VŨ NỮ CẨM NHUNG

Xuyên Sơn

Người Sài Gòn trước đây không mấy ai mà không nghe qua cái tên vũ nữ Cẩm Nhung (1940-2013) và vụ đánh ghen tạt acxit rùng rợn lần đầu tiên xảy ra tại Việt Nam. Cẩm Nhung là nạn nhân của vụ đánh ghen tàn khốc này khiến dung nhan của cô trở nên dị dạng, trở thành phế nhân tàn tật, suốt cuộc đời còn lại phải lê lết trên đường phố ăn mày ăn xin, cũng chỉ vì Cẩm Nhung là một “hồng nhan họa thủy”. ĐXGK mạn phép đăng lại bài viết sau đây của tác giả Trúc Giang MN tường thuật lại vụ đánh ghen kinh hoàng chấn động Sài Gòn đầu thập niên 60.

“khoảng 8 giờ tối ngày 17-7-1963, một phụ nữ vừa bước ra khỏi nhà, tiến về chiếc taxi chờ sẵn, thì bổng nhiên một người đàn ông xuất hiện, tay bưng một ca acid tạt vào mặt người phụ nữ.

Thiếu nữ thét lên trong đau đớn: “Chết tôi rồi! Cứu tôi với”, rồi ôm mặt ngã quỵ.

Một người đàn ông chạy đến, bế cô lên chiếc taxi chạy vào bịnh viện Sài Gòn cấp cứu.

Sau đó được chuyển đến Bịnh viện Đồn Đất (Grall) vào lúc hai giờ sáng ngày 18-7-1963.

Cái tin vũ nữ Cẩm Nhung bị tạt acid gây xôn xao trong giới thượng lưu thường lui tới các vũ trường.

Báo chí đăng tấm hình rất xinh đẹp của Cẩm Nhung đã gây xúc động và thương tiếc của người Sài Gòn và cả Miền Nam VN.

Đó là vũ nữ tài sắc vẹn toàn nổi danh là “Nữ hoàng vũ trường”, Cẩm Nhung bị đánh ghen bằng tạt acid.

Hai người thân là mẹ và bà vú lần lượt ra đi. Tài sản cạn kiệt.

Không nơi nương tựa nên phải đi ăn mày.

Đặc biệt là người ăn xin nầy mang trước ngực tấm hình cô chụp chung với người yêu là Trung tá công binh Trần Ngọc Thức.

Cẩm Nhung sinh năm 1940 tại Hà Nội.

Năm 15 tuổi theo gia đình di cư vào Nam, và trở thành vũ nữ chuyên nghiệp năm 19 tuổi.

Con gái 17 tuổi mà trổ mã đều đặn, nói chung là rất đẹp và hấp dẫn.

Cẩm Nhung bỏ học.

Lén đi học khiêu vũ ở một lớp dạy tư, do hai nhạc sĩ và là vũ sư Nguyễn Tình và Nguyễn Thống phụ trách.

Hai nhạc sĩ nổi tiếng với ngón đàn hạ uy cầm (Hawaiian guitar), đã đào tạo hàng chục vũ nữ cho các vũ trường Sài Gòn thời đó.

Nhờ có năng khiếu, mới học được nửa khóa đã tỏ ra nghệ thuật nhảy múa rất xuất sắc.

Vũ sư Nguyễn Tình nói với người tài pán Marie Sang:

“Đôi chân của nó, thân hình gợi cảm của nó rồi đây sẽ có khối đàn ông ngã rạp dưới chân nó mà chết cho coi”.

Tài pán là người quản lý vũ nữ ở vũ trường, còn gọi là “cai gà”. Khách đi solo muốn nhảy với vũ nữ đều phải do người cai gà đó sắp xếp.

Phải mua ticket thời đó là 20$. Mỗi ticket chỉ nhảy được một vài bản mà thôi. Muốn bao thầu cả đêm thì phải mua trọn gói chừng 15 ticket.

Đối với “Nữ hoàng vũ trường” Cẩm Nhung, thì khách phải lo lót chị tài pán.

Người nào cho tiền nhiều thì được cuộc. Muốn nhảy với kiều nữ suốt đêm, tới một hai giờ sáng thì khách phải mua trọn gói 15 ticket.

Khách sành điệu cùng vũ nữ rời vũ trường nầy, đến một vũ trường khác vừa khiêu vũ thoải mái, vừa giữ được tiếng tăm về đức hạnh của vũ nữ.

Nhảy được vài ba bản rồi rủ nhau đi ăn khuya như ăn cháo cá ở Chợ Cũ, cơm thố, cơm siu siu, hoặc mì La Cai…

Đó là xong phần một.

Phần còn lại do sự thỏa thuận của hai bên.

Khách nhảy phải típ cho vũ nữ, thời giá lúc đó là 500$.

Đêm vui trọn vẹn đạt “mục đích yêu cầu” thì tốn phí khoảng 1,000$, tương đương với mấy cây vàng. Cẩm Nhung đã qua nhiều vũ trường, và Kim Sơn là điểm chót. Nghe nói Trung tá công binh mua cho Cẩm Nhung một căn nhà trong hẻm bên cạnh vũ trường Au Chalet.

Từ đó, Cẩm Nhung đã bước vào con đường của định mạng, người tài hoa bạc mệnh.

“Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”.

Vụ đánh ghen bằng acid diễn ra ngày 17-7-1963 tại Sài Gòn.

Đó được xem như vụ đánh ghen tàn bạo và rùng rợn nhất chưa từng có ở Việt Nam trước kia.

Sự việc gây chấn động cả Sài Gòn và Miền Nam trong một thời gian.

Báo chí nhận định vụ đánh ghen bằng acid là lần đầu tiên xảy ra trong giới thượng lưu Sài Gòn. Nạn nhân bị đánh ghen bằng tạt acid là vũ nữ vô cùng xinh đẹp tên Cẩm Nhung của vũ trường Kim Sơn.

Báo chí thời đó hết lời ca ngợi nhan sắc và đôi chân dài điệu nghệ của cô vũ nữ gốc Hà Thành. Mệnh danh là “Nữ hoàng vũ trường”.

Tại vũ trường Kim Sơn, đường Tự Do, Cẩm Nhung phải lòng một khách nhảy hào hoa, dân chơi có tiếng tại các vũ trường là Trung tá công binh Trần Ngọc Thức.

Việc ông Thức cặp kè với Cẩm Nhung đến tai bà vợ là Lâm Thị Nguyệt, biệt danh là Bà Năm Rado, vì bà chuyên bán đồng hồ Thụy Sĩ hiệu Rado.

Máu Hoạn Thư nổi lên.

Người đàn bà dữ tợn nhất, độc ác nhất là lúc lên cơn ghen.

Thuở đó, ở Sài Gòn và cả Miền Nam chưa có vụ đánh ghen nào bằng tạt acid cả.

Thông thường thì đón đường chửi bới về việc giựt chồng, làm nhục nơi công cộng.

Bạo động hơn là “xởn tóc”, cao hơn nữa là “lột quần”.

Bà Lâm Thị Nguyệt thuê người tạt acid vào mặt Cẩm Nhung với giá hai lượng vàng.

Vụ đánh ghen bằng tạt acid diễn ra trong khi bà Ngô Đình Nhu, Trần Lệ Xuân, đang ở nước ngoài.

Nghe được tin, bà vô cùng tức giận. Ngay sau khi về nước, bà Ngô Đình Nhu đến Bịnh viện Grall thăm Cẩm Nhung.

Với tư cách là người lãnh đạo Phong Trào Liên Đới Phụ Nữ Việt Nam, binh vực quyền lợi và sự bình đẳng của phụ nữ, bà thúc đẩy điều tra và lập hồ sơ đưa ra tòa.

Vào tháng 10 năm 1963, tòa kết án Lâm Thị Nguyệt, vợ của Trung tá Trần Ngọc Thức và người đàn ông tạt acid mỗi người 20 năm tù.

Một người đàn ông liên hệ 15 năm.

Trung tá Trần Ngọc Thức bị cho giải ngũ.

Sau năm 1975, Đại tá Trần Ngọc Thức đi tù cải tạo ở Trại Z.30C, Hàm Tân.

Cẩm Nhung còn giữ được cái mạng nhưng dung nhan kiều diễm bị hủy hoại hoàn toàn. Tháng 9 năm 1963, Cẩm Nhung được đưa qua Nhật chữa trị, hy vọng phục hồi gương mặt như trước kia.

Bác sĩ Nhật bó tay.

Khi Cẩm Nhung về nước thì nền Đệ nhất Cộng Hòa đã sụp đổ.

Bà Ngô Đình Nhu sống lưu vong ở nước ngoài.

Người vũ nữ nổi tiếng một thời đã biến mất trong các sinh hoạt ở Sài Gòn.

Những biến cố chính trị dồn dập khiến cho việc đánh ghen dã man, tàn bạo rơi vào quên lãng và chìm trong quá khứ.

Từ địa vị của một nữ hoàng sống trên đỉnh cao danh vọng, rực rỡ dưới ánh đèn màu và điệu nhạc, phong lưu công tử bay bướm đa tình và các thương gia giàu sụ săn đón, bổng nhiên trở thành thân tàn ma dại, ngậm đắng nuốt cay cho số phận hẩm hiu,

Cẩm Nhung lao vào con đường đập phá, rượu chè, nghiện ngập, sa đọa…

Năm 1964 người mẹ qua đời. Cẩm Nhung sống với bà vú tên Sọ.

Tiền bạc, nữ trang lần lượt từng bước ra đi.

Bán căn nhà 200 lượng vàng và cùng với bà vú ra ở thuê nhà trọ. Bà vú Sọ qua đời.

Cẩm Nhung tật nguyền.

Không nghề nghiệp, không nơi nương tựa nên chỉ có con đường là đi ăn xin.

Trước Tết năm 1969, người ăn mày xuất hiện ở chợ Bến Thành. Mặt mày dị dạng, đeo trên ngực tấm hình chụp chung với người tình là Trung tá Trần Ngọc Thức. Cô lê bước trên các con đường Sài Gòn, trên hành lang của Thương Xá Tax.

Rồi đến những Chợ Bà Chiểu, Chợ Bình Tây…và sau cùng về Miền Tây ở bến bắc (Phà) Mỹ Thuận, Vĩnh Long.

Hành khách qua lại trên bến phà Mỹ Thuận cho biết Cẩm Nhung không còn mang tấm hình chụp chung với người tình nữa, mà chỉ mang tấm hình của bản thân người ăn mày.

Chuyện kể rằng, một hôm có mấy người lạ mặt đến trao cho người ăn xin một số tiền và giật lấy tấm hình chụp chung hai người.

Ở Sài Gòn xuất hiện bản nhạc “Bài Ca Cho Người Kỹ Nữ” của hai nhạc sĩ Nhật Ngân và Duy Trung.

Các tác giả viết bài hát này vì xót thương số phận của cô vũ nữ Cẩm Nhung.

Bài hát có đoạn:

Ta tiếc cho em trong cuộc đời làm người

Ta xót xa thay em là một cánh hoa rơi

Loài người vô tình giẫm nát thân em

Loài người vô tình giày xéo thân em

Loài người vô tình giết chết đời em…

Trong hồi ký “Đời 1998”, (nhà thơ) Nguyên Sa thuật lại nhiều lần ông và nhà văn Mai Thảo đến nhà chở Cẩm Nhung đi vũ trường Arc en Ciel, ăn kem và hóng mát ở Bến Bạch Đằng.

Lần sau cùng ông gặp Cẩm Nhung như sau:

“Lần chót tôi gặp lại người phụ nữ ấy, Mai Thảo dừng xe có phần gấp gáp, không có nét bay bướm nào. Anh đang phóng nhanh bỗng thắng két, táp xe vào lề, đậu xe bên phía tay mặt đường Pasteur.

Mai Thảo ra khỏi xe không một lời giải thích.

Tôi không hỏi, xuống theo ngay, linh cảm có chuyện gì khác lạ. Chúng tôi băng qua con lộ xe chạy một chiều vun vút.

Mai Thảo dừng lại trước một người hành khất, một người phụ nữ, móc trong túi ra một nắm giấy bạc, anh chuyển nắm giấy bạc sang tay kia, tìm kiếm thêm, tôi không nhận ra người hành khất là ai, chỉ thấy mặt loang lổ những vết cháy nổi lên những mảng thịt nửa đỏ nửa tím sậm, dị dạng, hai mắt vết cháy càng rõ, lòng trắng và lòng đen bị hủy hoại lổn nhổn.

Bạn tôi bỏ nắm tiền vào chậu bằng nhôm, những tờ giấy chạm vào tay người đàn bà hành khất, dường như nàng biết ngay người cho tiền là ai, sự va chạm của bàn tay vào những tờ giấy bạc cho nàng biết ngay là ai, ai có thể cho nàng nhiều tờ giấy bạc như thế, nàng ngẩng mặt lên gọi “anh”.

Mai Thảo vỗ nhẹ vào bàn tay nàng có tiếng nói an ủi bằng xúc giác, không có âm thanh nào được phát lên.

Tôi muốn nói lên tên người đàn bà hành khất.

Tôi chưa kịp nói thì Mai Thảo kéo tôi băng qua đường.

Tôi ngồi vào trong xe, nói lên ngay tên nàng.

Mai Thảo gật đầu.

Cẩm Nhung.

Tên người vũ nữ thay quần áo sau tấm bình phong mỗi lần Mai Thảo và tôi đến đón nàng đi làm hay đi ăn, đi ra Pointe des Blagueurs (Bến Bạch Đằng) hóng mát.

Cẩm Nhung bị tạt át xít trong một trận đòn ghen có sức mạnh của tiền hô hậu ủng, có sự tàn bạo mới của thế kỷ khoa học.

Tôi nhìn bạn tôi ngậm ngùi:

-Cẩm Nhung!

Mai Thảo nhìn về phía trước mặt, như nói một mình, rất khẽ:

-Nhung đấy!”

Một ngày đầu năm 2013, tại một xóm trọ nghèo ở thị xã Hà Tiên (tỉnh Kiên Giang), nơi những người ăn xin, bán vé số, bốc vác và dân tứ xứ đến thuê ở trọ, có một đám ma nghèo.

Một bà lão bán vé số đã qua đời vì già yếu, bệnh tật. Không một người thân, bà lão được những người đồng cảnh ngộ lo cho một quan tài loại rẻ tiền, rồi đưa ra nghĩa địa…

Sẽ không có chuyện gì đáng nói về đám ma nghèo của bà lão vô gia cư, nếu như người quá cố nói trên không phải là vũ nữ Cẩm Nhung, đã lừng danh ở nửa thế kỷ trước.”

Nguồn fb Thầy Lê Văn Thông


 

“TRÁI TIM NGƯỜI LÍNH” ĐÃ CHIẾN THẮNG HẬN THÙ!- Truyen ngan HAY

Xuyên Sơn

 Lời biên tập:

Trần Hoài Lam – Tác giả của bài viết này từng là một sĩ quan QLVNCH,

đang cùng gia đình định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO-20.

Ông nhớ về một kỷ niệm sâu sắc trong cuộc đời binh nghiệp của chính mình: Có một nữ chiến binh VC bị thương trong một trận chiến đẫm máu đã được ông cứu chữa.

Sau chiến tranh, người nữ chiến binh VC ấy đã vào tận trại cải tạo tìm thăm người cựu sĩ quan QLVNCH.

Khi được tự do, 2 người đã thành vợ chồng và họ sang Mỹ sinh sống…

Câu chuyện của 2 người lính từng một thời  là “kẻ thù” của nhau, ngỡ như chỉ có trong tiểu thuyết, thật cảm động, đầy tính nhân văn và vượt qua những bất đồng về lý tưởng.

Nó chứng minh một điều không phải ta dễ dàng nhận ra:

Trong chiến tranh, trái tim yêu thương sẽ chiến thắng sự hận thù, dù ở bên kia chiến tuyến!

*

Sau 3 ngày quần thảo ác liệt với đối phương, chúng tôi mới chiếm được mục tiêu.

Một đơn vị VC thuộc tỉnh Bến Tre đã bị xóa sổ, nhưng đơn vị của chúng tôi cũng bị thiệt hại nặng nề không kém!

Trung đội 4 của tôi được lệnh bung rộng ra kiểm soát từng hầm hố, từng công sự của đối phương.

Cảnh vật hoang tàn đổ nát, những thân cây dừa bị mảnh đạn pháo binh băm nát lỗ chỗ.

Hầu như không còn chỗ nào nguyên vẹn, mùi thuốc súng nồng nặc khó chịu vẫn còn vương lại nơi đâỵ.

Tôi với Kính, người mang máy truyền tin, cẩn thận từng bước trên bờ mương nhỏ.

Chợt Kính giơ tay ra hiệu:

– Sếp ơi! Coi chừng, hình như có người trong lùm cây đàng kia.

– Tản rộng ra, theo dõi kỹ chung quanh và coi chừng trái nổ gài lại đó.

Tôi ra lệnh cho Kính xong là lom khom phóng qua những thân cây nằm ngổn ngang trên mặt đất.

Khẩu M16 lên đạn sẳn sàng. 

Kính theo kế bên hông.

Những tiếng rên nho nhỏ từ trong lùm cây rậm rạp, ngày càng nghe rõ dần…

– Một nữ “Vi xi”! – Kính nói nhỏ.

Kinh nghiệm chiến trận cho tôi biết không bao giờ hấp tấp trước mọi tình huống.

Có thể đối phương gài mìn bẫy xung quanh, hoặc giả vờ bị thương để dẫn dụ đối phương tới gần rồi sát hại.

Giơ ngón tay ra hiệu lệnh và chỉ vào lùm cây, tôi quan sát lần nữa rồi rón rén bước nhẹ, đằng kia thằng Kính lăm le khẩu súng trên tay trông chừng.

Tôi lấy mũi súng vạch đám lá, một cô gái còn rất trẻ trạc độ 18 – 19 tuổi, tóc tết đuôi sam, nằm gối đầu lên chiếc ba-lô mầu “cứt ngựa”, vai trái bị trúng đạn máu tuôn ra ướt đẫm, mắt nhắm nghiền nhưng miệng vẩn không ngớt rên rỉ:

– Nước… Nước… Cho tôi miếng nước.

Trước tình trạng nguy hiểm đến tính mạng của cô địch quân sau khi ngừng tiếng súng, việc đầu tiên là phải cầm máu.

Tôi lấy băng cá nhân lau nhẹ trên vết thương.

Đoạn dùng lưỡi lê cắt khoảng áo trên vai, đỡ cô ngồi dựa vào người, tôi đoạn bảo Kính:

– Mày băng dùm cho tao, nhớ nhẹ taỵ!

– Ông nhân từ quá, gặp em đi một mình là con nhỏ này tiêu đời! –

Kính vừa băng vừa cằn nhằn.

Tôi im lặng không nói gì.

Thằng Kính cũng có lý.

Những người lính ra trận làm sao tránh khỏi thương vong.

Liệu VC có nhân từ với những người anh em của tôi không?

– Nước… Cho tôi xin miếng nước.

– Đ. Mẹ … Câm miệng lại!

Kính văng tục và gầm ghè giận dữ.

Tôi lừ mắt nhìn người đệ tử ra vẻ không hài lòng.

– Mày đừng nói như vậy, với một người sắp chết, mình đừng nuôi thù hận nữa. Thôi mày ra ngoài trông chừng cho tao đi!

Tôi lấy cái khăn màu tím cột trên vai áo (dấu hiệu nhận diện của đơn vị) thấm chút nước rót từ bình tông lau nhẹ trên mặt cô gái.

Tôi ngẩn người trong giây lát vì sắc đẹp của nữ địch quân: khuôn mặt thanh tú với hàng mi cong vút nhất là sống mũi cao nôm cô phảng phất như minh tinh màn bạc.

Dù trắng xanh vì mất máu, nhưng cô ta vẫn có nét thu hút đặc biệt…

Ghé bình tông nước vào miệng cô gái, tôi nói nhỏ:

– Cô uống đi, nhớ từ từ từng chút một.

Cô gái ngoan ngoãn nghe lời như một em bé, rồi thều thào:

– Cám ơn ông nhìều – Giọng cô nói yếu ớt và mệt mỏi.

– Tôi sẽ tiêm cho cô 2 mũi thuốc trụ sinh và cầm máu, cố chịu đau nghe.

– Không cần đâu, làm phiền ông nhiều rồi. Vả lại tôi cũng sắp chết…

– Tầm bậy, vết thương này đâu có gì nguy hiểm!

– Xin ông đừng an ủi như vậy.

Hồi nãy ông nói tôi sắp chết…

– Tại vì… Tại vì… Tôi không muốn lính của mình ăn nói kỳ cục như vậy.

Cô gái mở mắt nhìn tôi với vẻ cám ơn, trong đáy mắt chứa nhiều điều muốn nói.

Lâu lắm cô lại thều thào:

– Bây giờ ông sẽ làm gì với tôi?

Bắn một phát súng có lẽ nhẹ nhàng hơn là giao tôi cho cấp trên của ông.

Thật tình tôi không biết trả lời sao với cô, chưa kịp phản ứng thì cô tiếp:

– Tôi sinh ra ở miền đất mênh mông sông nước này. Ba má tôi đều đã chết vì bom đạn Mỹ. Hãy để thân xác tôi cũng vùi xuống đất mẹ quê hương.

Ông đừng giao tôi cho ai hết.

Tôi xin ông…

– Thôi được rồi, tôi sẽ làm theo lời yêu cầu của cô. Nhưng trước nhất hãy để tôi tiêm thuốc cái đã, đừng bướng bỉnh như vậy.

Cô gật nhẹ đầu mà không nói lời nào. Kéo ống tay áo lên, lộ làn da trắng nõn nà. Tôi chăm chú chích mũi Penicilline mà không thấy má của cô thoáng đỏ vì hổ thẹn mà chỉ thấy cô nhăn nhó suýt soa vì đau, tôi bật cười:

– Cô cũng là lính, đã đánh trận bị thương, bị bắn không đau, chỉ có mũi kim bé tí tẹo mà cô rên rỉ, nhăn nhó như…

– Sao không đau, ông muốn nói tôi như… khỉ chứ gì?

Cô cướp lời.

Tôi cười trừ, đỡ cô gái nằm xuống ngay ngắn trên mấy tầu lá chuối rồi đứng dậy lấy trong ba-lô mấy hộp lương khô, bình nước đầy và cuộn băng cứu thương, tất cả đặt bên cạnh cô rồi nghiêm nghị nói:

– Đơn vị tôi sẽ di chuyển đi nơi khác bất cứ lúc nào để tìm các đồng chí của cô. Những thứ nầy cần thiết cho cô, tôi hy vọng người của cô sẽ trở lại tìm và cứu sống đồng đội của mình.

Tôi lấy khăn nhúng nước lau mặt cho cô đoạn cẩn thận lấy mấy tàu lá dừa che kín lại cô VC đang nằm.

– Này… Ông tên là gì vậy?

– Có quan trọng lắm không?

– Ít ra sống hay chết tôi còn biết tên người đã đối xử tốt với mình chứ.

– Vậy thì cô nói với Diêm Vương gã đó là Lam, Trần Hoài Lam, và cô xin với ổng cho tôi tai qua nạn khỏi trong chiến tranh này!

Tôi nghe tiếng cô cười nhỏ cùng tiếng nói thật nhẹ:

– Dạ, Quyên đêm nào cũng sẽ cầu nguyện cho ông Lam tai qua nạn khỏi.

Quyên, người con gái mà tôi gặp gỡ một lần, và chỉ một lần duy nhất trong cuộc đời kế từ đó.

Bước chân người lính như tôi đã qua mọi đoạn đường đất nước, những trận đánh đẫm máu bằng cái chết của đôi bên lên rất cao.

Vài lần bị thương nặng nhẹ nhưng tính mạng vẫn còn giữ được, phải chăng Quyên hằng đêm cầu nguyện cho tôi được tai qua nạn khỏi như nàng đã hứa.

Đất nước hoà bình, tiếng súng lặng im, những người từng là sĩ quan QLVNCH như tôi và bạn bè khác dù không bị trả thù, “tắm máu”, nhưng đều phải ra trình diện, rồi tập trung đi trại cải tạo…

Một ngày đẹp trời, trại Bù Gia Mập, nơi tôi đang “lao động là vinh quang” có cơn bão rừng rất lớn, mọi người được phép nghỉ tại lán.

Anh Đan, khối trưởng nhận thư từ Quản giáo phân phát cho anh em.

Là một kẻ không thân nhân, không họ hàng, tôi lảng đi nơi khác cho đỡ tủi thân.

– Trần Hoài Lam có thư!

Cả phòng xôn xao ngạc nhiên vì ai cũng biết tôi là thằng “mồ côi”, là “con bà Phước”, danh từ ám chỉ những kẻ không có ai thăm viếng lẫn thư từ.

Rất ngạc nhiên tôi nghĩ thầm trong bụng có lẽ trùng tên với một người nào đó nên im lặng.

– Trần Hoài Lam có thư!

Người khối trưởng lập lại với vẻ khó chịu.

Tôi dè dặt bước tới trong trạng thái hoang mang.

– Có thật là của tôi không anh Đan?

– Tên anh rành rành trên phong bì làm sao sai được. Thôi nhận đi cho tôi còn làm việc, nếu có sai thì cho tôi biết.

Cầm lá thư tôi lật qua lật lại, xem kỹ có phải đúng tên mình không. Hoàn toàn đúng nhưng tuồng chữ lạ hoắc và cái tên cũng chưa bao nghe qua, nhưng một điều chắc chắn người viết là phái nữ, nét chữ mềm mại thẳng đứng nhưng rõ ràng.

Trần Hoài Quyên, thật là lạ, trùng họ, trùng chữ lót, chỉ khác tên.

Tôi tứ cố vô thân làm gì có họ hàng. Tôi hồi hộp đến run rẩy mở ra đọc:

“Anh Lam! Có lẽ anh ngạc nhiên lúc nhận thư của Quyên, người con gái xa lạ gởi đến cho mình, nhưng khi em nói câu này chắc chắn anh hình dung Quyên là ai:

Đi lính bị thương, bị bắn không đau, chỉ mủi kim bé tí teo này mà nhăn nhó rên rỉ như…”.

Đọc mấy dòng chữ trên, tôi lặng người rất lâu, bàng hoàng và xúc động hơn bao giờ hết khi nhớ lại trong trận đánh ấy, một nữ VC khuôn mặt bê bết sình đất, tóc tai rũ rượi gối đầu trên ba lô nhỏ, ánh mắt thất thần khi tôi đến gần rồi nhẹ nhàng lấy khăn lau cho cô, khuôn mặt thiên thần trong sáng hiện ra…

“Đúng như anh nói, đêm hôm ấy đồng đội đã mang em ra khỏi nơi mù mịt khói lửa và chữa trị ở bệnh viện đã chiến.

Sau khi rời khỏi bệnh viện, em xin về đơn vị thành phố để họat động…

Chính hành động của anh đã làm thay đổi quan niệm của em.

Những người đối đầu không hẳn đều tàn ác, bằng chứng là anh.

Anh đối xử thật tốt, thật nhân đạo với “kẻ thù”.

Dù rằng thuộc hạ của anh nói đúng, không biết bao người đã ngã xuống vì những viên đạn của đối phương, mà có thể trong đó có cả em từng bắn ra.

Hòa Bình tái lập, nhưng em không vui vì nhiều người còn tư tưởng hận thù.

Em rất buồn vì biết anh đang đi cải tạo…

Nhưng em không thể nào quên anh.

Vì thế, em đã cậy cục, tìm kiếm tin tức của anh qua các trại học tập.

Trời không phụ lòng người, rốt cục em cũng tìm ra anh. Anh Lam! Còn nhớ những gì em đã nói trước khi anh từ giã ra đi không:

Quyên đêm nào cũng sẽ cầu nguyện cho ông Lam tránh được mũi tên hòn đạn”.

Em đã cầu nguyện như vậy mỗi đêm để ơn trên ban mọi điều lành đến cho anh tai qua nạn khỏi đúng như lời đã hứa. Em đang thu xếp công việc để đến thăm anh kỳ tới. Mong được găp lại anh.

Hy vọng đừng làm mặt lạ với Quyên”.

Từ đó tôi không còn là người cô độc nữa, Quyên thăm đều đặn, lần nào cũng khóc, giọt nước mắt long lanh trên má làm tôi xúc động muốn khóc theo.

Ân tình của em làm sao tôi báo đáp cho nổi, cho tới khi tôi được tự do và làm thủ tục sang Mỹ sinh sống…

Tôi đã cầu hôn với Quyên và em đồng ý.

Quyên bây giờ là mẹ của bầy con 3 đứa kháu khỉnh, xinh đẹp.

Em chu toàn nhiệm vụ của người vợ hiền, người mẹ nhân ái.

Sống ở xứ người văn minh tân tiến nhưng Quyên vẫn là của tôi dạo nào, vẫn áo bà ba và sợi thung buộc trên tóc.

Những đêm con cái ngon giấc, em qua nằm kế bên tôi thủ thỉ trò chuyện tâm sự:

– Quyên à, em thương anh từ lúc nào.

– Kỳ cục, ai mà nhớ, hỏi bậy bạ không à”.

Em mắc cở phụng phịu.

– Vậy thì thôi anh không hỏi nữa.

Tôi làm bộ giận dỗi quay mặt đi nơi khác.

– Thôi đừng giận nữa, em nói, nhưng cấm không được cười à nha…

Quyên bắt tôi thề thốt đủ mọi điều rồi mới nói:

– Em yêu từ lúc anh kéo tay áo lên để tiêm thuốc. Mắc cỡ muốn chết, đã vậy còn ghẹo người ta này nọ.

Anh biết không, cái khăn màu tím ngày đó anh lau mặt cho, em giữ mãi trong người, đi đâu cũng xếp lại bỏ vào túi áo, lâu lâu mở ra xem sợ rớt mất.

Tôi cảm động hôn lên trán vợ, không ngờ cô yêu thương mình đến như vậy:

– Anh biết không, có một hôm em giặt xong phơi ở hàng rào gió thổi mất tiêu.

Trời đất, em khóc mấy ngày trời, bỏ ăn, bỏ ngủ, đi tìm nó. Không hiểu sao nó lại về với em, đứa bạn nhặt được mang trả lại.

Nó nói cái khăn này bay tới tận khu ủy, cách đó gần 5 cây số.

Em tin rằng anh luôn luôn bên cạnh để giúp em vượt qua nguy hiểm.

Hôm bị thương nếu gặp người khác có lẽ cuộc đời của em không biết ra sao.

Có lẽ bị chết không chừng. Quyên ngủ say bên vai tôi, tiếng thở nhẹ nhàng êm ái.

Một điều huyền diệu khó tin nhưng thật sự là vậy.

Phải chăng duyên số đưa đẩy để tôi gặp em trong hoàn cảnh đó.

Đúng như Quyên nói, nếu gặp người khác em có thể bị bắn chết hoặc chết vì vết thương.

Hôn lên trán vợ, tôi thì thầm:

– Duyên nợ trời định em ạ.

Bên vai tôi,

Quyên ngủ ngon lành khuôn mặt thiên thần không gợn chút bụi trần.

Tình yêu và hạnh phúc của chúng tôi đã đi qua chiến tranh như thế!

Trần Hoài Lam


 

ĐỪNG CHỈ TRÍCH – HÃY CẢM THÔNG

Tu Le

Trong cuộc sống, thật dễ để ta nhìn thấy lỗi lầm của người khác. Một câu nói vụng về, một việc làm chưa trọn vẹn, một quyết định sai lầm – tất cả đều khiến ta muốn thốt lên: “Anh sai rồi”, “Em không biết làm gì cả”. Nhưng bạn có nhận ra không, càng chỉ trích, ta càng đẩy người kia rời xa mình.

Người bị chỉ trích hiếm khi thay đổi. Họ chỉ dựng lên bức tường phòng thủ, tìm cách biện minh, hoặc thu mình lại trong im lặng tổn thương. Còn ta, ngỡ rằng đã “nói thẳng để họ tốt hơn”, nhưng thực ra chỉ gieo thêm một khoảng cách lạnh lùng.

Chỉ trích không phải là chiếc gương soi sáng, mà là mảnh thủy tinh làm rách da thịt. Nó có thể làm người ta nhớ lâu, nhưng nhớ bằng nỗi đau chứ không phải bằng lòng biết ơn.

Ngược lại, một chút cảm thông có thể làm mềm trái tim. Khi ta chịu khó đặt mình vào vị trí của họ, ta mới thấy: ai cũng có lý do để hành xử như vậy. Người vội vã có thể vì áp lực, người nóng nảy có thể vì bất an, người vụng về có thể vì chưa từng được chỉ dẫn. Và ta sẽ bớt đi một câu trách móc, thay bằng một lời động viên:

– “Tôi nghĩ có cách này tốt hơn, bạn thử xem nhé.”

Một lời khen đúng lúc, một câu khích lệ chân thành có sức mạnh hơn mười lời phê bình. Nó làm người ta tự tin hơn để bước tiếp, và cũng khiến họ mở lòng hơn với ta.

Thay vì chỉ trích, hãy tìm điều tốt để khen ngợi. Thay vì oán trách, hãy chọn cảm thông. Thay vì than phiền, hãy bắt đầu bằng một nụ cười.

Ứng xử, rốt cuộc, không phải là tranh thắng – thua. Mà là cùng nhau giữ được tình cảm. Người khôn ngoan không phải là người luôn đúng, mà là người biết cách làm cho người khác cảm thấy mình quan trọng.

Hãy thử một ngày không chỉ trích, không oán trách, không than phiền. Bạn sẽ thấy, gương mặt người đối diện sáng hơn, và chính trái tim mình cũng nhẹ nhõm hơn.


TẦU KÉO HAY THUYỀN BUỒM? – Lm. Mark Link, S.J.

 Lm. Mark Link, S.J.

Chủ đề: “Mỗi người chúng ta phải tự quyết định xem mình là loại Kitô Hữu tầu kéo, thuyền buồm hay bè trôi sông”

Một thanh niên viết thư cho một linh mục.  Anh nói vị linh mục có thể tự do xử dụng lá thư của anh. Ngoại trừ một vài sửa đổi, sau đây là nguyên văn lá thư anh viết:

“Con là một trong những tay bơi lội có hạng ở Gia Nã Đại.  Một ngày kia, con để chúng bạn lôi con vào đường ma tuý.

“Con bị nghiện, và không lâu sau đó, sức khỏe tâm trí, thể xác và tinh thần đều xuống dốc cách thảm hại…  Đời con đảo lộn tất cả.  Con trở nên cô đơn và lo sợ khủng khiếp.  Con không thể nói chuyện được với ai.

“Tệ hơn nữa, con vẫn mắc nợ các tay đầu nậu trên $3,000. Con nghĩ, cách duy nhất để thoát khỏi là tự tử, do đó con về nhà và viết lá thư sau:

‘Cha mẹ yêu dấu,

‘Con xin lỗi đã làm cha mẹ đau lòng…  Xin cha mẹ đừng buồn.  Nếu con sống, con sẽ gây thêm nhiều đau buồn hơn là điều con vừa mới thi hành… Con thương cha mẹ và cả gia đình.

[ký tên] Kiệt’

“Con uống rượu để khỏi sợ hãi khi chuẩn bị kết liễu cuộc đời.  Và rồi, vào giây phút sau cùng, điều gì đó đã khiến con ngừng lại.  Con lấy điện thoại và gọi cho trung tâm giúp đỡ khi khủng hoảng.

“Lúc bấy giờ con không biết là mẹ con đã cầu nguyện cho con một cách cuồng nhiệt.  Một vài ngày sau, con nhập viện cai trừ ma tuý.  Không bao lâu con phục hồi sức khỏe thể xác cũng như tâm thần.

“Chính lúc bấy giờ con mới bắt đầu đọc Kinh Thánh.  Càng đọc con càng cảm thấy bình an và niềm vui.  Điều đó khiến con càng tin tưởng vào Chúa hơn nữa.

“Trong khi đó, con càng khao khát được biết Chúa Giêsu hơn.

“Thật buồn cười.  Con từng quỳ gối cầu nguyện tối thiểu trên mười lần – để xin Chúa đến trong đời con – trước khi con nhận ra rằng Người đã ở trong cuộc đời con từ lúc nào…

“Tất cả những điều này xảy ra cách đây chừng năm năm.  Kể từ đó, Thiên Chúa đã chúc phúc nhiều cho con.  Con dạy học trong một trường Công Giáo và tích cực hoạt động trong giáo xứ…

“Con cũng cố gắng mở lòng mình hơn nữa để đón nhận lòng thương xót và tình yêu của Chúa là Cha chúng ta.

Kính chào Cha

Kiệt”

 *******************************

 Lá thư trên cho thấy một trong những điểm của bài phúc âm hôm nay: Cửa vào nước Chúa thì quả thật chật hẹp.

 Trong trường hợp của anh Kiệt, dường như cửa ấy thật là hẹp.  Nhưng điều đó không làm anh nản lòng.  Anh đã cố gắng và cố gắng cho đến khi vào được.

 Tôi tự hỏi, không biết có bao nhiêu người cũng có can đảm để cố gắng như anh Kiệt.

 Có người nói rằng, Kitô Hữu có ba loại người: loại tầu kéo, loại thuyền buồm và loại bè trôi sông.

 Kitô Hữu tầu kéo là những người theo Chúa Giêsu không chỉ khi trời nắng đẹp nhưng cả khi trời giông bão.

 Họ là những người theo Chúa Giêsu không chỉ khi thuận chèo xuôi mái nhưng còn khi gió cả sóng to.

 Họ là những người tham dự Thánh Lễ không vì bó buộc nhưng vì Đức Giêsu đã nói trong bữa Tiệc Ly, “Hãy làm việc này để nhớ đến Thầy.”  Luca 22:19.

 Họ là những người giúp đỡ người khác không chỉ vì cảm tình mà vì Đức Giêsu đã nói, “Hãy thương yêu nhau, cũng như Thầy yêu thương anh em.” Gioan 15:22. 

Nói tóm, họ là loại người mà bài Phúc Âm hôm nay khuyến khích chúng ta hãy trở thành. 

Kitô Hữu thuyền buồm, ngược lại, là những người theo Chúa Giêsu khi thuận buồm xuôi gió.  Nhưng khi gió ngược họ lại để xuôi theo chiều gió.

 Họ là những người tham dự Thánh Lễ khi gia đình và bạn hữu cùng đi.  Nhưng để họ tự do thì thường họ quên lãng.

 Họ là những người hay thắc mắc, “Tới mức nào thì được coi là tội?” thay vì “Tôi có thể làm gì vì yêu thương Thiên Chúa và tha nhân?”

 Nói tóm, họ là những người theo Chúa Giêsu qua cánh cửa rộng nhưng lại do dự theo Người qua cánh cửa hẹp.  Họ là những người theo đám đông hơn là theo Phúc Âm.

 Sau cùng, có loại Kitô Hữu bè lênh đênh.  Họ là Kitô Hữu chỉ có tên mà thôi.  Họ không thực sự theo Chúa Giêsu, ngay cả khi thuận chèo xuôi mái.  Nếu họ đi theo đường hướng của Người đó là vì có ai lôi kéo hay xô đẩy họ.

 Họ là những người thực hành đạo không phải vì họ muốn mà là vì ép buộc.

Nói tóm lại, họ là Kitô Hữu chỉ có danh mà không có thực.

 Điều này đưa chúng ta về với các bài đọc hôm nay.  Vấn đề được nêu ra cho chúng ta là: Chúng ta là Kitô Hữu tầu kéo, Kitô Hữu thuyền buồm, hay Kitô Hữu bè lênh đênh?

 Có phải chúng ta là Kitô hữu tầu kéo không?  Chúng ta có theo Chúa khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan không?  Chúng ta có đi với Người không chỉ qua cửa rộng mà còn qua cửa hẹp không?  Hay chúng ta là Kitô Hữu thuyền buồm?  Có phải chúng ta chỉ theo Chúa khi thịnh vượng thôi?  Có phải chúng ta chỉ theo Người qua cửa rộng?

 Có những câu hỏi mà các bài đọc hôm nay đặt ra cho chúng ta.  Không ai có thể trả lời thay cho chúng ta mà chúng ta phải tự trả lời.

 Các bài đọc hôm nay mời chúng ta đối diện với các câu hỏi này với cùng một can đảm mà anh Kiệt đã có được khi đối diện với các khó khăn của anh.  Nếu chúng ta đối diện với các vấn đề giống như anh, chắc chắn chúng ta sẽ có sự trợ giúp của Thiên Chúa như anh đã nhận được.

 Hãy chấm dứt với bài thơ của thi sĩ John Oxenham:

 “Mỗi người đều có một con đường trước mặt: đường cao, đường lưng chừng và đường thấp.

 “Một linh hồn cao quý đi theo con đường cao; và linh hồn thấp hèn đi theo con đường thấp; phần còn lại trôi dạt đây đó trên con đường lưng chừng mù mờ.

 “Mỗi một người đều có một con đường trước mặt: đường cao, đường lưng chừng và đường thấp.  Và mỗi một người phải quyết định cho mình một con đường để linh hồn đi theo.”

 Lm. Mark Link, S.J.

From: Langthangchieutim


 

Sống trong bóng tối của tín dụng đen: Người phụ nữ Hà Nội uống 400 viên thuốc ngủ để tự sát

Ba’o DAT VIET

August 22, 2025

Trong một vụ việc gây chấn động dư luận tại Hà Nội, bà L.T.N.A, 41 tuổi, cư dân phường Văn Miếu – Quốc Tử Giám, đã uống hơn 400 viên thuốc ngủ để tìm đến cái chết sau sáu năm bị giày vò bởi các khoản vay nặng lãi. May mắn được phát hiện kịp thời và đưa đi cấp cứu, bà A. hiện vẫn sống, nhưng đang phải vật lộn với nỗi sợ hãi và áp lực tâm lý không dứt từ các chủ nợ.

Theo thông tin từ báo Thanh Niên hôm 21 Tháng Tám, bi kịch bắt đầu từ năm 2019, khi bà A. vay tiền của ông N.M.Đ, 31 tuổi, để kinh doanh. Tổng cộng bà vay 800 triệu đồng (khoảng $30,000), với thỏa thuận lãi suất 6,000 đồng (20 cent) mỗi triệu mỗi ngày – một hình thức cho vay ngắn hạn đầy rủi ro mà người dân quen gọi là “vay nóng.”

Tuy nhiên, mọi chuyện nhanh chóng mất kiểm soát. Khi không thể trả lãi đúng hạn, tiền lãi được cộng vào gốc, và số nợ cứ thế phình lên. Để đáo hạn, bà A. tiếp tục vay dưới hình thức “bốc bát họ” – một biến thể khác của tín dụng đen, với lãi suất cắt cổ 10,000 đồng (40 cent) mỗi triệu mỗi ngày. Mức lãi suất này tương đương từ 219% đến 635% mỗi năm – cao gấp nhiều lần giới hạn mà pháp luật cho phép.

Sau sáu năm quay cuồng trong vòng xoáy nợ nần, bà A. cho biết mình đã trả gần 58 tỷ đồng (khoảng $2.2 triệu) chỉ để trả lãi. Thế nhưng trong sổ nợ của chủ cho vay, bà vẫn còn bị ghi nợ tới 8.4 tỷ đồng (hơn $317,000) – một con số vượt xa khoản vay ban đầu gần ba mươi lần.

Không chỉ bị đẩy vào cảnh kiệt quệ tài chính, bà A. còn sống trong nỗi lo sợ thường trực. Mỗi khi chậm trả lãi, bà bị gọi điện đe dọa, chửi bới, thậm chí bị tạt sơn, chất bẩn vào nhà. Đỉnh điểm của áp lực là vào ngày 20 Tháng Bảy vừa qua, khi ông Đ. liên tục gọi điện khủng bố tinh thần, thậm chí chĩa mũi dùi sang người mẹ già mắc bệnh tim của bà.

Không còn lối thoát, ngày 24 Tháng Bảy, bà thuê phòng khách sạn và uống hơn 400 viên thuốc ngủ chứa chất Diazepam – một loại an thần gây buồn ngủ mạnh – với ý định chấm dứt tất cả. Nhưng bà được phát hiện kịp thời và đưa tới Trung tâm Chống độc, bệnh viện Bạch Mai để cấp cứu. Sau khi qua cơn nguy kịch, bà được chuyển về bệnh viện Thanh Nhàn để tiếp tục theo dõi.

Bà A. cho biết mình là con một trong một gia đình nền nếp, sống giữa khu phố nhiều định kiến. Trong sáu năm qua, bà đã gồng mình gánh nợ và chịu đựng sự khinh miệt, những lời bàn ra tán vào – tất cả chỉ vì sợ mẹ mình sốc và không chịu nổi áp lực dư luận. Bà nói rằng mình “biết rõ là nạn nhân của tín dụng đen” nhưng vì danh dự gia đình và nỗi sợ bị làm nhục, bà đã chọn im lặng.

Sau khi ra viện, bà đã lập vi bằng toàn bộ tin nhắn, file ghi âm, sao kê giao dịch với ông Đ. từ năm 2019 đến nay, với mục đích tố cáo hành vi cho vay nặng lãi và có dấu hiệu cưỡng đoạt tài sản.

Câu chuyện của bà A. không chỉ là bi kịch cá nhân mà còn là hồi chuông báo động về tình trạng tín dụng đen đang hoành hành khắp nơi. Giữa một hệ thống tài chính chính thức chưa đủ thân thiện với người dân có thu nhập thấp, các tổ chức tín dụng bất hợp pháp vẫn len lỏi, lợi dụng sự thiếu hiểu biết và tuyệt vọng của nạn nhân để trục lợi trắng trợn.

Và như thường lệ, hậu quả không chỉ là mất tiền, mà còn là mất nhân phẩm, mất danh dự và đôi khi là cả mạng sống.


 

 CÁI TÔI CỦA NGƯỜI VIỆT – Bài viết này của Từ Thức,

Xuyên Sơn

 Có anh bạn giáo sư sử học người Canada hỏi mình:

“Người Việt các bạn mỗi khi gặp nhau thường nói chuyện gì?”

và anh trả lời luôn, hình như các bạn tựu trung lại chỉ có mấy vấn đề :

làm gì (vị trí xã hội) ?

lương, thu nhập bao nhiêu, ở đâu, đi xe gì (tài sản) ?

con cái học trường nào ?

và rồi con ai cũng giỏi cả, chỉ là con ai giỏi hơn.

Hầu như các câu chuyện như thế lại là điều rất riêng tư, cấm kỵ hỏi của các dân tộc khác.

Bài viết này của Từ Thức, trên face 

Góc nhìn Alan giải thích phần nào…vì sao dân tộc VN ta mãi vẫn nhỏ bé, nhỏ như con ốc vít mà nước ta không làm nổi và…nhỏ hơn cả Cái Tôi của chính mỗi người.

Tại sao cái tôi, cái “égo” của người Việt lớn thế?

Tôi gặp không biết bao nhiêu người vỗ ngực, tự cho mình là vĩ nhân.

Không phải chỉ vỗ ngực, còn trèo lên nóc nhà gào khản cổ:Tôi giỏi quá,

tôi phục tôi quá, tại sao tôi tài ba đến thế?

Một lần ngồi nhậu với 5 ông,

có cảm tưởng ngồi với 5 giải Nobel văn chương.

Những ông như vậy, nhan nhản.

Nói “ông”, vì hầu như đó là một cái bệnh độc quyền của đàn ông.

Như ung thư vú là bệnh của đàn bà.

In một hai cuốn sách tào lao tặng bố vợ, nghĩ mình ngồi chung một chiếu với Marcel Proust, Victor Hugo.

Làm vài bài thơ, câu trên vần (hay không) với câu dưới, nghĩ mình là Baudelaire, Nguyễn Du tái sinh.

Lập một cái đảng có ba đảng viên, kể cả em gái và mẹ vợ, nghĩ mình là lãnh tụ, ăn nói như lãnh tụ, đi đứng, tắm rửa như lãnh tụ.

Viết vài bài lăng nhăng, đầu Ngô mình Sở, nghĩ mình là triết gia, trí thức, sẵn sàng dẫn dân tộc đi lên (hay đi xuống).

Học gạo được cái bằng (chưa nói tới chuyện mua được cái bằng),

nghĩ mình đã kiếm ra điện và nước nóng.

TÔI, TÔI, TÔI

Một ông bạn in một tấm danh thiếp khổ lớn, dày đặc những chức tước, trong đó có “nhà nghiên cứu”.

Những người quen không biết ông ta nghiên cứu cái gì, lúc nào.

Tôi đáng nhận là nhà nghiên cứu hơn, vì thỉnh thoảng vẫn vào Google tìm mẹo trị mắc xương cá, hay cách nấu canh hẹ tàu hủ.

Nghĩ cũng lạ, cái TÔI to tổ bố ở một xứ như Việt Nam. Việt Nam, xứ của văn hoá Phật giáo, một tôn giáo coi cái ngã là hư cấu, cái tôi không có thực.

Nơi chịu ảnh hưởng Lão giáo,  những người đã ra suối rửa tai khi nghe thiên hạ nhắc tới tên mình.

Nơi người Công giáo thực hành đạo nhiệt thành, và Công giáo coi vị tha, nghĩ tới người khác, là đức tính hàng đầu.

  • Không lẽ người Việt không hiểu tôn giáo mình đang theo?

Có ai đã gặp một người Nhật vỗ ngực: tôi, tôi, tôi.

Nói chuyện với người Nhật, trong những cơ hội hơi chính thức, chưa gì họ đã mang giấy bút ra ghi chép.

Làm như những điều bạn nói là khuôn vàng, thước ngọc.

TÔI LÀ CHÂN LÝ

Nước Việt nghèo, chậm tiến, lạc hậu. Đáng lẽ người Việt phải khiêm nhượng, biết người, biết mình.

Nhưng không, trong từ điển cá nhân của người Việt không có chữ khiêm tốn.

Nhiều lần tôi gân cổ cãi với bạn bè, về nhà nghĩ: Không chừng nó có lý.

Tại sao không nhìn nhận ngay? Bởi vì cái tôi nó lớn quá.

Ở đâu cũng có những cái tôi, nhưng ở người Việt, nó đạt một tỷ số đáng ngại.

Mỗi lần, hiếm hoi, gặp một người đồng hương có khả năng nhưng khiêm tốn, tôi nghĩ bụng: Ông nội này mất gốc rồi.

Thảo luận với người Việt rất khó, vì ai cũng nghĩ là mình nắm chân lý trong tay.

Nghĩ khác là xúc phạm ông ta, xúc phạm Chân lý, bôi nhọ sự thật. Phải căm thù, phải tiêu diệt, phải triệt hạ, phải tố cáo, chụp mũ.

Cái tôi lớn, phải chăng đó là nét đặc thù của một dân tộc đầy tự ti mặc cảm?

Trong cái kiêu hãnh lố bịch của người “mang dép râu mà đi vào vũ trụ”

có cái tự ti của những người vẫn mang dép râu ở thế kỷ 20, 21.

Trong y học, égocentrisme là một cái bệnh, pathologie.

Và trong 9 trên 10 trường hợp, những người có mặc cảm tự cao,

tự đại (complexe de supériorité) là để che đậy tự ti mặc cảm

(complexe d’infériorité).

Những người có thực tài rất khiêm nhường, vì họ không so sánh với người khác.

Họ so sánh mình với mình, so sánh mình hôm nay với mình hôm qua,

so sánh tác phẩm mới với tác phẩm cũ của chính mình.

Và thường thường thất vọng.

Khi một nghệ sĩ thoả mãn với tác phẩm của mình, anh ta hết là nghệ sĩ. Anh ta không tìm tòi nữa, anh ta về hưu. Như một công chức, một tài xế xe đò về hưu.

ĐÈN DẦU VÀ ĐÈN ĐIỆN

Thomas Edison nói nếu hài lòng với đèn dầu, tìm cách cải thiện đèn dầu, sẽ không bao giờ kiếm ra điện.

Người Việt ta dễ thỏa mãn quá, dễ kiêu hãnh quá, dễ “tự sướng” quá. Hậu quả là cái gì của ta nó cũng nho nhỏ. Cùng lắm là xinh xắn, dễ thương, nhưng đồ sộ, vĩ đại thì không có. Không thể có.

Tham vọng nhỏ, thành quả nhỏ.

Pablo Picasso khi thành công, được ca tụng ở “période rose”

(thời kỳ hồng), nếu thỏa mãn, sẽ không có “période bleue”,

thời kỳ xanh. Nếu thoả mãn với “période bleue” sẽ không có tranh trừu tượng, đưa hội họa đi vạn dặm.

Một giai thoại:

Picasso mời bạn bè ăn tiệm. Cuối bữa ăn, gọi tính tiền.

Chủ tiệm nói xin miễn chuyện tiền bạc, được tiếp Picasso là hân hạnh rồi. Pablo vẽ vài nét trên tấm khăn phủ bàn, tặng chủ tiệm.

Ông này nói xin maître ký tên.

Picasso trả lời:

-Tôi chỉ trả bữa cơm, không muốn mua tiệm ăn.

Nếu Picasso là người Việt, sẽ thấy đời mình đã quá đủ để thoả mãn:

vua biết mặt, chúa biết tên, chữ ký đáng ngàn vàng, chỉ việc ngồi hưởng và chiêm ngưỡng dung nhan mình. May mắn cho hội họa, ông ta là người Tây Ban Nha, hì hục tìm tòi cho tới chết.

Mỗi lần nghe, hay coi Jean Marie Le Clézio, Patrick Modiano trong những chương trình văn học trên France Culture, hay trên France 5,

ít người nghĩ họ đã chiếm giải Nobel Văn chương.

Họ khiêm nhượng, ngập ngừng, do dự, gần như cáo lỗi sắp sửa nói những điều tào lao.

Le Clézio, Nobel 2008, khoanh tay, chăm chú nghe một tác giả vừa chân ướt chân ráo vào nghề, nói về một cuốn sách đầu tay.

Modiano, Nobel 2014, tìm chữ một cách khó khăn, ngượng ngập, ít khi chấm dứt một câu, như muốn nói: Thôi, bỏ qua đi, những điều tôi muốn nói chẳng có gì đáng nghe.

Ông ta thực sự ngạc nhiên không hiểu tại sao có người nghĩ đến mình để trao giải.

Ông ta nói có người đọc sách của mình đã là một phép lạ.

NGƯỜI VÀ TA

Những năm đầu ở Pháp, có thời tôi cư ngụ Rue Marcadet, Paris. Bên cạnh là một cặp vợ chồng già, hiền lành, bình dị như một cặp thư ký hay công nhân về hưu.

Mỗi lần gặp ở thang máy, bà vồn vã chào, hỏi thăm đủ chuyện. Thỉnh thoảng ông mời vào nhà, uống trà, hỏi chuyện về Phật giáo mà ông nói đọc nhiều, nhưng có điều không hiểu.

Thí dụ ông muốn so sánh khái niệm về Niết bàn của Phật giáo với thiên đàng của Thiên Chúa giáo.

Ông là một người Công giáo thuần thành, nhưng muốn tìm hiểu về những tôn giáo khác.

Tuyệt nhiên không bao giờ ông bà nói về mình.

Nếu không coi TV, chắc không bao giờ tôi biết bà là Yvonne Loriot, danh cầm hàng đầu của Pháp, chiếm giải nhất 7 lần khi học ở Conservatoire de Paris, trước khi trở thành một giáo sư âm nhạc có uy tín.

Ông là Olivier Messaien,  một trong những tác giả nhạc cổ điển lớn nhất của hậu bán thế kỷ 20.

Rất nhiều các nhạc sư, nhạc trưởng nổi tiếng ở Âu Châu, như Pierre Boulez, Iannis Xenakis hãnh diện là đệ tử của ông.

Tác phẩm opéra “Saint-Francois d’Assise” của ông được trình diễn trên khắp thê giới, được đón nhận như những tác phẩm của Mozart, Beethoven.

Ông bà sống trong một căn nhà bình dân, ăn uống đơn giản như một cặp vợ chồng nghèo.

Tiền bản quyền nhạc đem tặng – một cách kín đáo – các hội từ thiện, hay giúp trùng tu nhà thờ Notre Dame de Lorette gần nhà.

Những lúc rảnh rỗi, bà theo ông vào rừng, thu thanh để nghiên cứu tiếng chim hót.

Ai biết hai ông bà già, lễ độ, gần như vụng về, đang xếp hàng mua ổ bánh mì, là những nhân vật chiếm chỗ lớn trong bất cứ một tài liệu nào về âm nhạc cổ điển cận đại, tuần trước còn là thượng khách của hoàng gia Thụy Điển.

Khi nào ta có những người như Modiano, Le Clézio, Messaien

– chưa nói tới tài năng, chỉ nói tới thái độ khiêm tốn

– Việt Nam sẽ là một dân tộc trưởng thành.

Trong khi chờ đợi, chúng ta tiếp tục leo lên nóc nhà, gào: Tại sao tôi tài giỏi quá như vậy?

Khi gào mỏi, leo xuống, đóng áo thụng vái nhau.

Đó cũng là một trò vui, nếu hậu quả không nghiêm trọng.

Chúng ta đều đồng ý với nhau là đất nước đang trên bờ vực thẳm,

không thể nhẫn tâm khoanh tay nhìn. Nhưng chúng ta không ngồi nổi với nhau, vì cái TÔI nó lớn quá.

Lớn hơn cả vận mệnh dân tộc.

Từ Thức

Nguồn: tachcaphe.


 

VỰC KHIÊM HẠ – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên!”.

Ngày kia, khi còn trai trẻ, Benjamin Franklin – ông tổ lập quốc Hoa Kỳ – tràn đầy nhiệt huyết, chân bước sải đến thăm một bậc vị vọng. Vào nhà, Franklin vấp đầu vào một khung cửa khá thấp, đau điếng. Chủ nhà thấy bộ dạng nhăn nhó của người bạn trẻ, liền xuýt xoa, “Đau lắm? Tuy nhiên, đây là thu hoạch lớn nhất của cậu khi đến thăm tôi. Cậu biết, một người muốn bình an, hãy luôn ghi nhớ một điều, ‘Hạ mình xuống!’”.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay nói đến hạ mình, không chỉ để bình an, nhưng để cứu mình và cứu người khác. Và sẽ rất bất ngờ khi chúng ta khám phá ra rằng, Đức Giêsu, Con Thiên Chúa lại là con cháu của một goá phụ ‘mót lúa’. Ngài tự hạ tận ‘vực khiêm hạ’ để cứu độ chúng ta.

Thánh Bernard Clairvaux sánh người khiêm nhượng như lũng sâu, kẻ kiêu hãnh như đỉnh núi. Xuân về, tuyết tan; nước trôi xuống chứ không ngược lại. Người kiêu căng ở vào vị thế không có khả năng giữ lấy ân sủng; đang khi, ở chân núi, người khiêm nhượng nhận được trọn vẹn ân sủng Chúa. Họ sinh hoa kết trái bốn mùa, làm nên những điều kỳ diệu trong cuộc đời. “Ân sủng, như dòng nước, luôn tìm đến chỗ thấp nhất!” – Andrew Murray.

Bài đọc một nói về gốc gác ‘Bà Tổ’ của Chúa Giêsu. Đó là một nàng dâu ngoại kiều hiền thảo, một goá phụ xinh đẹp có tên là ‘Cô Rút’. Thánh Kinh coi nàng “đáng quý hơn bảy người con trai”. Nàng không bỏ quê chồng theo sự rộng lượng của mẹ chồng. Ngày kia, cô được phép đi mót lúa và ‘mót luôn’ trái tim Bôát, làm bạn với ông, sinh “Obed, vốn sẽ là thân phụ Giessê, ông nội Đavít”, tổ tiên của Giuse, cha nuôi Chúa Giêsu. “Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói đến những người “ưa ngồi chỗ danh dự trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường” – cũng là những lãnh đạo “nói mà không làm!”. Ở đây, Ngài dạy sự khiêm nhượng. “Sự cao cả thật không ở chỗ ngồi ghế đầu bàn tiệc, nhưng ở chỗ phục vụ những người ngồi tận cuối!” – Fulton Sheen. Phần chúng ta, việc sống theo sự thật không phụ thuộc vào việc người khác có sống nó hay không, nhưng phụ thuộc vào việc nó giúp bạn nên thánh hơn đến mức nào; vì lẽ, các giáo huấn không phải của ai, mà là của Chúa.

Anh Chị em,

“Ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên!”. Con Thiên Chúa xuống trần, nhập đoàn với cháu chắt của một ‘Bà Tổ’ ngoại giáo goá bụa; chấp nhận hết khinh khi này đến khinh dể nọ cũng vì gia tộc không chút tiếng tăm. Cuối cùng, Ngài xuống tận ‘vực khiêm hạ’ khi chết trên thập giá để trở nên căn nguyên ơn cứu rỗi đời đời cho nhân loại. Rõ ràng, sự khiêm hạ của Ngài – quyến rũ lớn nhất của mọi quyền năng – mời gọi chúng ta nên giống như Ngài để được bình an, cứu được mình và cứu cả người khác. “Đức Kitô đã chọn con đường xuống thật thấp, để mọi kẻ bé mọn và hèn yếu đều có thể được nâng lên với Ngài!” – Fulton Sheen.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, khiêm hạ – quyến rũ lớn nhất của mọi quyền năng. Đừng để kiêu căng đẩy con xa Chúa, xa anh em; như thế, chẳng cứu được mình, không cứu được ai!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

 ***************************************

Lời Chúa Thứ Bảy Tuần XX Thường Niên, Năm Lẻ

Họ nói mà không làm.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.     Mt 23,1-12

1 Khi ấy, Đức Giê-su nói với dân chúng và các môn đệ Người rằng : 2 “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. 3 Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm. 4 Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. 5 Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. 6 Họ ưa ngồi chỗ danh dự trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, 7 thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được người ta gọi là thầy.

8 “Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là thầy, vì anh em chỉ có một Thầy ; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. 9 Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. 10 Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người chỉ đạo, vì anh em chỉ có một vị chỉ đạo, là Đấng Ki-tô. 11 Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. 12 Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống ; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.”


 

 “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” (Lc 1:37) – Cha Vương

Chúc bình an đến bạn và gia đình. Hôm nay Giáo Hội mừng Lễ Đức Ma-ri-a Nữ Vương. Xin Mẹ Maria cầu bầu cho chúng con đang vất vả trên đường lữ hành tiến về quê trời.

Cha Vương

Thứ 6: 22/08/2025   t2-22

TIN MỪNG: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” (Lc 1:37)

SUY NIỆM: Có người đặt câu hỏi để gài bẫy thánh Bernadette khi còn là một thiếu nữ : “Con thích gì hơn, rước lễ hay thấy Đức Mẹ hiện ra ở hang đá?” Vị thánh nhỏ suy nghĩ một phút rồi trả lời: “Đúng là một câu hỏi kỳ lạ! Chúa Giê-su và Đức Mẹ không thể tách riêng ra. Cả hai lúc nào cũng phải đi với nhau.” Từ giây phút thụ thai trong lòng Đức Mẹ, Đức Giê-su và Mẹ của Ngài luôn nối kết với nhau. Không lạ gì Con về trời thì Mẹ cũng phải được lên trời cả hồn lẫn xác. Đức Mẹ được đưa lên trời để được tôn phong là Nữ vương thiên đàng, Nữ vương vũ trụ. Mẹ thi hành tước vị Nữ vương ấy trong tư thế của một người mẹ, người mẹ của tất cả nhân loại, và là mẹ của từng người. Trong lịch sử Giáo Hội, Mẹ đã nhiều lần hiện ra để cứu giúp con cái gặp cảnh gian nguy, cảnh tỉnh con cái sửa đổi đời sống, nhắn nhủ con cái sống đúng tư cách môn đệ Chúa Ki-tô. Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đi-tô XVI dạy rằng: “Đức Ma-ri-a là người đầu tiên đi ‘con đường’ vào Nước Trời mà Đức Ki-tô đã mở, một con đường chỉ đạt được dành cho những người khiêm tốn, tin tưởng nơi Lời Chúa và nỗ lực đem ra thực hành” (Đức Bê-nê-đi-tô 16).

Mời bạn hãy đi con đường Đức Mẹ đã đi, để cũng được phần thưởng cao quý là hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa như Mẹ.

LẮNG NGHE: Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” (Lc 1:28)

CẦU NGUYỆN: Lạy Mẹ Ma-ri-a là Nữ vương vũ hoàn, và là Mẹ con, con cảm tạ Mẹ luôn đồng hành với con trong mọi nẻo đường con đi, mọi khoảnh khắc quãng đời con sống. Xin cho con cũng biết noi gương Mẹ, đi con đường vào Nước Trời mơ ước. Amen.

THỰC HÀNH: Mỗi tối tôi đọc chậm rãi, sốt sắng ba kinh Kính Mừng kính Đức Mẹ, xin ngài nâng đỡ tôi sống xứng đáng con cái Thiên Chúa mọi ngày.

From: Do Dzung

*********************

MARIA NỮ VƯƠNG | Phạm Đức Huyến – Vũ Đình Ân | Ca đoàn: Hương Kinh

YouTube player

Bố vợ 85 tuổi sống cùng 20 năm không góp tiền ăn…

My Lan Pham  –  Những Câu Chuyện Thú Vị

Bố vợ 85 tuổi sống cùng 20 năm không góp tiền ăn, ông vừa qua đời thì con rể sốc nặng khi luật sư tìm đến thông báo chuyện động trời…

Khi ông Hòa bước chân vào nhà con gái và con rể lần đầu tiên cách đây 20 năm, chẳng ai trong gia đình nghĩ rằng ông sẽ sống ở đó lâu đến thế. Lúc ấy, ông vừa tròn 65 tuổi, gầy gò, tóc bạc, ánh mắt lúc nào cũng xa xăm như người đã buông bỏ gần hết những vướng bận của trần thế. Sau khi vợ mất, ông không còn nơi nào để nương tựa ngoài cô con gái út – Hạnh – người duy nhất vẫn còn giữ liên lạc thường xuyên và dường như cũng là người con duy nhất còn yêu thương ông thật lòng.

Chồng Hạnh – anh Nam – vốn là người kín đáo, sống có trách nhiệm, nhưng cũng không dễ chịu gì với chuyện “nuôi bố vợ” dài hạn. Anh chưa từng nói thẳng điều ấy ra, nhưng qua những ánh mắt, tiếng thở dài sau mỗi bữa ăn, những lần lén tính toán chi tiêu sau lưng vợ, Hạnh đều hiểu. Dù vậy, cô luôn cố gắng giữ gìn mái ấm, thuyết phục chồng bằng sự dịu dàng và một lòng tin rằng, làm phúc thì trời thương.

Ông Hòa không bao giờ đụng đến tiền bạc trong nhà. Không góp tiền ăn, không hỗ trợ chăm cháu, ông sống lặng lẽ trong căn phòng nhỏ cuối nhà, quanh quẩn với vài chậu bonsai cũ kỹ và quyển sách cũ. Ban ngày, ông hay ra công viên gần nhà ngồi ngắm chim bay, lâu lâu mới trò chuyện vài câu với hàng xóm. Buổi tối, ông ăn cơm xong là về phòng, chẳng mấy khi góp chuyện.

Nam từng khó chịu vì sự thờ ơ ấy. “Ông sống mà như không sống cùng gia đình,” anh từng nói với vợ. “Ăn không, ở không, chẳng giúp được gì, cũng chẳng buồn hỏi han ai.”

Nhưng Hạnh vẫn nhẹ nhàng: “Ông già rồi, em chỉ mong ông sống yên ổn những năm tháng cuối đời .

Có lúc Nam muốn nói chuyện thẳng thắn với ông Hòa, nhưng rồi lại thôi. Không phải vì thương, mà vì thấy vô nghĩa. Ông cụ như người đã sống xong đời, chẳng điều gì lay động được. Vậy là anh cắn răng, sống cùng “một người xa lạ trong nhà” suốt 20 năm.

Thế rồi, một ngày đầu mùa hạ, ông Hòa trút hơi thở cuối cùng sau một cơn đột quỵ. Không kèn trống, không di chúc, không để lại lời nhắn. Căn phòng nhỏ ông ở chỉ còn lại vài cuốn sách, một bàn thờ vợ ông, và chiếc rương gỗ cũ kỹ khóa kín.

Tang lễ diễn ra giản dị. Nam và Hạnh lo liệu tất cả như một nghĩa vụ sau cùng. Sau khi an táng xong, Nam thấy nhẹ lòng – không phải vì thoát khỏi gánh nặng, mà vì cuối cùng, một mối quan hệ chẳng thể gọi tên đã kết thúc.

Nhưng chưa đầy một tuần sau đó, một người đàn ông mặc vest lịch thiệp xuất hiện trước cửa nhà họ với một phong bì dày. Anh ta là luật sư riêng của ông Hòa.

“Xin lỗi đã làm phiền anh chị, nhưng tôi được ông Hòa ủy quyền gửi đến một số giấy tờ, và một điều mà ông muốn hai người biết sau khi qua đời,” người luật sư nói.

Nam và Hạnh nhìn nhau, không khỏi ngạc nhiên. Cả hai chưa từng nghe ông Hòa nhắc đến bất kỳ tài sản hay kế hoạch gì. Trong đầu Nam, ông chỉ là một ông già giàu lòng tự ái, nghèo kiết xác, sống nhờ vả con cháu.

Ông ấy để lại gì chứ?” Nam buột miệng, có phần mỉa mai.”

Luật sư không nói, chỉ mở chiếc cặp da, lấy ra một tập hồ sơ. Và khi những dòng chữ đầu tiên hiện ra trước mắt, Nam thấy tim mình như ngừng đập…

Nam không thể tin vào mắt mình khi đọc dòng tiêu đề trên tập tài liệu: “Di chúc hợp pháp của ông Trần Văn Hòa – người để lại tài sản.”

Trong ánh mắt ngỡ ngàng của hai vợ chồng, người luật sư mở lời:Nam sững sờ. Anh luôn nghĩ ông Hòa không có nổi một đồng trong người, suốt đời sống phụ thuộc. Ngay cả đôi dép ông đi cũng là đồ cũ Nam mua tạm ở chợ. Vậy ông ấy lấy đâu ra tài sản?

Luật sư đưa ra các giấy tờ chứng minh: một căn nhà cho thuê ở tỉnh lẻ, sổ tiết kiệm trị giá gần 3 tỷ đồng, một tài khoản cổ phiếu trị giá khoảng 2.5 tỷ đồng, tất cả đều đứng tên ông Hòa. Ngoài ra, còn có một khoản vàng được ông gửi trong két sắt ngân hàng – hơn 40 cây vàng.

Tổng tài sản gần 10 tỷ đồng. Nam gần như không thở được.

Luật sư nói tiếp: “Trong di chúc, ông Hòa để lại toàn bộ tài sản cho vợ chồng anh chị. Không chia cho ai khác.”

Hạnh xúc động rơi nước mắt, còn Nam như bị xô vào khoảng trống. Bao nhiêu năm qua, anh nhìn ông Hòa bằng ánh mắt thiếu thiện cảm, cho rằng ông là gánh nặng, là người già sống mà không biết điều. Nhưng hóa ra, ông cụ đã có sự lựa chọn của riêng mình – lựa chọn sống lặng lẽ, âm thầm quan sát.

Trong di chúc, ông viết tay một đoạn như sau:

“Tôi biết con rể tôi không thương tôi. Tôi cũng không trách. Tôi sống để quan sát, và để học cách buông bỏ. Tôi đã chọn ở lại ngôi nhà này, không phải vì không có nơi khác để đi, mà vì tôi tin Hạnh. Con gái tôi là người có lòng hiếu thảo.

Tôi không tiêu xài số tiền tôi dành dụm, vì tôi thấy niềm vui lớn nhất tuổi già là sự yên ổn. Căn nhà đó tôi mua từ thời còn làm giám đốc hợp tác xã, tiền tiết kiệm gửi từ hồi còn có lãi suất cao. Tôi chưa từng nói ra, vì tôi muốn nhìn xem, trong cảnh thiếu thốn, ai còn coi tôi là người thân.

Hôm nay tôi ra đi, chẳng còn gì để giữ. Mong vợ chồng con hãy dùng số tiền này lo cho con cháu, sống bình an, và đừng bao giờ đánh giá ai chỉ qua vẻ bề ngoài.”

Nam cầm lá thư run rẩy. Một cảm giác xấu hổ trào lên. Anh từng phàn nàn, từng dằn vặt vợ vì một người cha già sống “ăn nhờ ở đậu”, mà không hề biết rằng, ông Hòa sống tiết kiệm không phải vì nghèo – mà vì ông chọn sống như vậy.

Suốt hai mươi năm, ông không đụng đến tiền, không chen vào việc gia đình, không oán thán. Ông sống như chiếc bóng – nhưng là chiếc bóng luôn lặng lẽ bao bọc ngôi nhà này. Không để lại phiền muộn, chỉ để lại những gì quý nhất – sự thấu hiểu và tha thứ.

Sau hôm đó, Nam thay đổi. Anh dọn lại căn phòng của ông Hòa, giữ nguyên bàn thờ cũ, và đặt di ảnh ông ở vị trí trang trọng nhất. Anh đưa con trai đến ngồi trước ảnh ông ngoại và kể về “một người ông vĩ đại – người đã sống âm thầm, nhưng để lại cả một trời nhân nghĩa.”

Hạnh sau đó dùng số tiền ông để lại lập một quỹ học bổng nhỏ mang tên ông Hòa cho trẻ em nghèo tại quê hương ông – ngôi làng mà ngày xưa ông đã rời bỏ để tìm kế sinh nhai.

Và kể từ đó, mỗi năm, vào ngày giỗ ông, Nam luôn đứng ra lo mọi thứ chu toàn – không vì nghĩa vụ, mà vì lòng biết ơn một người cha già đã dạy anh bài học lớn nhất cuộc đời: “Có những giá trị không đo bằng tiền, mà bằng cách một người âm thầm sống tử tế đến phút cuối cùng.”

Sưu tầm


 

 10 CÁI NGU THƯỜNG GẶP NHẤT                      

Kimtrong Lam          

                                                                                                                                1 – Cho mấy thằng bài bạc mượn tiền.

Muốn giúp nó làm lại cuộc đời nhưng cuối cùng phải kêu nó bằng ông nội, rồi suốt ngày quỳ lạy nó mà cũng chẳng lấy được đồng nào.

2 – Bỏ tiền để thuê người quen làm.

Nghĩ rằng sẽ tốt, giá cả phải chăng và dễ kêu khi hư hỏng đặc biệt là tạo việc làm cho họ.

Nhưng kết quả hoàn toàn ngược lại. Ngậm bồ hòn khen ngọt mà mang ơn hệ suốt đời hoặc là sẽ trách nhau rồi mất đoàn kết.

3 – Hùn vốn làm ăn chung chạ.

Nghĩ rằng anh em bạn bè thì lo gì, nhưng thành công hay thất bại rồi cuối cùng cũng m.ất đoàn kết hoặc tan rã.

4 – Làm thầy dạy thằng dại.

Cứ nghĩ sẽ dạy nó khôn lên nhưng kết quả là nó mang họa về hết cho mình và biến mình thành thằng dại.

5 – Bán đất lấy tiền gửi ngân hàng.

Nghĩ cho chắc ăn và tiện lợi, nhưng bán 3000m2 gửi ngân hàng 3 năm rút ra 300m2 cũng không mua nổi.

6 – Làm thuê cho người chủ không có đạo đức.

Nghĩ rằng mình chỉ làm thuê lấy tiền. Nhưng cuối cùng mình biến mình thành th.ằng thất đức vì ông chủ chỉ nói còn mình thì làm.

7 – Kết hôn mà không có tình yêu.

Nghĩ rằng cưới về rồi yêu, nhưng chưa kịp yêu thì đã ly hôn còn không thì sống bên nhau nhưng không biết mùi hạnh phúc.

8 – Gửi tiền người khác mua đất mà không đứng tên.

Vì l.òng tin tưởng và cũng chẳng bao nhiêu tiền.

Nhưng mấy năm sau giá đất nhảy lên mấy chục lần kèm theo lòng tham con người nổi dậy bắt đầu sinh tranh chấp.

9 – Sống thiếu lập trường (đẽo cày giữa đường).

Nể người nên ai nói gì cũng theo, nhưng kết quả mình chẳng làm được việc gì cho tốt hết.

10 – Sống hà tiện.

Cứ nghĩ nhịn ăn để tích góp về gi.à, nhưng chưa già đã chết hoặc già rồi thì tiền núi cũng chẳng cần vì đã kiệt sức.

ST.