Chúa Là Nơi Con Nương Tựa

Chúa Là Nơi Con Nương Tựa

                                                                                    trích Lẽ Sống

     Dạo tháng 6 năm 1985, những người theo dõi truyền hình bên Tây phương vẫn còn nhớ mãi hình ảnh chiếc máy bay đang đậu ở phi trường, với viên phi công trong buồng lái ngó ra ngoài nói chuyện với một số phóng viên, trong khi có một người đứng bên cạnh, cầm súng dí sát vào đầu viên phi công. Ðó là hình ảnh của viên phi công John Testrake trên chiếc máy bay của hãng hàm không TA, bị không tặc uy hiếp trên đường bay từ thủ đô Hên của Hy Lạp về La Mã. Trong suốt 17 ngày, không tặc đã dùng lựu đạn và súng uy hiếp viên phi công, buộc ông phải bay từ Bút qua Alger rồi bay về Bút cả thảy bốn lần. Họ cũng đã bắn chết một hành khách, đánh đập một số hành khách khác. Cuối cùng họ đã để cho 39 con tin trên máy bay được đem đến một căn nhà ở Bút rồi được chở về Ðoác trước khi được trả tự do. Mặc dù không phải là con tin trên chiếc máy bay đó, nhiều người cũng thấy căng thẳng hồi hộp chỉ vì theo dõi tin tức trên truyền hình hay truyền thanh…

     Mới đây, viên phi công John Testrake có thuật lại kinh nghiệm hi hữu của mình. Anh nói như sau: “Lúc đó, tôi biết chắc chắn là có Chúa ở với tôi, nên tôi không những không sợ hãi mà còn tràn ngập bình an tin tưởng là khác”. Anh cũng nói thêm rằng anh đã theo đạo năm lên 25 tuổi, nhưng lúc bấy giờ anh chưa thật sự thức tỉnh, bắt đầu đọc Kinh Thánh và cầu nguyện một cách đều đặn. Nhờ có Kinh Thánh mang trong mình, cho nên trong suốt 17 ngày bị uy hiếp, anh vẫn không tỏ ra nao núng vì tin chắc có Chúa đang phù trợ anh…

     Cách đây hai năm, John Testrake đã xin thôi không làm việc cho háng hàng không TWA để tập trung vào các công việc từ thiện và để lái máy bay đưa các nhà truyền giáo đến các vùng xa xôi hẻo lánh. Ði đến đâu, anh cũng thuật lại việc Chúa đã giải cứu anh, nhất là việc Ngài đã ban cho anh bình an tin tưởng khi phải chạm trán với tử thần.

     Ai trong chúng ta có lẽ cũng hơn một lần chạm trán với tử thần hay kinh qua những giờ phút đen tối trong cuộc sống… Những người không có niềm tin thường sợ hãi bối rối vì không biết những gì đang chờ đợi mình bên kia cuộc sống. Những người có niềm tin hẳn không là những con người không biết sợ hãi, nhưng họ tin rằng bên cạnh họ luôn có Ðấng che chở phù trợ họ.

     Chúng ta có thái độ nào khi đứng trước những giờ phút nguy ngập, những thử thách trong cuộc sống? Chúng ta có tin tưởng rằng có Ðấng luôn ở bên cạnh chúng ta, để giữ gìn, phù hô chúng ta không? Với niềm tin vững vào Tình Yêu của Ðấng luôn có mặt bên cạnh chúng ta, chắc chắn chúng ta có thái độ lạc quan hơn trước cuộc sống, chúng ta sẽ đối đầu với những khó khăn và thử thách với bình thản và vui tươi.

 nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Học chết thử một lần…

Học chết thử một lần… 

image

Hàn Quốc là một trong những quốc gia có tỉ lệ tự tử cao nhất thế giới và chính phủ Hàn Quốc đang phải chịu sức ép ngày càng tăng để ngăn chặn tình trạng này. 

Dường như tỷ lệ nghịch với sự phát triển kinh tế nhanh trên thế giới, nhiều người Hàn Quốc ngày càng cảm thấy ít hạnh phúc hơn. Số liệu mới nhất của chính phủ Hàn Quốc cho biết các vụ tự tử ở nước này đã tăng hơn gấp đôi trong 10 năm qua. Trung bình mỗi ngày ở Hàn Quốc có tới 42 người tự tử khi đang ở độ tuổi từ 10-40. 

image

 Tự tử là vấn nạn lớn của Hàn Quốc. Trong ảnh, người hâm mộ đội mưa tưởng nhớ Park Yong Ha – một diễn viên nổi tiếng Hàn Quốc, tự tử năm 2010. Hình minh họa

 Cứ 100.000 người thì có đến 28 người chết do tự tử, tỉ lệ cao nhất trong số 33 thành viên thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD). Đặc biệt, những người tự tử ở độ tuổi 20 chiếm đa số với 44,6%. Chưa hết, trẻ vị thành niên cũng không là ngoại lệ ở Hàn Quốc. Bộ Giáo dục Hàn Quốc cho biết chỉ trong năm 2010 đã có tới 146 học sinh tự tử, trong số đó có 53 em học cấp 2 và 3 em học tiểu học.

image

 Giải mã cho xu hướng tự tử đã thành trào lưu ở Hàn Quốc, các chuyên gia tâm lý nhận định rằng hầu hết các nạn nhân đều bị mắc chứng bệnh trầm cảm nặng do phải chịu quá nhiều áp lực, gặp khó khăn trong công việc hoặc dính tin đồn bôi nhọ người Hàn Quốc rất coi trọng danh dự, họ có xu hướng hình thành lòng tự tôn của mình thông qua cách người khác cảm nhận và đánh giá họ như thế nào. Khi không thể hiện được mình với mọi người theo cách tốt nhất hoặc khi lòng tự trọng bị tổn thương, họ tìm tới cái chết.

 Mở khóa học chết thử để ngăn chết thật

 Để đối phó với “quốc nạn” này, Hàn Quốc đã thực hiện nhiều biện pháp ngăn ngừa như thành lập các trung tâm ngăn chặn tự tử trên cả nước, lắp đặt điện thoại khẩn cấp trên các cây cầu, mở thêm các phòng tư vấn sức khỏe tâm thần trên khắp cả nước, tăng cường các chương trình giáo dục cho giới trẻ…

 Đặc biệt, gần đây ở Hàn Quốc còn có các khóa học “chết thử” để ngăn chặn nạn tự tử đang gia tăng ở nước này. Giáo sư điều dưỡng tại Đại học Sahmyook (Hàn Quốc) Kang Kyung-ah và cũng là người tổ chức khóa học “chết thử” ở một quận Đông Bắc Seoul, cho biết: “Trải nghiệm cảm giác sắp chết sẽ mang lại ý nghĩa về sự sống cho tất cả mọi người, dù họ trẻ hay già”. Còn một người từng có ý định tự tử khẳng định: “Chỉ có một bước từ sự sống đến cái chết, nhưng sự khác biệt rất lớn”.

 Theo Giáo sư Kang, “khóa học này có thể giúp nhiều người thay đổi nhận thức về ý nghĩa cuộc sống và giúp họ có cơ hội hiểu bản thân hơn”. Dẫn chứng cụ thể, ở tuổi 62, ông Ha Yu-soo bắt đầu lo nghĩ về cái chết và tự hỏi không biết khi nào tử thần sẽ gõ cửa. Thế rồi, ông Ha quyết định tham gia một lớp học “chết thử” ngay tại Hàn Quốc.

 Ông được mặc một chiếc áo choàng truyền thống bằng sợi gai dầu màu vàng (thứ trang phục được mặc cho người chết ở Hàn Quốc) và nằm vào trong một chiếc quan tài. Ông cảm thấy bình an cho đến khi nắp quan tài đóng lại, chỉ còn bóng tối và sự ảm đạm. Khi đó, ông mới nhận ra nỗi sợ hãi tồi tệ nhất: bóng tối vĩnh cửu cuối cùng đã đến. Bước ra khỏi chiếc quan tài lạnh lẽo, ông Ha nói cùng tiếng thở dài nhẹ nhõm: “Ơn trời vì đây chỉ là một lễ tang giả”.

 Bầu không khí sau đám tang thông thường rất ảm đạm, song những người tham gia “chết thử” lại vui mừng vì được trở lại cuộc sống. Họ bắt đầu vỗ tay và hát vang một bài ca mang tên “Hạnh phúc”. 

image

 Ông Ha là một trong số 70 người tham dự khóa “chết thử” được một văn phòng địa phương ở quận Đông Bắc Seoul thực hiện. Phương châm của khóa học này là: “Đừng biến cuộc sống thành một sự ban ơn”.

 Bà Baek Sung-ok, mắc bệnh ung thư buồng trứng từng từ chối hóa trị vài năm trước, cho biết việc trải nghiệm cái chết thử làm bà cảm thấy trân trọng hơn những người xung quanh. Bà cất tiếng từ trong quan tài: “Tôi sẽ từ bỏ tính tham lam, ích kỷ với chồng và yêu con gái nhiều hơn”.

 Theo China Daily, một hoạt động khác trong khóa học “chết thử” này là viết thư tuyệt mệnh. “Ngay cả khi cha không còn trên cõi đời này, mong các con hãy hòa thuận và vị tha hơn với nhau”, viết những dòng trên cho 4 con yêu của mình, ông Kim Young-sook đã không thể cầm lòng. Đúng là trải nghiệm cảm giác sắp chết sẽ mang lại ý nghĩa về sự sống cho tất cả mọi người.

 Tất nhiên, trong khi một số người thấy đám tang giả như một cách để phản ánh cuộc sống và chuẩn bị cho cái chết, thì nhiều người lại hoài nghi liệu việc mô phỏng cái chết có thể ngăn chặn tự sát và cho rằng một số doanh nhân đang làm việc này để kiếm lời. Giáo sư Kang phản biện: “Thay vì chuẩn bị cho cái chết, chương trình này muốn họ nghĩ về cuộc sống và tận hưởng nó một cách có ý nghĩa hơn”.

Theo Phụ nữ Thủ đô

 Chết thử và Chết thật

 

image

 Chuyện mô tả một người giả vờ chết sau khi uống một ly nước lọc, mà người nhà tưởng ông đã uống thuốc độc để quyên sinh. Ðã hơn nửa thế kỷ qua, tôi không còn nhớ tác giả mô tả nhân vật chính trong vở kịch giả chết như thế nào và có sự phụ giúp của ai không, nhưng trong khi chờ tẩm liệm, ông được nghe và biết con cái, bà con và bạn bè của ông nói về ông và đối xử với ông như thế nào!

 Bạn cứ thử tưởng tượng ra khi đã nằm trong quan tài ở nhà quàn rồi, mà bạn có thể nghe những người đến viếng, bề ngoài thắp nén nhang kính cẩn viếng bạn, nhưng sau đó lại đàn đúm nói xấu bạn hết lời, hay đứa con bất hiếu đang toan tính chi ly chia phần phí tổn tang lễ sau này cho anh em ra sao,  và lăm le để ý đến cái nhà, cái xe, trương mục trong ngân hàng của bạn và rồi đây sẽ gửi người vợ già của bạn vào nhà dưỡng lão nào?

 Giá người ta có thể chết thử một lần rồi sống lại thì sướng biết mấy? Bạn sẽ biết có bao nhiêu trang báo chia buồn, sẽ có bao nhiêu tràng hoa viếng, bao nhiêu người tiễn chân bạn đến mộ phần. Sẽ có bao nhiêu người vui mừng khi nghe tin bạn qua đời, và sẽ có những ai thương yêu thật sự, bàng hoàng, tiếc nuối về sự ra đi của bạn.Thế giới này không còn sự hiện hữu của bạn có thay đổi gì không?

 Nhưng người ta chỉ có thể chết một lần, nên mọi điều xẩy ra sau cái chết, vui buồn, xấu tốt, bạn không thể nào biết được, nếu chết là hết. Thôi như thế cũng hay! Nếu biết những gì xẩy ra sau cái chết của bạn, có hai điều xẩy ra, một là bạn muốn chết phứt đi cho xong, hai là lại yêu cuộc sống này hơn. Tôi nghĩ là bạn sẽ chọn điều thứ hai, vì dầu sao cuộc sống này cũng không đến nỗi nào đáng ghét.

 Một văn phòng dịch vụ ở Hán Thành, Nam Hàn có sáng kiến là sẽ tạo cơ hội cho khách hàng qua một lần chết thử, để thấy cảm giác nó ra sao, cũng như quan niệm về sự sống có gì thay đổi, khi bạn, coi như từ cõi chết, sống trở lại, dở nắp hòm ngồi dậy. Ông Ha Yu-soo, 62 tuổi là một người khách hàng của dịch vụ chết thử. Ông mặc một bộ quốc phục dành cho người chết khi tẩm liệm, nằm thẳng trong quan tài chiếc quan tài chật hẹp, ông không cảm thấy điều gì khác lạ thay đổi, cho đến khi nắp quan tài được đóng lại và nghe tiếng búa gõ trên nắp hòm. Trong bóng tối vây tỏa, lặng câm, ông cảm thấy sợ hãi vô cùng, tưởng như mình đã chết thật. Những giây phút trong bóng tối dày đặc đó, những ý nghĩ chết chóc ập đến, và bao nhiêu ý nghĩ hiện lên trong đầu óc ông. Nhưng may, ông đã trấn an mình: “Ðây chỉ là một sự chết giả mà thôi!” Lạy trời, đẹp đẽ biết bao khi ta vẫn còn sống! Từ“phút chết” trong bóng tối bước ra ngoài ánh sáng của sự sống, trong tâm hồn ông đã có một sự thay đổi lớn.

 Ban tổ chức khóa học, cho biết, kinh nghiệm về cảm giác sắp chết sẽ mang lại ý nghĩa về sự sống cho tất cả mọi người, bất kể họ già hay trẻ, thuộc tầng lớp nào trong xã hội.

 Sau khi chết thử, những người này cảm thấy sự sống đáng quý hơn, những người chung quanh mình đáng yêu hơn, tha thứ mọi lỗi lầm của kẻ khác. Ðiều này cũng như sau khi thoát chết trong một tai nạn thảm khốc nào đó, con người trở nên hiền lương, bỏ mọi sự tham lam, cố chấp hẹp hòi, và mở rộng tấm lòng hơn đối với tha nhân.

 Nhiều người đã thay đổi sau khi họ thoát chết từ vụ tháp đôi ở New York hay từ vụ Tsunami mới đây của nước Nhật. Chúng ta sẽôm hôn mọi người, xem cái tôi từ nay là hạt cát, chúng ta sẽ không còn kẻ thù, không còn ai để ghét bỏ. Ngoài đường phố sáng nay sao thấy ai mặt mày cũng trung hậu, dễ thương, chúng ta muốn chào hỏi với cả thiên hạ, bắt tay mọi người và la lớn ở góc phố như một thằng điên: “Tôi vẫn còn sống! Tôi yêu thương hết thảy mọi người!”

 Khi nằm trong quan tài “chết thử” có thể người ta sẽ nghĩđến những việc lâu nay chưa làm, những món tiền chưa tiêu hết, những điều chưa nói với ai đó. Trước khi chết, bạn sẽ viết thư cho ai, để lại chúc thư như thế nào, nói những lời trăn trối ra sao? Một người trước khi chết thửđã viết cho con: “Ngay cả khi cha không còn trên cõi đời này, mong các con hãy hòa thuận vàđối xử với nhau tử tế hơn!” Một bệnh nhân ung thưđang ở vào thời kỳ cuối cùng, cho biết, việc trải nghiệm cái chết thử làm bà cảm thấy thương yêu hơn đối với những người xung quanh. Bà hứa “sẽ từ bỏ thói tham lam, ích kỷ với chồng và yêu con cái nhiều hơn”

image

 Ðó chỉ mới là chuyện “chết thử!”Còn như, bằng cách nào đó bạn biết rằng chỉ còn 24 giờđồng hồ nữa thôi, bạn sẽ thở hơi thở cuối cùng, giã từ cuộc đời đẹp đẽ này, thì bạn sẽ làm gì, suy nghĩ ra sao, đối xử với mọi người như thế nào? Trong trương mục ngân hàng, bạn có nửa triệu đồng chưa tiêu hết, bạn sẽ phân bố như thế nào, cho ai? Bạn chưa kịp nói với ai một lời xin lỗi, chưa kịp nói với ai một lời yêu thương. Trong sự hối hả của chút thời gian còn lại, bạn hối tiếc những gì, ân hận điều chi? Có những người trong gian trá, lừa lọc kiếm đồng tiền bất chính, để trở nên giàu có, có những kẻ đạp lên đầu người khác để tìm chỗ tiến thân cho mình, tiền của, danh vọng nào có thể mang theo?

 Không, cũng  như những người chết khác, bạn sẽ ra đi tay không? Chỉ còn 24 tiếng đồng hồ ngắn ngủi nữa thôi, dù có vội vàng, chúng ta cũng không làm kịp những điều chưa làm, sửa đổi kịp những điều lầm lỗi. Ðó là trường hợp chỉ một mình bạn ra đi.Những nhà tiên tri trên thế giới này loan báo về một ngày tận thế, dùđã sai nhiều lần và nói đi nói lại nhiều lần, đến nỗi những lời tiên tri đã trở thành một trò bịp nhảm nhí, nhưng phần tôi, tôi vẫn tin sẽ có ngày như thế. Chúng ta đã thấy cảnh tượng bình địa ở  Hiroshima  và  Nagasaki  vào tháng 8-1945, khi hai quả bom nguyên tử rơi xuống đã giết khoảng 210, 000 người. Trận sóng thần tồi tệ nhất trong lịch sử được ghi nhận là tại Ấn Ðộ Ðương vào năm 2004 đã gây cảnh hoang tàn và giết chết 230,000 người ở 11 quốc gia. Tsunami ở Nhật năm 2011 làm thiệt mạng hơn 20,000 người và những quang cảnh chúng ta thấy ở miền Bắc nước Nhật không khác gì một bãi rác khổng lồ. Ðó chính là hình ảnh cho ta thấy trước những gì sẻ xẩy ra trong ngày tận thế.

 Ðến một ngày nào đó quả đất này sẽ nổ tung hay tất cả các băng sơn ở Bắc Băng Dương sẽ tan rã, nhận chìm địa cầu này dưới hai mươi thước nước. Sẽ không còn một sinh vật nào trên trái đất này nữa! Nếu có một ngày như thế sẽ đến ngay ngày mai đây thôi, liệu chúng ta có sống được một ngày tốt hơn, ngay thẳng hơn, tử tế với đồng loại của chúng ta hay không? Không cần phải chết thử, mỗi người chúng ta đều phải đến một ngày chết thật!

 “Thử chết” ở Thái Lan

 (Tin tuc) – Wat Prommanee là một ngôi đền kỳ lạ tại Thái Lan bởi đến đó bạn có cơ hội trải qua cảm giác chết đi sống lại chỉ với một số tiền nhỏ.

Wat Prommanee nằm cách thủ đô Bangkok 60 dặm về phía Bắc và khi đến đây bạn sẽ được tận mắt nhìn thấy 9 cỗ quan tài lớn với màu sắc rực rỡ nằm ngay tại điện chính. 9 cỗ quan tài được cho là biểu tượng của 9 tầng địa ngục.

image

 9 chiếc quan tài đặt trong ngôi đền Wat Prommanee

 Và điều bất ngờ hơn cả là bạn sẽ thấy hàng nghìn người xếp hàng chờ đợi với mong muốn được trải qua cảm giác chết đi sống lại trong vòng 90 giây.

image

 Đến Wat Prommanee bạn có cơ hội nằm trong  quan tài…

 Được biết kể từ khi nghi lễ đặc biệt này ra đời tại đây, ngôi đền này đã trở nên nổi tiếng trên toàn thế giới và những người bi quan hay cảm thấy tuyệt vọng thường tìm đến đây để cầm một bó hoa, thì thầm những lời cầu nguyện rồi nằm trong quan tài, lắng nghe kinh Phật, tỉnh dậy và cảm thấy cuộc sống tuyệt vời hơn rất nhiều.

 image

 …để thử cảm giác chết đi sống lại.

image

 Khi đó bạn sẽ được lắng nghe tiếng đọc kinh của các nhà sư….

 Chị Nual Chaichamni, một người đã từng trải qua cảm giác đặc biệt này cho biết: “Khi nằm trong quan tài tôi cảm thấy rất ấm áp và khi bước ra, tôi thấy thoải mái hơn trước rất nhiều. Lúc đó, tôi bắt đầu nghĩ về những điều tốt đẹp, nghĩ về hình ảnh của Đức Phật  ở trên điện thờ và tôi cảm thấy tốt hơn”.

 image

 …và khi tỉnh dậy bạn sẽ thấy cuộc sống tốt đẹp hơn trước rất nhiều

 Có lẽ nếu có cơ hội đến thăm Thái Lan, bạn nên tới ngôi đền đặc biệt này để cảm nhận cảm giác khi nằm trong quan tài, lắng nghe tiếng đọc kinh của các nhà sư và để hiểu cuộc sống quý giá đến nhường nào.

 Chết thử một lần cho biết

 (TNO) Những ai muốn biết cái cảm giác nằm trong quan tài ra sao thì xin mời đến khách sạn Mausoleum ở tỉnh Giang Tô (Trung Quốc).

 Chủ khách sạn là một phụ nữ, bà Jiao Meige. Đầu tiên, bà thuê một khu đất định làm trang trại nhưng vì trong khu đất có quá nhiều ngôi mộ cũ nên chẳng ai dám làm việc cho bà. Làm trang trại không xong, bà chủ quyết biến nó thành… khách sạn dựa trên một thế mạnh mà không phải ai cũng có được: những ngôi mộ!

Cái khách sạn của bà được xây giống như một lăng mộ, còn những chiếc giường thì có hình quan tài! Ban đêm, nhân viên khách sạn sẽ không làm việc nên các vị khách quý  tha hồ “chết” mà không sợ bị bất kỳ ai làm phiền. Còn nếu họ thấy buồn thì cứ việc ra khỏi “quan tài” mà thăm viếng các “láng giềng”  nằm trong các ngôi mộ thật ở bên ngoài.

 Đoan Nhật

ĐẼO CHÂN THEO GIÀY

ĐẼO CHÂN THEO GIÀY

Giám Mục Giuse Vũ Văn Thiên

 Nguồn: http://hdgmvietnam.org/deo-chan-theo-giay/3946.95.5.aspx

nguồn:          conggiaovietnam.net

Một câu chuyện ngụ ngôn kể về người thợ đóng giày. Vì tay nghề của ông quá kém, nên khi đóng một đôi giày, khách hàng thường phải yêu cầu ông sửa đi sửa lại nhiều lần. Có một khách hàng đến khiếu nại vì giày của ông quá chật. Đáng lẽ phải nới rộng giày cho vừa với chân thì ông thợ kia lại đề nghị khách hãy “đẽo bớt chân cho vừa giày”.

Ý tưởng của người thợ giày ngược đời và không có tính khả thi. Tác giả muốn qua câu chuyện này cho thấy xung quanh ta vẫn có những hành động phi lý, gượng ép và không mang lại hiệu quả. Trong đời sống đức tin cũng như đời sống xã hội, vẫn còn đó nhan nhản những khuynh hướng theo kiểu “đẽo chân theo giày”.

Khuynh hướng thứ nhất là tự dựng nên một hình ảnh Thiên Chúa theo ý kiến chủ quan

Nếu tác giả sách Sáng thế viết: “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh mình…” (St 1,27), thì nay nơi nhiều người đang có khuynh hướng làm ngược lại: “Con người tạo dựng Thiên Chúa theo hình ảnh của họ (!)”. Thật thế, để tạo nên một thứ tôn giáo đáp ứng được đam mê và sở thích cá nhân, người ta tự xây dựng một hình ảnh Thiên Chúa nhằm thỏa mãn tự do của mình. Các môn đệ xưa kia cũng không thoát khỏi lối suy nghĩ nguy hiểm này. Họ mang một quan niệm sai lệch về sứ mạng thiên sai của Đức Giêsu. Tư tưởng “một người làm quan cả họ được nhờ” cũng thúc bách bà mẹ của hai người con ông Giêbêđê. Bà xin Đức Giêsu cho hai con trai mình, một bên tả, một bên hữu Chúa. Hai chàng thanh niên này cùng đi với mẹ và hăng hái sẵn sàng chấp nhận chén đắng miễn là được hai vị trí quan trọng hai anh đang mong chờ (x. Mt 20,21-22). Ngay cả khi Người vừa loan báo: “Nhưng này bàn tay kẻ nộp Thầy đang cùng đặt trên bàn với Thầy…” (Lc 22,21) thì liền sau đó, các môn đệ vẫn sôi nổi tranh luận xem ai trong nhóm được coi là lớn nhất (x.Lc 22,24). Thậm chí sau khi Đức Giêsu đã trỗi dậy từ cõi chết, một vài người trong họ vẫn còn giữ khái niệm thuần túy nhân loại về sứ mạng của Người. Tác giả sách Công vụ Tông đồ chắc đã mỉm cười hài hước khi ông ghi lại câu hỏi của một số người có mặt: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?” (Cv 1,6). Thật là khó hiểu, vì các môn đệ là những người bỏ mọi sự mà theo Thầy, đã được thụ giáo trong suốt ba năm có lẻ, mà vẫn bị những tham vọng trần thế làm mờ con mắt. Các ông muốn xây dựng hình ảnh một đấng Messia theo nhãn giới trần thế của các ông, với hy vọng được thăng quan tiến chức và hưởng phú quý vinh hoa.

Trong thời buổi kinh tế thị trường, tôn giáo cũng có thể biến thành một thứ hàng hóa bát nháo như một cái chợ. Người ta viện cớ “có thờ có thiêng, có kiêng có lành”, “bên cha cũng kính mà bên mẹ cũng vái”, để duy trì một thứ tôn giáo hỗn tạp. Thiên Chúa bị đặt để ngang hàng với các loại ngẫu thần và các hình thức mê tín dị đoan. Trong cách nghĩ của nhiều tín hữu, Thiên Chúa là người quản lý giàu có và hào phóng, giống như Bà Chúa Kho, khi cần thì đến khấn vái để được những lợi lộc, may mắn. Đây là một quan niệm làm biến dạng đức tin vào Thiên Chúa, rất nguy hiểm. Bởi lẽ khi người ta tin vào Chúa thế nào thì người ta thực hành đức tin như vậy. Một Thiên Chúa để ban ơn lợi lộc thì chỉ được kêu cầu để buôn may bán đắt. Người ta khấn vái Ngài để thực hiện những “phi vụ” làm ăn, bất chấp những điều phi pháp và trái đạo lý con người. Chẳng bao giờ người ta nghĩ đến việc lắng nghe và thực thi Lời Chúa. Tạo nên hình ảnh Thiên Chúa cho mình, đó chính là một hình thức “đẽo chân theo giày” của khá nhiều người thời nay.

Khuynh hướng thứ hai là thực hành đức tin tự do, theo những tham vọng cá nhân

Tại một số nước Âu Mỹ, xuất hiện một cách thức sống đức tin mà người Pháp gọi là “à la carte”. “Carte” là bản thực đơn trong nhà hàng. Mỗi khi khách đến, nhân viên đưa ra một thực đơn để khách hàng chọn những món ăn mình thích. Thành ngữ trên đây muốn diễn tả một cách sống đức tin có chọn lựa, giống như chọn lựa món ăn. Món nào ngon, hợp khẩu vị thì chọn, món nào không hợp thì thôi. Vì vậy, có những người tín hữu chủ trương “Tin Chúa Kitô nhưng không chấp nhận Giáo Hội” hoặc ngược lại. Họ chấp nhận đi nhà thờ, nhưng không lãnh nhận bí tích. Họ nhận mình là người công giáo, nhưng vẫn ly dị hoặc sống chung ngoài hôn nhân. Họ chấp nhận kết hôn, nhưng không sinh con cái. Họ nổi loạn và phản đối từ Đức Giáo Hoàng cho đến mọi phẩm chức trong Giáo Hội, khi họ không được đáp ứng những yêu sách chủ quan của họ. Nói tóm lại, họ chỉ chọn lựa những gì dễ dãi cho bản thân, mà không chấp nhận bất kỳ sự ràng buộc nào do Luật của Thiên Chúa và Luật của Giáo Hội quy định.

Quan niệm sống đức tin theo kiểu “hiện đại” trên đây cũng đã bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam. Nhiều người, nhất là các bạn trẻ, dựa vào lý luận “Thiên Chúa nhân từ” để dễ dàng vượt qua những quy định của Giáo Hội. Họ coi nhẹ những ràng buộc hôn nhân và sự chung thủy vợ chồng. Họ quan niệm quá tự do về tính dục. Đời sống cầu nguyện nội tâm và việc học giáo lý bị coi thường. Nhiều bạn trẻ vẫn nhận mình là Kitô hữu, nhưng lại không thực hành đức tin. Họ dễ dàng từ bỏ danh nghĩa là người công giáo để có thể thăng tiến trong xã hội. Họ muốn thay ngôi đổi vị trong mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa, biến Ngài thành một Thiên Chúa phụng sự con người hơn là con người phụng sự Thiên Chúa. Bắt Thiên Chúa chiều theo con người, chỉ chấp nhận những gì dễ dãi, đây là một kiểu “đẽo chân theo giày” trong việc sống đức tin.

Khuynh hướng thứ ba là hành động vô trách nhiệm

“Mình vì mọi người và mọi người vì mình”, “Lợi ích tập thể phải đặt ưu tiên trên lợi ích cá nhân”… Những câu châm ngôn này xem ra nay đã lỗi thời. Xã hội ngày càng rối ren do con người thiếu trách nhiệm trong cách hành xử, từ lãnh vực cá nhân đến lãnh vực tập thể. Trong lãnh vực cá nhân, người ta nói và làm theo nhận định chủ quan của mình mà không quan tâm đến ích lợi của người khác. Trong lãnh vực tập thể, những người có trách nhiệm chỉ để ý tới lợi nhuận trước mắt mà quên những lích lợi lâu dài.

Những người công bộc của dân được đặt lên để phục vụ và làm cho ích nước lợi nhà, nhưng xem ra phần “ích nước” luôn bị coi nhẹ và phần “lợi nhà” lại là chính. Ấy vậy nên mới có những vị “đầy tớ nhân dân” mà gia tài của họ được so sánh như những đại gia, thậm chí còn giống như vua chúa thời phong kiến, có vườn thượng uyển, có dinh thự xa hoa. Một điều lạ lùng là những vị lãnh đạo kém khả năng và thiếu tư cách, lẽ ra phải cho nghỉ việc thì lại được đề bạt lên cấp cao hơn, đến lúc bị phát hiện thì mọi người tá hỏa vì tổn thất quá lớn và thủ phạm đã cao chạy xa bay. Nhiều người phỏng đoán nếu có bắt được thủ phạm thì cũng “hòa cả làng”. Những cách hành động trên đây đang làm cho đất nước và dân tộc nghèo đi, không chỉ về kinh tế, mà còn nghèo về tình người và nguy hiểm nhất là nghèo về niềm tin.

Trong đời sống xứ đạo, những chia rẽ, cạnh tranh theo kiểu “con gà tức nhau tiếng gáy” vẫn tồn tại. Nhiều khi người ta quên điều cốt lõi của đức tin mà quá nặng về hình thức. Giữa một thời kỳ “trăm hoa đua nở” về xây cất và lễ lạc, việc thực thi công bằng, tôn trọng lương tâm và đời sống cầu nguyện dễ bị coi nhẹ.

Trong lãnh vực gia đình cũng vậy. Nếu ngày xưa các cụ dạy: “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, thì hiện nay đang phổ biến tình trạng ngược lại: “Con đặt đâu cha mẹ ngồi đấy”. Nhiều bạn trẻ tự do và quyết đoán trong việc trăm năm, đưa cha mẹ vào thế “đã rồi” và cha mẹ chỉ còn mỗi việc là làm theo những gì con cái muốn. Họ tự do yêu nhau, tự do quyết định hôn lễ và cũng tự do trong những quyết định hệ trọng của cả một đời người.

Kết luận: “Đẽo chân theo giày” là một lối hành xử trái với tự nhiên hoặc cẩu thả, vô trách nhiệm, nên gây ra những hậu quả vô cùng tai hại. Con người có khả năng và trí thông minh để điều khiển vũ trụ, nhưng họ cũng cần phải lắng nghe sứ điệp của Tạo Hóa để tôn trọng các nguyên tắc mà Ngài đã quy định. Hành động với lương tâm ngay chính, tôn trọng phẩm giá và ích lợi tha nhân, đó chính là bí quyết của thành công trong mọi lãnh vực của cuộc sống chúng ta.

Gm Giuse  Vũ Văn Thiên

******

Cô Giáo Là Mẹ

Cô Giáo Là Mẹ 

                                   Ví mà tôi đổi thời gian được,

                              Đổi cả thiên thu tiếng Mẹ cười.

                                                  (Thơ Trần Trung Đạo)

  Câu chuyện đã xảy ra từ nhiều năm trước. Lúc đó, cô Thompson đang dạy tại trường tiểu học của thị trấn nhỏ tại Hoa Kỳ. Vào ngày khai giảng năm học mới, cô đứng trước những em học sinh lớp năm, nhìn cả lớp và nói cô sẽ yêu tất cả các học sinh như nhau. Nhưng thực ra cô biết mình sẽ không làm được điều đó bởi cô đã nhìn thấy cậu học sinh Teddy Stoddard ngồi lù lù ngay bàn đầu. Năm ngoái, cô đã từng biết Teddy và thấy cậu bé chơi không đẹp với bạn bè, quần áo thì lôi thôi lếch thếch, còn người ngợm thì lại quá bẩn thỉu. “Teddy trông thật khó ưa.”
Chẳng những thế, cô Thompson còn dùng cây bút đỏ vạch một chữ thật rõ đậm vào hồ sơ cá nhân của Teddy và ghi chữ F đỏ chói ngay phía ngoài (chữ F là hạng kém). Ở trường này, vào đầu năm học mỗi giáo viên đều phải xem thành tích của từng học sinh trong lớp mình chủ nhiệm. Cô Thompson đã nhét hồ sơ cá nhân của Teddy đến cuối cùng mới mở ra xem, và cô rất ngạc nhiên về những gì đọc được. Cô giáo lớp 1 nhận xét Teddy như sau:“Teddy là một đứa trẻ thông minh và luôn vui vẻ. Học giỏi và chăm ngoan… Em là nguồn vui cho người chung quanh”. Cô giáo lớp 2 nhận xét: “Teddy là một học sinh xuất sắc, được bạn bè yêu quý nhưng có chút vấn đề vì mẹ em ốm nặng và cuộc sống trong gia đình thật sự là một cuộc chiến đấu”.

Giáo viên lớp 3 ghi: “Cái chết của người mẹ đã tác động mạnh đến Teddy. Em đã cố gắng học, nhưng cha em không mấy quan tâm đến con cái và đời sống gia đình sẽ ảnh hưởng đến em nếu em không được giúp đỡ”.Giáo viên chủ nhiệm lớp 4 nhận xét: “Teddy tỏ ra lãnh đạm và không tỏ ra thích thú trong học tập. Em không có nhiều bạn và thỉnh thoảng ngủ gục trong lớp”.
Đọc đến đây, cô Thompson chợt hiểu ra vấn đề và cảm thấy tự hổ thẹn. Cô còn thấy áy náy hơn khi đến lễ Giáng sinh, tất cả học sinh trong lớp đem tặng cô những gói quà gói giấy màu và gắn nơ thật đẹp, ngoại trừ món quà của Teddy. Em đem tặng cô một gói quà bọc vụng về bằng loại giấy gói hàng nâu xỉn mà em tận dụng lại từ loại túi giấy gói hàng của tiệm tạp hoá. Cô Thompson cảm thấy đau lòng khi mở gói quà ấy ra trước mặt cả lớp. Một vài học sinh đã bật cười khi thấy cô giơ lên chiếc vòng giả kim cương cũ đã sút mất một vài hột đá và một chai nước hoa chỉ còn lại một ít. Nhưng cô đã dập tắt những tiếng cười nhạo kia khi cô khen chiếc vòng đẹp, đeo nó vào tay và xịt ít nước hoa trong chai lên cổ.
Hôm đó Teddy đã nén lại cho đến cuối giờ để nói với cô: “Thưa cô, hôm nay cô thơm như mẹ em ngày xưa”. Sau khi đứa bé ra về, cô Thompson đã ngồi khóc cả giờ đồng hồ. Và chính từ hôm đó, ngoài dạy học cô còn lưu tâm chăm sóc cho Teddy hơn trước. Mỗi khi cô đến bàn em để hướng dẫn thêm, tinh thần Teddy dường như phấn chấn hẳn lên. Cô càng động viên em càng tiến bộ nhanh. Vào cuối năm học, Teddy đã trở thành học sinh giỏi nhất lớp. Và trái với phát biểu của mình vào đầu năm học, cô đã không yêu thương mọi học sinh như nhau. Teddy là học sinh cưng nhất của cô.
Một năm sau, cô tìm thấy một mẩu giấy nhét qua khe cửa.

Teddy viết: “Cô là cô giáo tuyệt vời nhất trong đời em”. Sáu năm sau, cô lại nhận được một bức thư ngắn từ Teddy. Cậu cho biết đã tốt nghiệp trung học, đứng hạng 3 trong lớp và “Cô vẫn là người thầy tuyệt vời nhất trong đời em”. Bốn năm sau, cô lại nhận được một lá thư nữa. Teddy cho biết dù hoàn cảnh rất khó khăn khiến cho cậu có lúc cảm thấy bế tắc, cậu vẫn quyết tốt nghiệp đại học với hạng xuất sắc nhất, nhưng “Cô vẫn luôn là cô giáo tuyệt vời mà em yêu quý nhất trong đời”. Rồi bốn năm sau nữa, cô nhận được bức thư trong đó Teddy báo tin cho biết cậu đã đậu tiến sỹ và quyết định học thêm lên. “Cô vẫn là người thầy tuyệt nhất của đời em”, nhưng lúc này tên cậu đã dài hơn.

Bức thư ký tên Theodore F. Stoddard – giáo sư tiến sỹ.
Câu chuyện vẫn chưa kết thúc tại đây.

Một bức thư nữa được gửi đến nhà cô Thompson. Teddy kể cậu đã gặp một cô gái và cậu sẽ cưới cô ta. Cậu giải thích vì cha cậu đã mất cách đây vài năm nên cậu mong cô Thompson sẽ đến dự lễ cưới và ngồi ở vị  trí vốn thường dành cho mẹ chú rể. Và bạn thử đoán xem việc gì đã xảy ra?
Ngày đó, cô đeo chiếc vòng kim cương giả bị rớt hột mà Teddy đã tặng cô năm xưa, xức thứ nước hoa mà Teddy nói mẹ cậu đã dùng vào kỳ Giáng sinh cuối cùng trước lúc bà mất. Họ ôm nhau mừng rỡ và giáo sư Stoddard thì thầm vào tai cô Thompson: “Cám ơn cô đã tin tưởng em. Cám ơn cô rất nhiều vì đã làm cho em cảm thấy mình quan trọng và cho em niềm tin rằng mình sẽ tiến bộ”.

Cô Thompson vừa khóc vừa nói nhỏ với cậu: “Teddy, em nói sai rồi. Chính em mới là người đã dạy cô rằng cô có thể sống khác đi. Cô chưa từng biết dạy học cho tới khi cô gặp được em.”

ST

Cảm tưởng của một Tân tòng.

Cảm tưởng của một Tân tòng.

 Dạ con chào Bác,

 Bác có khỏe không? Mấy ngày nay do bận đi làm và một số công chuyện. Hôm nay con mới rãnh rỗi đễ trả lời thư của Bác. Mong Bác thứ lỗi cho sự chậm trễ của con.

1) Thiệt sự thì trước khi con vào Đạo con cũng đã đi nhà thờ trước đó cũng một năm trời rồi, cũng đi tất cả các lễ của người công giáo nhưng con không có lên rước lễ thôi. Lúc đó con vẫn còn là Phật tử và cũng chẳng tin gì về Chúa , con vào Đạo là lý do trước đây con có quen với người bạn gái bên công giáo và được người ấy dẫn dắt vào lớp học giáo lý, sau này vì có một số chuyện nên con và bạn ấy chia tay, lúc đó con cũng buồn và cũng tính không đi tiếp theo Đạo và lớp giáo lý nữa.

2) Cảm nghĩ sau khi vào Đạo con rất vui, thiệt sự không có gì diễn tả được cái cảm giác làm con của Chúa và được nhận mình máuThánh Chúa, cái đêm hôm rửa tội thật sự làm con rất hồi hộp và lo lắng, xen kẽ niềm vui,vì sao con lo lắng. Không biết sau này con có thể giữ Chúa luôn mãi trong cuộc đời của con không, nhưng con luôn cầu nguyện sáng và tối lúc nào con cũng chỉ mong rằng Chúa luôn luôn soi sáng con đường Chúa đã chọn cho con.

3) Những cái khó khăn khi vào Đạo là con là một Phật tử cũng đã từng có Pháp danh (và Pháp danh của con là Pháp Minh), con vừa là con một và cũng là cháu đích tôn trong đại gia đình gồm có khoảng trên 15 anh em họ. Ngày con vào Đạo thật sự cả gia đình đều quay mặt lại với con, không ai chấp nhận con là con và là cháu trong gia đình Đạo Phật và mang nặng tư tưởng phong kiến ở Việt Nam. Lúc đó con rất khó khăn vì khi nói ra những gì, không ai tôn trọng và lắng nghe mặc dù con đã giải thích và nói ra rất nhiều tất cả những suy nghĩ và tâm tình của con.

4) Nhưng khi con vào được Đạo, đó là cái ngày con nhận được ơn Chúa và hai tiếng “Xin Vâng”.Tất cả những gì trước đây con gặp khó khăn hay gia đình con gặp khó khăn, con đều cầu nguyện xin Chúa giúp đỡ đều được hết, nhanh hay chậm thôi. Con xin kể ra một vài ví dụ cách đây một năm trời, Mẹ con đạ bị bệnh “U nang tử cung” và sức khỏe Mẹ con cũng không được tốt,với lại lúc đó nghe tin con theo Đạo thật sự là một cú sốc của Mẹ và bệnh Mẹ một lúc nặng hơn và Mẹ hay buồn khi nói chuyện với con, thậm chí có những lúc Mẹ giận dữ với con nữa, nhưng con đã cầu nguyện xin Chúa ban phước lành và giúp Mẹ con qua khỏi cơn bệnh này, thì sau ngày con được rửa tội, Mẹ đã khỏe mạnh lại và bây giờ thái độ của Mẹ đã vui hơn khi nói chuyện với con và không còn nhắc gì tới chuyện Đạo nữa. Bố con cùng thời gian đó cũng gặp rất nhiều khó khăn trong công việc kinh doanh, nhưng sau đó mọi việc đã trở lại suông sẻ và bình thường,và chính bản thân con thì con có thể thấy rõ nhất, lúc trước con đi làm từ thứ ba tới Chúa nhật, mỗi lần đi lễ và học lớp giáo lý xong là con phải chạy về đi làm,thật sự lúc đó con cảm thấy rất bực mình và khó chịu, con nghĩ tại sao Chúa tạo con người những ngày khác thì đi làm và Chúa nhật là ngày phải được nghỉ ngơi được phụng vụ lời Chúa như đi lễ hay phục vụ trong nhà thờ, con đã cầu nguyện, con xin với Chúa rằng, nếu là ý Chúa xin Chúa cho con một công việc mới làm trong tuần để Chúa nhật con có thể rãnh rỗi được ở cùng Chúa,và khi con mới vừa rửa tội xong là chỉ hai tuần sau con được nhận vào chỗ làm mới mà không phải đi làm ngày Chúa nhật, đó là lý do vì sao con muốn tham gia vào Ca Đoàn của nhà thờ mình và cũng có thể là Nhóm Hát Thánh Linh…Trên đây là một vài ví dụ lớn lao trong lúc con đi tìm và kiếm Chúa con thấy rõ nhất. Bác có thể đăng vào Website mới của Bác.
Thật sự theo Chúa đó là món quà lớn nhất cả cuộc đời con được nhận từ Chúa.

 Con,
Peter  Đức Nguyễn.

31 May 2012

Thánh Jeanne d’Arc

  Thánh Jeanne d’Arc

    (1412 – 1431)     
   

   Thánh Jeanne d’Arc sinh trong một gia đình nông dân đạo đức người Pháp ở ngôi làng hẻo lánh Domremy, gần tỉnh Lorraine. Cô Jeanne không biết đọc và biết viết. Khi lên 13 hoặc 14 tuổi, cô được các cảm nghiệm siêu nhiên là nghe các tiếng nói mà cô nhận ra là của Tổng Lãnh Thiên Thần Micae, Thánh Catarina ở Siena, và Thánh Margaret.

     Lúc đầu việc thị kiến chỉ có tính cách riêng tư và tổng quát. Sau đó, vào tháng Năm 1428, các tiếng nói ấy bảo cô Jeanne đến với vua nước Pháp và giúp ông ta tái chiếm lại quốc gia. Vào lúc ấy, vua nước Anh đang tìm cách xâm chiếm nước Pháp, và Công Tước ở Burgundy, là đối thủ chính của vua Pháp cũng đứng về phe Anh để nuốt dần nước Pháp.

     Sau khi trải qua các chống đối từ hàng giáo sĩ và các quan trong triều, người thiếu nữ mười bảy tuổi đã được giao cho một đạo quân mà cờ hiệu của cô có hàng chữ “Giêsu-Maria” và dấu hiệu Thiên Chúa Ba Ngôi với hai thiên thần cầm hoa huệ hai bên. Trong bộ giáp trắng và với tinh thần hăng say, cô đã khích động tinh thần yêu nước của dân Pháp và đã giải thoát thành Orleans ngày 8 tháng Năm 1429. Sau đó là một chuỗi chiến thắng mà vua Pháp có thể tiến vào Rheims để đăng quang với sự hiện diện của cô ở bên cạnh.

     Vào tháng Năm 1430, khi cố gắng giải vây Compiegne, cô bị người Burgundi bắt và bán cho Anh, trong khi đó vua Charles và nước Pháp đã bỏ mặc cô trong tay quân địch. Sau nhiều tháng tù đầy, cô bị đưa ra tòa ở Rouen dưới quyền xét xử của Peter Cauchon, Ðức Giám Mục ở Beauvais, mà ông hy vọng rằng người Anh sẽ giúp ông lên chức tổng giám mục ở Rouen. Cô bị gạn hỏi về “các tiếng nói”, về đức tin và tại sao cô lại mặc y phục đàn ông.

     Không ai có thể chối bỏ sứ mạng và sự hy sinh của cô nên tòa tìm cách bôi nhọ tên tuổi của cô với các lời cáo buộc về tội lạc giáo và việc sử dụng ma thuật. Tuy nhiên, các câu trả lời thông minh và chân thật của cô chứng tỏ một đức tin vững mạnh và một tâm hồn thanh khiết đã khiến mọi người sửng sốt.

     Sau cùng, khi cô không chịu rút lại lời khẳng định rằng chính các thánh của Thiên Chúa đã ra lệnh cho cô phải thi hành những gì trong quá khứ, cô đã bị kết án tử hình về tội lạc giáo, tội sử dụng ma thuật và bị thiêu sống ngày 30 tháng Năm 1431, và hài cốt của cô bị quăng xuống sông Seine. Lúc ấy, cô mới mười chín tuổi.

     Vào năm 1456, người mẹ và hai em của cô kháng án xin mở lại hồ sơ, mà Ðức Giáo Hoàng Callistus III đã chấp thuận. Sau cuộc điều tra của giáo hội, cô được tuyên bố là vô tội đối với các lời cáo buộc trước đây. Cô được Ðức Giáo Hoàng Bênêđíc XV phong thánh năm 1920, và được tuyên xưng là quan thầy của nước Pháp năm 1922.

   Lời Bàn

     Cuộc đời Thánh Jeanne d’Arc tiêu biểu cho sự tương phản giữa tinh tuyền và thối nát quyền lực. Không giống như các thánh cổ điển, thánh nữ không dùng sự đạo đức để phục vụ giáo hội, nhưng để giải thoát quốc gia. Thánh nữ tượng trưng cho sự đạo đức chính trị, và sự can đảm của ngài khi đáp ứng “các tiếng mời gọi” là một gương mẫu thúc giục chúng ta lắng nghe tiếng gọi của lương tâm để hy sinh tranh đấu cho các nguyện vọng chính đáng.

    Lời Trích

     Trong một phiên toà, Thánh Jeanne d’Arc tuyên bố, “Về Ðức Kitô và Giáo Hội, tôi chỉ biết đó là một, và chúng ta đừng làm vấn đề thêm phức tạp.”

nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi

Thánh Giáo Hoàng Grêgôriô VII

  Thánh Giáo Hoàng Grêgôriô VII

    (1020-1085)

   Thế kỷ thứ 10 và tiền bán thế kỷ 11 là những ngày u tối cho Giáo Hội, một phần là vì giáo triều chỉ là con cờ của một vài gia tộc ở Rôma. Vào năm 1049, mọi sự bắt đầu thay đổi khi Ðức Giáo Hoàng Lêô IX, một nhà cải cách, được bầu làm giáo hoàng. Ngài đem theo một đan sĩ trẻ tuổi tên là Hilderbrand đến Rôma làm cố vấn và đại diện đặc biệt cho ngài trong các sứ vụ quan trọng. Sau này, đan sĩ ấy trở thành Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô VII.

    Thời ấy, ba tai họa quấy rối Giáo Hội là nạn buôn thần bán thánh (mua bán các chức vụ cũng như đồ vật thiêng liêng), nạn giáo sĩ kết hôn bất hợp pháp và nạn giáo dân tấn phong giáo sĩ (vua và các nhà quý tộc kiểm soát việc bài sai các viên chức Giáo Hội). Ðức Hildebrand đã trực tiếp chống đối các tệ đoan này qua lời khuyên nhủ đức giáo hoàng tiền nhiệm, cũng như trong thời ngài làm giáo hoàng (1073-1085).

    Các tông thư của Ðức Grêgôriô nhấn mạnh đến vai trò của vị Giám Mục Rôma là Ðại Diện Ðức Kitô, và là điểm hợp nhất hữu hình của Giáo Hội. Ngài nổi tiếng về cuộc tranh luận lâu dài với Thánh Ðế Rôma Henry IV về vấn đề ai là người kiểm soát việc tuyển chọn các giám mục và tu viện trưởng.

     Ðức Grêgôriô hăng hái chống trả mọi tấn công vào sự tự do của Giáo Hội. Vì lý do đó ngài phải đau khổ và sau cùng bị chết trong khi lưu đầy. Ngài nói, “Tôi yêu quý công bằng và ghét bỏ sự bất công; do đó tôi chết trong cảnh lưu đầy.” Ba mươi năm sau, Giáo Hội mới thắng được cuộc chiến đấu chống với nạn giáo dân tấn phong giáo sĩ.

   Lời Bàn

     Cuộc Canh Tân Grêgôriô, một sự kiện quan trọng trong lịch sử Giáo Hội, được mang tên của một người đã cố gắng giải thoát giáo triều và toàn thể Giáo Hội khỏi sự kiểm soát của nhà cầm quyền thế tục. Chống với loại chủ nghĩa dân tộc không lành mạnh ở một số vùng, Ðức Grêgôriô đã tái khẳng định sự hiệp nhất của toàn thể Giáo Hội dựa trên Ðức Kitô và được diễn đạt qua Ðức Giám Mục Rôma, đấng kế vị Thánh Phêrô.

   Lời Trích

     Ðức Grêgôriô như đã nói với thời đại chúng ta mà trong đó nhà cầm quyền dân sự hay tôn giáo trong nước đang có những đòi hỏi ngấm ngầm: “Trong bất cứ quốc gia nào, ngay cả người phụ nữ nghèo hèn nhất cũng được kết hôn một cách hợp pháp theo luật lệ quốc gia và theo sự lựa chọn của họ; nhưng, qua những khát vọng và thói tục xấu xa của người độc ác, Giáo Hội Thánh Thiện, là nàng dâu của Thiên Chúa và là mẹ của tất cả chúng ta, không được phép bám víu lấy người hôn phu ở trái đất này theo như luật lệ của Thiên Chúa và ý muốn của Giáo Hội” (Lời Kêu Gọi Tín Hữu).

 nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi

Tài khoản Vô giá

Tài khoản Vô giá

 Có một ngân hàng, mỗi buổi sáng, cung cấp vào tài khoản của bạn 86.400 USD.

Số dư trong tài khoản không được phép chuyển từ ngày này qua ngày khác.

Mỗi buổi chiều, ngân hàng sẽ hủy bỏ hết số dư còn lại mà bạn đã không dùng hết trong ngày.

Bạn sẽ phải làm gì ?
Sử dụng hết số tiền đó, dĩ nhiên !Mỗi người trong chúng ta đều có một ngân hàng như vậy.

Tên ngân hàng là THỜI GIAN.

Mỗi buổi sáng, ngân hàng này cung cấp cho bạn 86.400 giây.
Vào mỗi buổi tối, ngân hàng sẽ xóa bỏ, coi như bạn mất,
thời gian mà bạn không đầu tư được vào các mục đích tốt.
Ngân hàng không cho phép bạn được để lại số dư trong tài khoản.
Cũng không cho phép bạn bội chi.
Mỗi ngày, ngân hàng lại mở một tài khoản mới cho bạn.
Mỗi tối nó lại hủy hết những gì còn lại trong ngày.
Nếu bạn không dùng được hết thời gian mà bạn có trong ngày,
người bị mất chính là bạn.
Không có chuyện quay lại ngày hôm qua.
Không có chuyện tiêu trước cho “ngày mai”
Bạn phải sống bằng những gì bạn có trong tài khoản ngày hôm nay.
Hãy đầu tư vào đấy bằng cách nào đó,
để bạn có thể nhận được nhiều sức khỏe, hạnh phúc, và thành công nhất !
Đồng hồ vẫn đang chạy.
Hãy cố thực hiện thật nhiều trong ngày hôm nay. 

 
 

Để biết được giá trị của MỘT NĂM,
hãy hỏi một học sinh bị ở lại một lớp.

 Để biết được giá trị của MỘT THÁNG,
hãy hỏi một người mẹ sinh con thiếu tháng.

Để biết được giá trị của MỘT TUẦN,
hãy hỏi biên tập viên của một tuần báo.

Để biết được giá trị của MỘT GIỜ,
hãy hỏi những người yêu nhau đang mong chờ được gặp nhau.

Để biết được giá trị của MỘT PHÚT,
hãy hỏi một người bị lỡ chuyến tàu.

Để biết được giá trị của MỘT GIÂY,
hãy hỏi một người vừa thoát khỏi một tai nạn.

 Để biết được giá trị của MỘT PHẦN NGÀN GIÂY,
hãy hỏi người vừa nhận được huy chương bạc trong kỳ thi Olympic.

 Hãy quý trọng từng giây phút mà bạn có !
Và hãy nên quý thời gian hơn nữa

Bởi vì bạn đang chia sẻ thời gian đó với ai đấy thật đặc biệt đối với bạn,
đủ đặc biệt để có thể chia sẻ thời gian của bạn.
Và hãy nhớ rằng thời gian chẳng chờ đợi ai cả.
Ngày hôm qua dã là lịch sử. Ngày mai là một bí ẩn.

Hôm nay là quà tặng. Cũng vì vậy mà nó được gọi là PRESENT !
(có nghĩa là HIỆN TẠI, mà cũng có nghĩa là QUÀ TẶNG).
Bạn bè thật sự là một loại nữ trang quý hiếm.
Họ khiến bạn mĩm cười và khuyến khích bạn thành công.
Họ lắng nghe bạn, họ chia sẻ với bạn những lời khen tặng,
và họ luôn muốn mở trái tim ra với chúng ta.
Hãy gởi những lời này đến với ai mà bạn xem như BẠN MÌNH,
Và nếu những dòng này lại trở về với bạn,
bạn ắt biết rằng bạn đang có một vòng tròn bạn hữu.

 Để có một tình mến Chúa hoàn hảo, cần phải liên lỉ đặt ý chí của mình dưới Thánh Ý của Thiên Chúa (S.Alphonse)

CÓ THƯỢNG ĐẾ!!!

CÓ THƯỢNG ĐẾ!!!

tác giả: Đaminh Phan văn Phước
nguồn: conggiaovietnam.net

Những người vẫn ”khư khư chủ trương không có Thượng Đế” sẽ chẳng bao giờ chứng
minh được rằng ”không có Ngài” cho dù họ dựa vào những phát minh mới về Khoa
Học! Tại sao vậy?

– Bởi vì ”Khoa Học” (1) không phải do con người làm ra. Ví dụ: Sức đẩy của nước (định luật Archimède) không do ông ấy sáng chế vì nó đã có từ thuở ”tạo thiên, lập địa”! Càng khám
phá phần nào đó ”Khoa Học của Tạo Hóa” (The Science of The Creator) qua vũ
trụ, con người, bị ”giới giạn bởi thời gian và không gian”, vẫn thấy mình quá
nhỏ bé và còn ”dốt” trước ”Tri Thức của Kiến Trúc Sư Tuyệt Đối” làm ra
”thiên cơ” (then máy của Trời) mà mình không tài nào hiểu thấu được hết.
Ban đầu, đào đất, tôi tạo được một cái lỗ nhỏ. Càng đào đất ngày nầy qua ngày nọ, tôi không còn thấy cái lỗ, mà quanh mình lại là một ”cái hố” rất rộng. Trong Lĩnh vực Khoa Học, cũng
thế! Với ”viễn vọng kính” hiện đại, tối tân, sự hiểu biết của con người về vũ
trụ chỉ là một phần ”tri thức” quá nhỏ đến nỗi nhiều nhà nghiên cứu Khoa Học
phải khẳng định rằng ”vũ trụ bao la, không cùng” là điều chứng minh có ”Đấng
Lạ Lùng” chế ra thiên cơ. Xin đơn cử trường hợp như sau:

Ngoài mặt trời, ngôi sao ”gần chúng ta nhất” được gọi là ”Proxima” nằm trong ”chòm Alpha Nhân Mã” (Alpha du Centaure), cách chúng ta chừng 41 ngàn tỷ cây số!!! Các
nhà thiên văn phải ”tính gọn” khoảng cách ấy bằng ”năm ánh sáng” (l’année
lumière)! Mà vận tốc của ánh sáng trong mỗi giây là 300 ngàn cây số! Vậy, trong
một năm, ánh sáng đi được là 9,5 ngàn tỷ cây số. Muốn ”bay” nhanh
bằng ánh sáng
để lên tới sao Proxima, tôi phải mất 4 năm và 3 tháng!!!

Quả Đất là hành tinh trong thái dương hệ (solar system) gồm có: Mercure, Venus, Terre, Mars, Jupiter, Saturne, Uranus (được khám phá năm 1781), Neptune (năm 1846) et Pluton (năm 1930). Thái dương hệ lại nằm trong ”Giải Ngân Hà” (Voie Lactée / Milky Way /
Galaxy) có chừng 200 tỷ (200.000.000.000) ngôi sao! Các nhà thiên văn chỉ mới khám phá được chừng 100 tỷ Ngân Hà trong một phần nhỏ của vũ trụ bao la! Cho nên có ”chiêm tinh gia” nọ phát biểu và đặt câu hỏi như sau: ”Mới khám phá ngần ấy về vũ trụ bằng viễn vọng kính tương đối, mà tôi đã chóng mặt. Vậy, nên thư giãn tí xíu bằng cách tính kích thước ngắm được, thật kinh hoàng của Vũ Trụ, theo tỷ lệ khiêm tốn của
loài người! Phải chăng số ngân hà trong Vũ Trụ nhiều hơn cát trên Địa
Cầu?

Big Bang (Sự Bùng Nổ Lớn: Gigantesque Explosion) không phải là chân lý (2), mà chỉ là giả thuyết thuần túy siêu hình (une pure hypothèse métaphysique) bắt nguồn từ Cựu Ước nói về việc Sáng Thế từ hư vô (La création ex nihilo: Creation out of nothing) do Quyền
Năng của Thiên Chúa. Chẳng chứng minh được rằng ”không có Thượng Đế”, còn dè
dặt vì lý do này, lý do kia, một số nhà nghiên cứu Khoa Học bèn phát biểu: ”Do
không thể thấy Vũ Trụ ra sao trước Big Bang, chúng ta cũng chẳng biết được điều
gì trong giai đoạn ấy. Nhưng một số lý thuyết cho rằng có thể Vũ Trụ của chúng
ta ‘chào đời giữa lòng Vũ Trụ khác’ đã có trước (préexistant).”

Như vậy, xét cho cùng, khái niệm ”Vũ Trụ đã có trước” không phải là thiên cơ hữu hình, mà là ”Đấng Vô Hình, Toàn Năng, Tuyệt Đối, Toàn Tri, Toàn Hảo…” Ngài có trước thời gian và
không gian, tức Đấng Tự Hữu (The Self-Existing) chính là Thượng Đế. Cựu Ước đã
nói ngắn gọn về việc Ngài khởi sự tạo dựng vũ trụ như sau:
Ban đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời và đất. Ðất còn trống không, mông quạnh, bóng
tối bao trùm vực thẳm, và Thần Khí Thiên Chúa là là trên mặt nước. Và Thiên
Chúa phán: “Hãy có ánh sáng.” Và có ánh sáng. Và Thiên Chúa thấy rằng
ánh sáng tốt đẹp và Thiên Chúa phân tách ánh sáng ra khỏi bóng tối. Và Thiên
Chúa gọi ánh sáng là ngày, bóng tối là đêm. Đã có buổi chiều và buổi sáng: ngày
thứ nhất.”
(Sáng
Thế Ký 1,1-5)

Gottfried Wilhelm Leibniz, nhà Toán Học, Triết Gia Đức phát biểu: ”Thượng Đế tính toán, sử dụng ý tưởng của Ngài, cho nên thế giới đã được tạo thành. Trước hết mọi sự, Thượng Đế là Vị tính toán vĩ đại, Nhà luận lý vĩnh hằng.” (Dieu calcule, il exerce sa pensée, et le monde est créé. Dieu est avant tout le grand Calculateur et l’éternel Logicien.)

Ông ta còn nói: ”Không  gì chẳng  gì mà không  lý do.” (Rien
n’a rien sans raison.) Câu ấy phải được hiểu như thế này: Mọi sự đều có nguyên
nhân. Nhưng Thiên Chúa không phải là ”sự, cái gì” vì Ngài là Nguyên Nhân của
mọi sự, mọi loài, tức Đầu Hết, là Alpha bởi vì, trước chữ Alpha của mẫu tự
Hy-lạp, không có chữ nào cả!

Tên đao phủ” Saulô đi lùng người tôn thờ Chúa Giêsu, đã được Ngài cho mù mắt để sáng lại, trở thành ‘‘Thánh Phaolô” đã cảnh cáo hạng người tưởng mình là trí thức, nhưng vẫn mê muội như sau: ”Vì những gì thiên hạ có thể biết về Thiên Chúa thì đã được
mạc khải cho họ. Từ thuở tạo thành vũ trụ, những việc tốt lành của Ngài mà mắt
người đời không thấy được, tức là Quyền Năng vĩnh cữu và Thần Tính của Ngài. Do
đó, họ vô phương chạy tội. Vì đã biết Thiên Chúa, nhưng họ không tôn vinh Ngài
là Thiên Chúa và cảm tạ Ngài. Trái lại, họ suy luận lầm lạc và tâm trí
ngu si của họ trở thành tối tăm
. Họ tự khoe là khôn ngoan, nhưng đã trở nên
điên rồ.”
(Roma 1,19-22)

Thật vậy, nhìn cái ”máy vũ trụ” quá lạ lùng, vượt sức tưởng tượng của mình là thọ tạo hữu hạn, ai còn ngoan cố, còn tự cao và còn không tin có Thượng Đế thì người ấy cũng nên làm kẻ ”điên rồ” bằng cách lý luận rằng chiếc đồng hồ đeo tay chẳng có người nào làm ra!!!
***

1. Chữ ”science” là cách biến âm của từ Latinh ”scientia” vốn là danh từ của động từ ”scire”
(savoir; know)! Theo Cựu Ước bằng tiếng Pháp, chữ ”science” trong thành ngữ
”l’arbre de la science du bien et du mal” là ”cây biết điều lành và sự dữ”. Như vậy, chữ ”science” đồng nghĩa với ”connaissance; knowledge”. Cây ấy ở Vườn Eden là biểu tượng nhắc Adam-Eva nhớ Lời của Thượng
Đế là Đấng Toàn Tri. ”Cây” gậy của Mosê đập đá để lấy nước nuôi Dân Chúa khỏi
chết khát trong sa mạc. ”Cây” Vườn Eden đã biến loài người trở thành nô lệ
của Satan! Nhưng ”Cây” Thập Giá giúp loài người đè đầu NÓ!!!

2. Bài khác sẽ nói về Big Bang.

Đức Quốc, 27 và 28.5.2012,
Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, ban Ơn cho Kitô hữu mạnh dạn tuyên xưng Đức Tin.

Đaminh Phan văn Phước

 

CHỨNG NHÂN CHO CHÚA

CHỨNG NHÂN CHO CHÚA

 Tác giả: Thiên Phúc                 nguồn: thanhlinh.net

 CHỨNG NHÂN CHO CHÚA (Ga 20,19-23)

 CHÚA NHẬT LỄ HIỆN XUỐNG, NĂM B

  Ngày 12 tháng 10-1999, một cậu bé nặng 3,55 kg đã chào đời lúc 00:03 tại Sarajevo, Bosnia. Cậu đã được Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc Kofi Anna chào đón như là biểu tượng của người dân thứ 6 tỷ của Thế giới (C 6 B: Day of 6 billionth person). Sự chọn lựa này chỉ là ngẫu nhiên, do ông Tổng Thư ký đang công tác ở Bosnia.

  Chỉ trong ngày 12-10, ước tính có khoảng 370.000 trẻ em trên thế giới chào đời, phân nửa trong số đó là trẻ em Châu Á. Các chuyên gia dân số thế giới chào đón ngày này với sự … lo lắng, vì hầu hết số trẻ ấy sẽ sống trong nghèo đói và thất học… Chỉ trong thế kỷ 20, dân số thế giới đã tăng gấp ba và nếu tính trong vòng 12 năm, dân số thế giới tăng độ một tỷ người. LHQ ước đoán dân số thế giới sẽ là 8,9 tỷ vào năm 2050. Nhà sinh thái học David Pimentel của Đại học Cornell cảnh báo: “Đến năm 2100, sẽ có 12 tỷ con người khốn khổ chịu đựng cuộc sống khó khăn trên trái đất”.

 Nhưng không phải ai cũng đồng tình với nỗi lo về “ngày ảm đạm, u tối”, khi dân số thế giới đạt đến con số 6 tỷ. Nhà kinh tế học Stephen Moore lại cho rằng: “Dân số thế giới đạt 6 tỷ là món quà tặng cho sự khéo léo và khả năng sáng tạo của con người”. 

                                                 ***   

  Mỗi lễ hiện xuống là một ngày khai sinh mới của Giáo Hội. Chúa Thánh Thần chính là linh hồn của Giáo Hội. Người hằng huy động, hướng dẫn, hiệp nhất dể xây dựng Giáo Hội. Giáo hội đã có một lịch sử dài suốt 20 thế kỷ. Cần một luồng gió mạnh thổi đến, lùa vào, đổi mới mọi sự.

  Công đồng Vatican II, chính là ngày “Lễ Hiện Xuống mới” của Giáo hội. Nếu ngày xưa thánh Phero đã mở tung cửa đón nhận Thánh Thần Thiên Chúa, thì ngày nay đức Thánh Cha Gioan 23 cũng đã khai mở Công đồng như một ngày “lễ Hiện Xuống mới”, đem lại cho Giáo Hội một luồng sinh khí mới, một bộ mặt mới. Để rồi từ đó, muôn dân nước được nghe Lời Chúa bằng tiếng mẹ đẻ trong Thánh lễ và trong các Bí tích, được hát Thánh ca bằng ngôn ngữ dân tộc mình. Với 4 Hiến Chế, 9 Sắc Lệnh và 3 Tuyên Ngôn, giáo hội đã mở rộng ra với thế giới, để bắt kịp đà tiến triển của thời đại văn minh.

 Qua làn hơi thở của Chúa, qua sức mạnh của Chúa Thánh Thần, hôm nay chúng ta cũng trở nên chứng nhân của Chúa cho đến tận cùng trái đất: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (Ga 20,21). Thế giới hôm nay đã bước sang thế kỷ 21, với 6 tỷ người chen chúc trong đó, nhưng chỉ có trên 1 tỷ người Công giáo. Đó là trách nhiệm của mỗi người chúng ta, là nỗi trăn trở và day dứt khôn nguôi của người tín hữu: những chứng nhân của Nước Trời.

  Chúng ta là chứng nhân cho Chúa, khi chúng ta ngồi lại với nhau, giải quyết tranh chấp, xây dựng hòa bình.

  Chúng ta là chứng nhân cho Chúa, khi chúng ta chăm lo cho người nghèo, quan tâm đến trẻ thơ và người già yếu.

 Chúng ta là chứng nhân cho Chúa, khi chúng ta đem niềm vui đến cho những người bất hạnh, mang lại nụ cười cho những kẻ khổ đau.

 Thiên Chúa rất cần những chứng nhân như thế, để đổi mới bộ mặt trái đất, làm tươi mát khuôn mặt địa cầu.

 Thiên Chúa rất cần những chứng nhân đi xây dựng một thế giới, nơi đó con người yêu thương nhau hơn.

 Thiên Chúa rất cần những chứng nhân đi thánh hóa trần gian bằng đời sống tin tưởng, tràn đầy niềm vui. 

                                                   ***  

 Lạy Chúa Thánh Thần, xin cho chúng con gặp được Người trong những nụ cười trao cho nhau, trong những hy sinh vô vị lợi, và trong nỗi thao thức xây dựng một thế giới huynh đệ hơn. Amen.

(Thiên Phúc, trong “Như Thầy đã yêu”)

 “Be who God meant you to be, and you will set the world on fire.”

St. Catherine of Sienna.

ĐÓN NHẬN CHÚA THÁNH THẦN ĐỂ RAO TRUYỀN CHÚA KITÔ

ĐÓN NHẬN CHÚA THÁNH THẦN ĐỂ RAO TRUYỀN CHÚA KITÔ

  + Hồng-y L. J. Suenens

Người dịch  Nguyễn đăng Trúc        nguồn: conggiaovietnam.net

 “ Thiên Chúa không có lời nói nào khác, tay chân nào      

 khác ngoài lời nói, tay chân của bạn

 để mang Phúc-âm đến cho thế gian”.

Frank Duff

 

 1- Mỗi một Kitô-hữu đều được mời gọi để trở thành nhân chứng của Phúc-âm    

Chúa gọi mỗi Kitô-hữu tham gia vào công cuộc truyền bá Phúc-âm mới qua chính phép rửa tội mà họ đã nhận lãnh, chứ không phải là một ơn gọi nào khác thêm vào. Công-đồng đã nhắc kỹ điều ấy.

Không một Kitô-hữu nào được miễn trừ bổn phận làm chứng về đức tin của mình. Những hình thức truyền giáo thay đổi tùy hoàn cảnh sống cụ thể, nhưng bổn phận truyền giáo là bổn phận nền tảng của từng người không trừ ai.

Phải thành thực thú nhận rằng đa số Kitô-hữu ngay cả những người thường xuyên hành đạo, vẫn chưa hiểu là mọi Kitô-hữu phải rao truyền Chúa Kitô, mọi người đã được tiếp nhận Tin-mừng đều có sứ mệnh rao truyền Tin Mừng ấy lại cho kẻ khác.

Giáo-hội còn chưa thực thi đầy đủ “bản chất truyền giáo” của mình; bây giờ là lúc cần phải giải tỏa những lý do giả tạo cố dồn Kitô hữu vào tình trạng ù lì, ngậm miệng làm thinh hay dững dưng.

Chúng ta phải can đảm tố giác cám dỗ của thái độ câm nín âm hiểm nầy, và đuổi ngay con quỉ câm và những lý do giả tạo ra khỏi cuộc sống chúng ta.

 1-  Hai bổn phận cơ bản 

Thường người ta nại lý do là cuộc sống hằng ngày chiếm hết thì giờ và sức lực nên không thể chu toàn bổn phận làm tông đồ. Lối khước từ đó gợi nhớ lại câu truyện trong Phúc-âm, khi những người được mời đến dự tiệc cưới đã thoái thác nại lý do quá bận rộn về những công việc khẩn thiết phải ưu tiên: Tôi đã mua một đám đất và tôi phải đi xem; tôi đã mua năm cặp bò và tôi phải đi thử; tôi mới cưới vợ nên bận rộn quá.

Bổn phận làm tông đồ gắn liền với bổn phận Kitô hữu, chúng ta không nhất thiết là phải tham gia phong trào sinh hoạt nào đó. Có nhiều phương thức làm tông đồ khác nhau, nhưng không thể nại đến sự kiện nầy để xóa bỏ bổn phận hàng đầu của chúng ta, tức là bổn phận làm người đã chịu phép rửa. Có bổn phận làm người và còn bổn phận làm Kitô hữu, ta cần biết phối hợp. Chúng ta đã không biết chu toàn đồng thời các bổn phận khác nhau trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta sao?: bổn phận gia đình, nghề nghiệp, công dân. Đối với Kitô-hữu biết ý thức về phép rửa của mình, bổn phận căn bản gắn liền với thân phận họ là yêu mến và phục vụ Chúa với cả sức lực mình và yêu thương kẻ khác như chính mình. Bổn phận nầy rất cao cả, đòi hỏi những chọn lựa khó khăn và nhiều hy sinh: nếu tôi chấp nhận dành một số thì giờ phục vụ không công cho người bên cạnh tôi cách nầy hay cách khác, hẳn nhiên công tác ấy đòi hỏi tôi phải trả một giá nào đó. Phục vụ không công có nghĩa là từ khước nhận tiền hoặc hy sinh một lối sống thoải mái… 

2-  Hai hình thức nghèo đói 

Nếu có hai bổn phận căn bản, tự nhiên và siêu nhiên, thì cũng có hai hình thức nghèo đói để cứu giúp. Có tình trạng nghèo đói trong cuộc sống vật chất con người dưới nhiều dạng ngặt nghèo cần được cứu tế (đói rách, thiên tai, dịch bệnh…).  Hình thức nghèo đói nầy dễ làm ta xúc động vì dễ thấy, dễ nhận ra hơn là hình thức thứ hai. 

Nghèo đói làm cho con người khốn đốn một cách thâm cay, mặc dù có tràn đầy của cải vật chất, đó là cảnh cùng khổ về mặt siêu nhiên, tinh thần, đặc biệt là tình cảnh bơ vơ hoặc chán nản nơi những người trẻ; họ đi tìm một trong những ảo tưởng để sống vất vưởng qua nghiện ngập hoặc thác loạn tính dục. Khi chúng ta nói đến những chứng nhân của Chúa Kitô, hẳn chúng ta nghĩ ngay đến cánh đồng bao la trước mắt chờ đón chúng ta. 

3-  Hai hình thức làm chứng 

Cuối cùng cần phân biệt hai loại làm chứng: làm chứng khách quan và làm chứng qua con người cụ thể của mình, hai lối nầy cần bổ túc nhau.

 Việc làm chứng của các người dạy giáo lý, các giáo sư về tôn giáo, các nhà giảng thuyết, là làm chứng khách quan : ở đây mục tiêu ưu tiên nhắm đến là dạy và đào tạo tôn giáo; nhưng nếu “người hướng dẫn” vừa là người làm chứng thì dễ thuyết phục người ta hơn.

Không phải ai cũng được gọi để chu toàn sứ mệnh rao truyền Phúc-âm theo hình thức nầy, nhưng mọi người đều được gọi để trở thành chứng nhân qua cuộc sống cụ thể của mình, như thánh Phêrô dạy rằng phải làm cho kẻ khác thấy được “niềm hy vọng nằm nơi con người mình”. Làm chứng do chính cuộc sống mình có thể giúp mọi người biết Phúc-âm một cách thiết thực và sống động, “mọi nơi và mọi lúc”, trong những hoàn cảnh bình dị hoặc phi thường.

Khung cảnh xã hội chung quanh như cám dỗ Kitô-hữu đừng nên quấy rầy, mà phải theo nếp sống trần tục của thời đại, phải tỏ ra nhún nhường và tôn trọng bất cứ dư luận nào, chạy theo quan điểm chung, chứ đừng nêu lên một tiêu chuẩn chân lý khách quan nào! Nhất là đừng bao giờ nói đến “tội lỗi”, vì nói đến “tội lỗi” làm chói tai thiên hạ vô cùng! Trong một khung cảnh như thế, làm sao diễn đạt và tuyên xưng đức tin mình?  Người ta còn nêu lên nhiều lý chứng đặc biệt khác nữa để huyết phục Kitô-hữu nên giữ thái độ im lặng! 

4-  Thế giới không sẵn sàng để nghe Phúc-âm! 

Người ta xin chúng ta đừng nói, đừng tuyên xưng Phúc-âm trong thế giới ngày nay vì người ta cho rằng thế giới chúng ta không sẵn sàng để nghe sứ điệp ấy.

Với lối luận chứng đó, trước hết phải trả lời rằng sứ điệp Phúc-âm là một sứ điệp mà thực ra không bao giờ có ai tự nhận là sẵn sàng để nghe cả; sứ điệp ấy phát sinh ơn cứu độ của Con một Thiên Chúa và đưa ta lên hàng thần thánh, một sứ điệp như vậy vượt lên trên tất cả những gì mắt đã thấy và tai đã nghe, vượt lên trên tất cả những gì có thể làm cho những mơ ước táo bạo nhất của chúng ta trở thành vô nghĩa.

Hơn nữa, Lời Phúc-âm khó nghe, sự kiện đó không phải là hiện tượng riêng của thời đại chúng ta. Nhưng người đương thời của Chúa Giêsu có sẵn sàng nghe Ngài không? Hãy nhìn thập giá Chúa để hiểu việc nầy. Và nếu muốn biết phản ứng của quần chúng khi Phaolô loan báo việc Chúa Phục-sinh, ở sân vận động Nhã Điển, thì chỉ cần đọc trong sách Tông-đồ Công-vụ: “Vừa nghe nói đến người chết sống lại, kẻ thì nhạo cười, kẻ thì nói: “Để khi khác chúng tôi sẽ nghe ông nói vấn đề ấy” (Cv. 17, 32). 

5-  Tôi cảm thấy không đủ sức nói! 

Kitô-hữu lại thấy tự nơi lòng mình cơn cám dỗ trái ngược lại, cho rằng việc rao giảng Phúc âm chỉ dành cho các thánh, các nhà thông thái đầy bằng cấp mà thôi!

Trước hết có thật là việc rao truyền Phúc-âm chỉ là đặc ân của các thánh hay không? Sự thánh thiện của người làm chứng hẳn nhiên là một ơn riêng ban cho Giáo-hội; ta có thể nêu lên nhiều tên tuổi mà mọi người đều đồng ý là thánh, hoặc đáng được nể vì, yêu mến và có sức thuyết phục.  Danh sách ấy qua lịch sử Giáo-hội rất dài. Lâu lâu chúng ta có dịp mừng việc tôn phong các thánh mới, đúng là cảnh vui mừng trên trời cũng như dưới đất. Nhưng sự kiện đó không miễn cho bất cứ Kitô hữu bình thường nào bổn phận “minh chứng niềm hy vọng nơi mình”, như lời thánh Phêrô đã đòi hỏi Kitô-hữu thời Giáo-hội sơ khai, những Kitô-hữu ấy cũng là những người bình thường như chúng ta.

Để thực hiện công cuộc của Chúa (-đừng lẫn lộn với ý nghĩ là làm cho Chúa -) trước hết chúng ta trao thiện chí của ta cho Ngài. Chúa dùng mỗi người chúng ta, và ơn của Ngài sẽ dư tràn cho chúng ta. Khi kết hợp với Ngài, thì chúng ta sẽ vượt lên trên sức lực của mình. Thần học còn nói đến những ân sủng Chúa ban nhưng không để làm lợi cho Cộng-đồng, mà không nhất thiết thánh hoá những người hành xử. Những ơn đoàn sủng của thời nguyên sơ và những ơn đoàn sủng hôm nay chứng thực sự tự do hoàn toàn của Chúa, và cấm không ai được nêu lên đặc quyền ấy cho riêng mình.

Còn về sự hiểu biết sâu xa, chúng ta cám ơn Chúa đã cho chúng ta nhiều vị thần học gia đáp trả ơn gọi của họ làm “người tín hữu truy tìm sự khôn ngoan nơi đức tin”. Công-đồng Vatiacanô II mang ơn họ rất nhiều; họ đã chuẩn bị Công-đồng, đã làm phong phú cho Công-đồng, nên khó lòng phủ nhận tầm quan trọng và vai trò của họ. Nhưng chúng ta cũng phải biết rằng Chúa không gắn chặt bổn phận làm tông đồ với mấy bằng cấp đại học. Việc Chúa chọn “mười hai người” xứ Galilêa chắc chắn cho thấy rằng thông minh tuyệt trần không phải là tiêu chuẩn để xây dựng Nước Chúa.

  2- Chúa kêu gọi mỗi người rao truyên Phúc-âm 

Phúc-âm cho chúng ta thấy phương cách Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ đầu tiên như thế nào: Chúa nói: “hãy theo Thầy”, và họ bỏ lại cha họ, thuyền họ, bàn thu thuế của họ.

Một lời mời hơn là một mệnh lệnh: “nếu người muốn lên trọn lành…hãy bán hết của cải để theo thầy”.

Chúa Giêsu kêu mời người ta theo Ngài, tiếp bước theo chân Ngài, và không hề hứa là đường đi sẽ dễ dàng, nhưng chỉ nói là Ngài sẽ ở với họ không bao giờ xa.

Chúa gọi chúng ta, mỗi người chúng ta, mỗi người mỗi cách, nhưng phương cách nào đi nữa cũng rất triệt để. Trước khi chấp nhận dấn thân vào tình yêu thương Chúa, chúng ta thử xem lời gọi của Ngài đã được Phúc-âm diễn tả thế nào. 

 Lời mời gọi của Chúa, theo lối nhìn của Chúa 

Việc Chúa mời gọi ta sống cuộc sống Kitô giáo toàn diện là một lối tỏ bày tình yêu thương đặc biệt, một lối chọn lựa riêng của Chúa. Ngài đã gọi mười hai vị, rồi ngày kia, vị thứ mười ba là thánh Phaolô. Lúc đầu, Ngài không gọi cả đám đông. Đến sau Ngày Hiện Xuống, chúng ta chứng kiến một trăm hai mươi vị trong ngày khai sinh Giáo-hội. Đấy là điểm khởi phát, là men để làm dẫy bột, nhưng trước hết phải làm men.  Yêu thương đặc biệt, tuyển chọn riêng, ở đây còn có nghĩa là gửi đi truyền bá Phúc-âm. “Thầy đã chọn các con…để các con lên đường và mang lại hoa trái”. Được chọn để lên đường, được chọn để toả lan ánh sáng. Sự chọn lựa ấy tự nó là một “lệnh xuất quân”.

“Hãy đến và rồi hãy ra đi”. Đây là một cử chỉ mời gọi của người tình, nhưng đồng thời, để quay về với dân chúng.

Tình yêu đặc biệt, yêu riêng nhưng là yêu trong tự do. Ngay khi thánh sử chỉ ghi lại câu Chúa Giêsu nói ”hãy theo Thầy”, mà không nói thêm có trao đổi gì trước đó, thì kỳ thực đã có môt cuộc đối thoại bên trong, dù rất ngắn, một lời mời tùy thuộc vào sự tự do trả lời của người nghe, một lời đề nghị tôn trọng hoàn toàn người đối diện.  Chúa Giêsu không hề tuyển chọn theo lối ép buộc, như tuyển lính ngày xưa. Nhưng, “Ngài biết điều gì xảy ra trong con người”, và đáp ứng những ước vọng thầm kín, không nói ra, hoặc có thể không nhận ra của chính người Ngài kêu gọi.

 Tình yêu ấy là tình yêu dâng hiến, dấy lên một lời kêu mời, muốn nối kết một giao ước. Và ở đây ta còn thấy Chúa xúc động nữa. Thường thì Chúa thức suốt đêm cầu nguyện trước khi chọn lựa như thế. Đến đây chúng ta đi vào khung trời thần thánh. Thi sĩ có lần nói: “có nhiều điều thần thánh người ta chỉ nghe được một lần thôi”.  Trường hợp từ chối, như người thanh niên giàu có trong Phúc-âm “đã bỏ đi vì anh ấy có nhiều của cải”, Chúa Giêsu không cố ép và để cho đi.

 Người ấy sau nầy có tìm đến Chúa không? Hoàn toàn bí mật.

Nhưng, đoạn Phúc-âm nhắc nhở chúng ta rằng lúc Chúa gọi thì đừng mặc cả, quay lưng hoặc kiểm lại sổ sách ngân hàng, bàn hỏi bạn bè “khôn ngoan”, bảo hiểm sức khoẻ và nhân mạng…Chúa Giêsu gọi mình theo Ngài, là gọi đi vào con đường phiêu lưu của tình yêu. Con đường đi ấy qua nhiều nẻo gập ghềnh và đôi khi phải sống nhiều đêm ở vườn Cây-dầu, như để làm quen với giây phút của Chúa trong đêm khổ nạn.

 Đó là những gì bao hàm nơi ơn gọi theo cái nhìn của Chúa.

 1- Chương trình sống của Kitô-hữu bình thường trong cuộc sống hằng ngày  

Cần thấm nhập cuộc sống của Chúa (ad intra) để cho Chúa gửi mình lên đường (ad extra). Hai nhịp thở đó kết dệt nên đời sống Phúc-âm, cần thiết phải bổ túc cho nhau. 

Ad intra 

Trên bình diện cuộc sống cá nhân, Kitô-hữu phải tài bồi và củng cố cuộc sống siêu nhiên của mình bằng bí tích Thánh-thể và bí tích chữa lành tâm hồn đó là bí tích Hòa-giải. Phải nuôi sống cuộc sống siêu nhiên linh hoạt, bằng việc đọc sách thiêng liêng vào một buổi nhất định, và ưu tiên là sách Kinh-thánh, đặc biệt nên đọc và suy gẫm các bản văn mục vụ trong ngày, là của ăn được Mẹ chúng ta là Hội-thánh dọn sẵn. Một cách cụ thể ta nên có một cuốn sách lễ trong tuần, ngoài cuốn sách lễ các ngày chủ nhật trong năm.  Đức Gioan-Phaolô II không ngừng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của Thánh-thể, là trung tâm điểm của cuộc sống Kitô-hữu. Trong một bài diễn văn gửi cho những người hướng dẫn Phong trào Canh tân đoàn sủng, ngài nói:

“Theo ý niệm mà Công-đồng Vaticanô II đã ghi sâu nơi cuộc sống chúng ta : Thánh-thể đúng là nguồn suối và đỉnh cao của mọi công cuộc rao truyền Phúc-âm…Kitô hữu, đã mặc lấy ơn ích của Phép rửa tội và Thêm-sức, khi rước Thánh thể, sẽ sát nhập toàn cuộc sống mình với thân thể Chúa Kitô”. 

Để cho việc cử hành Thánh-thể có thể thức tỉnh và nuôi dưỡng cuộc sống đức tin chúng ta, Giáo-hội đưa vào mỗi thánh lễ đoạn văn Thánh kinh, được chọn lựa theo diển tiến của năm phụng vụ, để chúng ta lắng nghe được lời Chúa. 

Trong tinh thần của đức tin, khi chúng ta mở các trang sách lễ là chúng ta đến điểm hẹn gặp Thánh Thần; những bản văn được Giáo-hội chọn sẵn cho chúng ta là ưu tiên, nếu chúng ta thực sự muốn thở đồng nhịp thở của Giáo-hội, ngày ngày thấm nhập “chính những tình cảm trước đây của Chúa Giêsu”. Tôi cần tiếp nhận các trang ấy như tiếp nhận bức thư của một người bạn chia sẻ các ưu tư, các mối lo âu sợ hãi, các niềm mong ước với tôi, muốn đồng hành với tôi, chỉ đường cho tôi.

Tôi muốn dùng kinh nghiêm của tiên tri Isaia để nói lên rằng: “lời Chúa thức tỉnh tôi mỗi sáng; mỗi sáng lời Chúa đánh thức tôi dậy để tôi lằng nghe như một người học trò ngoan ngoãn học hỏi…” (Is. 50, 4).

Nếu như tôi không có cách nào để đi dự lễ được thì tôi cũng cầm lấy sách lễ để đọc và hiệp thông với Giáo-hội, nói chuyện với Chúa và thấm nhập sứ điệp của Ngài vào cuộc sống trong ngày của tôi.

Mỗi ngày, chúng ta cần để lời Chúa xây dựng, uốn nắn đời mình, như đất sét trong tay người thợ gốm.

Để hiểu được tầm mức cao cả của Thánh lễ và Thánh-thể, chỉ cần suy nghĩ kỹ về các lời chúng ta hát trong kinh Vinh-danh Thiên Chúa trên các tầng trời

“ Chúng con thờ lạy Chúa, chúng con tôn vinh Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì vinh quang cao cả Chúa. Chúa xóa tội trần gian, xin nhận lời chúng con cầu khẩn”. 

Thánh thể là bí tích thờ phương, tạ ơn, chữa lành và tha thứ. Nhờ Chúa Kitô, Chúa chúng ta, chúng ta đến với Chúa Cha, hướng về Tòa Chúa.  Và chính nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài mà Chúa đáp trả lời cầu khẩn của chúng ta; không bao giờ lời kinh ấy không được nhận lời. Nếu chúng ta tìm lại được ý nghĩa của Thánh lễ, các cộng đoàn Kitô-hữu sẽ hồi sinh; Thánh lễ chủ nhật là lễ Phục sinh hằng tuần, đúng là trắc nghiệm về sự trung tín của chúng ta đối với Thầy: “Anh em hãy làm việc nầy mà nhớ đến Thầy” cho đến khi Ngài lại đến trong vinh quang.

 Thánh thể cũng là của ăn và thức uống.  Nhưng đặc điểm kỳ bí, mầu nhiệm ở đây là trong hiệp lễ, không phải chúng ta biến của ăn làm đồ nuôi dưỡng cuộc sống mình, nhưng chính của ăn biến đổi chúng ta để chúng ta thành sự sống trong Ngài.

Cuối cùng, Thánh-thể không chỉ là hiệp lễ, sự hiện diện thật sự luôn ở ngay trong Thánh-thể : chúng ta có thể tôn kính Thánh-thể ấy, thờ lạy âm hầm dưới chân của Thầy, trước Nhà tạm.

Trong những ngày tháng dành riêng cho cuộc sống siêu nhiên, chúng ta cần lưu ý đến tầm quan trọng của những kỳ tĩnh tâm; cuộc tĩnh tâm kiểu mẫu luôn vẫn là Phòng-Cao ở Giêrusalem khi các môn đệ, cùng với Mẹ Maria, đã cầu nguyện và đã sống “Bí-tích Thánh-tẩy trong Thánh Thần”; cuộc tĩnh tâm ấy đã chuyển đổi con người họ.  Những cuộc tĩnh tâm như thế thường có thể giúp nhiều Kitô-hữu bấy lâu ơ hờ, thụ động trong việc hành đạo, chấp nhận dấn thân cụ thể. Nên tham dự và cổ động người tham dự; các cuộc tĩnh tâm nầy thực sự là việc làm hết sức hữu ích. 

Ad extra 

Trên bình diện làm công tác tông đồ, Kitôhữu phải là “nhân chứng của Chuá Kitô, bằng lời nói và việc làm, mọi nơi và mọi lúc”. Đừng đợi mọi yếu tố phải có sẵn, xét về khía cạnh con người. Châm ngôn thường được người ta nêu lên : “trước hết phải nhân bản hóa, sau đó rồi Phúc-âm hóa” đã thường làm cho hứng khởi truyền giáo khựng lại, và làm tổn thương cả nỗ lực nhân bản hóa chân thực, mà đỉnh cao lại chính là Đức Kitô.  Đừng sợ phải làm chứng về đức tin mình. Đức Gioan-Phaolô II đã nhắc lại bổn phận ấy trong một sứ điệp:

“Nhân danh Chúa Kitô tôi xin anh chị em phải làm người loan truyền Phúc-âm…Là thành phần làm nên Giáo-hội, mỗi người phải hoàn thành phần trách nhiệm của mình…mỗi người hãy làm cho người gần mình, trong gia đình, trường học, trong giới văn hoá, nơi làm việc hiểu rằng Chúa Kitô là Đường, là Sự-thật, là Sự-sống” (22.10.1985).

Để nâng đỡ nhau làm tông đồ, Kitô-hữu cần sự trợ giúp của anh chị em đồng đạo. Nếu không gia nhập một nhóm tông đồ nào, thì cố tìm một sinh hoạt tông đồ thích hợp với ước vọng của mình.

Nếu không tìm thấy, thì nên cổ động trong môi trường sinh hoạt giáo xứ những nhóm nhỏ sống Phúc-âm, chia sẻ cuộc sống Kitô giáo trong hai chiều kích cá nhân cũng như làm công tác tông đồ. 

2- Ứng dụng trước mắt 

Một khi nhận ra được chiều sâu và sự ưu tiên nơi “thân phận Kitô-hữu của mình”, các hệ quả thực tiễn sẽ phong phú vô cùng. Trong trường hợp tôi chẳng hạn, tôi tức khắc bị chất vấn và phải trả lời: “Trước hết tôi là một giám mục Kitô-hữu hay là một Kitô-hữu làm giám mục?” . Hỏi như thế buộc tôi phải xét mình, và mỗi lần bị chất vấn là mỗi lần tôi phải giật mình. Hoặc trong dân chúng: Quí vị trước hết là một ông chủ Kitô-hữu hay một Kitô-hữu làm ông chủ? Trước hết là một nhà giáo Kitô-hữu hoặc một Kitô-hữu làm nghề dạy học? Trước hết làm một bà mẹ Kitô-hữu hay một nữ Kitô-hữu làm mẹ gia đình?…”. Và câu hỏi ấy được giải thích thêm: Hai cái, cái nào là gốc, là cốt lõi, và cái nào là tĩnh từ, phụ thuộc trong cuộc sống của bạn?

Một thí dụ khác: trong cuộc sống lứa đôi Kitô-giáo, cái gì được đề cao, lưu ý hơn để thực sự phát huy cuộc sống Kitô-hữu của vợ chồng: trước hế họ là vợ chồng, được kêu mời để sống bổ sung cho nhau? Hoặc trước hết họ cảm nhận nhau sâu xa hơn nữa như là anh em trong Chúa Giêsu-Kitô, được gọi để sống Phúc-âm trong cuộc sống hằng ngày, yêu nhau trong tình yêu thương của Chúa, quên mình, tha thứ cho nhau, trung tín với nhau thể hiện chính giáo ước của Chúa Kitô và Giáo-hội Ngài?

Thêm một thí dụ nữa trên bình diện mục vụ: chúng ta thường áp dụng đường lối hoạt động quen thuộc đó là: thấy, xét rồi hành động. Luật ấy có ý nghĩa chính xác trên bình diện xã hội học; nhưng theo nhãn quan Kitô giáo, còn phải bổ túc như sau:

– thấy, vâng đúng vậy, nhưng với con mắt Chúa Kitô

suy xét, đúng rồi, nhưng với ánh sáng toàn diện của Phúc-âm

– hành động, vâng, nhưng trong đường hướng và sức mạnh của đức tin. Mọi điều ấy không thể tùy nghi.

 3- Một vài thái độ căn bản của một Kitô-hữu chân thật 

Để nối kết giữa thần học và mục vụ, tôi muốn trích dẫn một vài đoạn trong một bài báo của Đức Hồng-y Danneels.

  Chúng ta còn can đảm loan truyền Chúa Kitô hay không? 

Về đề tài nầy tôi muốn thử kiểm thảo để truy tìm lại thực chất nền tảng của đức tin chúng ta.  Thông điệp Redemptoris Missio đã đề cập đến vấn đề nền tảng của công tác rao truyền Phúc âm. Tôi nghĩ rằng những vấn đề đã nêu lên trong thông điệp nầy có giá trị cho công cuộc truyền bá Tin-mừng ở xứ chúng ta, cũng như ở các nơi xa xôi khác.

Các vấn đề đặt ra là: Còn cần phải truyền giáo, rao giảng Tin-mừng nữa không? Không thể thay thế truyền giáo bằng đối thoại giữa các tôn giáo hay sao? Phát huy con người qua nỗ lực phát triển chưa đủ sao? Không phải là cần tôn trọng niềm tin kẻ khác, tự do lương tâm của người ta hay sao? Và tất cả các tôn giáo không phải là có giá trị như nhau hay sao?

Chúng ta không phủ nhận những nội dung nầy, vì những căn rễ của chúng rất tốt lành: như tự do lương tâm, dân chủ hóa, tôn trọng đời tư, tôn trọng các tôn giáo khác, và ý nghĩa của đối thoại. Vaticanô II đã nhấn mạnh đến các giá trị nầy. Các quan niệm ấy không phát xuất từ những kẻ xấu bụng, nhưng bởi một tâm hồn ngay thực và tốt lành. Tuy vậy chúng vẫn nêu lên cho chúng ta nhiều vấn nạn.

  Chỉ có một Đấng Cứu độ 

Chối bỏ Chúa Kitô là Đấng Cứu độ duy nhất của mọi người là buộc chúng ta phải xóa đi ba phần tư Tân-ước. Vì Phêrô và mười hai tông đồ, Phaolô và Gioan, đã mạnh mẽ nêu lên tính cách duy nhất nơi Chúa Kitô Đấng Cứu độ.

  Xác tín sâu xa của những môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu là xác tín về Ngài là Đấng Cứu độ duy nhất. Đó là một đìểm nền tảng quyết định tất cả.

Nếu Chúa Kitô không phải duy nhất, thì đức tin trở thành tùy nghi. Không thể nào bảo chứng cho công cuộc truyền giáo: người ta dựa vào uy quyền nào để nói về Đấng Kitô cho các dân tộc khi Đức Kitô chỉ là một trong các vị cứu độ khác?  Không chấp nhận Chúa Kitô là duy nhất, thì mọi công cuộc truyền giáo chỉ là cao vọng mơ hồ.

 Người ta không còn cách nào khác để được cứu độ sao? Nhiều người đương thời với chúng ta còn sống Phúc-âm hơn là người Kitô hữu. Có những “hạt mầm Ngôi Lời” (semina Verbi) ở ngoài vòng vi của Giáo-hội hữu hình chúng ta, ở ngoài sợi giây liên lạc hữu hình với Chúa Kitô.  Nhưng chúng ta phải xác quyết là mọi dấu vết cứu độ đều liên kết với Chúa Kitô duy nhất. Vì giai đoạn chuyển từ mối liên kết mặc nhiên đến mối liên kết minh nhiên, nhờ việc rao giảng, tùy thuộc vào ý Chúa: Anh em hãy ra đi, hãy rao giảng cho tất cả các dân tộc và rửa tội cho họ.

Thánh Phanxicô Assisi đến sống với người Hồi giáo và vị giáo trưởng của họ. Ngài vừa loan báo Chúa Giêsu vừa tôn trọng vị thủ trưởng và các tín đồ hồi giáo đến nỗi sau sáu thế kỷ người ta còn nhớ đến ngài. Tôi nghĩ đây là một thái độ chúng ta phải noi theo.

 Không được phân tách Nước-Trời với Chúa Kitô 

Điểm căn bản thứ hai: mối liên kết giữa con người Chúa Giêsu và Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa ấy gồm những giá trị như: bao dung, liên đới, bác ái, hòa bình, chia sẻ, dấn thân xây dựng trật tự thế giới công bằng….Các giá trị ấy do Chúa Giêsu cổ súy và gắn liền với Con Người của Ngài.

Người ta có khuynh hướng tách rời các giá trị Nước Chúa khỏi Con Người Giêsu. Chúng ta phải thú thực là nhiều hội đoàn và phong trào chúng ta đã đi đến mức đó. Cũng không phải vậy để có dịp lên án hay phạt vạ họ. Chúng ta nhận thấy nhiều người hát ca tôn vinh những giá trị nước Chúa và cổ súy các giá trị nầy. Được như vậy là quý hóa; tôi không hề cầm đá ném vào họ.  Nhưng xin hỏi họ có chắc là các giá trị nầy, một khi bị tách ra khỏi Đức Kitô, liệu còn tồn tại lâu dài không?

Nhiều hội đoàn của chúng ta cảm ứng tinh thần Kitô giáo đang nỗ lực cổ súy các giá trị Kitô giáo, tôi ủng hộ các cố gắng ấy, đó là một thiện ích cho nhân loại và văn minh; nhưng cũng phải lưu ý là khi các giá trị nầy bị tách ra khỏi toàn bộ cuộc sống cụ thể của Kitô-hữu, thì thường sẽ teo tóp dần. Nên việc cổ võ các giá trị ấy cần được nuôi dưỡng bằng cuộc sống chiêm niệm, đức tin, bí tích và phụng vụ.

 Đừng tách rời một bên là Thiên Chúa, bên kia là Đức Kitô

Thứ ba: đừng chủ trương một ý niệm mơ hồ về Thiên Chúa tách khỏi Đức Kitô. Mặc khải Kitô giáo không hướng đến một loại thờ trời nào đó một cách mơ hồ. Nó diễn tiến cụ thể từ Giavê, Thiên Chúa của Cựu-ước và Chúa chúng ta, nhờ bởi Chúa Kitô đã chết và đã sống lại mà đi đến một sự nhận biết đầy đủ về Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Việc nhận biết Chúa Ba Ngôi liên kết chặt chẽ với mặc khải của Chúa Kitô.

Mục đích của rao truyền Phúc-âm không phải là đưa người ta trở thành những người tin vào Chúa nào đó, nhưng là những người tin vào một Chúa, Cha, Con và Thánh Thần. Đấng duy nhất có thể dẫn đưa chúng ta vào đức tin nầy trong Chúa Ba Ngôi là Con Thiên Chúa làm người. Ngài là Đấng duy nhất đã thấy Chúa Cha, là Đấng duy nhất có thể ban Thánh Thần cho chúng ta. Những yếu tố khác trong việc làm của chúng ta không phải là sai trái, đáng lên án, nhưng phải đặt vào vị thế thích đáng của chúng.

Nhưng dựa vào cao vọng nào mà chúng ta nói mình nói được chân lý? Đó là câu nói làm tắt nghẽn hứng khởi truyền giáo: “Quí vị là ai mà dám cao ngạo nói mình có chân lý?” Câu nói nầy người ta thường lặp đi lặp lại với chúng ta. Nếu chúng ta không nhận sứ mạng của Chúa Kitô, nếu không phải chính Ngài đã đặt để lời Ngài trong miệng chúng ta, mọi lời nói về Phúc-âm của chúng ta chỉ là cao vọng hão huyền. Nhưng ai chỉ nói điều mình đã nhận trong đức tin không thể bị kết án là cao vọng được.

Chúa Giêsu đã từng gặp những khó khăn như thế; cũng như các tông đồ tiếp theo Ngài, khi họ chỉ muốn vâng lời Thiên Chúa hơn là nghe theo con người. Nếu chúng ta không vâng lời Chúa là Đấng sai gửi chúng ta, thì rõ ràng là chúng ta không có quyền lên tiếng. Những lời chống đối như thế buộc chúng ta quay nhìn về Chúa Kitô.  Chúng vẩn lợi ích cho chúng ta, đừng ngại gì. Can đảm lên!

 Tác giả:  Gs. Nguyễn ĐăngTrúc

THẦN TÌNH YÊU

THẦN TÌNH YÊU

tác giả:  M. Hoàng Thị Thùy Trang.


 Ngôi Ba Thiên Chúa, thuật ngữ xem thường rất gần gũi trên môi miệng người tín hữu nhưng dường như hơi xa lạ trong não trạng mỗi người. Người ta dễ gần với Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu và không mấy thường xuyên cầu nguyện cùng Chúa Thánh Linh. Như một thói quen đạo đức tốt, mở đầu những giờ cầu nguyện, các việc làm… người tín hữu luôn cầu xin Chúa Thánh Linh soi lòng mở trí, chúc phúc cho mọi công việc của họ, nhưng lại rất dễ mau quên Ngài.

 Quả thật, ngôi vị Thánh Linh là Ngôi Ba Thiên Chúa, là Thánh Thần tình yêu, là mối dây thông hiệp, bác ái, là sức mạnh, là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Ở đâu có tình yêu, hiệp nhất, ở đó có sự hiện diện của Ngôi Ba.

 Nói đến từng ngôi vị Thiên Chúa, là nói đến sự mầu nhiệm không thể lý giải được, chỉ còn lấy đức tin mà bù lại. Ngôi Ba Thánh Linh được sinh ra từ tình yêu của Thiên Chúa Cha và Chúa Con. Đức Giêsu là Con Một yêu dấu của Thiên Chúa Cha. Chúa Cha tạo dựng, Chúa Con cứu chuộc, Chúa Thánh Thần thánh hóa. Đó là sự thật về Thiên Chúa. Ba ngôi vị nhưng là một Thiên Chúa. Mỗi ngôi vị có một sứ mệnh riêng biệt tạo dựng, cứu chuộc và thánh hóa nhưng đều mang tình yêu, ơn cứu độ và sự sống vĩnh cửu cho nhân loại.

 Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa hay bị lãng quên. Người ta ít nhớ đến Ngài vì sự hiện diện vô hình của Ngài? Nhưng nhân loại quên một điều cố yếu rằng, từ khi chưa có đất trời, từ khi có sự hiện hữu của Thiên Chúa, là Ngài đã hiện diện, vì Ngài cũng chính là Thiên Chúa. Thiên Chúa của sự thinh lặng, Thiên Chúa của sức mạnh và quyền năng.

 Chúa Thánh Thần ban đủ bảy ơn xuống trên tất cả những người tin, hầu giúp họ vượt thắng mọi cám dỗ và sự dữ mà trung thành với Thiên Chúa. Ai sống no đầy ơn nghĩa với Chúa Thánh Thần, người ấy thủ đắc được ân sủng thần linh. Thế giới được sinh ra từ Thần Khí, khi Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, nặn con người bằng bùn đất, Ngài đã thổi sinh khí Ngài để trao ban sự sống. Và sự sống vĩnh cửu đời sau cũng vậy, chỉ có ở những ai lãnh nhận được sức mạnh linh thiêng của Ngài.

 Trong những ngày phục sinh sống lại, Đức Giêsu đã hiện ra với các tông đồ, thổi hơi vào các ông để trao ban Thánh Thần: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20, 23). Thần khí ngày phục sinh các tông đồ lãnh nhận từ Đức Giêsu, cũng chính là Thánh Thần chúng ta lãnh nhận trong ngày đầu tạo dựng và là Thánh Thần khi ta chịu phép rửa. Thánh Thần là dấu chỉ chúng ta thuộc về Thiên Chúa.

 Về trời, Thiên Chúa Cha và Đức Giêsu đã trao ban Thánh Thần cho nhân loại. Sức mạnh và quyền năng của Thánh Thần từ nay hiện hữu trên hoàn vũ. Thời đại của Thánh Thần đã đến. Thánh Thần sẽ thánh hóa, kiện toàn sứ mạng cứu chuộc của Đức Giêsu trên trần gian.

 Người ta nói nhiều đến chiến tranh và hận thù. Thế giới luôn tìm mọi cách để phá vỡ chiến tranh, kêu gọi hòa bình. Nhưng bao nhiêu thiên niên kỉ qua rồi, nhà nhà vẫn chiến tranh, người người vẫn chiến tranh, nước nước vẫn chiến tranh. Nếu như không có Thần Khí trong mình, nếu như không có Thánh Thần ngự trị, tất cả mọi lời kêu gọi, mọi hoài bão cũng trở nên vô hiệu. Chỉ khi nào, chỉ những ai có Thánh Thần, lúc ấy, người ấy, mới đích thực là khí cụ chứng nhân của Thiên Chúa.

 Lạy Chúa, sự sống của con là của Thần Khí và thuộc về Thần Khí. Thế giới này đang được điều khiển dưới sức mạnh của Thần Khí. Đấng là Tình yêu, là mối dây liên kết, là sự thông hiệp và là hơi thở, sự sống của Ba Ngôi vĩnh cửu. Nguyện xin Chúa Thánh Linh luôn ở trong con, hoạt động nơi con, cho con sự khôn ngoan và tình yêu của Chúa, hầu con có đủ sức mạnh, loan truyền tin vui cứu độ bằng chính đời mình. Có Thánh Thần Chúa bên con, là có tất cả. Cho dù thế lực sự ác đang tràn ngập thế gian, bóng tối tội lỗi có che kín bầu trời, thì con vẫn luôn có sức mạnh bất diệt của Thánh Linh Chúa, kiên cường vượt qua mọi gian nan, thử thách. Vì con luôn có Thần Tình Yêu ở bên mình…

 M. Hoàng Thị Thùy Trang.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi