Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn.

Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn.

Vương  cung thánh đường Chính tòa

Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội
Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn

Mặt  trước Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn với tượng Đức Bà Hòa Bình
Thông tin cơ bản
Vị trí Thành phố Sàigòn
Tôn giáo Công giáo
Rôma
Nghi  lễ Latinh
Năm cung hiến 1959
Tước hiệu giáo hội
hoặc tổ chức
Tiểu vương cung thánh đường
Giám quản G.B. Huỳnh Công Minh
Website TGP.TPHCM
Mô tả kiến trúc
Kiến trúc sư J.Bourard
Thể loại kiến trúc Nhà thờ chính tòa
Phong cách kiến trúc Kiến trúc Roman
Hướng mặt tiền Đông
Năm hoàn thành 1880
Chi phí xây dựng 2,5 triệu franc Pháp
Thông số kỹ thuật
Chiều dài 00 mét (0 ft)
Chiều rộng 00 mét (0 ft)
Chiều rộng lọt lòng 00 mét (0 ft)
Tổng chiều cao 00 mét (0 ft)
Vật liệu gạch đỏ
Nhàthờ Đức Bà Sài Gòn (tên chính thức: Vương cung thánh đường Chính tòa Đức
Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội
, tiếng Anh: Immaculate
Conception Cathedral Basilica
, tiếng Pháp: Cathédrale
Notre-Dame de Saïgon
) là nhà thờ chính tòa của Tổng giáo phận Thành phố Sàigòn. Đây cũng là nhà thờ Công giáo có quy mô lớn và đặc sắc, một những công trình kiến trúc thu hút nhiều khách tham quan nhất tại thành phố này.
Lịch sử
Tượng đồng Giám mục Adran và Hoàng tử Cảnh
Ngay sau khi chiếm Sài Gòn, Pháp đã cho lập nhà thờ để làm nơi hành lễ cho người Công giáo trong đoàn quân viễn chinh. Ngôi nhà thờ đầu tiên được lập ở đường Số 5 (nay là đường Ngô Đức Kế). Đây vốn là một ngôi chùa nhỏ của người Việt bị bỏ hoang do chiến cuộc, cố đạo Lefebvre đã biến ngôi chùa này thành nhà thờ. Vì ngôi nhà thờ đầu tiên đó quá nhỏ nên vào năm 1863, Đô đốc Bonard đã quyết định cho khởi công xây dựng ở nơi khác một nhà thờ khác bằng gỗ bên bờ “Kinh Lớn” (còn gọi là kinh Charner, địa điểm là trụ sở Tòa Tạp Tụng thời Việt Nam Cộng hòa). Cố đạo Lefebvre tổ chức “Lễ đặt viên đá đầu tiên” xây dựng nhà thờ vào ngày 28 tháng 3 năm 1863. Nhà thờ được dựng bằng gỗ, hoàn thành vào năm 1865, ban đầu gọi là Nhà thờ Saigon. Về sau, do nhà thờ gỗ này bị hư hại nhiều vì mối mọt, các buổi lễ được tổ chức trong phòng khánh tiết của Dinh Thống Đốc cũ, về sau cải thành trường học Taberd, cho đến khi nhà thờ lớn xây xong.
Tháng 8 năm 1876, Thống đốc Nam kỳ Duperré đã tổ chức một kỳ thi vẽ đồ án thiết kế nhà thờ mới. Ngoài mục tiêu có chỗ thờ phụng, hành lễ cho tín đồ, việc xây dựng nhà thờ lớn cũng nằm trong mục đích phô trương đạo Công giáo và sự vĩ đại của nền văn minh nước Pháp trước người dân thuộc địa. Vượt qua 17 đồ án thiết kế khác, đồ án của kiến trúc sư J. Bourard với phong cách kiến trúc Roman cải biên pha trộn nét phong cách kiến trúc Gotich đã được chọn. Ban đầu, địa điểm xây cất được đề nghị ở 3 nơi:
  • Trên nền  Trường Thi cũ (nay là góc đường Lê Duẩn và Hai Bà Trưng, tức vị trí tòa
    Lãnh sự Pháp).
  • Ở khu Kinh  Lớn (tại vị trí nhà thờ cũ, nay thuộc đường Nguyễn Huệ).
  • Vị trí  hiện nay.
Sau cùng vị trí hiện nay đã được chọn.[1]. Sau khi đề án thiết kế được chọn, Đô đốc Duperré cho đấu thầu việc xây dựng nhà thờ và cũng chính kiến trúc sư này là người trúng thầu và trực tiếp giám sát công trình. Mọi vật liệu từ xi măng, sắt thép đến ốc vít đều mang từ Pháp sang. Đặc biệt, mặt ngoài của công trình xây bằng loại gạch đặt làm tại Marseille (Pháp), để trần, không tô trát, không bám bụi rêu mà đến nay vẫn còn màu sắc hồng tươi.
Ngày 7 tháng 10 năm 1877, Giám mục Isidore Colombert đặt viên đá đầu tiên trước mặt Phó soái Nam Kỳ và đông đủ nhân vật cấp cao thời ấy. Nhà thờ được xây dựng trong 3 năm. Lễ Phục sinh, ngày 11 tháng 4 năm 1880, nghi thức cung hiến và khánh thành do cố đạo Colombert tổ chức trọng thể với sự có mặt của Thống đốc Nam Kỳ Le Myre de Vilers. Hiện nay, trên bệ phía trên, bên trong cửa ra vào nhà thờ, có chiếc bảng cẩm thạch gắn trong hành lang (transept) ghi ngày khởi công, ngày khánh thành và tên vị công trình sư. Tất cả mọi chi phí xây dựng, trang trí nội thất đều do Soái phủ Nam Kỳ đài thọ, với số tiền 2.500.000 franc Pháp theo tỷ giá thời bấy giờ. Ban đầu, nhà thờ có tên gọi là Nhà thờ Nhà Nước vì nó do nhà nước Pháp bỏ tiền xây dựng và quản lý.
Dòng chữ Latin nơi cổng chính cho biết năm khánh thành Năm 1895, nhà thờ xây thêm hai tháp chuông, mỗi tháp cao 57,6 m và có 6 chuông đồng  lớn nặng 28,85 tấn. Trên đỉnh tháp có đính một cây thánh giá cao 3,50 m, ngang 2 m, nặng 600 kg. Tổng thể chiều cao từ mặt đất lên đỉnh thánh giá là 60,50 m.
Hai tháp chuông vươn cao nhìn từ phía sau Trên vườn hoa trước nhà thờ, năm 1903, người Pháp cho dựng tượng đồng Pigneau de Béhaine (còn gọi là Giám mục Bá Đa Lộc hoặc Giám mục Adran vì vị này làm Giám mục hiệu tòa Adran) dẫn hoàng tử Cảnh (con vua Gia Long) để ca ngợi công lao của nước Pháp “bảo hộ”, “khai hóa” cho Việt Nam. Tượng đài này bao gồm một bệ bằng đá hoa cương đỏ hình trụ tròn và bên trên là bức tượng tạc hình Giám mục Adran với phẩm phục giám mục, tay trái dẫn hoàng tử Cảnh. Tượng làm bằng đồng, được đúc tại Pháp, giới bình dân thời đó thường gọi là tượng “hai hình” để phân biệt với tượng “một hình”, là bức tượng của Đô đốc Hải quân Pháp Genouilly ở phía công trường Mê Linh (nay là cuối đường Hai Bà Trưng, gần bờ sông Sài Gòn). Năm 1945, tượng này bị phá bỏ, nhưng cái bệ đài bằng đá hoa cương đỏ thì vẫn còn tồn tại ở đó mà không có bất cứ một bức tượng nào đặt lên trên.
Năm 1958, Linh mục Giuse Phạm Văn Thiên (sau làm Giám mục giáo phận Phú Cường, giờ đã qua đời), cai quản Giáo xứ Sài Gòn thời ấy, đã đặt tạc một tượng Đức Mẹ Hòa Bình bằng loại đá cẩm thạch trắng Carrara của Ý. Tượng được tạc tại Pietrasanta cách Roma khoảng 500 km. Khi tượng hoàn tất thì được đưa xuống tàu Oyanox vào ngày 8 tháng 1 năm 1959 từ hải cảng Gênes chở tượng qua Việt Nam và tới Sài Gòn ngày 15 tháng 2
năm 1959. Sau đó, công ty Société d’Entreprises đã dựng tượng Đức Mẹ lên bệ đá vốn còn để trống kể từ năm 1945 trước nhà thờ. Tự tay linh mục viết câu kinh cầu nguyện “Xin Đức Mẹ cho Việt Nam được hòa bình” rồi đọc trước đông đảo quan khách có mặt hôm ấy. Ngày hôm sau, Hồng y Aganianian từ Roma qua Sài Gòn để chủ toạ lễ bế mạc Đại Hội Thánh Mẫu Toàn Quốc, đã làm phép bức tượng này vào buổi chiều ngày 17 tháng 2 năm 1959. Từ sự kiện này mà từ đó nhà thờ có tên gọi là Nhà thờ Đức Bà.
Tượng Đức Mẹ Hòa bình và hai tháp chuông nhà thờ Ngày 5 tháng 12 năm 1959, Tòa Thánh đã cho phép làm lễ “xức dầu”, tôn phong Nhà thờ Chính tòa Sài Gòn lên hàng tiểu Vương cung thánh đường (basilique). Từ đó, tên gọi chính thức của thánh đường là Vương cung thánh đường Đức Bà Sài Gòn.
Năm1960, Tòa Thánh thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam với ba tòa Tổng Giám mục tại Hà Nội, HuếSài Gòn. Nhà thờ trở thành nhà thờ chinh tòa của vị Tổng giám mục Sài Gòn cho đến ngày nay.
[sửa] Những nét đặc sắc
Trong quá trình xây dựng, toàn bộ vật liệu xây dựng từ xi măng, sắt thép đến ốc vít đều mang từ Pháp sang. Mặt ngoài của công trình xây bằng loại gạch đặt làm tại Marseille để trần, không tô trát, (đến nay vẫn còn màu sắc hồng tươi), không bám bụi rêu. Một số ngói vỡ trong nhà thờ có in hàng chữ Guichard Carvin, Marseille St André France (có lẽ là nơi sản xuất loại ngói này), mảnh ngói khác lại có hàng chữ Wang-Tai Saigon. Có thể đây là mảnh ngói được sản xuất sau tại Sài Gòn dùng để thay thế những mảnh ngói vỡ trong thời gian Thế chiến thứ hai do những cuộc không kích của quân Đồng Minh. Toàn bộ thánh đường có 56 ô cửa kính màu do hãng Lorin của tỉnh Chartres (Pháp) sản xuất.
Móng của thánh đường được thiết kế đặc biệt, chịu được tải trọng gấp 10 lần toàn bộ kiến trúc ngôi nhà thờ nằm bên trên. Và một điều rất đặc biệt là nhà thờ không có vòng rào hoặc bờ tường bao quanh như các nhà thờ quanh vùng Sài Gòn – Gia Định lúc ấy và bây giờ.
Nội thất thánh đường được thiết kế thành một lòng chính, hai lòng phụ tiếp đến là hai dãy nhà nguyện. Toàn bộ chiều dài thánh đường là 93m. Chiều ngang nơi rộng nhất là 35 m. Chiều cao của vòm mái thánh đường là 21 m. Sức chứa của thánh đường có thể đạt tới 1.200 người.
Nội thất thánh đường có hai hàng cột chính hình chữ nhật, mỗi bên sáu chiếc tượng trưng cho 12 vị thánh tông đồ. Ngay sau hàng cột chính là một hành lang và kế đó là nhiều nhà nguyện nhỏ với những bàn thờ nhỏ (hơn 20 bàn thờ) cùng các bệ thờ và tượng thánh nhỏ làm bằng đá trắng khá tinh xảo. Bàn thờ nơi Cung Thánh
làm bằng đá cẩm thạch nguyên khối có hình sáu vị thiên thần khắc thẳng vào khối đá đỡ lấy mặt bàn thờ, bệ chia làm ba ô, mỗi ô là một tác phẩm điêu khắc diễn tả thánh tích. Trên tường được trang trí nổi bật 56 cửa kính mô tả các nhân vật hoặc sự kiện trong Thánh Kinh, 31 hình bông hồng tròn, 25 cửa sổ mắt bò bằng kính nhiều màu ghép lại với những hình ảnh rất đẹp. Tất cả các đường nét, gờ chỉ, hoa văn đều tuân thủ theo thức Roman và Gôtich, tôn nghiêm và trang nhã. Tuy nhiên, trong số 56 cửa kính này hiện chỉ còn bốn cửa là nguyên vẹn như xưa, còn các cửa kính màu khác đều đã được làm lại vào khoảng những năm 1949 để thay thế các cửa kính màu nguyên thủy của nhà thờ đã bị bể gần hết trong thế chiến thứ 2. Trên trán tường của cửa chính
nhà thờ có hàng chữ Latinh:
DEO OPTIMO MAXIMO BEATIEQUE MARIA VIRGIN IMMACULATOE
Nghĩa là: Thiên Chúa tối cao đã ban cho Đức Trinh Nữ Maria được ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Còn trên trán tường của cửa vào bên phải có những hàng chữ bằng tiếng Hoa, thật ra đó là hai câu đối: “Nhà thờ Thiên Chúa đầy ân đức – Thánh mẫu vô nhiễm nguyên tội“. và hàng chữ nói tới năm khánh thành nhà thờ 1880.
Nội thất thánh đường ban đêm được chiếu sáng bằng điện (không dùng đèn cầy) ngay từ khi khánh thành. Vào ban ngày, với thiết kế phối sáng tuyệt hảo, hài hòa với nội thất tạo nên trong nội thất thánh đường một ánh sáng êm dịu, tạo ra một cảm giác an lành và thánh thiện. Ngay phía trên cao phía cửa chính là “gác đàn” với cây đàn organ ống, một trong hai cây đàn cổ nhất Việt Nam hiện nay. Đàn này được các chuyên gia nước ngoài làm bằng tay, thiết kế riêng, để khi đàn âm thanh đủ cho cả nhà thờ nghe, không nhỏ mà cũng không ồn. Phần thân đàn cao khoảng 3 m, ngang 4 m, dài khoảng 2 m, chứa những ống hơi bằng nhôm đường kính khoảng một inch. Phần điều khiển đàn nằm riêng nối với thân đàn bằng những trục, có những phím đàn như đàn organ bình thường và những phím to đặt dưới sàn nhà (dài chừng 3 m, ngang khoảng 1 m) để người điều khiển đàn đạp lên khi dùng nốt trầm. Đàn còn có những thanh gõ lớn để đập vào phần dưới các ống hơi phát ra âm thanh. Hiện nay, cây đàn này đã hoàn toàn hỏng do bị mối ăn phần gỗ bàn phím điều khiển bằng tay.
Ban đầu, hai tháp chuông cao 36,6 m, không có mái và chỉ có độc một chiếc cầu thang hẹp chừng 40 cm bề ngang. Nội thất gác chuông rất tối và sàn được lót sơ sài bằng những miếng gỗ nhỏ cách khoảng, nhìn xuống thấy sâu hút. Vào năm 1895, thánh đường xây thêm hai mái chóp để che gác chuông cao 21 m, theo thiết kế của
kiến trúc sư Gardes, tổng cộng tháp chuông cao 57 m. Có tất cả 6 chuông lớn (sol: 8.785kg, la: 5.931kg, si: 4.184kg, đô: 4.315kg, rê: 2.194, mi: 1.646kg), gồm sáu âm, nặng tổng cộng 28,85 tấn, đặt dưới hai lầu chuông. Bộ chuông này được chế tạo tại Pháp và mang qua Sài Gòn năm 1879. Trên tháp bên phải treo 4 quả chuông (sol, do, rê, mi); tháp bên trái treo 2 chuông (la, si). Trên mặt mỗi quả chuông đều có các họa tiết rất tinh xảo. Tổng trọng lượng bộ chuông là 27.055kg tức khoảng 27 tấn, nếu tính luôn hệ thống đối trọng(1.840kg) được gắn
trên mỗi trái chuông thì tổng trọng lượng của bộ chuông sẽ là 28.895kg.Ba quả chuông to nhất là chuông si nặng 4.184kg, chuông la nặng 5.931kg và đặc biệt là chuông sol là một trong những quả chuông lớn nhất thế giới: nặng 8.785 kg, đường kính miệng chuông 2,25 m, cao 3,5 m (tính đến núm treo). Chuông này chỉ ngân lên mỗi năm một lần vào đêm Giao thừa Âm lịch.Các chuông đều được điều khiển bằng điện từ bên dưới. Riêng ba chiếc chuông lớn trước khi đánh đều được khởi động bằng cách đạp (vì quá nặng) cho lắc trước khi bật công tắc điện. Vào ngày thường, thánh đường chỉ cho đổ một chuông mi vào lúc 5 giờ sáng và đổ chuông re vào lúc 16g15. Vào ngày lễ và chủ nhật, nhà thờ thường cho đổ ba chuông theo hợp âm Mi, Re và Do ( đúng ra là hợp âm ba chuông
Mi, Do và Sol, nhưng vì chuông Sol qua nặng nên thay thế bằng chuông Do). Vào đêm Giao thừa thì mới đổ cả 6 chuông. Tiếng chuông ngân xa tới 10 km theo đường chim bay.Bộ máy đồng hồ trước vòm mái cách mặt đất chừng 15 m, giữa hai tháp chuông được chế tạo tại Thụy Sĩ năm 1887, hiệu R.A, cao khoảng 2,5 m, dài khoảng 3 m và ngang độ hơn 1 m, nặng hơn 1 tấn, đặt nằm trên bệ gạch. Dù thô sơ, cũ kỹ nhưng hoạt động khá chính xác. Để điều chỉnh đồng hồ, phía sau máy có một chiếc đồng hồ to cỡ đồng hồ reo trong gia đình. Chỉ cần theo dõi chiếc đồng hồ con này, có thể biết đồng hồ lớn chạy chậm, nhanh, đúng hay sai giờ. Mỗi tuần phải lên giây đồng hồ một lần và chiếc cần để lên giây đồng hồ giống như tay quay máy xe. Đồng hồ còn có hệ thống bao giờ bằng búa đánh vô các chuông của nhà thờ, tuy nhiên đã không còn hoạt động do dây cót quá cũ.
Mặt trước thánh đường là một công viên với bốn con đường giao nhau tạo thành hình thánh giá. Trung tâm của công viên là bức tượng Đức Mẹ Hòa bình (hay Nữ vương Hòa bình). Tượng do nhà điêu khắc G. Ciocchetti thực hiện năm 1959. Tên của tác giả được ở trên tà áo dưới chân, phía bên trái của bức tượng. Bức tượng cao 4,6
m, nặng 8 tấn, bằng đá cẩm thạch trắng của Ý, được tạc với chủ đích để nhìn từ xa nên không đánh bóng, vì vậy mà toàn thân tượng, kể cả vùng mặt vẫn còn những vết điêu khắc thô. Tượng Đức Mẹ trong tư thế đứng thẳng, tay cầm trái địa cầu, trên trái địa cầu có đính cây thánh giá, mắt Đức Mẹ đăm chiêu nhìn lên trời như đang cầu
nguyện cho Việt Nam và cho thế giới được hoà bình. Chân Đức Mẹ đạp đầu con rắn (mà hiện nay, đầu con rắn đã bị bể mất cái hàm trên). Trên bệ đá, phía trước bức tượng, người ta có gắn một tấm bảng đồng với hàng chữ Latinh:
REGINA PACIS – ORA PRO NOBIS – XVII. II. MCMLIX
Nghĩa là: NỮ VƯƠNG HÒA BÌNH – CẦU CHO CHÚNG TÔI – 17.02.1959
Phía dưới bệ đá, người ta đã khoét một cái hốc chỗ giáp với chân tượng Đức Mẹ, trong đó có một chiếc hộp bằng bạc, chứa những lời kinh cầu nguyện cho hoà bình của Việt Nam và thế giới. Những lời cầu nguyện đó được viết lên trên những lá mỏng bằng những chất liệu khác nhau như bằng vàng, bạc, thiếc, nhôm, giấy, dađồng,
được gởi tới từ nhiều miền của Việt Nam, kể cả từ một số vùng ngoài miền Bắc.

LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

VIẾT TIẾP TRANG SỬ

Tác giả: Lm Nguyễn Nguyên

Mạng sống là điều quý giá nhất trên đời. Vì thế, mà theo bản năng tự nhiên, ai cũng tham sống, sợ chết; ai cũng tìm đủ mọi cách để bảo tồn sự sống: gặp một nguy hiểm, đe dọa,
người ta trốn tránh, lùi bước, gặp một cơn bệnh người ta lo chạy chữa thuốc thang, dầu phải tốn kém, dầu phải đi hết nơi này đến nơi khác. Đó là điều thường tình, là phản ứng chung của con người. Tuy nhiên, có một điều không thường, một điều đáng khâm phục, đó là có những con người vì Nước Trời, vì yêu mến Thiên Chúa, đã thắng vượt sợ hãi, không sợ đau khổ, không sợ chết, sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình để bảo vệ cho một lý tưởng cao cả, đó là các vị Tử Đạo Việt Nam mà hôm nay chúng ta long trọng mừng kính vinh quang của các ngài.

Các Thánh Tử Đạo Việt nam là ai? Thưa, các ngài là những giáo dân, là những phụ nữ chân yếu tay mềm, là cụ già 80 tuổi như thánh Lê Bảo Tịnh; là một bà cụ 62 tuổi như nữ thánh Anê Đê; như một cậu trai 14 tuổi, thánh Phaolô Bột; là một thiếu nữ 12 tuổi như cô Lucia Liễu; như Phaolô Đạm 10 tuổi; như em bé Phaolô Túc 9 tuổi. Là các Giám mục, các Linh mục, các Nữ tu. Là chủng sinh, là Ban Hành Giáo, là quan trong triều đình, là quân lính, là công chức, là y sĩ, là thương gia. Các ngài thuộc đủ mọi thành phần dù vô danh tiểu tốt hay có chức có quyền trong Hội Thánh, có địa vị trong xã hội. Các ngài cũng đã sống như biết bao nhiêu những con người khác đã sống. Thế nhưng, hôm nay tại sao chúng ta lại nhớ đến các ngài?. Thưa tại bởi, các Ngài đã sống hơn hẳn rất nhiều người ở chỗ: các Ngài vì theo Chúa, nên đã bị bắt, bị kết án và không chịu chối đạo, không chịu bước qua Thánh Giá,
các ngài đã bị xử tử hình bằng nhiều cách hung bạo dã man. Các ngài đã biết sống anh hùng, không để cho mình bị mua chuộc, bị khuất phục, không nhường bước, không thỏa hiệp để được sống thảnh thơi. Tiền bạc không làm cho các Ngài mù tối. Khổ đau không làm cho các ngài chùn bước, nhục hình không làm cho các ngài ngã qụy, thậm chí ngay cả cái chết cũng không uốn cong được lòng trung tín của các Ngài. Và chính dòng máu của các ngài đổ ra trên mảnh đất này, đã làm phát sinh một Giáo Hội Việt Nam như hôm nay.

Thế cho nên, họp nhau mừng kính các Thánh Tử Đạo Tổ Tiên anh hùng, không chỉ để chúng ta trầm trồ khen ngợi tán dương các Ngài. Nhưng là để chúng ta học noi gương nhân đức của các Ngài. Dẫu biết rằng, ngày nay, không còn những bạo chúa bách đạo bằng gươm
đao súng đạn, không ai dùng bạo lực, dùng những cực hình man rợ bắt chúng ta bỏ
đạo hay chối Chúa như tổ tiên ta ngày xưa. Nhưng chúng ta lại phải đương đầu với những thách thức mới. Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc có thể là những bạo chúa, những sức mạnh gây ra những cuộc bách hại thầm lặng nhưng không kém phần khủng khiếp và tai họa. Bị bắt, bị đâm, bị chém, bị chặt đầu vì Chúa, đó là chứng tá cao quý, đó là tử đạo. Không bị bắt, không bị giết, nhưng âm thầm sống cuộc sống Chúa ban, biết chế ngự những đam mê và ước muốn xấu, biết khước từ những tham lam của cải vì lẽ công bằng, biết vui tươi trong những hiểu lầm vu oan, biết hy sinh tha thứ và phục vụ mọi người trong tình yêu thương, đó cũng
là tử đạo, đó cũng là chứng tá cao quý. Bởi vì, chết thể xác tuy đau đớn nhưng chỉ trong chốc lát, còn sống được một cuộc sống bình thản tươi vui trong những nỗi chết từ bỏ mỗi ngày, trong những ray rứt tiêu hao đau khổ, những quyến rũ kéo dài, đó là cả một cố gắng và là một sự trung thành lớn lao.

Vậy, ước gì trong khí thế hân hoan mừng kính các Thánh tử đạo Việt Nam, những bậc tiền bối đã lấy cái chết và máu đào làm chứng cho Đức Kitô và viết nên trang sử oai hùng cho Giáo Hội Việt Nam, chúng ta cũng hãy noi gương các ngài viết tiếp trang sử mà các
ngài còn đang viết dở dang: “Hãy để cho mình bị bách hại, nhưng đừng bách hại
ai. Hãy để cho mình bị đóng đinh, nhưng đừng đóng đinh ai . Hãy để cho mình bị
vu khống, nhưng đừng vu khống ai”. Có như thế chúng ta mới xứng đáng là bậc hậu
sinh khả uý; có như thế chúng ta mới xứng đáng thừa hưởng gia nghiệp đức tin
các ngài để lại; và có như thế mai sau chúng ta mới xứng đáng được lãnh vòng
hoa chiến thắng và chung hưởng vinh quang với các ngài trên thiên quốc. Amen.

 

Mục Sư Tin Lành trở thành người Công Giáo

From: Bob Rice: (Là Cựu Mục Sư Tin Lành trở thành

người Công Giáo)

Well, about 48% of the country is unhappy right now. Consider me one of them.

Like many, I’ve been invested in this election. Read numerous stories and blogs on the Internet. Followed the debates. Talked about it a lot. Prayed. Voted. And yet the same
guy who was elected President four years ago is the same guy who got voted in
today. Once again he’s talking about “hope” in front of a cheering Chicago
audience. After the speech they played Bruce Springsteen’s “We Take Care Of Our
Own.”

I would have rather had an election result that ended with Taylor Swift’s “We Are Never Ever Getting Back Together.”

I’m not the only one who prayed and fasted for this day. At Church every Sunday (and daily) we’ve been praying or our country and for the election. Though the prayers never
specifically said, “We pray Mitt Romney wins,” that seemed like an easy connection to make. We prayed for a president that respects the dignity of the unborn. We prayed for a president that respects religious freedom.

And yet we now have a president who seems to not care about either of those two important issues. He is more concerned with the rights of same sex couples to be married than the rights of unborn children to live. He is more concerned with the “rights” to
free contraceptives than the rights of religious freedom.

So… were our prayers unanswered? Our novenas wasted? On the surface, it seems to be that way.

But God isn’t done yet.
He just rarely answers prayers the way we think He will.

God isn’t into democracy. Jesus said, “Follow me,” not, “vote for me.” Though we might feel that our prayers for the election weren’t heard, God is bigger than an election. He’s about saving souls and changing hearts.

Abortions in this country are down. Why? Because abortion centers are closing due to movements such as “40 Days for Life.” This is the most pro-life generation the country
has ever seen. Hearts are changing. That’s the work of God, not man. Man can create a law to make something “legal” or “illegal.” But only God makes things  “right” or “wrong.” The law is external, the Spirit is internal. God is more concerned about the heart.

Same-sex marriage? Yes, it’s disappointing that same sex marriage won a popular vote in Maine and Maryland. Proponents say this is the beginning of a national trend (as if the
30 previous states who voted against same sex marriage don’t matter.) That may
be true. But I think we need to do better in talking about what marriage really is. We’ve been hoping for a vote to “protect marriage,” but perhaps we’ve been too focused in “out-voting” the issue than explaining it. Now we have to be more articulate. I can’t see that as a bad thing.

Religious freedom? That battle is far from over. More lawsuits have been leveled toward the Federal Government on this matter than any other in American history, and most of lower court results have been respecting religious rights. Obama’s reelection doesn’t
make the HHS mandate a slam dunk, though that would have been nice—just as it
would have been a non-issue if Obamacare was flipped by the Supreme Court. But
it seems we’re just not going to get any short cuts on this: the issue of religious freedom will need to be directly addressed by the Supreme Court. And that could be a great thing.

One “positive” thing you can say about Obama is that he’s done more to unite the Catholic Church in America than anyone in the past 50 years. He got every Catholic bishop to stand against him. He also did a lot to unite the Christian Church—remember Mike Huckabee saying, “Today, I’m Catholic!” Heck, he even got evangelical Christians to back a Mormon for president.

If we had woken up this morning with the headline, “Romney is the President,” we might have gone back to sleep feeling secure in one nation under God. We could be thankful that this HHS nonsense is over and we can go back to our lives. We could be hopeful that
abortions would be reduced thanks to government intervention. That’s how I hoped to start the day.

But God does not want us asleep. He wants us awake. He wants us to do the same thing we’ve been doing: pray, work, and fast for our country.

If we thought we could wake up and feel safe about these issues because Romney got elected then we’d be as foolish as those on the other side of these issues who think Obama is the “savior.” We can’t depend on the government for our spiritual “welfare.” We’ve
got to go out and proclaim God’s truth with our lips and share His love from our hearts.

I’m bummed that Obama won. I know a lot of people who worked really hard during this election and I can’t imagine how devastated they feel: any time you spend work on a “failed” effort it’s always heart-breaking.

But I still have hope, and not the “hope” that Obama talked about to a cheering crowd this morning. His “hope” was optimism based on the human spirit; our hope is rooted in Jesus
Christ and in His saving power. The hope Obama offered four years ago hasn’t materialized, but our hope in Christ is “an anchor for the soul, firm and secure” (Heb 6:19.)

The re-election of Barack Obama means that Christians in the United States have to stay united and actively proclaim the truth of the Gospel if we are to protect the values we
believe were given to us from God. It means we have to pray more, work harder,
and be more active in sharing our faith. If we do that, it would be a more important “result” than any political office we could ever vote for.

I’ll end with what we prayed in Mass this morning: ”The Lord is my light and my salvation, whom shall I fear? The Lord is my life’s refuge; of whom should I be afraid?” (Psalm
27:1)

nguồn: anh chị Thụ & Mai gởi

 

 

 

“Nhìn nhau đi em, để thấy những giòng xanh,”

“Nhìn nhau đi em, để thấy những giòng xanh,”

“Hạnh phúc trần gian đang lăn từ khoé mắt.”

(Dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Mc 13: 24-32

Giòng xanh ấy, hôm nay đang tàn phá chốn dân gian, vẫn ngủ vùi.

Đó, là lời thánh Máccô nay nhắn nhủ ở trình thuật về cảnh tình trời đất rất nhũng loạn. Bởi, vẫn cứ tranh giành tiền bạc cùng quyền lực, nên thiên hạ hành hạ nhau, tàn phá/chém
giết nhau rồi cùng nhau đi đến chỗ tự diệt. Dân con ở đời, người người đang ở vào tình huống có cuộc sống vỡ đổ về văn hoá cả Đạo lẫn đời muốn cất bỏ mọi hỗn loạn khỏi đời mình. Là con dân Chúa, ta có thể và có bổn phận nói lên tiếng nói của mình để sửa sai thoát cơn tệ hại ngày thế tận. Nhưng, không kiểm soát được hỗn loạn ở chốn phồn hoa bát nháo, do hệ thống văn hoá, xã hội và chính trị mạnh hơn mình.

Tin Mừng chương 13, thánh Máccô không tạo cảnh hỗn loạn sánh tày vào ngày tận thế. Thánh sử chỉ trích dẫn những gì người xưa tưởng tuợng hoặc nắm chắc, thôi. Thánh nhân còn muốn nhắn nhủ dân con người đọc hãy để tâm vào lời dạy của Chúa, rồi nghe tiếp
câu nói ở đoạn sau: Chớ ưu tư/muộn phiền nhưng đề cao/cảnh giác quyết sống thực
lời Chúa, vì người người chẳng rõ tương lai mai ngày, mình ra sao. Hãy sống hiện tại, thế cũng đủ.

Thánh Máccô không là nhà thần học cánh chung, mà chỉ là đấng thánh khôn ngoan, biết sống thực tế ở đất phàm, mà thôi. Thế nên, thay vì lập đi lập lại cảnh thế tận, có lẽ ta nên để
tâm nhiều đến môi trường địa cầu, để thấy rằng: càng ngày ta càng thấy rối rắm, trục trặc xảy đến nhiều hơn mình suy đoán. Vì vậy, hãy nhất quyết làm điều gì đó, cho cánh chung. Chứ không chỉ sống đời hiện sinh thực tiễn. Đây, là lập trường nhằm cập-nhật-hoá chuyện cánh chung lẫn tư tưởng được thánh sử nói từ trước.

Cập-nhật-hoá tư tưởng, có 9 sự việc cần bảo nhau, là: tính đa dạng sinh thái, hay thay đổi khí hậu, ngập tràn chất nitrôgen, cách sử dụng đất, cạn nguồn nước uống, độc chất uế
tạp, dùng bình phun xịt không hạn chế, axít đổ vào biển vô trách nhiệm, tầng ô-zôn bị khuyết/thủng, vv…

Tính đa dạng của sinh thái, vẫn thấy dẫy đầy nơi đất trời. Một số loài, nay trên đường tuyệt chủng. So với tình hình vào độ 40 năm trước, thì nay có đến một phần ba loài thú đã
biến mất. Một phần tư động-vật có vú và một phần ba động-vật lưỡng-cư cũng như một phần tư tôm cá nước ngọt cùng 15% chim muông trên trời đang bị hoạ tuyệt chủng, cũng rất chóng. 65 triệu năm nay, đây là thời điểm nguy hiểm nhất trong đó nhiều loài đang bị đe doạ biến mất dạng, rất khủng khiếp. Thời đại trước cách mạng kỹ nghệ, mỗi năm chỉ thấy có một phần triệu thú loài bị hoạ tuyệt chủng. Nay, thì con số ấy gia tăng gấp bội lên đến trăm lần. Và, theo sự tính toán của các chuyên gia, có đến cả nghìn thú loài như thế đang biến mất, mỗi một năm. Sinh thái địa cầu nay lại bị đe doạ rất trầm trọng.

Khí hậu đổi thay nay thấy rõ. Không chỉ loài người mà tất cả mọi loài lâu nay chung sống đề huề/an vui trong bầu khí quyển có khí trong lành cùng thở, nhưng nay: sức khoẻ của mọi
loài cũng như chất lượng của sự sống, nay được cân đo đong đếm tính bằng số lượng thành phần trên cả triệu các-bon điôxýt bốc lên trời. Vào khi bắt đầu cuộc cách mạng kỹ nghệ, tỷ số thán khí ở bầu khí quyển là 280 phần trên một triệu các-bon điốxýt, nay đếm thấy nó lên 390 thành phần trong một triệu chất các-bpn điôxít. Hậu quả tiếp theo sau, là lớp băng tảng ở Bắc Cực đã nhanh chóng vữa chảy khiến nước biển cứ thế dâng cao. Khắp địa cầu, nay lại thấy nhiệt độ hâm nóng quả đất rất gia tăng. Lượng tuyết rơi ngày một ít, trong khi đó mực độ mưa dầm lại đã ở mức trầm kha, rất báo động.

Tệ hại hơn nữa, lại là tình trạng đất trồng trọt nay nứt nẻ/khô đanh, sông ngòi đà cạn nước, rừng xanh nay khô héo, nạn cháy rừng lại cứ bốc đồng tự phát. Các dấu hiệu của tình trạng
hiểm nghèo rày tăng nhanh vượt mọi ước đoán, so sánh. Nếu đà này tiếp tục, e rằng chẳng mấy chốc các tảng băng Bắc Cực cũng sẽ tan vữa; và mưa nguồn nhiệt đới cũng bị vạ lây.

Trong khi đó, chất nitrôgen từ phân-bón hoá-học lại đã xâm nhập sông ngòi, ao hồ và biển cả, đã khoanh vùng chết chóc dành để cho sinh vật chịu đựng đến tận tuyệt.

Sử dụng đất miền đặc trưng đáng lẽ không được phép tùy tiện cho mục đích nào khác ngoài ý hướng phù hợp với thiên nhiên, đất trời. Chốn miền tạm dung cũng như mưa mùa nhiệt đới tạo thực phẩm nuôi sống mọi loài, nay bị con người khai thác gỗ để kinh doanh khiến cây xanh đành chịu cảnh nhà giàu bức tử, chẳng cần nghĩ đến ai.

Nguồn nước trong xanh ờ sông ngòi, ao hồ, miền đất ướt vốn từng là nguồn sống cho phần tư động vật có xương sống hiện diện khắp thế giới, cũng bị cạn. Xưa nay, lằn ranh giới hạn sử dụng nước được chú trọng rất cẩn thận, nay thì hầu như con người chẳng còn biết
quan tâm đến cảnh báo là mình sắp sửa vượt lằn ranh khẩn trương ấy.

Chất độc phế thải tựa như thuốc DDT, bao ny lông, nhựa dẻo, vv. nay tràn lan đây đó khiến tôm cá cùng chim muông nuốt vào rồi đi dần đến cõi chết, hết thấy thiên đường. Cả đến thú
đàn ở dưới đất cùng loài chim trên trời cũng bị đủ mọi loại hoá chất giết chết dần mòn, hết chữa chạy.

Bình xịt phun đựng khí CFC cùng khói đen thải từ các lò kỹ nghệ dơ bẩn ở nước nghèo thuộc thế giới thứ ba kéo về xâm nhập đá băng Bắc Cực khiến tuyết trắng khi xưa nay trở thành xam xám đen bẩn chẳng còn kỹ năng phản ánh nắng ấm về nơi tăm tối, cần tia ánh hạnh phúc.

Nay thì, 85% biển sâu hầu như bị axít-hoá nhiễm đầy chất thải từ các nhà máy, vẫn cứ dồn về biển xanh, nay hết xanh. Kết cuộc, biển cả mênh mông chuyên hấp thụ dưỡng khí nay đã
nghẹn thở ngày một trầm trọng, khiến biển không còn khả năng nuôi dưỡng mọi sinh vật ở vùng biển, nữa. Thay vào đó, là chế độ axít-hoá đậm đặc ngày một gia tăng đến 30% so với dạo trước. Điều đó, cứ đe doạ mãi vùng biển san hô và mọi loài cá, tôm, điệp, mực từng là nguồn thực phẩm nuôi dưỡng mọi loài chim chóc cùng loài người này cạn biến. Cuối cùng, bầu khí quyển chứa đựng ôxy cho mọi loài hít thở lại cũng dần dà đặc sậm những là thán khí.

Lớp khí CFC đã và đang chọc thủng tầng ô-dôn cần thiết cho con người lại để cho tia cực tím tự tiện xâm nhập vùng hít thở của mọi loài khiến tình trạng sống của sinh vật trở nên
tồi tệ đến mức báo động. Thế đó, là cảnh báo không khác lời thánh sử nhắc ở Tin Mừng. Thế đó, còn có vấn đề: chúng dân nay có để tai nghe lời thánh hiền đề cao cảnh giác, nữa hay không? Và như thế, sự tàn tạ ngày cánh chung, một lần nữa, lại cũng sắp đến?

Cuối cùng, sử gia nhà Đạo mình có nên viết lại chương 13 Tin Mừng thay cho thánh sử Máccô thời đại chăng? Và, người người có nên tự chế việc sử dụng hoá chất độc hại mà thực hiện cuộc sống khắc kỷ/khổ hạnh thêm lần nữa? Có nên mở cuộc tranh luận so sánh nhu
cầu của môi trường và kinh tế không? Phải chăng, kinh tế thế giới rồi ra sẽ thắng cuộc? Và, người người có cần giáp mặt/đụng trận với các dấu chỉ thời đại để làm chậm bớt tiến trình hủ hoá vũ trụ, rất đáng sợ?

Hỏi thế rồi, lại cũng nên trở về với thực tại thi ca hầu ngâm lên câu thơ thực tế, vẫn còn đó:

“Nhìn nhau đi em, để thấy những giòng xanh,

Hạnh phúc trần gian đang lăn từ khoé mắt…

Tình đã đến trong những ngày độc dược,

trong những ngày rữa nát mọi tinh hoa,

trong những ngày sự sống diễn ra,

bằng điên dại dẫm bừa lên sự sống!

Nhìn nhau đi em, để thấy tình nhu thuận,

Bản năng sinh tồn sát ranh giới tử, sinh..”

(Nguyễn Tất Nhiên– Nước Trở Về Lành Lặn)

Ranh giới tử sinh, nay gần kề. Chỉ chờ anh và chờ em, ta quyết định trở về với Nước. Nước lành lặn, cũng là Nước của mọi người cần sống có Chúa, có mọi người cùng tồn tại, rất
vinh quang.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh

Mai Tá luợc dịch

Maria Thanh Mai gởi

Chính nơi Thiên Chúa, con hằng cậy trông!

Chính nơi Thiên Chúa, con hằng cậy trông!

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Ai kính sợ THIÊN CHÚA thì không sợ hãi gì, họ không run rẩy, vì chính nơi Người, họ hằng cậy trông.

Với mái tóc vàng óng ả, đôi mắt trong xanh, nước da trắng hồng, thân hình mảnh
khảnh và cao 1 thước 84, bà Adriana Karembeu quả đúng là người mẫu thời trang lý tưởng. Thế nhưng, từ nhiều năm qua, tên tuổi bà Adriana Karembeu còn được thế giới biết đến qua các dấn thân hoạt động thiện nguyện bác ái trong Hội Hồng Thập Tự. Bà được chỉ định làm Nữ Đại Sứ của Hội. Bà thường mang uy phục có gắn thêm huy hiệu Hồng Thập Tự. Ngoài ra, thế giới thể thao cũng chú ý đến bà vì bà là hiền thê của cựu cầu thủ túc cầu Đội Tuyển Pháp: ông Christian Karembeu.

Bà Adriana Karembeu – nhũ danh Sklenarikova – gốc người Slovak, một quốc gia
cựu cộng sản Đông Âu. Chính bà kể lại kỷ niệm thời thơ ấu nơi quê hương Slovak
và lý do đưa đẩy bà tham gia các công tác thiện nguyện của Hội Hồng Thập Tự.

Tôi sinh ra trong một gia đình thật hạnh phúc. Thân phụ tôi vô cùng nghiêm
khắc. Thân mẫu tôi có nhan sắc ”nghiêng thành đổ nước”. Ngày nay mặc dầu tuổi
cao mẹ tôi vẫn giữ nguyên sắc đẹp ”kiêu-sa” của một phụ nữ đứng tuổi.

Lúc nhỏ tôi ở với Ông Bà Nội vì song thân tôi vẫn còn theo đuổi việc học. Sau
đó tôi về sống với cha mẹ. Mẹ tôi là chuyên viên dinh-dưỡng-học. Với nghề
nghiệp, mẹ tôi phải du hành nhiều nơi, nhưng không bao giờ Mẹ xao lãng công
việc gia đình với nhiệm vụ làm vợ và làm mẹ. Mẹ tôi tự tay chăm sóc kỹ lưỡng
hai chị em tôi và thường chu toàn công việc nội trợ cho đến nửa đêm. Ngoài ra
mẹ tôi có biệt tài khâu may. Trong một xã hội cộng sản nghèo nàn của nước
Slovak, mẹ tôi đã khéo léo chế biến những kiểu áo tuyệt đẹp bằng những thứ vải
rẻ tiền. Có lẽ tôi chịu ảnh hưởng cách ăn mặc thật duyên dáng và rất hợp thời
trang của mẹ.

Bà Nội tôi là nữ y tá trong một Cô Nhi Viện. Lúc nhỏ, tôi thường theo Nội vào
Cô Nhi Viện hoặc theo Mẹ vào Nhà Thương. Đây là hai nơi lôi cuốn cái nhìn trẻ
thơ và để lại nơi tôi tâm tình nhân đạo tràn bờ. Vì thế, sau khi mãn bậc trung
học, tôi quyết định chọn ngành bác sĩ.

Lý do của việc chọn  lựa trước tiên đến từ tâm tình thảo hiếu. Tôi muốn làm vui lòng cha mẹ và muốn cha mẹ hãnh diện về tôi. Vào thời kỳ đó nơi xứ sở Slovak cộng sản của tôi thì
ngành bác sĩ là phân khoa khó nhất.

Và tôi đã thành công trong việc học vì tôi rất yêu thích ngành bác sĩ. Cho dẫu
khó khăn cách mấy, tôi cũng quyết chí theo đuổi. Ba năm học đã để lại nơi tôi
hai kho tàng: khoa học và kỷ luật. Chúng là hành trang quí hóa tôi mang theo
khi vào đời. Thật tuyệt vời!

Đang theo đuổi việc  học thì tôi bỗng lọt vào ”mắt xanh” của một Hãng Thời Trang của Paris, thủ đô nước Pháp. Họ tức khắc trao cho tôi vé máy bay đi Paris tham dự buổi trình diễn thời trang. Tôi hết sức do dự vì tính tình tôi vô cùng nhút nhát. Tôi luôn
mang mặc cảm mình không đẹp vì quá ốm và quá cao. Nhưng thân phụ tôi rất hài
lòng. Ba tôi khuyến khích tôi làm một chuyến du hành ”thử thời vận”! Và chuyến
du hành đầu tiên ấy đã chính thức đưa tôi vào nghề trình diễn thời trang.

Vào năm 1999, khi chiến dịch bãi bỏ mìn-chống-người được tung ra, tôi tức khắc
nhập cuộc. Trước đó tôi đã là nhân viên thiện nguyện của Hội Hồng Thập Tự. Nội
tôi và Mẹ tôi đều là nhân viên Hồng Thập Tự nên chuyện tôi trở thành nhân viên
thiện nguyện của Hồng Thập Tự được coi như là chuyện đương nhiên. Công tác của
Hồng Thập Tự cũng thích hợp với ước mơ ngày xưa của tôi là muốn trở thành nữ
bác sĩ khi tôi chọn ngành y khoa. Thêm vào đó, tự bản tính tôi rất nhạy cảm với
việc bảo vệ mạng sống con người và việc làm giảm bớt các đau đớn khổ sở của con
người. Ngoài ra, tôi thật hãnh diện minh chứng rằng nghề trình diễn thời trang
cũng giữ vai trò trọng yếu trong việc cổ động cho các lý do nhân đạo hoặc văn
minh tình thương.

Trong công tác nơi Hội Hồng Thập Tự điều làm tôi cảm động nhất chính là việc
chứng kiến tận mắt các dấn thân của các thiện nguyện viên. Nhiều người thức
trắng đêm hoặc hy sinh các ngày nghỉ cuối tuần để ra tay cứu giúp những người
lâm nguy, các anh chị em cần giúp đỡ. Trước mắt tôi, chính các thiện nguyện
viên này mới là những ”ngôi sao màn bạc” sáng chói nhất trong xã hội khổ đau
của con người.

… “Người bôn ba hiểu rộng biết nhiều. Kẻ giàu kinh nghiệm phát biểu thật
thông minh. Ai không từng trải thì hiểu biết nông cạn, còn người bôn ba thì
lanh lợi, tháo vát. Trong những chuyến du hành, tôi đã được thấy nhiều chuyện,
đã hiểu nhiều điều mà không thể nói hết. Đã nhiều lần tính mạng tôi lâm nguy,
nhưng nhờ kinh nghiệm, tôi đã thoát chết. Những người kính sợ THIÊN CHÚA sẽ được sống lâu dài, vì họ cậy trông vào Đấng cứu thoát họ. Ai kính sợ THIÊN CHÚA thì không sợ hãi gì, họ không run rẩy, vì chính nơi Người, họ hằng cậy trông. Phúc thay tâm hồn kẻ kính sợ THIÊN CHÚA! Họ nương tựa vào ai? Và ai nâng đỡ họ? THIÊN CHÚA để mắt trông nom những ai yêu mến Ngài. Ngài là khiên mộc vững chắc, là sức mạnh đỡ nâng, là tàn che gió nóng, là bóng mát giữa trưa. Ngài giữ gìn cho khỏi vấp ngã, và bảo vệ cho khỏi té nhào. Ngài nâng cao tâm hồn, sáng soi con mắt. Ngài ban sức khoẻ, sự sống và phúc lành”
(Sách Huấn ca 34,9-17).

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

(”Sélection du Reader’s Digest”, Mai 2006, trang 52-59)

Maria Thanh Mai gởi

ĐẠI THỤ VÀ CÂY SẬY

ĐẠI THỤ VÀ CÂY SẬY

Tác giả: Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

Tại một khu rừng nọ, có một cây đại thụ và một cây sậy mọc gần nhau đã từ nhiều chục năm. Đôi bên vẫn thường tâm sự qua lại mặc dù một bên thì lừng lững cao ngất trời xanh, một bên thì mảnh mai không quá đầu người.

Một hôm đôi bên luận bàn về sức mạnh của nhau.

Sậy khiêm nhường nói:” Tôi biết thân phận bé nhỏ của tôi không bằng anh nhưng tôi nghĩ là tôi an toàn hơn anh.”

Đại thụ nhìn xuống cây sậy cười ngạo nghễ: “Sao chú mày chủ quan tự tin thế. Anh to lớn thế này mà lại kém an toàn hơn chú à. Chú cho ta biết cái gì có thể quật ngã thân hình to lớn với gốc rễ nằm sâu trong đất của ta. Ngoài ra, với chiều cao, ta có thể nhìn xa trông rộng ngắm phong cảnh khắp nơi, hường gió mát trăng thanh mà chú mày chả bao giờ được hưởng”. Rồi cười ha hả khoái chí.

Sậy ta biết thân, âm thầm số phận.

Tối hôm đó, một cơn giông tố thổi về với sấm sét ầm ầm rung chuyển đất trời. Muông thú sợ hãi tìm nơi trú ẩn. Cây cối nghiêng ngả, cành lá tả tơi gẫy rụng vương vãi khắp nơi.

Với chiều cao quá cao, đại thụ chịu không nổi sức mạnh của phong ba bão táp, bật gốc nằm trơ trên mặt đất. Nhìn sang cạnh, nó thấy sậy vẫn đứng trên rễ, chỉ rụng bớt ít chục cánh lá. Ấy là nhờ sậy mọc thấp, uốn mình theo gió lại được các cây lớn hứng hết phũ phàng mưa gió, cho nên sau bão táp, nó vươn mình thẳng lên được. Đại thụ thở dài, ân hận về tính tự cao tự đại của mình, chào vĩnh biệt sậy, chờ thợ rừng tới cưa sẻ về dùng. Thông cảm, sậy nhìn sang ái ngại…chia tay.

Ở đời thiếu gì hoàn cảnh tương tự. Phúc đấy, họa đấy. Khi danh vọng lên cao thì dương dương tự đắc, coi trời bằng vung mà khi xuống thấp thì lủi thủi như chó cắt tai. Giá mà có một chút khiêm cung, nhìn trước nhìn sau, nhận ra thiếu sót của mình để chấn chỉnh tu bổ thì chẳng cũng hay lắm sao.

Khương Tử Nha xưa kia nhận xét: “Chớ thấy mình sang mà khinh người hèn; chớ thấy mình cao mà khinh người thấp; chớ cậy mình khôn mà gạt người dại; chớ cậy mình mạnh mà khinh kẻ yếu”.

Trong khi đó, Montesquier của nước Pháp lại ca tụng:”Hỡi những người khiêm tốn, xin chào đón quý vị. Quý vị đã tạo ra vẻ dịu dàng và thú vị cho cuộc đời. Quý vị tưởng là mình chẳng có gì nhưng tôi nhận thấy quý vị có tất cả”.

Nghe ra, thấy cũng có lý vậy.

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

 

Làm sao chấm dứt đút lót ở bệnh viện?

Làm sao chấm dứt đút lót ở bệnh viện?

Thứ năm, 15 tháng 11, 2012

nguồn: BBC

Bệnh nhân tại một bệnh viện ở thành phố Hồ Chí Minh

Cả bệnh nhân và bác sĩ đều nói người nhà bệnh nhân đưa
phong bì vì cho rằng “có đưa mới yên tâm”

Việc Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến kêu gọi “không đưa phong bì” tại diễn đàn Quốc Hội vào hôm qua, khiến dẫn tới tranh luận về nguyên nhân của tình trạng tiêu cực này và vai trò trách nhiệm Bộ Y tế và nhà nước trong vấn đề này.

Các bác sĩ nói muốn chấm dứt phong bì thì  cần nâng lương cho nhân viên y tế, giải quyết quá tải ở tuyến trung ương và nâng cao nhận thức người dân.

Trò chuyện với BBC Việt Ngữ, bác sĩ Minh Hải tại Hà Nội cho rằng thực hiện việc này là rất khó và hiện nay có thể nói là mới đang ở giai đoạn “hô khẩu hiệu” vì một khi mức lương của y bác sĩ còn quá thấp, không đủ sống, thì khi được biếu phong bì dù biết là sai họ vẫn phải
nhận.

Tuy nhiên bác sĩ Hải cho biết một số bác sĩ mở phòng mạch tư khám thêm ngoài việc đi làm tại bệnh viện và khi với mức thu nhập cao hơn, đủ sống, trên thực tế họ đã không còn nhận phong bì từ bệnh nhân.

Ngoài ra còn là chuyện đã thành thói quen từ phía gia đình bệnh nhân là đã vào bệnh viện là “người nhà bệnh nhân cứ đưa, có đưa thì mới yên tâm”, bác sĩ Hải nói thêm.

“Nhưng văn hóa phong bì không phải chỉ có ở ngành y tế, đến xin học cho con cũng phải có phong bì,” bác sĩ Hải nói.

Muốn chấm dứt tình trạng đưa phong bì như kêu gọi của Bộ trưởng Y tế thì ngoài chuyện cần nâng lương cho nhân viên y tế, còn phải có các biện pháp giải quyết tình trạng quá tải ở tuyến trung ương và đồng thời nâng cao nhận thức của người dân.

“Giáo dục và Y tế là hai ngành có tính đặc thù vì thế cần có những chính sách của nhà nước như tăng lương cho ngành y tế,” theo quan điểm của bác sĩ Hải.

Việc bệnh nhân dễ dàng vượt tuyến dẫn tới tình trạng quá tải ở các bệnh viện tuyến trung ương cũng chính là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng tiêu cực này.

Bệnh nhân tại Việt Nam giải thích tâm lý theo nhau đưa phong bì cho bác sĩ, y tá vì cho rằng như thế mới được đối xử tốt.

Ngoài ra để thay đổi được một thói quen đã định hình từ lâu này chính người dân cũng cần được nâng cao nhận thức mới có hy vọng “nói không với phong bì” như lời Bộ trưởng Y tế kêu gọi.

Trong khi đó, chị Nguyễn Thị Thủy, một người chuyên trông người ốm tại bệnh viện và cũng từng đưa con đi bệnh viện, nói với BBC Việt Ngữ mọi người thường cho rằng phải đưa phong bì mới được bác sĩ đối xử tốt và cho thuốc tốt.

Chị Thủy giải thích việc chữa bệnh theo con đường qua bảo hiểm thường rất chậm và rất nhiều thủ tục. Đây cũng là một nguyên nhân khiến người bệnh chọn “đưa phong bì” để có thể được điều trị nhanh hơn và tốt hơn.

“Tình trạng đút lót phong bì như vậy không thể gọi  là cảm ơn được. Nếu mua quà như hoa quả chẳng hạn để tặng cả một kíp trực, hay kíp làm việc của Khoa đó thì mới gọi là cảm ơn,” chị Thủy nói.

CHAM NGON CUOC SONG – Minh Ngoc Piano – BP (HD)& Bai Khong Ten Cuoi Cung & Ao Lua Ha Dong – Vu Khanh & Paris Có Gì Lạ Không Em?-

 

CHAM NGON CUOC SONG – Minh Ngoc Piano – BP (HD)

httpv://www.youtube.com/watch?v=cLyNiM6CO24&feature=em-uploademail

Bai Khong Ten Cuoi Cung – Vu Khanh

httpv://www.youtube.com/watch?v=o0ntbi_Je0g&feature=related

 

Ao Lua Ha Dong – Vu Khanh

httpv://www.youtube.com/watch?v=RtwFHe4boVI&feature=related

Paris Có Gì Lạ Không Em?-

Ngọc Hạ

httpv://www.youtube.com/watch?v=M2AssmKLwyo&NR=1&feature=endscreen

Giá một nụ cười rẻ hơn giá tiền điện !!!

Giá một nụ cười rẻ hơn giá tiền điện !!!
Giá một nụ cười rẻ hơn giá tiền điện, thế nhưng nụ cười lại tỏa sáng nhiều hơn hàng trǎm bóng đèn điện. Không ai nghèo đến nỗi không thể mỉm một nụ cười, cũng không ai đủ giàu để sống mà không cần đến nụ cười của người khác.
Hình £nh ã ng

Một nụ cười – vốn liếng tuy nhỏ bé nhưng lại sinh hoa lợi nhiều, nó làm giàu cho kẻ đón nhận nó mà không hề làm kẻ trao tặng nó phải nghèo đi. Ngược lại, có khi người ta sẽ còn mãi mãi ghi nhớ. Không ai đủ giàu mà bỏ qua không nhận lấy một nụ cười. Nụ cười tạo được hạnh phúc trong gia đình. Nụ cười là dấu hiệu của nhân ái. Nụ cười làm cho kẻ nhọc nhằn tìm được sự thoải mái dễ chịu. Nụ cười đem lại sự can đảm cho người nản chí, hoang mang.

Nếu có một lúc nào đó trong đời, bạn gặp một ai đó không cho bạn được một nụ
cười như bạn đáng được nhận, thì bạn hãy quảng đại mà nở một nụ cười với người
đó. Bởi vì không ai cần đến nụ cười cho bằng người không bao giờ biết
cười.

Hình £nh ã ng

Có một câu chuyện kể rằng: Saint Exupery từng là phi công tham gia chống phát xít trong Đệ nhị Thế
chiến. Chính từ những nǎm tháng này ông đã viết ra tác phẩm “Nụ cười”.. Không biết đây là một tự truyện hay một truyện hư cấu, nhưng tôi tin rằng nó có thật.
Trong truyện, Saint Exupery là một tù binh bị đối xử khắc nghiệt và ông biết nay mai có thể bị xử
bắn như nhiều người khác. Ông viết: “Tôi trở nên quẫn trí. Bàn tay tôi giật giật, cố gắng rút trong túi áo một điếu thuốc. Nhưng tôi lại không có diêm. Qua hàng chấn song nhà giam, tôi trông thấy một người cai tù. Tôi gọi: “Xin lỗi, anh có lửa không?”… Anh ta nhún vai rồi tiến lại gần. Khi
rút que diêm, tình cờ mắt anh nhìn vào mắt tôi. Tôi mỉm cười mà chẳng hiểu tại vì sao lại làm thế. Có lẽ vì khi muốn làm thân với ai đó, người ta dễ dàng nở một nụ cười. Lúc này dường như có một đốm lửa bùng cháy nhanh qua kẽ hở giữa hai tâm hồn chúng tôi, giữa hai trái tim con người. Tôi biết anh ta không muốn, nhưng do tôi đã mỉm cười nên anh ta phải mỉm cười đáp lại.

Anh ta bật que diêm, đến gần tôi hơn, nhìn thẳng vào mắt tôi và miệng vẫn cười. Giờ đây trước mặt tôi không còn là viên cai ngục phát xít mà chỉ là một con người. Anh ta hỏi tôi: “Anh có con chứ?”. Tôi đáp: “Có” và lôi từ trong ví ra tấm hình nhỏ của gia đình mình. Anh ta cũng vội rút trong túi áo ra hình những đứa con và bắt đầu kể lể về những kỳ vọng của anh đối với chúng.
Đôi mắt tôi nhoà lệ. Tôi biết mình sắp chết và sẽ chẳng bao giờ gặp lại được
người thân. Anh ta cũng bật khóc. Đột nhiên, không nói một lời, anh ta mở khoá và kéo tôi ra khỏi buồng giam. Anh lặng lẽ đưa tôi ra khỏi khu vực thị trấn chiếm đóng, thả tôi tự do rồi quay trở về. Thế đó, cuộc sống của tôi đã được
cứu rỗi chỉ nhờ một nụ cười. ”

Từ khi đọc được câu chuyện này tôi nghiệm ra được nhiều điều. Tôi biết rằng bên dưới mọi thứ vỏ bọc
chúng ta dùng để thủ thế, để bảo vệ phẩm giá và địa vị, vẫn còn đó một điều thật quý giá mà tôi gọi là tâm hồn.
Tôi tin rằng: nếu tâm hồn bạn và tâm hồn tôi nhận ra nhau thì chúng ta chẳng còn gì phải sợ hãi hay cǎm thù oán ghét nhau. Nếu bạn từng có một khoảnh khắc gắn bó với đồng loại qua sức mạnh của nụ cười, thì tôi tin rằng bạn cũng đồng ý với tôi, đó là một phép lạ nho nhỏ, một món quà tuyệt vời mà chúng ta có thể
dành cho nhau.
Hình £nh ã ng

Một nữ tu ở Calcutta đã cảm nhận được điều này trong cuộc sống, và bà đưa ra lời khuyên chân thành: “Hãy mỉm cười với nhau, mỉm cười với vợ, với chồng, với con cái bạn và với mọi người
dù đó là ai đi nữa, vì điều này sẽ giúp bạn lớn lên trong tình yêu của nhau . .
. ”

http://farm4.static.flickr.com/3502/4021496023_c9a833f1f9.jpg
nguồn: Anh chị Thụ & Mai gởi

Dùng Cần Sa Ở Thanh Thiếu Niên

Câu Chuyện Thầy Lang: Dùng Cần Sa Ở Thanh Thiếu Niên

(11/16/2012)

nguồn: vietbao.com

Tác giả : Bác Sĩ Nguyễn Ý Đức

Trong cuộc bầu cử chức vụ Tổng Thống Hoa kỳ cũng như Thượng Hạ Viện liên bang ngày 6 tháng 11, 2012 vừa qua, có thêm hai tiểu bang Connecticut và Massachusetts đã hợp thức việc dùng cần sa trong mục đích y học. Như vậy là hiện nay có 18 tiểu bang Hoa Kỳ và Washington D.C. cho phép dùng cần sa để trị bệnh. Trước sự việc này, nhiều bậc phụ huynh cảm thấy e ngại vì con em mình sẽ có thêm cơ hội để hút cần sa.

Tại nhiều quốc gia, trẻ em bắt đầu thử với cần sa ngay từ khi còn ở lớp 8, lớp
10. Trẻ em ghiền dễ đưa tới những hành động vô ý thức, những tổn thương cơ thể
do tai nạn hoặc dính líu vào hành động tình dục không muốn và không an toàn.
Chúng cũng hay mang vũ khí nhỏ và hay đánh lộn hơn là trẻ không dùng cần sa.

Sớm khám phá để hỗ trợ, cứu giúp là điều cần thiết ngõ hầu tránh được những hậu
quả không tốt cả về thể xác, tâm thần và xã hội cho con trẻ.

a-Những dấu hiệu dùng cần sa ở tuổi trẻ

Trẻ em dùng cần sa đều rất dễ dàng nói dối để phủ nhận có vấn đề khi cha mẹ căn
vặn. Nhiều khi nói chỉ hút chứ không hít vào. Cho nên các bậc cha mẹ đều cần đề
cao cảnh giác, để ý những dấu báo hiệu dùng thuốc ở con mình.

Dấu hiệu sớm nhất thường là thay đổi thái độ và hành động của chúng.

Học hành đang chăm chỉ tiến bộ, trở thành chểnh mảng, có điểm xấu, hay trốn học
hoặc đi học trễ, bị đuổi; tính tình thay đổi, kém tập trung, mau quên.

Tác phong bất thường có thể là tự cô lập, thu mình không giao tiếp với ai, buồn
rầu, cáu gắt với anh chị em trong nhà, bỏ những giải trí thường ưa thích, đôi
khi ăn cắp vặt để có tiền mua thuốc.

Các em ăn ngủ thất thường, hay than phiền chóng mặt, mệt mỏi, bước đi không
vững, mắt đỏ hoe. Nhiều em trở nên hoang tưởng, hoảng hốt một cách vô cớ. Trên
quần áo, trong phòng ngủ có mùi cần sa.

b-Những nguy cơ đưa đến tuổi trẻ dùng cần sa

Hầu hết người dùng cần sa đều nói là để có cảm giác thoải mái và yêu đời. Với
trẻ em thì có rất nhiều lý do khiến các em hút rồi ghiền cần sa.

– Nhiều em thấy người khác hút, tò mò thử coi xem sao, sau nhiều lần thấy thích
rồi thành thói quen và ghiền.

– Có em thì bị bạn bè ép dụ hoặc tình nguyện dùng khi muốn được chấp nhận vào
băng nhóm.

– Nhiều khi các em dùng vì sống trong gia đình có người ghiền rượu, thuốc ma
túy.

– Các em dùng để giải tỏa buồn bực, khó khăn xảy ra trong gia đình như bố mẹ
bất hòa, vắng mặt thường xuyên, tính tình bất nhất lúc khó khăn lúc buông thả.

– Các em gặp trở ngại trong việc học, không được hướng dẫn cho tương lai, trốn
học.

– Có nghiên cứu cho thấy gene di truyền cũng có vai trò trong việc dùng cần sa
và các thuốc khác.

c-Tác dụng của cần sa

Cần sa có tác dụng khác nhau trên cơ thể tùy theo cách dùng, có dùng chung với
rượu hay các thuốc khác, nhất là có chứa nhiều hay ít hoạt chất cannabinol.

Có cháu sau khi dùng trở nên như mất cảm giác, tê dại. Nhưng đa số lại thấy
tinh thần lên cao do đó có chuyện lạm dụng. Cháu cười nói huyên thuyên nhưng
không gẫy gọn, mạch lạc. Chúng như bị thu hút bởi những cảm giác, âm thanh, mùi
vị thông thường và thấy những sự việc vụn vặt trở nên hấp dẫn, khêu gợi. Với
các cháu, khái niệm về không gian không còn, chúng như bị phân đôi và thời gian
như lắng đọng, chậm lại.

Các cháu cảm thấy khát nước và đói. Tim tăng nhịp đập, miệng khô, đi đứng
nghiêng ngả mất thăng bằng, cử động chậm chạp, cặp mắt đỏ ngầu, con ngươi mở
to. Huyết áp lên cao, nhất là khi dùng cần sa chung với các thuốc kích thích
khác hay với rượu.

Sau đó khoảng vài ba giờ thì triệu chứng phai lạt dần và người phi thuốc
cảm thấy rã rượi rồi đi vào giấc ngủ triền miên.

d-Diễn biến sự lạm dụng

Cũng như đối với các hóa chất có thể lạm dụng khác, người dùng cần sa sẽ trải qua
mấy giai đoạn:

– Nghe nói cần sa làm tinh thần phấn khởi, yêu đời, nên muốn thử cho biết.

– Sau vài lần thử thấy hay hay, hấp dẫn bèn thử nữa.

– Ám ảnh với cảm giác thích thú kích động bèn dùng thường xuyên hơn và dùng mọi
thủ đoạn để có thuốc.

– Giai đoạn cuối là dùng bất cứ thuốc nào khác thay thế để thỏa mãn cảm giác
mong muốn.

Đó là điểm nguy hại vì khởi đầu từ cần sa các cháu có thể đi tới nghiện các
loại thuốc khác độc hại hơn như là hồng phiến, bạch phiến, rượu mạnh, các hóa
chất kích thích tâm thần khác.

e-Để ngăn ngừa con em dùng cần sa

Thực ra không có phương cách toàn hảo nào để ngăn ngừa việc con người mắc vào
các tật ghiền, nghiện ngập. Hơn nữa thuốc gây nghiền lại hiện diện khắp nơi,
tương đối mua dễ dàng lại luôn luôn quyến rũ người không có nghị lực, không có
quan niệm sống lành mạnh.

Cho tới nay, chưa có dược phẩm nào để chữa người nghiền cần sa, ngoại trừ cố
vấn, đối thoại, giải thích.

– Sự hỗ trợ của gia đình, bạn bè đóng vai trò rất quan trọng.

– Điều cần là cha mẹ phải sống gần gũi với con cái, hỗ trợ, theo dõi sinh hoạt
hàng ngày của con mình.

– Bắt đầu nói chuyện với con cái về ảnh hưởng không tốt đối với sức khỏe của
cần sa và các loại thuốc gây nghiền ngay khi còn bé.

– Cho con cái hay là chúng có thể thảo luận các vấn đề khó khăn với mình bất cứ
lúc nào và trong tinh thần cởi mở, hiểu biết.

– Luôn luôn đề cao cảnh giác: khi nghi là con cái dùng cần sa thì phải hành
động ngay để cứu chữa.

– Đừng ngần ngại do dự khi thấy cần sự giúp đỡ các nhà chuyên môn về ghiền hút.

– Có nhiều chương trình phục hồi dành riêng cho giới trẻ nghiện ngập. Nơi đây
các em sống hoàn toàn nhịn thuốc đồng thời học hỏi cách thức đối phó với các
vấn đề khó khăn về cảm xúc, hành vi, thể xác gây ra do cần sa.

– Quan trọng hơn cả là chính các em phải ý thức được vấn đề và muốn thay đổi.

Kết luận.

Vấn đề dùng cần sa trong trị bệnh đang còn được tranh luận. Phe ủng hộ cũng
nhiều mà phe chống đối cũng không phải là ít. Nhưng việc dùng cần sa để trở
thành ghiền của các em thiếu niên đang là một vấn nạn cho nhiều gia đình và xã
hội. Việc con cái dùng cần sa hoặc các chất gây ghiền khác là mối quan tâm lớn
của các bậc làm cha mẹ.

Tại nhiều quốc gia, trẻ em bắt đầu thử với cần sa ngay từ khi còn ở lớp 8, lớp
10. Trẻ em ghiền dễ đưa tới những hành động vô ý thức, những tổn thương cơ thể
do tai nạn hoặc dính líu vào hành động tình dục không muốn và không an toàn.
Chúng cũng hay mang vũ khí nhỏ và hay đánh lộn hơn là trẻ không dùng cần sa.

Khám phá ra sớm để hỗ trợ, cứu giúp là điều cần thiết ngõ hầu tránh được những
hậu quả không tốt cả về thể chất lẫn tâm thần và xã hội cho con trẻ.

Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức

www.bsnguyenyduc.com

NHỮNG TÁCH CÀ PHÊ

NHỮNG TÁCH CÀ PHÊ

TRÍCH TẬP SAN PHTQ (TỪ BI & TRÍ TUỆ SỐ 15)

Một nhóm sinh viên cũ gặp lại và hẹn nhau cùng trở về trường đại học cũ để thăm một vị giáo sư ngày xưa.

Họ là những người rất thành công và đang có những chức vụ, địa vị cao trong xã hội.

Trong khi ngồi hàn huyên tâm sự với nhau, mọi người bắt đầu than phiền về những sự căng thẳng trong việc làm cũng như trong đời sống của mình.

Vị giáo sư mời những học trò cũ của mình uống cà phê.

Ông đi vào nhà trong và mang ra một bình cà phê lớn, cùng với những ly tách đủ loại: bằng sứ, bằng plastic, bằng thủy tinh, có những tách nhìn rất tầm thường và có những tách nhìn rất đắt tiền và sang trọng.

Vị giáo sư mời những học trò cũ của mình tự rót lấy cà phê uống.

Khi mỗi người đã có một ly cà phê trong tay, vị giáo sư nói:

– Nếu các anh chị để ý, những tách cà phê đẹp và đắt tiền được chọn lấy trước hết, chỉ còn lại những ly tách rẽ tiền và tầm thường. Đối với các anh chị việc ấy cũng bình thường
thôi!

Chúng ta ai mà lại chẳng muốn chọn cho mình những gì hay và đẹp nhất, nhưng đó cũng là nguyên nhân của sự căng thẳng và những khó khăn của các anh chị trong cuộc sống.

– Những gì anh chị muốn, thực sự là cà phê, chứ đâu phải là chiếc tách,

Nhưng các anh chị lại cố ý đi lựa cho mình những chiếc tách đẹp nhất và thỉnh thoảng cũng nhìn sang người bên cạnh, xem họ có những chiếc tách nào.

– Cũng vậy, nếu cuộc sống là cà phê, thì những công việc, tiền bạc, địa vị trong xã hội là
những chiếc tách.

Chúng chỉ là những phương tiện để chứa đựng sự sống của mình, chứ phẩm chất của sự sống không hề khác biệt.

– Và nhiều khi chúng ta vì quá chú ý và tập trung vào những chiếc tách mà lại quên thưởng thức hương vị cà phê thơm ngon trong ấy.

– Vì vậy cho nên các anh chị nhớ, đừng để những chiếc ly tách sai xử mình.

Hãy thưởng thức hương vị cà phê thơm ngon của cuộc sống.

Hạnh phúc không có nghĩa là mọi vấn đề chung quanh chúng ta phải được hoàn toàn.

Hạnh phúc có nghĩa là chúng ta biết nhìn xa hơn, vượt ra ngoài những sự bất toàn ấy !

SUY NGẪM:

Con người nên  thay đổi sự suy nghĩ, sao cho thích hợp với hoàn cảnh và với những người
chung quanh, khi vô phương thay đổi hoàn cảnh hay thay đổi những người chung quanh.

Trong câu chuyệntrên, cà phê là thứ sẽ thuộc về mình, ly tách là thứ phải để lại, thuộc về người.

Cho nên, bằng lòng thưởng thức, thích những gì mình có, hạnh phúc hơn là:  thích những gì mình không có, hay không thể có.

nguồn: Anh chị Thụ & Mai gởi