tolstoi. Sách in tốn vài ba triệu thời bấy giờ, bao giờ lấy lại vốn. Sau này, ở hải ngoại, ông tiếp tục làm công tác văn học với nhà xuất bản Văn Nghệ. Nếu cần một vinh danh gì cho 20 năm Văn học dịch nói riêng và Văn học nói chung, có cần nên nhắc đến Võ Thắng Tiết không? Kẻ lót đường cho Văn học miền Nam.

3.- An Tiêm Thanh Tuệ:

Tôi chỉ xin trích dẫn hai bài viết lúc mà Thanh Tuệ nằm xuống để thấy được rằng nhà xuất bản An Tiêm với Thanh Tuệ có lòng với văn chương như thế nào.

– Tiếc Văn Chương, thương chữ nghĩa, Trần Thị Lai Hồng.

Biết là vô thường, nhưng vẫn không khỏi tiếc thương. Tôi tiếc thương người An Tiêm Thanh Tuệ hiền hòa đã đành, mà nỗi tiếc Thương Văn Chương chữ nghĩa còn trĩu quá nặng.

Thôi từ nay, còn ai khổ công lặn lội tìm tòi đãi lọc để phổ biến văn chương như đã từng với Tuệ Sĩ, Bùi Giáng, Sao Trên Rừng, Nguyễn Đức Sơn. Thôi từ nay còn ai trân quý nâng niu bảo trọng chữ nghĩa như đã từng với Lá Hoa Cồn, Ngàn Thu Rớt Hột, Mười Hai con Mắt… Đêm Nguyệt Động, Cái Chuồng Khỉ và còn nhiều, rất nhiều công lao với văn học đã, đang và chưa thực hiện được.

– Với nhà văn Lê Thị Huệ:

Rồi bỗng nhiên nghe tin Ông chết. Đặng Ngọc Loan hôm trước rủ đi uống cà phê với Ông một lần, gọi điện thoại nói với tôi: Tin gì kỳ cục. Sao người vậy mà chết nghe kỳ cục quá.

4.- Doanh nghiệp sách Thành Nghĩa, Sàigòn:

Có lẽ phải nói đây là một ông Khai Trí thứ hai. Trong một dịp đi dự một buổi phát giải thưởng, do cái TTNCBTVPHVHDT. Viết tắt thế để quý vị khỏi mất thời giờ với cái Trung Tâm đó. Tôi có gặp anh Võ Thành Tân, Tổng giám đốc nhà sách Thành Nghĩa và nhất là anh Vũ Quang Trình, trợ lý TGĐ trong bữa ăn trưa đó. Gốc gác các anh đều là dân Quảng Nam, Quảng Ngãi mà người dân gọi đùa là: Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Quảng Nam, Đà Nẵng. Gọi như thế để thấy cái dân ngoài đó đi theo đảng nhà nước tận tình. Nay sau 30 tháng tư, họ, những người dân miền ấy có mặt khắp nơi, nhất là trong ngành báo chí, xuất bản. Các báo lớn như Tuổi Trẻ, Thanh Niên v.v… đều có người của họ. Chẳng hạn báo Thanh Niên có Nguyễn Công Khế, Tuổi Trẻ có Hùng Sơn Phước, Công An thành phố Trần Trữ Loang, Sàgòn Time có Võ Như Lanh, Kinh Tế VN có Cung Văn, Nhất Ánh..

Võ Thành Tân, sau 75 đang còn học Văn Khoa. Với cái vốn liếng ấy đâm ra hữu dụng, anh làm nghề mua bán sách cũ. Biết sách nào quý, biết sách nào giá trị là sở trường của một người mua bán sách cũ. Có tý vốn rồi, anh mua lại một cái ki ốt bán sách lẻ ở đường An Dương Vương. Kịp đến thời mở cửa, 1986… Theo lời anh Trình, các anh liên kết với các nxb của nhà nước để in sách. Họ đứng tên, cho giấy phép rồi họ mặc cho mình muốn làm gì thì làm. Một cuốn sách mới đầu ít vốn in 1000 cuốn thăm dò. Bán chạy thì in lại, bán tiếp. Một năm mới đầu xuất bản 4, 5 đầu sách, rồi cứ thế tăng dần. Đến năm 2004 thì đã cho xuất bản đến 3000 đầu sách đủ loại. 2005 tăng lên 3500 đầu sách một năm.

Nay thì các anh trở thành tỉ tỉ phú trong ngành xuất bản. Ngoài ra, các anh còn mở ra 18 cửa hàng bán sách với 2000 nhân viên. Hỏi sao có nhiều nhân viên như thế. Trả lời là để trông chừng những khách hàng ăn trộm đồ trong tiệm sách.

Có những tiệm sách lớn có đến 40 chục ngàn đầu sách đủ loại.

Làm gì còn có những Thanh Tuệ, những Từ mẫn nữa. Làm gì còn có Lá Bối, An Tiêm, Nam Sơn nữa. Làm gì còn có ‘Loan Mắt Nhung’ nữa.

Thôi chào vĩnh biệt sách cũ Sàigòn. Chào những đứa con tinh thần sinh trước 1975 còn sót lại.

Và như trong một số bài viết của tôi, tôi luôn luôn đòi hỏi nhà cầm quyền đương thời một điều, một điều thôi. Trước khi nói hoà giải, trước khi nói tình nghĩa, trước khi kêu gọi Việt kiều về nước, trước khi nói đến khúc ruột ngàn dặm v.v. và v.v… Yêu cầu các ông một lời xin lỗi chúng tôi, xin lỗi những người lính VN Cộng Hòa, xin lỗi các nhà văn, nhà trí thức, xin lỗi các bà vợ, xin lỗi người mẹ, xin lỗi trẻ con miền Nam và cuối cùng xin lỗi sách vở miền Nam. Xin lỗi tất cả.

Không làm thì hãy khoan nói đến truyện gì khác.

Nguyễn Văn Lục

_____________________

[i] Trích Văn Hoá, Văn Nghệ. Nam Việt Nam 1954-1975, Trần Trọng Đăng Đàn, trang 779, nxb Văn Hóa Thông Tin Hànội- 2000.
[ii] Trích lại trong Văn Hóa Văn Nghệ Nam Việt Nam 1954-1975 của Trần Trọng Đăng Dàn, trang 502, nxb Văn Hóa Thông tin.
[iii] Trích lại trong Văn Hoá, Văn Nghệ, Nam Việt Nam 1954-1975 của Trần Trọng Đăng Đàn. Nxb Văn Hóa Thông tin. Trang 502.
[iv] Trích Văn Học Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản, Nguyễn Hưng Quốc, trang 226, nxb Văn Nghệ, 1991
[v] Trích Ký ức về tiếng hát của người tử tù, Nguyễn Thụy Long, tạp chí Khởi Hành số tháng 9-2005, trang 23.
[vi] Trích SGGP, ngày 15-2-1987. Trong Văn Học VN dưới chế độ Cộng Sản của Nguyễn Hưng Quốc, trang 228. nxb Văn Nghệ.


 

LÝ DO VUI MỪNG – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời!”.

John Wesley – nhà truyền giáo người Anh – trước khi qua đời ở tuổi 88, đã ngồi dậy, nhìn những người thân yêu bên giường và nói, “Sao lại khóc, hãy vui mừng chứ? Điều tuyệt vời nhất cũng là lý do vui mừng nhất là Chúa ở cùng chúng ta!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Nói rằng, “Chúa ở cùng chúng ta!” hay nói, “Tên anh em đã được ghi trên trời!” có chung một ý nghĩa. Đó là ‘lý do vui mừng’ mà cả Wesley và Chúa Giêsu nói với những người thân yêu.

Tin Mừng hôm nay cho biết, sau chuyến truyền giáo tốt đẹp, các môn đệ trở về, lòng đầy hân hoan, “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con!”. Tốt! Nhưng với Chúa Giêsu, có một điều gì đó quan trọng hơn: tên của họ được ghi trên trời! Ngài không phủ nhận sự thành công của họ, nhưng Ngài tập trung vào một điều lớn hơn – mối quan hệ của họ với Thiên Chúa. Đây mới là nguồn vui đích thực! Chính điều này làm cho công việc của họ có kết quả; và đó là lý do tại sao Ngài tiếp tục nói, “Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy!”. “Thành công thật không phải ở điều ta làm, mà ở mối hiệp thông yêu thương ta có với Chúa!” – C.S. Lewis.

Điều đáng mừng hơn là các môn đệ ‘đã thấy, đã nghe’ và nhất là nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Thầy mình. Họ cảm nhận một mối gắn kết đặc biệt của Ngài với Chúa Cha và họ đã để mình ‘được lôi kéo’ vào mối quan hệ đó. Tin Mừng nhắc nhở chúng ta rằng, sự chia sẻ của chúng ta trong mối hiệp thông của Chúa Giêsu với Chúa Cha mới là niềm vui và là kho tàng đích thực, và đó là ‘lý do vui mừng’ lớn nhất chứ không phải là thành công về những gì chúng ta làm.

Chính hồng ân chia sẻ mối quan hệ này cho phép chúng ta nhìn và nghe những điều mà nhiều tiên tri và vua chúa mong ước được thấy được nghe. Ngay cả khi công việc của chúng ta ngừng lại – thậm chí là thất bại – vì bất cứ lý do gì, dù là tuổi tác, sức khoẻ kém hay thiếu cơ hội… thì hồng ân chia sẻ mối hiệp thông của Chúa Giêsu với Thiên Chúa Cha vẫn tồn tại. “Niềm vui được tìm thấy khi chúng ta nhận ra mình thuộc về ai!” – Henri Nouwen.

Anh Chị em,

“Hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời!”. Chúa Giêsu không quan tâm những chiến thắng trước Satan hay những gì khác kể cả những chiến công hiển hách. Điều quan trọng với Ngài là “Chúa ở cùng chúng ta” và “chúng ta ở cùng Chúa” hôm nay và mai ngày. Niềm vui đích thực phát xuất từ mối tương quan sống động khi chúng ta cảm nhận sự hiện diện của Ngài trong từng hơi thở, từng bước đường đời. Và như thế, trong mọi hoàn cảnh, chúng ta có lý do để vui mừng, vì kho tàng lớn nhất đã ở trong tay chúng ta. “Ở cùng Thiên Chúa biến những khoảnh khắc đời thường thành lễ hội; chiến thắng có thể phai nhạt, nhưng sự gần gũi của Chúa vẫn tồn tại!” – Madeleine L’Engle.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con hiểu, mọi chuyện đều là phụ tuỳ; và thành công của con trước hết và trên hết là sống thân tình với Chúa!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

***************************************************

Lời Chúa Thứ Bảy Tuần XXVI Thường Niên, Năm Lẻ

Hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 10,17-24

17 Khi ấy, Nhóm Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói với Đức Giê-su : “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con.” 18 Đức Giê-su bảo các ông : “Thầy đã thấy Xa-tan như một tia chớp từ trời sa xuống. 19 Đây, Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em. 20 Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời.” 21 Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giê-su hớn hở vui mừng và nói : “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.

22 “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết người Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.”

23 Rồi Đức Giê-su quay lại với các môn đệ và bảo riêng : “Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy ! 24 Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết : nhiều ngôn sứ và nhiều vua chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe.”


 

“Bệnh tật” được hiểu như thế nào trong Cựu ước?- Cha Vương 

Ước mong bạn cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa trong mọi biến cố trong ngày hôm nay nhé!

Cha Vương 

Thứ 6: 03/10/2025.  t3-23

GIÁO LÝ: “Bệnh tật” được hiểu như thế nào trong Cựu ước?Trong Cựu ước, bệnh tật thường được coi như thử thách lớn lao khiến người ta phải nổi loạn, nhưng trong bệnh tật người ta có thể nhận ra bàn tay của Chúa. Các ngôn sứ cũng coi bệnh tật không nhất thiết là lời nguyền rủa, cũng không luôn là kết quả do tội cá nhân. Tuy nhiên người chịu đau khổ của mình cách kiên nhẫn cũng có thể giúp người khác kiên nhẫn như vậy. (YouCat, số 240)

SUY NIỆM: Với những thành tựu của khoa học hiện đại, bệnh tật vẫn chưa và sẽ không bao giờ được giải quyết hay khuất phục một cách hoàn toàn. Nó là một phần của thân phận con người. Sinh bệnh lão tử vẫn là quy luật tất yếu của con người. Khoa học dù có phát triển đến mức nào đi chăng nữa, cũng không thể xóa bỏ được quy luật này.

   Trước khi Đức Kitô đến, bệnh tật được coi là sự liên hệ chặt chẽ với tội lỗi. Nói cách khác, con người đã tin chắc rằng bệnh tật là hậu quả của một số tội riêng mà một người đã phạm nên nó phải bị Thiên Chúa phạt bằng chính hậu quả bệnh tật.

   Nhưng khi Chúa Giêsu đến và dựa vào những phép lạ của Người làm, ý nghĩa đau khổ đã thay đổi rất nhiều: “Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (Mt 8:17). Trên thập giá, Người đã mang lại ý nghĩa cho đau khổ của con người, bao gồm cả bệnh tật: Bệnh tật không còn là một hình phạt nữa, nhưng là sự cứu chuộc. Bệnh tật liên kết bạn nên một với Người; bệnh tật thánh hóa, thanh luyện tâm hồn, chuẩn bị cho bạn đón nhận một ngày mà Thiên Chúa sẽ lau khô mọi nước mắt và lúc đó sẽ không còn bệnh tật, khóc than và đau khổ nữa. Trong cặp mắt của Thiên Chúa, một giờ chịu đau khổ, được đón nhận và chịu đựng với sự kiên nhẫn và lòng yêu mến Chúa, có thể xứng đáng hơn nhiều những hoạt động khác. Vậy bạn hãy đón nhận những đau khổ do bệnh tật gây ra như là một cơ hội để yêu mến Chúa và hy sinh cầu nguyện cho các linh hồn. “Tất cả vì tình yêu Chúa!”—Tôi tớ Chúa Bertilla Antoniazzi 

Mẹ Teresa nói: “Nỗi đau đớn và đau khổ đã đến với cuộc đời bạn, nhưng hãy nhớ rằng nỗi đau, nỗi buồn, sự đau khổ chỉ là nụ hôn của Chúa Giêsu – một dấu hiệu cho thấy bạn đã đến gần Ngài đến nỗi Ngài có thể hôn bạn”.

LẮNG NGHE: Cần phải được ứng nghiệm lời tiên tri Isaia: Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta. (Mt 8:17)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, đau khổ về tinh thần và thể xác đang dằn vặt tâm hồn con, xin Chúa khơi dậy trong con niềm khao khát Chúa để con có đủ sức mạnh làm chứng cho Tình Yêu Thiên Chúa được thể hiện trong đau khổ.

THỰC HÀNH: Hãy nhìn lên Thập Tự Giá coi Chúa đang muốn nói với bạn điều gì trong giây phút này nhé.

From: Do Dzung

***************************

KHỔ ĐAU PHẬN NGƯỜI (#KDPN) | Angelo Band | sáng tác : Sr Hiền Hòa

Kinh Mân Côi là vũ khí cho thời đại này (Thánh Padre Pio).

Duthapsang Tran

Day 3, October 3, 2025

Kinh Mân Côi là vũ khí cho thời đại này (Thánh Padre Pio). Dành thời gian làm theo những lời khuyên này trong việc lần chuỗi kinh Mân Côi.

  1. Dành thời gian

Hãy đặt ra một khoảng thời gian để cầu nguyện Kinh Mân Côi mỗi ngày. Nói cách khác, hãy cố gắng hình thành một thói quen cho việc đọc Kinh Mân Côi. Những thói quen được hình thành thông qua hành động được lặp đi lặp lại mỗi ngày. Một thói quen xấu là một thói hư; một thói quen tốt là một nhân đức. Tất cả mọi người nên hình thành nhân đức, thói quen tốt là cầu nguyện Kinh Mân Côi mỗi ngày.

Sự cáo chung của chế độ cộng sản và lựa chọn sinh tồn

Nhật Ký Yêu Nước

Sự cáo chung của chế độ cộng sản và lựa chọn sinh tồn

(Trần Khánh Ân-Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên)

Từ một cá nhân đến sự cáo chung của cả chế độ

Mỗi chế độ độc tài thường sản sinh ra những gương mặt biểu tượng cho sự tha hóa và mục ruỗng của chính nó. Tô Lâm, Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay, là một gương mặt như thế. Ông ta không nổi bật bởi tài năng chính trị, cũng không nổi bật bởi tầm vóc trí tuệ, mà trái lại, nổi bật bởi sự thô kệch, tầm thường và sự khôn ngoan của một công an khét tiếng với những hồ sơ tham nhũng và khủng bố tinh thần trong tay.

Quyền lực của Tô Lâm không đến từ sự tín nhiệm của đồng chí, cũng không đến từ sự kính trọng của dân chúng. Nó đến từ sự thối nát triền miên của một chế độ đã tự biến mình thành một tổ chức tội phạm có vỏ bọc chính đảng. Ở đó, mỗi ủy viên trung ương, mỗi bộ trưởng, mỗi cán bộ cao cấp đều đã nhúng chàm tham nhũng, đều có những hồ sơ bất minh mà chỉ cần bị khui ra là có thể đi tù. Trong cái nhà tù tập thể ấy, kẻ nào nắm chìa khóa điều tra, kẻ đó trở thành “chúa tể”. Và Tô Lâm chính là chúa tể kiểu đó.

Nhưng Tô Lâm không chỉ là một cá nhân. Ông ta là tấm gương phản chiếu của cả một chế độ đang thối rữa từ gốc rễ, nơi mà quyền lực được duy trì bằng sợ hãi, nơi mà tư tưởng đã bị quăng vào sọt rác, và nơi mà kinh tế thì chìm trong những dự án thất bại, còn ngoại giao thì chỉ biết bám víu vào hai chế độ độc tài khác, cũng đang hấp hối : Trung Quốc và Nga.

Từ một cá nhân, chúng ta có thể nhìn thấy sự cáo chung không thể đảo ngược của cả chế độ.

Ở một xã hội bình thường, quyền lực chính trị dựa trên sự tín nhiệm dân chúng, dựa trên năng lực điều hành, và dựa trên những dự án chính trị thuyết phục. Ở Việt Nam, quyền lực lại nằm trong tay kẻ nào nắm được hồ sơ tham nhũng của người khác. Cái gọi là “phòng chống tham nhũng, tiêu cực” thực chất chỉ là công cụ để thanh toán phe phái. Khi trở thành Phó trưởng Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng, Tô Lâm bỗng nhiên có thể quyết định số phận của tất cả những ủy viên Bộ Chính trị khác. Bởi lẽ, tất cả họ đều tham nhũng, đều có những khối tài sản bất minh không thể giải thích. Một người chỉ với mức lương 1.000 đô la mỗi tháng lại có thể ngồi trong nhà hàng ăn bò dát vàng giá 2.000 đô la một miếng, uống rượu 15.000 đô la một chai, thì cái gọi là trong sạch chỉ còn là chuyện hoang đường.

Tô Lâm không mạnh, mà những kẻ khác quá yếu. Ông ta không có tầm vóc trí tuệ, nhưng có quyền lực trong tay. Ông ta không có lý tưởng, ông ta sống bằng nỗi sợ hãi của các đồng chí. Và trong một tập thể đã mục ruỗng đến tận cùng, thì nỗi sợ hãi trở thành đồng tiền giao dịch duy nhất. Đó cũng chính là bằng chứng sống động nhất cho thấy Đảng cộng sản Việt Nam ngày nay không còn là một chính đảng, mà là một tập đoàn tội phạm, vận hành bằng sự trao đổi hồ sơ và sợ hãi.

Tham nhũng và tội phạm hóa của cả bộ máy

Điều hiển nhiên mà Tô Lâm đã phơi bày, chính là mọi cán bộ lãnh đạo của Đảng đều phạm pháp. Trong một đất nước mà tài sản khổng lồ của quan chức không thể nào giải thích bằng lương, thì tham nhũng không còn là hiện tượng cá biệt, mà là bản chất của chế độ. Mỗi vụ án tham nhũng chỉ là bề nổi. Phần chìm là cả một hệ thống đã biến tham nhũng thành điều kiện sống còn. Chế độ này giống như một căn phòng khóa kín, nơi tất cả các thành viên đều bị trói trên ghế bằng dây xích tham nhũng. Ai cũng có tội, ai cũng sợ bị lôi ra ánh sáng. Và trong cái căn phòng ấy, kẻ nào giữ chìa khóa, kẻ đó trở thành ông chủ. Đây là điều giải thích vì sao Tô Lâm có thể thanh toán những nhân vật tưởng chừng có uy tín hơn, như Vương Đình Huệ hay Võ Văn Thưởng. Và vì sao Bộ Chính trị rốt cuộc chỉ còn lại những gương mặt phục tùng ông ta một cách vô điều kiện.

Một chính đảng nếu thực sự lành mạnh thì phải là nơi tập hợp những con người có phẩm chất, có lý tưởng, có kiến thức để cùng nhau bàn bạc, thảo luận và xây dựng dự án cho đất nước. Nhưng ở đây, cái gọi là “Bộ Chính trị” chỉ là một phòng họp tội phạm, nơi những kẻ đồng lõa phải im lặng vì sợ bị xử lý thì làm sao có thể dám suy nghĩ chứ chưa nói tới việc sản xuất ra được một ý kiến đúng đắn ?

Ý thức hệ là một xác chết chưa được chôn

Có một điều đáng chú ý : từ khi Tô Lâm lên nắm quyền, những khẩu hiệu về “chủ nghĩa Marx Lenin” hay “tư tưởng Hồ Chí Minh” gần như biến mất. Tô Lâm không còn nhắc đến những thứ ấy. Nhưng không phải vì ông ta tiến bộ hơn, mà vì ông ta biết rằng đó chỉ là xác chết. Thực ra, ý thức hệ của Đảng cộng sản đã chết từ lâu. Nó chết từ khi chính quyền buộc phải quay lại với kinh tế thị trường, từ khi chủ nghĩa xã hội chỉ còn tồn tại trên giấy tờ. Nó chết từ khi chính những người lãnh đạo cao nhất xây dựng biệt phủ, gửi con cái ra nước ngoài, và tiêu xài bằng đồng đô la chứ không bằng đồng tiền Việt Nam.

Nhưng Tô Lâm là người đã công khai xác nhận cái chết ấy, bằng cách lặng lẽ trục xuất Marx – Lenin và Hồ Chí Minh ra khỏi mọi diễn ngôn chính trị. Không còn nền tảng tư tưởng, chế độ này chỉ còn lại sự trống rỗng. Một chính đảng nếu không dựa trên tư tưởng, không dựa trên dự án chính trị, thì không còn là chính đảng nữa. Nó chỉ còn là một tập đoàn quyền lực, một nhóm lợi ích.

Đó là điều mà Tô Lâm đã chứng minh một cách rõ ràng rằng Đảng cộng sản không còn sức sống, không thể tự tái tạo, và không còn lý do tồn tại.

Từ thiên đường hứa hẹn đến địa ngục thực tế của nền kinh tế và sự bất mãn trong dân chúng

Nếu một chính quyền có thể biện minh cho sự tồn tại của mình, thì lý do cuối cùng thường là kinh tế. Dân chúng có thể tha thứ cho độc tài, nhưng không thể tha thứ cho sự nghèo đói, thất nghiệp và bất công. Tô Lâm hứa hẹn một “kỷ nguyên vươn mình”, hứa hẹn tăng trưởng 8% vào năm 2025 và hai con số sau đó. Nhưng thực tế là nền kinh tế đang khốn đốn hơn bao giờ hết. Chiến dịch “tinh gọn bộ máy” tiêu tốn 170.000 tỷ đồng để rồi chỉ cắt giảm được chưa đến 3% biên chế. Những người có năng lực đã bỏ đi, những kẻ bất tài thì ở lại. Bộ máy vốn đã trì trệ nay càng thêm vô dụng. Chiến dịch “tái tổ chức hành chính” thì gây ra những vết thương tinh thần cho dân chúng. Việc sáp nhập các xã, phường, huyện, tỉnh đã chạm vào mối dây tình cảm của người dân đối với nơi chôn nhau cắt rốn, tạo ra oán thù và bất mãn vì cảm giác bị tước đoạt quê hương.

Trong lĩnh vực kinh tế tư nhân, thay vì khuyến khích một môi trường cạnh tranh bình đẳng, Tô Lâm và chế độ chỉ tập trung ưu đãi cho VinGroup đứa “con cưng” của chế độ. Nhưng “con cưng” này không thể nào tồn tại nếu không được bơm vốn vô tội vạ. Và cái gọi là “tư nhân” thực chất chỉ là tay sai của Đảng. Dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam với chi phí 62 tỷ đô la, tương đương 15% GDP, lại được giao cho một công ty không hề có một kinh nghiệm nào. Đó không phải là phát triển, mà là một canh bạc bằng máu và mồ hôi của cả dân tộc.

Kinh tế Việt Nam đang lộ ra những con số bệnh hoạn : ngành xây dựng chiếm tới 30% GDP, gấp ba lần ngưỡng báo động. Xuất nhập khẩu chiếm gần 200% GDP, nghĩa là đất nước này lệ thuộc gần như hoàn toàn vào thị trường bên ngoài, không còn khả năng tự chủ. Đồng tiền mất giá, thị trường bất động sản lao dốc, ngân hàng ngập trong nợ xấu.

Từ “thiên đường hứa hẹn”, người dân đang bước thẳng vào “địa ngục thực tế”. Và sự phẫn nộ đang dâng lên, vượt qua cả nỗi sợ hãi.

Ngày nay, đi đến bất cứ vùng quê nào cũng nghe người dân than thở về đất đai bị thu hồi, về nhà cửa bị cướp trắng, về nợ nần chồng chất. Ở các thành phố, giới trẻ thất nghiệp, giới trung lưu bị lừa bởi những căn hộ không sổ đỏ, những lời hứa viển vông từ các tập đoàn bất động sản. Biểu tình đất đai đã nổ ra khắp nơi. Trên mạng xã hội, người dân không ngần ngại nguyền rủa Tô Lâm, thậm chí công khai mong ông ta chết đi.

Đây là dấu hiệu của một bước ngoặt : nỗi sợ hãi đang nhường chỗ cho sự phẫn nộ. Và khi sự phẫn nộ đã vượt qua nỗi sợ, thì chế độ không còn chỗ dựa. Chỉ cần một mồi lửa, một sự kiện bùng phát, thì đám cháy có thể lan rộng không ai kiểm soát nổi.

Sự bất mãn trong nội bộ Đảng

Nếu sự phẫn nộ trong dân chúng ngày càng lộ rõ, thì sự bất mãn trong nội bộ Đảng lại âm ỉ nhưng nguy hiểm hơn nhiều. Đó là một ngòi nổ ngầm có thể làm chế độ nổ tung từ bên trong.

Việc sáp nhập các xã, huyện, tỉnh đã khiến hàng ngàn cán bộ cấp cơ sở mất chức hoặc bị tinh giản sau khi đã bỏ tiền ra chạy chọt. Họ mất tiền, mất ghế, và mất cả tương lai chính trị. Đó không chỉ còn là bất mãn, mà là hận thù.

Ở cấp cao hơn, Tô Lâm đã triệt hạ những người từng được xem là có tư cách tối thiểu. Những cú đánh không chỉ nhằm loại bỏ đối thủ, mà còn làm nhục họ, khiến cả hệ thống cảm thấy bị đe dọa. Trong một đảng có năm triệu đảng viên, con số những người oán hận Tô Lâm đã chiếm đa số.

Đặc biệt, việc triệt hạ bộ máy chính quyền ở Thanh Hóa, quê hương chính trị của Phạm Minh Chính, với hơn một ngàn vụ khởi tố, hàng loạt cán bộ bị bắt, cho thấy sự thù địch đã biến thành hành động. Đó là một cuộc chiến phe phái công khai. Và lịch sử cho thấy, khi một chính đảng đã tan rã thành các phe phái thù địch, thì ngày sụp đổ chỉ còn là vấn đề thời gian.

Sự cô lập quốc tế và bế tắc ngoại giao

Một chính quyền dù mục ruỗng đến đâu, vẫn có thể kéo dài sự tồn tại nếu còn được quốc tế nâng đỡ. Nhưng chính sách đối ngoại hiện tại của Việt Nam lại đưa đất nước vào thế cô lập chưa từng có. Các lễ kỷ niệm lớn của chế độ không có sự hiện diện của lãnh đạo các nước dân chủ. Liên minh duy nhất mà chính quyền bám víu là Trung Quốc và Nga, hai quốc gia đang suy yếu, một bên thì sa lầy ở Ukraine, một bên thì khủng hoảng kinh tế trầm trọng.

Hình ảnh quốc tế của Việt Nam ngày càng xấu đi. Một buổi duyệt binh Quốc khánh mà Chủ tịch nước chỉ đứng như thuộc cấp bên cạnh Tổng bí thư Đảng đã nói lên tất cả : thế giới nhìn Việt Nam như một chế độ côn đồ, không có tư thế của một quốc gia bình thường.

Kinh tế phụ thuộc quá lớn vào xuất khẩu, nhưng Mỹ và Châu Âu đã bắt đầu siết chặt thương mại. Những ưu đãi thuế quan không còn nữa, trong khi thuế nhập khẩu vào Mỹ đã tăng lên 25%, gấp đôi so với hàng hóa từ Châu Âu. Những cú đòn này có thể làm tê liệt các tập đoàn xuất khẩu của Việt Nam, đẩy hàng triệu công nhân vào thất nghiệp.

Tất cả những điều này cho thấy con đường của chế độ đã tận. Nó không còn chỗ dựa quốc tế, không còn sức sống kinh tế, và không còn chút niềm tin nào trong dân chúng.

Việt Nam trước ngưỡng cửa của một khúc quanh lịch sử

Trong bối cảnh này, câu hỏi không còn là chế độ cộng sản có sụp đổ hay không, mà là sụp đổ như thế nào và sau đó sẽ là gì ?

Lịch sử thế giới cho thấy hai kịch bản. Một là sự sụp đổ trong hỗn loạn và bạo lực. Hai là sự sụp đổ trong trật tự và hòa giải. Việt Nam sẽ đi theo con đường nào ? Điều đó tùy thuộc vào việc có hay không một tổ chức chính trị lành mạnh sẵn sàng thay thế, với lý tưởng và dự án rõ ràng. Nếu không có, thì sự sụp đổ của sẽ chỉ mở ra một chu kỳ hỗn loạn, phe phái trong Đảng thanh toán nhau, quân đội chia rẽ, quần chúng nổi dậy bạo lực. Một đất nước đã chịu quá nhiều đau khổ như Việt Nam không thể lại tiếp tục đi vào con đường đó.

Việt Nam cần một tổ chức chính trị có lý tưởng hòa giải

Đây chính là lúc cần khẳng định một sự thật, chỉ có một tổ chức chính trị lành mạnh, có đội ngũ, có kiến thức chính trị, và có lý tưởng hòa giải dân tộc mới có thể đưa Việt Nam ra khỏi bế tắc. Một tổ chức như thế không lo lật đổ chế độ hiện tại, mà lo chuẩn bị cho ngày mai, giữ cho đất nước không rơi vào bạo loạn.

Tinh thần cốt lõi của tổ chức này phải là hòa giải. Không một chế độ dân chủ nào có thể ổn vững nếu các vết thương lịch sử tiếp tục bị khoét sâu. Chúng ta phải nhìn nhận rằng tất cả từ cán bộ cộng sản đến những người đối lập, từ công an đến dân oan, từ Nam ra Bắc đều là nạn nhân của cùng một chế độ. Hòa giải không phải là quên đi tội ác, mà là để chấm dứt vòng luẩn quẩn của hận thù, mở ra một khởi đầu mới. Một tổ chức như thế không thể ra đời trong ngày một ngày hai. Nó đòi hỏi sự chuẩn bị, sự kiên nhẫn, và sự gắn bó bền bỉ với một dự án lâu dài. Đó chính là điều duy nhất có thể cứu đất nước này khỏi tai họa.

Bước vào kỷ nguyên mới

Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh lịch sử trọng đại. Đảng cộng sản đã tự chứng minh sự cáo chung của nó bằng sự thối nát, sự tê liệt, và sự thất bại toàn diện. Tô Lâm, bằng quyền lực của mình, đã vô tình làm lộ ra tất cả những điều mà chế độ muốn che giấu : sự tham nhũng, sự vô dụng, sự trống rỗng tư tưởng, và sự cô lập quốc tế. Nhưng sự sụp đổ của một chế độ không tự động mang lại dân chủ. Nó có thể mang đến hỗn loạn, bạo lực, thậm chí một hình thức độc tài mới. Chính vì vậy, lựa chọn của chúng ta hôm nay sẽ quyết định vận mệnh của dân tộc. Chúng ta cần một tổ chức chính trị trưởng thành để mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc.

Đây không phải chỉ là một cảnh báo. Đây là một lựa sinh tồn. Thời gian không chờ đợi để tiếp tục chứng minh những sai lầm. Và lịch sử sẽ không tha thứ nếu chúng ta bỏ lỡ cơ hội này, ngày hôm nay !

Trần Khánh Ân

(26/09/2025)


 

 Thánh Phanxicô Assisi – Người nghèo của Thiên Chúa.

ĐỨC MẸ NÚI CÚI CẦU CHO CHÚNG CON

Joseph Võ Đình Thuần

 Thánh Phanxicô Assisi – Người nghèo của Thiên Chúa.

Có những vị thánh được gọi bằng nhiều tước hiệu cao sang, nhưng Phanxicô Assisi chỉ cần một tên gọi giản dị: Người nghèo của Thiên Chúa. Danh xưng ấy không phải là sự thiếu thốn, mà là lời tôn vinh cao quý nhất dành cho một tâm hồn đã biết trút bỏ tất cả, để chỉ còn lại duy một điều: tình yêu dành cho Thiên Chúa.

Ngày còn trẻ, Phanxicô là chàng trai hào hoa, mơ ước công danh và vinh quang. Nhưng khi gặp được ánh sáng của Đấng Tình Yêu, ngài đã chọn một lối đi ngược lại: rũ bỏ giàu sang, ôm lấy nghèo khó. Trước mặt mọi người, ngài cởi bỏ cả áo quần quý giá, đứng trần trụi như một trẻ thơ, để khởi đầu một cuộc đời mới – cuộc đời thuộc trọn về Thiên Chúa.

Từ ngày ấy, Phanxicô đi khắp các nẻo đường Assisi, tay không nhưng lòng tràn đầy bình an. Ngài gọi chim muông là anh em, gọi trăng sao là chị em, và coi cả vũ trụ như một gia đình. Trong cái nhìn trong veo của ngài, mọi sự đều chan chứa tình yêu, bởi tất cả được sáng tạo từ bàn tay Thiên Chúa. Chính sự nghèo khó đã làm trái tim ngài mở rộng, để yêu thương tuôn trào không biên giới.

Ngài nghèo không vì thiếu thốn, mà vì chọn nghèo như một lối sống, một lời đáp trả. Nghèo để được tự do, để trái tim không còn vướng bận bởi phù hoa chóng qua, mà hoàn toàn mở ra cho Đấng Vĩnh Cửu. Cái nghèo ấy không phải là trống rỗng, mà là viên mãn; không phải là từ khước sự sống, mà là gặp được mạch nguồn sự sống đích thực. Ngài bỏ tất cả để có thể ôm trọn bầu trời. Ngài tìm thấy kho báu trong từng giọt sương, tiếng chim, và cả những giọt lệ đau khổ của con người.

Nhìn vào gương mặt hiền hòa của Người nghèo Assisi, tôi tự hỏi: trái tim tôi đang thuộc về ai? Có phải danh vọng, tiền tài, lạc thú, hay cái tôi kiêu hãnh đang chiếm hữu tôi? Và tôi hiểu: chỉ khi biết “nghèo đi” – nghèo đi lòng ích kỷ, nghèo đi tham vọng, nghèo đi nỗi sợ mất mát – tôi mới có thể trở nên giàu có trong Thiên Chúa như Thánh Phanxicô.

Người nghèo của Thiên Chúa đã để lại cho nhân loại không chỉ một linh đạo, mà còn một bài ca sống động về tình yêu: bài ca của tự do, của đơn sơ, của hòa bình. Bài ca chan chứa ánh sáng ấy vẫn vang vọng qua nhiều thế kỷ, mời gọi ta cùng thưa lên một lời:

“Lạy Chúa, xin cho con biết chọn Ngài làm gia nghiệp, để trong sự nghèo khó, con tìm thấy kho tàng vô tận nơi tình yêu của Ngài.” Amen


 

Hai người họ Trịnh: Một bản án, hai số phận – một chế độ đầy bất công

Hoài niệm

Trong cùng một đất nước, dưới cùng một hệ thống pháp luật, hai người họ Trịnh đang được chú ý nhiều bởi hai kết quả trái ngược: một người là doanh nhân gây thiệt hại hàng ngàn tỉ đồng cho xã hội, người kia là nông dân lên tiếng vì công lý. Cách chế độ đối xử với họ đang tạo nên tranh cãi sôi nổi và cho thấy sự bất công quá rõ rệt của nhà cầm quyền.

Trịnh Văn Quyết – Tội phạm gây thiệt hại nặng nề cho xã hội, lại được ưu ái

Ngày 10/1/2022, ông Quyết bán chui hơn 76 triệu cổ phiếu FLC, thu về gần 1.700 tỷ đồng mà không công bố thông tin theo quy định.

Ông nâng khống vốn điều lệ FLC Faros từ 1,5 tỷ lên 4.300 tỷ đồng để niêm yết mã ROS, qua đó chiếm đoạt hơn 3.600 tỷ đồng từ nhà đầu tư.

Tổng thiệt hại xã hội lên đến hàng ngàn tỉ đồng, ảnh hưởng đến hàng chục ngàn người.

Bản án sơ thẩm: 21 năm tù. Phúc thẩm: giảm còn 7 năm. Sau 3 năm: được đặc xá.

Lý do đặc xá? Khắc phục hậu quả, bệnh tật, “đơn xin giảm nhẹ từ hàng ngàn cá nhân và tổ chức”. Nhưng số tiền ông trả lại chưa tới 50% số tiền chiếm đoạt. Hơn nữa, ai biết được con số thật phía sau lớn đến đâu, khi ông ta được bao che bởi những thế lực ngầm?

Trịnh Bá Phương – Người nông dân bị bóp nghẹt tiếng nói

Ông Phương là một người dân Dương Nội, lên tiếng phản đối cưỡng chế đất, đòi quyền lợi cho nông dân bị mất đất.

Không chiếm đoạt của ai một đồng, không gây thiệt hại cho xã hội, chỉ nói lên tiếng nói của người dân thấp cổ bé họng.

Bản án: 10 năm tù vì “tuyên truyền chống nhà nước”. Sau đó bị xử thêm 11 năm vì “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền”. Tổng cộng: 21 năm tù.

Khi con trai thứ hai của ông vừa tròn 4 ngày tuổi, ông đã bị bắt. Trong tù, có lúc ông mắc bệnh nặng và suy yếu vì tuyệt thực nhưng không được đặc xá, không được chăm sóc y tế đầy đủ. Nhiều tù nhân lương tâm khác đã bỏ mạng vì điều kiện giam giữ khắc nghiệt – nhưng chẳng ai được tha dù chỉ một ngày.

Một chế độ, hai chuẩn mực

Người gây thiệt hại hàng nghìn tỉ đồng được giảm án, đặc xá, vì “có bệnh”, “ăn năn”, “có thành tích”.

Người đấu tranh ôn hòa vì công lý bị chồng án, bị bỏ mặc trong tù, dù cũng bệnh nặng, dù không làm hại ai.

Đây không chỉ là sự bất công. Đây là sự phân biệt đối xử có hệ thống, là một chế độ bảo vệ kẻ làm giàu phi pháp, đàn áp người dân cô thế, là một nền pháp lý không dựa trên công lý mà dựa trên quyền lực và tiền bạc.

NTNgọc


 

Trịnh Bá Phương không phải người viết khẩu hiệu ở trong tù

Ba’o Nguoi- Viet

October 2, 2025

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Ông Trịnh Bá Phương không viết những khẩu hiệu “Đả đảo Cộng sản” trong phòng giam nhưng chế độ Hà Nội vẫn áp đặt “án chồng án” để kéo dài án tù.

Cựu tù chính trị Nguyễn Bá Truyển nói như vậy trong một video clip công bố trên mạng xã hội ngày 28 Tháng Chín 2025, tức một ngày sau khi tòa án CSVN ở Đà Nẵng áp đặt thêm bản án 11 năm tù cho ông Trịnh Bá Phương với cáo buộc “tuyên truyền” chống chế độ độc tài đảng trị.

Ông Trịnh Bá Phương ra tòa sơ thẩm ở Hà Nội ngày 15 Tháng Mười Hai 2021. Ông bị kết án 10 năm từ vì bị vu cho tội “Tuyên truyền” chống chế độ độc tài đảng trị tại Việt Nam. (Hình: STR/AFP/Getty Images)

Trong video clip đó, ông Nguyễn Bá Truyển nói rằng ông “hoặc tù nhân chính trị khác” đã viết hàng chữ “Đả đảo đảng Cộng sản Việt Nam vi phạm nhân quyền. Đả đảo tòa án Cộng sản kết án oan tôi” trên bìa của tạp chí “Thời báo Kinh tế Sài Gòn”. Tờ tạp chí này được nhóm tù chính trị chuyền tay nhau đọc khi bị giam ở khu giam tù chính trị của nhà tù An Điềm tỉnh Quảng Nam.

Vợ ông Truyển đã mua tạp chí TBKTSG và nhật báo Tuổi Trẻ rồi gửi vào nhà tù An Điềm cho ông qua đường bưu điện. Ông và các bạn tù chính trị truyền tay nhau đọc.

Ông Truyển cho hay sau khi Trịnh Bá Phương bị kết án 10 năm tù trong một phiên xử ở Hà Nội, ông bị chuyển tới nhà tù An Điềm và ở chung phòng giam với ông Truyển khoảng một tháng trước khi ông Truyển chấp nhận sống lưu vong sang Đức thay vì chấp nhận ở tù tiếp tại Việt Nam và theo sự vận động của chính phủ Đức.

Thành viên Hội Anh Em Dân Chủ, ông Nguyễn Bắc Truyển, năm nay 57 tuổi, đã được thả ra khỏi nhà tù An Điềm ngày mùng 8 tháng Chín 2023, sau 6 năm ngồi tù với bản án 11 năm tù, 3 năm quản chế. Ông bị vu cho tội “Hoạt động nhằm lật đổ” chế độ độc tài đảng trị và cực kỳ tham nhũng tại Việt Nam. Loại bản án này được áp đặt lên đầu tất cả các thành viên Hội Anh Em Dân Chủ (AEDC) dù chỉ vận động nhân quyền, đa nguyên đa đảng, không kêu gọi bạo động.

Theo bà Đỗ Thị Thu, vợ ông Trịnh Bá Phương thuật lại lời luật sư bào chữa và kể trên trang Facebook Thu Đỗ, trong phiên xử, ông Phương phủ nhận mình là người viết những khẩu hiệu đó và cũng không biết ai viết. Cai tù khám xét phòng ông khi ông đang tuyệt thực dài ngày, thấy tờ tạp chí có hàng chữ chống chế độ thì đổ ngay cho ông là thủ phạm.

Trong phiên xử ở Đà Nẵng ngày 27 Tháng Chín, luật sư biện hộ đã tố cáo phía công tố đã không làm giám định chữ viết và cũng không giám định dấu vân tay trên tờ tạp chí, mà chỉ đổ riệt tội cho ông Phương nhằm áp đặt thêm bản án 11 năm tù cho một người nông dân kiên cường chống lại chế độ độc tài.

Tại phiên xử ngày 27 Tháng Chín, khi ông Phương phát biểu những lời sau cùng, bà Đỗ Thị Thu kể lại rằng “phía luật sư và chồng tôi thường xuyên bị ngắt lời và không cho nói, chồng tôi còn bị Công An bóp mồm không cho nói lời sau cùng. Khi anh Phương và các luật sư bào chữa thì thẩm phán chủ tọa phiên tòa Đinh Tấn Long cho là dài dòng và đe dọa dừng vai trò của luật sư tại đây, và xử chồng tôi vắng mặt.” Bà Thu còn cho biết, chồng bà không được tiếp cận hồ sơ vụ án để thực hiện quyền tự bào chữa. Còn các luật sư của ông cũng bị cản trở, không cho tham gia quá trình điều tra.

Còn cáo buộc ông Phương “làm, tàng trữ..” tài liệu, vật phảm chống phá chế độ thì vẫn không đủ căn cứ để khép tội vì “không có bất kỳ người nào tại trại giam An Điềm chứng kiến (nhìn thấy hoặc biết hoặc có thông tin” là ông Phương “là người làm/tạo lập ra dòng chữ trên tờ giấy A3 đã thu giữ ngày 18/11/2024”.

Dù vậy, chế độ Hà Nội muốn đè thêm một tảng đá nữa lên đầu ông Trịnh Bá Phương, năm nay 40 tuổi, kéo dài thêm thời gian cầm tù, tổng cộng trước sau 21 năm tù và thêm 5 năm quản chế nữa. Trên FB của bà Đỗ Thị Thu. hàng trăm người viết bình luận theo các thông tin về phiên tòa CSVN độc diễn tại Đà Nẵng không tiếc lời nguyền rủa một “chế độ man rợ bất nhân”, hay “không ác độc thì không phải là Cộng sản”.

Vợ con của ông Trịnh Bá Phương biểu tình tại nhà với những tấm bảng phản đối chế độ Hà Nội bỏ tù oan một người vô tội. (Hình: FB Thu Đỗ)

Ngày 2 Tháng Mười, Tòa Đại sứ Đức ở Hà Nội phổ biến lời phát biểu của ông Lars Castellucci về bản án mà CSVN áp đặt cho ông Phương là “Bản án kết tội nhà hoạt động vì quyền đất đai Trịnh Bá Phương thêm 11 năm tù đã phủ bóng đen lên tình hình nhân quyền ở Việt Nam. Bản án này vi phạm quyền tự do ngôn luận. Tôi kêu gọi Chính phủ và Tư pháp Việt Nam thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ quốc tế về bảo vệ nhân quyền và xem xét lại bản án đối với ông Phương.” Ông Castellucci là Đặc phái viên về nhân quyền của Chính phủ Liên bang Đức.

Trên trang Facebook của bà Đỗ Thị Thu, người ta thấy đang có lời kêu gọi ký kiến nghị tập thể gửi nhà cầm quyền CSVN, Liên Hiệp Quốc và các Tổ chức Nhân quyền Quốc tế “Yêu cầu trả tự do ngay lập tức và đòi công lý cho chồng tôi Trịnh Bá Phương”.

[[https://sign.moveon.org/petitions/immediate-release-and-justice-for-vietnamese-human-rights-defender-trinh-ba-phuong?source=facebook&time=1759358089&utm_source]]

Ngày 1 Tháng Mười, bà Đỗ Thị Thu đến nhà tù An Điềm để thăm chồng thì nơi đây nói ông Phương không còn bị giam ở đây nữa nhưng cũng không cho biết ông bị đưa đi giam ở đâu. Theo luật tố tụng hình sự CSVN, ông Phương có quyền kháng án sơ thẩm trong vòng 15 ngày nhưng thân nhân của ông bị bưng bít tin tức hoàn toàn.(NTB)