Chuyện Đổi Đời: Trình Diện Đi Tù – Tác giả: Phùng Văn Phụng

Tác giả: Phùng Văn Phụng
 
Trước năm 1975, tôi là giáo sư trường Trung học Lương văn Can, quận 8 Sài gòn.

Sau năm 1975, tôi bị đi cải tạo gần 8 năm. Chỉ là một giáo chức, không thuộc diện sĩ quan phải trình diện, vậy mà cũng vô trại Long Thành, Thủ Đức, rồi Lào Cai,Vĩnh Phú và Hà Nam Ninh ngoài Bắc.

Thực sự, thì trước năm 1975, khi giáo sư Nguyễn Ngọc Huy còn làm phó chủ tịch Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến, tôi có tham gia đảng Tân Đại Việt của Giáo sư Huy nhưng chỉ với chức vụ phó Bí thư.

Giữa tháng 6 năm 1975, Ủy Ban Quân Quản Thành phố Sài gòn, ra lịnh tất cả quân, cán chính Việt Nam Cộng Hòa phải trình diện học tập cải tạo. Tôi xin ba tôi mười ba ngàn đồng, bằng nửa tháng lương công chức hạng A của tôi (là hạng có mức lương khá lúc bấy giờ) để đi trình diện tại trường Lê văn Duyệt ở Gia Định.

Theo lời kêu gọi đăng trong báo chí và đài phát thanh lúc bấy giờ, “chính phjủ cách mạng” yêu cầu chúng tôi mang mùng mền, thức ăn và tiền bạc để đóng tiền ăn trong một tháng. Trước đó, hạ sĩ quan quân đội cũ được yêu cầu đi học một tuần rồi về làm ăn. Vậy là mọi người đều đinh ninh rằng vậy là những người chịu trình diện, chịu đầu hàng, sẽ chỉ học tập chính trị trong vòng một tháng để hiểu biết đường lối, chính sách của chế độ mới, rồi chắc chắn sẽ được cho về làm ăn. Vì nếu không thả về sau khi học một tháng thì đóng tiền làm gì. Không lẽ nhà cầm quyền vừa thắng trận lại lường gạt kẻ bại trận sao?

Do đó, khi em tôi chở tôi đến trường nữ Trung học Lê văn Duyệt, thấy hai đầu đường có hai xe tăng chỉa họng súng về hai phía của đầu đường Lê văn Duyệt, tôi có cảm giác không yên, lòng xao xuyến khó tả. Sao kỳ quá vậy. Súng ống, xe tăng sắp hàng như đang chuẩn bị đánh trận.

Cũng ngây thơ như tôi, anh Trương chí Thiện là đoàn viên Phong Trào Quốc gia Cấp Tiến và là Tổng Thơ Ký của Liên Minh các đảng gồm Cấp Tiến, Công Nông… không nằm trong diện phải đi trình diện cải tạo. Từ cấp bậc Phó Chủ Tịch và Chủ Tịch cấp quận trở lên mới phải trình diện mà thôi. Nhưng anh Thiện làm ký giả báo Tàu, sau ngày 30 tháng 04, các báo đều bị đóng cửa, ngưng hoạt động, ở nhà cũng buồn, nên xin đi trình diện cùng với anh Trương Tấn Lộc là Chủ Tịch Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến là cựu Nghị Viên Hội Đồng Đô Thành Sài gòn. Anh Thiện không thuộc diện này nhưng cũng nhất định xin đóng tiền để được học tập, hy vọng sau khi học xong sẽ có “giấy chứng nhận” đã học tập để dễ làm ăn sau này, không còn “bị làm khó dễ”.

Anh Thiện cũng lầm tưởng chỉ đi trong một tháng mà thôi.Sau đó anh ở tù hơn 7 năm, bị bịnh lao phổi, ho ra máu trong trại và anh được về trong bịnh hoạn, tức tối vì bị lường gạt.

Ở trường Lê văn Duyệt, chúng tôi được nhà hàng Bát Đạt đem cơm tới mỗi ngày, cho nên bữa ăn nào cũng thịnh soạn, ăn uống dư thừa, được cho ăn no và ngon nữa nên cứ nghĩ rằng nhà nước mới tử tế, chiêu đãi “trại viên” bằng thức ăn của nhà hàng sang trọng bậc nhất nhì của thành phố Sài gòn.

Sau vài ngày làm thủ tục ghi tên đóng tiền, nộp giấy căn cước, họ phân chúng tôi thành từng đội, tạm thời ở trong các phòng học của nhà trường.

Giữa đêm, đang ngủ ngon giấc, bỗng nhiều ánh đèn “pin” chiếu sáng vào mùng, gọi chúng tôi thức dậy gấp, thu dọn đồ đạc cho gọn nhẹ để di chuyển. Trong đầu óc anh em chúng tôi hết sức hoang mang, đi về đâu, đem ra biển Vũng Tàu thả xuống biển hay đi đâu mà lại lên xe hơi, kéo cửa xe xuống kín mít để không cho ai nhìn thấy và lại đi nửa đêm. Tới gần sáng, chúng tôi được chở vô làng cô nhi Long Thành. Chúng tôi được phân vào dãy bên trái của làng cô nhi. Khu vực này dành cho anh chị em đảng phái chính trị.

Họ phân ra 4 khối: khối một là khu dành cho các viên chức hành chánh từ cấp Chánh Sự Vụ trở lên, các Dân Biểu, Nghị sĩ của Việt Nam Cộng Hoà. Khối hai dành cho những người hoạt động trong đảng phái chịnh trị chống cộng. Khối ba là khối Tình báo đa số làm trong Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình báo. Khối bốn là các viên chức trong ngành Cảnh Sát quốc gia.

Chúng tôi, hoạt động đảng phái được xếp vào khối hai, ở dãy nhà bên tay trái của trại, phân ra nhiều đội. Trong số những viên chức lãnh đạo, tôi nhớ lúc bấy giờ có Luật sư Trần văn Tuyên, Ông Vũ Hồng Khanh, Cựu Nghị Sĩ Trần Trung Dung, Trong đội tôi có Nguyễn Ngọc Minh, anh có 6 người con, là Chủ Tịch đảng Tân Đại Việt quận 5, chủ nhà in. Anh nói với tôi là anh còn 40 triệu ở ngân hàng cho nên anh làm kế hoạch nuôi heo gởi lên cán bộ để hy vọng lấy được số tiền này ra. Đó là hy vọng của anh. Anh đang ở trong tù mà vẫn còn thơ ngây, tin tưởng họ sẽ trả lại cho anh số tiền 40 triệu đồng đó. trong khi ngoài kia, Cộng sản đang chuẩn bị đánh tư sản, cầm tù những người có tài sản mà anh lại còn hy vọng lấy được số tiền này nữa. Nhìn chung, những người quốc gia hoạt động chính trị của phía chúng tôi đa số đều ngây thơ như thế.

Trong tù tôi gặp lại giám đốc Nha Khảo Thí Nguyễn Kim Linh mà trước đây tôi có làm việc hai năm ở nha Khảo Thí. Tôi gặp lại thầy Hà Khải Hoàn, thầy dạy tôi môn Việt văn ở trường trung học Cần Giuộc năm 1957, 1958 nay là phó Giám Đốc Nha học chánh thuộc Bộ Giáo Dục.

Từ Thủ Đức đến trại Lào Cai

Cũng được gọi bất ngờ giữa đêm tối, yêu cầu sắp xếp đồ đạc gọn gàng, hai người chung một cái còng, từ trại Long Thành chúng tôi bị đưa về giam ở nhà tù Thủ Đức. Ở đây không có cuốc đất trồng khoai. Mỗi ngày đọc báo “nhân dân” tờ báo của đảng Cộng Sản. Tuy ở gần Sài gòn nhưng từ ngày trình diện giữa tháng 6 năm 1975 đến nay, đã hơn một năm trời, gia đình không biết chúng tôi còn sống hay đã chết và bị giam giữ ở đâu.?

Tháng 12 năm 1976 chúng tôi được kêu ra sân tập họp cũng hai người cùng chung một còng số 8 lên xe chạy trên xa lộ Biên hoà và đưa xuống bến sông Sài gòn giữa đêm khuya, để lên tàu chuyển ra Bắc.

Lần lượt chúng tôi xuống hầm tàu còn dấu vết than đá trên nền. Khi tàu chạy, họ đóng nắp hầm tàu lại, chúng tôi bị ngộp thở và đã la hét ôm sồm, nấp hầm mới được kéo ra để chúng tôi thở.

Trong chuyến đi này bạn tôi là Lê Như Ninh, người công giáo giới thiệu cho tôi biết Đức Phụ Tá Giám Mục Sài gòn, sau này là Hồng Y Nguyễn văn Thuận, cùng ra Bắc một chuyến với chúng tôi. Anh em đi vệ sinh bằng “sô” xách nước. Khi cái sô đầy phân và nước tiểu thì xách lên trên “boong” tàu để đổ xuống biển. Nhiều khi đang lên cầu thang bị sóng đánh, tàu nghiêng sô nước tiểu và phân người đổ vào đầu, vào cổ, vào áo quần anh em đang ngồi ở phía dưới. Anh em nào bị dính phân, nước tiểu vào người cũng phải chịu trận như vậy trong suốt mấy ngày tàu chạy lênh đên trên biển chứ đâu có được tắm rửa gì đâu?

Con tàu chở tù miền Nam đến cảng Hải phòng vào buổi sáng mùa đông năm 1976. Trời lạnh buốt. Vài chiếc tàu nhỏ đậu ở cảng giống như ở bến đò quê nào đó, chứ không thấy gì to lớn cả. Trời thì lạnh mà đa số anh em tù không có đủ áo quần ấm để mặc hầu có thể chống lại cái lạnh, cái rét của mùa đông miền Bắc. Năm đó có lúc lạnh tới 6 độ C lạnh gần đông đá.

Mùa đông năm 1976, trời quá lạnh, có khi nửa tháng tôi mới dám tắm một lần. Mỗi lần xối nước lên mình, nước bốc thành hơi, khói bay lên mù mịt. Khi nói chuyện, thấy hơi nước bay ra khỏi miệng. May mắn thay tôi có mang theo cái áo mưa lớn bằng “nylon”  rộng thùng thình quá đầu gối. Nhờ nó, tôi chịu đựng được cái lạnh mùa đông năm 1976 và những mùa đông kế tiếp. Cái áo mưa này tôi vá đùm, vá chụp hơn chục miếng vá, đến nỗi “cán bộ quản giáo” tức cai tù nói: “Anh không còn cái áo nào khác sao mà anh cứ mặc cái áo này vậy”. Cái áo này vá tứ tung làm xấu hổ cán bộ cai tù chăng? thấy sự nghèo khổ tột cùng của tôi, không có cái áo lành lặn mà mặc?. Có những anh em khác còn may bao bố để mặc khi gia đình chưa có gởi áo quần vào, trông còn tệ hơn là cái áo vá đùm vá chụp của tôi nữa.

Xuống xe tại cổng trại trung ương số 1 Lào Cai, chúng tôi được dẫn vào khu nhà khá sạch sẽ. Được cho ăn bữa chè nóng hổi. Mấy ngày sau, ngày nào cũng ăn cơm trắng, thịt cá đầy đủ. Chúng tôi có cảm tưởng ở miền Bắc, công an tử tế hơn trong nam. Nhưng chỉ được vài ngày rồi thôi. Mỗi bửa ăn chỉ là một miếng bánh mì mỏng dính, xẹp lép chưa được nửa nắm tay. Ăn hết rồi vẫn còn thấy đói. Có khi trại phát bắp luộc, được vài ba trái. Ăn bắp trái, càng thấy đói hơn nữa vì ba trái bắp thì ăn được mấy hột. Có hôm, chúng tôi được phát bánh mì, nhưng trộn lẫn với than đá. Ăn vào đụng răng, nghe lộp cộp, không thể nhai được. Nhà bếp thu hồi lại, nấu thành cháo, phát cho một ít nước bánh mì để cầm hơi. Đói quá, không ngủ được, nhưng chúng tôi cũng phải chịu chớ có kêu ca được với ai bây giờ.

Lúc nào cán bộ cũng theo dõi chúng tôi xem chúng tôi có nói lời nào chống đối họ không?. Có tìm cách trốn trại không. Vậy mà năm 1976 cũng có mấy anh trốn ra khỏi trại, nhưng đều bị bắt lại ngay hôm đó vì không thể đi xa được. Đa số những người sinh sống ở vùng này là dân tộc thiểu số. Trong trại này, khi chúng tôi đến ở, đã thấy trên các tấm ván trên các hộc đựng đồ lĩnh kỉnh ở đầu chỗ nằm, có khắc tên người Mỹ đã từng bị giam ở đây. Sau này tôi mới biết trại này cũng từng giam tù binh Mỹ. Đó là trại Trung ương số 1 Lào Cai. Đây là trại kiểu mẫu giam tù chính trị.

Trại K3 và K4 Vĩnh Phú

Tôi ở trại K3 Vĩnh Phú ròng rã bốn năm trời. Trại này có nhiều kỹ niệm với tôi hơn hết. Một người tôi không bao giờ quên tên được, đó là đội trưởng đội hai, đội trồng bắp, trồng khoai lang, khoai mì. Sau đó, đương sự nhờ quá tích cực được cất nhắc lên làm thi đua toàn trại K3 Vĩnh Phú. Người đó là Phạm Đình Thanh.

Khi Trung Quốc chuẩn bị tấn công vào các tỉnh tiếp giáp với Việt Nam, Cộng Sản đưa chúng tôi xuôi về miền nam. Hai bạn tù bị còng tay với nhau, đẩy lên xe bít bùng. Trong khi di chuyển, bên ngoài trời mưa to, xe lắc lư dữ dội, khi chạy có lúc tôi cảm thấy chắc là sắp sa xuống thung lũng hay xuống hố sâu. Tôi ở phía trong xe, gần tài xế, khi xe ngả nghiêng, lôi kéo cả mấy chục người tù từ phía sau xe, chúi mũi dồn về phía trước, đè lên chúng tôi, tưởng đâu đã ngộp thở.Tôi nghĩ chắc mình sẽ chết vì ngộp thở, hay có thể chết vì xe lăn xuống hố và rồi gia đình vợ con, chẳng có ai biết được mình chết ở đâu?.

Mùa hè năm 1978, tôi bị đưa về trại K3 Vĩnh Phú, nơi có đền thờ vua Hùng Vương. K3 Vĩnh Phú nằm ở giữa thung lũng, núi đồi vây phủ xung quanh. Ở đây tôi gặp Cha Khoa tự Khải, Hiệu Trưởng trường trung học Đồng Tiến, Cha Thấy ở Mỹ Tho bị bắt vì trong xe có tiền bạc triệu lúc bấy giờ là số tiền lớn. (Lương công chức hạng A khoảng 30,000 hay 40,000 đồng một tháng).Tôi được phân chia vào đội trồng khoai lang, khoai mì. Mỗi sáng sau khi được phát cho một củ khai lang hay khoai mì nho nhỏ, vác cuốc ra rẫy, cuốc đất, lật từ vuông đất lên, rồi bừa cho nhuyễn để khi mưa xuống gieo hột bắp hay đặt các dây khoai lang. Không đủ trâu để cày, nên người tù chúng tôi phải thay trâu kéo cày.

Tôi ở chung với Luật sư Lê Như Ninh, sống ở Nha Trang, ở tù vì tham gia đảng Dân Chủ, và các anh Võ văn Bé, Phùng văn Chấn, Lê Tấn Hà… nhân viên Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình báo. Những tháng ngày dài lê thê sống ở K3 này công việc thường là cuốc đất, trong khi ngày ba bữa ăn toàn bo bo không xay. Sau khi ăn chừng năm mười phút thì tất cả bo bo đều được tống ra ngoài hết vì bao tử người không thể tiêu hoá bo bo không xay, bo bo còn nguyên vỏ được. Loại này dùng để cho ngựa hay trâu, bò ăn. Cho nên chúng tôi ăn bo bo được vài tháng, mọi người chỉ còn da bọc xương giống như những con khỉ ốm đói biết đi, những con ma đói đang cuốc đất. Mỗi lần phát cơm, phân chia cơm, mỗi người được một nắp bình thủy cơm, còn là bắp trái loại cứng ngắc nhai không được. Tù nhân chỉ được ăn loại bắp cứng dành cho trâu bò.

Đói mờ mắt. Đói triền miên. Đói dữ dội. Đói quá có nhiều anh em ăn bất cứ thứ gì anh em nghĩ là có thể ăn được, nên anh em thường nói: “cái gì nhúc nhích thì ta ních liền”. Ra ngoài đồng gặp rau má, rau tàu bay, bất cứ thứ rau gì tù nhân đều ngắt ăn sống. Có người khi đi ra đồng làm việc, ăn rau trừ bửa, hay gom ba phần của trại phát, sáng trưa và tối, ăn một lần buổi tối cho no. Anh em tù đa số đều bị bịnh phù thũng. Mùa đông năm 1978 là mùa đông khủng khiếp nhất trong đời tù của chúng tôi. Lần đầu tiên tôi mới biết thế nào là mưa phùn, gió bấc. Ở trong Nam chỉ có mưa nắng hai mùa chứ chưa bao giờ gặp cảnh mưa gió mà còn lạnh lẽo liên tục như thế.

Tôi còn nhớ anh Quế là Giáo sư ở Quảng Nam, Đà Nẳng, là Thanh tra của Sở Giáo dục. Anh bị tù vì tham gia đảng Dân Chủ. Vì quá ốm yếu nên làm việc chậm chạp, cuốc đất không đạt “chỉ tiêu trong ngày”, bị đội trưởng cự nự. Anh cố cuốc mạnh tay hơn, nhanh hơn, nhiều hơn. Tối hôm đó vào khoảng hai ba giờ khuya, anh em nằm gần bên anh Quế hô to lên:

“Anh Quế chết rồi ”.

Không ai biết anh Quế chết vì bịnh gì, nhưng chắc chắn anh đã chết vì bị thiếu ăn, bị bỏ đói lâu dài, bị kiệt sức mà thôi.

Mới mấy hôm trước trong đội tù cũng có người chết vì ăn cóc nướng ở lò rèn. Có lẽ vì anh nướng vội vã, không kịp làm sạch sẽ, nên khoảng vài giờ sau khi ăn thịt cóc, chừng nửa đêm, anh kêu đau bụng, không có thuốc và cũng không chở đi cấp cứu kịp và hôm sau thì anh chết.

Trong thời gian này khoảng cuối năm 1978 đầu năm 1979, cứ vài ngày là có vài người ra đi. Anh em liên tục đóng hòm chôn cất bạn tù. Vài người tù khiêng bạn mình ra bìa rừng, chôn vội vàng vùi dập. Không có ai được phép khóc thương. Vợ con ở nhà cũng chẳng hay có một người, một tù nhân đã chết.

Ở K3 Vĩnh Phú tôi có gặp Nguyễn Minh Diệu học cùng lớp trường Trung học Cần Giuộc 1955 – 1959. Gặp Phan tấn Ngưu ở K5, gặp Dương Bồng Quảng con chủ nhà máy xay lúa ở Chợ Trạm, bạn học chung ở trường Tấn Thành, Chợ Trạm 1954-1955.

Những tháng này là thời gian đói khát dữ dội nhất và cũng bị kềm kẹp, khống chế nhiều nhất. Một lời nói than van hay dèm pha nhà nước được báo cáo lên cán bộ là có thể bị cùm chân, cùm tay từ 14 ngày trở lên.

Một lần đang ở trong phòng nghe tiếng la thất thanh ở bên ngoài, tôi dòm qua cửa sổ phòng giam thấy 4 cán bộ đang đá một tù nhân như đá banh. Họ đá anh này từ trái sang phải, từ góc nầy sang góc kia, đá chán thấy mệt, họ mang anh vào phòng giam riêng.

Mùa hè năm 1982, tôi được chuyển sang K4 Vĩnh Phú và được đưa về đội 8, đội làm ruộng. Tôi được biết đây là nơi thường giam giữ những người tội nặng của miền Bắc. Vùng này có tên là Mai Côi, Thác Guồng. Đến Mai Côi, Thác Guồng này mà được trở về đời sống bình thường là chuyện hy hữu. Thông thường đã bị giam ở đây coi như sẽ chết.

Mỗi buổi sáng sớm chúng tôi vác cuốc ra ruộng, lội xuống nước sâu quá đầu gối. Ruộng này là vũng nước ao tù, là vùng tận cùng là chỗ trũng, nước từ các con suối ở thượng nguồn trong vùng rừng núi trên cao gôm về, cho nên chứa đủ tất cả các chất độc nhất do lá rừng, vi trùng, chất thối rửa của súc vật, côn trùng qui tụ về đây. Chúng tôi làm ruộng này chừng một tháng thì rụng hết lông chân và bị sốt vàng da. Loại sốt này rất đặc biệt, ai bị bịnh này không thể đứng được, tay chân rã rời, không ăn uống gì được, nếu ăn chút cháo cũng bị ói ra hết. Mỗi khi bị bịnh, không đi đứng được, phải nhờ bạn bè cõng.

Trong đội 8 của chúng tôi quá nửa đội bị bịnh sốt vàng da. Anh Minh cùng đội đã phải cỏng anh Đề lên trạm xá, vài ngày sau anh Đề lại cõng anh Minh lên trạm xá vì bịnh này. Tôi cũng bị bịnh này không ăn uống được hơn một tuần lễ. Nếu không có bác sĩ Thịnh biết cách điều trị bịnh này, chắc tôi cũng như nhiều anh em tù khác đã được chôn cất ở bìa rừng thuộc thung lũng Mai Côi, Thác Guồng của tỉnh Vĩnh Phú này.

Mai Côi, Thác Guồng là địa danh mà dân miền Bắc, Hà nội rất sợ, đó là nơi “đi dễ, khó về”. Một lần trong dịp Tết ta, anh em trong trại đang nấu nướng vì được nghỉ ngơi trong mấy ngày này. Vợ một anh lính gác, áo quần vá nhiều chỗ, ẩm đứa con, đi vào bên trong trại tìm xin thuốc uống cho con. Chị này đi hỏi anh em nào có thuốc cảm hay thuốc ho để cho cháu dùng. Tôi không hiểu tại sao chị không lên trạm xá của công an. Nhưng tôi thấy chị ăn mặc áo quần vá víu như thế, chứng tỏ chị cũng nghèo quá, khổ như chúng tôi mà thôi. Chúng tôi ở tù trong, thì chị ở tù ngoài.

Tôi còn nhớ có lần đi làm rẩy ở Vĩnh Phú, gặp dân chúng ngoài đường, họ nói: “Tôi tưởng mấy anh sẽ giải phóng chúng tôi chứ, tôi đâu có ngờ ngày hôm nay tôi gặp các anh ở đây”

Sau mấy năm thấy tù nhân chết quá nhiều, trại cho tổ chức nhận quà năm ký từ miền Nam, để cho vợ con của tù nuôi tù, đỡ gánh nặng nhà nước. Sau này, mới hiểu sở dĩ có vụ cho thăm nuôi là vì bắt đầu có thương thuyết vơi phía Mỹ về sô phận tù chính trị của miền Nam. Nếu để bọn tù chết hết, đâu còn thứ gì mang ra đổi chác với Mỹ được. Do vậy, nhiều khi gia đình gởi nhiều hơn năm ký mỗi ba tháng cũng được cho thông qua vì khi có quà cáp anh em cũng có biếu cán bộ như thuốc lá, đường, bánh trái, thuốc uống trị bịnh cảm, thuốc bổ, vitamin, thuốc sốt rét…

Trại Hà Nam Ninh

Cuối năm 1982, chúng tôi được chuyển đến trại Hà nam Ninh gần Hà nội. Đây cũng là lúc diễn ra nhiều thay đổi.

Một lần khám xét đồ đạc của tù, thấy mấy cuốn sách về Lê Nin, một cán bộ coi tù nói “giờ này mà còn đọc cuốn sách này”. Từ câu nói này, tôi thấy văn hóa miền Nam đã tác dụng ngược trở ra miền Bắc.

Khi tôi còn bị giam giữ ở K3 Vĩnh Phú cán bộ cấm chúng tôi hát nhạc vàng, gọi là “nhạc ngụy”, nhạc làm cho mất nước. Nếu có ai hát nhạc vàng bị báo cáo lên thì có thể bị cùm chân bị giam riêng. Cái nón có mũ lưỡi trai ở phía trước cũng bị chê là của Mỹ ngụy yêu cầu cắt bớt. Đội nón từ miền nam đem ra là bị phê bình, chỉ trích. Đi dép râu thì được. Nón cối thì được. Cái gì của miền nam đều là xấu cả.

Nhưng rồi một hôm tôi được phân công nhổ cỏ ở chung quanh khu nhà cán bộ ở vì lúc đó tôi bị bịnh quá không ra ngoài đồng cuốc đất được. Tôi nghe từ trong phòng của cán bộ đang hát nhạc vàng của miền nam. Tôi bắt đầu suy nghĩ, cấm tù nhân hát nhạc vàng mà cán bộ lại hát nhạc vàng. Như vậy văn minh, văn hoá miền nam đã ảnh hưởng ra miền Bắc bằng chứng là nhạc vàng bị cấm hát, nhưng họ lại thích nghe, say mê những bản nhạc vàng đó.

Bắt đầu ở đây anh em hát “nhạc vàng” thoải mái. Ban đêm, bên ngoài buồng giam có lính gác đi tuần kiểm soát, bên trong anh em hát “nhạc vàng” không còn bị phạt nữa. Trong trại lúc bấy giờ tôi nhớ có thầy Hòa là Đại Đức tuyên úy Phật giáo, thuộc hàng trăm bài hát “nhạc vàng”. Thầy Hoà có thể hát liên tục vài giờ cũng không hết nhạc. Đêm nào không hát, cán bộ ở bên ngoài còn yêu cầu anh em hát “nhạc vàng” cho vui. Cán bộ cộng sản đã mê “nhạc vàng” rồi.

Văn minh, văn hóa miền Nam Việt nam đã ảnh hưởng vào tâm tư, tình cảm của người cộng sản miền Bắc.

Sau ba mươi năm tất cả những điều gì trước đây họ chỉ trích, họ cấm đoán, họ bỏ tù ngày hôm nay họ cho thực hiện lại hết như buôn bán tự do, không còn ngăn sông cấm chợ nữa. Nhưng họ áp dụng chế độ tư bản theo luật rừng rú vì tất cả luật pháp cũ họ đều hủy bỏ mà luật lệ mới chưa thành hình. Khi chiếm miền nam xong, họ đóng cửa trường Luật, đóng cửa trường Đại học Văn khoa Sài gòn.

Sau khi thắng trận họ tưởng làm kinh tế như đánh đấm ngoài mặt trận. Bán cà phê vĩa hè, hớt tóc vĩa hè cũng phải vô hợp tác xã. Do đó mà toàn dân phải ăn độn bo bo, ăn gạo có nhiều bông cỏ, trước khi nấu phải mất rất nhiều thì giờ lượm bông cỏ ra.

Sự dối trá đã ăn sâu vào nhà cầm quyền lẫn dân chúng, phải lường gạt nhau để sống. Nhà cầm quyền lường gạt dân. Dân lường gạt nhà cầm quyền và lường gạt lẫn nhau. Lương tâm của con người đem dấu vào sọt rác.

Nếu sống đàng hoàng, mua bán đàng hoàng thì không sống nổi. Nên dân chúng phải lươn lẹo. Trong giai đoạn ngăn sông cấm chợ, muốn sống còn, phải dối trá, phải lươn lẹo, đi mua thịt lậu từ dưới quê lên để bán, mua đường, mua áo quần cũ, mua bán đồ phế thải. Chở ít gạo từ tỉnh này sang tỉnh kia để kiếm lời. Khi đi buôn bán nếu qua mặt được công an kinh tế thì sống, nếu bị bắt thì mất vốn. Nhưng không buôn bán thì lấy gì mà sống.

Hôm nay nhà cầm quyền thông báo nói không đổi tiền, sáng hôm sau, giới nghiêm, đổi tiền làm cho nhiều người sạt nghiệp. Thông cáo kêu gọi quân nhân, công chức, sĩ quan trình diện học tập trong một tháng, nhưng giam mãi không biết ngày về, không ra tòa kêu án, ngồi bốc lịch dài dài. Mỗi ba năm anh em gọi là một “cây gậy”. Không ai biết mình sẽ phải ở mấy “cây gậy” đây? Ba năm, sáu năm, chín năm, mười hai năm … Ở tù không biết ngày nào về với gia đình hay vĩnh viễn sống trong miền rừng núi Thanh Hóa, Nghệ An, Vĩnh Phú, Hà Nam Ninh …Trung Quốc có Tân Cương. Nga sô có Tây Bá Lợi Á dành cho tù nhân vĩnh viễn định cư ở đó.

“Tù cải tạo” dành cho người miền Nam thua trận thực sự không hy vọng có ngày trở về với gia đình, nếu những lãnh tụ cộng sản không thình lình thấy là mạng sống của đám tù này bỗng là thứ có thể thương thuyết đổi chác với phía Mỹ. Nhờ vậy mà trình trạng nhà tù bỗng thấy dễ thở hơn.

Thời gian sống tại trại Nam Hà là thời gian thoải mái nhất trong cuộc đời ở tù. Lúc này quà cáp thường xuyên gởi ra từ vợ con ở trong nam. Cán bộ đã cởi mở hơn. Họ đã nhìn thấy sĩ quan, công chức miền Nam không phải là những người ăn gan, uống máu. Họ đã hiểu phần nào về người bại trận.

Thân nhân của các tù nhân từ trong Nam gởi tiền ra cho chúng tôi, để chúng tôi mua thịt cá, trái cây. Nhiều khi cán bộ dễ dãi để chúng tôi nấu chè, nấu cơm, nấu canh chua trong phòng giam. Họ dễ dãi cho nấu nướng là để họ bán được hàng, để họ kiếm thêm tiền. Với cái lon Guigoz chúng tôi kho thịt, nấu cơm, nấu canh v.v…thật là tiện dụng. Cần giẻ rách, một ít dầu là chúng tôi có thể đun một nồi chè ở trong phòng giam.

Mỗi sáng chúng tôi đi ra đồng làm cỏ để cấy lúa. Tôi thấy nhiều người ra đồng quá trễ. Hơn 11 giờ mới cầm cuốc, lếch thếch kéo ra đồng làm việc.

Tôi hỏi họ: “Sao các anh đi làm trễ quá vậy?”

Họ trả lời: “Đi ra sớm mà làm gì, làm cho hợp tác xã chứ có phải cho mình đâu. Làm nhiều, làm ít cũng chia chác như vậy mà thôi.”

Khi cuốc đất, họ khều khều vài lát cuốc như phủi bụi; một lát, họ đã kéo nhau về nghỉ. Tôi suy nghĩ dân miền Bắc làm việc như vậy hỏi rằng khá giả làm sao được. Vậy mà họ đã thắng miền nam. Thế mới lạ chứ.

Nếu “Trương Chi đẹp trai” đó là tựa bài viết của Dương Hùng Cường để mô tả dân miền nam nghe tiếng hát Trương Chi thì những người nhẹ dạ rất mê, rất thích nhưng trong thực tế thấy gương mặt của Trương Chi thì không còn có thể mê được nữa. Nghe Cộng Sản tuyên truyền thì đa số đều rất thích nhưng thực tế, họ làm ngược lại những điều họ nói, nên sau khi chiếm miền nam rồi thì “Nếu cái cột đèn biết đi nó cũng bỏ xứ mà đi”. Cho nên dân miền Nam không bao giờ quên được câu nói để đời của Cựu Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu: “Đừng nghe những gì Cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng sản làm”

Ba tôi có cảm tình với Việt Minh, Cộng sản vì bạn của ba tôi là ông tư Lê đã theo kháng chiến từ những năm 1945. Khoảng năm 1948, 1949 Việt Minh đánh đồn Chợ Núi, quận Cần Giuộc, Tư Lê có vào nhà ba tôi để trò chuyện. Ba tôi cho mượn ống quẹt để châm hút thuốc lá. Sau trận đánh đồn đó ba tôi bị ông Tổng Nhì và Pháp bắt, đánh để khai thác về Việt Minh (Cộng sản) và ba tôi đã bị bịnh nhiều, nằm điều trị ở nhà gần một năm.Từ đó ba tôi rất hận và ghét Pháp và có cảm tình với Việt Minh. Sau này, dĩ nhiên ba tôi cũng không có cảm tình với người Mỹ và quân đội quốc gia. Khi tôi ra ứng cử Nghị viên Hội đồng đô thành Sài gòn, để chuẩn bị ứng cử Dân Biểu, Nghị sĩ sau này, ba tôi đã nói: “Ẩm tao ngồi chức đó tao cũng nhảy xuống” có ý nói với tôi là “bỏ tiền ra ứng cử chi cho tốn kém, mất thì giờ” mà ba tôi cũng không ưa chức vụ đó nữa.

Khi di chuyển từ K4 Vĩnh Phú qua trại Hà nam Ninh, tôi được đưa về phân trại A. Tôi gặp đủ hết các anh em cùng bị giam chung với tôi ở Long Thành như Mai Kim Đỉnh cùng học chung ban Cao Học trường Chính Trị Kinh Doanh ở thương xá Tax, Sài gòn những năm 1972-1974, Hoài Sơn Ung Ngọc Nghĩa chủ nhiệm của Ban Tuyên Huấn của Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến và của đảng Tân Đại Việt. Gặp lại một số học trò cũ bị giam ở đây vì theo nhóm kháng chiến “phục quốc”, chống Cộng sau năm 1975.

Nhóm này cũng ở tù khá lâu, bảy, tám năm hay hơn nữa nhưng khi có chương trình HO để đi định cư tại Hoa Kỳ thì những người này không được xếp vào diện HO vì họ được xem là những thành phần chống đối sau năm 1975.

Sống ở phân trại A một thời gian ngắn, họ lại tách một số chúng tôi ra, di chuyển về phân trại C của trại Hà Nam Ninh.

Không khí tù đày đã dễ thở hơn so với những thời gian trước. Khi chúng tôi có quà cáp thăm nuôi đã đút lót cán bộ thuốc lá, bánh kẹo, thuốc uống từ trong Nam gởi ra. Chúng tôi được mua thức ăn do cán bộ tổ chức bán như thịt heo, thuốc lá. Ngay cả rượu chúng tôi cũng có thể mua được bằng cách liên hệ với người dân sống chung quanh trại.

Tôi đã ở tù lâu quá rồi, gần tám năm. Mang trong người đủ thứ bịnh, không chết là may mắn lắm rồi.

Sau khi ăn Tết trong trại Hà Nam Ninh chừng vài tháng, cán bộ gọi anh em tập họp lại, ngồi ngoài sân, gọi tên từng người sang ngồi một bên và yêu cầu đứng lên vào phòng thu dọn đồ đạt. Lúc đó, anh em mới biết mình sẽ được thả cho về.

Khi ra khỏi trại, tôi không muốn nhìn trở lại chỗ mà tôi đã bị giam cầm trong thời gian dài ở đó.

Xe hơi chở chúng tôi bỏ vào khu nhà ga xe lửa chờ có chuyến đi vào trong nam. Vài người trong chúng tôi đi tìm cà phê để uống. Phố xá tiêu điều. Thành phố Hà Nội lúc bấy giờ (đầu năm 1983) là thành phố chết, không có buôn bán gì. Uống cà phê cũng phải uống chui. Đi ra nhà sau của tiệm cà phê không có bảng hiệu gì cả, mua cà phê đen uống với đường đã là quí lắm rồi. Họ không có bán cà phê sửa vì đó là một xa xỉ phẩm.

Ngồi trên xe lửa xuôi về miền Nam, đến Quảng Ngãi chúng tôi còn mấy bộ áo quần cũ trên bảy năm, mùng mền mang theo lúc đi trình diện vậy mà tôi bán cũng được mấy chục đồng bạc lúc đó. Với số tiền này tôi mua được tô hủ tiếu để ăn uống dọc đường.

Khi đến ga Hàng Xanh trời vừa sáng. Tôi chỉ còn đủ tiền để kêu chiếc xe xích lô chở về bến xe Phạm thế Hiển. Leo lên xe Lam chạy dọc đường Phạm thế Hiển, tôi nhìn không ra được con đường cũ mà tôi đã đi qua lại thường xuyên trước năm 1975. Bây giờ, sau gần tám năm, cảnh vật thay đổi nhiều quá. Nhà cửa xây cất thêm lấn ra lề đường. Có những nhà mới cất tôi nhìn không ra. Về tới nhà lúc nào tôi cũng không hay.

Bước vào nhà của mình mà thấy quá xa lạ. Có mấy đứa trẻ con ngồi học ở trong nhà mà tôi đâu có biết đứa nào là con tôi đâu. Khi tôi đi “học tập cải tạo” con út tôi mới vừa tám tháng, khi về đứa út cũng đã 8 tuổi rồi, làm sao tôi biết nó cho được. Đứa con trai 9 tuổi chạy xuống nhà sau, lúc đó bà xã tôi đang nấu cơm. Nó nói: “Má ơi có ông nào vô nhà kìa.”

Tôi vừa bước vô nhà mình, đi thẳng ra phía sau nhà, gặp bà xã đang nấu cơm, gặp cậu bảy Bích, tự nhiên nước mắt tôi trào ra. Tôi đã khóc, không thể nào cầm giữ nước mắt cho được. Người ta khóc vì buồn rầu, đau khổ. Tôi khóc vì tưởng chừng như đã chết rồi mà được sống lại. Tôi đâu có ngờ tôi còn sống để được về với gia đình sau gần 8 năm trong các trại tù khắc nghiệt ở các miền thượng du, núi rừng âm u miền bắc.

Giấy ra trại ký ngày 28 tháng 02 năm 1983, ngày tôi về tới nhà trình diện công an phường là 9 tháng 3 năm 1983 ngót nghét còn ba tháng nữa là đủ 8 năm tù, vì cái tội duy nhất là tội tham gia đảng phái quốc gia.

Ngẫm lại, tôi thấy mình còn được ông trời thương, được sống sót về với gia đình, để cho các con của tôi có cha, cho tôi có cơ hội phụ giúp phần nào sinh kế cho gia đình vợ con. Và rồi sau cùng, có cơ hội đưa gia đình tới được nước Mỹ tự do để làm lại cuộc đời.

Xin tạ ơn trời, tạ ơn người, và biết ơn nước Mỹ.

Ngày 26 tháng 04 năm 2015

Phùng Văn Phụng

Vietbao.com đăng ngày 28 May 2015 trong trang “Viết Về Nước Mỹ”


 

Hơn 3.000 thuyền nhân bị giết ở đảo Kokra Thailand – -Lapson Luu

 Việt Nam xưa và nay – Khoa Phan

-Lapson Luu

Nỗi ám ảnh kinh hoàng mà nhiều người không biết là đã có ít nhất 3.000 Thuyền Nhân bị Hải Tặc Thái thảm sát ở đảo KoKra.

Trong giai điểm từ 1977-1982 Hải Tặc bắt nhiều thuyền nhân đưa vào hoang đảo KoKra. Chỉ nội trong năm 1981 thống kê cho thấy có 452 chiếc thuyền tị nạn bị tấn công và con số thuyền nhân bị hải tặc thái thảm sát gần 900 người trong cùng năm 1981 – Số thuyền nhân đến được đất Thái mỗi năm khoảng hơn 15.000 người và tổng số thuyền nhân chết ngoài biển do sóng gió, thiếu thức ăn, hải tặc với thống kê cao nhất là 400.000 người bỏ xác ngoài biển khơi.

Liên tục vào những năm 1977-1982 là thời gian cao điểm Thuyền Nhân tị nạn từ Việt Nam đi qua vịnh Thailand để đến Thái, Indonesia và Malaysia – Hải Tặc Thái bắt nhiều thuyền đưa vào KoKra để cướp, hảm hiếp phụ nữ và giết chết ngay sau đó.

Tờ báo Hồn Việt của ký giả Nguyễn Hoàng Ðoan trong năm 1978 đã ghi lại câu chuyện của những người tị nạn bị bắt lên đảo KoKra vượt thoát ra và kể lại nhiều câu chuyện rùng rợn xảy ra tại nơi đây. KoKra có một bia đá nằm ở hướng Bắc của hòn đảo là nơi có diện tích rộng nhất. Đây là nơi bọn Hải Tặc Thái thường đưa phụ nữ VN bắt được ra hảm hiếp tập thể cho tới khi họ ngất đi thì sẽ bị đẩy xuống biển.

Một chiếc thuyền tị nạn trôi dạt vào KoKra cuối năm 1977 kể lại thuyền của họ có 8 người – 3 phụ nữ, một đứa bé và 4 đàn ông khi bị sóng đánh trôi dạt vào đảo , mọi người mừng rỡ vì nghĩ rằng đã có nơi trú ẩn khi gió lớn – Vào được khu vực bia đá thì họ nhìn thấy hàng chữ bằng tiếng Việt được viết nguệch ngoạc – “Đảo này là đảo Hải Tặc hãy rời đi vì họ sẽ giết đàn ông và hảm hiếp phụ nữ!”

Nhanh như chớp, 8 người trở lại chiếc thuyền tìm cách chèo chậm chậm ra khỏi khu vực – vừa rời khỏi đảo KoKra chừng hơn 200 mét thì họ gặp phải một chiếc thuyền lớn hơn của Hải Tặc Thailand từ xa tiến lại gần.

Các thuyền nhân trên tàu 8 người kể lại họ nhìn thấy trên chiếc thuyền Thái có một tay cầm súng carbin và 7 tên khác cầm dao rựa với ánh mắt đẫm máu dữ tợn đang đưa thuyền tiến gần hơn chiếc 8 người.

Trên chiếc thuyền 8 người có 4 thuyền nhân đàn ông, họ là người cùng gia đình – một lính Biệt Cách Dù VNCH, một Biệt Đông Quân VNCH và 2 thanh niên trẻ hơn là Bộ Đội vừa trốn khỏi chiến trường Tây Nam.

Thuyền 8 người Tị Nạn trang bị một súng AK47 còn 4 viên đạn, một khẩu B40 còn một quả và một súng máy không có đạn.

Khi chiếc thuyền hải tặc tới gần thì cây súng máy (không đạn) được người lính Bộ Đội đưa lên để hù và anh Biệt Cách Dù đưa Ak lên bắn một viên bắn sượt ngang mông tên hải tặc đang cầm súng carbin và quả B40 cũng chuẩn bị khai hỏa … Tiếng súng AK đơn độc nổ dòn trong buổi chiều trời gần sẩm tối kéo theo tiếng la hét trên con tàu Hải Tặc nhanh chóng rời bỏ vị trí.

Bỗng chợt từ trên đảo KoKra vọng lên nhiều tiếng phụ nữ khóc thét nghe rợn người. Anh Bộ Đội trẻ bơi rất giỏi vác trên lưng cây AK47 còn 3 viên đạn bơi nhanh về hướng tiếng phụ nữ khóc.

Hai người lính VNCH tìm cách chèo thuyền gần đảo hơn để hỗ trợ cho người em trai Bộ Đội – Họ đã đuổi 5 tên Hải Tặc trên đảo và cứu được 2 phụ nữ còn sống cùng một em bé 4 tuổi – Tất cả 42 người khác trên chiếc thuyền trước đó của nạn nhân đã bị Hải Tặc Thái giết chết sạch…

Lapson Luu

(Đảo KoKra là một hoang đảo, nơi trú ẩn của ngư dân Thailand – Đảo có chiều dài hơn 250 mét và chiều ngang chỗ rộng nhất khoảng 100 mét.


 

Nói lời phải chăng (Phần cuối)

Ba’o Tieng Dan

21-4-2025

Tiếp theo phần 1phần 2phần 3phần 4phần 5phần 6

Chu Sơn: Hơn 35 năm sau cái ngày lịch sử (30–4) mà gần như tình cờ anh Tòng tham dự, có bao giờ anh tự nhìn lại mình, nhìn lại đất nước khi nhớ nghĩ lại những gì mình đã làm, những gì mình đã nói tại dinh Độc Lập và Đài phát thanh Sài Gòn?

Huỳnh Văn Tòng: Không phải chỉ “có bao giờ” mà rất nhiều và gần như thường trực tôi cứ hỏi tại sao? Tại sao? Tại sao cái cơ hội ngàn năm một thuở ấy bị bỏ lỡ, bị phí phạm một cách đáng tiếc? Không phải chỉ với cá nhân tôi, kẻ muốn làm một Việt Cộng tép riu (thuộc lực lượng Thứ Hai) hơn làm một “nhân vật” đứng giữa (thuộc lực lượng Thứ Ba), cũng không phải những người đứng giữa (thuộc lực lượng Thứ Ba) mà cả một số không ít những người phía bên kia (thuộc lực lượng Thứ Nhất – Việt Nam Cộng Hòa) cũng tiếc một cách quay quắt không được tham dự vào vận hội hòa giải hòa hợp dân tộc, xây dựng đất nước trong hòa bình độc lập và thống nhất sau biến cố 30-4-1975.

Tôi trở về nước đầu năm 1972 sau một thời gian khá dài (9 năm) tiếp cận với nền học thuật Pháp – Tây phương. Sự tiếp cận đó cho phép tôi nhận ra rằng, trí thức, quần chúng Pháp và Tây phương có điều kiện thời gian và nền tảng học thuật để nhận biết chủ nghĩa Marx, phong trào Cộng sản quốc tế và cách mạng tháng 10 Nga sớm và chính xác hơn trí thức và quần chúng Việt Nam. Đảng Cộng sản Pháp và các đảng Cộng sản Tây phương thành lập sớm hơn đảng Cộng sản Việt Nam hàng chục năm, nhưng rồi nhân dân Pháp và phương Tây đã không chọn mô hình Xã hội Chủ nghĩa để đổi mới đất nước họ như khẳng định của các lý thuyết gia Cộng sản là sự phát triển kinh tế của phương Tây đã chín mùi và sự trưởng thành của giai cấp công nhân và quần chúng lao động ở các nước này đã sẵn sàng để cách mạng Xã hội chủ nghĩa nổ ra và thắng lợi.

Sự chọn lựa này chủ yếu do nền tảng văn hóa truyền thống của họ sâu dày và trình độ học thuật của họ cao. Họ thừa nhận Marx – Angel và các nhà hoạt động cách mạng theo ý thức hệ Cộng sản ôm ấp lý tưởng và khát vọng trong sáng và cao đẹp. Nhưng đồng thời họ nghi ngờ khả năng hiện thực của học thuyết Marx và chủ nghĩa Lenin. Cuối cùng đảng Cộng sản Pháp và các đảng Cộng sản Tây phương đành chấp nhận làm lực lượng đối trọng chính trị và phản biện xã hội đóng vai trò thúc đẩy sự đổi mới, sự tiến bộ trong các nước Tư bản chủ nghĩa, và ủng hộ công cuộc giải trừ các thế lực thực dân đế quốc tại các thuộc địa.

Trong khi đó lý tưởng cộng sản, cách mạng tháng 10 Nga, chủ nghĩa Lenin lại nhanh chóng chiếm lĩnh tâm trí đa số người Việt ở trong nước cũng như Việt kiều tại Pháp. Lý do của sự quy hướng này là khát vọng độc lập tự do, công bằng xã hội vô cùng mãnh liệt nơi một số bộ phận không nhỏ trí thức, và ước mơ đổi đời một cách cấp thiết của toàn thể đồng bào cùng khổ (90% là nông dân) trước tình cảnh đói nghèo và nô lệ cùng cực do chế độ thực dân. Còn một lý do nữa của sự quy hướng này là mặt bằng nhận thức chung của dân tộc chưa đủ để vượt qua tình trạng mê tín dị đoan đã biến học thuyết Marx thành những tín điều tôn giáo và đảng Cộng sản thành một giáo hội không sai lầm, một guồng máy bạo lưc có quyền lực tuyệt đối trong mọi lãnh vực của đời sống đất nước.

Tôi đã từng nhận định như thế về đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận án ở trường đại học, đặc biệt là sau chuyến viếng thăm, quan sát, học hỏi dài ngày (6 tháng) tại những cơ quan thông tấn báo chí danh tiếng trên thế giới, tôi đã hiểu vì sao Nguyễn Ái Quốc đã nhanh chóng tìm thấy con đường giải phóng đất nước dân tộc sau khi đọc luận cương của Lenin về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Lòng yêu nước sâu nặng và sự phẫn nộ mãnh liệt trước tội ác của bọn đế quốc thực dân đã lấn lướt khả năng suy luận lạnh lùng và khách quan của những người ngoài cuộc, hay của những người đã tìm thấy nơi học thuyết Tư sản Dân quyền những giá trị cách mạng triệt để như Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và đặc biệt Nguyễn An Ninh vào thời điểm thập niên thứ hai của thế kỷ trước.

Tôi trở về nước với ý định tìm đường tham gia kháng chiến để giải tỏa ray rức là kẻ thờ ơ vô trách nhiệm trước tình hình đất nước ngày một lún sâu vào thảm cảnh chiến tranh xâu xé vô vọng. Hòa bình, độc lập, thống nhất đối với tôi vào thời điểm đó vẫn là mục tiêu hàng đầu. Vấn đề thể chế sẽ là sự đồng thuận của cả dân tộc sau khi đạt được các mục tiêu ấy. Đảng Cộng sản Việt Nam chắc chắn sẽ rút kinh nghiệm từ những sai lầm tai hại trong các cuộc cải cách, cải tạo mà họ đã thực hiện trên miền Bắc trước và sau 1954. Đảng Cộng sản Việt Nam cũng không thể không biết tới những tội ác kinh khủng: Giết chết và đày đọa hàng trăm triệu con người trong các cuộc thanh trừng, đấu tranh giai cấp đẫm máu và sự điêu tàn suy sụp toàn diện tại Liên xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa. Tôi đã sai lầm khủng khiếp.

Do suy nghĩ đơn giản như vậy, tôi chấp nhận đề nghị của ông Chu Sơn cùng với Nguyễn Hữu Thái, Nguyễn Trực, Bùi Minh (những người thân cận của thượng tọa Trí Quang) tiếp sức cho phong trào đô thị Huế bằng hành động cụ thể là thúc đẩy Lực lượng Hòa giải Dân tộc sớm thành lập, liên kết nó với các tổ chức, phong trào đô thị Sài Gòn, Huế và cả miền Nam, góp phần hình thành lực lượng Thứ Ba tại Sài Gòn, tạo điều kiện mở rộng hoạt động của nó ra các tỉnh miền Trung, kết nối tất cả thành lực lượng Thứ Ba thống nhất cho cả Miền Nam.

Ông Chu Sơn cần chú ý: Sáu nhân vật hàng đầu của chính phủ Dương Văn Minh, trừ luật sư Nguyễn Văn Huyền là người Công giáo, năm người còn lại là Phật giáo đồ, là Phật tử thuần thành. Hai trong số đó là luật sư Vũ Văn Mẫu, giáo sư Bùi Tường Huân là nhân vật lãnh đạo của Lực lượng Hòa giải do thượng tọa Trí Quang bàn thảo cùng đại tướng Dương Văn Minh sắp xếp đề cử vào chức vụ Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Việc giáo sư Bùi Tường Huân giữ chức bộ trưởng quốc phòng là chủ ý của thượng tọa Trí Quang thể hiện ý chí và khát vọng hòa bình theo tinh thần của đạo Phật và đường lối chủ trương của giáo hội Phật giáo. Việc Dương Văn Minh đề cử các nhân vật khác từ Phó Tổng thống trở xuống đêu có sự đồng thuận của thượng tọa Trí Quang.

Không phải chuyện tình cờ khi sáng sớm ngày 30 tháng 4 Nguyễn Hữu Thái tới chùa Ấn Quang và sau đó thượng tọa Trí Quang điện thoại đề nghị các ông Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu nhanh chóng chấp nhận đầu hàng. Nguyễn Hữu Thái và tôi tới dinh Độc Lập và đài phát thanh Sài Gòn trưa ngày 30 tháng 4 có manh mối từ những cơ duyên như thế, chứ không phải tình cờ như ông Chu Sơn đã nhận xét. Những việc chúng tôi làm, những điều chúng tôi nói tại dinh Độc Lập và Đài phát thanh đơn giản nhằm thực hiện câu châm ngôn mà Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã hành xử suốt đời ông: Dĩ bất biến ứng vạn biến. Cái bất biến đối với chúng tôi vào thời điểm đó là Hòa giải, Hòa hợp Dân tộc, toàn dân chung sức chung lòng xây dựng đất nước sau 117 năm bị xâm lược, chiến tranh tàn phá và xâu xé, tương tàn.

Lời kêu gọi ấy sau hơn một phần ba thế kỷ chắc chắn câu chữ có thay đổi do ký ức hao mòn nhưng nội dung vẫn trước sau như một. Làm sao quên được khi tôi biết chắc chắn rằng nhiều người trong số học trò, bạn bè, bà con thân thuộc và cả một số quen biết tôi gián tiếp vì lời kêu gọi ấy mà tin tưởng, mà ở lại để rồi phải chịu đọa đày, sĩ nhục, đói khổ, tù đày, tuyệt vọng, chết chóc. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa do đảng Cộng sản tiến hành sau 1975 đã biến tôi thành kẻ lừa dối. Thậm chí có một cô học trò đã nói thẳng vào mặt tôi rằng: “Ông đích thực là một tên cò mồi. Gia đình tôi vì ông mà bị sập bẫy”.

Ông Chu Sơn biết không, cô học trò ấy là một trong những sinh viên thân thiết nhất của tôi, đã cộng tác hết mình với nhóm chúng tôi trong suốt hai năm “tôi nghĩ rằng mình là một Việt Cộng”, là đồng chí, đồng sự của ông Chu Sơn trong nhiệm vụ hỗ trợ cho phong trào đô thị Huế. Suốt hai năm ấy tôi nhận được từ cô sự tin tưởng và quý trọng. Cô vận động cha cô – một trung tá trong quân đội Việt Nam Cộng hòa – cùng gia đình (mẹ và bốn em) “ở lại để cùng với đất nước làm lại cuộc đời”. Nhưng rồi họ đã bị sập bẫy – chính xác như lời cô nói – Cha cô đã bị đưa đi cải tạo dài ngày, nhà bị lấy. Đứa em trai kế thi đậu nhưng không được vào đại học vì là con ngụy quân. Cô tiếp tục học hai năm cuối, tốt nghiệp cử nhân nhưng không xin được việc làm cũng vì là con ngụy. Mẹ và cô phải lăn ra chợ trời để lo cái ăn cho cả nhà và thăm nuôi cho chồng, cho cha.

Tù đày, đói khổ, cực nhục và tuyệt vọng là những gì họ nhận được từ ngày “miền Nam được giải phóng”. Thực tế này hoàn toàn trái ngược với những gì tôi đã đoan chắc với cô ấy trước 30 tháng 4. Quả thực tôi là kẻ nói dối, là một thứ cò mồi… Cô ấy đã hoàn toàn chính xác khi không gọi tôi là Thầy như trước, mà gọi tôi là ông, và xỉ vả tôi như thế…

Chu Sơn: Xin lỗi anh Tòng. Tôi thấy trên trán anh đã lấm tấm mồ hôi. Tôi đã hành anh suốt cả buổi chiều. Tuy vậy tôi vẫn muốn chính anh, chứ không phải tôi, kết thúc cuộc trò chuyện này bằng một vài câu ngắn gọn.

Huỳnh Văn Tòng: Hồi học bên Pháp tôi may mắn làm học trò của ba vị thầy lỗi lạc: Giáo sư Chesneax, giáo sư Jean Lacouture và giáo sư Phillipe Devillieris. Các vị ấy và nền đại học, truyền thông báo chí Pháp và quốc tế dạy cho tôi phương pháp nghiên cứu khoa học và tư duy lịch sử trên cơ sở của nền văn minh phương Tây – Ky tô giáo. Qua các vị ấy và nền tảng văn hóa học thuật ấy, tôi hiểu nhiều hơn về thế giới và đất nước dân tộc mình.

Về dạy đại học Vạn Hạnh và làm “Việt Cộng nội thành”, tôi lại may mắn tiếp cận với ba vị thầy lỗi lạc và thâm trầm hơn: Thầy Thích Minh Châu, thầy Thích Trí Quang, thầy Hồ Hữu Tường. Ba vị này và môi trường đại học Vạn Hạnh dạy cho tôi tình yêu đất nước, lòng bao dung, trách nhiệm nhân loại và chúng sinh theo cốt tũy đạo Phật và tinh hoa Phật giáo Việt Nam.

Qua các cuộc trao đổi, các vị ấy thường nhắc nhở tôi câu châm ngôn: “Tồn tại là tồn tại trong những tương quan”. Câu châm ngôn này với những giải bày của các vị ấy giúp tôi nhìn nhận văn hóa, lịch sử Việt Nam, hiện tình đất nước và các mối quan hệ quốc tế chính xác và công bình hơn.

Chúng ta đang ở trong đất nước. Đất nước đang ở trong thế giới. Tất cả thường trực vận động và đang trên đà chuyển hóa. Kết quả của cuộc vận động chuyển hóa ấy thế nào tùy thuộc vào nhận thức và bản lãnh sống của tất cả mọi chủ thể tham dự.

Khẳng định như thế để thấy rằng, mối chủ thể tồn tại từ cá nhân, gia đình, địa phương, thành phần dân tộc, đảng phái, tôn giáo, quốc gia, cộng đồng khu vực và quốc tế đều chia phần trách nhiệm trước quá khứ và hiện thực cuộc sống.

Không đổ hết trách nhiệm, cái xấu và lỗi lầm lên đầu đối phương, không dùa hết cái tốt, cái đúng, cái ưu việt về phía mình.

Không trông chờ sự tôn trọng của kẻ khác, của quốc gia dân tộc khác khi bản thân mình, cộng đồng mình, dân tộc đất nước mình chìm đắm trong chia rẽ, xâu xé, nô lệ và hủ bại.

Đất nước chưa có độc lập, hòa bình, thống nhất; dân tộc chưa có tự do và hạnh phúc như chúng ta đã mơ tưởng, như đảng Cộng sản đã rêu rao và tiếp tục lảm nhảm.

Hết nô lệ Pháp, Mỹ, chúng ta đang nô lệ Tàu. Hết bị áp bức bóc lột bởi chế độ vua quan chuyên chính, chúng ta đang bị đàn áp bóc lột tồi tệ hơn, triệt để hơn bởi bạo quyền lý Toét, xã Xệ, thị Nỡ và Chí Phèo: Đảng Cộng sản.

Sau hơn một thế kỷ rưỡi chiến tranh, chết chóc, đọa đày và đổ nát để rồi chúng ta có được ngày nay sao?

Bà Nguyễn Thị Bình ký Hiệp định Paris ngày 27/1/1973 và hai câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Bùi Giáng.

***

Chu Sơn: Câu hỏi bỏ lửng của anh Tòng kết thúc cuộc trò chuyện của chúng tôi vào khoảng 8 giờ tối một ngày cuối tháng 4 năm 2010, chưa đầy một năm ba tháng trước ngày anh qua đời (tháng 7 năm 2011).

Mấy trang ghi chép này chắc chắn không tránh được những sai sót ngoài ý muốn. Xin anh Tòng rộng lòng tha thứ.


 

Các nghi lễ sau khi Giáo hoàng Francis qua đời – Cù Tuấn biên dịch

Cù Tuấn biên dịch

Tóm tắt: Sau khi Giáo hoàng Francis qua đời, các nghi lễ chính bắt đầu, bao gồm việc niêm phong căn hộ của ông, phá hủy chiếc nhẫn và chuẩn bị tang lễ

Sau khi Giáo hoàng Francis qua đời, được Vatican công bố vào thứ Hai, Giáo hội Công giáo La Mã sẽ bắt đầu các nghi lễ phức tạp mang đậm truyền thống để đánh dấu sự kết thúc của một triều đại giáo hoàng và mở đầu cho triều đại giáo hoàng tiếp theo.

Hầu hết đều tuân theo hiến pháp được gọi là Universi Dominici Gregis (Của toàn thể đàn chiên của Chúa) được Giáo hoàng John Paul II phê chuẩn vào năm 1996 và được Giáo hoàng Benedict XVI sửa đổi vào năm 2007 và 2013.

Một hồng y được gọi là thị thần (giám mục), hiện là Hồng y người Mỹ gốc Ireland Kevin Farrell, sẽ điều hành các công việc thường ngày của Giáo hội Công giáo La Mã với gần 1,4 tỷ thành viên trong giai đoạn được gọi là “sede vacante” (trống toà).

Thị thần sẽ chính thức xác nhận cái chết của Giáo hoàng, một vấn đề đơn giản ngày nay, liên quan đến bác sĩ và giấy chứng tử. Cho đến một thời điểm nào đó trong thế kỷ 20, điều này được thực hiện theo nghi lễ bằng cách gõ một chiếc búa bạc vào trán Giáo hoàng ba lần.

Thị thần và ba trợ lý được chọn trong số các hồng y dưới 80 tuổi, được gọi là hồng y cử tri, sẽ quyết định thời điểm đưa thi hài của giáo hoàng vào Vương cung thánh đường Thánh Peter để công chúng đến tỏ lòng thành kính.

Họ cũng đảm bảo rằng “Chiếc nhẫn của ngư dân” và con dấu bằng chì của giáo hoàng sẽ bị hủy đi để không ai khác có thể sử dụng chúng. Không có cuộc khám nghiệm tử thi nào được thực hiện.

Thị thần sẽ khóa và niêm phong nơi ở riêng của giáo hoàng. Trước đây, nơi này nằm trong các căn hộ tại Cung điện Tông đồ, nhưng Francis sống trong một dãy phòng nhỏ tại nhà khách Vatican được gọi là Santa Marta.

Thị thần và các hồng y khác không thể đưa ra những quyết định quan trọng ảnh hưởng đến Giáo hội hoặc thay đổi giáo lý của Giáo hội. Người đứng đầu hầu hết các bộ phận của Vatican đều từ chức cho đến khi giáo hoàng mới xác nhận hoặc thay thế họ.

Lễ tang sẽ kéo dài chín ngày, ngày tổ chức tang lễ và chôn cất sẽ do các hồng y quyết định. Universi Dominici Gregis cho biết lễ tang sẽ bắt đầu vào khoảng ngày thứ tư đến ngày thứ sáu sau khi ngài qua đời.

  1. Lễ tang của Giáo hoàng

Giáo hoàng Francis, người đã tránh xa phần lớn sự phô trương và đặc quyền khi lãnh đạo Giáo hội Công giáo toàn cầu, đã sửa đổi và đơn giản hóa các nghi lễ tang lễ của giáo hoàng vào năm 2024.

Lễ tang vẫn được tổ chức tại Quảng trường Thánh Peter, nhưng không giống như nhiều người tiền nhiệm, Giáo hoàng Francis đã yêu cầu được chôn cất tại Vương cung thánh đường Đức Mẹ Maria ở Rome để gần bức tượng Đức Mẹ mà ngài yêu thích nhất.

Giáo hoàng Francis cũng yêu cầu được chôn cất trong một chiếc quan tài gỗ đơn giản, không giống như những người tiền nhiệm được chôn cất trong ba chiếc quan tài lồng vào nhau làm bằng gỗ bách, chì và gỗ sồi. Ông yêu cầu không đặt thi thể của mình trên một bệ cao, hay còn gọi là catafalque, tại Vương cung thánh đường Thánh Peter để du khách ở Rome có thể chiêm ngưỡng, như trường hợp của các giáo hoàng trước đây.

  1. Mật nghị Hồng y

Các hồng y từ khắp nơi trên thế giới sẽ đổ về Rome sau khi một giáo hoàng qua đời. Họ tổ chức các cuộc họp hàng ngày được gọi là các hội đồng chung để thảo luận về các vấn đề của Giáo hội và nêu ra những đặc điểm mà mỗi người tin rằng giáo hoàng mới nên có.

Các hồng y từ 80 tuổi trở lên có thể tham dự các phiên họp chung nhưng không được phép vào mật nghị để bầu giáo hoàng tiếp theo, đây là cuộc họp của các hồng y dưới 80 tuổi. Phần lớn các cuộc thảo luận diễn ra trong các tương tác cá nhân giữa các hồng y.

Theo truyền thống, thời gian để tang là 15 ngày trước khi một mật nghị có thể bắt đầu. Trước khi từ chức vào năm 2013, Giáo hoàng Benedict đã sửa đổi hiến pháp để cho phép bắt đầu sớm hơn nếu các hồng y chọn, hoặc tối đa là 20 ngày sau khi qua đời nếu một số hồng y gặp khó khăn khi đến Rome.

Mật nghị được tổ chức tại Nhà nguyện Sistine. Cho đến hai mật nghị năm 1978 bầu ra John Paul I và John Paul II, các hồng y vẫn ở trong những căn phòng tạm bợ xung quanh Nhà nguyện Sistine.

Kể từ cuộc mật nghị năm 2005 bầu Giáo hoàng Benedict, họ đã bỏ phiếu tại Nhà nguyện Sistine nhưng vẫn ở nhà khách Santa Marta, với khoảng 130 phòng. Santa Marta sẽ bị phong tỏa và họ được đưa bằng xe buýt đến Nhà nguyện Sistine.

Từ conclave bắt nguồn từ tiếng Latin có nghĩa là “có chìa khóa”. Nó bắt nguồn từ một truyền thống bắt đầu từ thế kỷ 13, khi các hồng y bị nhốt lại để buộc họ phải quyết định càng nhanh càng tốt và hạn chế sự can thiệp từ bên ngoài.

Ngày nay, những Hồng y tham gia mật nghị bị cấm giao tiếp với thế giới bên ngoài. Điện thoại, internet và báo chí là không được phép và cảnh sát Vatican sử dụng thiết bị an ninh điện tử để thực thi các quy tắc.

Ngoại trừ ngày đầu tiên của mật nghị, khi chỉ có một lần bỏ phiếu, các hồng y sẽ bỏ phiếu hai lần một ngày.

Cần phải có đa số hai phần ba cộng một để bầu cử thành công. Nếu không có ai trúng cử sau 13 ngày, một cuộc bầu cử vòng hai sẽ được tổ chức giữa hai ứng cử viên hàng đầu, nhưng vẫn cần đa số hai phần ba cộng một. Điều này nhằm thúc đẩy sự thống nhất và ngăn cản các ứng cử viên tìm kiếm sự thỏa hiệp.

  1. ‘Habemus Papam’

Khi mật nghị bầu thành công một giáo hoàng, mọi người sẽ hỏi ông có chấp nhận không và muốn lấy tên nào. Nếu người được chọn từ chối, quy trình sẽ bắt đầu lại từ đầu.

Giáo hoàng mới sẽ mặc lễ phục trắng được chuẩn bị theo ba kích cỡ và ngồi trên ngai vàng trong Nhà nguyện Sistine để tiếp các hồng y khác, những người tỏ lòng tôn kính và tuyên thệ vâng phục.

Thế giới sẽ biết rằng một giáo hoàng đã được bầu khi một viên chức đốt các lá phiếu giấy bằng hóa chất đặc biệt để tạo ra khói trắng bốc ra từ ống khói của nhà nguyện. Khói đen báo hiệu một cuộc bỏ phiếu không có kết quả.

Vị cử tri cao cấp nhất trong số các hồng y phó tế, hiện là Hồng y người Pháp Dominique Mamberti, sẽ bước lên ban công trung tâm của Vương cung thánh đường Thánh Phêrô để tuyên bố với đám đông tại quảng trường bằng tiếng Latin: “Habemus Papam” (Chúng ta đã có một Giáo hoàng).

Sau đó, Giáo hoàng mới sẽ xuất hiện và ban phước lành lần đầu tiên cho đám đông trên cương vị chính thức.

From: NguyenNThu


 

 Ngài đã sống lại, và thực sự đang sống!- Cha Vuong

 Alleluia! Alleluia! Mừng Chúa Phục Sinh đến bạn gia đình nhé. 

CN Phục Sinh: 20/4/2025

TIN MỪNG: Bấy giờ, người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. (Ga 20:8)

SUY NIỆM: Tin Mừng Thánh Gioan diễn tả việc hai môn đệ chạy đến mộ để kiểm chứng những gì họ đã nghe mấy người phụ nữ kể lại. Các bà này đã nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”. Các bà bàng hoàng và lo sợ vì mất Chúa, và các bà cảm thấy đau xót về điều đó. Hai môn đệ là Phêrô và Gioan đã vội vàng chạy đến xem và họ thấy ngôi mộ trống. Khác với mấy người phụ nữ, hai ông không lo sợ bàng hoàng, mà tin vào sự phục sinh của Chúa, vì Người đã tiên báo với các ông điều này. Nếu như nấm huyệt vẫn được đậy kín, thì Chúa Giêsu cũng chỉ như một vĩ nhân, khi còn sống thì rao giảng những điều uyên bác cao siêu, nhưng khi chết thì cũng giống như bao người khác. Ngôi mộ trống khẳng định một điều: Chúa Giêsu không còn ở đây. Người đã sống lại! Người không còn bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Người không bị giam cầm bởi sự chết cũng như bởi nấm mộ. Sự phục sinh của Chúa mang đến cho bạn 3 điều: 

(1) niềm hy vọng vào quyền năng và sức mạnh của Chúa, Ngài đã đánh bại sự chết, cái chết không làm chủ được Ngài được nữa

 (2) cuộc sống mới (x 2 Cr 5:17), 

(3) sự sống vĩnh cửu cho những ai yêu mến Ngài.

Đây là niềm vui và an ủi của  Mầu nhiệm lễ Phục sinh mà bạn được thông phần vào sự Phục sinh của Ngài! Ngài đã sống lại, và thực sự đang sống!

LẮNG NGHE: Cho nên, phàm ai ở trong Đức Ki-tô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi. (2 Cr 5:17)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa Ki-tô Phục Sinh, xin giúp con biết hướng tâm hồn lên cao để con thấy Chúa đang đồng hành với con và dẫn con đến một một cuộc sống tươi sáng và huy hoàng hơn.

THỰC HÀNH: Đọc chậm và suy niệm Kinh Tin Kính 

From: Do Dzung

*********************

REO VANG MỪNG CHÚA PHỤC SINH – Khắc Thiệu 

BA NỖI ĐAU KHỔ – Lm. Mark Link, S.J. 

Lm. Mark Link, S.J. 

Chủ đề: “Chúa Giêsu đã chịu đau khổ trong ba phương cách như chúng ta chịu về tinh thần, thể xác và tâm linh”

Trong thời thế chiến II, linh mục Titus Brandsma làm viện trưởng một đại học tại Hòa Lan.  Người bị Đức Quốc Xã đem về trại tập trung ở Dachau.  Nơi đây, người bị biệt giam trong một chiếc cũi nhốt chó cũ kỹ.  Bọn lính gác mua vui bằng cách bắt người phải sủa lên như chó mỗi lần chúng đi ngang qua.  Cuối cùng người bị chết vì bị tra tấn.  Bọn lính kia đâu có ngờ rằng ngay giữa cơn thử thách, vị linh mục ấy vẫn tiếp tục viết nhật ký giữa những dòng chữ in trong quyển sách kinh cũ của người.  Người kể lại rằng, sở dĩ người có thể chịu đựng được nỗi đau đớn là vì người biết rằng Chúa Giêsu cũng đã từng chịu đau khổ như thế.  Trong một bài thơ ngỏ gởi Chúa Giêsu, người viết: “Sẽ không có đau đớn nào làm con gục ngã, bởi con luôn nhìn thấy đôi mắt đầy khổ đau của Chúa.  Con đường cô độc mà Chúa từng đi qua đã giúp con chịu đựng nỗi cay đắng một cách khôn ngoan.  Tình yêu của Chúa đã biến màn đêm tăm tối trong con thành nguồn sáng rực rỡ.  Lạy Chúa Giêsu, xin ở lại với con, chỉ cần ở lại thôi.  Con sẽ chẳng còn sợ hãi chi nếu khi đưa đôi tay ra con cảm thấy Chúa đang ở bên con.” (Kilian Healy, Walking with God).

 Sự thống khổ của Chúa Giêsu được chúng ta đặc biệt nhắc lại trong ngày hôm nay đã từng là nguồn sức mạnh cho rất nhiều người trong lịch sử.  Giống như linh mục Brandsma, những người này sẽ không bao giờ chịu đựng nổi sự đau đớn nếu họ không biết rằng Chúa Giêsu đã từng chịu đau khổ như vậy, và Người hiện đang nâng đỡ họ trong giây phút thử thách.

 Khi nhìn lại sự thống khổ của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Người đã chịu đau khổ dưới cả ba hình thức khác nhau.

 Trước hết là đau khổ tinh thần.  Chúa Giêsu chịu đau khổ này trong vườn Cây Dầu, Người đổ mồ hôi máu khi nghĩ đến thử thách trước mặt, đồng thời Người rất đau khổ khi các môn đệ phản bội và bỏ Người chạy trốn hết.  Tất cả chúng ta đều cảm nghiệm sự đau khổ tinh thần này, tỉ như một cậu bé 15 tuổi bỏ nhà ra đi đã mô tả sự đau khổ tinh thần của mình trong cuộc phỏng vấn của tạp chí Parade như sau: “Tôi không bao giờ thực sự có được một mái nhà, tôi không bao giờ được thực sự nhìn thấy người cha của tôi.  Tôi luôn cô độc… Tôi cảm thấy có gì sái quấy nơi tôi.  Chắc là tôi tệ lắm.  Tôi cảm thấy mình không hiện hữu, vì chẳng có ai yêu mến tôi.”  Trong lúc đau khổ tinh thần như thế, chúng ta chỉ còn một nguồn an ủi duy nhất, đó là biết rằng chính Chúa Giêsu từng bị đau khổ như thế trước chúng ta, và Người hiện đang nâng đỡ chúng ta trong khi bị thử thách.

 Tiếp đến, Chúa Giêsu từng bị đau khổ nơi thể xác.  Người bị đánh đập tàn bạo, bị đội mão gai và bị đóng đinh vào thập giá.  Và chúng ta, ít nhiều cũng đã từng chịu những đau đớn phần xác.  Đây là loại đau đớn mà bác sĩ Sheila Cassidy đã phải gánh chịu khi ở Chile vào đầu thập niên 1970.  Cô là một bác sĩ y khoa và đã phạm một lỗi lầm tai hại là đã chữa lành vết thương cho một phần tử chống đối chính phủ.  Cảnh sát đã bắt cô và tra tấn buộc cô phải khai tên những người dính líu đến phong trào chống đối.

 Giống như Chúa Giêsu bị treo trên thập giá, cô cũng bị căng thây trong bốn ngày.  Nhớ về sự thử thách ấy cô viết:

 Tôi cảm nghiệm được một cách mơ hồ về sự đau đớn mà Chúa Giêsu từng chịu.  Trong suốt cơn thử thách, tôi luôn luôn cảm thấy Người ở đó, và tôi nài xin Người giúp tôi được kiên vững. 

Cũng thế, trong giờ phút chịu đau đớn thể xác, chúng ta thường chỉ còn nguồn an ủi là biết rằng Chúa Giêsu đã từng chịu đau đớn như thế, và Người hiện đang nâng đỡ chúng ta trong cơn thử thách này.

 Và cuối cùng, chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu cũng từng chịu đau đớn về tâm linh.  Tỉ như, khi Người bị treo bơ vơ trên thập giá, dường như chính Chúa Cha cũng đã ruồng bỏ Người.  Chúa Giêsu cầu xin: “Lạy Chúa con, lạy Chúa con, sao Ngài lại bỏ rơi con” (TV 22:1).  Tất cả chúng ta cũng từng gặp đau khổ tâm linh giống như Người.  Nhiều lần, chúng ta cảm thấy như bị Chúa bỏ rơi.  Đây là sự đau đớn mà Walter Ciszel, vị linh mục người Hoa Kỳ đã từng chịu khi bị cầm tù ở Nga suốt 23 năm.  Có lúc, tâm linh người bị suy sụp đến mức gần như tuyệt vọng.  Nhưng thay vì đầu hàng, người lại biết noi gương Chúa Giêsu trên thập giá, hướng về Thiên Chúa Cha trong cơn thử thách.  Cha Walter Ciszel viết:

 Tôi thưa với Chúa rằng, ‘hiện giờ mọi khả năng của tôi đều cạn kiệt và chỉ còn Ngài là nguồn hy vọng duy nhất của con’…  Tôi chỉ có thể mô tả lại cảm nghiệm này giống như một sự ‘phó mặc’”.

Vào lúc bấy giờ, lần đầu tiên, cha Ciszel hiểu được những lời cuối cùng trên thập giá của Chúa Giêsu: “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha” (Lc. 23:46).  Về sau, cha Ciszel nói rằng chính quyết định phó thác ấy đã giúp người kiên định và sống sót.

 Như thế, Chúa Giêsu đã từng chịu cả ba sự đau đớn mà con người có thể gặp phải.  Người đau đớn tinh thần vì bị các môn đệ phản bội.  Người đau đớn thể xác vì bị tra tấn, và sau cùng Người đau đớn tâm linh khi cảm thấy bị Chúa Cha bỏ rơi.  Đây chính là sứ điệp mà Chúa Giêsu trao lại cho chúng ta, để khi gặp bất cứ đau khổ nào, chúng ta cũng biết hướng về Chúa Giêsu.  Người hiểu được sự đau khổ của chúng ta và sẵn sàng nâng đỡ chúng ta.  Từ đó, chúng ta hãy trở lại câu chuyện mở đầu nói về Cha Brandsma.  Khi gặp đau đớn dưới bất cứ hình thức nào, không có gì tốt hơn là chúng ta hãy lập lại những lời mà Cha Brandsma đã cầu nguyện với Chúa Giêsu: “Sẽ không có đau đớn nào làm con gục ngã, bởi con luôn nhìn thấy đôi mắt đầy khổ đau của Chúa.  Con đường cô độc mà Chúa từng đi qua đã giúp con chịu đựng nỗi cay đắng một cách khôn ngoan . Tình yêu của Chúa đã biến màn đêm tăm tối trong con thành nguồn sáng rực rỡ.  Lạy Chúa Giêsu, xin ở lại với con, chỉ cần ở lại thôi.  Con sẽ chẳng còn sợ hãi chi nếu khi đưa đôi tay ra con cảm thấy Chúa đang ở bên con.”

 Lm. Mark Link, S.J.

From: Langthangchieutim 


 

Đến một độ tuổi nhất định, ta mới hiểu rằng…

Huỳnh Thu Thủy

Đến một độ tuổi nhất định, ta mới hiểu rằng…

Sự giàu có lớn nhất không phải là tiền bạc, mà là sức khỏe và thời gian. Kiếm được bao nhiêu cũng vô nghĩa, nếu đến cuối cùng phải dùng nó để mua lại từng hơi thở.

Tình cảm chân thành không nằm ở số người vây quanh, mà ở ai còn ở lại khi ta chẳng còn gì. Bạn bè có thể đông, nhưng tri kỷ chỉ đếm trên đầu ngón tay.

Quần áo hàng hiệu, xe sang cũng chỉ là vỏ bọc bên ngoài, còn bên trong tâm hồn, nếu không an nhiên, thì vẫn chỉ là kẻ lạc lối trong phù hoa.

Những gì ta theo đuổi cả đời đôi khi không đáng giá bằng một giấc ngủ ngon, một bữa cơm ấm áp bên người thân.

Cuộc sống này không cần phải hơn thua với ai, chỉ cần mỗi ngày trôi qua đều nhẹ nhàng, an yên. Vì đến cuối cùng, thứ đáng giá nhất không phải là ta có gì, mà là ta đã sống ra sao.

1 chú chó chờ đợi gia đình mình tại cây xăng cũ suốt 4 năm..

1 chú chó chờ đợi gia đình mình tại cây xăng cũ suốt 4 năm – và một buổi sáng nọ – phép màu xảy ra ….

Giữa một cây xăng cũ kỹ, phủ đầy bụi thời gian trên tuyến quốc lộ vắng bóng người, có một chú chó đã nằm chờ suốt bốn năm trời. Ngày nắng cháy da, nó nằm co mình dưới bóng cây bơm xăng số ba. Ngày mưa tầm tã, nó vẫn lặng lẽ chờ… Một người. Một gia đình. Một ký ức mà không ai xung quanh còn nhớ rõ – ngoại trừ nó.

Không ai biết vì sao nó ở đó. Không ai hiểu vì sao nó chẳng chịu rời đi. Nhưng rồi, vào một buổi sáng rất bình thường… điều kỳ diệu đã xảy ra.

Trên một đoạn quốc lộ ít người qua lại, nằm giữa hai thị trấn nhỏ miền Trung, có một cây xăng cũ, gỉ sét và đã bị bỏ hoang suốt nhiều năm. Bên dưới mái che đã mục nát, giữa cái nắng cháy da và mưa gió tơi bời, người ta thường thấy một chú chó màu vàng nhạt nằm cuộn mình bên trạm bơm xăng số ba.

Không ai biết tên nó là gì. Dân trong vùng gọi nó là Mực, vì bộ lông có mảng đen loang lổ như mực tàu. Mực không hung dữ, nhưng cũng chẳng thân thiện. Nó không sủa, không đuổi theo  xe, không chạy tới khi ai gọi. Nó chỉ lặng lẽ… chờ đợi.

Người dân quanh đó đồn rằng bốn năm trước, có một gia đình dừng lại cây xăng này. Họ đi xe hơi – loại xe gia đình màu bạc. Trong xe có đôi vợ chồng trẻ và một đứa bé trai tầm 5 tuổi. Mực khi ấy là chú chó vui vẻ, nhanh nhẹn, thường chạy quanh xe trong lúc người cha đổ xăng. Nhưng rồi, vì một lý do nào đó – có thể là tai nạn, hoặc một sự hiểu nhầm – họ rời đi… và để quên Mực lại.

Từ hôm ấy, Mực không đi đâu nữa. Nó ở lại, mỗi ngày nhìn về hướng quốc lộ. Mưa cũng như nắng. Người ta đem cho nó ít cơm nguội, có người mang nước sạch. Nhưng Mực chẳng bao giờ đi theo ai, chẳng chịu rời khỏi mảnh đất hoang tàn ấy.

Bốn năm là quãng thời gian dài. Trên người Mực, những vết thương cũ và mới giao thoa. Có lần nó bị xe tông, một chân sau đi cà nhắc. Có lần bị đàn chó hoang rượt đuổi. Nhưng điều kỳ lạ là Mực vẫn sống sót, như có điều gì đó níu giữ sinh mệnh của nó nơi đây.

Thỉnh thoảng, mỗi khi thấy một chiếc xe màu bạc chạy qua, nó nhỏm dậy, hai tai vểnh lên, mắt sáng rực – nhưng rồi ánh sáng ấy tắt lịm khi xe đi khuất.

Người dân quanh đó ai cũng xót. Có người từng cố bế nó đi, mang về nuôi. Nhưng Mực giãy giụa đến mức bị thương, rồi lại quay về cây xăng cũ ấy, bằng mọi giá.

Một ngày mùa đông, khi sương mù giăng kín con đường, một người phụ nữ mặc áo khoác dài, tóc buộc gọn sau lưng, dừng lại trước cây xăng. Cô tên là Hà, đến từ thành phố. Hà là một phóng viên tự do, nghe câu chuyện về “chú chó chờ chủ suốt bốn năm” qua mạng xã hội và quyết định đi điều tra.

Ban đầu, Mực lẩn tránh cô. Nhưng Hà có kiên nhẫn. Cô đến mỗi sáng, ngồi cách xa, mang đồ ăn đặt trước mặt Mực, rồi im lặng. Sau một tuần, Mực bắt đầu cho cô đến gần. Sau hai tuần, nó để cô chạm nhẹ lên đầu mình.

Hà bắt đầu ghi chép. Cô phỏng vấn người dân, truy vết những gì từng xảy ra. Cô tìm được người chủ trạm xăng cũ, ông lão gần 70, kể lại rằng:

“Cái hôm đó, thằng bé cứ khóc mãi vì quên con chó. Nhưng tụi nó đang gấp, hình như chở ai đi cấp cứu. Tôi cũng không biết sau đó ra sao. Mà rồi chỗ này đóng cửa, tôi về quê, mãi gần đây mới nghe lại câu chuyện.”

Hà không dừng lại ở đó. Cô xin được đoạn camera cũ từ cửa hàng cách đó 3 km – nơi chiếc  xe ấy từng dừng lại sau cây xăng. Hình ảnh mờ, nhưng cô phóng to được biển số. Với sự giúp đỡ của vài mối quan hệ, Hà lần ra danh tính chủ xe – một người đàn ông tên Trịnh Văn An, từng sống tại Huế, nay đã chuyển vào Sài Gòn.

Hà tìm đến Sài Gòn. Cô đến địa chỉ trong hồ sơ, gõ cửa một căn nhà nhỏ trong hẻm. Mở cửa là một cậu bé chừng 9 tuổi. Mắt cậu mở to khi Hà nhắc đến “cây xăng” và “chó tên Mực”.

Mẹ cậu – chị Trang – từ sau bước ra. Khi Hà đưa ra bức ảnh Mực đang nằm trước cây xăng, chị Trang bưng miệng bật khóc.

“Chồng tôi mất trong tai nạn hôm đó. Chúng tôi đang đưa anh đi cấp cứu từ Đà Nẵng về. Mọi thứ hỗn loạn, xe vội vã… Tôi không biết… tôi không biết là nó rơi khỏi xe…”

Cậu bé – tên là Nam – run run đưa tay cầm ảnh.

“Mẹ, đó là Mực. Mực chờ tụi mình thật sao? Bốn năm ạ?”

Một tuần sau, vào một buổi sáng bình thường như mọi ngày, Mực vẫn nằm đó. Trời se lạnh. Gió thổi qua mái che kêu lạch cạch.

Bỗng… từ xa, tiếng động cơ quen thuộc. Một chiếc xe bảy chỗ màu bạc dừng lại.

Cánh cửa mở ra. Một đứa bé trai bước xuống, trên tay cầm quả bóng nhỏ màu đỏ – món đồ chơi năm xưa Mực rất thích.

“Mựcccc!!!” – cậu bé gọi lớn.

Mực giật mình. Đầu nó quay phắt lại. Ánh mắt nó dại đi, rồi mở to. Một tiếng rên khẽ phát ra từ cổ họng khàn khàn.

“Mựccc, là con Nam đây!”

Chú chó bật dậy, cà nhắc chạy về phía cậu bé. Không còn hoài nghi, không còn sợ hãi – chỉ có mừng rỡ, vỡ òa. Mực nhảy vào lòng Nam, liếm tay, vẫy đuôi đến mức mất thăng bằng.

Người phụ nữ bước xuống, đôi mắt đỏ hoe. Cô ngồi thụp xuống ôm cả hai – con trai và chú chó – vào lòng.

Bầu trời sáng lên, dù vẫn mây mù. Người dân quanh đó chạy tới, chứng kiến khoảnh khắc kỳ diệu ấy – một phép màu giữa đời thực.

Hà đứng lặng, ghi lại khoảnh khắc ấy bằng chiếc máy ảnh cũ. Câu chuyện của Mực trở thành tiêu đề chính trên nhiều trang báo lớn trong nước. Một chú chó trung thành, chờ đợi giữa hoang tàn, cuối cùng cũng được đoàn tụ.

Mực giờ đã có ngôi nhà mới – ở Sài Gòn, với Nam và mẹ. Dù tuổi đã cao, sức khỏe yếu dần, nhưng trong ánh mắt Mực không còn buồn nữa.

Mỗi buổi chiều, Nam thường ôm Mực ra hiên nhà, kể chuyện ở trường. Còn Mực, chỉ cần thế – là đủ để sống thêm một đời.

Cuộc đời có thể tàn nhẫn, thời gian có thể lạnh lùng. Nhưng lòng trung thành – như của Mực – chính là thứ cảm động và đẹp đẽ nhất. Và đôi khi, chỉ cần một chút hy vọng, một chút tình thương – phép màu sẽ xảy ra.


 

TUỔI GIÀ, KHI THIẾU MỘT NGƯỜI BẠN ĐỜI

Công Tú NguyễnChuyện tuổi Xế Chiều

Trong cuộc sống, nhất là khi về già, một trong những điều quan trọng nhất, đó là có cho mình một người bạn đời. Nếu người ta không may, vì mộ lý do nào đó, ví dụ như ly hôn, hay một trong hai người kia ra đi quá sớm, mà phải sống cuộc đời còn lại một mình đơn lẻ, thì quả là một điều bất hạnh.

Bởi vì, người bạn đời là một trong những yếu tố quan trọng, để quyết định cho bạn có một cuộc sống trong quãng thời gian còn lại, hạnh phúc và viên mãn kể cả khi bạn nghèo, thậm chí nó còn giúp cho bạn kéo dài thêm tuổi thọ.

Thật vậy, các bạn thử nghĩ xem, khi con người ta bắt đầu bước sang cái tuổi xế chiều, với những năm tháng của cuộc đời, mà phải sống trong cô đơn và im lặng, thì sẽ buồn như thế nào.

Đến bữa ngồi ăn một mình, và tối đến đi ngủ cũng một mình, đêm đêm khi tỉnh giấc, nhìn sang bên cạnh cũng chẳng có ai, sáng sáng tỉnh dậy, cũng vẫn chỉ một mình…thì đó là một điều đáng sợ và buồn tủi.

Cuộc đời này, người sống bên bạn lâu nhất, không phải là bố mẹ và con cái, cũng không phải anh em hay bạn bè, càng không phải là đồng nghiệp hay người yêu, mà chính là người bạn đời. Đấy mới thực sự là người duy nhất chung sống bên bạn suốt đời.

Bạn bè, dù có chân thành đến mấy, cũng không thể ở bên bạn mãi mãi. Bố mẹ, dù có tốt đến mấy, cũng không thể sống với bạn cả đời. Con cái, có thân thương là vậy, cũng không thể sống mãi bên cạnh bạn, rồi cũng có lúc chúng vỗ cánh bay đi, để có một cuộc sống riêng.

Anh em, dù có là máu mủ ruột thịt thân tình, cũng không thể ở bên bạn mỗi ngày, cũng không thể chăm sóc bạn những khi “Tối lửa tắt đèn”. Chỉ có vợ chồng, người mà ta vẫn thường gọi là bạn đời, mới có thể chung sống và bên bạn lúc sớm chiều.

Trong cuộc sống hằng ngày, mỗi khi nhìn thấy những cụ ông, cụ bà với mái tóc bạc phơ, dắt tay nhau từng bước đi bộ trên đường, tôi rất ngưỡng mộ.

Lúc đó, tôi mới hiểu được rằng, con người ta có được những khoảnh khắc hạnh phúc như vậy, họ đã phải cùng nhau trải qua không biết bao nhiêu những sóng gió gian truân của cuộc đời, để rồi, họ vẫn còn ở bên nhau, tay nắm tay, và cùng nhau đi nốt quãng đời còn lại, cho đến hết cuộc đời của mình.

Đừng vì một điều gì trong cuộc sống, mà đánh mất đi người vợ hay người chồng của mình, người mà hằng ngày vẫn hết mực yêu thương mình nhất. Vì suy cho cùng, họ mới chính là người sẽ ở lại bên bạn, và sống với bạn trong cuộc đời này.

Chính vì thế, hãy thật trân trọng người bạn đời của mình, và trân trọng những gì mình đang có khi còn có thể !!!

Sưu tầm


 

 Hoa Kỳ Đe Dọa Đánh Thuế 245% Lên Hàng Trung Quốc: “Quả Bóng Ở Sân Bắc Kinh”

Ba’o Dat Viet

April 16, 2025

WASHINGTON – Cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung lại nóng rực sau khi Tòa Bạch Ốc đêm 15 Tháng Tư công bố một sắc lệnh hành pháp mới từ Tổng Thống Donald Trump, trong đó cảnh báo mức thuế lên tới 245% sẽ được áp dụng với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, như một động thái đáp trả chính sách trả đũa gần đây từ Bắc Kinh.

Sắc lệnh này không chỉ khởi động cuộc điều tra an ninh quốc gia về các nguồn tài nguyên quan trọng, mà còn làm rõ lý do vì sao Trung Quốc là quốc gia duy nhất bị loại khỏi danh sách tạm hoãn áp thuế trong khi hơn 75 quốc gia khác đang tích cực đàm phán thương mại với Mỹ.

Theo Tòa Bạch Ốc, Bắc Kinh đã trả đũa bằng cách tăng thuế lên hàng hóa Mỹ đến 125%, nhằm đáp lại mức thuế 145% mà Mỹ áp đặt trước đó. Không những thế, Trung Quốc còn đình chỉ xuất khẩu một loạt tài nguyên chiến lược, bao gồm gali, germani, antimon – những nguyên liệu có vai trò sống còn trong các ngành công nghệ cao và quân sự.

Trong tuần qua, Trung Quốc tiếp tục gây sức ép bằng cách ngưng xuất khẩu kim loại đất hiếm nặng và nam châm đất hiếm, khiến các ngành công nghiệp then chốt của Mỹ như sản xuất ô tô, hàng không vũ trụ, chip bán dẫn và quốc phòng đứng trước nguy cơ thiếu hụt nguồn cung nghiêm trọng.

“Trung Quốc hiện phải đối mặt với mức thuế lên tới 245%, điều chưa từng có tiền lệ trong lịch sử thương mại giữa hai nước,” tuyên bố từ Tòa Bạch Ốc cho biết. Dù vậy, chi tiết cụ thể về loại hàng hóa bị áp mức thuế này vẫn chưa được công bố.

Trong khi các nước khác phản ứng với chiến lược thương mại “Nước Mỹ trên hết” bằng cách tìm kiếm các thỏa thuận song phương với Washington, thì Bắc Kinh lại chọn cách im lặng trước lời đề nghị đàm phán từ phía Mỹ và tiếp tục gia tăng sức ép.

Về phía Trung Quốc, chính quyền Bắc Kinh lên tiếng kêu gọi Mỹ “ngừng gây áp lực” nếu thực sự muốn đối thoại, đồng thời tuyên bố sẵn sàng đương đầu với bất kỳ cuộc chiến thương mại nào. “Chúng tôi không sợ,” tuyên bố từ Bộ Thương Mại Trung Quốc khẳng định.

Tuy nhiên, phía Mỹ lại cho rằng mọi quyết định giờ đây phụ thuộc vào Trung Quốc. Thư ký báo chí Tòa Bạch Ốc Karoline Leavitt tuyên bố:

“Quả bóng đang ở trong sân Trung Quốc. Họ phải đi bước trước nếu muốn có thỏa thuận. Chúng ta không cần họ, họ cần chúng ta.”

Với tuyên bố cứng rắn này, căng thẳng giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới tiếp tục leo thang, đặt ra những hệ lụy tiềm ẩn đối với chuỗi cung ứng toàn cầu, thị trường tài chính, và các ngành công nghiệp chiến lược từ Mỹ đến châu Á. Câu hỏi lúc này là: Liệu Bắc Kinh sẽ lùi bước, hay sẵn sàng lao vào cuộc đối đầu thuế quan tốn kém không có hồi kết?


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Một tỉ người Tầu

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến 

Ba’o Dan Chim Viet

15/04/2025

Gần hai năm trước, tôi có một bài báo ngắn được phổ biến trên trang Đàn Chim Việt. Mãi đến cuối tháng rồi, vẫn còn có đôi vị “độc giả” gửi lời bình luận. Xin đơn cử một: “Ông Nội – says (20/09/2014 at 15:12): Nơi đây – Có được mấy con vện vàng 3 khoang, sủa theo bồi bút Tàu gian họ Tưởng này?”

Đây là lần gần nhất, chứ không phải là duy nhất – kể từ khi ông Hồ Quang Lợi, Trưởng Ban Tuyên Giáo Thành Ủy Hà Nội, tổ chức nhóm chuyên gia đấu tranh tham gia bút chiến trên internet – tôi bị qúi vị “chuyên gia đấu tranh” buộc tội là… “Tàu gian!”

Sự cáo buộc này, nói nào ngay, không hoàn toàn vô cớ vì tôi nói được tiếng Hoa. Chỉ tiếc là vốn liếng Hoa Ngữ của tôi vô cùng giới hạn, vỏn vẹn chỉ có mỗi một câu thôi: “Bỉ ngộ dách mánh mìn báo.”

Đó cũng là câu ngoại ngữ đầu đời tôi học được từ một phụ nữ Trung Hoa. Có hôm, bà rụt rè đến xin mẹ tôi cho được để nhờ trước cửa nhà một cái thúng bán bánh mì vào buổi sáng.

Bên trong cái thúng này là một lò than be bé, với xoong xí mại đặt bên trên, cùng với vài chục ổ bánh mì nho nhỏ. Bánh mì xí mại giá hai đồng. Một đồng chỉ có bánh mì không rưới thêm nước thịt, kèm mấy cọng dưa chua làm bằng củ cải trắng và cà rốt đỏ au.

Bà cụ không rách rưới nhưng trông rất lôi thôi và tàn tạ: bộ quần áo xẩm lùi xùi, cái nón cói cong vành (hẳn là phải mang từ cố quốc) bao quanh một khuôn mặt già nua, buồn bã và cam chịu.

Dù mỗi sáng tôi chỉ mua một đồng bánh mì thôi (dách mánh mìn báo) nhưng luôn luôn được bà ưu ái cho (thêm) một viên xí mại, kèm theo một nụ cười hiền… miễn phí.

Thế là mỗi sáng tôi có dư ra được một đồng. Đồng bạc còn lại, tôi mang “nộp” ngay cho bà cai trường – người có một mẹt hàng khiến cho tất cả những đứa trẻ con (con nhà nghèo) như tôi đều phải thèm thuồng: me ngào, cóc và xoài xanh ngâm nước đường, mức dừa, kẹo cau, đậu phụng, bánh qui, quả mác mác, quả sim hay say chín…

Tôi suýt chết cái tên là “Tiến bánh mì xí mại” thì bà cụ đột ngột qua đời. Từ đó, thỉnh thoảng, trong xóm vẫn còn có tiếng rao (“loong sữa pò, de chai, pao pán hông”) của cụ ông nhưng nghe yếu hẳn ớt và buồn bã hơn nhiều.

Hình ảnh những người khách trú trong trí tưởng ấu thời (xa xôi) của tôi, xem ra, hoàn toàn khác xa với của qúi vị “thương lái” Trung Quốc ngày nay – ở Việt Nam:

Từ việc mua đuôi trâu, móng trâu, rễ hồi, ốc bươu vàng tới việc sẵn sàng thu mua phế liệu, đỉa, cá cơm với giá cực cao – những hành động tưởng như vô thưởng vô phạt nhưng lại ẩn chứa những dụng ý sâu xa của lái thương Trung Quốc…

Thâm độc hơn, chúng mở chiến dịch thu mua dây đồng vụn với giá cao “trên trời”, đẩy từng đoàn “đồng tặc” lùng sục chặt trộm dây đồng từ các đường điện cao thế, băm nát mạng lưới điện quốc gia. Sau đó là thu mua cáp quang phế liệu với mức giá trên trời.

Đến khi dân nghèo lặn xuống biển chặt phá mạng cáp quang viễn thông, thì dân chúng mới “ngã ngửa” ra mục đích sâu xa của chúng là phá hoại con đường huyết mạch thông tin của Việt Nam…

Tôi chưa bao giờ có dịp gặp gỡ những vị “thương lái TQ” có ý đồ “thâm độc” và “phá hoại” như thế nhưng lại có dịp tiếp xúc (qua sách vở) với nhiều người Tầu khác: Lão Tử, Khổng Tử, Lý Bạch, Thôi Hiệu, Mạnh Hạo Nhiên, Kim Thánh Thán, Lỗ Tấn, Ba Kim, Kim Dung, Lâm Ngữ Đường, Mặc Ngôn, Trương Hiền Lượng, Lưu Hiểu Ba, Dương Kế Thằng…

Tam Giáo (Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo) ở Việt Nam có đồng quy hay không là điều mà tôi hoàn toàn không “bảo đảm,” và cũng không dám lạm bàn nhưng tôi biết chắc chắn là cá nhân mình – đôi lúc – có hơi bị quân tử Tầu (chút xíu) là do ảnh hưởng của Khổng Phu Tử và… Kim Dung!

Cũng không ít lúc tôi trở nên… “thoát tục” (và văng tục: “Đ…má, tao đéo care cái con cặc gì ráo trọi”). Thái độ sống “vô vi” này, không chừng, tôi bị lây từ Lão Trang. Chắc là hai thằng chả chớ còn ai vô đây nữa?

Bởi vậy, thỉnh thoảng, quí vị dư luận viên vẫn gọi tôi là “Tầu Tưởng” (tưởng) cũng không trật chi nhiều – dù tôi chưa đến Trung Hoa bao giờ và vẫn ao ước có dịp được sống ở đất nước này (vài ngày) cho biết.

May mắn sao, tháng rồi, tôi vớ được cuốn Đèn Cù của ông Trần Đĩnh. Tác giả có cơ hội đi “du học” ở tuốt bên Tầu, nhiều năm, và chuyện ông kể về dân tộc này cứ khiến tôi cứ suy nghĩ mãi:

Bữa ấy tôi đang đọc báo chữ to gần Da Xan Ting – Đại thiện đình (Nhà ăn lớn). Một sinh viên Trung Quốc đến bên tôi. Trắng, đẹp, kính trắng, mắt hiền.

– Xin lỗi, anh là lưu học sinh Việt Nam?

– Vâng, còn anh ala Thượng Hải? (ala tiếng Thượng Hải là chúng ta, chúng tôi).

– Tôi là… (anh nói tên nhưng tôi không nhớ), muốn nói chuyện một ít với anh, có được không?

Anh nhờ tôi chuyển cho sứ quán Việt Nam một thư đề nghị Bắc Việt Nam hãy tôn trọng hiệp định Genève, đình chỉ đưa quân và vũ khí vào trong Nam cũng như rút lực lượng đã phi pháp cài lại từ 1954.

– Làm gì có chuyện ấy nhỉ?

Hoàn toàn bị xúc phạm, tôi vừa ngớ ra ngạc nhiên vừa khó chịu. Anh đốt đảng anh thôi chứ lại định đốt cả đảng tôi nữa ư?

– Có, đài nước ngoài thường xuyên lên án, tố cáo Bắc Việt Nam.

– Sao anh tin những thứ ấy?

– Đọc các đại tự báo đây anh có tin không?

Tôi quay đi và nói:

– Tôi không chuyển thư anh được vì bận và vì ý kiến của anh thiếu cơ sở.

Nhưng từ hôm ấy, tôi bỗng cứ lởn vởn nghĩ ta có vi phạm hiệp định Genève thật không? Chả lẽ ta chính nghĩa lại bội ước? Chả lẽ bản chất ta hòa bình lại thích chiến tranh?

Lúc ấy thật tình tôi không biết đảng có phương án kế hoạch cài cán bộ và quân lính ở lại miền Nam cũng như tiến hành nghiên cứu ngay từ đầu hình thế bờ biển để sau này lập “đội thuyền không số” có cơ sở ở huyện Thuỷ Nguyên. v.v…

Tuần sau tình cờ tôi gặp anh “Thượng Hải” ở gần Đại lễ đường. Anh đi với một cô gái trăm phần trăm Shang hai gu niang, Thượng Hải cô nương. Cô gái nhìn tôi như có ý hỏi anh bạn đi bên: “Cha từ chối đưa thư đấy phải không?”

Không nghe thấy nhưng tôi cáu – đinh ninh cô gái nói nei jia huo, thằng cha kia. Cùng lúc thấy cô gái rất đẹp. Picasso có lẽ lấy mẫu kiểu tóc đuôi ngựa ở cô gái thanh tú này.

Chẳng hiểu sao tôi rẽ ngoắt luôn. Tức. Không, có cả ghen vớ ghen vẩn.

Khi chống phái hữu, nhiều giáo sư, sinh viên bị đưa đi, tôi có ý tìm anh “Thượng Hải”. Không thấy nữa. Nghĩ cô gái Thượng Hải nếu không xuống nông thôn lao động cải tạo – để bị người ta cưỡng hiếp, chửa hoang và treo cổ chết – thì chắc phải bỏ học và bỏ cái đuôi ngựa “văn hoá đồi truỵ phương Tây”, tôi bỗng bồn chồn cùng ân hận lạ lùng.

Tôi chưa hiểu với tôi những ông thày sống động đầu tiên chỉ ra con đường và cách thức đấu tranh cho dân chủ chính là làn sóng “phái hữu” trong đó có anh sinh viên cùng cô bạn gái xinh đẹp của anh. Sau này trong gian nan phải chịu đựng tôi mới nhận ra hình ảnh của họ càng đậm nét trong tôi.

Nhưng tại sao anh sinh viên đeo kính trắng lại chọn tôi để nhờ chuyển thư phản đối ta “phạm pháp” đưa súng ống, binh lính vào Nam? Anh đọc thấy gì ở trên mặt tôi. Một hừng sáng nào đó ư? Một kiểu Nàng Kiều với Đạm Tiên ngày Thanh Minh.

Tôi còn một bạn học, người Nam Kinh. Lúc “phái hữu” lên tiếng, anh từng bảo tôi:

– Chắc cậu cũng biết truyện “cô gái quàng khăn đỏ?” Chúng ta đấy. Cũng quàng khăn đỏ cả mà. Hỏi bà ơi, tại sao tai bà to thế? Bà nói: Để bà nghe thấu bọn phản động chúng nó thì thào. Thế sao mắt bà sáng thế? À, sáng mới thấy được chỗ chúng nó ẩn nấp. Còn răng? Sao răng bà to thế? Răng bà to để ăn thịt những đứa khỏe thắc mắc về bà… như cháu. Ăn luôn.

Tôi hỏi anh:

– Người Trung Quốc nghĩ như cậu có nhiều không?

– Zen ma shuo ya? Nói sao nhỉ? Một nửa đi. Nhưng nửa kia có loa ở mồm và có súng trên tay.  (Trần Đĩnh. Đèn Cù, Westminster, CA: Người Việt, 2014).

Đó là “một nửa nước Trung Hoa” khi mới rơi vào tay đám cộng sản Tầu. Cho tới khi xẩy ra biến cố Thiên An Môn thì tôi tin rằng không phải là một nửa mà có đến ba phần tư dân số nước này đã trở nên “phản động.”

Đến sáng nay, 30 tháng 9 năm 2014, South China Morning Post đi tin:

“Hàng chục ngàn người đang chiếm lĩnh đường phố, đòi hỏi Bắc Kinh phải cải cách dân chủ.” Bây giờ thì tôi tin rằng bốn phần năm người Tầu cũng đang muốn thoát Trung (cộng) y như tuyệt đại đa số dân Việt hiện nay.

Hồng Kông 2014. Ảnh: Dickson Lee. Nguồn: South China Morning Post

Nói cách khác là dân Việt có một tỉ người Tầu đồng cảnh nhưng dường như không mấy ai để ý đến điều này – trừ nhà báo Lê Phú Khải. Ông nói chắc (như bắp) thế này đây: “Bắc Kinh sợ nhất cái gì?…Sợ nhất Việt Nam dân chủ. Vì, Bắc Kinh giống hệt Hà Nội: Đang ngồi trên kho thuốc nổ.”

Chế độ đảng trị độc tài ở Trung Quốc đã tạo ra những mâu thuẫn đối kháng trong lòng nó và không có cách nào hóa giải được…

Một Việt Nam cải cách chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền lúc này là tiếng sét ngang tai đối với độc tài đảng trị ở TQ. Việt Nam dân chủ là tiếng gọi mênh mông được vẫy chào từ hàng triệu trái tim TQ bị đè nén bởi bạo quyền bấy lâu nay.

Chữ “triệu” trong đoạn văn thượng dẫn được cho in đậm vì tôi tin rằng ông Lê Phú Khải viết lộn nên xin phép được viết lại: “Việt Nam dân chủ là tiếng gọi mênh mông được vẫy chào từ hàng tỉ trái tim TQ bị đè nén bởi bạo quyền bấy lâu nay.”

Chúng ta nên ứng xử khôn ngoan hơn với một tỉ đồng minh (cùng khổ) đang sống kề bên


 

MỘT LẦN TẶNG, MUÔN LẦN TRAO – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Này là mình Thầy!”.

“Người khôn ngoan không coi trọng món quà của người yêu cho bằng tâm tình của người tặng. Chúa Giêsu vừa là người yêu, vừa là người tặng! Độc đáo hơn, món quà Ngài tặng chính là mình Ngài. Không chỉ một lần, Ngài tặng trao mỗi ngày! Một lần tặng, muôn lần trao!” – Anon.

Kính thưa Anh Chị em,

Ý nghĩa Thánh Lễ chiều Thứ Năm Tuần Thánh có thể được tóm gọn trong hai từ: “Tự Hiến!”. Vì yêu thương đến cùng các môn đệ và những ai sẽ dõi bước theo Ngài, Chúa Giêsu đã tự hiến đến ‘ba lần’ vào hai buổi chiều cuối đời; nhưng không chỉ ‘ba’, Ngài tự hiến đến ‘n’ lần, muôn lần! Bởi lẽ, mỗi ngày, trên các bàn thờ, Ngài tiếp tục tự hiến cho đến tận thế. Ngài quả là một món quà ‘một lần tặng, muôn lần trao!’.

Chính trong bữa tiệc yêu thương mà người Do Thái phải cử hành hằng năm – bài đọc một – Chúa Giêsu tự hiến khi cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Cũng trong bữa tối đó, Ngài tự hiến dưới hình thức của ăn của uống khi cầm lấy bánh rượu thiết lập Bí tích Thánh Thể – thiết lập chức Linh mục – “Hãy lãnh nhận mà ăn, này là Mình Thầy!”, “Hãy nhận lấy mà uống, này là Máu Thầy!”. Trong thư Côrintô hôm nay, Phaolô viết, “Mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết!”.

Như vậy, khi cúi xuống rửa chân các môn đệ hay khi cầm bánh rượu là chính Thịt Máu Ngài để trao cho họ, Chúa Giêsu đã tiên liệu một món quà ít trừu tượng hơn, thiết thực hơn mà Ngài sẽ trao vào ngày hôm sau: một thân xác rách bươm đỏ một màu máu trên thập giá. Vì thế, chỉ trong hai ngày Tuần Thánh đầu tiên ấy, Ngài đã tự hiến chính mình đến ba lần. Và còn hơn thế! “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy!”; với các Linh mục của Ngài, mầu nhiệm đức tin đó còn được cử hành liên lỉ trên các bàn thờ. Qua Bí tích này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tự hiến phục vụ lẫn nhau. Khi chúng ta phục vụ nhau, Ngài tiếp tục phục vụ mỗi người; và qua chúng ta, Ngài phục vụ những người khác trên toàn thế giới, nhất là những ai đang thiếu thốn. Bởi đó, Món Quà Giêsu không chỉ được trao một lần, ba lần, nhưng liên lỉ trao đến tận thế!

Anh Chị em,

“Này là mình Thầy!”. “Chúa Giêsu muốn ở lại với chúng ta trong Bí tích Thánh Thể và chúng ta trở thành nhà tạm của Chúa, mang Chúa theo với chúng ta. Rửa chân, cử chỉ này là điều kiện để vào Vương Quốc. Vâng, để phục vụ mọi người. Nếu tôi không để Chúa là ‘tôi tớ’ của tôi, không để Chúa rửa sạch tôi, giúp tôi lớn lên, tha thứ cho tôi, thì tôi sẽ không vào Vương Quốc. Và cả chức Linh mục nữa. Hôm nay tôi muốn gần gũi với tất cả Linh mục từ những người mới được thụ phong cho đến Giáo hoàng. Tất cả chúng ta đều là Linh mục. Chúng ta được Chúa xức dầu để cử hành Bí tích Thánh Thể, được xức dầu để phục vụ” – Phanxicô. Thánh Thể nuôi dưỡng phục vụ; phục vụ, hiện thực hoá Thánh Thể. Hãy để Thứ Năm Tuần Thánh; hãy để Thánh Thể dạy chúng ta tự hiến như Ngài mỗi ngày, chết cho mình, khiêm nhường phục vụ tha nhân và yêu như Ngài đã yêu.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, nhờ việc tham dự vào thần tính của Đấng đã đoái thương thông phần nhân tính của chúng con, ước chi Thánh Thể Chúa biến đổi con mỗi ngày nên ‘một Giêsu khác!’”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

***********************

THỨ NĂM TUẦN THÁNH

Phúc Âm: Ga 13, 1-15

“Ngài yêu thương họ đến cùng”.

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gio-an.

Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng. Sau bữa ăn tối, ma quỷ gieo vào lòng Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, con Si-môn, ý định nộp Người. Người biết rằng Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay mình, và vì Người bởi Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về cùng Thiên Chúa. Người chỗi dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu; Người liền rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Vậy Người đến chỗ Si-môn Phê-rô, ông này thưa Người rằng: “Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư?” Chúa Giê-su đáp: “Việc Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu”. Phê-rô thưa lại: “Không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con”. Chúa Giê-su bảo: “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy”. Phê-rô liền thưa: “Vậy xin Thầy hãy rửa không những chân con, mà cả tay và đầu nữa”. Chúa Giê-su nói: “Kẻ mới tắm rồi chỉ cần rửa chân, vì cả mình đã sạch. Tuy các con đã sạch, nhưng không phải hết thảy đâu”. Vì Người biết ai sẽ nộp Người nên mới nói: “Không phải tất cả các con đều sạch đâu”.

Sau khi đã rửa chân cho các ông, Người mặc áo lại, và khi đã trở về chỗ cũ, Người nói: “Các con có hiểu biết việc Thầy vừa làm cho các con chăng? Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con”.

Ðó là lời Chúa.