Người công bằng là người thế nào? – Cha Vương

Thứ 5 rồi bạn ơi! Xin Chúa chúc lành và gìn giữ bạn và gia quyến luôn mãi nhé.

Cha Vương

Thứ 5: 7/8/2025  t4-24

GIÁO LÝ:  Người công bằng là người thế nào? Người hành động công bình là người luôn luôn chắc chắn trả cho Thiên Chúa cái gì của Thiên Chúa, trả cho tha nhân cái gì của tha nhân. (YouCat, số 302)

SUY NIỆM: Để diễn tả công bằng có câu: “Hãy trả cho người ta cái gì là của họ”. Tương lai của một em bé khuyết tật và của một em bé có khả năng dư dật cần phải được xem xét khác nhau, để tôn trọng những quyền lợi của mỗi em. Đức công bằng cố gắng tìm sự quân bình và quan tâm để mọi người đều nhận được cái họ cần được. Đức công bình cũng cốt tại dâng cho Thiên Chúa cái gì là của Thiên Chúa, nghĩa là tình yêu và lòng tôn thờ của ta. (YouCat, số  302 t.t.)

  Công bằng mà không thương xót là không yêu thương, thương xót mà không công bằng là giảm giá trị cả hai.—Friedrich Von Bodelschwingh (1831–1910, mục sư Tin lành Đức và thần học gia)

LẮNG NGHE: Bấy giờ, ông Gióp trỗi dậy, xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy và nói: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. ĐỨC CHÚA đã ban cho, ĐỨC CHÚA lại lấy đi: xin chúc tụng danh ĐỨC CHÚA!” (Gióp 1:20-21)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa là vị Thẩm Phán khoan dung, xin cho con biết sống yêu thương, tha thứ như Chúa đã yêu thương và tha thứ cho con.

THỰC HÀNH: Đếm tháng ngày mình sống là đếm những hồng ân Chúa ban trải dài suốt cuộc sống, cho dù không bao giờ bạn đếm hết và cũng không đếm cách nào cho xuể… nhưng bạn cần phải đếm để biết được Chúa yêu thương bạn đến cỡ nào nhé.

From: Do Dzung

******************************

Hồng Ân Chúa | Sáng tác : Falê | Trình bày : Kim Tuyến

KHÔNG CÓ GÌ TỒN TẠI MÃI –  Lm. Mark Link, S.J.

 Lm. Mark Link, S.J.

 Chủ đề: “Chúng ta có chuẩn bị tốt đẹp cho đời sau không?”

 Frank Kendig và Richard Hutton viết một cuốn sách có tựa đề Quãng Thời Gian Sự Sống, hoặc Những Đồ Vật Tồn Tại Bao Lâu.  Trong đó, bạn sẽ khám phá ra nhiều sự thật thú vị.

 Chẳng hạn, bạn sẽ biết rằng tuổi trung bình của đôi giày bóng chày (baseball) của một cầu thủ chuyên nghiệp chỉ lâu khoảng hai tháng.

 Bất ngờ hơn nữa, tuổi trung bình của cây gậy khúc côn cầu (hockey) mà cầu thủ chuyên nghiệp sử dụng chỉ sau hai trận đấu.

 Bạn cũng thấy rằng đôi giày của một người lính trong thời bình là mười lăm tháng, nhưng trong thời chiến nó chỉ còn ba tháng.

Trong khi tuổi thọ của một số thứ ngắn hơn chúng ta tưởng, những thứ khác lại tồn tại rất lâu.

 Thí dụ, một lon bia bị bỏ quên trên núi bởi người cắm trại thì vẫn còn nguyên sau đó 80 năm.  Và chiếc giày da để lại ở cùng nơi đó sẽ vẫn còn sau 50 năm.

 Sau cùng, một tảng đá nhô ra khỏi mặt đất sẽ vẫn còn nguyên sau một nghìn năm.

 Nhưng dù là thứ gì – gậy khúc côn cầu, lon bia, hay tảng đá – các tác giả Kendig và Hutton khẳng định rằng mọi thứ rồi cũng sẽ biến mất.  Không có gì tồn tại mãi mãi. 

Và điều đúng với gậy khúc côn cầu, lon bia và tảng đá thì cũng đúng với loài người.  Chúng ta rồi cũng sẽ biến mất.  Không ai trong chúng ta sẽ sống mãi.

 Và đó chính là điểm mà Chúa Giêsu nói đến trong Tin Mừng hôm nay.  Đó là lý do vì sao Người cảnh báo chúng ta:

 “Hãy sẵn sàng… với đèn cháy sáng trong tay… vì Con Người sẽ đến vào giờ các con không ngờ.

 Dù ở đây Chúa Giêsu đang nói về lần Quang Lâm Thứ Hai, các nhà thần học quả quyết rằng lời của Người có thể hiểu theo hai nghĩa:

 Theo nghĩa hẹp, là ngày tận thế.  Tuy nhiên, theo nghĩa rộng, chúng ám chỉ ngày cuối cùng của cuộc đời chúng ta. 

Và chính vì ngày kết thúc cuộc đời – hay cái chết – mà chúng ta phải đặc biệt chuẩn bị.  Tất cả chúng ta đều biết là nó sẽ xảy đến.  Chúng ta không sống mãi. 

Sigmund Freud, nhà thần kinh học người Áo nổi tiếng và là người khai sinh ngành phân tâm học, qua đời ngay trước Thế Chiến II. 

Freud có một câu chuyện thú vị rất phù hợp với ý nghĩa của sự chuẩn bị.

 Câu chuyện kể về một người thủy thủ bị đắm tàu và dạt vào một hòn đảo ở Nam Thái Bình Dương.

 Anh ta được dân bản địa tiếp đón nồng nhiệt.  Họ vỗ tay, hát ca, rước anh ta lên vai, đưa về làng và đặt anh ngồi lên một ngai bằng vàng.

 Từ từ, người thủy thủ hiểu được những gì đang xảy ra.

 Người bản địa có một tập tục là thỉnh thoảng đặt một người làm vua trong một năm.  Trong năm đó, ông vua có thể ra lệnh cho dân làng thi hành điều gì đó trong khả năng, và họ sẽ tuân lệnh mà không thắc mắc.

 Người thủy thủ thật vui sướng vì được chọn làm vua.  Anh không thể tin được sự may mắn của mình.  Nhưng một ngày kia, anh bắt đầu tự hỏi điều gì xảy ra cho một ông vua khi vương quyền của ông chấm dứt.

 Đó là khi sự phấn khởi và hăng hái của anh đột ngột chấm dứt.

 Anh khám phá rằng vào cuối vương quyền, anh sẽ bị trục xuất đến một hoang đảo, được gọi là Đảo Vua.  Ở đó anh sẽ bị bỏ mặc cho chết đói như một vật hiến tế cho các thần linh.

 Sau khi người thủy thủ bừng tỉnh sau tin chấn động này, từ từ anh bắt đầu đưa ra một kế hoạch. 

Là vua, anh ra lệnh cho thợ mộc trên đảo đóng một đoàn tàu nhỏ.  Khi đoàn tàu đã sẵn sàng, anh ra lệnh cho các nông dân đào gốc cây ăn quả và rau củ, mang theo ra Đảo Vua để trồng lại.

 Cuối cùng, anh ra lệnh cho thợ xây dựng một căn nhà bằng đá trên Đảo Vua.

 Bằng cách đó, người thủy thủ đã chuẩn bị kỹ lưỡng cho ngày mà vương quyền kết thúc và khi anh bị đày ra Đảo Vua.

 Câu chuyện đó là một minh họa thật hay cho điều Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta trong Tin Mừng hôm nay.

 Ở nơi khác trong Tin Mừng, Chúa Giêsu dạy: “Hãy tích trữ kho báu trên trời, nơi không mối mọt hay kẻ trộm nào có thể lấy mất.” (Lc 12,33)

 Người nói với chúng ta hãy làm như người thủy thủ kia. 

Tin Mừng hôm nay mời chúng ta tự hỏi chúng ta có chuẩn bị tốt đẹp cho ngày mà cuộc sống trần thế của chúng ta sẽ chấm dứt như người thủy thủ kia không. 

Nó mời chúng ta hãy tự hỏi, “Nếu đêm nay chúng ta lìa đời, chúng ta có sẵn sàng gặp Chúa chưa?”

 Và nếu câu trả lời vẫn còn điều gì đó đáng ao ước, thì chắc chắn Chúa đang nói với mỗi người chúng ta một cách đặc biệt qua Tin Mừng hôm nay.  Người nói:

 “Hãy như những đầy tớ luôn tỉnh thức chờ chủ về… Và các con cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì Con Người sẽ đến vào lúc các con không ngờ.” (Lc 12:35–40).

 Đó chính là sứ điệp mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta trong Tin Mừng hôm nay.  Đó là sứ điệp mà Người muốn chúng ta ghi lòng tạc dạ trong phụng vụ này.

 Chúng ta hãy kết thúc bằng một đoạn trong tác phẩm Kèn của Chúa (God’s Trombones) của nhà văn James Weldon Johnson.

 Trong đoạn văn, Johnson mô tả cái chết của một phụ nữ đã sống đúng như lời Chúa dạy trong Tin Mừng hôm nay, và đã sẵn sàng khi giờ chết đến.  Ông viết:

 “[Chị Caroline] đã thấy điều mà chúng tôi không thể thấy;
chị đã thấy Tử Thần xưa.
Chị thấy Tử Thần đến như một ngôi sao băng.
Nhưng cái chết không làm chị Caroline sợ hãi;
nó hiện ra như một người bạn thân quen.
Và chị thì thầm với chúng tôi:
‘Tôi đang về nhà.’
Rồi chị mỉm cười và nhắm mắt lại.”

Chị Caroline đã sẵn sàng về nhà.

 Lm. Mark Link, S.J.

 From: Langthangchieutim


 

Phù Vân nối tiếp Phù Vân -Tác giả Phùng Văn Phụng

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Tôi có viết về đề tài này rồi, nói về sự sống và sự chết. Nhưng trong thời gian gần đây có hai sự kiện nổi bật, hai người trẻ nổi tiếng là nữ phi công Nguyễn Anh Thư và ông Hoàng Nam Tiến đã lại ra đi lúc còn quá trẻ cho nên tôi thấy cần viết thêm về đề tài này.

Sách Giảng Viên (1: 2) có nói: “Phù vân quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân”.

Nếu nhìn vào đời sống thường nhật của con người từ xưa tới nay có lẽ ai ai cũng đều thấy, đều cảm nghiệm được, phù vân quả là “phù vân”.

Hay có thể nói: Hư không trên các sự không và mọi sự đều hư không. Suốt đời của họ đầy sự đau khổ gian truân và ban đêm lại không được yên lòng, thế thì chẳng phải là hư không sao?

Trong Kinh thánh có nói đến:

Ông nhà giàu kia dự định cất thêm kho lẫm để chứa đựng thóc lúa vì ông nhà giàu trúng mùa lúa và hân hoan vui mừng sẽ được mặc sức tiêu xài vì giàu có.

Nhưng Thiên Chúa bảo rằng: “hởi kẻ ngu dại đêm nay, người ta sẽ đòi linh hồn ngươi thế thì những của người tích trữ sẽ để cho ai? Hay, nhưng Thiên Chúa bảo anh ta: Đồ ngốc! Nội đêm nay người ta sẽ đòi lại mạng ngươi thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai? (Lc 12, 20)

Cũng sách Giảng Viên (1:18) cũng có nói: “

Càng nhiều khôn ngoan càng nhiều phiền muộn

Càng thêm hiểu biết càng thêm khổ đau”

*****

Theo báo Nguoi-Viet: Nguyễn Anh Thư, nữ phi công muốn trở thành người phụ nữ Việt đầu tiên bay một mình vòng quanh thế giới, đã kết thúc cuộc hành trình khi phi cơ của cô bị rơi ở Greenwood Indiana vào ngày 30 tháng 07 -2025. Đây là chặng thứ hai của cuộc hành trình khi cô rời phi trường Indy South Greenwood lúc 10 giờ 45 sáng trên đường đến phi trường ở Pennsylvania… Vài phút sau khi cất cánh thì cô gặp tai nạn và đã qua đời.

Nguyễn Anh Thư quê ở Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Cô định cư tại Mỹ lúc 12 tuổi, khi Anh ngữ chưa rành. Cô nỗ lực để tốt nghiệp thủ khoa trung học, rồi tốt nghiệp cử nhân Khoa Học Toán và Thạc sĩ Kỹ Thuật Hàng Không và Du Hành Vũ Trụ tại đại học Purdue University. Sau 10 năm thử thách, cô trở thành nữ phi công lái máy bay tư nhân, là huấn luyện viên lái máy bay của một trường chuyên nghiệp ở tiểu bang Florida.

Vĩnh biệt Anh Thư, và ước mơ một mình bay vòng quanh thế giới dang dở.

https://keditim.net/222167-2/

Theo báo Đất Việt:

Ông Hoàng Nam Tiến- “người truyền lửa” của thế hệ công nghệ Việt đột ngột qua đời. Ông là Phó Chủ tịch Hội đồng trường Đại Học FPT năm 2023, đã qua đời vào lúc 16 giờ 10 ngày 31 tháng 07 do đột quỵ ở tuổi 55.

Theo báo trên, ông Tiến vẫn xuất hiện đều đặn với vai trò diễn giả, cố vấn, người truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ Việt Nam trong lãnh vực công nghệ và khởi nghiệp. Không chỉ là doanh nhân xuất sắc, ông Hoàng Nam Tiến còn là nhà văn, người kể chuyện đầy cảm xúc.

https://www.datviet.com/ong-hoang-nam-tien-nguoi-truyen-lua-cua-the-he-cong-nghe-viet-dot-ngot-qua-doi/

Đâu phải chỉ người lớn tuổi, người già mới chết hay vì nghèo đói, thiếu ăn, hay bị bịnh hoạn mới chết, mà cái chết có thể xảy ra cho bất kỳ ai và bất cứ lúc nào.

Đâu có ai biết trước mình sẽ ra đi vào lúc nào, ngày nào và ra đi vì lý do gì?

Nhưng chúng ta biết chắc chắn rằng chúng ta sẽ phải ra đi (không biết ngày giờ nào mà thôi) vì đó là quy luật tất yếu, có sinh thì phải có tử.

*****

Alexander Đại đế, vị Hoàng đế của đế quốc cổ Hy Lạp thuộc Macedon. Ông lên ngôi thay cha mình là Philip II năm 356 TCN ở tuổi 20. Và ông qua đời tháng 06 năm 323 TCN tại Babylon hưởng dương 32 tuổi.

Môt số sử gia cho rằng ông chết vì bịnh sốt rét. Một số sử gia khác cho là ông bị đầu độc.

Khi biết mình sắp chết, ông gọi các vị đai tướng lại quanh mình và dặn dò họ ba điều:

-1)Thầy thuốc giỏi nhất khiêng quan tài- để chứng tỏ rằng bác sĩ giỏi nhất cũng không cứu được sinh mạng con người (vì làm người ai cũng phải chết).

– 2)Khi di chuyển quan tài rãi tất cả vàng bạc châu báu của ông trên đường đi – (để chứng tỏ khi chết không giữ lại được tài sản gì)

-3)Để hai bàn tay ra bên ngoài quan tài (cái hòm) để nói rằng, ra đi với hai bàn tay trắng.

Tượng Alexander Đại đế tại Skopjie, Macedonia (nguồn: Internet)

Kết: Vậy chúng ta có cảm nghiệm được rằng tiền của, vàng bạc, của cải khi chết đâu có mang theo được? vậy mà chúng ta vẫn lo tích cóp của cải, tận tâm, tận lực, lao tâm, khổ trí để kiếm thật nhiều tiền đến nổi không có thì giờ nghỉ ngơi.

Chưa kể, có nhiều kẻ quá tham lam, làm việc đầu tắt mặt tối, cũng có người vì tham tiền, tham địa vị, chức vụ, hảm hại người khác để giành giựt cho kỳ được. Rồi cuối cùng khi chết cũng chỉ có hai bàn tay trắng.!!!

Làm sao khi nằm xuống tâm hồn thanh thản, vô ưu, tự nói với lòng mình “đã làm hết bổn phận” không có gì buồn phiền, hối tiếc để có thể “vui mừng đón nhận cái chết”.

Phùng Văn Phụng

Ngày 03 tháng 08 năm 2025

Di sản quyền lực: Khi con cái lãnh đạo chọn rời đi – Lê Thọ Bình

Ba’o Tieng Dan

06/08/2025

Lê Thọ Bình

Có một sự thật hiển nhiên mà ít nhà lãnh đạo dám nhìn thẳng: Quyền lực rồi sẽ qua đi, nhưng di sản thì ở lại. Câu hỏi không phải là “từng nắm bao nhiêu quyền”, mà là “sau khi rời đi, người ta còn lại gì?”, và đặc biệt: Con cái họ sống như thế nào, ở đâu, có muốn tiếp nối hay rũ bỏ con đường cha mẹ đã vạch?

Suy cho cùng, không có di sản nào trung thực hơn sự lựa chọn sống của chính những người con trong gia đình quyền lực ấy.

Khi quyền lực không giữ nổi gia đình

Joseph Stalin từng nắm trong tay cả một đế chế. Ông cai trị Liên Xô bằng nỗi sợ, bằng trại tập trung, thanh trừng và lý tưởng sắt đá. Nhưng đến cuối đời, chính con gái ông, Svetlana Alliluyeva, lại trốn sang Mỹ và sống những năm cuối trong một căn hộ nhỏ ở bang Wisconsin. Không tuyên ngôn, không phản động, bà chỉ âm thầm lựa chọn nơi sống như cách tự viết lại lịch sử gia đình.

Sự lựa chọn ấy không chỉ là cá nhân. Nó là lời từ chối, không cần chữ ký, đối với một hệ thống mà cha bà đã dựng nên.

Trường hợp của Vladimir Putin cũng tương tự. Ông, người liên tục đả phá phương Tây, tuyên bố nước Nga cần “bảo vệ truyền thống, chống phương Tây suy đồi”, lại chứng kiến hai cô con gái kín tiếng học tập và sống ở châu Âu. Có nguồn tin cho rằng họ có hộ chiếu nước ngoài.

Họ chưa bao giờ ra tranh cử, chưa bao giờ xuất hiện ở các lễ duyệt binh, không phát biểu về “sứ mệnh dân tộc”. Họ rút lui. Họ không chọn làm người thừa kế tinh thần của cha.

Câu chuyện ấy lặp lại ở Trung Quốc. Tập Cận Bình, người được mệnh danh là “hạt nhân lãnh đạo”, đang đưa Trung Quốc tiến tới một siêu cường chuyên chế, có con gái học tại Harvard.

Cô sống kín đáo, tránh xa chính trị. Đó không phải là lỗi, mà là một sự thật: nếu một hệ thống thực sự lý tưởng, những người trong gia đình lãnh đạo sẽ là người đầu tiên nối tiếp. Nhưng khi họ chọn rời bỏ hoặc né tránh, thì hệ thống đó cần soi lại chính mình.

Thành công không nằm ở khẩu hiệu, mà ở việc con cái có muốn tiếp bước

Trong mọi nền văn hóa, việc kế thừa là điều thiêng liêng. Trong chính trị cũng vậy. Một nhà lãnh đạo, dù độc tài hay dân chủ, đều mong đứa con của mình nối nghiệp – không nhất thiết là ngồi đúng chiếc ghế quyền lực, nhưng chí ít cũng giữ lấy một niềm tin.

Tuy nhiên, khi con cái chọn quay lưng, khi họ sống ở một thế giới khác, không phải vì lý do an toàn, mà vì lý do tự do, đó là lời kết luận rõ ràng cho câu hỏi: di sản ấy có đáng để sống tiếp không?

Một xã hội thành công là xã hội mà ngay cả người giàu nhất, quyền lực nhất cũng muốn con mình lớn lên ở đó. Là nơi người ta yên tâm về giáo dục, về y tế, về sự minh bạch pháp lý. Nếu chính người đứng đầu còn gửi con ra nước ngoài học, tìm kiếm “tương lai tươi sáng” nơi khác, thì đó là lời thú nhận sâu sắc nhất về thất bại của chính sách.

Stalin không phải là trường hợp đặc biệt. Trong nhiều thập kỷ qua, các nhà lãnh đạo độc tài, từ Trung Đông đến châu Á, đều để lại một mẫu số chung: con cái họ gần như không sống trong quốc gia cha mình cai trị.

– Muammar Gaddafi (Libya): Một số con trai ông từng sống ở châu Âu, tiêu tiền vào tiệc tùng và bất động sản xa hoa. Sau khi chế độ sụp đổ, không ai trong số họ tìm cách “khôi phục cách mạng”, mà chỉ lo chạy trốn.

– Saddam Hussein (Iraq): Các con trai ông nổi tiếng ăn chơi. Sau cái chết của ông, không ai dám nhân danh cha để nói về “di sản cách mạng”.

– Kim Jong-un (Triều Tiên): Chính ông từng học ở Thụy Sĩ dưới danh tính giả, và có đời sống tương đối tự do trước khi trở thành “lãnh tụ tối cao”. Ngày nay, ông ngăn người dân tiếp xúc với phương Tây, nhưng con cái ông lại được đồn đoán sẽ du học như cha mình.

– Tập Cận Bình (Trung Quốc): Trong khi ông siết chặt kiểm duyệt, yêu cầu “tự lực cánh sinh”, thì con gái ông học đại học tinh hoa phương Tây. Mạng xã hội Trung Quốc bị khóa, nhưng cô công chúa đỏ thì có thể lên YouTube và đọc New York Times.

Không ai có thể dạy dân yêu nước khi chính gia đình mình rời bỏ tổ quốc:

Câu hỏi mang tính đạo đức chính trị đặt ra là: nếu một nhà lãnh đạo không thể khiến chính con ruột mình sống trong thế giới mà ông ta xây dựng, thì làm sao có thể thuyết phục người dân yêu nước, phục vụ chế độ?

Một xã hội công bằng không được xây trên niềm tin của kẻ cầm quyền, mà trên hành vi của chính họ. Không thể đòi hỏi dân phải chịu khổ vì “lý tưởng quốc gia”, trong khi con mình sống ở nơi có mọi tiện nghi của tư bản. Đó không chỉ là bất công. Đó là đạo đức giả.

Người dân không đòi hỏi lãnh đạo hoàn hảo. Nhưng họ cần sự trung thực. Và trung thực lớn nhất là: nếu anh không dám để con sống trong xã hội mình cai trị, thì anh không có tư cách bắt người khác phải trung thành với nó.

Những di sản thực sự- giáo dục, pháp quyền và lòng tin:

Khi Nelson Mandela ra khỏi nhà tù và trở thành Tổng thống Nam Phi, ông không bắt ai phải yêu nước. Ông chỉ xây dựng một xã hội nơi lòng tin dần được khôi phục. Ông gửi con đi học ở trong nước và nước ngoài, nhưng ông sống với nhân dân, minh bạch và không để lại “gia đình trị”.

Tương tự, ở các nền dân chủ vững mạnh, con cái lãnh đạo có thể sống ở đâu cũng được, nhưng họ không sống vì sợ hãi hay chạy trốn. Họ chọn cách sống tiếp nối vì họ tự hào về nền tảng cha mẹ họ xây dựng. Họ không phải xấu hổ vì mang họ “Bush” hay “Merkel” hay “Trudeau”.

Cuối cùng, lịch sử sẽ không ghi nhớ những bài phát biểu. Nó sẽ nhớ lựa chọn của thế hệ sau. Không một tượng đài nào vững chắc bằng cách sống của người thừa kế.

Và nếu người thừa kế chọn im lặng, chọn rút lui, chọn sống ở một thế giới hoàn toàn khác, đó là bản cáo trạng im lặng nhưng sắc bén nhất đối với quyền lực cha họ từng nắm.


 

RẤT MONG MANH-Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Satan, lui lại đàng sau Thầy!”.

“Ân sủng không phải là thứ ta sở hữu, mà là dòng chảy ta phải ở lại trong đó!” – Jean-Pierre de Caussade – Rời khỏi dòng chảy ấy chỉ một thoáng thôi, ân sủng cũng trở thành khoảng cách. Cái mong manh của ân sủng không nằm ở Thiên Chúa, mà ở sự bất định nơi lòng người.

Kính thưa Anh Chị em,

Vì sự bất định nơi lòng người, ân sủng ‘rất mong manh’ – một chủ đề khá bất ngờ trong Lời Chúa hôm nay. Chúa Giêsu vừa khen Phêrô, rồi chỉ một chốc sau – không thương tiếc – Ngài quở trách ông, “Satan, lui lại đàng sau Thầy!”.

Ân sủng, nếu không hoà quyện với thập giá sẽ ‘rất mong manh!’. Thật khó để tưởng tượng một sa ngã lớn hơn nơi Phêrô trong một khoảng thời gian ngắn như vậy! “Này anh Simôn con ông Giôna, anh thật là người có phúc!” – “Satan, lui ra đàng sau Thầy!”. “Đôi khi những cám dỗ lớn nhất lại đến ngay sau những ân sủng lớn lao nhất!” – Fulton Sheen. Phêrô là minh họa rõ nét: vừa mới được gọi là “Tảng Đá”, phút sau đã bị gọi là “Satan”.

Chúa Giêsu nặng lời với Phêrô vì từ việc tuyên xưng một đức tin sâu sắc, ông đã cho phép một nỗi sợ không đáng có ám ảnh; để rồi từ chối kế hoạch của Thiên Chúa. Sự quở trách dành cho Phêrô là hành động của một tình yêu giúp ông thoát khỏi sự tê liệt của sợ hãi; Chúa Giêsu muốn Phêrô can đảm chấp nhận và xác tín hơn về sự cần thiết của thập giá. Lòng dũng cảm cung cấp sức mạnh, chữa lành lo lắng, kiến tạo niềm vui; và niềm tin là phương dược hoá giải mọi sợ hãi. “Đừng sợ rằng đời bạn sẽ kết thúc, nhưng hãy sợ rằng nó chưa bao giờ thực sự bắt đầu!” – Henry Newman. Phêrô phải từ bỏ nỗi sợ để thực sự bước vào đời sống mới mà thập giá ‘khai mở’.

Điều tương tự cũng đã xảy ra với Môsê và Aharon – những con người đẹp lòng Chúa – vậy mà, ‘ân phúc’ và ‘đặc quyền’ của họ xem ra vẫn ‘rất mong manh’ khi hai ông không được vào Đất Hứa chỉ vì hồ nghi đánh vào tảng đá có mạch nước đến hai lần. “Bạn chẳng bao giờ biết mình thật sự tin điều gì cho đến khi điều đó trở thành chuyện sống chết!” – C.S. Lewis. Môsê để nỗi sợ và tức giận lấn át đức tin, dù bao lần chứng kiến quyền năng Chúa. Thánh Vịnh đáp ca không chỉ dành cho Israel nhưng cho cả Môsê, Aharon và cả chúng ta, “Ước gì anh em nghe tiếng Chúa! Người phán: Các ngươi chớ cứng lòng!”.

Anh Chị em,

“Satan, lui ra đàng sau Thầy!”. Thập giá nào đang khiến bạn sợ hãi và lo lắng; điều gì làm bạn và tôi tê liệt hoặc ít nhất, cám dỗ chúng ta chùn bước và không dám tiến về phía trước? Hãy suy nghĩ như Chúa Giêsu chứ không như suy nghĩ của loài người; hãy tin, tất cả đều được Thiên Chúa sử dụng vào mục đích tốt. Ngài sẽ ban cho chúng ta nhiều đức tính cần thiết để tiến lên. “Chúng ta không nhất thiết nghi ngờ rằng Thiên Chúa sẽ làm điều tốt nhất cho mình; ta chỉ băn khoăn rằng điều tốt nhất đó sẽ đau đớn đến mức nào!” – C.S. Lewis.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con bước ra một thoáng, ân sủng hoá xa xôi – xin kéo con về thật gần. Dạy con ở lại mà tin!”, Amen.

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

*********************************************

Lời Chúa Thứ Năm Tuần XVIII Thường Niên, Năm Lẻ

Anh là Phê-rô ; Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.     Mt 16,13-23

13 Khi ấy, khi Đức Giê-su đến miền Xê-da-rê Phi-líp-phê, Người hỏi các môn đệ rằng : “Người ta nói Con Người là ai ?” 14 Các ông thưa : “Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, người khác lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ.” 15 Đức Giê-su lại hỏi : “Còn anh em, anh em nói Thầy là ai ?” 16 Ông Si-môn Phê-rô thưa : “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống.” 17 Đức Giê-su nói với ông : “Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. 18 Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết : anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây  Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. 19 Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời : dưới đất, anh ràng buộc điều gì, trên trời cũng sẽ ràng buộc như vậy ; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.” 20 Rồi Người cấm các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Ki-tô.

21 Từ lúc đó, Đức Giê-su bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết : Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy. 22 Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người : “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy !” 23 Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô : “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy ! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”


 

 “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người !” (Luca 9:28b-36)-Cha Vương

 Chúc bình an, hôm nay Giáo Hội mừng Lễ Hiển Dung (Lễ Biến Hình), ước mong ngày hôm nay Bạn cũng được đến đổi và trở nên người con yêu của Chúa.

Cha Vương

Thứ 4: 06/08/2025  6-24

TIN MỪNG: Khi ấy, Đức Giê-su lên núi cầu nguyện đem theo các ông Phê-rô, Gio-an và Gia-cô-bê. Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà… Và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người !” (Luca 9:28b-36)

SUY NIỆM: Khi Con Một Chúa biểu lộ dung nhan hiển vinh người, Chúa đã dùng hai chứng nhân Cựu Ước là ông Môsê và ông Êlia để củng cố niềm tin của các tông đồ. Biến cố này cũng báo trước hồng ân lạ lùng Chúa sẽ ban cho những người theo Chúa đó là mai sau được chung hưởng gia nghiệp với Người. Vậy Bạn phải lắng nghe lời Người. Nghe Lời Chúa không chỉ bằng lỗ tai, mà phải nghe bằng cả con tim—thể hiện bằng hành động như Đức Giêsu. Ngài đã nghe Lời Chúa Cha phục vụ loài người đến chết! Có thế, trong ngày cánh chung, ta mới được giống Đức Giêsu, Ngài thế nào ta sẽ được như vậy (x 1 Gio-an 3:2).

LẮNG NGHE: Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo. (Rôma 12: 2)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, nhân ngày lễ kính nhớ Ðức Kitô hiển dung, xin Chúa thanh tẩy con sạch vết nhơ tội lỗi để con được nên giống Chúa.

THỰC HÀNH: Hãy làm một quyết định sống tinh thần bác ái hôm nay để vượt qua một số lĩnh vực ích kỷ trong mối quan hệ hằng ngày nhé.

From: Do Dzung

***********************

CON ĐỪNG SỢ || TCVPV

MẶT KHUẤT TẤM HUY CHƯƠNG CHOPIN CỦA “NGHỆ SĨ NHÂN DÂN” ĐẶNG THÁI SƠN

Xuyên Sơn

Giống như nhà toán học Ngô Bảo Châu, người Việt thành danh thường được chăm bón, vun trồng, phát triển tài năng tận đẩu tận đâu bên ngoại quốc rồi khi có thành quả lại về “báo công lên Bác”

cho nhà nước tự sướng, thở ra không khí đầy những lời hào sảng; đưa tất cả lên đỉnh vinh quang, tưởng chừng như thế gian chỉ còn có người Việt; người Việt sẽ làm cho Thế giới thăng hoa rực rỡ.

Nhưng sau những buổi lễ ầm ĩ, tiệc tùng hoành tráng, báo đài bơm thổi lên tận mây xanh, nền âm nhạc, toán học, khoa học ở Việt Nam thì vũ như cẩn; vẫn những nốt lặng trầm dai dẳng, vẫn những dấu trừ đều tăm tắp lan về chân trời.

Đây, mời các bạn xem một ví dụ điển hình về quá trình “trồng người”, “ươm mầm tài năng”,rồi “gặt hái” của Việt Nam kiểu trên.

Câu chuyện bắt đầu vào năm 1956 tại Bắc Việt.

Nhiều văn nhân, nghệ sĩ khi ấy đã nhiệt thành tham gia một phong trào văn học có tên là “Trăm hoa đua nở”,vốn là chữ dịch từ “Bách gia tranh minh, bách hoa tề phóng”,thời kỳ học đòi “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng” của Mao Xú Uế bên Tàu.

Rất đông văn nghệ sĩ đã tham gia phong trào này.

Nổi tiếng nhất có các ông

Phan Khôi – Chủ nhiệm tạp chí Nhân Văn,

Trần Duy – Thư ký tòa soạn,

Hoàng Cầm,

Lê Đạt,

Trần Dần,

Nguyễn Hữu Đang,

Phùng Quán,

Văn Cao,

Nguyễn Tuân,

bà Thụy An.

Có nhiều nhà trí thức, không phải văn nghệ sĩ, như

Đào Duy Anh,

Trần Đức Thảo,

Nguyễn Mạnh Tường,

Trương Tửu

cũng tham gia phong trào này.

Mọi người biết đến nó dưới cái tên nhóm “Nhân Văn Giai Phẩm”.

Trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm có một nhà thơ tên là Đặng Đình Hưng. Ông chính thức làm thơ từ cuối những năm 1950 cho đến khi qua đời.

Hoạt động nghệ thuật của Đặng Đình Hưng về chữ nghĩa gồm 6 tập thơ,

với những vần thơ khó hiểu, rất khác người.

Ông còn đuợc biết đến như một kiến trúc sư, nhạc sĩ, họa sĩ.

Năm 1957, Đặng Đình Hưng lấy bà Thái thị Liên, một nhạc sĩ dương cầm (piano) nổi tiếng đương thời.

Bà Thái thị Liên trước đó đã có hai đời chồng – khi bà ở hải ngoại (Pháp, Tiệp Khắc) và có ba người con.

Năm 1958, vợ chồng họ Đặng và họ Thái sinh được một cậu con trai, đặt tên là Đặng Thái Sơn..

Niềm vui gia đình, con cái chẳng được bao lâu thì họa ập đến.

Với một ông chồng là một nhân vật trong vụ án “Nhân Văn Giai Phẩm”, bị coi là một tay phản động chống Đảng, bà Thái Thị Liên bị sức ép, phải ly dị với ông Đặng Đình Hưng.

Và rồi bà Liên cùng với 3 người con riêng-chung, trong đó có cậu Đặng Thái Sơn phải ra ở riêng; bà đi dạy nhạc kiếm sống, chấp nhận, chịu đựng một cuộc đời cực nhọc vất vả.

Cũng từ đó, kể cả nhiều năm tháng đi sơ tán ở các vùng quê xa Hà Nội, Đặng Thái Sơn học âm nhạc, học chơi dương cầm với mẹ.

Cuộc đời khốn khó, nhưng bà Liên là một nhà sư phạm nghiêm khắc, khó tính và ít khi đưa ra lời khen, thậm chí Đặng Thái Sơn còn bị “đối xử” khắt khe nữa.

Năm 1974, một chuyện bất ngờ đã xẩy ra làm cho cuộc đời của Đặng Thái Sơn bước sang một khúc ngoặt: một vị giáo sư âm nhạc người Nga, gốc Do Thái tên là Isaac Katz, sang dạy cho Trường Âm nhạc Hà Nội, đã tình cờ phát hiện ra Đặng Thái Sơn.

Một buổi chiều nọ, ông Katz đang tản bộ trên con đường gần nhà bà Thái Thị Liên thì nghe thấy tiếng đàn dương cầm rất hay, rất đáng chú ý.

Lần hồi ông Katz đã tìm được đến nhà bà Thái Thị Liên và gặp cậu con trai Đặng Thái Sơn, một học sinh Trường Âm nhạc Hà Nội, năm nào cũng đứng đầu lớp.

Sau vài lần chứng nghiệm khả năng của người học sinh này, giáo sư Isaac Katz chính thức yêu cầu Trường Âm nhạc Hà Nội cho ông được đích thân truyền dạy cho người học sinh xuất sắc đó, dù trên nguyên tắc ông Issac Katz chỉ dạy những sinh viên năm cuối trước khi thi tốt nghiệp, và Đặng Thái Sơn, phải một năm sau mới hội đủ điều kiện này.

Năm 1975 giáo sư Isaac Katz về nước. Trước khi về ông đã đề nghị cho

Đặng Thái Sơn được theo học dương cầm tại Liên Xô.

Lời đề nghị này không được phía Việt Nam chấp thuận vì chính quyền thấy Sơn là con của một người dính vào “Nhân văn Giai phẩm”, bị coi là một loại phản động nguy hiểm cho nhà nước.

Lời đề nghị không có phản hồi;

Giáo sư Isaac Katz đã phải yêu cầu lần thứ hai, kèm theo lời đề nghị này là thái độ khó khăn của ông với những du học sinh con ông cháu cha, thiếu khả năng thật sự.

Ông phải tạo một sức ép đủ mạnh để Hà Nội nhượng bộ, để người học trò ông chọn phải được dạy dỗ đến nơi đến chốn.

Thế là năm 1976, Đặng Thái Sơn được phép đi học âm nhạc tại Liên Xô.

Anh tạo thành tích ngay lập tức là thi đậu vào Học viện Âm nhạc Tchaikovsky.

Trước anh chưa có một người nào vào được học viện này mà không qua một năm dự bị.

Năm đó anh mới 18 tuổi.

Khi vào học tại Học viện Âm nhạc Tchaikovsky, Đặng Thái Sơn gặp một vị danh sư khác.

Đó là giáo sư Natanson.

Nếu như Isaac Katz là người khám phá ra tiếng đàn Đặng Thái Sơn, tìm mọi cách mang anh về Liên Xô để có thể tìm đúng thầy, thì Natanson chính là người này, một thầy dạy tận tâm và rất giỏi.

Sơn được cấp học bổng 60 rúp một tháng. Số tiền này chẳng nhiều nhặn gì, nếu tính theo tỷ giá hối đoái thời đó thì chỉ tương đương với khoảng 20 USD. Sơn có hai người bạn thân trong thời gian này, cả ba góp gạo thổi cơm chung, dè sẻn từng đồng mới có thể tạm đủ ăn và thỉnh thoảng vẫn phải đi làm thêm để kiếm tiền chi dụng hàng ngày.

Năm 1980, Sơn tốt nghiệp Học viện Âm nhạc Tchaikovsky hạng tối ưu.

Tòa Đại sứ Việt Nam tại Moscow chắc được chỉ thị của Hà Nội nên đã coi như không biết, không để tâm đến thành tích của người đồng hương này mà còn có ý muốn gây khó khăn cho Sơn chỉ vì anh có lý lịch xấu – bố anh thuộc

“thành phần phản động Nhân Văn Giai Phẩm”!

Tốt nghiệp song phải làm gì?

Giáo sư Natanson thúc đẩy anh nộp đơn và hoàn tất thủ tục xin dự thi cuộc thi nhân kỷ niệm Chopin hàng năm tại Ba Lan.

Đặng Thái Sơn bèn làm đơn xin với tòa Đại sứ Việt Nam được giới thiệu là một ứng viên Việt Nam đi thi Chopin và xin cấp ít tiền lộ phí vì đường từ Moskva đến Warszawa, thủ đô Ba Lan quá xa, mà anh làm gì có tiền.

Đơn của Sơn bị bác.

Khi ấy Liên Xô cũng chuẩn bị cử một số nhạc sĩ đi Warszawa.

Họ tổ chức một kỳ thi tuyển lựa cả trăm người để tìm ra mươi người đại diện cho Liên Xô.

Những người này sẽ được chính phủ Liên Xô giúp đỡ.

Đặng Thái Sơn cũng thi “ké” vào đó. Anh được chấm điểm cao nhất,

nhưng anh không thể ở trong danh sách đại diện Liên Xô để đi thi được.

Anh phải dự thi với tư cách thí sinh tự do, vô tổ quốc và không được chính quyền Liên Xô giúp đỡ.

Không những thế ban tổ chức kỳ thi ở Ba Lan lúc đầu đã định bác đơn xin dự thi của Đặng Thái Sơn, vì đơn dự thi của anh không một lời giới thiệu,

chẳng biết anh là ai; nhưng rồi họ cũng thông qua, vì Sơn là người Việt Nam đầu tiên xin dự thi từ trước đến giờ.

Vả lại anh có sau lưng cả một Học viện Âm nhạc Tchaikovsky làm chứng cho khả năng của mình, một khả năng hạng tối ưu khi ra trường.

Giáo sư Natanson thấy vậy lại phải ra tay giúp đỡ vì ông biết người trò cưng đầy tiềm năng của ông rất có hy vọng thắng giải.

Ông phải bỏ tiền ra cho Đặng Thái Sơn mua vé xe lửa đi Warszawa, thuê nhà trọ, thuê cả dàn nhạc đệm cho anh chơi đàn – một số tiền không nhỏ.

Không có tiền mua vé máy bay, và chỉ đủ tiền mua vé xe lửa hạng nhì, Sơn không có một người thân nào ra tiễn tại sân ga Moscow, cũng chẳng có một người bạn nào đến đón khi tới Warszawa.

Hành lý của anh thật nhẹ, vài bộ quần áo tạm lành lặn.

Anh không có cả một bộ đuôi tôm nghi thức để lúc hữu sự dùng đến!

Buồn quá, Sơn đã phải dốc bầu tâm sự với ông bố Đặng Đình Hưng.

Trong thư gửi cho cha mình,

Đặng Thái Sơn viết:

“Con bị ốm nặng bố ạ, có lẽ vì hành trình đi Vác-sa-va quá dài mà con đi bằng xe lửa. Sứ quán bác đơn xin tiền lộ phí của con để đi thi, họ cũng khước từ bảo hộ cho danh xưng của con trong cuộc thi. Nhưng con quyết định liều và giáo sư Na-tan-xon một lần nữa lại giúp con, ông ấy cho con tiền đi đường, tiền thuê dàn nhạc đệm và tiền trọ…

Trong cơn sốt 39.5 độ, con đã chảy nước mắt ròng:

Các nước tham dự cuộc thi đều được chào cờ và cử quốc ca của mình, mà Việt Nam thì không có

– Con tham dự với tư cách thí sinh tự do… Nhưng cũng nhờ sự cay đắng đó mà con gặp được Chopin

– Những nỗi đau giao thoa với nhau đã bật lên tiếng đàn của hồn ông…”.

Và hình như thế, Sơn đã được Chopin chọn, anh qua được vòng loại một cách dễ dàng, loại hầu hết 149 đối thủ thuộc 37 quốc gia trên toàn thế giới, rồi tiến lên vào vòng chung kết.

Để thi vòng chung kết Sơn bị kẹt một điều là thí sinh phải mặc áo đuôi tôm. Anh có hai ngày chuẩn bị cho buổi chung kết; nhưng làm sao có áo đuôi tôm bây giờ?

Người gỡ rối cho anh lại là giáo sư Natanson.

Ông thầy phải lôi anh đến một cửa tiệm, sắm cho anh một bộ, nhưng tìm cả nửa ngày không có một chiếc nào vừa với thân thể nhỏ thó của anh. Thế là đành phải may gấp một chiếc, lấy trong vòng 24 giờ.

Anh bước vào phòng thi với cái áo mới tinh còn chưa được nhặt sạch chỉ thừa!

  • Kết quả:

anh đã thắng giải đầu là giải quan trọng nhất; anh còn đoạt thêm 11 giải phụ nữa, trong đó có một giải của hãng truyền hình NHK Nhật Bản. 

Chính hãng NHK sau này đã mở cho anh một con đường thoát hẳn ra khỏi nước Việt !

Tin Đặng Thái Sơn đoạt giải Chopin ở Ba Lan như một làn sóng chấn động giới âm nhạc cổ điển thế giới.

Khi tin này về tới Việt Nam, báo Nhân Dân của nhà nước Việt Nam

– những người đã từng không muốn anh ra khỏi nước, không muốn anh học dương cầm tại Liên Xô, lại còn tìm cách cản trở anh đi Warszawa tham dự kỳ thi Chopin

– đã đăng tin này lên trang Nhất trong 3 ngày liền! 

Lời ca tụng thì quá lố đến nỗi cả tháng sau, khi về nước thăm ông cụ thân sinh Đặng Đình Hưng, anh ngượng ngùng khi đọc được những dòng chữ này.

Về cuộc sống sau “Nhân văn Giai phẩm” của nhà thơ Đặng Đình Hưng, ông bị ung thư phổi.

Khi Đặng Thái Sơn tham dự cuộc thi âm nhạc năm 1980 tại Ba Lan, ông Đặng Đình Hưng đang phải sống trong cảnh ở nhờ gầm cầu thang nhà bạn, không nhà cửa, không vợ con thân thích, chỉ nằm chờ chết.

Đặng Thái Sơn về nước kịp thời.

Cha anh bị bệnh đã khá lâu và không được điều trị một cách đúng mức.

Cha anh cần phải mổ ngay, một cái bướu trong phổi.

Anh về nhà hôm trước, vài ngày sau cha anh nhập viện, một bệnh viện vốn chỉ dành cho các cán bộ cấp cao cỡ thứ trưởng trở lên.

Cha anh được bác sĩ Tôn Thất Tùng, người bác sĩ số một của y khoa Hà Nội lúc đó khám bệnh và được giải phẫu bởi một bác sĩ lừng danh về phẫu thuật.

Nhờ vậy mà bố anh sống thêm được mười năm nữa.

Năm tháng qua đi. “Sau Chopin”, cuộc đời Đặng Thái Sơn chỉ ở Nhật và lưu diễn khắp thế giới rồi sau cùng định cư hẳn ở Canada.

Nhưng, anh vẫn được nhà nước CHXHCN Việt Nam “lôi” về gắn lên ve áo cái danh hiệu “Nghệ sĩ Nhân Dân” mà khối kẻ trong làng showbiz Việt ao ước

– cho dù phần lớn nhân dân Việt Nam hôm nay chẳng biết Sơn là ai, và cũng chẳng bao giờ nghe chứ đừng nói là hiểu nổi thứ âm nhạc “bác học” của anh.

Nhưng có hề gì vì chính người nhạc sĩ tài năng của chúng ta nào có để tâm đến cái danh hiệu NSND nhiều điều tiếng mà lắm người phải làm đơn chạy chọt, lạy lục xin xỏ.

Bằng chứng là, ngay sau đó ông đã cùng với người mẹ, bà Thái Thị Liên, “bỏ nước mà đi”, đi hẳn,chọn định cư tại Montreal, nhập quốc tịch Canada,sống phần đời còn lại lặng lẽ, như muốn quên đi quá khứ kinh hoàng “Nhân Văn Giai Phẩm”.

*****

(t/g bài gốc: Sơn Nguyễn, Tèo Ngu Khìn hiệu chỉnh, bổ sung, viết lại một số chỗ).


 

24 câu nói thông tuệ của nhà triết học lỗi lạc Socrates

Nguyễn Hiến Lê

Socrates là 1 triết gia Hy Lạp, một vĩ nhân đã mang đến những quy chuẩn hoàn toàn mới cho nền triết học Tây phương.

Socrates nổi tiếng bởi luôn đặt ra câu hỏi cho mọi điều về cuộc sống và thế giới. Socrates đã sống 1 cuộc đời rất nghèo khổ.  

Socrates bị buộc tội và hành quyết vào năm 399 trước công nguyên, khi ông 70 tuổi.  

 Socrates sau đó tự hành quyết bằng 1 ly thuốc độc.

Dưới đây là 24 câu nói nổi tiếng và đầy trí tuệ của ông:

  1. “Hiểu biết đích thực là biết rằng mình không biết gì cả.”
  2. “Một cuộc sống mà không không có thử thách là một cuộc sống không đáng để sống.”
  3. ” Điều tốt đẹp duy nhất là kiến thức, điều xấu xa duy nhất là sự thờ ơ “
  4. “Tôi không thể dạy ai một thứ gì. Tôi chỉ có thể khiến họ suy nghĩ “
  5. “Đối xử tốt với mỗi người bạn gặp là một trận chiến khó khăn.”
  6. ” Những bộ óc lớn thảo luận về những ý tưởng, bộ óc trung bình bàn luận về những sự kiện còn những bộ óc non yếu chỉ nói chuyện về con người.”
  7. ” Dù sao thì một khi đã kết hôn, nếu lấy được người vợ hiền thì bạn sẽ hạnh phúc; nếu không, bạn sẽ trở thành một triết gia. “
  8. ” Người không hài lòng với những gì anh ta có cũng sẽ không hài lòng với những gì ảnh ta sẽ có.”
  9. ” Nếu bạn không có được những gì mình muốn, bạn phải khó chịu; nếu bạn có được những gì bạn không muốn bạn cũng khó chịu; ngay cả khi bạn có được những gì mình muốn thì vẫn khó chịu vì không thể giữ được mãi mãi. Tâm trí của bạn là vật cản lớn nhất. Nó muốn một cuộc sống tự do, không có sự thay đổi, không có sự đau đớn, và cũng không có cái chết. Nhưng sự thay đổi là một điều luật và không có sự giả dối nào có thể thay đổi thực tế đó.
  10. ” Đôi khi bạn dựng lên những bức tường không phải để ngăn cách với mọi người, mà để xem ai đủ quan tâm phá bỏ nó.”
  11. “Trí tuệ bắt nguồn từ những điều kì diệu.”
  12. ” Để tìm thấy chính mình, hãy biết cách suy nghĩ độc lập.”
  13. ” Giáo dục nhen nhóm ngọn lửa chứ không phải chỉ đổ đầy con tàu.”
  14. “Hãy tự hiểu chính mình”.
  15. ” Hãy để người đàn ông có thể chuyển dời thế giới tự dịch chuyển anh ta trước.”
  16. “Bí mật của hạnh phúc, bạn thấy đấy, không thể tìm thấy khi tìm kiếm nhiều hơn mà trong việc phát triển khả năng hưởng thụ ít hơn”
  17. “Bí mật của sự thay đổi là tập trung tất cả năng lượng của bạn, không phải để chiến đấu với cái cũ mà là xây dựng nên cái mới”.
  18. “Tôi không phải là một người Athen hay một người Hy Lạp mà tôi là một công dẫn của thế giới này.”
  19. ” Lựa chọn kiến thức thay vì sự giàu có, với 1 số người chỉ là nhất thời, nhưng với một số người khác lại là mãi mãi “
  20. “Hiểu được câu hỏi là đã tìm ra được một nửa đáp án”
  21. “Khôn ngoan thực sự là khi nhận thức được kiến thức ít ỏi mà chúng ta có về cuộc sống, về bản thân chúng ta và về thế giới xung quanh chúng ta”
  22. ” Sự hài lòng là tài sản tự nhiên, sự xa xỉ là nghèo đói giả tạo “
  23. “Để trở thành một cái gì đó thì phải hành động trước tiên”
  24. “Tâm trí là mọi thứ bạn cần; điều bạn nghĩ ra là điều bạn sẽ trở thành ”                                 

Đời người như hơi thở

Những câu chuyện Nhân Văn – Nguyễn Quang Huy 

Trịnh Công Sơn có viết ca khúc 60 năm cuộc đời và ông mất ở tuổi 62. Đỗ Phủ viết câu thơ “Thất thập cổ lai hy” có nghĩa là 70 tuổi xưa nay hiếm và ông mất ở tuổi 59. Nói như vậy mới thấy cuộc đời vô thường. Hôm nay còn đây có khi mai vĩnh viễn xa rồi. Cho nên bạn phải An vui với từng phút từng giờ ở thời khắc hiện tại…..

Nếu năm nay bạn 60 tuổi mà tuổi thọ chỉ có 70 thì bạn chỉ có đúng 10 năm để sống. Nếu tuổi thọ.kéo dài đến 80 thì nhiều lắm bạn cũng chỉ còn 20 năm là hết. Quỹ thời gian đâu còn nhiều. Muốn ăn chi thì cứ ăn, muốn đi đâu chơi thì cứ đi, muốn tiêu cái gì thì cứ tiêu. Con cái cũng không cần đến mình đâu, nó giỏi hơn mình mà. Cái chi cho con thì cũng cho rồi. Cho nên bản thân mình phải cố gắng sống cho thật vui vẻ, an lạc. Đừng bận tậm nhiều đến con cái và những lời xì xầm bàn tán của những người xung quanh. Chúng ta không sống theo tiêu chuẩn của họ mà hãy SỐNG VUI theo tiêu chuẩn của chính mình. Cuộc sống là không bao giờ chờ đợi. Bởi không biết  khi nào khi nào sự sống sẽ chấm dứt.


 

TUỔI GIÀ – VỀ LẠI VỚI CHÍNH MÌNH

Tu Le

TUỔI GIÀ – VỀ LẠI VỚI CHÍNH MÌNH

Ở tuổi xế chiều, con người ta thường hay sống bằng ký ức và nỗi lo. Một nửa tâm trí để nhớ lại chuyện cũ, một nửa để sợ những điều chưa đến. Thế là hôm nay – ngày thật sự mình đang sống – lại trôi qua trong lặng lẽ, lạc lõng và đầy những tiếng thở dài.

Ngồi bên hiên nhà một buổi chiều, nghe tiếng gió lùa qua vạt cau, ta dễ buột miệng than thở: “Hồi đó mà biết giữ gìn thì đâu đến nỗi…”, hay “Giá như ông ấy còn sống, chắc giờ tôi đỡ cô đơn hơn nhiều…”. Nhưng dẫu có than thở bao nhiêu, người đã đi, chuyện đã qua, cũng chẳng thể trở lại. Quá khứ giống như một dòng nước đã chảy qua cầu. Có ngồi bên mà tiếc, mà khóc, mà giận cũng chẳng làm nước quay ngược lại. Ta chỉ thêm mỏi mệt, cõi lòng thêm nặng.

Nhiều người già vì không buông được quá khứ mà sống trong giày vò. Họ lật lại từng chuyện cũ như lật một cuốn sách buồn, lật đến đâu lòng rơi rụng đến đó. Nhớ một người không còn, trách một quyết định lỡ dở, tiếc một đoạn đường đã chọn sai… Tất cả những điều đó, nếu ôm mãi, thì tuổi già không còn bình an, mà chỉ còn nỗi buồn âm ỉ.

Cũng vậy, nhiều người lại lo cho tương lai quá mức. Ngày nào cũng thấp thỏm: “Lỡ tôi nằm xuống không ai hay?”, “Lỡ con cái bận bịu, chẳng kịp về chăm thì sao?”, “Lỡ tiền cạn, bệnh tật ập đến thì biết trông vào đâu?”. Cái “lỡ” ấy như một bóng mây đen, cứ che phủ hết cả bầu trời hôm nay. Ta quên mất rằng, có những điều lo cũng chẳng giải quyết được. Có những ngày lo mãi, cuối cùng điều sợ vẫn không xảy ra. Nhưng những tháng ngày bị gặm nhấm bởi nỗi sợ thì đã mất rồi, không lấy lại được nữa.

Tuổi già, rốt cuộc là quãng đời để về lại với chính mình. Là lúc ta học cách sống chậm, sống nhẹ, sống sâu. Không để mỗi ngày trôi qua chỉ là thêm một ngày già, mà là thêm một ngày biết ơn, một ngày thanh thản.

Ta không thể quay về quá khứ để làm lại, nhưng có thể ngồi với hiện tại để mà thở một hơi sâu, cười một nụ cười nhẹ, nhìn một nhành hoa nở mà thấy lòng còn tươi. Ta cũng không thể đoán chắc tương lai, nhưng có thể chuẩn bị cho nó bằng tâm thế buông bớt. Cái gì đến – thì đón, cái gì đi – thì tiễn. Như một người khách trọ ở đời, không níu, không giữ.

Tuổi già không cần phấn đấu nữa, không cần tranh đúng sai, hơn thua. Điều cần nhất là sự an yên. An trong từng bữa cơm đủ vị, yên trong từng giấc ngủ tròn. An trong một lời hỏi thăm từ bạn cũ, yên trong ánh mắt thương yêu từ đứa cháu nhỏ. An yên không phải là không còn đau, mà là biết chấp nhận nỗi đau như một phần đời sống, không oán thán, không gồng gánh.

Người già, nếu sống tử tế cả đời, thì nên tin rằng: phúc phần con cháu rồi cũng sẽ đến. Không phải vì mình có của để lại, mà vì mình để lại một tấm gương sáng, một nếp sống hiền hậu, một lòng bao dung. Những điều ấy còn quý hơn tiền bạc, bởi chúng nuôi dưỡng lòng người.

Ai trong chúng ta rồi cũng già. Đừng đợi đến khi ngồi chống gậy mới học cách sống nhẹ. Hãy tập từ bây giờ. Tập buông những điều đã qua, tập bớt lo những điều chưa tới. Tập uống trà chậm, tập nói ít lại, nghe nhiều hơn. Tập một lòng hiền – với mình, với người.

Tuổi già – không cần sống thật nhiều năm, chỉ cần sống từng ngày cho trọn. Như một cành hoa cuối mùa, không rực rỡ như xuân, nhưng đằm thắm, sâu lắng và dịu dàng. Một cành hoa chín mùi, biết mình sắp rụng, nên thơm nốt lần cuối.

Tuổi già – là về lại với chính mình.

Sống ít đi những điều cũ.

Nhẹ đi những điều chưa tới.

Sâu sắc trong từng phút giây đang có.

Ấy mới là sống.

___

#gotacoffee

#ngườiviếtgiữahaimiền


 

Emma Schols, mẹ của 6 đứa con, một mình cứu tất cả các con khỏi đám cháy 

My Lan PhamNhững Câu Chuyện Thú Vị

Emma Schols, mẹ của 6 đứa con, một mình cứu tất cả các con khỏi đám cháy 

“Nếu tôi sinh ra 6 đứa con, tôi sẽ đưa cả 6 đứa ra ngoài” — người mẹ siêu nhân Thụy Điển, được vinh danh là Nhân viên Cứu hộ của Năm 2020.

Hiếm ai sống sót khi bị bỏng tới 90% cơ thể. Emma bị bỏng 93%. 

Emma phải thở máy trong ba tuần, dao động giữa lằn ranh sống và chết. Nguồn: Gia đình/Aftonbladet 

**Emma Schols bước qua lửa để cứu con: “Giờ các con đã nhận ra tôi”** 

Chỉ mặc đồ lót, người mẹ sáu con Emma Schols đã lao vào đám cháy để cứu các con khỏi ngôi nhà đang bốc cháy. Với 93% cơ thể bị bỏng nặng, cô đã sống sót vượt ngoài mọi kỳ vọng. Tại Gala Anh hùng Thụy Điển tháng trước, cô được vinh danh là Nhân viên Cứu hộ của Năm 2020.

“Tôi ném các con trai ra cửa trước và khóa lại để chúng không quay vào.” 

Vào tháng 9 năm 2019, điều tồi tệ nhất đã xảy ra. Người mẹ sáu con Emma Schols, 31 tuổi, ngủ một mình tại nhà với các con. Đột nhiên, cô nghe thấy tiếng lửa cháy ở tầng dưới của ngôi nhà, nơi hai cậu con trai nhỏ đang ở.

“Cả hai vừa thức dậy và đi xuống tầng, nên tôi vội chạy theo. Lúc đó, tôi không nghĩ tình hình sẽ tệ đến vậy. Tôi chỉ nghĩ phải đưa các con đang trốn trong phòng chơi ra ngoài,” Schols chia sẻ với Angelica Öhagen trong một cuộc phỏng vấn với Aftonbladet.

Ngay khi cô mở cửa trước, ngọn lửa nhận được oxy… và một vụ nổ xảy ra!

“Tôi lao người như một lá chắn che cho các con để chúng không bị thương. Khi ngọn lửa chạm vào tôi, cảm giác như cả lưng tôi đang bốc cháy. Nhưng tôi vẫn tiếp tục. Tôi ném các con trai ra cửa trước và khóa lại để chúng không quay vào. Các con hoảng loạn.”

Emma hét lên với các con ở tầng trên, bảo chúng ra ban công.

“Ngọn lửa đã lan khắp cầu thang. Với mỗi bước đi, tôi nghĩ ‘điều này không thể thực hiện được’, nhưng rồi tôi nghĩ phải tiếp tục vì bốn đứa con khác vẫn ở trên đó. Nóng đến mức da lòng bàn chân tôi bắt đầu bong tróc. Chúng chỉ còn treo lơ lửng như những sợi chỉ.”

Mỗi bước chân trên cầu thang đều bỏng rát.

Con gái Nellie, 9 tuổi, đã nhảy từ tầng trên để chạy sang hàng xóm cầu cứu. Con trai lớn William, 11 tuổi, cố gắng hạ một chiếc thang để những người còn lại có thể trèo ra.

“Các con trai hoảng loạn khi tôi bước ra ban công. Tôi chảy máu và có những vết bỏng hở khắp cơ thể. Da trên ngực tôi bắt đầu bong tróc, và tóc tôi chỉ còn như một mẩu than trên đầu.”

**“Tôi nghĩ, ‘Giờ mình có thể chết được rồi.’”** 

Emma nhận ra con gái út Mollie, 1 tuổi, không có ở ban công.

“Tôi nghĩ nếu con bé vẫn ở trong đó, có lẽ nó đã không còn sống, nhưng tôi phải cố gắng đưa nó ra.”

Các con trai trên ban công cố ngăn Emma quay lại đám cháy. Nhưng cô đã quyết tâm, bò dọc theo sàn vào phòng ngủ.

“Khói dày đặc đến mức khó thở. Tôi mệt khủng khiếp nhưng qua làn khói, tôi thấy Mollie đang đứng trong cũi, khóc và hoảng sợ. Rồi đột nhiên, tôi có một sức mạnh phi thường, đứng dậy và bế con bé lên.”

“Tôi chỉ có cơ thể mình, không có chăn, không có gì bảo vệ, chỉ có tôi và trái tim người mẹ,” Emma nói.

Trên ban công, con trai William đã đặt sẵn thang.

“Khi tôi bước xuống thang với Mollie, cảm giác như chân tôi dính chặt vào từng bậc. Tôi chỉ còn chảy máu.”

Ở bậc thang cuối, Emma kiệt sức ngã xuống.

“Rồi mọi cơn đau ập đến cùng lúc. Đau đớn kinh khủng. Tôi đã đưa hết các con ra ngoài và nghĩ rằng giờ mình có thể chết được rồi.”

**“Các con tôi còn sống không?”** 

Trước khi xe cứu thương đến và Emma được gây mê, cô hứa với con trai lớn William, người cuối cùng rời khỏi cô, rằng cô sẽ sớm trở về nhà. Lời hứa đó trở thành kim chỉ nam trong thời gian cô nằm viện.

Cả sáu đứa trẻ sống sót mà không bị thương. Emma phải thở máy ba tuần, dao động giữa lằn ranh sống và chết. Hiếm ai sống sót khi bị bỏng 90% cơ thể, nhưng Emma bị bỏng 93%.

“Điều đầu tiên tôi nghĩ khi tỉnh lại là: ‘Các con tôi còn sống không?’”

Emma khó tin vào lời nhân viên bệnh viện. Hình ảnh Mollie trong cũi và nỗi sợ của các con khắc sâu trong tâm trí. Mãi một tháng rưỡi sau, các con mới được đến bệnh viện thăm cô.

“Thật tuyệt vời, nhưng cũng khó khăn. Mollie bé nhỏ không nhận ra tôi. Đó là phần đau đớn nhất. Con bé không muốn đến gần tôi. Tôi hiểu được vì tất cả các thiết bị và ống dẫn. Lúc đó, tôi trông hoàn toàn khác.”

**“Giờ các con đã nhận ra tôi.”** 

Emma trở về nhà với gia đình trong căn hộ tạm thời trong khi chờ xây lại nhà. Ngoài việc tập phục hồi chức năng mỗi ngày, cô còn cưỡi ngựa trở lại và tìm niềm vui trong những chuyến đi chơi với các con.

“Giờ các con đã nhận ra tôi. Đám cháy và những gì chúng tôi trải qua đã để lại dấu vết khắp cơ thể tôi và ảnh hưởng đến cả gia đình. Nhưng những gì chúng tôi trải qua cũng khiến chúng tôi gần nhau hơn. Giờ tôi không coi bất cứ điều gì là hiển nhiên và biết ơn mỗi ngày được ở bên gia đình.”

Tại Gala Anh hùng Thụy Điển, con trai William chia sẻ về thời gian sau đám cháy:

“Đôi khi con nghĩ rằng có thể sẽ không bao giờ gặp lại mẹ. Nhưng giờ chúng con được gặp mẹ gần như mỗi ngày và điều đó làm con hạnh phúc.”

Gia đình Schols đã trải qua địa ngục – với Emma là gần như theo nghĩa đen – nhưng đã phục hồi. Từ trái qua: mẹ Emma, Oliwer 4 tuổi, Mollie 3 tuổi, William 12 tuổi, Nellie 10 tuổi, Melwin 8 tuổi, cha Anders và Albin 5 tuổi.

Fb Chau Doan


 

Sài Gòn Lại Ngập Nặng Sau Mưa Lớn: Giao Thông Hỗn Loạn, Người Dân Khốn Khổ

Ba’o Dat Viet

August 5, 2025

Một trận mưa lớn kéo dài từ chiều đến tối ngày 5 Tháng Tám đã khiến nhiều tuyến đường tại Sài Gòn chìm trong biển nước. Xe chết máy, người dân dắt bộ, giao thông ùn ứ là cảnh tượng không còn xa lạ nhưng vẫn luôn gây bức xúc mỗi lần thành phố hứng chịu mưa lớn.

Theo ghi nhận, các tuyến đường như Tô Ngọc Vân, Gò Dưa (thuộc khu vực Thủ Đức cũ) bị ngập sâu, có nơi nước dâng tới nửa bánh xe máy. Cơn mưa kéo dài hàng giờ khiến hàng loạt phương tiện không thể di chuyển, người dân phải lội nước, bì bõm trong dòng nước đục ngầu đầy rác rưởi và nguy hiểm rình rập.

Nhiều đoạn đường không khác gì sông cạn, xe máy, ô tô loay hoay trong dòng nước, mỗi lần xe lớn chạy ngang, nước tạt tung tóe khiến người đi đường ướt sũng. Không ít trường hợp xe chết máy giữa dòng, người dân phải gọi cứu hộ hoặc đẩy bộ suốt hàng trăm mét.

Đài Khí tượng Thủy văn khu vực Nam Bộ cho biết nguyên nhân là do mây giông phát triển mạnh chiều 5 Tháng Tám, gây mưa lớn trên diện rộng. Dù đã được cảnh báo từ trước, nhưng hệ thống thoát nước của thành phố vẫn tiếp tục cho thấy sự quá tải.

Lực lượng Cảnh Sát Giao Thông được điều động đến các điểm ngập để điều tiết, hỗ trợ người dân. Tuy vậy, trong tình trạng ngập úng đồng loạt, sự can thiệp của lực lượng chức năng chỉ mang tính tạm thời.

Tình trạng “cứ mưa là ngập” đã kéo dài suốt nhiều năm qua tại Sài Gòn, bất chấp những lời hứa hẹn hàng nghìn tỷ đồng đổ vào các dự án chống ngập. Trong khi các nhà lãnh đạo thuộc Nhà Cầm Quyền Cộng Sản Việt Nam liên tục đưa ra các kế hoạch dài hơi, thì người dân vẫn phải sống trong cảnh vừa mưa đã khổ.

Mỗi trận mưa lớn không chỉ khiến giao thông tê liệt mà còn phản ánh rõ sự yếu kém, trì trệ trong cách vận hành và quản lý hạ tầng đô thị của chính quyền. Ngập nước đã trở thành “đặc sản” bất đắc dĩ của Sài Gòn – thành phố vốn từng được mệnh danh là hòn ngọc Viễn Đông, nay lại chìm dần dưới dòng nước thải mỗi mùa mưa đến.