CHỈ CÒN SỨC MẠNH CỦA LỜI CẦU NGUYỆN

CHỈ CÒN SỨC MẠNH CỦA LỜI CẦU NGUYỆN

Trích báo Ephata  526

Thế giới vào năm 1917 chỉ có 1,8 tỷ người, đang xẩy ra Thế Chiến thứ nhất làm thiệt mạng 11 triệu người thì Đức Mẹ hiện ra tại Fatima cho biết các phương thế hữu hiệu để cứu vãn nhân loại gồm có:

1. Ăn năn đền tội, cải thiện đời sống.

2. Tôn sùng Trái Tim Vẹn Sạch Ðức Mẹ

3. Lần chuỗi Mai Khôi.

Đây hoàn toàn là những phương thế hướng nội, đặt trọng tâm vào việc cầu nguyện hy sinh của mỗi cá nhân. Lạ lùng thay ta không thấy Đức Mẹ nhắc nhở về những hoạt động bên ngoài hướng tới tha thân như làm phúc bố thí, giáo dục thanh thiếu niên, chữa bệnh cho người nghèo.

Tại Fatima, Đức Mẹ còn cho biết những thảm họa khác kinh sợ hơn sẽ xẩy đến trong tương lai như:

1. Thế Chiến thứ hai làm thiệt mạng 60 triệu người.

2. Chủ nghĩa Cộng Sản làm thiệt mạng 100 triệu người.

Nhưng Đức Mẹ nói ra thảm họa bi thảm nhất không phải về số người phải chết ( xét cho cùng thì mọi người sinh ra đều sẽ phải chết đi ) nhưng là hỏa ngục, tức là số phận đời đời của những kẻ không làm theo thánh ý Thiên Chúa trong cuộc đời này.

Ðức Mẹ cho chúng con ( ba trẻ tại Fatima ) thấy một biển cả lửa hồng dường như ở dưới mặt đất. Chìm ngập trong lửa này là quỷ dữ và các linh hồn dưới hình thể con người, giống như những cục than hồng trong suốt, đen đủi hoặc xám xịt. Họ nổi lên trong đám cháy, bị các ngọn lửa nâng lên cao, những ngọn lửa này phát ra từ thân mình họ cùng với một đám
khói lớn. Họ lại rớt xuống mọi phía, giống như những tia lửa trong một đám cháy lớn, vô trọng lượng hoặc mất thăng bằng, và giữa những tiếng la hét và rên rỉ vì đau đớn và tuyệt vọng, làm kinh khiếp chúng con và làm chúng con run lên vì sợ hãi. ( Bí mật thứ nhất Fatima ).

Ngày nay nói về hỏa ngục thì chẳng mấy ai còn sợ nữa. Các Linh Mục trên tòa giảng ít khi nói về hỏa ngục vì có vẻ hoang đường ấu trĩ làm sao đó. Nói về Lòng Thương Xót Chúa, rằng Chúa thương xót mọi người và sau cùng ai cũng được lên Thiên Đàng trọn gói thì hấp dẫn người ta hơn.

Mỗi khi đọc tin về cuộc tranh cử Tổng Thống Hoa Kỳ 2012 thì tôi lại thấy ngoại trừ cầu nguyện, hy sinh, lần chuỗi hạt Mai Khôi (tức là những phương thế được Đức Mẹ Fatima đề ra ) thì không còn sức mạnh nào khác còn có thể cứu rỗi chúng ta.

– Ngày 10.2.2012 Tổng thống Obama ký Sắc Lệnh (HHS Mandate ) bắt buộc tất cả các cơ sở tôn giáo ( mà Công Giáo là đối tượng chính ) phải tài trợ cho nhân viên ngừa thai và phá thai.

– Ngày 9.5.2012 lần đầu tiên một Tổng thống Hoa Kỳ đương nhiệm, ông Obama lên tiếng công khai ủng hộ hôn nhân đồng tính.

– Ngày 3.9.2012 Đại Hội đảng Dân Chủ tại Charlotte, North Carolina đã biến thành một cuộc liên hoan ầm ĩ chào mừng chiến thắng của phong trào phá thai (được núp dưới mỹ từ quyền tự do chọn lựa của phụ nữ ).

Suy nghĩ cho kỹ thì ông Obama chỉ là một cá nhân, đảng Dân Chủ chỉ là một đảng phái chính trị. Đàng sau ông Obama và đảng Dân Chủ còn có đại đa số dân chúng Hoa Kỳ theo Thiên Chúa Giáo đã bỏ phiếu cho ông vào năm 2008 và vẫn đang ủng hộ ông vào năm 2012 ( theo cuộc thăm dò của CNN vào ngày 24.8.2012 thì 49% người Mỹ vẫn tán đồng ông Obama so với 47% theo phe ông Rommey là người chống đối phá thai ).

Obama chỉ là một chính trị gia thừa gió bẻ măng, chiều theo nguyện vọng của đa số cử tri để tiến thân trên con đường sự nghiệp. Mỗi cá nhân có thể có những khuynh hướng khác nhau. Tôi không thể ép người khác phải  theo lập trường của tôi. Nhưng khi một dân tộc với đa số theo Thiên Chúa Giáo bỏ ngoài tai mọi hướng dẫn của Giáo Hội là người đại diện cho Chúa để tự đặt ra và quyết định cho mình những gì chỉ thuộc về quyền hạn của Chúa thì đất nước đó sẽ đi về đâu ?

Sự sống là của Chúa và chỉ có Chúa mới có quyền quyết định trên sự sống của một thai nhi. Những người ủng hộ phá thai nói rằng sự sống của thai nhi là của người mẹ vì thế người mẹ có quyền giữ con hay giết con. Trong trường hợp này người mẹ đã muốn trở thành Thiên Chúa.

Hôn nhân do Chúa thiết lập khi tạo dựng con người có nam có nữ nhằm mục đích thánh hóa con người và truyền sinh. Những người ủng hộ hôn nhân đồng tính nói rằng hôn nhân là sự kết hợp giữa hai cá nhân, có thể giữa hai người nam hoặc giữa hai người nữ với nhau.
Những người này đã muốn trở thành Thiên Chúa khi bác bỏ mục đích truyền sinh của hôn nhân.

Nhưng họ không phải chỉ là một thiểu số nhưng là đa số trong một dân tộc của một đất nước hùng mạnh nhất thế giới, có tầm ảnh hưởng vô song về chính trị, kinh tế, văn hóa trên toàn nhân loại. Một dân tộc đã luôn in lên đồng dollars của mình câu khẳng định “Chúng Con Tin Vào Chúa” ( In God We Trust ) mà đang trược dốc ra khỏi con đường của Chúa như thế sẽ đi về đâu và nhân loại này sẽ đi theo về đâu ?

Trong khi đó những lời nhắc nhở của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ luôn bị chính những người Công Giáo thờ ơ. Chung quanh ông Obama luôn có những nhân vật quyền thế nhất là người Công Giáo triệt để ủng hộ ông. Trong số những người sẽ bỏ phiếu cho ông Obama được tiếp tục nhiệm kỳ hai chắc chắn có rất đông người Công Giáo. Khi đó ông sẽ tha hồ đẩy việc phá thai lên tầm cao mới, hàng loạt các cơ sở Công Giáo sẽ phải đóng cửa nếu không tài trợ cho phá thai ( tức là phản bội và bán đứng Chúa Giêsu như Giuđa đã từng làm ).

Đối với những người nghèo và thất nghiệp thì chắc chắn tiền trợ cấp là cực kỳ quan trọng. Vì quyền lợi này họ sẽ đặt Thiên Chúa xuống hàng thứ yếu.

Đối với những người nhập cư lậu thì không có gì quan trọng cho bằng được hợp pháp hóa quyền ở lại Hoa Kỳ. Vì thế thân nhân của họ sẽ ủng hộ ông Obama.

Đối với nhiều cô gái lỡ có thai ngoài ý muốn và gia đình của họ, giết đi một bào thai xem ra là giải pháp tốt đẹp nhất nên họ ủng hộ đảng Dân Chủ.

Tôi có dịp trao đổi với một số vị cao niên Công Giáo Việt Nam từ Mỹ về, họ đều cho biết sẽ bỏ phiếu cho Obama tại vì tiền hưu dưỡng của họ sẽ được nhiều hơn. Khi tôi hỏi họ có quan tâm về chủ trương phá thai của Obama không thì họ nói rằng hơi sức đâu mà lo chuyện bao đồng !

Đứng trước một trào lưu nhân loại hùng mạnh như thế dù có năng nổ hoạt động cách mấy chúng ta cũng đành bất lực.Tiếng nói của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ cũng chỉ như gió thoảng vào nhà trống.

Chúng ta chỉ còn biết như Phêrô sau khi đã kiệt sức đánh cá suốt đêm thâu, ta vẫn phải luôn luôn làm một cái gì đó cho người nghèo bị bỏ rơi, mà không bắt được một con cá nào. Qua cầu nguyện chúng ta phải nhận ra Chúa Giêsu đang đi trên mặt nước để đến với ta, và phải nghe được Lời Chúa nói: Hãy thả lưới bên phải mạn thuyền. Ta vẫn phải bỏ lưới xuống. Khi làm theo lời đó ta đã có một hoạt động phát xuất từ cầu nguyện. Mọi việc còn lại Chúa sẽ làm cho ta.

 

NGUYỄN TRUNG, 9.2012

ĐỒNG TIỀN LIỀN CHỨC VỤ ĐỂ LÀM GÌ?

ĐỒNG TIỀN LIỀN CHỨC VỤ ĐỂ LÀM GÌ?

Lm Bùi Trọng Khẩn

Không ai phủ nhận giá trị và hấp lực của tiền của vật chất. Vì “Tiền là tiên là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng để che thân, là cán cân của công lý, là chân lý cuộc đời”.

Trong Tin mừng có rất nhiều chỗ nói về Chúa Giêsu liên quan đến tiền của. Dụ ngôn những nén bạc (Mt 25, 14-30; Lc 19,11-27) ; Dụ ngôn đồng bạc bị đánh mất (Lc 15,8-10) ; Dụ ngôn người quản gia bất lương (Lc 16,1-8) ; Dụ ngôn tên mắc nợ không biết xót thương (Mt 18,23-35). Ngài cũng nói đến mối nguy hiểm của nó: Chuyện người thanh niên có nhiều của cải (Mt 19,16-22) ; Người giầu có khó vào Nước Trời (Mt 19,23-26) ; Dụ ngôn ông nhà giầu và Lagiarô nghèo khó (Lc 16,19-31) ; Đức Giêsu đánh đuổi những người đang mua bán trong đền thờ (Mt 21,12-17) ; Xức dầu thơm tại Bê-ta-ni-a (Ga 12, 4-6) ; Giuđa nộp Đức Giêsu
(Mt 26,14-16) cũng vì tiền rồi Giuđa đi thắt cổ (Mt 27,3-10). Cho nên Ngài cũng khiển trách người Pharisêu ham tiền (Lc16,14-15) ; khi sai 12 tông đồ (Lc 9,1-6) và 72 môn đệ đi rao giảng (Lc 10,4) Ngài cũng dặn họ đừng mang tiền bạc. Nhưng trong hành trình truyền giáo của mình, Đức Giêsu cũng cần đến tiền của khi phải nộp thuế cho Xê-da (Mt 22,15-22 ; Lc 20,20-26); trước khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều (Ga 6, 5); vì thế, đã có những người phụ nữ lấy tiền của của mình để giúp đỡ cho Chúa và các môn đệ (Lc 8,1-3). Cuối cùng, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta phải nhìn thấy nơi tiền của có một giá trị tương đối : Hai đồng tiền nhỏ của bà góa (Lc 20,1-4) nên phải biết sử dụng nó một cách đúng ý nghiã và mục đích : Bán của cải đi mà bố thí (Lc 12,33-34) ; Khi đãi khách hãy mời những người nghèo khó (Lc 14,12-14) ; và Trung tín trong việc sử dụng tiền của (Lc 16, 9-12). Đó là một minh chứng thực tế về tiền của là con dao hai lưỡi.

Cao hơn nữa”con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có nơi gối đầu” (Lc 9, 58). Vậy “là đầu giáo đoàn, các linh mục sẽ thực hiện hiện đời sống tu trì riêng biệt của các Chúa chiên : từ bỏ những tiện nghi cá nhân, không tìm kiếm lợi ích riêng tư của mình, mà công ích đông đảo quần chúng, để họ được cứu rỗi(1Cr 10,23) (số 13).

“Trên thực tế, nhiều người chọn sai đường. Không những không biết sợ, mà còn hãnh diện. Nếu cả đến người môn đệ Đức Kitô, mà lại sống đời hưởng thụ ở mức độ cao, ít cầu nguyện, nghèo bác ái, ngại dấn thân, không thường ngày tập luyện nhân đức, không nhận thấy sự có Chúa trong mình và thực thi ý Chúa mới là tài sản lớn nhất của mình, thì còn đâu là chứng nhân cho sự lựa chọn con đường Chúa muốn. Hơn nữa, con đường thênh thang lại được người môn đệ Chúa bình thường hoá, thì người đời sẽ dễ bị dụ dỗ theo gương sai lầm đó.
Chính mình đi sai đường, lại khuyến khích người khác đi theo mình. Sự kiện này rất nguy hiểm” (Đức cha GB. Bùi Tuần, Hãy biết sợ, báo CGDT số 1483, trang 17).

“Chúa Giêsu, Đấng vốn giầu có, đã vì chúng ta trở nên nghèo, để chúng ta được giàu có bởi sự nghèo khó của Người (2 Cr 8, 9). Mẫu gương tuyệt vời đó dạy ta”Nhớ rằng ân huệ  mình lãnh nhận là nhưng không, linh mục sẽ sẵn sàng ban cho nhưng không và sử dụng vào thiện ích của giáo hội và vào các việc bác ái tất cả những gì mình nhận được khi thi hành phận vụ sau khi bảo đảm cuộc sống và chu toàn mọi bổn phận của đấng bậc mình. Xét cho cùng mặc dù ngài không sống đức khó nghèo do lời khấn công khai, linh mục vẫn phải sống một cuộc sống giản dị và xa lánh hết những gì là phù phiếm, tự nguyện sống khó nghèo để theo sát Đức Kitô. Trong mọi lãnh vực (nhà ở, phương tiện đi lại, nghỉ ngơi….) linh mục phải loại trừ mọi kiểu cách và xa hoa(Chỉ nam LM tr.73). “Sống bình dị trong cách ăn mặc là biểu hiện một tâm hồn đơn sơ rộng rãi và không cố chấp, đó là đức hạnh của linh mục. Sống bình dị trong cách ăn uống là biểu hiện một tâm hồn đạo đức hi sinh và vui  tươi, đó là đức hạnh cuả linh mục”(Lm.Nhân tài, tr. 88). Phải xếp đặt nhà ở mình làm sao cho mọi người có thể lui tới, và không một ai, dù là kẻ nghèo hèn, phải sợ hãi không dám lui tới”(17).

Linh mục, tu sĩ phải chứng minh cho sự hiện diện của Đức Kitô là Đấng đã đến “không phải để cho người ta hầu hạ nhưng để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10, 46 ; x.Ga 13, 12-17) ; “tôi đến cho chúng được sống dồi dào” (Ga 10,10). Cũng như bắt chước Phaolô “trở nên tôi tớ mọi người hầu cứu chuộc được nhiều người hơn”
(1Cr 9,19).

Như vậy, quyền hành trong giáo hội là để phục vụ. “Tôi tạ ơn Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta, Đấng đã ban sức mạnh cho tôi, vì Người đã tín nhiệm mà gọi tôi đến phục vụ  người” ((1Tm 1,12). “Vì thế, chúng tôi kêu gọi anh chị em hãy nỗ lực và kiên trì dấn thân, để vừa xoa dịu nỗi khổ đau của anh chị em đồng loại, vừa làm cho Chúa Giêsu thực sự hiện diện trong lòng xã hội chúng ta đang sống”(thư HĐGMVN, Sống đạo hôm nay, vai trò của linh mục và tu sĩ, số 8). Thật là đẹp đẽ hình ảnh người tông đồ Chúa Giêsu sống như
Ngài là”mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ
của chúng ta”.

Gần thời đại chúng ta có những con người thánh thiện đã qua đi,  nhưng gương sáng và lời dạy còn nóng hổi. Như Mẹ Têrêxa Calcutta: “việc yêu thương luôn đem lại bình an. Yêu thương là trái cây có quanh năm trong tầm tay hái của mọi người”. Như  ĐHY Px. Nguyễn Văn Thuận nói: nghệ thuật yêu thương đó là yêu thương như Đức Giêsu (bởi vì Người là tình yêu). Nghệ thuật yêu thương đó là yêu thương như Mẹ Maria. Và Mẹ Têrêxa Calcutta phát biểu: “Để yêu mến một người cần phải tiến tới gần người đó…Tôi không bao giờ
săn sóc các đám đông mà chỉ săn sóc các con người cụ thể thôi” (Chúa mang cho con tình yêu, Roma 1979, tr.48). Yêu thương là cách loan báo Tin mừng tốt nhất vì đạo chúng ta là đạo yêu thương-bác ái.

Một cách năng động hơn là luôn ý thức rằng “khi làm điều thiện, chúng ta đừng nản chí, vì đến mùa chúng ta sẽ được gặt, nếu không sờn lòng. Vậy bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người, nhất là cho những anh em trong cùng đại gia đình đức tin” (Gl 6,9-10) như thánh Augustinô đã tâm sự : vì anh em tôi là linh mục, với anh em tôi là kitô hữu. Đúng thế, “Thiên Chúa luôn luôn gọi các linh mục của Người từ các môi trường
nhân loại cũng như từ các giáo hội nhất định; các linh mục không thể không mang đậm những dấu ấn của những môi trường đó để phục vụ Tin mừng của Đức Kitô” (Tông Huấn các mục tử, số 5).

Quảng đại cho ®i còn bộc lộ bằng sự hiệp thông dựa trên nền tảng tình yêu cứu chuộc của Đức Kitô, niềm khao khát mãnh liệt hoà giải nhân loại với Thiên Chúa. Nên hãy tránh tìm lợi lộc cá nhân, phe nhóm chủ nghĩa, mua tiếng khen danh vọng ; vô tình tạo ra hàng rào biên giới trong cộng đoàn hay giữa giáo xứ này với giáo xứ kia, tầng lớp này với tầng lớp khác. Thời đại cần chứng nhân hơn thầy dạy, không có nghĩa là coi thường thầy dạy nhưng đề cao giá trị của lời nói đi đôi với việc làm, nhất nữa là sống theo gương mẫu Đức Kitô
sống chết vì đoàn chiên, đến để được phục vụ người ta và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.

Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ rằng : “Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi để được sống muôn đời, và như thế cả kẻ gieo lẫn người gặt đều hớn hở vui mừng. Thật vậy, câu tục ngữ kẻ này gieo người kia gặt quả là đúng! Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả; còn anh em, anh em được vào hưởng kết quả công lao của họ” (Ga 4, 36-38).

Lm Bùi Trọng Khẩn

nguồn:Maria Thanh Mai gởi

SINH NHẬT ĐỨC BÀ

SINH NHẬT ĐỨC BÀ

 

“Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói:

‘Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng,

Đức Chúa ở cùng bà.'”

(Lu-ca 1:28)

 

Kính mừng Sinh Nhật Đức Bà

Cuộc đời Thánh Mẫu thật là đẹp thay

Diệu huyền không mấy ai hay

Gia đình nghèo khó, rủi may phận người

Hôm nay ngày rất cao vời

Cõi trần nhờ Mẹ sáng ngời niềm vui

Xóa tan tuyệt vọng, tối thui

Khổ đau thần chết đẩy lui hoàn toàn

Giê-su nhập thể huy hoàng

Đêm đông thiên sứ từng đoàn hát ca

Hồng ân kỷ niệm thiết tha

Ma-ri-a hỡi, bao la cửu trùng

Ngôi Hai Cứu-Chúa ở cùng

Phàm nhân hạnh phúc, khắp vùng hân hoan!

 

* Nguyễn Sông Núi

 

(Tv Thánh Gioan Neumann, Dallas, TX,

Sinh Nhật Trinh Nữ Maria, Sept. 9, 2012)

 

 

AI LÀ THẦY CỦA NGÀI ?

AI LÀ THẦY CỦA NGÀI ?

 

Khi Hasan, một nhà hiền triết Hồi giáo sắp qua đời, có người hỏi ông:

“Thưa Hasan, ai là thầy của ngài?”

Hasan đáp: “Những người thầy của ta nhiều vô kể. Nếu điểm lại tên tuổi của
các vị ấy hẳn sẽ mất hàng tháng, hàng năm, và như thế lại quá trễ vì thời gian
của ta còn rất ít. Nhưng ta có thể kể về ba người thầy sau của ta.

Người đầu tiên là một tên trộm. Có một lần ta đi lạc trong sa mạc, khi ta tìm
đến được một khu làng thì trời đã rất khuya, mọi nhà đều đi ngủ cả. Nhưng cuối
cùng ta cũng tìm thấy một người, ông ta đang khoét vách một căn nhà trong làng.
Ta hỏi ông ta xem có thể tá túc ở đâu, ông ta trả lời:

“Khuya khoắt thế này thật khó tìm chỗ nghỉ chân, ông có thể đến ở chỗ tôi nếu ông
không ngại ở chung với một tên trộm.”

Người đàn ông ấy thật tuyệt vời. Ta đã nán lại đấy hẳn một tháng! Cứ mỗi đêm
ông ta lại bảo: “Tôi đi làm đây. Ông ở nhà và cầu nguyện cho tôi nhé!” Mỗi khi ông ta trở về ta đều hỏi: “Có trộm được gì không?” và ông ta đều đáp: “Hôm nay thì chưa, nhưng ngày mai tôi sẽ cố, có thể lắm chứ”. Ta chưa bao giờ thấy ông ta trong tình trạng tuyệt vọng, ông ta luôn hạnh phúc.

Có lần ta đã suy ngẫm và suy ngẫm trong nhiều năm ròng để rồi không ngộ ra được
một chân lý nào. Ta đã rơi vào tình trạng tuyệt vọng, tuyệt vọng đến nỗi ta nghĩ mình phải chấm dứt tất cả những điều vô nghĩa này. Ngay sau đấy ta chợt nhớ đến tên trộm, kẻ hằng đêm vẫn quả quyết:

“Ngày mai tôi sẽ làm được, có thể lắm chứ!”

Người thầy thứ hai là một con chó. Khi ta ra bờ sông uống nước, có một con chó
xuất hiện. Nó cũng khát nước. Nhưng khi nhìn xuống dòng sông, nó thấy cái bóng
của mình nhưng lại tưởng đó là một con chó khác.

Hoảng sợ, nó tru lên và bỏ chạy. Nhưng rồi khát quá nó bèn quay trở lại. Cuối
cùng, mặc nỗi sợ hãi trong lòng, nó nhảy xuống sông và cái bóng biến mất. Ta
hiểu đây là một thông điệp đã được gửi đến cho ta:  Con người phải biết chiến thắng nỗi sợ trong lòng bằng hành động.

Người thầy cuối cùng là một đứa bé. Ta đến một thành phố nọ và thấy một đứa bé
trên tay cầm một cây nến dã thắp sáng để đặt trong đền thờ. Ta hỏi đứa bé:

“Con tự thắp cây nến này phải không?”

Đứa bé đáp:

“Thưa phải.”

Đoạn ta hỏi:

“Lúc nãy nến chưa thắp sáng, nhưng chỉ một thoáng sau đã cháy sáng. Vậy
con có biết ánh sáng từ đâu đến không?”

Đứa bé cười to, thổi phụt ngọn nến và nói:

“Ngài thấy ánh sáng đã biến mất, vậy ngài bảo ánh sáng đã đi đâu?”

Cái tôi ngạo nghễ của ta hoàn toàn sụp đổ, pho kiến thức kim cổ của ta cũng sụp
đổ theo. Lúc ấy ta nghiệm ra sự dốt nát của bản thân. Và từ đó ta vất đi tất cả
những tự hào về kiến thức của mình.

Đúng là có thể nói ta không có một ai là thầy, nhưng điều này không có nghĩa ta
không phải là một học trò. Ta xem vạn vật là thầy.

Tinh thần học hỏi của ta luôn rộng mở hơn tất cả các người. Ta học hỏi từ tất cả mọi vật, từ cành cây ngọn cỏ đến đám mây trên trời kia.

Ta không có một người thầy vì ta có hàng triệu triệu người thầy mà ta đã học được mỗi khi có thể. Điều thiết yếu trong cuộc sống là luôn làm một học trò.

Điều này có nghĩa là gì?

Nghĩa là có khả năng học hỏi, luôn sẵn sàng học để biết chấp nhận ý nghĩa của vạn vật.

nguồn: Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

 

Lịch sử ngày Thánh Mẫu

Lịch sử ngày Thánh Mẫu
image
“Năm 2012”là tựa đề một cuốn phim rất nổi tiếng cách đây 3 năm, cuốn phim mô
tả một thiên tai như lụt thời Noe tận diệt nhân loại mà những người còn sống sót sẽ là tinh hoa của nhân loại không phải về mặt trí tuệ nhưng là nhân ái và yêu thương.
Ngày Thánh Mẫu 2012 đặc biệt hơn mọi năm, vì đây là một cái mốc đặc biệt để
nhìn lại những điều kỳ diệu Chúa và Mẹ Maria đã thực hiện suốt 35 năm qua cho những người sống sót trong cuộc đào thoát vượt biển tìm tự do. Hay nói đúng hơn đây là lần thứ 35 Mẹ qui tụ tất cả con cái Mẹ đang tản mác khắp nơi trên khắp thế giới lại dưới bóng Mẹ tại thành phố Carthage nhỏ bé này, để Mẹ yêu thương che chở và khẳng định với họ là Mẹ vẫn luôn hiện diện ở đó với họ để đồng hành và săn sóc họ dù họ có lưu lạc đến phương trời nào đi nữa. Để cảm nghiệm được NTM chính là công việc của Mẹ Maria, chúng ta hãy nhìn lại 10 ngày Thánh Mẫu đầu tiên.
image
Năm 1975, vâng lời người Anh Cả dấu yêu rời Việt Nam để bảo tồn Hội Dòng,
những tu sĩ Dòng Đồng Công đã mang theo trong tim mình ngọn lửa yêu mến
Mẹ và họ vẫn luôn khắc khoải làm thế nào để tôn vinh Mẹ và loan truyền lòng yêu mến Mẹ cho những đồng bào Việt Nam đang tha hương trên đất khách quê người.
image
Năm 1977, để thể hiện sự khát khao mong mỏi cho mọi người yêu mến Mẹ, các
bề trên Dòng đã quyết định tổ chức ngày tôn vinh Đức Mẹ và kêu mời những
người Việt Nam đang định cư tại các thành phố gần nhà Dòng đến tham dự.
Người đầu tiên làm trưởng ban tổ chức là linh mục Nguyễn Đức Thiệp, CMC. Số người tham dự có chừng hơn 500 người và nhà Dòng lo cả chỗ ngủ lẫn việc ăn uống của người hành hương. Vì lần này nhà Dòng đứng ra mời nên không gọi là Ngày Thánh Mẫu.
Ngày 3/6/1978 Ngày Thánh Mẫu lần đầu tiên được tổ chức với danh nghĩa là
“Ngày Đền Tạ Trái Tim Mẹ” do Nguyệt San Trái Tim Mẹ điều hành với số người tham dự là 1.540 người. Không có Giám mục nào tham dự mà chỉ có 28 linh mục. Thế nhưng Ngày Thánh Mẫu lần thứ hai diễn ra trong 3 ngày 1-3/6/1979 không những con số người tham dự tăng lên gấp đôi, có Đức Hồng Y Carberry, Tổng Giám Mục St. Louis, MO và Giám mục sở tại là Đức Cha Benard Law chủ tọa mà còn có Cuộc cung nghinh Thánh Tượng Mẹ Fatima với việc máy bay tung hoa tươi và truyền đơn xuống địa điểm hành lễ.
image
Điểm qua mười NTM đầu tiên, cứ mỗi lần tổ chức là một lần nữa ghi đậm dấu ấn
lời hiệu triệu của Mẹ với con cái của mình, bắt đầu từ NTM thứ 3, khách hành hương đã thấy đến từ các tiểu bang xa như California, Florida….Dịp này ĐGM đã truyền chức Phó Tế cho 5 tu sĩ Dòng Đồng Công.
Đến NTM thứ 4, số người tham dự đã hơn 6.000 người. Lần đầu tiên, một ca
đoàn Tổng Hợp đầu tiên được thành lập gồm 14 ca đoàn thuộc một số cộng
đoàn và giáo xứ trên khắp nước Mỹ cùng góp tiếng trong thánh lễ Đại Trào
thứ Bảy 13/6/1981. Huy hiệu chính thức cho NTM đã được ban Tổ Chức chọn
là huy hiệu hình tam giác có hai bàn tay chắp đang lần chuỗi. Huy hiệu này do cố tu sĩ Carôlô M.Đinh Bá CMC họa tặng NTM và anh đã chết vì bệnh ung thư xương chỉ mấy tháng sau NTM thứ 4, huy hiệu này vẫn được dùng cho tới ngày nay chỉ thay đổi màu sắc và ngày tháng cho mỗi năm.
image
NTM thứ 5 bắt đầu vào ngày 13-15 tháng 8 năm 1982 thay vì tháng 6 như
trước, số người tham dự là 8.200 người. Lần này, ngoài ĐGM giáo phận còn
có Đức Cha Giacôbê Huỳnh Văn Của thuộc giáo phận Phú Cường tham dự.
image
Với con số vượt kỷ lục là 16.000 người đã về tham dự NTM thứ 6 được tổ chức
trong 3 ngày từ 12-14/8/1983. Trong lần tổ chức này, ĐGM giáo phận đã cắt băng khánh thành Công Trường Nữ Vương Hòa Bình với tượng Đức Mẹ Tỵ Nạn cao 34 feet. Một công trình được xây cất hơn 1 năm trời do cha Hòa CMC chủ trì với sự ủng hộ của một gia đình ẩn danh tại Port Arthur. Về mặt giáo quyền, lần đầu tiên Đức Khâm Sứ Tòa Thánh Pio Laghi tới tham dự NTM cùng 4 giám mục khác.
image
NTM thứ 7 từ  ngày 10-12-1984 trùng vào dịp kỷ niệm 2000 năm sinh nhật Đức
Trinh Nữ Maria. Chi Dòng Đồng Công được tổ chức Đạo Binh Xanh Quốc Tế
cho phép đón rước tượng Mẹ Fatima Thánh Du về đặt tại Đền Thánh Khiết
Tâm Mẹ. Đặc biệt năm nay có sự hiện diện của ĐTGM Ngô Đình Thục, nguyên
TGM địa phận Huế.
Hơn 22.000 người đã nô nức đổ về thành phố Carthage, Missouri để tham dự
NTM thứ 8 trong 3 ngày 9-11-1985, cũng là kỷ niệm 10 năm tha hương. Nhân
dịp này, cha Barnabas Nguyễn Đức Thiệp, Giám tỉnh Chi Dòng Đồng Công
Hoa Kỳ và cha Piô Nguyễn Quang Đán, trưởng ban tổ chức đặt vòng hoa tưởng niệm những người đã chết vì tự do và hòa bình trên biển cả và trong suốt cuộc chiến.
image
NTM thứ 9 trùng với dịp Chi Dòng Đồng Công Hoa Kỳ mừng kỷ niệm 33 năm thành
lập Dòng 1953-1986, đã có tới 30.000 người đổ về khuôn viên Nhà Dòng. Cũng trong dịp đặc biệt này, Đức Hồng Y Bernard Law và Đức Khâm Sứ Tòa Thánh tại Hoa Kỳ cũng đến tham dự NTM.
Từ NTM thứ 10, ban tổ chức đã quyết định thời gian để tổ chức NTM sẽ là 4
ngày từ 6-9/8/1987. Dịp này, 40.000 người đã về tham dự NTM để mừng kỷ
niệm 70 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima. Dịp này mọi người đã hướng về Cha
Bề Trên Đaminh Maria Trần Đình Thủ , Sáng Lập Dòng Đồng Công và một số
linh mục tu sĩ đang bị tù tại Việt Nam.
Từ đó NTM được tổ chức ngày một nề nếp hơn và số người tham dự tăng dần
lên cho đến năm 2011 vừa rồi có khoảng 65 ngàn người tham dự.
image
2011
image
image
Nếu có ai đó hỏi rằng điều đáng nói nhất trong 35 lần tổ chức NTM là gì?
Phải chăng đó là an ninh luôn được đảm bảo hay thời tiết tốt đẹp …cho dù
có đôi lần bị mưa, hay là nhà Dòng tổ chức, sắp xếp công việc chu đáo.
Xin thưa: Không phải, mặc dù đây là những yếu tố quan trọng trong việc
tổ chức. Điều đáng nói nhất ở đây chính là Mẹ Maria. Chính Mẹ đã chọn
thành phố nhỏ bé này, và chính Mẹ đã soi sáng, dẫn dắt muôn người từ
muôn phương về đây, không có sự quảng cáo hay sức mạnh nào có thể làm
cho hàng chục ngàn người bỏ giường êm, nệm ấm để đến NTM mấy ngày liền,
ngủ lều, nằm đất, chịu đủ thứ bất tiện. Ngoài Mẹ Maria không có một tổ
chức nào, một Hội Dòng nào có thể làm được như vậy. Hầu hết những người
đã đến tham dự NTM đều cảm nhận được Tình Mẹ Maria qua các bí tích, qua
thời tiết, an ninh…….để có thể nói NTM là “những ngày của Mẹ.”
Thiên Minh
Ngày thánh Mẫu năm 2012
Từ ngày 2 tháng 8 đến ngày 5 tháng 8 năm 2012
Tại Tỉnh dòng Đồng Công Hoa Kỳ, Carthage, Missouri, USA
Hằng năm lại có một kỳ
Đại Hội Thánh Mẫu Car-thage ai ơi
Rủ nhau xếp việc nghỉ ngơi
Carthage xum họp vui nơi tình người…
(Thơ của Joseph Khoa Nguyễn)
nguồn: Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

HAI BỨC HÌNH

HAI BỨC HÌNH

THẬT ĐAU LÒNG!
XIN CHUA XÓT THƯƠNG!

Chỉ cần nhìn 2 bức hình thấy thấm thía cho kiếp con người.

Hai hình ảnh thu hút hàng ngàn lượt bình luận trong thời gian ngắn.


Một bức chụp một đứa trẻ bị bỏ rơi, cuốn bao quanh thân hình bằng một tấm vải mỏng. Em được đặt trên trụ của lan can đường trong tình trạng côn trùng bò kín khắp người.

 

Cư dân mạng đang share hình ảnh đau lòng “một đứa trẻ bị bỏ rơi” khiến những người nhìn vào thật đau xót. (Nguồn: Facebook) Bức ảnh xuất hiện trên facebook vào 16h chiều ngày 11/8, ngay lập tức đã thu hút sự quan tâm của hàng ngàn người với những lời bình luận bày tỏ sự thương xót. Bạn trẻ có nickname Quỳnh Quắn Quít bày tỏ: “khổ thân đứa bé quá!”. Bạn Carolyn Le xúc động: “Nhìn xong muốn nổi da gà. Tội nghiệp bé!”. Cũng nhiều ý kiến phẫn nộ. Nickname Tiểu Xà viết : “Mong em sớm được siêu thoát. Thay mặt bố mẹ những người vô trách nhiệm với em, chị xin lỗi vì cảm thấy quá nhục nhã … Ngoài những “like” những “comment” thì chị không biết làm gì hơn là lời hứa sẽ không bao giờ biến mình thành người mẹ vô trách nhiệm … Rồi em sẽ là 1 thiên thần”. Nick name Lệ Hằng tỏ ra bất bình: “Niềm hạnh phúc của phụ nữ là đựợc làm mẹ, thế mà người mẹ này lại bỏ đi đứa con mà mình mang nặng đẻ đau ra nó. Người mẹ này là người thật nhẫn tâm và ác độc”… Bức ảnh thứ hai đăng tải ngày 14/8 trên mạng xã hội face book cũng gây xúc động đến rơi nước mắt.

 

Một bức ảnh cảm động rơi nước mắt. (Nguồn: Facebook) Bức ảnh được đăng lên chưa đầy 11 giờ mà đã nhận được hơn một ngàn lượt “like” và bình luận. Trong bức ảnh, theo nhiều người đó là một người đàn ông trung niên cõng người mẹ già của mình lên chùa thắp hương. Bức ảnh đã lay động tình mẫu tử của nhiều bạn trẻ. Nickname Rau Khoai viết: “Mẹ không có cánh, không vòng thánh. Nhưng trong mắt con mẹ vẫn là thiên thần.” Trong hàng ngàn lượt bình luận, câu nói được thốt lên nhiều nhất là: Con yêu mẹ! Con xin lỗi mẹ! Đây là cơ hội để nhiều bạn bầy tỏ tình cảm của mình với mẹ. Đôi khi chỉ là một câu nói mà chưa chắc ai cũng có thể nói ra. HaLy Phú tâm sự: “Thật tuyệt vời! Nhưng, rất ít người có thể nói được câu nói: “Con yêu mẹ”. Mình cũng chưa nói được.” Hai bức ảnh, hai hoàn cảnh hoàn toàn khác nhau, nhưng nó đều là tình mẫu tử nói riêng, và là tình người nói chung. Khi xã hội càng phát triển thì những tình cảm tốt đẹp của con người ngày càng bị bụi bặm của cuộc sống che lấp. Nhìn lại hai bức ảnh và có những khoảng lặng cho riêng mình, ta sẽ ngỡ ra nhiều điều…   

 Nhật Linh

 nguồn: Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

CHÂN PHƯỚC TÊRÊSA CALCUTTA NỮ TU (1910-1997)

 CHÂN PHƯỚC TÊRÊSA CALCUTTA NỮ TU (1910-1997)

 NGÀY 05 – 09

 

Mẹ Têrêsa Calcutta là một phụ nữ nhỏ bé về thể lý nhưng đã được cả thế giới nhận biết qua hành động yêu thương của Mẹ đối với những con người nghèo khổ nhất trong các người nghèo. 

Mẹ sinh tại Albani (nay là Skopje), Macedonia, lúc đó là một phần của đế quốc Ottoman. Tên thật của Mẹ là Agnes Gonxha Bojaxhiu, là con út trong 3 người con. Gia đình có một thời gian sống khá thoải mái nhờ công việc xây dựng của người cha phát đạt. Nhưng cuộc sống hoàn toàn thay đổi sau khi người cha đột ngột qua đời.

Trong những năm còn đi học, Mẹ Têrêsa tham gia một Hội Tương tế Công giáo và thích đi truyền giáo ở ngoại quốc. Lúc 18 tuổi, Mẹ vào Dòng nữ Loreto ở Dublin. 

Năm 1928, cô Agnes từ giã mẹ ruột lần cuối và đi tới miền đất mới với cuộc sống mới. Năm sau, cô Agnes được vào nhà tập ở Darjeeling, Ấn Độ. Từ đó cô lấy tên Têrêsa và chuẩn bị cho đời sống phục vụ. Cô được sai tới một trường nữ trung học ở Calcutta để dạy lịch sử và địa lý cho các nữ sinh con nhà giàu. Cô không thể không chú ý tới xung quanh là dân nghèo, khổ sở, cơ cực. Những hình ảnh đói nghèo bệnh tật đó cứ theo cô mãi. 



 

Năm 1946, khi đi xe lửa tới Darjeeling để cấm phòng, nữ tu Têrêsa nghe được điều mà về sau Mẹ giải thích là “ơn gọi trong ơn gọi”. Mẹ kể: “Sứ điệp rõ ràng. Tôi phải rời tu viện để giúp đỡ người nghèo khi sống giữa họ”. Vì Mẹ nghe tiếng gọi rời khỏi Dòng nữ Loreto để “theo Chúa Kitô đến những khu nhà ổ chuột để phục vụ Ngài giữa những người nghèo nhất trong những người nghèo”. 

  Sau khi được phép rời Dòng Loreto, Sơ TÊRÊSA lập một dòng mới và đảm trách công việc mới. Sơ học y tá vài tháng rồi trở lại Calcutta, tại đây Sơ sống trong những khu nhà ổ chuột và mở trường học cho trẻ em. Mặc sari trắng (sari là trang phục phụ nữ thường nhật cũa người dân Ấn Độ) và đi dép, Sơ mau chóng được người ta biết là một bà tốt bụng, hàng xóm của họ – nhất là những người nghèo và bệnh tật, Sơ biết nhu cầu của họ qua những lần thăm viếng họ. Sơ chọn Sari là thường phục và cũng là tu phục của dòng. 

Công việc mệt nhọc, nhưng Mẹ được nhiều người tình nguyện tới giúp, một số là học sinh cũ của Mẹ, và đó là những người nòng cốt của Dòng Truyền giáo Bác ái._ Những người khác giúp đỡ bằng cách cho lương thực, quần áo, đồ dùng, nhà cửa,… 

 

Năm 1952, thành phố Calcutta tặng Mẹ một cơ sở cũ, Mẹ dùng làm nhà cho những người hấp hối và nghèo khổ. Khi dòng phát triển nhiều, dòng còn phục vụ các trẻ mồ côi, các trẻ bị bỏ rơi, người nghiện rượu, người già và những người vô gia cư.

 Trong hơn bốn mươi năm, bà chăm sóc người nghèo, bệnh tật, trẻ mồ côi, người hấp hối, trong khi hoàn tất nhiệm vụ lãnh đạo dòng tu phát triển khắp Ấn Độ, và đến các quốc gia khác.

 
Năm 1970, Mẹ Teresa trở nên một nhân vật nổi tiếng thế giới với các hoạt động nhân đạo cứu giúp người nghèo và những người sống trong hoàn cảnh tuyệt vọng. Một phần người ta biết rõ hơn về Mẹ cũng là nhờ một quyển sách và cuốn phim tài liệu tựa đề Something Beautiful for God của Malcome Muggeridge. Mẹ được trao Gải Nobel Hòa Bình năm 1979 một sự vinh danh cho các hoạt động nhân đạo của Mẹ.  
Dòng Thừa sai Bác ái của Mẹ Teresa tiếp tục phát triển, đến thời điểm Mẹ từ trần, tổ chức từ thiện dồng tu của Mẹ đang điều hành 610 cơ sở truyền giáo tại 123 quốc gia, trong đó có các nhà trọ và nhà tình thương cho người mắc bệnh HIV/AIDS, cũng như bệnh nhân phong hủi, và lao. Các bếp ăn từ thiện, các chương trình tư vấn cho gia đình và trẻ em, các trại mồ côi, và trường học. 

 


Me được mời giảng cho Hội Đồng Giám Mục Thế Giới 

Nhưng Thiên Chúa đã gọi Mẹ ra về vào ngày 5-9-1997. Nước Ấn Độ đã làm Quốc Tang cho Mẹ. Mẹ đã được cả thế giới ngưởng mộ kính yêu, và thương tiếc 



Ngày 19-10-2003, trong một nghi thức của giáo hội, chân phước GH Gioan Phaolô II đã tuyên bố Mẹ Têrêsa là chân phước trước 300.000 khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô, trong đó có hàng trăm nữ tu Dòng Truyền giáo Bác ái (Missionaries of Charity) mà chính Mẹ đã thành lập năm 1950 (thuộc dòng giáo phận). Ngày nay dòng còn phát triển thêm các dòng chiêm niệm nam và nữ, có cả dòng cho các linh mục. 



Trong bài giảng, CP GH Gioan Phaolô II đã gọi Mẹ têrêsa là “một trong những nhân cách xứng đáng của thời đại chúng ta” và là “hình ảnh của người Samari nhân hậu”. Ngài nói rằng cuộc đời của Mẹ Têrêsa là “bản tuyên ngôn can đảm của Phúc âm”. Mẹ Têrêsa được phong chân phước chỉ sau 6 năm Mẹ qua đời. 

TS. sơ lược

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Giáo Dục Bi Thảm

Giáo Dc Bi Thm

                                                                                      (09/03/2012)

                                                                              trích: Vietbao.com

Bạn thân,
Một thời chúng ta nhìn các thầy giáo, cô giáo như những vị thần linh… nhưng bây giờ thì không như thế nữa.

Một thời, chúng ta lắng nghe các thầy cô nói từng lời, nghiền ngẫm từng chữ… và không bao giờ chất vấn, nghi ngờ gì hết. Bởi vì, thầy cô nói bằng tấm lòng muốn trao truyền kiến thức, và muốn chúng ta giỏi, muốn chúng ta siêng năng, và muốn chúng ta thành công ngoàì đời.

Thầy cô là những người cho chúng ta chữ, cho chúng ta hiểu về cuộc đời, cho chúng ta hiểu về ẩn nghĩa của Truyện Kiều, khi nàng tuyệt sắc Thúy Kiều bị xã hội xô đẩy vào lầu xanh, cũng y hệt như những tinh hoa đẹp nhất của giới trí thức thời cụ Nguyễn Du bị lịch sử xô đẩy, trong đó có những người phảỉ bán đi sự lương thiện…

Bây giờ thì khác. Báo Tuần Việt Nam qua bài viết của tác giả Nguyễn Trọng Bình đã nêu vấn đề ngay ở tựa bài: “Giáo dục có đang… ‘vô cảm’?” Bài viết đầy những hình ảnh đau đớn của nền giáo dục, chuyện chạy trường, chạy bằng cấp, chạy việc… trích như sau:

“…Khoảng mươi năm trở lại đây trong ngôn ngữ tiếng Việt bỗng xuất hiện một từ mới: “Chạy trường”. Hiểu một cách nôm na “chạy trường” là cách mà các quý vị phu huynh của các em học sinh, sinh viên từ bậc học mẫu giáo cho đến đại học phải bỏ tiền ra để nhờ vả, chạy chọt cho con em họ có cơ hội vào học ở những ngôi trường phần nhiều được đánh giá là có “chất lượng tốt”.

Những trường này thường được  “bảo chứng” bằng những mỹ từ như: Trường đạt chuẩn quốc gia, trường chuyên, trường điểm, hay trường quốc tế…. Hoặc có khi “chạy trường” với mong ước con em mình được học ở những ngôi trường gần nhà để nhằm tiện lợi cho việc chăm sóc và đưa đón con em lúc đến trường.

Có ai ngờ những đứa trẻ chỉ mới bắt đầu vào mẫu giáo mà cha mẹ của chúng phải tất tả ngược xuôi để tìm một chỗ xứng đáng. Để được người ta “ươm mầm” sự… giả dối trong sự đổi chác và thực dụng….

Vấn đề “chạy bằng cấp và chạy kiến thức” chủ yếu xảy ra từ cấp trung học phổ thông trở lên. Ở cấp học này chuyện “chạy bằng cấp và kiến thức” nhìn chung là do hậu quả của việc tổ chức thi cử “tưởng là nghiêm túc nhưng kì thực là rất lỏng lẽo” mà ra.

Cuộc khảo sát của 1 nhóm nghiên cứu về việc gian lận trong thi cử đối với 500 học sinh mới đây là 1 minh chứng rõ ràng nhất cho vấn đề này. Có tới 400 em học sinh thừa nhận mình có gian dối trong thì cử với nhiều hình thức khác nhau…

Đối với những cấp bậc cao hơn như đại học, hay sau đại học thì việc chạy bằng cấp và kiến thức rõ ràng nhất là ở khâu thực hiện đề tài luận văn (cử nhân), luận án (thạc sĩ, tiến sĩ) tốt nghiệp.

Đây còn là 1 đại nạn, 1 thực trạng đáng xấu hổ nhất trong hệ thống giáo dục đại học và sau đại học ở nước ta hiện nay.

Xấu hổ là vì ngay chính bản thân những thầy cô giáo toàn những thạc sĩ, tiến sĩ, phó giáo sư, GS… nhưng có không ít người đã không ngần ngại nhận phong bì từ sinh viên, học viên của mình để rồi châm chước và cho qua những luận văn, luận án không xứng đáng mà mình hướng dẫn hay phản biện.

Đau đớn hơn có người còn ra giá với học trò của mình và nếu như học trò nào đó không biết “vâng lời” thì có khi phải nhận lấy những hậu quả xấu. Những việc làm này rõ ràng chỉ có thể nói đó là sự “mất nhân tính” của những con người vốn đang gánh trên vai trọng trách “trồng người” cho xã hội….

Và “chạy việc”

Một sinh viên để có thể cầm trên tay mảnh bằng đại học (ít nhất là 4 năm) phải đánh đổi không biết bao nhiêu công sức và tiền bạc của gia đình. Đến khi ra trường các em phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt của xã hội trong hành trình xin việc để tự lập, mưu sinh.

Thế nhưng vẫn có những người thầy không ngần ngại “ra giá” với các em về một chỗ làm nào đó nhờ sự quen biết của họ. Thử hỏi học trò mới ra trường thì làm gì có tiền (từ vài chục đến vài trăm triệu) để đưa cho thầy cô mong có được chỗ làm…”

Làm sao bây giờ? Làm sao tìm ra những người thầy thơ mộng nhiều thập niên trước… Chắc chắn vẫn còn đó, ở đâu đó, vẫn còn những thầy giáo, những cô giáo thật tâm quan tâm tới các em… Thật là may mắn, là đại cơ duyên cho những ai gặp các vị thầy đáng kính như những trang sách cổ.

Thánh Grêgôriô Cả

Thánh Grêgôriô Cả

(540?–604)

   Trong cuộc đời Thánh Grêgôriô Cả, sự nghiệp sau nổi tiếng hơn sự nghiệp trước. Ngài là trưởng thánh bộ Rôma trước khi 30 tuổi. Năm năm sau đó, ngài từ chức, sáng lập sáu đan viện trên các phần đất của ngài ở Sicilia và chính ngài là một tu sĩ dòng Biển Ðức (Benedictine) ở Rôma.

 Sau khi thụ phong linh mục, ngài là một trong bảy phó tế của đức giáo hoàng, và ngài còn giữ chức vụ sứ thần tòa thánh ở Constantinople, Ðông Phương. Sau đó ngài được gọi về làm đan viện trưởng, và vào lúc 50 tuổi, ngài được chọn làm giáo hoàng bởi hàng giáo sĩ và giáo dân Rôma.

 Ngài thẳng tính và kiên quyết. Ngài cách chức các linh mục bất xứng, cấm không được lấy tiền khi phục vụ, và ngài lấy tất cả quỹ riêng của đức giáo hoàng để chuộc các tù nhân bị phe Lombard bắt, săn sóc những người Do Thái bị bách hại và các nạn nhân của nạn dịch tễ cũng như nạn đói kém. Ngài rất lưu tâm đến việc trở lại của nước Anh nên đã sai 40 đan sĩ của Ngài đến hoạt động ở đây. Ngài nổi tiếng vì những cải cách phụng vụ, và củng cố sự tôn trọng học thuyết. Người ta đang tranh luận xem có phải chính Ngài là người chịu trách nhiệm phần lớn nhạc bình ca (Gregorian) hay không.

 Thánh Grêgôriô sống trong giai đoạn luôn luôn có bất hòa vì sự xâm lăng của phe Lombard và vì những tương giao khó khăn với Giáo Hội Ðông Phương. Khi Rôma bị tấn công, chính Ngài là người đến chất vấn vua Lombard.

 Một sử gia Anh Giáo đã viết: “Không thể nào tưởng tượng được những gì sẽ xảy ra trong thời Trung Cổ–thật lộn xộn, vô trật tự–nếu không có triều đại giáo hoàng; và nói về giáo hoàng của thời trung cổ, vị cha chung đích thực là Ðức Grêgôriô Cả.”

 Cuốn sách của ngài, Cách Chăm Sóc Mục Vụ, nói về nhiệm vụ và đặc tính của môt giám mục, đã được đọc trong bao thế kỷ sau khi ngài chết. Ngài diễn tả vị giám mục chính yếu như một y sĩ mà nhiệm vụ chính là rao giảng và duy trì kỷ luật. Trong các bài giảng thực tế của ngài, Thánh Grêgôriô có tài áp dụng phúc âm hàng ngày vào nhu cầu đời sống của giáo dân. Ðược gọi là “Cả”, Thánh Grêgôriô được nâng lên một vị trí ngang hàng với Thánh Augustine, Thánh Ambrôsiô và Thánh Giêrôme như một trong bốn vị tiến sĩ nòng cốt của Giáo Hội Tây Phương.

 Lời Bàn

Thánh Grêgôriô thích là một đan sĩ, nhưng ngài sẵn sàng phục vụ Giáo Hội trong các phương cách khác khi được yêu cầu. Ngài đã hy sinh những sở thích của ngài trong nhiều phương cách, nhất là khi làm Giám Mục Rôma (Giáo Hoàng). Một khi được kêu gọi để phục vụ công ích, Thánh Grêgôriô đã dùng hết khả năng để chu toàn nhiệm vụ.

 Lời Trích

“Nói cho cùng có lẽ không khó để người ta từ bỏ của cải, nhưng chắc chắn là thật khó để từ bỏ chính mình. Khước từ những gì mình có là chuyện nhỏ; nhưng khước từ cái tôi của mình, đó mới thật đáng kể” (Thánh Grêgôriô, Bài Giảng về Phúc Âm).

 Maria Thanh Mai gởi

SỰ THẬT

SỰ THẬT

                                                                             tác giả: PHÙNG VĂN HÓA

                                                 trích báo: Ephata 525

 Cư dân mạng hiện đang xôn xao bàn tán, có người còn tỏ ra choáng váng trước tin ông Từ Hoài Khiêm ( Xu Huaiqian ) 44 tuổi, tổng biên tập một tờ báo Đảng Cộng Sản Trung Quốc, vừa nhảy lầu tự sát hôm 25.8.2012 vừa qua. Lý do cái chết này được cho biết là ông ta bị trầm cảm vì đã không thể nói ra được điều muốn nói: “Tôi đau đớn vì dám nghĩ nhưng lại không dám nói ra. Nếu dám nói thì lại không dám viết và nếu dám viết thì cũng chẳng có nơi nào chịu đăng bài tôi cả. Tôi ngưỡng mộ những cây bút tự do nhưng tôi không thể rời hệ thống vì nếu làm như vậy thì gia đình tôi sẽ chịu hậu quả” ( Nguồn BBC ngày 25.8.2012 ).

Hệ thống được nói tới là Đảng Cộng Sản, còn những cây bút tự do đó là những người viết trong các nước Dân Chủ. Sống mà không dám nói, dám viết ra những suy nghĩ, quan điểm lập trường của mình, điều ấy là một mối nguy chẳng những cho cá nhân ấy mà còn cho cả đất nước dân tộc. Tại sao ? bởi vì như vậy là không sống trong sự thật mà đã không sống sự thật thì tất cả chỉ là dối trá, lừa đảo để rồi đưa đến hậu quả diệt vong không thể tránh. Bằng chứng là Thủ Tướng Đức, bà Angela Markel người đã từng sống dưới chế độ Cộng Sản Đông Đức, nhân dịp kỷ niệm ngày 20 năm bức tường Berlin sụp đổ, và ông Medeved cựu Tổng Thống Nga, người đã sinh ra, sống và được giáo dục bởi chế độ xô viết nhân dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng Đệ Nhị Thế Chiến; cả hai đều tuyên bố đại ý rằng: “Chế độ Cộng Sản là một guồng máy tạo ra sự dối trá, lừa đảo bịp bợm và giết người, chẳng những giết chính dân tộc nó mà còn giết những dân tộc khác.” ( Nguồn Chu Chỉ Nam – Tại sao chế độ Cộng Sản lại là một guồng máy lừa đảo giết người lớn nhất trong lịch sử nhân loại ? ).

Con người cần phải sống sự thật, thế nhưng điều hết sức khó khăn, hơn nữa có thể nói là không thể phân biệt đâu là sự thật, đâu là dối trá. Trước tòa, Philatô hỏi Chúa Giêsu, vậy ngươi là vua sao ? Chúa đáp: “Đúng như ngươi nói, Ta là Vua. Cốt vì việc ấy mà Ta sanh ra, cũng cốt vì cớ ấy mà Ta đến thế gian để làm chứng cho sự thật. Hễ ai thuộc về sự thật thì đều nghe tiếng Ta”. Philatô hỏi Sự Thật là gì ? ( Ga 18, 37 – 38 ). Đức Kitô không trả lời câu hỏi của Philatô, bởi Ngài biết rõ dù có nói cũng vô ích, ông ta không thể hiểu. Chẳng những không riêng gì Philatô mà tất cả người thế gian cũng không thể hiểu.

I. Thế gian không có sự thật

Từ Hoài Khiêm nói rằng mình ngưỡng mộ những cây bút tự do bởi cho rằng những con người trong các nước Dân Chủ ấy dám viết và nêu lên sự thật. Thế nhưng có hẳn là báo chí trong những quốc gia ấy phản ảnh đúng sự thật hay không ? Để có câu trả lời thì cũng không khó, bởi dù sao đó cũng chỉ là một nghề để kiếm sống hoặc địa vị danh vọng gì đó. Một khi đã là nghề nghiệp thì cũng phải tuân thủ những luật tắc của nó và luật tắc ở đây chính là lợi nhuận. Báo có nhiều độc giả thì sống, trái lại thì… ngỏm. Nói chung, toàn thể người ở cõi thế gian này đều chỉ sống vì lợi nhuận và lợi nhuận ấy dù trong bất kỳ tính chất nào, trong sạch hay dơ bẩn thì cũng đều chỉ có một cứu cánh là để thỏa mãn cho “Cái Tôi” mà thôi.

Bao lâu còn vì “Cái Tôi” mà làm thì dù cho có là hành vi tôn giáo đi nữa cũng không thể có sự thật, mà đã không sống sự thật thì ắt sẽ sống trong giả dối. Hết thảy con người đều sống giả dối bởi chưng không ai lại không bị tội nguyên tổ làm cho hư hỏng. Nguyên tổ vì nghe theo sự lừa dối của rắn Satan nên đã ăn trái cây phân biệt mà Thiên Chúa đã cấm, thế nên bị đuổi ra khỏi Vườn Địa Đàng ( St 3, 24 ). Chính bởi vậy, Đức Kitô nói Satan là cha của sự nói dối: “Các ngươi ra từ cha các ngươi là ma quỷ và các ngươi muốn làm theo tư dục của cha các ngươi. Từ ban đầu nó là kẻ giết người chẳng đứng trong lẽ thật, vì trong nó không có lẽ thật đâu. Khi nó nói dối thì tự mình nó nói, vì nó vốn là kẻ nói dối cũng là cha của sự ấy” ( Ga 8, 44 ).

Từ ban đầu Satan là kẻ nói dối và sự dối trá ấy tinh vi đến độ y như là thật. Bà Eva còn đang lưỡng lự thì rắn quả quyết: “Hai người chẳng chết đâu, nhưng Đức Chúa Trời biết rằng hễ ngày nào hai người ăn trái đó thì mắt mình mở ra sẽ như Đức Chúa Trời biết điều thiện điều ác” ( St 3, 4 ). Có vẻ như Satan… không nói dối vì sau khi ăn cây phân biệt cả hai ông bà nguyên tổ chẳng những không chết mà mắt còn… mở ra. Tuy nhiên cái chết đây không phải là chết phần xác nhưng là chết tâm linh: “Đoạn mắt hai người liền mở ra, biết mình lõa lồ bèn lấy lá cây vả đóng khố che thân” ( St 3, 7 ). Khi mắt xác thịt mở ra thấy mình lõa lồ tức là cái thấy của sự phân biệt nam nữ, giầu nghèo, sang hèn, có không ( thị phi ) được mất v.v…

Chính cái thấy của sự phân biệt ấy là nguồn gốc tội ác đưa đến khổ đau cho con người. Bởi thấy có nam có nữ mà nảy sinh dục vọng luyến ái nọ kia. Bởi thấy có ngôn ngữ màu da khác biệt mà kỳ thị chủng tộc. Bởi thấy có giàu nghèo sang hèn mà nảy sinh tỵ hiềm ganh ghét đố kỵ…

Hết thảy những cái thấy mang tính phân biệt đều là lừa dối nhưng bởi là lừa dối của Satan nên con người khó thể nhận biết. Ở đây có thể kể ra hai cuộc lừa dối mang tính… toàn cầu vô tiền khoáng hậu cho cả hai phía Cộng Sản và Dân Chủ Tây Phương.

Chủ Nghĩa Cộng Sản lấy chiêu bài đấu tranh giai cấp để xây dựng thế giới đại đồng vô giai cấp. Nhưng đại đồng đâu chẳng thấy mà chỉ thấy những chế độ độc tài đảng trị nối tiếp nhau. Bà Rosa Luxembourg, người bạn chiến đấu của Lénine, trước khi chết trong ngục tù chế độ ( 1919 ) đã viết một bức thư gửi cho ông ta: “Cái độc đảng và nhà nước độc tài mà anh lập ra anh bảo rằng nó phục vụ nhân dân và thợ thuyền. Nhưng trên thực tế nó chẳng phục vụ một ai cả, vì nó đã đi ngược lại với những nguyên tắc chính của Chủ Nghĩa Xã Hội, đó là tôn trọng tự do dân chủ” ( Nguồn: Chu Chỉ Nam – đã dẫn ).

Một người đã để cả đời tranh đấu cho lý tưởng Cộng Sản, ấy vậy mà cho đến lúc sắp chết trong lao tù vẫn còn ảo tưởng về nguyên tắc tự do dân chủ của Chủ Nghĩa Xã Hội thì thật khó mà hiểu, nếu không nhận ra đây chỉ là một trong vô vàn nạn nhân của Satan, cha đẻ của dối trá.

Mặt khác, ảo tưởng tự do dân chủ không phải chỉ có ở nơi người Cộng Sản mà còn là một cái gì đó… hấp dẫn cho cả những người theo đuổi lý tưởng dân chủ. Ảo tưởng ấy cách nay hơn một thế kỷ đã bị Đức Thánh Cha Pio IX vạch rõ: “Việc phổ thông đầu phiếu là một vết thương phá hỏng trật tự xã hội và đúng ra nó xứng đáng được gọi là “Sự nói dối phổ cập”. Ma quỷ chắc chắn có cùng ý kiến như nó đã để lộ cho thấy trong một cuộc trừ tà. Nó không giấu diếm ý dồ chính trị của nó… Nó tự tuyên bố là người Cộng Hòa nhiệt tình: Tự Do – Bình Đẳng – Huynh Đệ và Cộng Hòa Pháp. Chính ma quỷ dùng những lời lẽ ấy mà chào những khách đến thăm ( người bị quỷ nhập ). Một hôm ông Spies thị trưởng Selestat nói với hắn: “Ngu, mày không biết điều mày nói !” Nó liền đáp: “Tôi biết điều tôi nói, hoan hô Tự Do, Bình Đẳng, Huynh đệ. Lúc đó chúng tôi sẽ được việc lắm” ( Michel Servant – Ngày của Chúa ).

Tự Do – Bình Đẳng – Huynh Đệ ( Liberté – Égalité – Fraternité ) là ba lý tưởng căn bản được nêu lên trong Cách Mạng Pháp 1789 và rồi đã được các nướ c dân chủ Tây Phương lấy đó để làm mục tiêu hành động. Satan hoan hô tự do bình đẳng huynh đệ và đồng thời nó cũng biết rất rõ đó chỉ toàn là ảo tưởng. Nhưng với con người thì lại coi đây như là lý tưởng cần thực hiện để có được cuộc sống hạnh phúc.

Lý do khiến Satan biết rõ đó chỉ là ảo tưởng bởi vì trong ba yếu tố ấy loài người không thể thực hiện được điều thứ ba, tức tình huynh đệ. Trong những thể chế thực sự dân chủ, người ta có thể tương đối có tự do và bình đẳng, thế nhưng nếu không có tình huynh đệ coi hết mọi người như anh chị em một nhà thì rút cục cũng chẳng thể nào có tự do bình đẳng, nếu không muốn nói là hỗn loạn.

Một mặt Satan hoan hô nhưng mặt khác nó lại nói lúc đó chúng tôi sẽ được việc lắm. Cái gọi là… “được việc” ấy là khi người ta nói rằng mình tranh đấu cho tự do bình đẳng thì ngay khi ấy cũng là lúc mà ganh ghét hận thù nổi lên. Tất cả nguyên nhân khiến không thể có tự do bình đẳng là vì không có tình huynh đệ. Đức Kitô nói: từ ban đầu Satan là kẻ giết người chẳng đứng trong lẽ thật thì việc giết của nó chính là giết chết tình huynh đệ – đệ huynh ở nơi con người. Đức Kitô xuống thế hầu đem lại cho nhân loại Sự Thật và chỉ trong Sự Thật ấy nhân loại mới có thể tìm đến với nhau như anh em một nhà.

II. Con đường đưa tới sự thật

Để có thể đi tới bất cứ nơi nào thì cần phải biết đường, còn như không biết thì hỏi, người ta sẽ chỉ cho. Đối với đường đời đã vậy, còn đường đạo tức đường thực hiện tâm linh thì việc hỏi, thắc mắc lại còn quan hệ hơn gấp bội. Không hỏi không nghi thì không bao giờ có lời giải đáp. Tuy nhiên việc hỏi ấy có thể đưa đến kết quả khác nhau, chấp nhận hay không chấp nhận. Người Do Thái vây quanh Chúa Giêsu chất vấn: “Thầy để chúng tôi vơ vẩn đến chừng nào. Nếu thầy là Đấng Kitô thì hãy nói tỏ tường cho chúng tôi” ( Ga 10, 24 ).

Đối với câu hỏi này cũng như của Philatô hỏi sự thật là gì. Chúa không  trực tiếp trả lời, bởi biết họ không tin. Thế nhưng trường hợp các Tông Đồ thì khác, sau khi nghe Chúa nói mình đi để chịu chết thì Tôma hỏi: “Thưa Chúa chúng tôi chẳng biết Chúa đi đâu làm sao biết đường ?” Chúa Giêsu đáp: “Ta là đường, là sự thật, và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” ( Ga 14, 5 – 6 ).

Qua câu trả lời này, ta thấy Đức Kitô chẳng những rất ân cần với các Tông Đồ mà còn trở nên con đường để những ai theo Ngài có thể bước đi trên đó. Mặc dầu Chúa nói mình là đường, là sự thật, sự sống nhưng như thế không có nghĩa có thể dừng lại trên con đường này. Dừng như thế thì Đường Giêsu sẽ ắt thành… đường cụt. Lý do bởi vì có đường thì phải đi mà đã đi thì phải đến một nơi chốn nào đó chứ chẳng lẽ lại cứ đi vơ đi vẩn ? Đức Kitô đã nói một cách rõ ràng rằng không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Điều ấy chứng tỏ cứu cánh con đường Giêsu phải là Đấng Cha chứ không phải là Ngài.

Thời này là thời Tục Hóa tức Giải Thiêng ( désacralisation ) mà đã giải thiêng thì tất nhiên không thể còn cứu cánh là Đấng Cha nữa. Một khi đã không còn Đấng Cha như một cứu cánh thì cũng không thể có sự thật. Tại sao ? Bởi vì sự thật chỉ đến với con ngườii khi nào nó nhận biết được phẩm vị Con Thiên Chúa ở nơi chính mình.

Quả thật, con người được dựng nên giống Hình Ảnh Thiên Chúa ( St 2, 26 ) tức Con của Ngài, nhưng do ảnh hưởng tội nguyên tổ mà chúng ta như đã hoàn toàn quên mất phẩm vị cao quý ấy. Cũng bởi vì quên nên con người mới sa đà vào đủ thứ giống tội nhưng lại chẳng cho đó là tội. Tội khiến làm cho che lấp Sự Thật tức phẩm vị Con Thiên Chúa nơi mình. Vì vậy Đức Kitô nói: “Nếu các ngươi cứ ở trong Đạo Ta thì thật là môn đệ Ta, các ngươi sẽ nhận biết sự thật và sự thật sẽ giải thoát các ngươi” ( Ga 8, 31 – 32 ).

Chúa là Đấng Giải Thoát nhưng sự giải thoát ấy hoàn toàn không phải do phép mầu hay quyền năng nào mà nó chỉ đến với chúng ta khi nhận biết sự thật. Lý do nhận biết sự thật lại giải thoát là vì sự thật ấy vốn dĩ đã có ở nơi mỗi người, chỉ cần nhận ra là được.

Sự thật cần nhận biết ấy như đã nói đó chính là Hình Ảnh Thiên Chúa và cũng là Nước Trời mầu nhiệm mà Đức Kitô rao giảng: “Người Pharisêu hỏi Chúa Giêsu về Nước Đức Chúa Trời chừng nào đến thì Ngài đáp: “Nước Đức Chúa Trời không đến cách mắt thấy được. Người ta cũng sẽ không thể nói đây này hay đó kia, vì này, Nước Đức Chúa Trời ở trong lòng các ngươi” ( Lc 17, 20 – 21 ).

Nước Trời là nước vô cùng mầu nhiệm, ấy vậy mà nước ấy lại chẳng có ở đâu khác ngoài mình và đây mới chính là Sự Thật chúng ta cần hết lòng tìm kiếm. Tìm kiếm địa vị sang giàu ở thế gian là việc cũng chẳng phải dễ. Thế nhưng dù cho nó có được thì cũng chẳng ra gì nếu không muốn nói là chỉ chuốc vào mình lo âu phiền muộn. Đang khi đó con đường tâm linh đem lại cho ta Sự Thật, một Sự Thật vĩnh cửu chẳng bao giờ tàn, chẳng bao giờ phai.

Tuy nhiên để có được Sự Thật ấy thì ngoài con đường tín thác, cậy trông vào Chúa Giêsu chẳng còn con đường nào khác.

PHÙNG VĂN HÓA,

 9.2012

Thực thà với Chúa

Thực thà với Chúa

                                                           PM. CAO HUY HOÀNG

1:10 Sáng 1/09/12

 

VRNs(01.09.2012) – Suy Niệm Lời Chúa CN 22 TN B

Noi gương Ông Giosuê, bắt chước Thánh Phêrô, tuần trước, chúng ta cùng thưa với Chúa rằng: Chúng con quyết không bỏ Chúa, gia đình chúng con tôn thờ Thiên Chúa và trung tín với Chúa.

Tuần này, Lời Chúa dạy chúng ta cách tôn thờ Thiên Chúa thế nào cho đúng với ý Chúa muốn, và còn phải biết “dạy cho con cháu” cách sống đạo cho nên ( x. Đnl 4, 1-2. 6-8 ).

Tôi bỗng nhớ câu chuyện của mẹ tôi. Trước lúc cha tôi mất, Người chỉ để lại một di ngôn ngắn lắm: “Sống đẹp lòng Chúa”. Mẹ tôi ôm ấp di ngôn của cha và hay nhắc bảo anh em chúng tôi. Mười năm sau, trước lúc mẹ mất, di ngôn của mẹ có ba điều: “Các con hãy:

1. Đoàn kết thương yêu nhau.

2. Làm lành lánh dữ.

3. Giáo dục con cái biết thờ phượng Đức Chúa Trời cho nên”.

Vào những ngày Giỗ, Chạp, Tết nhất hay những lúc sum họp gia đình, anh em tôi thường lặp lại Di Ngôn của cha mẹ. Có lần, chú em tôi cảm động quá, khóc và thưa với mẹ rằng: “Cảm ơn mẹ đã chú giải di ngôn của cha, cho chúng con biết thế nào là sống đẹp lòng Chúa”.

Cô Út chợt nhận ra điều gì, nói: “Sau này, Chúa sẽ không hỏi em rằng em đã làm gì cho Chúa, nhưng chắc chắc Chúa sẽ hỏi em có tin tưởng, yêu mến và phó thác vào Chúa không ? Vậy mà có lần em cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, con tin tưởng, yêu mến, và phó thác hoàn toàn vào tay Chúa. Xin Chúa ban cho con thoát khỏi cảnh nợ nần, nghèo khổ hôm nay”. Em tự thấy mình có điều gì gian dối. Đã tin, yêu, cậy trông mà làm như Chúa hổng biết gì về mình vậy, còn thưa lảm nhảm hoài: con khổ quá Chúa ơi ! Như vậy “tin yêu mến” của em chắc là “đầu môi chót lưỡi” rồi. Đúng không ?

Cả nhà không ai dám giải thích gì. Vì có lẽ ai cũng không khác cô út bao nhiêu !

Sống thành thật với nhau đã là khó. Sống thành thật với Chúa còn khó biết bao. Người đời có thể lầm cách sống đạo của tôi, của bạn, nhưng chắc chắn Chúa không lầm. Chúa biết rõ chúng ta tin tưởng và yêu mến Chúa tới mức nào.

Ở đời, mà nhất là đời nay, thời buổi này, trong toàn cảnh Việt Nam hôm nay, thì sự dối trá càng rõ hơn. Dối khắp nơi, chỗ nào cũng dối. Dối từ trên xuống, từ dưới lên, từ trong ra, từ ngoài vào. Dối tứ phía. Tình gian dối. Tiền gian dối. Quyền lực gian dối. Tài sản gian dối. Ngay cả việc tôn kính lãnh tụ cũng chẳng có gì là thật lòng. Khóc gian dối. Cười gian dối. Và nếu chỗ nào cũng dối, người nào cũng cũng dối, thì có thể nói đó là một thách thức lớn cho Tin Mừng Sự Thật.

Thánh Giacôbê bảo: “Anh em hãy khử trừ mọi thứ nhơ bẩn và lòng đầy gian ác”. Thiết nghĩ, thứ nhơ bẩn ấy chính là sự dối trá trong lòng.

Chúa Giêsu thì vạch mặt sự dối trá của những thầy thông luật, những kinh sư, những Pharisêu giả hình khi họ bắt bẻ các môn đệ Chúa không rửa tay trước khi ăn cho sạch sẽ theo tập tục cha ông của họ: “Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người. Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người”.

Lời trách mắng của Chúa Giêsu cũng đang nhắm đến hầu như tất cả chúng ta. Gọi là “tất cả”, bởi vì, mỗi người trong chúng ta, không ai tránh khỏi ảnh hưởng sự dối trá, cách sống dối trá do hậu quả của tội nguyên tổ: Không tuân phục Thiên Chúa, lừa dối Thiên Chúa.

Trong khi Thánh Thần của Thiên Chúa luôn hướng dẫn chúng ta sống cuộc sống chân thành để chúng ta trưởng thành về mặt Đức Tin hơn, thì ma quỷ cùng thế lực chống Thiên Chúa lại xúi quẩy chúng ta sống giả dối, cách sống ấu trĩ của ma quỷ:

Chúng ta đang biến việc thờ phượng Thiên Chúa qua các lễ nghi phụng tự thành lễ hội. Hình thức tổ chức lễ có vẻ được quan tâm hơn là chuẩn bị tấm lòng yêu mến tôn kính cách chân thực.

Càng có nhiều lễ hội tôn giáo càng chứng tỏ ra rằng đất nước ấy tự do tôn giáo, một thứ tôn giáo hời hợt bên ngoài, thứ tôn giáo giả hình.

Từ lễ hội linh đình của các cấp Giáo Hội lớn, đến nhỏ hơn, và xuống đến nhỏ hơn nữa là gia đình, là cá nhân… ai cũng làm bộ có đạo, làm bộ đạo đức, mà quên rằng chúng ta đang thực sự lừa dối Thiên Chúa, cũng chẳng khác nào quân Pharisêu thờ kính Chúa ngoài môi miệng, bằng băng-rôn biểu ngữ, bằng rêu rao tự do, bằng xây cất cho hoành tráng, bằng lễ lớn lạc lớn, bằng tham gia đủ thứ hội đoàn, bằng chức danh ông kia bà nọ, bằng áo mão chỉnh tề, bằng xuất hiện công khai cách long trọng, bằng bảng vàng dâng cúng, bằng con số, bằng báo cáo thành tích, bằng toàn bộ hình thức bên ngoài và giả dối bên trong khi có thể.

Lời Chúa muốn cảnh tỉnh chúng ta phải trở về với nội tâm sâu xa của lòng yêu mến chân thành. Lòng yêu mến Chúa thúc đẩy chúng ta thực hiện lề luật của Chúa và truyền dạy cho con cháu thực hiện lề luật ấy cách chân thành.

Thánh Vịnh đáp ca chỉ rõ mấy việc cần làm ngay của người có đạo: “Sống thanh liêm và thực thi công chính”, “trong lòng suy nghĩ điều ngay, và lưỡi không bịa lời vu khống”, “không làm ác hại bạn đồng liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận”, “không xuất tiền đặt nợ thu lời, cũng không ăn hối lộ hại người hiền lương” ( x. Tv 14, 2 – 3ab . 3cd – 4ab . 4c – 5 ).

Phải sống thành thực, không sống giả dối, bởi vì, theo Thánh Giacôbê: “Người đã muốn sinh ra chúng ta bằng lời chân thật, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các tạo vật”.

Ngài khuyên chúng ta tránh xa sự gian dối: “Anh em hãy khử trừ mọi thứ nhơ bẩn và lòng đầy gian ác, anh em hãy ngoan ngoãn nhận lãnh lời đã gieo trong lòng anh em, lời có sức cứu độ linh hồn anh em. Anh em hãy thực thi lời đã nghe, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình”.

Và đó là “lòng đạo đức trong sạch và tinh tuyền” (x. Gc 1, 17 – 18 . 21b – 22 . 27)

Lạy Chúa Giêsu, Đấng Thánh vì là Sự Thật của Thiên Chúa, nhờ Máu Chúa, chúng con đã được tẩy rửa sự gian ác trong lòng chúng con. Xin cho chúng con giữ được lòng đạo đức trong sạch và tinh tuyền ấy trước những cám dỗ dối trá của cuộc đời. Amen.

 

 PM. CAO HUY HOÀNG, 30.8.2012

Âm mưu thâm độc của Stalin

Âm mưu thâm độc của Stalin

 1:01 Sáng 2/09/12

 

VRNs (02.09.2012) – UCANews.com – Dựa trên việc nghiên cứu văn khố của Tòa thánh, một cuốn sách mới cho thấy chi tiết về mưu mô độc ác của Stalin muốn bỏ đói cả Soviet Ukraine tới chết.

Bầu trời u ám và ngày giờ ngắn của tháng 11 nhắc mọi người nhớ rằng đây là tháng cầu nguyện cho những người đã qua đời. Tháng này có vẻ thích hợp để giới thiệu các tài liệu mới về một trong các sự kiện bi thảm nhất — và thực sự chưa được biết — về thời hiện đại, Nạn đói của Ukraina.

Cuốn “The Holy See and the Holodomor: Documents from the Vatican Secret Archives on the Great Famine of 1932-1933 in Soviet Ukraine” (Tòa thánh và Cuộc bỏ đói: Tài liệu từ Văn khố mật của Tòa thánh về Nạn đói năm 1932-1933 tại Ukraina của Soviet) của LM Athanasiô McVay và GS Lubomyr Luciuk đã được giới thiệu ngày 26-10-2011 tại Trung tâm Đại kết Nga (Russian Ecumenical Center) ở Rôma. Cuốn sách này hiện có bản tiếng Anh ở các nhà sách Kashtan Press và Abe Books.

Từ ngữ Holodomor theo nghĩa đen là “giết bằng cách bỏ đói”, xảy ra trong những năm 1932-33 ở vùng đất phì nhiêu Ukraina của Liên xô. Số tử vong không biết chính xác vì thiếu tài liệu, nhưng ước tính có tới 2,4 tới 7,5 triệu người chết. Nạn đói này do con người tạo ra, họ muốn bỏ đói những người yêu nước Ukraina đến chết, đã được coi là tội ác diệt chủng của nhiều nước trên thế giới.

TRẦM THIÊN THU