CSVN Khởi Tố Ông Nguyễn Thanh Huy Theo Điều 331 Vì Đăng Tải Nội Dung Trên Facebook

Ba’o Dat Viet

December 22, 2024

Công an huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận, ngày 20/12 đã ra quyết định khởi tố bị can và cấm đi khỏi nơi cư trú đối với ông Nguyễn Thanh Huy, 58 tuổi, với cáo buộc “lợi dụng quyền tự do dân chủ” theo Điều 331 Bộ luật Hình sự.

Cáo Buộc Và Hành Vi Được Nêu

Theo báo Công an Nhân dân, ông Huy bị cáo buộc sử dụng hai tài khoản Facebook có tên “Huy Nguyenthanh (Ông dở)” và “Nguyen Nguyenhuy (Huy khờ)” để đăng tải, chia sẻ và bình luận các nội dung được cho là “sai sự thật, xuyên tạc, vu khống” và “xúc phạm uy tín của tổ chức Đảng, lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam, cũng như lãnh đạo Đảng và Nhà nước” từ năm 2022 đến nay.

Tuy nhiên, các bài báo thuộc truyền thông Nhà nước không công bố chi tiết nội dung cụ thể của các bài viết bị cho là vi phạm hoặc các cá nhân, tổ chức cụ thể bị xúc phạm. Các bài viết chỉ nói rằng ông Huy đã “thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội.” Hiện cơ quan công an đang tiếp tục củng cố hồ sơ để xử lý vụ án.

Hoạt Động Trên Mạng Xã Hội Của Ông Nguyễn Thanh Huy

Theo tìm hiểu từ các nguồn thông tin, tài khoản Facebook “Nguyen Nguyenhuy (Huy khờ)” có khoảng 1.200 người theo dõi, với nội dung thường xuyên đề cập đến nhiều chủ đề khác nhau. Một số bài viết phê phán các tổ chức, cá nhân như VinFast, các nhà sư Thích Nhật Từ, Thích Chân Quang, và một số nhân vật văn nghệ sĩ. Đồng thời, ông cũng có những bài viết ca ngợi khất sĩ Thích Minh Tuệ và chế độ Việt Nam Cộng Hòa.

Chủ tài khoản tự mô tả mình là “phó thường dân tại thất nghiệp” trong phần thông tin cá nhân. Các bài đăng trên cả hai tài khoản Facebook được cho là của ông Huy đều kết thúc vào đầu tháng 7/2024.

Điều 331 Và Xu Hướng Xử Lý Người Dùng Facebook

Điều 331 Bộ luật Hình sự Việt Nam, với nội dung quy định tội “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân,” đã trở thành một công cụ pháp lý thường được sử dụng để xử lý những người dùng mạng xã hội có ý kiến chỉ trích chính phủ.

Bên cạnh Điều 117 về “tuyên truyền chống Nhà nước,” Điều 331 thường được viện dẫn trong các vụ án liên quan đến việc sử dụng Facebook để đăng tải hoặc chia sẻ nội dung bị cho là trái với quan điểm của chính quyền. Theo thống kê từ Đài Á Châu Tự Do (RFA), tính từ đầu năm 2024 đến nay, ít nhất 18 người đã bị bắt với cáo buộc “lợi dụng quyền tự do dân chủ,” và ít nhất 12 người đã bị kết án với mức án từ 30 tháng đến 5 năm tù.

Bối Cảnh Và Tác Động

Việc khởi tố ông Nguyễn Thanh Huy diễn ra trong bối cảnh chính quyền Việt Nam ngày càng siết chặt việc quản lý không gian mạng, đặc biệt là các ý kiến trái chiều hoặc chỉ trích chính sách, lãnh đạo Nhà nước trên các nền tảng mạng xã hội như Facebook.

Trong nhiều năm qua, việc sử dụng Điều 331 để xử lý các vụ án tương tự đã dấy lên nhiều chỉ trích từ các tổ chức nhân quyền quốc tế. Các tổ chức này cho rằng Điều 331 mang tính chất mơ hồ, dễ bị lạm dụng để đàn áp tiếng nói bất đồng chính kiến và hạn chế quyền tự do biểu đạt, một quyền đã được ghi nhận trong Hiến pháp Việt Nam cũng như Công ước Quốc tế về Các Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR) mà Việt Nam là thành viên.

Dư luận trong và ngoài nước tiếp tục theo dõi diễn biến vụ việc và cách thức xử lý của chính quyền, trong bối cảnh các quy định về kiểm soát mạng xã hội tại Việt Nam ngày càng chặt chẽ hơn.


 

THÁNH GIUSE VÀ CÂU CHUYỆN GIÁNG SINH –  Rev. Ron Rolheiser, OMI

St Joseph Oratory Montreal Photograph by Pierre Leclerc Photography

Đền thờ thánh Giuse ở thành phố Montreal, Canada.

 

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Có vô số người, vương cung thánh đường, nhà thờ, đền thánh, chủng viện, tu viện, thị trấn và thành phố được đặt tên Thánh Giuse. 

Quê hương Canada của tôi nhận ngài làm đấng bảo trợ.

 

Vậy chính xác ông Giuse này là ai? 

Ngài là nhân vật lặng lẽ trong câu chuyện Giáng Sinh, với tư cách chồng của Đức Mẹ và nghĩa phụ của Chúa Giêsu, rồi sau đó, ngài không còn được nhắc đến lần nào nữa.  Hình ảnh của lòng mộ đạo bình dân có về ngài là hình ảnh của một người lớn tuổi, bảo vệ cho Đức Mẹ, người thợ mộc, khiết tịnh, thánh thiện, khiêm nhường, lặng lẽ, thánh bảo trợ hoàn hảo cho người lao động chân tay và những nhân đức thầm lặng, hiện thân của đức khiêm nhường.

Chúng ta thật sự biết được gì về ngài?

Trong phúc âm Thánh Matthêu, việc thụ thai Chúa Giêsu được báo cho Thánh Giuse thay vì cho Đức Maria.  Trước khi họ đến với nhau, Đức Maria đã có thai nhờ Chúa Thánh Thần.  Giuse, chồng bà là người ngay thẳng và không muốn làm cho bà phải hổ thẹn, nên đã quyết định âm thầm tuyệt hôn với bà, vừa lúc đó một thiên thần xuất hiện trong giấc mơ và bảo ngài đừng sợ cưới Đức Maria về làm vợ, rằng đứa bé trong bụng Đức Maria được thụ thai nhờ Thánh Thần.

At that time, the angel Gabriel was sent by God to by fernandadesa on ...

Đoạn này nói lên điều gì?

Hầu hết là những điều mang tính tượng trưng.  Thánh Giuse trong câu chuyện Giáng Sinh rõ ràng làm chúng ta liên tưởng đến Giuse trong Cựu Ước, cũng được báo mộng, cũng đi Ai Cập, cũng cứu gia đình.  Cũng như vậy, vua Hêrôđê rõ ràng là tái hiện vua Pharaô Ai Cập, cả hai đều cảm thấy bị đe dọa, đều giết con trai người Do Thái, nhưng Thiên Chúa đã bảo vệ mạng sống của họ, sẽ cứu họ.

The Church of Jesus Christ of Latter-day Saints

Nhưng sau tính biểu tượng đó, Thánh Giuse trong câu chuyện Giáng Sinh còn có câu chuyện riêng của ngài.  Ngài được cho là người “ngay thẳng,” theo các học giả, đây là cách gọi ngụ ý ngài tuân theo Lề luật của Thiên Chúa, tiêu chuẩn thánh thiện tối cao của người Do Thái.  Về mọi mặt, ngài không có gì đáng trách, ngài là gương mẫu của sự tốt lành, thể hiện qua việc ngài không muốn vạch trần để làm nhục Đức Maria, dù ngài quyết định sẽ âm thầm tuyệt hôn.

 

Về mặt lịch sử, chuyện gì đã xảy ra?

Theo những gì chúng ta có thể làm tái hiện, thì bối cảnh mối quan hệ giữa thánh Giuse và Đức Maria là như sau.  Phong tục hôn nhân thời đó là khi đến tuổi dậy thì, người phụ nữ trẻ sẽ được cha mẹ sắp xếp gả cho một người đàn ông, thường là lớn hơn vài tuổi.  Họ sẽ hứa hôn, về căn bản là thành vợ chồng, nhưng chưa sống với nhau và chưa có quan hệ tình dục trong vài năm.  Luật do thái đặc biệt nghiêm ngặt về chuyện hai người phải giữ khiết tịnh trong thời gian hứa hôn.  Trong thời gian này, người thiếu nữ sẽ tiếp tục sống với cha mẹ mình, còn người đàn ông sẽ đi dựng nhà và tìm một nghề nghiệp để có thể chu cấp cho vợ sau khi hai người sống chung.

Guardian Angel Gabriel Over Adoring Mary and Joseph Baby Jesus Figurine 15 In - Picture 1 of 4Thánh Giuse và Đức Maria đang ở giai đoạn này, là vợ chồng về pháp lý, nhưng chưa sống với nhau, thì Đức Maria có thai.  Thánh Giuse biết đứa con không phải của mình, như thế là có vấn đề.  Nếu ngài không phải là cha đứa trẻ, vậy ai là cha đứa bé?  Để giữ thanh danh của mình, ngài có thể yêu cầu điều tra công khai, và làm Đức Maria sẽ bị cáo buộc tội gian dâm, đồng nghĩa với cái chết.  Nhưng ngài quyết định “lặng lẽ tuyệt hôn,” nghĩa là tránh cuộc điều tra công khai có thể sẽ làm cho Đức Maria bị rơi vào tình cảnh khó xử và tình thế nguy hiểm.

Rồi sau khi được báo mộng, ngài đồng ý đưa Đức Maria về nhà mình làm vợ, đặt tên con như con của mình, như thế là nhận mình là cha đứa trẻ.  Khi làm như thế, ngài giúp Đức Maria không bị bẽ mặt, thậm chí còn cứu cả mạng sống cho Đức Maria, và ngài cho đứa trẻ sắp sinh ra có một vị thế được đón nhận về mặt tôn giáo, xã hội, vật chất, đồng thời nuôi dạy đứa trẻ.  Nhưng ngài còn làm một việc khác nữa, một việc không hữu hình bằng.  Ngài cho thấy người ta có thể là một tín hữu ngoan đạo, đầy đức tin vào mọi sự trong tôn giáo của mình, nhưng đồng thời lại mở lòng với một mầu nhiệm vượt quá tầm hiểu tôn giáo và nhân văn của mình.

Đây chính là vấn đề đối với nhiều tín hữu Kitô, kể cả Thánh Matthêu, vào thời điểm các Phúc âm được viết.  Họ là những người Do Thái tận tâm không biết làm sao để đưa Đức Kitô vào khung tôn giáo vốn có của mình.  Khi Thiên Chúa đi vào đời sống con người theo những cách mới mẻ thì không thể tưởng tượng nổi, con người phải làm gì?  Với một khái niệm bất khả thi, chúng ta phải làm thế nào?  Thánh Giuse là một gương mẫu.  Như thần học gia Raymond Brown nói: “Nhân vật chính trong câu chuyện sơ khai của thánh Matthêu là thánh Giuse, một người Do Thái tuân theo Lề luật nhưng nhạy bén.  Trong Thánh Giuse, thánh sử đã họa nên điều mà ngài nghĩ một người Do Thái (ngoan đạo thật sự) nên là, và có lẽ cũng là điều mà ngài đã sống như vậy.”

 


 

Về căn bản, Thánh Giuse dạy chúng ta cách sống trong lòng trung tín yêu thương với mọi sự

mà chúng ta bám vào về mặt nhân bản hay tôn giáo,

đồng thời chúng ta cũng mở lòng với mầu nhiệm của Thiên Chúa…

Và đây chẳng phải là thách thức thật sự của Giáng Sinh hay sao?

**********************************************************

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: Langthangchieutim

Thay trời hành đạo và xã hội mất niềm tin-Dương Quốc Chính

Ba’o Tieng Dan

Dương Quốc Chính

21-12-2024

Vấn đề xã hội nhức nhối ở vụ đốt quán [cafe] là ở Việt Nam bây giờ có không ít người không còn tin vào pháp luật, nên sẵn sàng thế thiên hành đạo. Gặp vấn đề, cảm thấy bị ức hiếp, bất công, là tự xử luôn. Ngày xưa thì Đoàn Văn Vươn, rồi tổ đồng thuận ở Đồng Tâm, trước khi có biến cố xảy ra họ đã live stream tuyên bố sẵn sàng cho nổ chỗ nọ, chỗ kia.

Chưa bàn bên nào đúng, bên nào sai, có bị ức hiếp, bất công hay không. Nhưng chỉ thấy rằng rất nhiều người không còn tin vào sự nghiêm minh của pháp luật.

Người giàu, có quyền thế, khi gặp vấn đề với pháp luật thì việc đầu tiên là nghĩ tới chạy chọt, chạy công an, thậm chí chạy án. Hồi xưa, khi anh Năm Cam còn trị vì trong Sài Gòn, “dân oan” có chuyện thì kêu tới anh Năm xử lý! Vì anh nuôi luôn cả công an rồi.

Nhiều người khác, biết chắc mình đúng luật, nhưng có chuyện phải báo công an, thì vẫn phải chạy tiền thêm, để công an làm đúng luật và nhanh hơn! Điển hình như chuyện công an mà tìm thấy xe bị mất cắp, đến nhận xe thì cũng phải cưa tiền. Thường 50/50. Coi như vẫn mất nửa chiếc.

Còn dân đen, không có tiền chạy, thì thôi xác định nhịn nhục cho qua, nếu gặp vấn đề với kẻ mạnh. Không thì chọn cách khủng bố như người vừa rồi. Như ông ta kể là bị đánh, ‘cay’ quá nên đốt nhà người ta.

Tất nhiên bị đánh mà báo thù bằng đốt nhà thì đương nhiên vẫn là sai và rất sai khi hậu quả nghiêm trọng. Nhưng cũng phải nhìn lại, tại sao người ta bị đánh lại không báo công an mà lại chọn cách đốt nhà rửa hận, y chang như trong Thủy Hử và rất hay gặp trong giới giang hồ. Đó là vì một bộ phận không nhỏ trong xã hội mất niềm tin vào pháp luật. Một phần do nhận thức pháp luật của người ta còn hạn chế.

Thành phần như ông nghi phạm kia thì giờ nhiều vô kể, quán nước đầu ngõ nào chả có dăm ông. Bản chất là thất nghiệp, trộm vặt, đa phần là nghiện, có thể kiêm xe ôm (nhưng giờ thất nghiệp vì Grab) và lô đề. Suốt ngày lê la quán nước, tiện đâu sơ hở thì trộm cắp mánh mung.

Một số ông “giác ngộ cách mạng” chút thì đi làm dân quân dẹp chợ, bảo vệ, trông xe, nhưng bản chất vẫn là giang hồ vặt. Thành phần này nói chung đều sẵn sàng có phản ứng như ông nghi phạm kia, không có gì lạ cả. Đều là hung thủ dự khuyết cả nếu gặp chuyện, anh em cứ thử va chạm với họ mà xem, nhẹ nhất là va chạm giao thông, mình gặp nhiều rồi, nếu mình cũng máu chó thì chắc cũng lên báo đôi lần. Có khi còn chưa va quệt đã chửi đm biết bố mày là ai không? Nếu đối phương cũng cùng hệ là án mạng xảy ra rồi.

Cái video ông ta hớn hở chém gió khoe chiến tích đốt nhà với công an phường (?): “Anh đổ xăng từ ngoài vào, cậu hiểu không?”, rồi cười hềnh hệch. Khả năng là do ông ta đốt xong là đi đầu thú luôn chưa kịp biết hậu quả, công an phường cũng chưa biết, nên giọng kể chuyện đúng giọng quán nước đầu ngõ, không lệch tý nào, chưa hề biết sợ đâu.

Kẻ ác và ngu phải trả giá là tất nhiên. Nhưng về mặt xã hội cũng cần nhìn lại tại sao lại có chuyện đó? Liệu điều đó còn tiếp tục xảy ra? Trước đây đã có vụ lên báo là có nhà hát karaoke to quá, hàng xóm bảo không được nên quăng chai xăng vào đốt.

Nhà mình đối diện dãy quán nhậu, bên kia sông, anh em nhậu đến 12h đêm xong rồi hát karaoke ông ổng, rồi 1-2-3 dô, 1-2-3 uống, có hôm thì thấy công an đi gọi loa nhắc nhở, có hôm không thấy, nó cũng kệ. Lúc đó mà có can xăng, có khi mình cũng đốt quán kia, vì không ngủ được! Mình vốn kỳ thị đồng bào đã hát không hay lại còn hay hát to, lại còn nửa đêm! Công an có dẹp được bọn nó đâu, chắc vì cũng làm luật cả rồi.

Chung quy cũng là vì pháp luật cả.


 

Williams bổ sung đơn kiện dày 338 trang, chính thức đòi Đàm Vĩnh Hưng ‘xin lỗi’

Ba’o Nguoi-Viet

December 20, 2024

SANTA ANA, California (NV) – Ông Gerard Richard Williams III, một đại gia công nghệ ở Newport Coast, California, vừa bổ sung đơn kiện ngược ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng, dài tổng cộng 338 trang, hôm 9 Tháng Mười Hai, chính thức đòi ca sĩ này “một lời xin lỗi, được ghi vào hồ sơ tòa.”

Trước đó, ông Williams nộp đơn dài 35 trang, kiện ngược ông Đàm Vĩnh Hưng (tên trong đơn kiện là Hưng Huỳnh), cư dân Huntington Beach, tội bất cẩn, và đòi bồi thẩm đoàn xử như sau:

Số 3 là phần bổ sung của ông Gerard Richard Williams III trong đơn kiện ngược ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng: “Một lời xin lỗi từ bị đơn, được ghi vào hồ sơ tòa, để đền bù cho thiệt hại mà bị đơn gây ra đối với danh dự của nguyên đơn và những người thân gần xa trong gia đình.” (Hình: Chụp từ đơn kiện của nguyên đơn Williams)

1-Ông Gerard Williams phải được ông Đàm Vĩnh Hưng bồi thường $1 vì làm cho ông phải chịu đựng những thiệt hại.

2-Với sự công bằng và theo luật pháp, ông Gerard Williams phải được bồi thường các chi phí một cách hợp lý, bao gồm những thứ khác, với giá trị giảm xuống còn $1.

3-Những biện pháp trợ giúp khác mà tòa án có thể cho là công bằng và thích hợp.

Đơn kiện bổ sung dài 338 của nguyên đơn đòi bồi thẩm đoàn xử bị đơn như sau (có thêm đoạn in chữ đậm):

1-Ông Gerard Williams phải được ông Đàm Vĩnh Hưng bồi thường $1 vì làm cho ông phải chịu đựng những thiệt hại.

2-Với sự công bằng và theo luật pháp, ông Gerard Williams phải được bồi thường các chi phí một cách hợp lý, bao gồm những thứ khác, với giá trị giảm xuống còn $1.

3-Một lời xin lỗi từ bị đơn, được ghi vào hồ sơ tòa, để đền bù cho thiệt hại mà bị đơn gây ra đối với danh dự của nguyên đơn và những người thân gần xa trong gia đình.

4-Những biện pháp trợ giúp khác mà tòa án có thể cho là công bằng và thích hợp.

Ngoài những gì được ghi trong đơn kiện lúc chưa bổ sung, trong 303 trang còn lại của đơn kiện mới bổ sung, nguyên đơn Williams trưng bày nhiều hình ảnh các show diễn của ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng, poster của các show diễn, những gì ca sĩ viết trên Facebook, sân khấu ca nhạc ở nhà ông hôm 19 Tháng Hai (ngày xảy ra tai nạn làm ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng bị cắt mấy ngón chân), mâm vòi nước mà ca sĩ này nhảy lên ngồi nên bị sập, tình trạng hôn nhân của ca sĩ, và các hình ảnh chi tiết khác liên quan đến sự việc…

Theo dự trù, vụ kiện mà ông Williams là nguyên đơn và ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng là bị đơn sẽ được tòa xử vào ngày 24 Tháng Mười Một, 2025, theo hồ sơ.

Hôm 31 Tháng Mười, ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng nộp đơn ở Tòa Thượng Thẩm California ở Orange County, kiện ông Williams “vì trong lúc biểu diễn ở nhà ông này (hôm 19 Tháng Hai), mâm vòi nước bị sập, ca sĩ này bị thương, bị cắt vài ngón chân.”

Ông Hưng đòi ông Williams bồi thường thiệt hại vì “bất cẩn và vì trách nhiệm pháp lý của chủ nhà” và đòi bồi thường “tất cả chi phí y tế trong quá khứ cũng như tương lai và các chi phí phát sinh, tất cả thiệt hại thu nhập và khả năng tạo ra thu nhập trong quá khứ và tương lai, tất cả thiệt hại không mang tính kinh tế trong quá khứ và tương lai, thiệt hại hoặc mất mát tài sản cá nhân do vụ này gây ra, và trả tiền luật sư phí vụ kiện.”

Theo dự trù, vụ kiện sẽ được đưa ra xử ngày 16 Tháng Sáu, 2025. Tuy nhiên, đến ngày 2 Tháng Mười Hai, ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng viết trên trang Facebook cá nhân cho biết là vừa “rút đơn kiện và khẳng định không tái kiện một lần nào nữa” đối với ông Gerard Richard Williams.

Cũng ngày hôm đó, ông Williams nộp đơn kiện ngược ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng, nhưng sau ông Hưng khoảng 3 giờ, hồ sơ tòa cho thấy như vậy.

Tuy vậy, sự việc sau đó xoay chuyển vô cùng rắc rối, vì ngày 16 Tháng Mười Hai, Tòa Thượng Thẩm California để cho đơn kiện của ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng “sống lại,” sau khi đồng ý yêu cầu của ca sĩ này xin hủy việc rút đơn kiện ông Williams trước đó, hồ sơ tòa án cho thấy như vậy.

Như vậy, tính đến nay, có hai đơn kiện song song ở tòa án, một của ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng nộp ngày 31 Tháng Mười (dài tám trang), và một của ông Williams nộp ngày 2 Tháng Mười Hai (dài 35 trang) và được bổ sung lần thứ nhất vào ngày 9 Tháng Mười Hai (dài tổng cộng 338 trang).

Mâm bồn nước bị sập sau khi tai nạn xảy ra tại nhà ông Gerard Richard Williams III. (Hình: Chụp từ đơn kiện của nguyên đơn Williams)

Ông Williams hiện là phó giám đốc cao cấp phụ trách kỹ thuật của Qualcomm từ Tháng Ba, 2021. Trước đó, ông là đồng sáng lập, chủ tịch, và tổng giám đốc công ty NUVIA, trước khi Qualcomm mua công ty với giá $1.4 tỷ.

Ngày 7 Tháng Tám, 2019, công ty Apple kiện ông Williams vi phạm hợp đồng khi âm mưu thành lập NUVIA và lôi kéo các đồng nghiệp làm việc ở Apple để thành lập công ty mới của ông.

Apple tố cáo ông Williams làm những việc này trong lúc đang làm cho công ty ở Cupertino.

Lúc đó, ông Williams là người quản trị thiết kế bộ phận xử lý thông tin điện thoại di động của Apple trong hơn một thập niên.

Ông Williams cho rằng những giới hạn này không thể thực hiện được theo luật California.

Tuy nhiên, trong khi ông Williams không thể thuyết phục tòa án bỏ vụ kiện này, Apple lại không thấy có lợi gì nếu tiếp tục kiện ông.

Ngày 26 Tháng Tư, 2023, các luật sư của Apple nộp đơn xin hủy vụ kiện.

Trong đơn, Apple không lý giải vì sao muốn hủy vụ kiện, và cũng không ai biết vì sao đại công ty sản xuất điện thoại lại làm vậy.

Về Đàm Vĩnh Hưng, hồi năm 2010, khi đang hát ở San Jose, ca sĩ này bị ông Lý Tống, một nhà đấu tranh trong cộng đồng Việt Nam, xịt hơi cay. Sau đó, ông Lý Tống bị tòa xử tù sáu tháng. (Đ.D.)


 

BƯỚC CHÂN ĐON ĐẢ-Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Hồi ấy, Maria lên đường, vội vã đi đến miền núi”.

Một thiếu nữ tóc vàng xinh đẹp chia sẻ, “Hồi mới quen, khi hẹn hò, chúng tôi tặng nhau những nụ hoa, những thỏi kẹo; gần đính hôn, chúng tôi tặng nhau những vòng bạc xinh xắn; cưới nhau, chúng tôi trao nhau những gì quý nhất hết mức có thể. Nhưng một khi đã trở nên con cái Chúa, chúng tôi tặng nhau và ra đi, tặng trao nhiều người Quà Tặng Giêsu!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay nói đến việc lên đường, ra đi, trao những quà tặng mà những người đang yêu có thể tặng trao cho nhau, tặng trao cho người khác. Diễm Ca nói đến những ‘bước chân đon đả’ của một người đi tìm người mình yêu; Tin Mừng nói đến bước chân của Maria, một người đang cưu mang Đấng có tên “Thiên Chúa là Tình yêu!”.

“Kìa người tôi yêu đang tới, tung tăng trên núi, nhảy nhót trên đồi!”. Những lời trữ tình của Diễm Ca như thể được sống lại nơi Maria, Mẹ Chúa Cứu Thế. Luca diễn tả, “Hồi ấy, Maria lên đường, vội vã đi đến miền núi”. Thánh Vịnh đáp ca có chung một tâm tình, “Người công chính, hãy reo hò mừng Chúa, nào dâng Chúa một khúc tân ca!”.

Những bước chân của Maria là những sải bước đầy niềm tin. Tại sao? Maria chỉ biết việc Elisabeth mang thai được sáu tháng qua thông tin duy nhất của sứ thần; vậy mà Mẹ vẫn tin cũng như đã tin một hài nhi đang hình thành và lớn lên trong dạ mình. Thật tuyệt vời! Những ‘bước chân đon đả’ của Maria là những bước chân ngôn sứ Isaia đã báo trước, “Đẹp thay trên núi, trên đồi! Bước chân của người loan báo tin mừng, công bố bình an!”. Mang Hài Nhi Giêsu ra đi, Maria trở thành nhà truyền giáo đầu tiên, vị thừa sai tiên khởi mang Tin Mừng tặng trao cho người khác. Vì thế, sẽ không ngạc nhiên khi Hội Thánh gọi Mẹ là “Nữ Vương Các Thánh Tông Đồ”.

Để mang lại niềm vui cho người khác, như Mẹ Maria, chúng ta thực sự phải mang đến cho anh chị em mình chính Chúa Giêsu Kitô – Quà Tặng của các quà tặng – món quà lớn nhất có thể tặng trao. So với Quà Tặng Giêsu, những quà tặng vật chất trên thế gian này đều phải giảm thiểu thứ bậc giá trị của chúng dẫu quý giá đến đâu. Trao tặng thật nhiều nhưng không trao tặng Giêsu, xem ra chưa tặng trao gì cả; bởi lẽ, tất cả sẽ phôi phai theo thời gian, lãng quên cùng năm tháng. Quà Tặng Giêsu mới thật là quà tặng vĩnh cửu; vì lẽ, nó ban sự sống, niềm vui, hy vọng, hạnh phúc đời này và đời sau.

Anh Chị em,

“Maria lên đường, vội vã!”. Cả chúng ta, hãy cầu nguyện, trải nghiệm và hãy để lòng thương xót Chúa thiêu đốt hầu có thể ước ao ra đi, trở nên những môn đệ của Chúa Giêsu! Bạn và tôi được mời gọi ‘chỗi dậy’, ‘vội vã’, ‘lên đường’ như Mẹ Maria, như các tông đồ. Cách riêng trong những ngày hôm nay khi thời tiết lạnh giá, khi thế giới đang đi vào năm mới với những viễn cảnh xám xịt nhiều hơn tươi sáng. Thật cụ thể, hãy bước những bước thật đẹp, đến với những anh chị em đang khó khăn, đói ăn và lạnh lẽo, trao tặng họ Giêsu kèm theo những gì thiết thực nhất trong mùa Giáng Sinh này!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin cứ quấy rầy con hầu con biết ‘chỗi dậy’, ‘vội vã’, ‘ra đi’ đến với những ai đang thiếu thốn trăm bề, nhất là thiếu Giêsu – Quà Tặng của các quà tặng!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

From: KimBang Nguyen

******************************************************

Thứ Bảy ngày 21/12 Mùa Vọng

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.

39 Hồi ấy, bà Ma-ri-a lên đường, vội vã đi đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. 40 Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào bà Ê-li-sa-bét. 41 Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy Thánh Thần. 42 Bà Ê-li-sa-bét kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. 43 Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? 44 Quả thật, này tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vì vui sướng. 45 Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”


 

Mùa Noel: Mời Bạn thăm các Hang Đá đẹp nhất trên đời

NGUYỆN CHÚC VUI AN GIÁNG SINH 2024!
ĐẾN VỚI BẠN ĐỌC VÀ QUÝ QUYẾN!

Hoạt cảnh Giáng Sinh của người Ấn Độ
Hang đá ở quảng trường thánh Phê Rô 2024
Hang đá đông nhất bao gồm 500 tượng các nhân vật ở tỉnh Đồng Nai.
Hang đá tân kỳ nhất tỉnh Đồng Nai
7 Hang đá ý nghĩa nhất của Tòa Thánh Rô Ma qua các năm, tác chế bởi các nghệ danh thế giới
Dân chúng đón Chúa Giáng Sinh khắp Thế Giới.

Merry Christmas 2024

Còn đối với Chúa thì sao?
Hang đá nào mà Hài Đồng Giê Su muốn sinh ra ?

Đó chính là hang đá ở bên trong mỗi chúng ta.

Chúa Giê Su muốn sinh ra và tỏa chiếu ánh sáng Vui An trong tâm hồn của chúng mình.

Bạn đã sẵn sàng để đón Chúa Hài Đồng chưa?

Hãng công nghệ hàng đầu Huawei của Trung Cộng lại lách luật để làm ra con CHIP cao cấp

Tổng hợp báo chí Quốc Tế

huawei network cartoon with comercio and the caption La oveja negra de celulares by Arcadio Esquivel

TSMC cảnh báo các quan chức Hoa Kỳ về những gì họ tin là nỗ lực của Huawei nhằm phá hoại các biện pháp kiểm soát xuất khẩu của Hoa Kỳ đối với các công nghệ sản xuất tiên tiến và công cụ tăng tốc AI thông qua việc sử dụng các công ty ủy nhiệm.

Trước đây, Huawei từng tuyên bố rằng Trung Cộng đã tự lực sản xuất được con chip 910B tân tiến nhất thế giới làm mọi người quan sát phải gãi đầu. Chip đó làm ra bằng cách nào trong hoàn cảnh cấm vận kỹ thuật chip mới do bộ Thương Mại Hoa Kỳ áp đặt.

Ascend 910B của Huawei là bộ tăng tốc tinh vi nhất của gã khổng lồ công nghệ Huawei, tốc độ xử lý gần ngang bằng với A100 đã bốn năm tuổi của Nvidia với hiệu suất 320 teraFLOPS FP16 hoặc 640 teraFLOPS Int8. Một số công ty hàng đầu về AI của Trung Quốc đang lắp đặt một số lượng lớn Ascend 910B tại các trung tâm dữ liệu của họ.

Mặc dù có thể không phải là con chip nhanh nhất hiện nay, nhưng các hạn chế thương mại của Hoa Kỳ đối với việc bán các bộ tăng tốc do Hoa Kỳ sản xuất chỉ trở nên nghiêm ngặt hơn trong những năm gần đây. Tính đến tháng 10 năm ngoái, các hạn chế đã càng gia tăng lên và trở nên nghiêm trọng đến mức ngay cả một số card đồ họa cao cấp dành cho chơi game cũng bị cấm bán ở Trung Quốc vì chúng có thể chuyển đổi thành Chip AI.

华为宣称Ascend 910B AI芯片成功超越A100 成为中国市场的重要替代品 - Huawei 华为 - cnBeta.COM

TSMC đã lên tiếng báo động sau khi một khách hàng đặt hàng một con chip rất giống với Ascend 910B của Huawei, một bộ tăng tốc AI cao cấp nhắm vào đào tạo AI và khối lượng công việc suy luận. Theo Reuters , trích dẫn hai người quen thuộc với vấn đề này, công ty đang được đề cập là Sophgo.


 

 

“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” (Lc 1:38)-Cha Vương

Một ngày tươi vui hạnh phúc với hết lòng tin yêu vào Thánh Ý của Chúa nhé.

Cha Vương

Thứ 6 T3MV: 20/12/2024

TIN MỪNG: Bấy giờ, bà Ma-ri-a nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” (Lc 1:38)

SUY NIỆM: Bạn có biết không, tất cả những lời kinh mà bạn đọc hằng ngày đều quy về một hướng duy nhất đó là “xin vâng theo thánh ý Chúa”—“ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên Trời”.  Thánh Ý Chúa đôi khi có thể rất là khó hiểu, vậy cho nên Mẹ Ma-ri-a mới thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào” được? Vẫn biết rằng thi hành Thánh Ý Chúa là khó đấy, nhưng “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” (Lc 1:37) Khi nhận ra rằng lời truyền tin là lời mời gọi của Thiên Chúa và cũng là sứ mạng của mình, Mẹ đã can đảm đón nhận, vượt qua những suy tính bình thường, mạo hiểm chấp nhận những hệ lụy của ơn gọi. Niềm tin vào Thiên Chúa là câu trả lời cho lý do Mẹ dám tham dự vào chương trình của Thiên Chúa. Vậy để có được niềm tin như Mẹ bạn phải làm gì? Trước tiên bạn cần phải tin và xác tín rằng, Thiên Chúa là Đấng “nhân hậu, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương, qua bao thế hệ vẫn một niềm thành tín.” (Tv 100:5) Như người mẹ luôn dành cho con mình những điều tốt nhất, Thiên Chúa con hơn như vậy nữa bạn ạ. Cho nên bạn đừng lo lắng. “Chính Ta biết các kế hoạch Ta định làm cho các ngươi – sấm ngôn của Ðức Chúa -, kế hoạch thịnh vượng, chứ không phải tai ương, để các ngươi có một tương lai và một niềm hy vọng.” (Gr 29:11) Kế đến là cầu nguyện liên lỉ để hiểu được kế hoạch của Chúa và đón nhận với một niềm tin yêu và phó thác.

LẮNG NGHE: Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. (Tv 51:12)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, xin gia tăng trong con lòng đơn sơ quả cảm để dám đảm nhận sứ mạng Chúa trao như Đức Ma-ri-a hôm nay vậy.

THỰC HÀNH: Mời bạn hãy gạt bỏ những suy tính tầm thường và nhường bước cho quyền năng của Chúa làm việc trong bạn.

From: Do Dzung

******************************

Từ lúc Mẹ nói lời xin vâng – Mai Thiên Vân 

VÔ LƯƠNG TÂM…-HUUPHUBTN

8 SÀI GÒN

Tôi đã từng đọc rất nhiều lời khen ngợi trên mạng xã hội khi hình ảnh một cháu bé qua đường quay lại cúi chào người lạ lúc nhận được sự hỗ trợ; Những lời có cánh cho một hành vi lan tỏa sự yêu thương như cho đi một bó rau của một người cùng khổ… Tại sao vậy?!

Vì xã hội chúng ta đang sống quá thiếu vắng tình thương, lòng nhân ái, sự lương thiện… cái mà chúng ta vẫn thường gọi là LƯƠNG TÂM! Vậy nên những hành vi nhỏ nhặt, tưởng chừng như bình thường ấy đột nhiên trở nên cao cả, vĩ đại, vượt khỏi sự bình thường mà mọi người thường thấy.

Những hành vi mà chúng ta vẫn thường gặp trong xã hội hiện nay trong mối quan hệ giữa người với người là: Sự chà đạp, trấn áp, lừa đảo để trục lợi bằng bất cứ giá nào; Đi đường va chạm nhau thì sẵn sàng hành hung bất chấp hậu quả; Mâu thuẫn trong hành xử, giao thiệp thì sẵn sàng giết nhau chẳng vì lý do gì nghiêm trọng và xem điều đó là bình thường…

Còn nhớ, hồi chúng tôi học tiểu học tại Sài Gòn trước năm 1975, chúng tôi luôn được dạy phải lễ phép, khiêm nhường, kính trên nhường dưới, đi dạ về thưa, ra đường gặp rác thì phải nhặt bỏ vô thùng rác, gặp người cao tuổi qua đường thì phải đến giúp đỡ, đi ngang đám ma thì phải ngã mũ cúi chào, nghe tiếng Quốc ca thì phải đứng nghiêm chào cờ xong mới được đi…

Trong chương trình học tiểu học của chúng tôi có hẳn những tiết học về những hành vi cao thượng để làm gương, noi theo, mà giáo trình chính thức là những câu chuyện trong tác phẩm “Những tấm lòng cao thượng” của dịch giả Hà Mai Anh, trong đó có đầy đủ các thể loại của tình yêu, tính nhân văn, nhân bản…

Trước năm 1975, tại Sài Gòn, những hành vi bộc lộ sự nhân ái, nhân văn, nhân bản trong xã hội không hiếm, không làm ai kinh ngạc vì nó quá bình thường. Có lần, tôi cùng bố tôi đi bộ trên vỉa hè đại lộ Chi Lăng, tỉnh Gia Định (đoạn ngay trường vẽ) , thấy một bà cụ xách giỏ chuẩn bị qua đường, tôi vội chạy đến sốt sắng giúp dắt bà cụ qua… Xong, tôi đứng luôn bên kia đường, vẫy tay kêu bố tôi sang dắt tôi quay lại vì tôi… chưa biết đi qua đường, thực chất lần qua đường trước đó là bà cụ dắt tôi qua.

Chẳng ai khen ngợi tôi bởi tôi đã dũng cảm thực hiện một hành vi tốt ngay trên đường phố, trừ bố tôi!

Sau năm 1975, chúng tôi không còn được học về những tấm lòng, những hành vi cao thượng nữa, thay vào đó là những bài học, câu chuyện về chiến tranh, giết chóc, khủng bố, lòng căm thù… và được trui rèn lòng hiếu chiến, sự hung hăng, tính quyết liệt, triệt để trong những “chiến dịch”, những lần “ra quân” của những phong trào giành cho lứa tuổi của chúng tôi…

Dần dần, tôi quen với với việc người ta hành xử với nhau ưu tiên bằng bạo lực trong bối cảnh xã hội chung lúc bấy giờ. Đến nỗi, khi mâu thuẫn với nhau trong xóm ở tuổi tiệm cận thanh niên (16 tuổi), tôi từng cầm dao chặt đá rượt một đối thủ của tôi để chém với quyết tâm chém cho nó chết, để “thị uy”, “dằn mặt”, để “chứng tỏ”… May mà tôi rượt không kịp thằng đó. Nếu không, thì…

Lớn lên, tốt nghiệp đại học, đi làm báo, tôi vẫn không hề biết sợ ai, sẵn sàng “máu đổi bằng máu” khi đối đầu… cho đến khi tôi gặp một sự vụ tác động mạnh đến tôi: Hôm đó, tôi nhận được tin báo từ Công an phường Bến Thành cho biết chợ Bến Thành vừa xảy ra một vụ án mạng, nạn nhân là người nước ngoài. Đến nơi, tôi mới biết nạn nhân là một cô gái trẻ người Tây da trắng, con của vợ chồng một Tổng lãnh sự sứ quán tại TP.HCM vừa mới qua Việt Nam chơi thăm cha mẹ, đi chợ Bến Thành mua sắm thì gặp sự cố chết người. Cô gái bị một tên giựt đồ giựt túi xách trong lúc đang dạo chợ, đôi bên giằng co nhau và tên cướp quay lại dùng dao đâm một nhát chết luôn cô gái. Nhìn tên cướp mặt lạnh tanh, vô nhân tính, không hề hối hận ngồi bệt dưới đất bị còng vô ghế của công an phường, rồi nhìn cảnh bà mẹ phu nhân Tổng lãnh sự quán khóc nấc đầy oan ức trước thi thể con mình… Tôi chợt hiểu ra lẽ được -mất trong cuộc đời, cái giá của sự vô lương tâm, của một xã hội thiếu vắng lòng nhân ái, tính nhân văn. Bắt và trừng phạt kịch khung gã giết người máu lạnh đó có làm cho xã hội tốt hơn lên, có trả lại được sinh mạng của cô gái trẻ, đền bù sự mất mát không thể cứu vãn của cha mẹ nạn nhân?

Từ đó trở đi, tôi không bao giờ hành xử bằng bạo lực nữa, dù có những lúc phải kềm chế tới mức đắng ngắt cả lòng!

Thật may, là tôi đã được học “Những tấm lòng cao thượng” hồi tiểu học và được lớn lên trong một gia đình trí thức.

Lúc chúng tôi được học những bài học về tính chiến đấu, sự căm thù… trong trường học, thì chắc gã thủ ác trong vụ đổ xăng đốt chết 11 người trong quán cà phê ở Hà Nội đang làm chấn động dư luận, rúng động xã hội hôm nay chỉ mới vừa qua lớp vỡ lòng, vì y kém tôi đến 7 tuổi!

Nhìn gã giết người ngồi kể lại nguyên nhân, quá trình thủ ác của mình một cách hết sức hồn nhiên, bình thản trong trụ sở công an phường… một lần nữa tôi lại sợ hãi và cay đắng khi nghĩ về tương lai. Xã hội nào đã tạo ra những con người như thế?!

19.12.2024

HUUPHUBTN

#8saigon


 

Tản mạn cuối tuần: Du Lịch Tàu có gì lạ?

du-lich-trung-quoc

Tử Cấm Thành ở thủ đô Bắc Kinh

Tử Cấm Thành đã tồn tại và chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử quan trọng trong suốt hơn 500 năm qua, từ thời kỳ triều đại nhà Minh. Với diện tích rộng lớn lên tới 250.000 m², Tử Cấm Thành bao gồm 980 điện và 8.886 phòng, được bao quanh bởi tường cao 7.9 m và dày 6 m, cùng với hào sâu 52 m. 

 

Dân Trung Cộng ta luôn có nền văn minh XHCN đạt trình độ cao, đó là cái gì?

Tình nghi phản động

Ngay khi nhân viên xuất nhập cảnh mở hộ chiếu của tôi, tôi biết Trung Quốc sẽ là một trải nghiệm độc đáo. Cô công an cửa khẩu nhìn tôi chằm chằm với vẻ nghi ngờ trong khoảng một hoặc hai phút trước khi gọi hai nhân viên an ninh đến, họ kéo tôi sang một bên và bắt đầu tra hỏi tôi.

One consultant told reporters that he was not allowed to go back to Hong Kong after he refused to let Chinese customs officers check his smartphone. (Picture: Handout)

“Tên đầy đủ của ông là gì? Ông đến từ đâu? Đây có thực sự là hộ chiếu của ông không? Mục đích chuyến thăm của ông là gì?”

Viễn cảnh bị từ chối nhập cảnh khiến tôi hơi buồn nản — chủ yếu là vì người ta đồn rằng món sủi cảo thịt lợn ở đây cực kỳ ngon.

Cuối cùng tôi cũng được cho phép, nhưng trải nghiệm này chỉ là một trong nhiều điều kỳ lạ mà tôi khám phá ở Trung Quốc 

Mặc đồ ngủ ra đường.

Ở hầu hết các quốc gia khác, đồ ngủ chỉ dành cho phòng ngủ hoặc ở nhà vào những ngày lười biếng. Ở Trung Quốc, đồ ngủ thường được mặc khi chạy việc vặt và giao lưu xã hội. Nếu bạn đi lang thang vào một khu phố, công viên hoặc thậm chí là một cửa hàng tạp hóa, đừng ngạc nhiên khi thấy mọi người mặc những bộ đồ thoải mái nhất của họ.

Tự Do khạc nhổ ngoài đường                                                                                Tiêu chuẩn chung về phép lịch sự yêu cầu rằng khạc nhổ phải được diễn ra ở nơi chỉ dành riêng cho mình . Điều kỳ quặc là  những tiêu chuẩn này dường như không làm bận tâm ai trong số dân Trung Cộng, những người có thể được nhìn thấy khạc nhổ vào xô, vào bụi cây, khạc ra khỏi xe hơi và khạc ở nhiều nơi công cộng. Đừng ngạc nhiên khi lần tới, đột nhiên bạn thấy bác tài taxi của bạn thò đầu ra khỏi cửa sổ vào lúc đang có đèn đỏ!

Trong vài năm qua, Trung Cộng đang xây dựng một hệ thống quan sát xã hội theo kiểu “Big Brother”.

Big-brother-is-watching GIFs - Get the best GIF on GIPHYtrong đó cuộc sống hàng ngày của mọi công dân đều được theo dõi và chấm điểm chặt chẽ, tác động đến các khoản vay mua nhà và triển vọng việc làm. Một “nhà nước toàn trị kỹ thuật số”. Coi chừng “Anh Lớn đang theo dõi bạn”.

Người Trung Quốc luôn mang theo phích nước nóng.

Uống nước nóng giúp ngăn ngừa nhiều bệnh tật. Nếu bạn bị bệnh thì sao? Người Tàu khuyên ta “Hãy uống nước!”

Các Trò Chơi toát mồ hôi ở Trung Cộng

Thăm Thượng Hải thành phố giầu nhất Trung Cộng

Lăng Mộ Tần Thủy Hoàng (Tây An Thiểm Tây)

Được xem là một trong những điểm du lịch nổi tiếng nhất tại Trung Quốc, lăng mộ Tần Thủy Hoàng thu hút hàng triệu du khách mỗi năm bởi sự kỳ vĩ và bí ẩn của nó. Nằm tại phía Đông núi Lệ Sơn, Tây An, lăng mộ này được phát hiện vào năm 1974 khi một người nông dân đang đào giếng và tình cờ phát hiện ra một kho báu vô giá dưới lòng đất.

mộ Tần Thủy Hoàng
Các bức tượng cổ

Khi khai quật, hơn 8.000 bức tượng chiến binh phong kiến cổ đại đã được tìm thấy, tạo nên một cảnh tượng vô cùng ấn tượng và đầy cảm hứng. Các tượng chiến binh này được xác định niên đại vào khoảng năm 221 TCN và được cho là những bức tượng binh mã được dựng lên để bảo vệ lăng mộ của vị hoàng đế Tần Thủy Hoàng. Theo truyền thống tôn giáo của người Trung Quốc, người chết sẽ tiếp tục cuộc sống ở thế giới bên kia và hoàng đế Tần Thủy Hoàng đã tin rằng ông cần có sự bảo vệ của những binh mã để đảm bảo an ninh cho khu lăng mộ của mình. Vì vậy, ông đã dựng lên toàn bộ một mô hình vương triều thu nhỏ với những chiến binh bằng đất nung, được chế tác tỉ mỉ và tinh xảo. 

Chùa Huyền Không (Sơn Tây)

Chùa Huyền Không là một trong những địa điểm du lịch tâm linh nổi tiếng và hấp dẫn nhất của Trung Quốc. Nằm sâu trong lòng núi Hằng Sơn, tỉnh Sơn Tây, chùa được xây dựng từ khoảng 1.500 năm trước và vẫn giữ được vẻ đẹp cổ kính và linh thiêng cho đến ngày nay.

Chùa Huyền Không
Chùa Huyền Không

Được xem là một kiệt tác kiến trúc độc đáo, chùa Huyền Không có vị trí đặc biệt khi nằm cheo leo trên vách đá cao khoảng 50m so với mặt đất. Để đến được chùa, du khách phải vượt qua những con đường đèo hiểm trở và leo lên những bậc thang đá đầy gian nan. Nhưng khi đặt chân đến đây, họ sẽ được đền đáp bằng cảnh quan tuyệt đẹp và không khí thanh tịnh của nơi đây. Mặc dù đã trải qua hàng trăm năm và chịu đựng những điều kiện khắc nghiệt như động đất và thời tiết khắc nghiệt, chùa Huyền Không vẫn đứng vững và tỏa sáng như một ngôi sao trên vách đá….

Vạn Lý Trường Thành

Vạn Lý Trường Thành là một trong những điểm đến du lịch nổi tiếng và được yêu thích nhất tại Trung Quốc. Được xây dựng bởi con người với sự kết hợp giữa tài năng kiến trúc và sức lao động vô cùng khổng lồ, Vạn Lý Trường Thành đã trở thành biểu tượng văn hóa và lịch sử của đất nước này.

Vạn Lý Trường Thành

Với chiều dài khoảng 6000km, Vạn Lý Trường Thành là một trong những công trình kiến trúc vĩ đại nhất trên thế giới. Nó được xem là một trong bảy kỳ quan của thế giới và được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới vào năm 1987. Bức tường thành này được xây dựng từ thời kỳ của triều đại Tần (năm 220 TCN) và kéo dài cho đến thời kỳ của triều đại Minh (năm 1644). Với sự kết hợp giữa các tường thành, cầu cửa và các công trình phòng thủ khác…

Việc thi cử của các triều vua Việt Nam-Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Ba’o Tieng Dan

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

19/12/2024

Khung cảnh trường thi ngày xưa

Nước ta có 20 thế kỷ chữ Hán từ thời Bắc thuộc. Có 10 thế kỷ chữ Nôm đánh dấu thời kỳ tự chủ bắt đầu từ thế kỷ 10 và khi bước sang thế kỷ 18-19 là thời kỳ toàn thịnh của chữ Nôm, lấn át chữ Hán với Hịch Tây Sơn, sau đó đến Truyện Kìều. Việc thi cử vì thế cũng dựa trên cái đà phát triển của chữ Nôm và chữ Hán.

Việc thi cử ở nước ta mới có từ gần ngàn năm nay. Trước đó, khoa cử còn thiếu, các đời Đinh Lê về trước, trong việc kén hiền tài tuyển chọn người chỉ là tuỳ tiện không câu nệ cũng không theo phép tắc gì cả. Kể từ năm 1072, đời Lý mới mở khoa thi để tuyển chọn người có tài ra giúp nước. Con đường tìm người tài giỏi, trước hết là khoa mục, phàm muốn thu hút người tài năng, thì người làm vua một nước không thể nào không có khoa cử. (1)

Khoa cử chẳng những cung cấp nhân tài, người giúp vua trị nước mà còn là vốn quý cho văn học có cơ phát triển. Dẫn chứng cụ thể là vào những thế kỷ 10-12 chúng ta có được 50 tác giả làm thơ văn thì đa số là các nhà sư như Viên chiêu thiền sư (998-1090) Diệu nhân ni sư, Mãn giác thiền sư (1051-1096). Pháp Bảo, Không lộ thiền sư, Quảng nghiêm thiền sư vv… Nhưng khi mà thi cử đã phát triển với nhiều nhân tài, nhiều tiến sĩ thì chính các nho sĩ này sẽ là những nhà văn, nhà thơ. Vì vậy, ở thế kỷ 13-14 đã có trên 60 tác giả mà hầu hết là giới nho sĩ. Sang đến thế kỷ 15 thì đã có trên 80 tác giả mà đa số là các nho sĩ đã thi đỗ, vượt xa tất cả các thế kỷ từ trước tới nay. Đồng thời văn học vừa có tính cách đa dạng, với đủ mọi loại đề tài, đủ các thể loại khác nhau. Xem như thế thì, có sự phát triển đồng bộ giữa văn học và thi cử. (2)

Trong bài này chúng tôi tìm hiểu việc thi cử dựa trên những số liệu mà chúng tôi có được theo khảo hướng thống kê để từ đó rút ra được những ý nghĩa, những giải thích xét ra phần nào giúp chúng ta có được một số ý tưởng nòng cốt của việc thi cử ở Việt Nam.

Nói chung thì con đường cử nghiệp không phải là con đường bằng phẳng. Nhiều sĩ tử vướng mắc vào vòng thi cử đã lao đao lận đận cả đời. Ông nội Ngô Tất Tố chỉ đỗ tú tài sau khi đã lận đận 7 lần khoa thi hương. Đến ông thân sinh ra ông Tố thì đã trải qua 6 lần lều chõng. Đến lượt ông Tố thì 2 lần thi hương không đậu. Đến kỳ thi sát hạch ở Bắc Ninh, ông đỗ đầu nên người ta mới gọi ông là Đầu xứ Tố. Lúc đó ông mới 22 tuổi. Việc thi cử thật trần ai, vạn người thi, không lấy được trăm người đỗ nên đã để lại nỗi chán chường, tủi nhục và nước mắt thể hiện qua thi ca.

Không phải là thưà khi nhắc lại trường hợp Trần Kế Xương than thở trong bài phú Hỏng thi của ông:

Đau quá đòn hằn rát hơn lửa bỏng.
Tủi bút, tủi nghiên, hổ lều, hổ chõng.

Hoặc của một sĩ tử vô danh thị:

Than ôi, ai biết chăng ai, hỏng ôi là hỏng

Việc khoa cử khen ai khéo đặt, lừa anh hùng đến đầu bạc chưa thôi, áng công danh là số phận không lường, trêu sĩ tử dẫu gan vàng cũng núng.

Và mỗi lần thi rớt, còn mặt mũi nào nhìn vợ, nhìn con, bị người đời coi là hạng vô danh hạ sĩ.

Cũng vì vậy mà trong suốt gần ngàn năm, khi có thi cử, kể từ đời Lý nhân Tông (1072-1076), chúng ta chỉ lược kê ra được một vài nhân tài, mà tài năng xuất chúng không đợi tuổi.

Năm 1247, đỗ trạng nguyên có Nguyễn Hiền, người thuộc huyện Thượng Hiền, thuộc phủ Xuân Trường, tỉnh Hànam Ninh ngày nay. Ông Hiền lúc đó mới có 13 tuổi. Điều này cũng chứng tỏ triều đình đã tuyển chọn người tài mà không cần xét đến tuổi tác, già trẻ. Đó là một ưu diểm.

Ông Nguyễn Trãi đã đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ), khoa Canh Thìn, lúc 20 tuổi và sau đó được bổ làm quan giữ chức ngự sử. Hoặc trường hợp Hội nguyên, Đình nguyên Hoàng giáp Ngô thì Sĩ vào năm Cảnh Hưng thứ 27 (1766), ông này kể từ khi thi tam trưòng đến thi hội rồi thi Đình cũng đều đỗ đầu. Và đó cũng là trường hợp cụ Nguyễn Khuyến, mà ta thường gọi cụ là Tam nguyên Yên Đổ. Hoặc trường hợp đặc biệt có cha, em và hai con cùng thi đậu trong đó cha là Ngô Thúc Định, đậu lúc 19 tuổi và con là Ngô Quán. Em là Ngô Trọng Nhạ đậu lúc 16 tuổi. Ngô Trọng Nhạ, Ngô Thúc Định, Ngô Mạnh Nghinh đậu cùng một khoa Duy Tân 1915. (3)

Nhìn chung về kết quả các cuộc thi

Ngoại trừ một vài trường hợp đặc biệt vừa nêu trên, việc thi cử thật ra là cực kỳ khó khăn mà dựa trên những con số chúng tôi nêu ra đây làm chúng ta bất nhẫn, nghĩ tới số phận của không biết bao nhiêu sĩ tữ đã để ra cả đời học hành mà số phận long đong với cử nghiệp.

Theo Quốc triều hương khoa lục của Cụ Cao Xuân Dục thì trưòng Thi Hương ở Huế trong suốt 105 năm có 42 khoa thi hương, có được 1263 cử nhân. Sở dĩ dưới triều Nguyễn, số khoa thi Hội và Đình ít hơn, vì Gia Long đã không cho tổ chức kỳ thi này, Khoa thi hương đầu tiên tại Huế là năm 1813. Cho mãi đến năm 1822 (Nhâm Ngọ) dưới thời Minh Mạng mới có khoa thi hội. Về điểm này,chúng tôi thắc mắc tại sao Gia long lại không tổ chức thi hội. Ngay năm 1803, vừa lên ngôi một năm, Gia Long đã lập nhà Quốc học ở Huế, thiết lập các chức đốc học ở tỉnh, giáo thọ, huấn đạo ở các phủ huyện.                                   4) Rõ ràng là muốn mở mang, phát triển việc học để đào tạo nhân tài. Vậy tại sao không mở các kỳ thi hội. Có thể suy đóan, ông ngại hay nghi ngờ những tài năng xuất chúng. Một điều rõ ràng, dưới triều Nguyễn đã bãi bỏ chức trạng nguyên.

Căn cứ vào sách Lịch triều hiến chương loại chí thì dưới đời Lý, Lê, nhất là đời Hồng Đức, số người đỗ tiến sĩ rất cao, có những năm như Hồng đức thứ 9 (1478), lấy đỗ tiến sĩ 62 người, Hồng đức thứ 15, lấy đỗ 60 người, Hồng Đức thứ 21 (1490) 54 người.

Nhận xét về điểm này Đỗ Nhuận viết vào năm 1484: Việc lớn trong chính trị của Đế Vương, chẳng gì gấp bằng NHÂN TÀI. Chế độ của nhà nước muốn được kỹ càng, tất phải đợi ở Hậu Thánh (Các vua nối nghiệp về sau). (5)

Trước kia 6 năm một khoa thi, nay theo chế độ nhà Chu, định lệ 3 năm một khoa. Trước kia lấy đỗ chẳng qua vài ba chục người, nay lấy rộng người thực tài, không lo bội số. Với một tinh thần như thế, chúng ta sẽ cắt nghĩa làm sao những con số những người đỗ tiến sĩ dưới triều Nguyễn. Chẳng nhẽ sau cả gần 300 năm mà tinh thần thi cử dưới triều Nguyễn lại tỏ ra lạc hậu hơn các vua đời nhà Lê ? Vì vậy thi cử thịnh hành nhất là thời Hồng Đức.

Cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người Công Bằng đời sau càng không thể theo kịp.

Chọn người cốt lấy rộng học thực tài, Không hạn định ở khuôn khổ mực thước. Trong nước, không để sót nhân tài, triều đình không dùng lầm người kém (LTHCLC).

Cho nên, để tưởng thưởng xứng đáng những người tài giỏi, kể từ năm 1442, bắt đầu dựng bia tiến sĩ. Và ra luật lệ cấm 2 loại người sau đây không được phép ứng thi:

-Người bất hiếu, bất mục, lọan luân, điêu toa, dẫu có học vấn văn chương cũng không được vào thi.

-Những người làm nghề hát xướng, nghịch đảng, và có tiếng xấu thì bản thân và con cháu không được thi.

Nghĩa là một người ra làm quan thì phải vừa có tài, vừa có đức. Nhưng đức là điều kiện tiên quyết cho việc ra làm quan.

Trong việc thi cử mà nếu gian lận thì suốt đời không được đi thi. Đến thi hội mà gian lận thì phải xử tội đồ, và suốt đời không được đi thi và không được bổ dụng. Nhà vua phán: Phép cấm không nghiêm thì không trừ được thói gian dối, chọn lọc không tinh thì không lấy đựợc người thực tài.

Trường hợp ông Đào Duy Từ (1572-1634), vì là con một nhà hát bội nên đi thi hương đã bị đánh hỏng, ông phẫn chí bèn rời bỏ quê hương ở đằng ngoài, thuộc chúa Trịnh đi vào đằng Trong thuộc chúa Nguyễn để tìm đường tiến thân. (6)

Tính cách Chính trị của Khoa Cử.

Cũng dựa vào các con số, chúng tôi thấy các khoa thi không tiến hành đúng theo quy định 3 năm một lần như trong thời Minh Mạng đã quy định. Thi Hương thường được tổ chức vào mùa thu trong năm, rơi vào các năm tý, ngọ, mão, dậu. Thi hội vào mùa xuân trong các năm sửu, mùi, thìn, tuất… Nhưng lại có khá nhiều ân khoa. Như tại Huế, trong suốt 105 năm, có tổ chức 42 khoa thi, thì có đến 9 ân khoa rồi. Có nhiều lý do để cắt nghiã về các ân khoa này, có thể để ăn mừng lễ vạn thọ khánh tiết, hoặc để ăn mừng lễ đăng quang vua mới, hoặc nhằm kêu gọi sự hợp tác của nhà nho ở vào những thời điểm mà uy tín cửa triều đình đang xuống dốc, chẳng hạn sau cuộc rút quân dưới thời Thiệu Trị ra khỏi Cao Mên. Ý nghĩa của các ân khoa như vậy rõ ràng đi xa khỏi mục tiêu tuyển chọn nhân tài để cho thấy rõ khiá cạnh chính trị chen vào. Chẳng khác gì, nhân ngày lễ thả tù nhân thì đâu còn màng tới vấn đề công lý, vấn đề xã hội nữa. Chẳng hạn, năm 1848 (Tự Đức thứ 1), nhân dịp vừa lên ngôi ra lệnh tổ chức kỳ thi hương đặc biệt ân khoa. Trong dịp này có trường hợp hy hữu trong thi cử, xin kể ra đây. Số là có 2 anh em bài vở có nhiều điểm giống nhau về ý tưởng cũng như văn phong. Chủ khảo Hoàng tế Mỹ dán giấy mỏng che đậy tên 2 người trình vua Tự đức. Vua truyền cho tổ chức thi 2 người, ngồi riêng 2 phòng, trong 3 ngày, chính tay Tự Đức duyệt bài và ngự phê: Văn chương là lẽ công bằng, 2 anh em văn chương đều kiệt tác. Quý đặng chân tài. Anh em đồng khoa là việc tốt 2 anh em đó là Hoàng kim Giám và Hoàng kim Tịch, tức Hoàng Diệu sau này.

Tính cách chính trị còn thấy rõ rệt trong các kỳ thi Hội, nhất là thi Đình. Chúng tôi vẫn tự đặt nghi vấn là đã có kỳ thi hội rồi, rại sao còn tổ chức kỳ thi Đình làm gì. Phải chăng chỉ nhằm mục đích xếp hạng cao thấp. Không hẳn như vậy. Ít có nước nào mà kỳ thi lại do chính tay vua xếp đặt, ra đề thi, nhất là phần văn sách… Chẳng hạn, năm 1493, Chính vua xem quyển, định thứ bực cao thấp. Rồi vua ngự chính điện, truyền loa xưóng danh tiến sĩ, sau đó ban mũ đai và áo cho các tiến sĩ, cuối cùng thì ban yến… Rồi năm 1496 chính vua ra đề thi hỏi về văn sách, hỏi về đạo trị nước. Sau đó, dẫn các cử nhân vào sân điện Kim Loan, Vua xem dung mạo định lấy đỗ 30. Qua đọan trên cho thấy việc thi cử, nhất là trong các kỳ tiến sĩ có tác năng chính trị, nhằm bảo đảm sự trung thành, phục vụ cho vua. Vì thế mà chính vua can thiệp vào trong tiến trình thi cử, để loại trừ những thành phần mà xét ra không thích hợp. Việc xem dung mạo quyết định lấy 30 người đỗ không thể nói gì khác hơn tại sao lại tổ chức thi Đình. (7)

Tính cách chính trị còn có thể thấy rõ trong việc các làng công giáo không có người thi đậu đưọc trình bày ở phần sau. Trong những bài thi văn sách, nhà vua tự ra đề tài về chính sách cấm đạo để từ đó yêu cầu sĩ tử bàn luận và hưởng ứng chính sách của triều đình. Một đề tài thi cử như vậy đã hẳn có tác dụng lớn trên những chọn lựa của mỗi sĩ tử về vấn đề tôn giáo, đồng thời cũng tuyên truyền và ủng hộ đường lối của Triều đình trong phạm vi này.

Như trên đã trình bày, đường lối tuyển chọn nhân tài thật kỹ càng như vậy, nhưng vẫn không tránh được có trường hợp một số cống sĩ có thể bất phục và chống lại triều đình. Nhất là ở giai đọan khi mà sự có mặt của người Pháp là một thực thể khó có thể chối cãi được, đưa tới những thái độ nghi ngờ về sự bất lực của triều đình trong việc chống đối lại người Pháp. Đó là trường hợp Cụ Phan Chu Trinh, khi vua Khải Định sang Pháp để dự đấu xảo ở Marseille. Ông đã hài ra bảy tội của Khải Định là tôn bậy quân quyền, lạm hành thưởng phạt, thích chuộng sự quỳ lạy, xa xỉ quá độ, ăn bận không phải lối, tội chơi bời, chuyến đi Tây có sự ám muội. Thư thất điều đã được báo chí ở Pháp phổ biến, gây một tiếng vang bất lợi cho triều đình bấy giờ. Qua lá thư của Phan chu Trinh, người ta cũng thấy được, giới sĩ phu ít còn tin tưởng vào chế độ quân chủ mà họ cho là nguyên nhân tình trạng đưa đến mất độc lập, mất chủ quyền và trở thành nô lệ cho thực dân Pháp. Sự oán hận nhà vua chứng tỏ vai trò của một ông vua bù nhìn đưa đến sự chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến như là giải pháp cần thiết đi trước cả giải pháp dành lại độc lập.

Về Tỉ Lệ Con Số người thi đậu

Sau đây, chúng tôi đưa ra con số những người đỗ đạt tỉ lệ với số người ứng thi đã là then chốt của vấn đề thi cử ở nước ta. Xin dẫn chứng năm 1463, có 4400 người ứng thi, lấy đỗ hơn 40 người, tỉ lệ 1%. Năm 1502, tháng 2, có 5000 người thi cử nhân, lấy đỗ 61 người, tỉ lệ hơn 1%. Năm 1514, có 5700 người, lấy đỗ 43 người. Tỉ lệ chưa được 1%. Cũng nên nhớ rằng cái tỉ lệ này đã không tính tất cả những người đã dự thi ở quận huyện. — quận huyện, người ta đã sàng lọc tất cả những người kém cỏi không đủ tư cách để dự kỳ thi Hương rồi. Nếu tính tất cả những người dự thi ở quận huyện thì tỉ lệ sẽ là 1 phần vạn.

Có 3594 người thi đỗ trong 32 khóa thi từ 1807 đến năm 1858 chỉ là một phần tinh hoa quá nhỏ, quá ít, vô cùng vô nghiã trong một đất nước có từ 600.000 đến 1 triệu người đăng ký thi, tuổi từ 18 đến 60. Chia đều thì có khoảng 116 người thi đỗ trong mỗi khoá, và tính bình quân mỗi năm thì có khoảng 44 người. (Khoa mục chí)

Có người 16 tuổi đã đỗ như ông Ngô Trọng Nhạ. Có người như cụ Đòan tử Quang mãi tới 82 tuổi mới thi đỗ hội nguyên. Trong thư mục của cụ Hoàng Xuân Hãn do Tạ trọng Hiệp soạn (8) có đưa ra trường hợp cụ Đoàn Tử Quang đã để cả đời để học và thi và cho mãi đến năm 1900 cụ mới đậu cùng với Phan Bội Châu. Giả dụ cứ 3 năm thi một lần, không kể đến các ân khoa, thì trước sau cụ có thể đã dự 21 kỳ thi hương. Trong 21 khoa thi đó, không có gì làm bằng cớ cụ dốt nên đã rớt, nhất là sau này cụ đã đậu thi hội. (Bị giáng xuống cử nhân chót vì phạm trường quy). Cụ rớt, cụ đỗ, chỉ vì tỉ lệ xác suất, độ may rủi, về lề lối tổ chức chấm bài. Bài thi do các ông sơ khảo chấm. Rồi phúc khảo, cuối cùng đến giám khảo duyệt lại. Có biết bao nhiêu hệ số chủ quan của các ông giám khảo này. Có một kẽ hở rất lớn trong tổ chức thi cử thời xưa là mặc dù luật lệ rất nghiêm nhặt từ trường thi, quyển thi đến chấm thi, nhưng lại không có luật lệ rõ ràng về cách cho điểm.

Trong khoa thi này cụ Phan bội Châu đỗ Giải nguyên và cụ Đoàn tử Quang đỗ Á nguyên, nhưng vì phạm trường quy, theo lệ phải dánh hỏng. May nhờ chủ khảo là Khiếu Năng Tĩnh có lòng nhân từ thấy ông tuổi tác cao mà bị trượt nên họp bàn với các quan trường, đệ quyển thi về kinh, và dâng sớ xin cho ông đỗ cử nhân. Vua Thành Thái ban chỉ đặc cách cho Đoàn Tử Quang đỗ cử nhân thứ 21.

Chủ khảo Khiếu Năng Tĩnh và phó chủ khảo Mai Khắc Đôn viết bài: Nhai sự Ký kể lại việc này như sau: Khoa Canh Tý năm Thành Thái thứ 12, trường thi Hương Nghệ An, sĩ nhân Đoàn tử Quang 82 tuổi, quê làng Phụng Công, phủ Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, đã đỗ 2 khóa tú tài, nay đỗ cử nhân thứ 21… Từ khi quốc triều mở khoa thi đến nay, chưa từng thấy có chuyện lạ như thế.

Hôm xướng danh, người đi xem đông hơn đám hội. Xướng đến tên Đoàn tử Quang đỗ cử nhân thứ 21, một ông già dạ lên, chen đám đông bước vào, râu tóc trắng xóa, phong thái như người tiên. Các quan Tây, quan tỉnh đến cầm tay ông khen ngợi… Thật cảm động. Vào dự yến, không quên lấy phần về cho mẹ già 98 tuổi. (9)

Chúng tôi nhận thấy không biết bao nhiêu là điều luật về tổ chức, về trưòng thi, về các giám thị, về các giám khảo, nhưng lại không có những hướng dẫn minh bạch về cách chấm thi. người ta tin tưởng hòan tòan vào khả năng của người chấm. Cùng lắm thì chỉ có những bài mẫu văn thơ phú để làm tiêu chuẩn. (10) Cho nên, tổ chức thi cử như vậy là kéo lê một cái máy chém từ thế hệ này đến thế hệ khác mà nội dung thi cử hầu như không có gì thay đổi. Đấy là tôi chưa nói tới nội dung các bài thơ phú mẫu căn cứ vào đó để các giám khảo chấm bài mà nội dung cho ta có cảm tưởng nó rỗng tuếch, nó kêu. Đọc một đọan phú, cả trang giấy chỉ thấy những chữ lổm ngổm, kêu rổn rảng, có vẻ khó hiểu, kỳ bí mà thật sự nghèo nàn và nông cạn về nội dung,. Hình như triều đình nếu có thay đổi gì thì chỉ bận tâm tới những thay đổi về tổ chức mà không bao giờ có ý tưởng cho thấy muốn thay đổi về nội dung thi cử, cho thích hợp, cho đáp ứng kịp thời. Nội dung thi cử, người chấm, người thi khi mà cả 3 cái đó trùng hợp vào nhau thì có thể đỗ, khác đi thì rớt. Vì thế, xét thực tế, có đỗ, có rớt, nếu có điểm lợi gì, thì đó là cái lợi cho cá nhân ứng thi, còn nói về đại cuộc, có ích gì cho đời thì thật chẳng là bao.

Chúng tôi cũng nhận thấy không hiếm trường hợp anh em, bố con cùng đậu một khoa. Điều đó chỉ cho thấy có sự hên xui, may rủi, không cắt nghĩa được nên mới có câu Học tài Thi phận.

Trong bia đề tên các tiến sĩ khoa Mậu Tuất, Thành Thái thứ 10, chúng tôi liệt kê ra được số tuổi khá chênh lệch của họ: Có 2 người 26 tuổi, 1 người 27, 1 người 35, 1 người 39, 1 người 40, và người già nhất 47 tuổi. (Khoa mục Chí).. Không thể nói càn là vì ông 47 tuổi mới đỗ là vì dốt được. Đã gọi là dốt thì không thể đỗ được, nhất là đỗ tiến sĩ. Vậy làm sao cắt nghiã được sự chênh lệch về tuổi của họ. Chỉ có một cách giải thích tóan học là vì có quá nhiều người đi thi, và số đỗ lấy quá ít, nên đỗ hay không chỉ là vì vấn đề xác suất, may rủi như chơi vé xố thôi. Đó là vấn đề rút thăm, giữa nhiều người giỏi để chọn lấy một vài người.

Dưới triều Tự Dức trong Đại Nam thực lục có 17713 thí sinh được chấp nhận năm 1870, chỉ có 8 người đỗ tiến sĩ. Như vậy, cứ 1000 người đăng ký dự thi, có 20 được chấp nhận và không tới một người đỗ. Tỉ lệ gần 1 phần ngàn. Con số tỉ lệ 1 phần ngàn, nếu cứ tích lũy số người thi rớt mỗi năm, sẽ đạt tới con số triệu dễ dàng. Dĩ nhiên, triệu người thi rớt này cũng sẽ là thành phần những ứng sinh của khoá tới, có khi kéo dài hằng 9-10 khoa. Nhưng điều đó cũng chứng tỏ rằng rớt hay đỗ không còn là vấn đề giỏi kém, mà là một thứ sổ số mà thôi. Hằng triệu người đi thi, lấy đỗ chưa tới số trăm cử nhân thì dưới dạng thống kê là một con số vô nghiã.

Thi Cử ở Vùng Đất Mới

Đi vào từng địa phương, từng miền, những con số trình bày sau đây cũng cho chúng ta một sự ngạc nhiên không ít. Chẳng hạn, tại Nam kỳ với các di dân do người Việt từ phía Bắc tới hoặc người Trung Hoa tị nạn, vì vậy dân số gia tăng nhiều, tỉ lệ dân số gia tăng là 20%, trong khi đó tỉ lệ đỗ đạt lại giảm đi gần 2% so với tỉ lệ của cả nước. (11) Những di thần người Trung Hoa bài Mãn phục Minh đã đến xứ Đồng Nai, Gia Định và Hà tiên đáng xem xét kỹ hơn. Trần thắng Tài và Dương Ngạn Địch đem binh lính và quyến thuộc hơn 3 ngàn người và 50 chiến thuyền đến Cù lao Phố (Biên Hòa) và Mỹ tho để khai thác. Gia Định thành thông chí ghi rằng nhóm Trần thắng Tài yểm trợ việc lập chợ, buôn bán giao thông với người Tàu, người Nhật, tụ tập đông đảo ở Cù lao Phố. (12)

Điều này có thể cắt nghiã được là lý do đời sống ở miền Nam tương đối dễ dàng, lại xa mặt trời, xa các thủ đô văn hóa như Thăng Long và sau này là Huế. Dại gì đi học vẫn có đủ ăn ngày hai bữa, so với Bắc và Trung phần thì Nam phần là nơi dễ sinh sống, đất rộng người thưa. Người dân thảnh thơi vừa làm vừa chơi cũng đủ ăn…

Thiên nhiên ưu đãi, thực phẩm có thừa, công việc nhàn rỗi, áo quần nhà cửa, chữ nghiã còn thiếu, nhưng so sánh với một số địa phương khác thì đồng bằng sông Cửu Long quả là nơi lạc thổ. Nhiều đìa cá, cá nổi đầu lên như mù u chín rụng, nhưng chẳng ai khai thác, gặp năm cá sụt giá. Đìa ấy để cho người vùng trên đến mót lượm, cá chia 2 với chủ, Vịt nuôi không cần cho ăn, mùa hạn, dưới rạch đầy cá nhỏ, vịt thả rong, chiều tối về chuồng. Những người khẩn hoang thường là những người CHỮ NGHĨA KHÔNG ĐẦY LÁ ME, không rành cách ngôn thánh hiền. (13) — trong Nam, người ta nói tới ông Điền chủ, ông Bá Hộ nhiều hơn là quan phủ quan huyện. hai câu thơ sau đây cho thấy sự giầu có của Điền chủ:

Đất năm dây cò bay thẳng cánh (1 Dây khoảng 10 mẫu ta)

Anh dám hỏi nàng quê quán ở đâu.

Một điền chủ chết để lại một gia tài khoảng 75 mẫu ruộng, nhà cửa vàng bạc châu báu và một số tiền là 15000 quan tiền (Vào thời Minh mạng, một mẫu ruộng trị giá khoảng 180 quan tiền. (14) Điều đó cho thấy điền chủ trong Nam giầu tới mức nào.

Điều này chứng tỏ rằng việc thi cử ngoài lý do xã hội, danh tiếng, truyền thống,, còn có vấn đề hoàn cảnh kinh tế nữa… Trong số 6 tỉnh, Gia Định có số người thi đỗ cao nhất. Vì đây là một tỉnh có nếp sống văn hóa cao hơn các tỉnh khác, nếp sống đô thị rõ nét hơn với nhiều cơ cấu truyền thông, báo chí, tin tức được phổ cập, dễ có xu hướng trọng văn hóa bằng cấp địa vị xã hội.

Vì vậy mà trong biên niên sử đời Gia Long đã tỏ ra bận tâm về sự suy thoái về kết quả thi cử ở miền Nam và cũng nhận thức rằng có nhiều con đường khác đi đến thành công về mặt tài chánh mà không cần phải qua con đường thi cử.

Tỉ Lệ Thi Đậu ở Miền Trung.

— các tỉnh miền Trung, có sự gia tăng khá mạnh, trội vượt hẳn các tỉnh phía Nam về số thí sinh thi đậu. Tất cả là 1115. Điều đó cũng dễ hiểu, vì nay vùng đất miền Trung nằm trực tiếp trong vùng ảnh hưởng của triều đình Huế.

Nhưng đặc biệt rất khó giải thích tại sao con cái dòng họ, các dòng Tôn Thất xa gần với vua lại có rất ít người thi đậu làm quan. Sĩ số thành phần này thi đậu có thể đếm trên đầu ngón tay, nhất là các năm đầu của các vua triều Nguyễn. Kể từ Thành Thái trở đi, người thi đậu có vào khoảng hơn chục người mà thành phần đều là những người kể từ đời thứ ba trở đi đến đời thứ 7. Điều đó đưa ta đến kết luận càng xa nguồn cuội, thì nhu cầu học hỏi càng tỏ ra cần thiết.

Mặt khác, cũng có thể tìm ra câu trả lời cho vấn nạn tại sao, dòng tộc vua chúa lại không mấy người thi đỗ. Một lối trả lời không mấy thỏa đáng, vì thực sự hiện nay, chúng ta không đủ chứng từ để minh chứng rõ ràng. Nhưng, chúng ta biết rằng truyền thống thi cử nước ta có cho phép các quan tiến cử những hiền tài xét ra có công trạng, hoặc nổi tiếng về văn chưong để vua xét bổ nhiệm vào các chức vụ giảng dạy, hay chờ đợi để dự các kỳ thi tiến sĩ, mà không cần có cử nhân.

Từ đó, ân duệ đó được áp dụng cho các con trai các công thần có uy tín trong triều đình, và cũng có thể áp dụng điều đó cho các gia đình trong hoàng tộc.

Và theo Langlet: Từ năm 1822 đến năm 1860, ông phát hiện ra 20 người thi đỗ cấp cao mà chưa bao giờ có thi đỗ ở các địa phương. (15)

Vì vậy, Thành phần thi đậu đều là người dân giả thôi. Người dân giả thì đa số lại không mấy khấm khá, vì thiên nhiên thời tiết có khắc nghiệt. Con đường tiến thân hợp lý hơn cả vẫn là cử nghiệp. Điều này còn đúng và kéo dài mãi cho đến thời Đệ nhị Cộng hòa mà không ở bất cứ tỉnh nào có mức độ ham học, ham mảnh bằng cho bằng xứ Huế.

— Mỗi mùa thi, học trò mang sách ngồi dưới cột đèn để học cho thấy họ nhìn tương lai họ ở chỗ nào. Cái hãnh tiến về xứ sở, cũng như hãnh tiến về truyền thống văn hóa cũng làm cho việc thi cử trở thành niềm trăn trở thao thức, niềm khát vọng cho mọi người. Mùa thi cử là mùa của hy vọng, của khát vọng vươn lên, vừa nuối tiếc, vừa muốn thoát ly ra khỏi khung trời dù là tình nồng, ấm áp, nhưng lại quá chật hẹp, không dung chứa nỗi những hoài bão của mình.

Cũng vì vậy, không biết bao nhiêu nhân tài, bao nhiêu chất xám mà cả nước không nơi nào có thể so đo với miền Trung đã lần lượt đội nón ra đi. Họ đi rồi vẫn ngoảnh mặt lại nuối tiếc về Huế, về cái gíó Lào, về những ruộng rau sống khô cằn đắng ngắt vì thiếu nước, giống như người dân ở đó. Huế đúng là để đi và rồi để nhớ. Ngay những người từ phương xa tới khi nghĩ tới, lúc rời khỏi Huế khó có thể quên được. Trong khi đi về các tỉnh phía Nam ăn uống, vui nhậu nhẹt, thoải mái cười đùa, ngày mai ra bến xe đò là quên hết.

Nhưng cũng cần phân biệt ở miền Trung giữa các tỉnh phía Bắc và phía Nam. Các tỉnh phía Bắc ti lệ thi đỗ cao nhất trong vùng. — các tỉnh Bình Thuận đến Quản Nam, số người đỗ đạt tổng cộng là 252 người… (16) Quảng Ngãi và Bình định số người thi đỗ từ đời Gia Long đến Tự Dức tăng từ 4 lên đến 85 người. Nhất là trong tỉnh Quảng Nam, dân giàu vì có mỏ vàng, tỉ lệ cao so với các tinh khác… — các tinh Bình Thuận đến Quảng Nam, số người đỗ đạt tổng cộng là 252 người. từ 7 lên 62, rồi 87. Đã hẳn, triều đình Huế có đủ các lý do về chính trị, kinh tế, văn hóa để lo ngại về dấu vết ảnh hưởng của văn minh Chàm, cũng như những ám ảnh về một quá khứ của Tây sơn đã hẳn còn in đặm trong lòng một số người, mà thời gian chưa đủ để xóa nhòa. Vả lại nếu đặt để bên cạnh nhau về một hình ảnh Tây sơn mới đây và hình ảnh Gia Long hiện nay, cái tâm lý thông thường cho thấy người dân sẽ ngả về phía nào.. Nhưng dù thế nào đi nữa, thì cái công xây dựng thủ đô, cái hệ thống triều đình, quan lại mỗi ngày một vững bền, với thời gian, lòng người cũng sẽ lóng lại, thì từ nay, mảnh đất này cũng sẽ trở thành một thủ đô văn hóa như đất Thăng Long vậy.

Nhưng chúng tôi cũng xin đưa ra ở đây một nhận xét là, không hiểu vì lý do gì, tất cả 3 trung tâm lớn là Hànội, Huế, Saìgòn lại có tỷ lệ thi đỗ thấp hơn những vùng biên trấn. Chẳng hạn như trong Nam thì tỉnh Gia Định và Biên hoà có tỉ lệ những người đỗ đạt cao nhất vùng.. Riêng tỉnh Gia Định, tổng số người đỗ đạt nhiều hơn 5 tỉnh kia cộng lại. — Huế, chúng ta nhận thấy số người đỗ đạt giảm sút kể từ sau giai đọan 1819, nhất là vào khoảng giữa thời Minh Mạng và cứ như thế, ổn định ở mức thấp cho đến 1852.

Tỉ Lệ Thi Đỗ Tại Bắc Kỳ.

— ngoài Bắc, thì số người đỗ đạt tập trung nhiều nhất ở 14 biên trấn quanh Hànội mà cái trục chính là Sơn Tây, Hải Dương và đặc biệt là Nam Định. — tỉnh Nam định thì đặc biệt là vùng Hành Thiện đã phá kỷ lục về số người đỗ với 73 người từ năm Gia Long 1813 cho đến lúc chấm dứt thi cử 1918. Nghiã là tròn 100 năm.

Xã Hành Thiện, tỉnh Nam Định.

Trong bài này, chúng tôi thấy phải dành riêng một phần để nói về xã Hành Thiện. Xã Hành Thiện thuộc huyện Xuân Thủy, tỉnh Nam Định. Xã có 18 (Giông). Giông là tiếng địa phương để chỉ những con đường, hai bên có nhà cửa. Đó cũng là lối tổ chức nhà cửa xây cất có thứ tự của làng Hành Thiện. Trong QTHKL tôi thấy mãi đến năm Gia Long 1813 (Gia Long lên ngôi 1802), mới có Nguyễn trọng Trù là người đầu tiên thi đậu. Sau đến năm 1821 có 2 người em của Nguyễn Trọng Trù đậu cùng khoa. Và cũng kể từ đó liên tiếp các khoa thi đều có người của làng Hành Thiện thi đậu.

Trong số những người thi đậu này, có nhiều trường hợp đáng nêu ra ở đây. Thứ nhất là dòng họ Đặng có 39 người thi đậu. Có người đỗ Phó Bảng như Đặng Đức Địch sau làm đến Thượng thư Bộ Lễ. Có người đỗ Tiến sĩ như Đặng xuân Bảng (Tự Đức 1850. hay Đặng hữu Dương (Thành Thái 1891). Có trưòng hợp cả dòng họ, ông, cha con cháu, anh em đều thi đậu. Tỉ dụ Gia đình Đặng hữu Dương (Ông cháu, anh em cùng thi đậu,) Gia đình Đặng văn Độ, cả 3 anh em đều thi đỗ., Gia đình Đặng vũ Mẫn cũng 3 anh em cùng thi đậu. Đặc biệt gia đình Đặng vũ Phong Cha con cùng thi đậu, anh em đậu cùng khoa. Con là Đặng văn Tường, anh Đặng vũ Oánh, cháu Đặng vũ Uyển, em họ Đặng vũ Thực, Đặng cao Chi, Đặng vũ Hoan. Thật là vinh hạnh hết chỗ nói.Thật khó mà hiểu tại sao có một dòng họ đỗ đạt nhiều như vậy. (17)

Huyện Xuân Thủy (sau đổi là Giao Thuỷ) gồm nhiều xã, xã nào giỏi lắm thì có độ 3, 4 người thi đỗ như Trà Lũ, Kiên lao. Hoặc chỉ có một người thi đỗ trong suốt 100 năm như các xã Hội Kê, Hộ Xã, Lạc Nam vv… Tôi cũng nhận thấy một số làng, khá nổi tiếng về mặt này, mặt kia như làng Ngọc Cục, đối diện với Hành Thiện hay làng Trung Lao, Sở Kiện, Hoàng Nguyên hay làng Cự Đà, vậy mà trong suốt hơn 100 năm triều Nguyễn, không có một người nào trong các làng này có người thi đỗ.. (Xứ Trung Lao sau này có cụ Thượng Nhạ, nhưng tìm lại danh sách các người thi đậu thì không có tên cụ. Tôi giả đóan là cụ thuộc lớp nho học, bắt đầu có học Tây học, rồi được người Pháp nâng đỡ cho chức Thượng mà không phải thi cử gì cả, cũng giống như trường hợp các cụ Thượng Oánh, Thượng Bùi. Cái câu trong nhân gian nói về cụ là; Lý trưỏng bất túc, Tổng đốc hữu dư có thể giải thích được phần nào cái chức Thượng của cụ.

Do sự tò mò mà chúng tôi khám phá ra một đìều hết sức lý thú và quan trọng là suốt hơn trăm năm thi cử dưới triều Nguyễn, Hơn 50 chục làng công giáo mà chúng tôi biết được thì hầu như trong tất cả các làng đó đều không có người nào thi đỗ làm quan. Thoạt đầu, chúng tôi xem xét các làng chung quanh làng Hành Thiện để xem có người thi đỗ không, từ đó suy diễn ra cái tầm ảnh hưởng của Hành Thiện trên các làng lân cận. Về địa lý, làng Ngọc Cục chỉ cách một con sông với Hành Thiện, vậy mà không có lấy một người thi đậu suốt dọc dài hơn 100 năm. Một điều thật khó hiểu. Từ đó suy ra các làng công giáo khác. Kết quả thật ngạc nhiên: Hầu như không có làng công giáo nào cả. Những làng công giáo nổi tiếng như Phát Diệm, Sở Kiện, Trung Lao, Phúc Nhạc, Thạch Bích, Trung đồng,An Lộc, Bói kênh, Bình Cách, Lưu Phương Mưỡu Giáp vv Và rất nhiều xứ khác không cần kể ra đều không có ai thi đỗ và ra làm quan.

Từ những dữ kiện thu lượm đụợc ở trên, tôi suy diễn ra là có một chính sách ngăn cấm, hay tối thiểu thì cũng có giới hạn không cho phép người công giáo có cơ hội để đi thi. Cơ hội học thì có, nhưng không có cơ hội để thi.. mà không thi thì việc học sẽ rất hạn chế.

Cho mãi đến Thành Thái 1894 mới thấy có ông Vũ Luyện, người làng Quần Phương, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định là một làng thuần công giáo có người thi đậu. Và đến năm1900, lại có người ở làng Quần Phương thi đậu. Nhưng năm 1900 là những năm cuối trào về thi cử và niên hiệu Thành Thái cũng cho thấy đó là giai đọan cởi mở hơn về chính sách cấm đạo.

Có những liên hệ gì cho phép chúng ta đi đến một kết luận là chính sách cấm đạo đã là nguyên do, trong dó gần 100 năm, người công giáo và các làng công giáo trở thành một loại công dân hạng nhì, vì không có cơ hội tiến thân về con đường học vấn, đóng góp nhân tài cho xứ sở. Nhưng cho đến nay, tôi không tìm thấy bất cứ văn bản chính thức nào giúp chúng ta có thể khẳng định dứt khoát là có một chính sách ngăn cản người công giáo thi cử. Trong sách vở về phía công giáo, tôi cũng chưa có cơ hội đọc hoặc nghe những cơ quan thẩm quyền xác định về điều này. Vậy thì, tất cả chỉ là những suy đoán mà thôi. Nhưng cái vấn đề các làng công giáo không có người thi đậu vẫn là một thực thể không chối cãi được và tự nó đòi hỏi có câu giải đáp.

Trở lại trường hợp làng Hành Thiện, làm sao cắt nghĩa được vào năm Thành Thái thứ 6 (1894), Trường Hà Nam có 9700 dự thi, lấy 60 ngùời đỗ, làng Hành Thiện chiếm 6 chỗ, 54 chỗ còn lại dành cho khoảng hơn 400 xã khác. Làm sao giải thích được sự kiện có làng thi đỗ có làng không Một giải thích dễ dãi, thiếu cơ sở khoa học là nói đến đất, đến có mả, hoặc văn hoa hơn gọi là đất ngàn năm văn vật. Cần tìm một lối giải chứng có cơ sở và khả tín hơn.

Có những giai thoại nghe ra có vẻ khinh bạc, nhưng cũng chứng tỏ một phần sự thật về vùng này, Người Hà nội có thói quen khá kiêu sa là thay vị gọi tên một người, họ lại gọi chức vị xã hội của người đó. Chẳng hạn cụ Tham Bảng, ông Đốc Ninh, Ông Phủ Dõan vvv. Xem Hồi Ký của Vũ Ngọc Phan, cuốn Những năm tháng ấy. (18)

Và nếu có một người khách nào đó về làng Hành Thiện, theo thói quen, hỏi thăm nhà cụ tham, cụ phó vv. Người dân làng sẽ trả lời là ở đây cụ tham, cụ cử nhiều như lợn con, hỏi thế biết đường nào mà lần.

Giải thích về con số đỗ đạt ở vùng này vì dù sao đất Bắc từ xưa tới nay, vẫn là cái nôi, của văn hoá và trí tuệ của cả nước. Nó có truyền thống lâu đời về việc học. Số trường học, cũng như trung tâm thì cũng nhiều hơn các nơi khác Một trường cho 6000 người ứng thi. — các vùng như Sơn Tây Hải Dương, Bắc Ninh thì khoảng 3000 người ứng thi cho một trường. Cái nọ nó kéo cái kia; truyền thống, tổ chức trường ốc, truyền thống địa phương, gia đình, họ hàng, sự giao tiếp cách này cách khác, trực tiếp hay gián tiếp, hoặc được nghe nói về đã là những cơ hội giúp những kẻ hậu sinh cố gắng vươn lên theo những mô hình lý tưởng khuôn mẫu là các bậc đàn anh.

Cách giải thích đúng lý nhất là TINH THÂN GIA TỘC, giáo dục gia đình bằng gương sáng cha anh đỗ đạt, mô hình lý tưởng là cha anh được mọi người kính trọng, được hưởng lợi lộc quan tước của trều đình. Lấy trường hợp họ Đặng sẽ giúp giải thích được yếu tố gia đình có tác dụng quan trọng thế nào cho việc thi đỗ của một người. Chúng tôi nhận thấy trong thời kỳ Gia Long đến năm 1825, tỉ lệ dòng họ Đặng thi đỗ so với các họ khác tại Hành Thiện 2 trên 6 sau đó 1850 là 8 trên 9, 1906 thì trội vượt là 36 trên 32 và cuối cùng là 39 trên 34, Riêng đời Thành Thái 1897, dòng họ Đặng có 6 người đỗ trong một khoa, kết quả đó cũng lặp lại một lần nữa vào năm 1903. Biểu đồ giúp ta hiểu chính xác truyền thống gia đình, cha truyền con nối, trong cùng gia đình, cùng dòng họ, có nhiều người thi đỗ. Sự trội vượt của họ Đặng cắt nghĩa bởi họ cùng huyết thống. Các họ Nguyễn, Trần, Phạm trong làng Hành Thiện chưa chắc đã cùng chung huyết thống nên đường dài sẽ thua sút họ Đặng. Điều đó xét ra cũng đúng một phần nào cho trường hợp người Việt Nam ở hải ngoại, đặc biệt là Montréal, mà một số đông con cái các gia đình đã thành công trong việc học.

Tỉ Lệ Thi Đỗ — Các Vùng Cao.

Cũng dựa trên những con số để nhìn về những vùng cao mà đa số là thanh phần các dân tộc thiểu số cho thấy tỉ lệ những người thi đỗ thật là ít ỏi. 6 tỉnh vùng này chỉ cống hiến được có 3 người thi đỗ, và đều thuộc những tỉnh huyện như Quảng Yên và Hưng Hóa rất gần với các tỉnh vùng đồng bằng. Điều đó cho thấy, thiếu một chính sách nâng đỡ cũng như tổ chức trường học giúp cho các tỉnh vùng cao có cơ hội nhập vào đời sống của miền dưới. Cho nên đồng bào các dân tộc thiểu số sau nhiều thế kỷ vẫn là những tỉnh bên lề như người nước ngoài ngay trên mảnh đất mà không biết tự bao đời họ vẫn tồn tại, mặc dầu có những đổi thay lớn nhỏ có tầm vóc lịch sử có liên quan đến sự sống còn của người dân ở các vùng dưới. Phần họ, họ vẫn là họ, Muôn đời.

Cũng qua những con số về những người thi đậu qua các triều vua, cũng như một cái nhìn lướt qua về các vùng có người thi đậu… Chúng tôi thấy rằng cái vấn đề lớn và quan trọng nhất không hẳn ở chỗ xem ai đậu, đậu ở đâu mà là nhìn ý nghĩa việc thi cử thời xưa qua những người không may mắn, khác đi là những người thi rớt.

Về những Người Không Đậu.

Trong tất cả những cuốn sách về thi cử mà chúng tôi đọc, không có một chỗ nào cho người không đậu (Tôi không dùng từ thi rớt) hay chỉ đậu tú tài. Đối với việc thi cử thời xưa, tú tài không có nghĩa là bằng cấp, và không được triều đình sử dụng. Người đỗ tú tài chỉ là những người không đỗ cử nhân, nghĩa là không đậu đủ 4 trưòng, mà chỉ đỗ có ba trường mà thôi.

Sách Quốc triều hương khoa lục của cụ Cao xuân Dục chỉ nói tới những người đỗ cử nhân thôi, LTHCLC của Phan huy Chú lại chỉ có danh sách các người đậu tiến sĩ từ khi bắt đầu các khoa thi.

Vậy mà cái thành phần chủ yếu của giai cấp nho sĩ lại là các nhà nho không đỗ đạt gì, hoặc chỉ là tú tài. Họ làm đủ thứ nghề như thầy lang, thày địa lý, cho đến cả bói toán cũng như gia sư cho các nhà giầu có. Nhưng cái thành phần đông đảo của họ vẫn là các ông đồ nho mà trong làng, huyện tỉnh nào cũng cần sự có mặt của họ.. Đã thế, trong mỗi làng đều cần đến những người có học, nên họ giúp một phần đắc lực cho các ông lý trưỏng, chánh tổng vv.. Sự có mặt của họ đôi khi còn là biểu tượng cho giềng mối luân lý, phong tục, nề nếp trong làng. Có thể nói không có nho học, nếu không có những người đại diện là các cụ đồ nho. Họ là biểu tượng cho lề luật, nếp sống, nếp suy nghĩ của dân làng. Không có luật lệ thành văn, nhưng qua giới nhà nho mà nề nếp, phong tục, đời sống xa hội được tôn trọng, được duy trì. Đời sống của họ là tấm gương từ đó phát huy những giá trị đạo đức.

Lấy trường hợp nhà nho Nguyễn Đức Đạt, 50 tuổi về hưu, mở trường dạy học, học trò có cả ngàn. Những môn sinh của ông có người đỗ đạt như Hoàng Cao Khải làm quan đến kinh lược Bắc Kỳ, hay cụ Cao xuân Dục, làm đến Lễ Bộ thương thư, thi sĩ Nguyễn Khuyến làm đến Tổng Đốc Sơn, Hưng Tuyên mà khi đến hầu thầy vẫn giữ lễ thầy trò. Khi ông ra thăm Thăng Long, Hoàng Cao Khải ra lệnh cho tuần phủ Ninh Bình vào tận Đồng Giao đón ông. Khi võng ông đến Thường Tín. HCK và CXD ra nghênh tiếp, đi bộ theo sau, có đủ mặt các quan đầu tỉnh Bắc Kỳ đến bái kiến. (19)

Điều đó chỉ ra rằng, vai trò nhà nho là yếu tố quyết định hình thành nếp sống, nếp suy nghĩ của người dân.

Họ phần đông sống nhẫn nhục, đạm bạc và túng thiếu, cố gìn giữ cái danh phận, dù cơ cực, nghèo túng và sống bất đắc chí đứng ở giữa giai cấp nông dân nghèo đói, ít học mà họ là đại diện và giới quan lại, nhà vua. Họ dễ có cái khả năng nhạy cảm để thấy được những sai trái, những những áp bức của giới cầm quyền. Nhưng họ cũng cảm nhận được sự bất lực của mình trước chính bản thân họ, và trưóc hoàn cảnh đất nước. Bi kịch của họ là bi kịch của những người có học, nhưng lại không đảm đương bất cứ một vai trò gì để có thể giải hoá những khó khăn của đất nước mà họ cảm thức được sự bất lực và sự vô hiệu của triều đình.

Họ là cái thành phần đông đảo, bất đắc chí là các ông đồ nho. Họ có bao nhiêu. Vào đời Gia Long (Theo ĐNNTC), họ có 643.706. Thời Minh Mạng, có 770.798. Thời Thiệu Trị 974.786. Thời Tự Đức chỉ còn 885.517 người. Với một số đông đảo như thế mà chẳng có mấy người có được chức vị cao trong triều đình. Sang đến thời Tự Đức bắt đầu có sự suy thoái dần, ảnh hưởng sang Tây học.

Ngày nay, nhìn lại cái lối tuyển chọn quá khắc nghiệt làm hao tổn không biết bao nhân tài, không biết dùng và sử dụng người, bóp nghẹt các sĩ phu. Tỉ như dưới triều Nguyễn chỉ có tối đa là 7 trường thi, không hơn gì số trường thi ở miền Bắc trước đó dưới thời các Chúa Trịnh nắm quyền. Chẳng hạn khi Nguyễn Trường Tộ dâng bản điều trần, nhà vua không lý đến những đề nghị của ông, chỉ phán: Cho y một chức quan nhỏ để thưởng cho y. Thật là khinh miệt kẻ sĩ, vì Nguyễn Trưòng Tộ, khi dâng bản điều trần thì đã hẳn đâu có cầu cạnh quan tước gì.

Về việc thi cử thì trước thế nào sau như vậy. Vì thế cuốn Lều Chõng là Một bản án, phê bình cái học cổ hủ, giáo điều. Vân Hạc là hình ảnh một người trí thức có tài, nhưng thi cử lận đận, thông minh và có lương tri, nhưng không ai dùng. Đó không phải là số phận. Đó là thân phận người trí thức   mà đại diện là tầng lớp nho sĩ. Tất cả là một sự xa hoa, xài phí chất xám vô ích. Cái bi kịch người trí thức này chấm dứt với hai cái chết tuẫn tiết của Phan Thanh Giản, (Cụ PTG là người đỗ đạt đại khoa đầu tiên của xứ Nam kỳ, đậu tiến sĩ năm 1826.) trong Nam và Hoàng Diệu, ngoài Bắc. Hai cái chết đó tiêu biểu cho sự cáo chung, sự bất lực của tầng lớp nho sĩ. Cái chết đó nêu gương khí tiết, nhưng nó cũng chỉ ra rằng thời của nho gia không còn lý do tồn tại nữa.

Về Việc Tổ Chức Thi Cử

Về tổ chức thi cử nói chung thì phải nói là thập phần chặt chẽ, tỉ mỉ, chi ly từng chi tiết, không thiếu xót một chi tiết nào, nhằm bảo đảm sự công bằng, tránh gian lận, cho thấy nhà vua coi việc thi cử như một QUỐC SÁCH của cả nước. Chỉ xin viện dẫn một vài chi tiết sẽ cho thấy rõ điều đó. Các quan đề điệu, giám thi, thừa sứ, tham nghị, giám khảo, phúc khảo đều có tiêu chuẩn về nhà cửa ăn uống riêng… Lấy trường hợp quan đề điệu mỗi ngày được gạo 7 bát và nưóc mắm, rưọu, trứng, muối, chè, gừng, củi, cộng chung giá tiền là 42 đồng. Nhưng đến quan đồng khảo thì gạo chỉ còn có ba bát thôi. Cái này thì kể ra khá bất công. Quan nào thì cũng cần ăn cho no mới làm việc đưọc. Sự khác biệt giữa 7 bát và 3 bát là sự khác biệt căn cứ trên chức vị hơn là trên nhu cầu.. Nói chi đến bọn binh lính và người theo hầu của các quan.

Lấy trường hợp quan giám thị thì đưọc cung cấp giường, phên nứa, cây đèn, dao quai, dao to, rổ rá, mâm và chậu gỗ sơn vẽ đều mỗi thứ mỗi cái, chiếu tốt một đôi, chiếu thường một đôi (quá thừa thãi, lãng phí của công), dầu 2 chĩnh, bấc đèn một bó, nồi đất 3 cái, chum lớn, chum nhỏ mỗi thứ 2 cái, bát dĩa mỗi thứ 15 cái. Cứ như thế, tuỳ theo chức vị mà có sự gia giảm số lượng. Chẳng hạn quan đồng giám khảo chỉ còn được hưởng 10 bát đĩã, chum lớm chum nhỏ chỉ còn mỗi thứ 2 cái. (20)

Đọc phần này của Khoa mục chí, cái nhận xét của chúng tôi là cảm phục cái người đứng ra tổ chức, phân phối đồ vật chi dùng của các quan, Từng chi tiết phải được tôn trọng, không được thiếu xót vì có trong điều lệ. Thiếu một chút cũng không được sẽ có so bì hơn kém. Đã vậy, lấy đâu ra tiền bạc, vật liệu để chi dùng. Các ty thừa hiến lại gõ đầu các quan huyện, châu trong hạt. Lại từng chi tiết rất chi ly. Xã phường lớn 2 quan 75 bát gạo. Xã phường trung 1 quan 5 tiền quý, 50 bát gạo, xã phường nhỏ 1 quan tiền quý, 35 bát gạo. Riêng các xã biên trấn thì xã lớn 1 quan tiền gián, 20 bát gạo, rồi đến 15 bát gạo và 10 bát gạo cho xã trung và xã nhỏ. Tiếp đến những thể lệ cho ĐÂU THẦU XÂY CẤT trường thi cũng rắc rối hành chánh sự vụ để tránh lạm dụng, lãng phí, tham ô. Tất cả những điều vừa trình bày trên cho thấy một tổ chức hành chánh quy mô, phức tạp mà người điều hành, như quan niệm ngày nay thì ít ra cũng phải tốt nghiệp trường Quốc gia hành chánh hay Chính trị kinh doanh Đà lạt mới đảm đương nổi. Nó còn chỉ cho thấy, để tránh LẠM QUYỀN, Các ty sở liên hệ không được đấu thầu như hai ty thừa hiến, bọn tai mắt, bọn quyền quý, bọn cường hào không được ủy thác đứng ra thu tiền, gây tình trạng lạm thu quá lệ, làm phí của dân. Rồi xã phường nào không đóng góp đủ thì cho phép các quan huyện châu trình lên Phủ Doãn và Hiến ty, XÉT RA LÀ THỰC thì xử phạt phải trả lại Bội Sổ, để trừng phạt. Nhưng học trò xã đó vẫn cho thi. (21)

Trở lại việc thi cử của các triều vua cũ tuy là chu đáo, nhưng cũng có 2 thời kỳ cho thấy việc thi cử đi đến chỗ suy đồi, không còn là nơi kén chọn hiền tài nữa. Đó là từ năm 1750 cho phép đóng tiền thì có quyền đi thi vì thế ai cũng có quyền dự thi, không kể dốt giỏi, nhiều người dốt, nhưng cũng đóng tiền để thi cho có tiếng.

Vì thế người làm ruộng, người đi buôn, cho chí người hàng thịt, người bán vặt cũng đều nộp đơn xin thi cả. Ngày vào thi đông đến nỗi giày xéo lẫn nhau, có người CHẾT ở cửa trường. Trong trường thi, nào mang sách, nào hỏi chữ, nào mượn người thi thay, công nhiên làm bậy, không còn biết phép thi là gì. Những người thực tài, mười phần không đậu một.

Việc thi cử như vậy nên mới có việc bọn sinh đồ 3 quan đầy thiên hạ, người trên lấy tiền mà không ngại, kẻ dưới nộp tiền để đỗ mà không thẹn, làm ra trường thi thành chỗ BUÔN BÁN. (22)

Dưới thời Pháp, việc thi cử thật lem nhem, chỉ còn là việc mua bán, hối lộ mà nguyên do là ở những khoa thi chót, có thêm bài thi Pháp văn, khi lễ xướng danh thì có chức quyền người Pháp tham dự. Nhiều quan chức người Pháp có nhúng tay vào việc thi cử lem nhem này. Việc hối lộ quan chức Pháp thể hiện qua 2 câu thơ sau đây:

Con nên khoa mục cha mòn trán

Em được công danh chị nát đồ.

Đọc hai câu thơ trên, nếu tinh ý một chút thì thấy rằng, đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử thi cử nước ta, việc cậy cục chạy chọt thi cử có thể bằng một con đường khác con đường chạy chọt bằng tiền… Chữ nghĩa trước đây có thể mua bằng tiền thì nay bằng THÂN XÁC người Phụ Nữ cũng như việc thăng quan tiến chức sau này cũng không tránh khỏi thông lệ này. (23)

Trong cuốn Hơn nửa đời hư của cụ Vương Hồng Sển cho thấy các quan chức lớn bé đều có thể mua chuộc bằng sắc đẹp phụ nữ cả. Và chính tác giả vì không chịu đút lót thi cử nên mới không đỗ. Và vì vậy mới có cơ hội để ông viết cuốn Hơn nửa đời hư. Ông kết luận: Cám ơn đã được thi rớt.

Sách đọc:

Phan Huy Chú, Lịch triều Hiến Chương lọai chí. Phần Khoa mục chí.

Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ. Tập 7. Biên soạn : Nội các triều Nguyễn.

Cao Xuân Dục. Quốc triều Hương khoa Lục

Trần Gia Phụng. Những câu chuyện Việt sử

Đinh Gia Khánh. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam. Thế kỷ X đến XV11

90 năm nghiên cứu về văn hoá và lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học xã hội

Ngô tất Tố, Lều chõng.

Sơn Nam : Đồng bằng sông Cửu Long, Đất Gia Định xưa, Bến Nghé xưa

Vương Hồng Sển. Nửa đời hư.

Trần văn Giáp. Nhà sử học.

Vũ Ngọc Phan. Những năm tháng ấy.

Hợp Lưu. Số đặc biệt về Giáo sư Hoàng Xuân Hãn.

Hợp Lưu. số đặc biệt về Phan Khôi.

Đỗ Bằng Đoàn. Đỗ trọng Huề, Khoa cử Việt Nam.

(1) Phan huy Chú, Lịch Triều hiến chương, phần Khoa mục Chí tr149.

(2) Đinh Gia Khánh, Hợp tuyển thi văn Việt Nam tr 15..

(3) Phan Huy chú LTHCLC. Phần khoa mục chí

(4) Trần Gia Phụng. Những câu truyện Việt sử

(5) Phan huy Chú. Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí (LTHCLC), tr 169

(6) Phan Huy chú LTHCLC. Phàn khoa mục chí. Tr. 160

(7) Phan Huy chú LTHCLC. Phàn khoa mục chí. Tr. 161

(8) Hợp Lưu. Só đặc biệt về học giả Hoàng xuân Hãn.

(9) Đỗ bằng Đoàn và Ông Đỗ trọng Huề: Khoa cử Việt Nam. tr 197.

(10) Sách KĐ, quyển 7, tr. 416

(11) 90 năm nghiên cứi về văn hoá và lịch sử Vietnam. Baì của Langlet. tr. 221

(12) Sơn Nam, Bến nghé xưa. tr. 11-15

(13) Sơn Nam. Đồng Bằng sông Cử u Long. tr 38,40

(14) Sơn Nam, Đất Gia định xưa tr. 71

(15) 90 năm nghiên cứu về văn hoá và lịch Việt Nam. Tr 290.

(16) 90 năm nghiên cứu về văn hoá và lịch sử Việt Nam. Bài của Langlet. tr. 223

(17) Cao xuân Dục, Quốc Triều Hương Khoa Lục.

(18) Theo G.S Tạ Trọng Hiệp, trong cuốn hồi ký cuối đời của ông Vũ ngọc Phan, mà chúng tôi đã đọc, nhưng không thấy được những kẽ hở quan trọng về nhân cách nhà văn như G.S đã nhận ra (G.S. Hiệp đã quá cố). Thời Nhân văn giai phẩm, theo tôi cũng giúp chúng ta có cơ hội thấy đưọc một số trí thức tiểu tư sản hèn như thế nào. Nổi tiếng thì như Thế Lữ. Riêng Thế Lữ thì tôi đã nhận ra ông ngay từ thời T.L.V.Đ. Khi cuốn phóng sự Làm Đĩ ra mắt Ông diễu : Có một người khách vào tiệm sách hỏi cô bán sách : Cô có LÀM ĐĨ không.. Cô bán hàng không vừa Đốp lại. Thưa không, ông lấy một CÁI TÁT nhé! Ông đã vùi dập những người không phải phe nhóm như khi ông phê bình, diễu cuốn Thần Hổ của Tchya. Sau này ông theo C.S, ông đập Phan Khôi cùng với Nguyễn công Hoan.

Riêng Vũ ngọc Phan thì khôn ngoan hơn, ông để gần 100 trang để nói về mối tình với cô Hằng Phương, Hằng Phương là ai. Là con gái Sở Cuồng Lê Dư, người cộng tác làm báo N.P với Phạm Quỳnh. Ông Lê Dư có 3 người con gái đẹp, 1 lấy Vũ Ngọc Phan, 1 lấy tướng Nguyễn Sơn, nổi tiếng ở Thanh Hoá một thời (Xin đọc hồi ký của Phạm Duy), và gái cuối cùng lấy Hoàng văn Chí. Ông Lê Dư lại lấy em gái cụ Phan Khôi. Rắc rối rồi.

Vì vậy, trong hồi ký không nhắc gì đến TÊN bố vợ.., đến ngày tháng năm sinh, người ta cũng cố tình quên khi cần phải viết về tiểu sử Lê Dư.. Tên ông ngoại của bố vợ là cụ Phan Trân thì lại cố tình viết trẹo ra là cụ Phan Trần. Kỹ quá. Mà cũng tội nghiệp cho họ.

(19) Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề: Khoa cử Việt Nam tr.27.

(20) Phan Huy chú LTHCLC. Phần khoa mục chí. Tr. 181

(21) Phan Huy chú LTHCLC. Phần khoa mục chí. Tr. 177

(22) Phan Huy chú LTHCLC. Phần khoa mục chí. Tr. 174

(23) Vương Hồng Sển. Hơn nữa đời hư. Tr. 299