BỔN PHẬN NHƯỜNG CƠM XẺ ÁO -Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

(Suy niệm Tin mừng Lu-ca (Lc 16, 19-31) Chúa nhật 26 thường niên)

Sứ điệp: Nhường cơm sẻ áo cho nhau là bổn phận của mọi người.

Trích đoạn Tin mừng hôm nay cho thấy hai cảnh đời trái ngược.

Ông nhà giàu, chủ nhân của ngôi biệt thự sang trọng “mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình.” Trong khi đó, ngay trước cổng nhà ông, có anh La-da-rô cùng khốn, ghẻ lở đầy mình, đưa mắt thèm thuồng nhìn ông ăn uống no say và khao khát được hưởng chút bánh vụn từ bàn ăn rớt xuống mà chẳng ai cho, chỉ có mấy con chó đến liếm láp ghẻ chốc cho anh.

Thế rồi, cảnh đời nghiệt ngã nầy lại bị đảo ngược: Người nghèo chết và được thiên thần đem vào lòng Cụ Áp-ra-ham, vui hưởng hạnh phúc thiên đàng; Còn ông nhà giàu cũng chết và bị khổ hình trong hỏa ngục.

Người giàu nầy đã phạm tội gì mà phải vào hỏa ngục? Xem ra, ông chẳng làm gì nên tội: không trộm cắp, cướp giật của ai; cũng chẳng đánh đập hay chửi mắng La-da-rô…

Sở dĩ ông bị luận phạt là vì ông ích kỷ, không thương xót, không giúp đỡ La-da-rô đang lâm cảnh khốn cùng.

Sống ích kỷ mà cũng bị luận tội sao?

Đúng thế. Qua dụ ngôn “Phán xét cuối cùng”, Chúa Giê-su khẳng định rằng khi người ta ích kỷ, vô cảm vô tâm không giúp đỡ người khốn khổ thì sẽ phải chịu án phạt trong chốn cực hình. Bấy giờ, Chúa Giê-su trong vai thẩm phán sẽ buộc tội những người nầy rằng:

“Hỡi quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng” và Chúa kết luận: “Khi các ngươi không thương xót, cứu giúp người khác là các ngươi đã không cứu giúp Ta.” (Mt 25, 41-43).

Có nhận thì phải có trao

Trong cuộc đời nầy, chúng ta đã nhận được rất nhiều thứ do người khác cống hiến cho mình như cơm ăn, áo mặc, nhà ở, xe đi và rất nhiều sản phẩm, dịch vụ khác…

Nếu không nhờ sự trợ giúp, chia sớt của người khác, không ai có thể sống được.

Ngoài ra mỗi người lại còn được đón nhận vô vàn ân huệ Thiên Chúa tuôn ban trong suốt cuộc đời… Vậy thì đến lượt mình, chúng ta cũng phải cống hiến, phải trao ban cho người khác. Có vay phải có trả, có nhận thì phải có trao. Người khác đã phục vụ mình thì mình cũng phải phục vụ người khác.

Không phải chờ đến khi trở thành tỷ phú hay giàu có như lão phú hộ trên đây, ta mới tính đến chuyện chia sớt của cải mình cho người khác; nhưng ngay hôm nay, chúng ta vẫn có trách nhiệm cống hiến cho người khác những ân huệ Chúa ban cho mình, như dùng thời gian, công sức, tài năng Chúa ban để phục vụ những người chung quanh, để góp công xây dựng xóm làng.

Lạy Chúa Thánh Thần,

Xin soi sáng cho chúng con biết rằng tất cả những gì chúng con đang có là những món quà Chúa gửi cho chúng con quản lý và chúng con có bổn phận phải chia sớt lại cho người khác.

Xin cho chúng con đừng khư khư giữ lấy cho riêng mình, kẻo chuốc họa vào thân, như lão phú hộ trong Tin mừng hôm nay. Amen.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Tin mừng Chúa nhật 26 thường niên (Lu-ca 16, 19-31)

19 “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình.20 Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu,21 thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.22 Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn.

23 “Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa, và thấy anh La-da-rô trong lòng tổ phụ.24 Bấy giờ ông ta kêu lên: “Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!25 Ông Áp-ra-ham đáp: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ.26 Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.

27 “Ông nhà giàu nói: “Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh La-da-rô đến nhà cha con,28 vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!29 Ông Áp-ra-ham đáp: “Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó.30 Ông nhà giàu nói: “Thưa tổ phụ Áp-ra-ham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối.31 Ông Áp-ra-ham đáp: “Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin.”.

From: ngocnga_12 & NguyenNThu

ÔNG SCHWEITZER VÀ NGƯỜI NGHÈO – Lm Mark Link, S.J.

Lm Mark Link, S.J.

Vào năm 1950, một ủy ban gồm đại diện của 17 quốc gia đã chọn ông Albert Schweitzer là “người của thế kỷ.”  Hai năm sau, 1952, ông được giải thưởng Nobel Hòa Bình.

Ông Schweitzer được cả thế giới ca tụng là một thiên tài đa dạng.  Ông là một triết gia lỗi lạc, một thần học gia sáng giá, một sử gia đáng kính nể, một nhạc sĩ độc tấu, và là một bác sĩ truyền giáo.

Nhưng điều đáng kể là đức tin Kitô Giáo thật sâu đậm của ông.  Chính đức tin này đã ảnh hưởng đến từng góc cạnh của đời ông.

Khi 21 tuổi, Schweitzer tự nhủ là ông sẽ vui hưởng nghệ thuật và khoa học cho đến năm 30 tuổi.  Sau đó ông sẽ dành cuộc đời còn lại để làm việc cho những người nghèo dưới hình thức phục vụ trực tiếp nào đó.  Và vì thế vào ngày sinh nhật thứ 30, ngày 13-10-1905, ông bỏ vào thùng thư ở Ba Lê một vài lá thư.  Đó là thư gửi cho cha mẹ và các bạn thân, ông báo cho họ biết là ông sẽ theo học về y khoa.  Sau đó ông sẽ sang Phi Châu để làm việc cho các người nghèo với công việc của một bác sĩ.

Ngay lập tức các lá thư ấy đã tạo nên một chấn động.  Ông kể lại trong cuốn Out of My Life and Thought:  “Thân nhân và bạn hữu của tôi tất cả đều thành khẩn đưa ra các nhận định của họ về quyết định điên rồ của tôi.  Họ nói, tôi đang chôn vùi các tài năng thiên phú…  Một bà thật hăng say thuyết phục rằng tôi có thể đạt được nhiều kết quả cho việc giúp đỡ người nghèo qua các bài diễn giảng hơn là hành động trực tiếp mà tôi đang ấp ủ.”

Tuy nhiên, ông Schweitzer không thay đổi ý định.

Vào năm 38 tuổi, ông là một bác sĩ đầy đủ bản lĩnh.  Vào năm 43 tuổi, ông sang Phi Châu để mở một bệnh xá ở cạnh bìa rừng mà sau này được gọi là Equatorial Africa.  Ông từ trần ở đây năm 1965 khi được 90 tuổi.

Động lực nào đã khiến ông Schweitzer dám gạt bỏ danh vọng và tiền tài để làm việc cho người nghèo ở Phi Châu?

Ông cho biết, một trong những ảnh hưởng là khi ông suy niệm về đoạn phúc âm mà chúng ta vừa nghe hôm nay về người giầu và ông Lagiarô.  Ông nói:

“Thật không thể hiểu nổi khi tôi tự cho phép mình sống một cuộc đời sung sướng, trong khi quá nhiều người chung quanh tôi đang vật lộn với sự đau khổ.” 

Và đó là điều đưa chúng ta đến câu chuyện phúc âm hôm nay.

Tội của người nhà giầu trong bài phúc âm hôm nay không phải là ông đã ra lệnh tống cổ Lagiarô ra khỏi khu vực của ông.  Cũng không phải là người nhà giầu đã đánh đập hay chửi rủa ông Lagiarô mỗi khi đi ngang qua.

Tội của người nhà giầu là ông không bao giờ để ý đến Lagiarô.  Ông coi Lagiarô như một phần đương nhiên của khung cảnh cuộc đời.  Tội của người nhà giầu là ông chấp nhận mà không bao giờ thắc mắc về sự kiện, Lagiarô thì nghèo và chính ông thì giầu.  Tội của người nhà giầu không phải là tội về một hành động, là thi hành một điều gì đó mà lẽ ra không nên làm.  Tội của người nhà giầu là một tội quên sót, đó là, không thi hành điều phải làm.  Tội của người nhà giầu là đắm mình trong của cải mà không động đến ngón tay để giúp ông Lagiarô khi cùng cực.  Tội của người nhà giầu cũng chính là tội đang được tái diễn ngày hôm nay.  Và chính tội này khiến chúng ta phải thực sự lưu tâm đến những gì cần phải thi hành không chỉ cho người nghèo nhưng còn cho xã hội.

Ông John F.Kennedy đã đề cập đến mối ưu tư này khi ông nói, “Nếu một xã hội tự do không thể giúp gì cho người nghèo thì nó cũng không thể cứu được một thiểu số giầu có.”  Nói cách khác, sự thiếu lưu tâm đến người nghèo không chỉ tiêu diệt người nghèo mà còn tiêu diệt luân lý của xã hội chúng ta. 

Bài phúc âm hôm nay là một lời mời gọi để thi hành điều mà ông Albert Schweitzer đã làm.

Nó là lời mời để suy tư về câu chuyện của người nhà giầu và ông Lagiarô, và tự vấn lương tâm chúng ta câu hỏi mà chính ông Schweitzer đã thắc mắc: Làm thế nào chúng ta có thể sống sung sướng trong khi có quá nhiều người đau khổ? 

Nó là lời mời chúng ta hãy suy tư lời của Tướng Dwight D. Eisenhower: 

“Mỗi một khẩu súng được chế tạo, mỗi một tầu chiến được hạ thủy, mỗi một tên lửa được phóng đi, trong một ý nghĩa nào đó chúng là sự trộm cắp của người đói không có gì ăn, của người lạnh không có gì mặc.”

Nó là lời mời chúng ta hãy quý trọng lời của Chúa Giêsu trong bài phúc âm hôm nay.

Hãy kết thúc bài giảng bằng những lời của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong chuyến tông du Hoa Kỳ năm 1979, khi người giảng ở vận động trường Yankee Nữu Ước. Đức Giáo Hoàng nói: 

“Chúng ta không thể ngồi đó bất động, vui hưởng sự giầu sang và tự do, nếu ở chỗ nào đó vẫn còn một Lagiarô của thế kỷ 20 đứng trước cửa nhà chúng ta.

“Dưới ánh sáng của bài dụ ngôn của Đức Kitô, giầu sang và tự do có nghĩa một trách nhiệm đặc biệt.  Giầu sang và tự do tạo nên một nhiệm vụ đặc biệt.

“Và vì vậy, nhân danh tình liên đới đã trói buộc chúng ta trong một bản tính nhân loại, tôi muốn nói lên phẩm giá của mỗi một con người.

“Người giầu và Lagiarô đều là con người, cả hai được dựng nên cách bình đẳng trong hình ảnh và giống như Thiên Chúa, cả hai đều được cứu độ bởi Đức Kitô với một giá đắt, là giá máu châu báu của Đức Kitô…

“Người nghèo của Hoa Kỳ và của thế giới là anh chị em của các bạn trong Đức Kitô.  Các bạn không thể lấy làm mãn nguyện khi để họ hưởng các mẩu vụn của bàn tiệc.

“Các bạn phải nhìn đến thực chất của mình chứ không chỉ sự dư dật của các bạn và giúp đỡ họ.  Và các bạn phải đối xử với họ như khách được mời đến dự tiệc trong nhà của mình.”

Lm Mark Link, S.J.

From: Langthangchieutim

Nhạc sĩ Nguyễn Vũ, tác giả ‘Bài Thánh Ca Buồn,’ qua đời ở Sài Gòn

Ba’o Nguoi-Viet

September 24, 2025

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Nhạc sĩ Nguyễn Vũ, tác giả ca khúc nổi tiếng ‘Bài Thánh Ca Buồn,’ vừa qua đời tại nhà riêng ở Sài Gòn vào chiều 24 Tháng Chín, thọ 81 tuổi.

Nhạc sĩ Nguyễn Vũ, tên thật là Nguyễn Tuấn Khanh, sinh năm 1944, tại Hà Nội, di cư vào Nam năm 1954 và sinh sống tại Đà Lạt, sau đó là Sài Gòn cho đến cuối đời.

Nhạc sĩ Nguyễn Vũ. (Hình: Báo Tuổi Trẻ)

Theo báo Tuổi Trẻ, nhạc sĩ Nguyễn Vũ qua đời lúc 5 giờ 20 chiều 24 Tháng Chín vì đột quỵ tại nhà riêng trên đường Nghĩa Hưng, phường Tân Hòa, TP.HCM (trước đây là Phường 6, Quận Tân Bình).

“Bài Thánh Ca Buồn” là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, được sáng tác vào năm 1972. Hơn 50 năm qua, ca khúc này được hàng triệu người hát, mỗi khi dịp Giáng Sinh về.

Ngoài “Bài Thánh Ca Buồn,” nhạc sĩ Nguyễn Vũ còn có nhiều nhạc phẩm nổi tiếng khác được nhiều người biết đến như “Nhìn Nhau Lần Cuối,” “Ga Chiều Phố Nhỏ,” “Lời Cuối Cho Em,” “Bài Cuối Cho Người Tình,” “Huyền Thoại Chiều Mưa,” “Đêm Kỷ Niệm…”

Theo cáo phó của gia đình, được báo Tuổi Trẻ trích đăng, cho biết: “Nghi thức tẩm liệm và phát tang vào lúc 11 giờ tối 24 Tháng Chín. Ngày 25 Tháng Chín là thời gian thân bằng quyến thuộc cầu nguyện. Đến 5 giờ sáng 26 Tháng Chín là nghi thức động quan và di quan. Sau đó, linh cữu nhạc sĩ được hỏa táng tại Trung Tâm Bình Hưng Hòa. Gia đình thông báo miễn phúng điếu kể cả hoa, trái cây và nhang đèn.”

Hàng triệu người Việt Nam, có thể ai đó không nhớ tên nhạc sĩ Nguyễn Vũ, nhưng không ai không biết nhạc phẩm nổi tiếng của ông khi vang lên: “Bài thánh ca đó còn nhớ không em?….” Và, “… Rồi những đêm thế trần đón Noel – Lang thang qua miền giáo đường dấu yêu – Tiếng thánh ca ngày xưa vang đêm tối – Nhớ quá đi thôi giọng hát ai buồn…” [kn]


 

Có phải vô thần (atheism) luôn là tội chống lại Điều răn thứ 1 không? – Cha Vương

 Ngày Thứ 4 thật mạnh mẽ trong đức Tin, bền vững trong đức Cậy, tràn đầy trong đức Mến nhé. 

Cha Vương

Thứ 4: 24/9/2025

GIÁO LÝ: Có phải vô thần (atheism) luôn là tội chống lại Điều răn thứ 1 không? Vô thần không phải là tội, nếu người ta không được học biết gì về Thiên Chúa, hoặc không được kiểm tra xem xét (examine) vấn đề về Thiên Chúa hiện hữu cách có ý thức (conscientiously) và không thể tin. (YouCat, số 357)

SUY NIỆM: Trong Hiến chế Giáo hội trong thế giới thời nay (Gaudium et Spes) số 20 & 21 có viết:

1/ Nguyên nhân phát sinh vô thần (số 20):

❦  Nhiều người chủ trương giải thích mọi sự chỉ bằng khoa học. Họ không nhận một chân lý nào là tuyệt đối.

❦  Có người lại quá đề cao con người, đến nỗi sự tin tưởng vào Thiên Chúa trở nên vô nghĩa.

❦  Có người hình dung một Thiên Chúa theo kiểu họ nghĩ, không phải là Thiên Chúa của Tin mừng Phúc âm.

❦  Chủ trương vô thần nhiều khi phát sinh do việc chống lại sự dữ trong thế giới.

❦ Ngay cả nền văn minh hiện đại, cũng làm cho con người khó đến với Thiên Chúa , vì nó quá bám vào thực tại trần gian.

2/ Giáo hội đối với chủ nghĩa vô thần: (số 21)

“Giáo hội Công giáo cho rằng nhìn nhận Thiên Chúa không có gì nghịch lại với phẩm giá con người, vì phẩm giá ấy đặt nền tảng, và nên hoàn hảo trong chính Thiên Chúa: bởi vì con người có trí tuệ và có tự do, được Thiên Chúa đặt để trong xã hội, nhưng nhất là vì con người được gọi đến để thông hiệp với chính Thiên Chúa, và tham dự vào hạnh phúc của Ngài như con cái.

Ngoài ra giáo hội còn dạy rằng: Hy vọng chung cục không làm giảm những bổn phận ở trần gian này, trái lại còn tạo thêm những động lực mới giúp hoàn thành những bổn phận ấy.

Vả lại, nếu thiếu căn bản và Thiên Chúa là thiếu hi vọng vào sự sống đời sau, phẩm giá con người sẽ bị tổn thương cách trầm trọng như thường thấy ngày nay, và những bí ẩn về sự sống, sự chết, về tội lỗi và đau khổ vẫn không giải đáp được. Như thế con người nhiều khi rơi vào tuyệt vọng. (Bản dịch Việt ngữ của Học viện Giáo hoàng Piô 10, Đà lạt).

Nhìn vào hai khía cạnh này có lẽ nhiều người Kitô hữu vẫn đang bị ảnh hưởng, không ít thì nhiều, bởi chủ nghĩa vô thần. Họ đọc thuộc lòng Kinh Tin Kính nhưng những lựa chọn hàng ngày lại không tương xứng với đức tin của họ.

LẮNG NGHE: Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? (Gc 2:14)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, xin gia tăng niềm tin cho con để con sống tình huynh đệ chan hòa yêu thương với những người con gặp gỡ trên đường đời hôm nay.

THỰC HÀNH: Xem xét lại những nguyên nhân phát ra vô thần để tránh đừng vấp phạm.

From: Do Dzung

**************************

Con Đi Tìm Chúa | Angelo Band  

ĐỀN TÂM HỒN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Hãy lên núi, đưa gỗ về tái thiết Đền Thờ cho Ta!”.

Đền Taj Mahal, Ấn Độ, một kiệt tác được UNESCO công nhận; tuy nhiên, khá ‘mỉa mai’ với khởi đầu của nó. Năm 1629, người vợ yêu quý của Shah Jahan qua đời, vua xây một ngôi đền tráng lệ để tưởng nhớ nàng. Vua đặt quan tài bà ở giữa và việc xây dựng ngôi đền bắt đầu chung quanh nó. Ngày nọ, đi khảo sát, vua tình cờ gặp một ‘thùng gỗ’ – người ta đã ném nó ra từ lâu – đó là chiếc quan tài! “Tưởng nhớ nhường chỗ cho nghệ thuật!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay cũng nói đến một đền thờ mà Thiên Chúa hằng mong toạ lạc giữa dân; để nhờ nó, Ngài có thể thiết lập những ‘đền tâm hồn’. Qua Khacgai, Ngài nói với dân, “Hãy lên núi, đưa gỗ về tái thiết Đền Thờ cho Ta!”.

Thánh Vịnh đáp ca tiết lộ, “Chúa mến chuộng dân Người”. Vì mến chuộng dân, Thiên Chúa không ngần ngại tỏ lộ ước muốn ở giữa họ, đền thờ sẽ nhắc nhở họ về sự hiện diện của Ngài; nhờ đó, Ngài có thể chiếm cứ các tâm hồn. “Đền thánh chí thánh nhất là tâm hồn để Thiên Chúa làm Vua!” – Henri Nouwen. Cũng thế, trên bước đường rao giảng, Chúa Giêsu không xây một nhà thờ hay một đền thờ nào; điều Ngài trăn trở là những ‘đền tâm hồn’. Và một điều chắc chắn, Ngài khát khao cả tâm hồn Hêrôđê, nhân vật mà Tin Mừng hôm nay gợi lại.

Hêrôđê phân vân về Chúa Giêsu, Ngài là ai? “Vua tìm cách gặp Ngài”. Hêrôđê có thể đến với Chúa Giêsu bất cứ lúc nào; nhưng điều đó đã không xảy ra. Gặp Ngài, thực sự lắng nghe Ngài, hẳn Hêrôđê đã nhận được một quà tặng lớn, quà tặng đức tin, quà tặng hoán cải; bấy giờ, tâm hồn ông hẳn đã được Chúa Giêsu chiếm ngự. “Một trái tim xao động có thể đứng trước Sự Thật mà vẫn quay lưng!” – C.S. Lewis. Cũng thế, với chúng ta, nói rằng, tôi tin nhận Chúa Kitô là Chúa, là Đấng Cứu Rỗi và tôi đã được “sinh lại” trong Ngài là chưa đủ! Chúng ta phải bắt đầu sống cuộc sống “sinh lại” đó, đổi mới những lựa chọn của mình mỗi ngày hầu trái tim, cung lòng chúng ta trở nên một ‘đền tâm hồn’ cho Chúa Kitô ngự trị. Hãy nói với Ngài, “Hôm nay, con muốn hoán cải từ những yếu đuối, lầm lỗi. Con muốn đến gần Ngài hơn!”.

Anh Chị em,

“Con muốn đến gần Ngài hơn!”. Việc lặp đi lặp lại lời nguyện tắt này sẽ nhen lên trong chúng ta một khát khao mãnh liệt muốn được gần Chúa Giêsu. Nhưng như Hêrôđê, bạn và tôi dễ dàng gạt bỏ những lời mời lúc này lúc khác của Ngài; bởi lẽ, tự thâm tâm, chúng ta không muốn thay đổi, chúng ta sợ thay đổi! Vậy mà Chúa Giêsu vẫn đang kiên trì ngỏ lời mỗi ngày; Ngài không ngừng gõ cửa, gửi đến những thông điệp rõ ràng rằng, Ngài muốn xây bên trong mỗi người một ‘đền tâm hồn’ dành riêng cho Ngài. Vậy, để có thể nghe được điều Ngài muốn, hôm nay, chúng ta hãy mở cửa cho Ngài, chào đón Ngài, lắng nghe Ngài và thay đổi hoàn toàn theo cách Ngài muốn chúng ta trở thành! “Mỗi lời thì thầm khát khao gần Ngài đã là một bước tiến về phía Ngài rồi!” – Ann Voskamp.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa Giêsu, xin biến trái tim con thành một “Taj Mahal” sống động, không vì nghệ thuật, nhưng vì tình yêu con dành cho Chúa!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

 *******************************************

Lời Chúa Thứ Năm Tuần XXV Thường Niên, Năm lẻ

Ông Gio-an, chính ta đã chém đầu rồi ! Vậy thì ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế ?

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.      Lc 9,7-9

7 Khi ấy, tiểu vương Hê-rô-đê nghe biết tất cả những gì đã xảy ra, thì phân vân lắm. Thật vậy, có kẻ nói : “Đó là ông Gio-an từ cõi chết trỗi dậy.” 8 Kẻ khác nói : “Ông Ê-li-a xuất hiện đấy !” Kẻ khác nữa lại nói : “Đó là một ngôn sứ thời xưa sống lại.” 9 Còn vua Hê-rô-đê thì nói : “Ông Gio-an, chính ta đã chém đầu rồi ! Vậy thì ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế ?” Rồi vua tìm cách gặp Đức Giê-su. 


 

Một chút để suy gẫm – Nhà báo Hoàng Nguyên Vũ

Nhà báo Hoàng Nguyên Vũ

Tôi từng ngồi ở hành lang bệnh viện vào một chiều oi ả, khi nghe thấy một câu nói mà đến giờ, mỗi lần nhớ lại, lòng tôi vẫn thắt lại một nhịp.

Một cô hộ lý trẻ nói với giọng bực dọc:

– Bác ơi, bác lại tè ra giường nữa rồi đó nha!

Cụ ông nằm trên giường, ánh mắt ngơ ngác như đứa trẻ bị bắt quả tang làm điều sai.

Ông quay mặt vào tường. Không nói. Chỉ lặng lẽ.

Ở giường bên, một người nuôi bệnh khẽ nói với con gái:

– Con nít tè dầm thì người ta thương. Người già tè dầm… lại bị mắng.

Cô gái gật đầu, rồi hỏi nhỏ:

– Sao lại vậy má?

Bà đáp, chậm rãi, như thể chạm vào một nỗi niềm mà chỉ ai từng già đi, từng lặng lẽ một mình, mới hiểu hết:

– Vì người già… không còn mẹ để thương nữa.

Người ta hay nói: “Già như con nít.” Nhưng không.

Trẻ con có mẹ.

Người già thì không.

Trẻ con lấm lem thì có người lau mặt, dỗ dành, xoa đầu mà bảo:

 “Không sao, mẹ đây rồi.”

 Người già lấm lem thì bị nhíu mày, bị nhắc nhở, bị những cái thở dài kéo dài đến rã rời.

Trẻ con được nâng niu vì còn cả một đời phía trước.

Người già bị bỏ mặc… vì chẳng còn bao nhiêu đời để mà mong chờ.

Tôi nhớ cha mình – một người thợ mộc từng thẳng lưng suốt đời, từng không biết cúi đầu trước ai – đứng run rẩy ở cửa phòng tôi, chỉ để thốt lên một câu:

“Con ơi, giúp ba thay áo với.”

Ông đứng đó, như thể xin một đặc ân.

Tôi bước ra, thấy bàn tay ông đã không còn vững, cúc áo cài lệch, vạt áo lộn trong ra ngoài.

Lòng tôi thắt lại.

Người từng dạy tôi cài khuy áo… giờ không cài nổi áo cho mình.

Ông xấu hổ. Không phải vì chiếc áo.

Mà vì lần đầu trong đời, ông cần con trai… như ngày xưa tôi từng cần ông.

Người già không đáng thương vì họ yếu.

Họ đáng thương… vì họ đã từng mạnh.

Từng đội mưa đạp xe mấy chục cây số chỉ để con kịp đến lớp.

Từng nhường miếng cá cuối cùng trong nồi canh chua cho đứa con thích ăn đầu.

Từng thức cả đêm chỉ để mở cửa khi ta đi chơi về muộn mà không một lời càm ràm.

Giờ đây, họ chỉ mong một bàn tay đủ dịu dàng để không gạt đi, đủ kiên nhẫn để không gắt gỏng.

Họ chỉ mong… một người chịu nắm tay họ đi qua đoạn đời cuối cùng – như chính họ đã từng nắm tay ta qua những tháng năm đầu tiên.

Chúng ta thương con bằng bản năng.

Nhưng lại thương cha mẹ già… bằng sự kiên nhẫn giới hạn.

Vì sao?

Vì ta đã quen thấy họ gồng gánh, mạnh mẽ.

Nên khi họ yếu mềm, ta bối rối.

Khi họ lẩm cẩm, ta khó chịu.

Khi họ phụ thuộc, ta lảng tránh.

Ta quên mất rằng…

Người từng là chỗ dựa, cũng cần được dựa lại.

Người từng thay ta tã, giờ chỉ cần ta lau cho họ một giọt nước tiểu mà không rít lên vì mệt.

Đừng đợi đến khi họ không còn… rồi mới thốt hai chữ “giá như”.

Giá như mình nhẹ giọng hơn một chút.

Giá như mình không gắt lên hôm đó.

Giá như mình chịu dắt mẹ ra ngồi nắng chiều trước cổng, chỉ vài phút thôi…

Người già không còn mẹ.

Và chúng ta – những đứa con – chính là phần dịu dàng cuối cùng họ còn.

Thương một người già, đôi khi không cần phải làm điều gì lớn lao.

Chỉ cần đủ kiên nhẫn để đừng khó chịu.

Đủ mềm lòng để không nhẫn tâm.

Và đủ tử tế… để không rời tay họ, khi họ bắt đầu run rẩy.

 Nhà báo Hoàng Nguyên Vũ

From: taberd & NguyenNThu

ÔNG SƯ NHÀ QUÊ – VŨ VĂN QUÝ

VŨ VĂN QUÝ

( Một tấm gương tốt lành rất đáng tôn vinh.)         

ÔNG SƯ NHÀ QUÊ

   “Tưởng niệm cố Hòa Thượng THÍCH THANH LONG –
một cựu Tù Nhân Chính Trị – nhân giỗ mãn phần 28 năm ( 29/11/1991 – 2019).”

BÀI CA KINH HÒA BÌNH
VŨ VĂN QUÝ

Tôn giáo nào cũng có những vị chân tu – những bậc lành thánh – suốt đời hiến thân cho lý tưởng thiêng liêng cao cả của mình đã chọn. Nhiều vị đã cùng sống chết với tha nhân và chết cho đạo pháp và trở nên hiển thánh được đời sùng bái tôn thờ chẳng hạn như thánh Maximilian Kolbe… (*). Tấm lòng vị tha chan chứa tình người của họ tỏa ra vô biên không vị kỷ, không đóng khung hạn hẹp ở lằn ranh tôn giáo. Biết bao công đức của họ được truyền tụng từ thế hệ này qua thế hệ khác được kể lại bằng những câu chuyện đầy cảm kích. 

Cách nay gần 3 thập niên trên tờ Đất Mẹ số 38 (Đất Mẹ là tờ báo nguyệt san Công Giáo) chúng tôi đã viết dưới đề tựa ” Nén Hương Cho Hòa Thượng THÍCH THANH LONG” ngay sau khi ngài viên tịch tại Sài Gòn. Từ sau ngày ấy đến nay, nhiều báo Việt ngữ tại Hoa Kỳ cũng có những bài viết về ngài, điểm đáng chú ý là những tác giả này đa số là những tù nhân chính trị người Công Giáo trong đó có một số các vị linh mục đang có mặt tại Hoa Kỳ, những người đã một thời sống cùng với cố hòa thượng ở các trại tù từ Nam chí Bắc, tất cả đều tỏ lòng tôn kính, ngưỡng phục. 

Tang lễ cố Hòa Thượng THÍCH THANH LONG  được mô tả như một đám rước hết sức trọng thể. Đoàn người tham dự đã phủ kín con đường dài 5 cây số từ cổng Chùa Giác Ngạn đường Trương Minh Giảng Sài Gòn tới Nghĩa Trang Bà Quẹo không chỉ gồm các đoàn thể Phật tử, các thiện nam tín nữ mà có mặt đủ mọi thành phần tôn giáo cũng như rất đông đảo các cựu Tù nhân Chính trị. 

Trước năm 1973, Hòa Thượng mang cấp bậc Trung Tá làm Phó Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo cho đến khi thượng tọa Thích Tâm Giác đi Nhật bản trị bệnh thì Hòa Thượng mới lên làm Giám Đốc và cũng được thăng cấp Đại Tá tuyên úy từ dạo đó. 

Ngày 13/6/1975 bị việt cộng bắt đi cải tạo và đem ra Bắc. Đến ngày 12/9/1987 được tha trở về lại Chùa Giác Ngạn Sài gòn và mãn phần tại đây. 

Ngược dòng thời gian gần 3 thập kỷ, năm ấy cũng vào mùa thu (1982), trại cải tạo Hà Tây tiếp nhận thêm khoảng 80 tù nhân chính trị (TNCT) từ trại tù Thanh Phong chuyển đến. Đa số thành phần thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị gồm các ngành Tâm Lý Chiến, An Ninh Quân Đội và Tuyên Úy của Quân Lực VNCH. 

Trại Hà Tây có tất cả 12 buồng giam. Số TNCT mới đến bị nhốt trong buồng số 7. Buồng này rất kín cổng cao tường bao quanh chằng chịt kẽm gai vì trước đó được dùng để nhốt các tù hình sự có trọng án nên được canh gác cẩn mật. Việt cộng coi những TNCT này là những đối tượng cực kỳ nguy hiểm. Khoảng một tháng sau khi được thanh lọc kỹ càng  thì việt cộng mới mở cửa cho đội Tuyên Úy ra ngoài lao động; tuy vậy buồng 7 vẫn chưa được ra sân lớn tập họp điểm số như các buồng khác. Đội Tuyên Úy lúc này do linh mục Nguyễn Quốc Túy – cha Túy là cựu Thiếu Tá Biệt Động Quân, một mẫu người trẻ năng nổ, ứng phó thần kỳ đã được các vị tu sĩ cử ra đứng mũi chịu sào để điều động đội này xử trí với những thủ đoạn thâm độc của việt cộng. Công việc chính của đội tuyên úy lúc đó là đào đất đắp đường và kéo xe thay thế trâu bò.

Lần đầu tiên tôi được cha Túy mời dự bữa cơm trưa thân mật tại sân buồng 7. Có khoảng chục người trong đó có linh mục Khổng Tiến Giám bào đệ của linh mục Khổng Tiến Giác tuyên úy Bộ Tổng Tham Mưu, linh mục Nguyễn Văn Thịnh cựu giám đốc nha tuyên úy Công giáo, các mục sư Xuân, Điểu Huynh và các đại đức Tâm, Khuê, Tùng và hòa thượng Long. Ngoài đội tuyên úy chỉ có 2 khách mời là tôi và Đại tá Trần Mộng Chu nha Quân Pháp. Hầu như không phân biệt tôn giáo và cấp bậc, tất cả các vị tuyên úy đều xem hòa thượng Thích Thanh Long như một người anh cả và xưng hô một cách chung chung là thầy Long. Mỗi khi nhắc đến thầy Long thì mọi người đều nói về thầy với niềm kính ái trọng vọng. 

Thoạt đầu khi chưa giới thiệu từng người trong bữa tiệc, tôi ghé vào tai cha Túy hỏi có phải người ngồi trước mặt cha là Thầy Long không thì cha lắc đầu. Cung cách bề ngoài và bộ quần áo mới màu đà còn tươi của vị này làm cho tôi lầm ông với hòa thượng Long. Rồi cha chỉ cho tôi người ngồi đối diện với tôi. 

Vóc gầy gò, dong dỏng cao, da ngăm ngăm, hàm răng nhỏ và đen huyền, tóc cạo đúng tiêu chuẩn sư tăng nhà Phật, mặc bộ đồ cũ đơn sơ, khuôn mặt hiền hậu nhưng khắc khổ, toát ra vẻ chân tu như thánh Găng Đi nhất là cặp mắt sáng, sâu, đen láy, rất ít nói nhưng quan tâm lắng nghe mọi người xung quanh. Đó là người ngồi đối diện với tôi. Người đó chính là Thầy Long. Tôi nhìn ông khẽ cúi đầu và ông nhìn tôi với đôi mắt hiền từ trìu mến. Ông đã trao cho tôi một nụ cười thật kín đáo.

Tháng 3/1983, trại Hà Tây sắp giải thể và chuyển hết các TNCT về Nam Hà. Các vị Tin Lành và Phật Giáo được phân tán về các đội lao động. Riêng các tuyên úy Công Giáo chờ phương tiện chuyển ngược về trại tù Thanh Phong. 

Năm 1985, tôi và thầy Long bị giam chung  tại Nam Hà và chính thời gian này tôi được biết thầy nhiều hơn. Có những người đã biết và nói rằng trước ngày di cư từ Bắc vào Nam năm 1954, thầy đã trụ trì tại một ngôi chùa ở một làng tại tỉnh Nam Định và được đông đảo tín hữu mến mộ. Nhiều đêm tâm sự với thầy trong buồng giam, tôi cố gợi chuyện để biết thêm nhưng thầy là người điềm đạm khiêm tốn chỉ kể với tôi là thầy xuất gia đầu Phật từ lúc 12 tuổi. Quyết tâm tu hành, không muốn vương vấn nợ trần, thầy đổi tên là Nguyễn Văn Long và hầu như hoàn toàn không ai biết được tên thật và quê quán của thầy. Thầy thuộc nhiều địa danh ở Nam Định, khi tôi kể chuyện liên quan đến những vùng Cổ Lễ, Cổ Ra, Văn Tràng, Trực Ninh, Nam Trực, Quần Phương, Lạc Quần v.v. thì bỗng nhiên đôi mắt thầy rực sáng lên và có vẻ thích thú. Tôi đoán có lẽ thầy đã trải qua thời thơ ấu tại một trong những địa danh này chăng? 

Thầy nói năm 16 tuổi, thầy chỉ lén về nhà nhìn mặt thân phụ của mình từ trần rồi lại lặng lẽ ra đi. Lý tưởng của thầy là Phật pháp, tình yêu của thầy là tha nhân, thân bằng quyến thuộc của thầy là Phật tử. Thầy có một cuộc sống vô cùng mộc mạc, đơn sơ, đức độ, lúc đi tu cũng như lúc ở tù. Thầy thường nói với tôi : “Tù cũng là tu”. Vốn có một tâm hồn thanh tịnh như đóa sen nở trên mặt hồ không gợn sóng lúc nào cũng toát vẻ chân tu khiến người bàng quan thấy thầy là cõi phúc. Lúc nào thầy cũng tự nhận mình là một “Ông Sư Nhà Quê”.  Đúng như vậy. 

Trong thời kỳ đói khát, tù nhân chưa được gia đình tiếp tế thăm nuôi đã có kẻ lấy chiếc lon ghi gô đựng nước uống của thầy nhét đầy thịt heo đánh cắp của trại, lúc bị phát giác không ai dám nhận. Cuối cùng để tránh phiền lụy cho một số người, thầy không ngần ngại đứng ra nhận chiếc lon đó là của thầy mặc dù ai cũng biết thầy ăn chay trường và kẻ nào là tên ăn trộm lúc bấy giờ. Khi nào trại cho tù nhân chút ít thịt để “bồi dưỡng”, thầy thường nhường cho các anh em đau ốm bệnh hoạn.

Đến khi được thăm nuôi tiếp tế, Phật tử khắp nơi đến thăm thầy hầu như hàng tuần. Những quà tiếp tế, thầy đem chia cho các bạn tù. Quần áo chỉ giữ 2 bộ. còn bao nhiêu cũng đem cho hết. Thầy thường xuống bệnh xá thăm viếng những người đau ốm và đem quà bánh thuốc men  xuống cho họ. Thầy rất quan tâm đến những “con bà phước” (**) bị bỏ quên trong trại. 

 Một vài trường hợp điển hình:

– Anh Khương, Phó Quản Đốc Trung Tâm Cải Huấn Côn Sơn – một người Công Giáo – bị địch bắt ngay trong lúc còn đang mặc sắc phục và bị việt cộng đánh nhừ tử. Hậu quả của những trận đòn thù khiến anh Khương trở thành bại liệt, á khẩu, tay chân co rút. Anh bị mất liên lạc với gia đình từ ngày bị bắt. Gần 13 năm, anh mới bập bẹ nói được một tiếng “dôi, dôi” như đứa trẻ mới tập nói. Thầy Long đã đích thân chăm sóc đút cơm, tắm rửa cho anh Khương như một người thân, đặc biệt là khi trại đọc lệnh tha nhưng anh không biết về đâu và không thể đi được một mình. Chính thầy Long đã giúp anh một số tiền và nhờ đại đức Tâm được tha cùng một lượt với anh Khương về trước tìm kiếm thân nhân của anh ở tận miền Tây để ra đón anh. 

– Anh Nguyễn viết Tân, Đại tá hải quân QLVNCH bị bán thân bất toại và bệnh nặng trong lúc mọi người ai nấy đều lo cho bản thân mình và tình thương giữa con người đã trở nên mệt mỏi thì thầy Long cũng chính là người tình nguyện chăm sóc anh Tân cho đến khi anh được người nhà ra đón kịp  về rồi chết. 

Một trường hợp khôi hài khác là ở trong trại có một anh tên Nguyễn Huệ, “vô tông tích” tự xưng là trung tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 23B (?). Có một thời gian anh ta bị giam chung với các tướng lãnh QLVNCH nhưng sau việt cộng phát giác “tướng Nguyễn Huệ”  chỉ là một tên điên khùng  và bị loại ra khỏi đội. Thấy thầy thương người và dễ dãi, “tướng Nguyễn Huệ” thường hay chạy theo quấy quả xin xỏ cơm và thuốc lào. Hễ trông thấy anh ta là thầy tủm tỉm cười, thầy không hề tỏ vẻ khó chịu và còn đi kiếm thuốc lào cho anh ta, tuy thầy chẳng bao giờ hút thuốc. 

Tù nhân được tha dần nhưng vẫn còn tồn đọng một số khá lớn trong đó có các đại đức Tâm, Khuê, Xuân, Tùng, Trí, Bình, Ngự, Học, Diệu v.v. Mỗi lần thầy Long được thông báo có thăm nuôi thì các vị này đã sắm sẵn bao bị và tận tình giúp đỡ thầy. Thầy thường nói : ” Hôm nay tôi lại có thánh Veronica đến thăm nuôi “. Đây cũng là dịp thầy tập họp các tu sĩ Phật giáo ở trong trại tù để phân công đi thăm viếng bệnh nhân hoặc cắt cử họ đến tụng kinh và cầu siêu mỗi khi có người tạ thế.

Vào các dịp lễ Noel hay Tết âm lịch, thầy cũng dành dụm chút gạo, đậu xanh, đường tán và khởi xướng việc nấu chè ăn chung cả buồng mang niềm vui nhỏ bé đến cho mọi người và còn dốc hết “hầu bao” giúp các anh em nghèo đói nhất trong trại. 

Thầy rất thích nghe tôi đánh đàn và kể chuyện cuộc đời thánh Phanxicô Khó Khăn (Francis 0f Assisi) nhất là những câu hát ý nghĩa thâm thúy trong Kinh Hòa Bình. Cứ vào mỗi sáng sớm Chủ Nhật được nghỉ lao động, trong khi tất cả mọi người còn nằm trong mùng thì thầy đã đánh thức tôi và khẽ nói : “Ông Quý ơi ! Dậy cho anh em nghe đàn đi !” Thế rồi âm thanh của chiếc đàn gỗ tự tạo ở trong tù của tôi nhè nhẹ vẳng ra tiếng thay lời trong âm giai cung Mi buồn ” Lạy Chúa từ nhân, xin cho con…..” hầu như không làm cho ai khó chịu cả. 

Tấm lòng cao quý của thầy sáng như ngọn đuốc trong trại tù tăm tối, không những đối với các bạn tù chính trị mà còn lan tỏa  đến cả những tù hình sự giam chung cùng trại. 

Như một tấm huy chương vô giá mà trên cõi đời này không thể đem ra so sánh được, thầy đã đối diện với bọn cai tù khát máu, trước họng súng AKA mà không hề nao núng và không sợ chết. Thầy đã được các vị tuyên úy Công Giáo ca ngợi vì đức bác ái và lòng hỷ xả, quên mình và chấp nhận những gì bất hạnh xảy đến. Trong cuốn AKA và Thập Giá của linh mục Phan Phát Huồn, Dòng Chúa Cứu Thế trang 107-108 kể chuyện đám tang của Cha Nguyễn Văn Bản, Dòng Đa Minh, tuyên úy Tổng Y Viện Cộng Hòa chết tại trại giam Yên Bái. Sau khi chôn cất, việt cộng bắt các tù nhân cải tạo lên lớp hội thảo để lên án và làm nhục người đã chết. Chúng vu cáo cho Cha Bản là một tên ác ôn côn đồ, chạy theo Mỹ Ngụy giết hại đồng bào, một tên có nợ máu đối với nhân dân, một tên lường gạt vv.. Nghe tên Nha, công an việt cộng lải nhải nhục mạ một người đã khuất mà người đó vốn là một người đạo đức gương mẫu, không dằn nổi sự bất bình, thầy Long đã đứng lên bênh vực bằng một giọng ôn tồn nhưng cương quyết : 

” Tôi được biết Linh Mục Bản ngoài xã hội cũng như ở trong trại cải tạo là một con người đạo đức, được mọi người kính nể…” Tên việt cộng hống hách nạt nộ:

” Anh im mồm ngay. Anh Bản đã bị nhà nước cách chức linh mục của anh ta từ ngày anh bước chân vào trại cải tạo, còn anh, anh đừng có hòng đem cái bọn cha cố vào đây mà hù dọa cách mạng…”  nhưng thầy Long đâu có chịu im. Đợi cho tên việt cộng vừa dứt lời thì thầy nói tiếp:

” Nếu linh mục đều như cán bộ nói thì làm sao dân chúng tin tưởng và kính mến họ. Mặc dù  cán bộ đã cấm các trại viên gọi các linh mục là Cha và tự xưng mình là con, trại viên nào không tuân thì sẽ phải xử lý, nhưng thưa cán bộ, có ai chấp hành lệnh đó không? Trái lại, đối với công chức nhà nước, trước mặt họ gọi là cán bộ nhưng sau lưng họ gọi bằng thằng việt cộng thì cán bộ nghĩ sao?” 

Như một con hổ bị trúng đạn, hai mắt hắn đỏ ngầu giận dữ, nhảy chồm tới nhìn trừng trừng vào thầy Long, quát thật lớn văng cả nước miếng vào mặt người đối diện và hắn ra lệnh:

“À anh này hỗn thật, yêu cầu các đồng chí đem cùm tên này cho tôi, biên bản sẽ làm sau.” 

Thầy Long vẫn tiếp tục nói một cách hùng hồn cho đến lúc lính cảnh vệ việt cộng mang AK xông tới còng hai tay ông, ông không tự bênh vực cho mình, ông vẫn bình thản đưa hai tay cho chúng còng để chúng đem đi. Đây thật là hình ảnh một con chiên hiền lành đứng trước kẻ xắn lông mình mà không nói lời than trách như đã được diễn tả trong Kinh Thánh. (Cv.8.32-33). 

Cuối năm 1987, thầy Long được tha về. Cởi bỏ chiếc áo chàm cải tạo, thầy lại khoác chiếc áo màu đà. Từ khi trở về Chùa Giác Ngạn, thầy không giữ chức trụ trì như trước, thầy sống trên căn gác xép tại góc vườn nhưng hàng ngày rất đông người đến thăm viếng và ngôi chùa được trùng tu lại, trở nên đẹp đẽ khang trang hơn cũng nhờ uy tín và sự quan tâm của thầy. Hầu như ai cũng cảm mến gương hy sinh, lòng can đảm, tánh cương trực của thầy Long. Có những vị Linh Mục không đi cải tạo mà chỉ nghe tiếng thôi cũng muốn đến thăm thầy Long tại Chùa Giác Ngạn. Tôi hỏi Cha Vũ Ngọc Trân, Chánh Xứ Chu Hải tỉnh Phước Tuy, cha nghĩ thế nào khi đến thăm Hòa Thượng Thích Thanh Long tại Chùa Giác Ngạn? Cha đã trả lời một cách không dè dặt: ” Tôi nghĩ Chúa sẽ thưởng công cho bất cứ ai biết khao khát trọn lành, thương người và giúp đỡ bênh vực người. Chúa nói kẻ nào giúp đỡ người đều có công trước mặt Ta. Tôi nghe các cha tuyên úy đi cải tạo về có nói nhiều về ông. Tôi cũng mến mộ ông và việc tôi đến thăm cơ sở một tôn giáo khác đâu có gì làm suy giảm đi lòng kính mến Chúa nơi tôi đâu. Nếu nói đó là một hình thức trao đổi văn hóa thì cũng chẳng sao!” (Cha Đa Minh Vũ Ngọc Trân cũng đã qua đời tại Xứ Chu Hải Bà Rịa ngày 24/2/1992). 

Trong thời gian chưa mắc bệnh ung thư nơi xương tọa, phương tiện chính của thầy trong thành phố là “xe đạp ôm”. Thầy thường ngồi trên “poóc ba ga” phía sau để cho một chú tiểu chở đi. Người ta thấy thầy xuất hiện ở nhiều nơi và tình thương của thầy dường như vẫn đặc biệt dành cho bạn tù cải tạo còn trong trại giam hoặc đã được tha về. Khi biết có ai đi xuống trại Z30D thì thầy cũng nhắn lời thăm hỏi, có đôi lúc  thầy gửi một cần xé chôm chôm hoặc vài thùng mì gói xuống phân phát cho anh em chưa may mắn được về sum họp với gia đình. Khi nghe tin có người vừa mất, bất luận ở đâu, không phân biệt tôn giáo, nơi cầu siêu hay chốn làm phép xác, tại chùa hay nhà thờ thánh thất, thầy cũng đều có mặt để phân ưu với gia đình người quá cố, thầy không ngần ngại đến vì “nghĩa tử là nghĩa tận”. Tôi đã gặp thầy và cùng đứng chung với thầy dưới gốc cây xoài trước tượng đài Đức Mẹ trong khuôn viên Nhà Thờ Ba Chuông để chờ tiễn đưa linh cữu của cố Trung Tá Nguyễn Thủy Chung và cố Trung Tá Nguyễn Anh Ly mất vào những năm 1989-1990. 

Rất nhiều cựu TNCT nay đang có mặt tại Hoa Kỳ hoặc định cư rải rác trên khắp thế giới vẫn nhắc đến thầy Long. Ký giả Lô Răng tức cố Trung Tá Phan Lạc Phúc và Trung Tá nhà văn Hoàng Ngọc Liên, Ký giả Vũ Ánh… cũng có những bài viết rất sâu sắc về thầy.                                                                    

                                                    *    *     *

Tôi chẳng có tư cách gì và cũng chẳng dám đưa ra nhận xét nào để “phong thánh” cho một con người mà tôi quen biết trong một thời gian hạn hẹp. Dưới nhãn quan của một tín đồ Công Giáo, dù sao tôi cũng chỉ là một chứng nhân với biểu kiến riêng, tôi xem Hòa Thượng Thích Thanh Long là một tấm gương rất tốt lành, đáng kính và đáng tôn vinh mà thời đại ngày nay thắp đuốc giữa ban ngày đi tìm cũng khó kiếm. Một người đã hy sinh tất cả để trọn đời đi theo con đường giống như của thánh Phanxicô Khó Khăn tác giả bài ca KINH HÒA BÌNH đã đi. 

Thầy Long luôn đề cập KINH LỤC HÒA trong Diệu Pháp Liên Hoa cho các đệ tử. Chính vì thế mà thầy rất thích KINH HÒA BÌNH của thánh Phanxicô lúc ở trong tù thì sau này tôi mới nghiệm ra vì nó ẩn chứa những điều uyên thâm sâu xa nói về đức bác ái và lòng từ bi cũng giống như KINH LỤC HÒA. Tôi không ngờ thầy Long lại là một người bạn tri âm của tôi và ngày nay mỗi khi dạo nhạc hát lên bài ca KINH HÒA BÌNH tôi lại nhớ đến thầy. 

Từ cõi bên kia, tôi tin rằng thầy đang mỉm cười và chăm chú lắng nghe tôi hát:

“Lạy Chúa từ nhân! Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm…”  

Tôi sẽ nhớ thầy mãi mãi cùng với bài ca KINH HÒA BÌNH trong tiếng tơ đồng của cung Mi buồn. 

VŨ VĂN QUÝ

(*) Cha Nguyễn Quốc Túy hiện nay làm cha xứ Tân Thái Sơn tại Sài Gòn.

(*) Con bà phước: tù nhân mồ côi, không người thăm viếngthiếu thốn.


 

Hồi xưa chợ Thủ Đức không có ngập…

Nguyễn Gia Việt

 Chợ Thủ Đức là một khu chợ cổ gắn liền với sự hình thành và phát triển của vùng đất Thủ Đức từ thuở lập ấp, lập làng đến hôm nay.

Hồi xưa chợ Thủ Đức không có ngập, ngập lút là của hôm nay khi quy hoạch chung quanh đã bít đường nước, hướng dòng nước mưa tập trung vào chợ Thủ Đức như cái ao.

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài – Tác giả: Phùng Văn Phụng

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Nhân đi tham dự Thánh lễ tạ ơn của anh Dương và chị Trâm mừng 25 năm thành hôn, tôi có cảm nghiệm rằng vợ chồng sống với nhau được 25 năm, 30 năm hay 50 năm hay hơn nữa không phải dễ nhất là thời đại ngày nay thường nghĩ đến cá nhân nhiều hơn, một chút bực mình, dễ gây tự ái, rồi không nhường nhịn nhau được, đành chia tay, chưa kể một trong hai người vợ hay chồng ra đi sớm vì bịnh hoạn, tai nạn v.v. . .

Chia sẻ trong Thánh lễ tạ ơn này đa số người đến tham dự đều công nhận vì “cái tôi” của mình, tự ái quá lớn của mình, làm cho gia đình xào xáo, bất an, tích lũy lâu dần đưa đến tình trạng ly thân, ly dị.

Tôi đã có nghe Đức Cha Khảm nói chuyện, có hai vợ chồng đến thăm Cha than thở rằng “Con nói thật với Cha con giàu lắm chủ 4, 5 tiệm ăn. Không hiểu sao mỗi lần ngồi ăn cơm là vợ chồng con cứ cải nhau.”

Cha hỏi: Con cải nhau vì vấn đề gì?

Dạ, con cải nhau vì vấn đề tiền.”

Linh mục Nguyễn tầm Thường cũng có kể chuyện:

Hai vợ chồng ở Việt Nam nhà nghèo, đi vùng kinh tế mới, có hai con còn nhỏ. Chỉ độc nhất có một chiếc xe đạp, đi đâu cũng đèo nhau, còn chở thêm hai con mà sao họ sống thật hạnh phúc.

Nhưng khi vượt biên đi được qua Mỹ, nhờ hai vợ chồng đều học giỏi, trình độ Đại học ở Việt nam, nên khi đi qua đây hai vợ chồng hội nhập vào xã hôi Mỹ rất nhanh và làm ăn trở nên giàu có. Mỗi người có xe BMW, Mercedes riêng đều là giám đốc, nhưng hai vợ chồng không chịu được nhau vì người nào cũng quá giỏi. Sau đó, họ đành phải thôi nhau. Tại sao?

Có vài người không chịu nổi bà vợ thứ nhất vì hay cằn nhằn thích chỉ huy mọi chuyện. Ông chồng lái xe nhưng bà vợ ngồi bên cạnh lại điều khiển, chỉ huy ông chồng. Không chịu nổi hoàn cảnh  “bị chỉ huy” mọi chuyện lớn nhỏ như vậy, anh bỏ vợ này và kiếm người vợ khác. Nhưng rồi mặc dầu người vợ sau này rất phục tùng chồng, nhưng anh vẫn không hài lòng. Rồi lại thay đổi tìm người mới và anh nêu lý do là “không hợp nhau”.

Mới đây, gặp lại người khách hàng cũ, hai vợ chồng qua đây theo diện HO, mặc dầu trên dưới 70 tuổi rồi, nhưng người vợ cho biết: “ Tôi đã ly thân rồi, sống với con trai chứ không còn sống với ông chồng tôi nữa”. Tôi thắc mắc tại sao vậy? Nếu không qua Mỹ sống ở Việt Nam, dầu nghèo nhưng có bà con thân nhân, gần gũi chia sẻ ngọt bùi, thì tình trạng ly thân, ly dị có bớt chăng? Lúc nghèo khổ cùng nhau chia sẻ, sao khi khá giả dư ăn, dư mặc lai chia tay?

Trong khi tuổi già vợ chồng lại rất cần nhau để săn sóc, lo lắng cho nhau nhất là khi đau ốm. Lời thề lúc thành hôn: “Giữ lòng chung thủy với anh(em), khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi mạnh khoẻ cũng như lúc đau yếu để yêu thương và tôn trọng anh (em) mọi ngày suốt đời anh(em).” hai vợ chồng đã quên hết rồi chăng? Tại sao vậy?

Cha Chu Quang Minh, dòng tên, sáng lập “Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia đình” có khuyến khích, nên thường xuyên đọc kinh Hôn Nhân Gia Đình, trong đó có câu:

Gia đình chúng con sóng gió ba đào. Xin ban ơn CAN ĐẢM và KIÊN TRÌ của Chúa Thánh Linh.

Gia đình chúng con trẻ già xung khắc, xin ban ơn QUẢNG ĐẠI và THỨ THA để chúng con AN VUI CHẤP NHẬN LẪN NHAU”

Nếu đọc kinh này thường xuyên mỗi tối, nhờ ơn Chúa, chắc chắn gia đình sẽ được bền vững hơn.

Tôi cứ hay suy nghĩ lan man, phải chăng con người đến tuổi già thường có hai khuynh hướng?:

* Hướng thượng : làm việc thiện, đi nhà thờ, giúp cho tha nhân, mưu cầu hạnh phúc cho người khác để lo phần hồn sau này khi mình ra đi, vì trên 60 hay trên 70 tuổi thì đâu biết ngày giờ nào mình ra đi. Nếu tin có đời sau thì thường ráng tu thân, tích đức nhiều hơn, cầu nguyện Chúa nhiều hơn, cố gắng làm nhiều việc thiện hơn nữa.

* Hướng hạ: Biết mình sắp ra đi, quỹ thời gian còn ngắn quá, con người dễ sống vội, sống gấp rút. Ăn chơi cho thỏa mãn, vì sợ già rồi làm sao còn ăn chơi được nữa. Nhiều người thích ăn uống, nhậu nhẹt nhiều hơn vì sợ không còn thì giờ ăn nhậu được nữa hay tìm kiếm người yêu mới trước khi đi về lòng đất.

Thánh Phao lô viết: “ Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả.” 1Cor 13 (4-7)

Làm sao đem thực hành, áp dụng những điều thánh Phao lô hướng dẫn tha thứ tất cả, chịu đựng tất cả vì tương lai con cháu bỏ “cái tôi” của mình đi có lẽ mọi sự đều giải quyết ổn thỏa được chăng?

Tin tức mới nhất từ báo Người-việt, ở Edmonton (Canada), hôm thứ hai (29-12) sáng thứ ba (30-12-2014) vừa qua, tổng cộng 9 người Việt thiệt mạng bao gồm cả hung thủ. Cảnh Sát Trưởng Knecht nói : “có vẻ đây là sự xung đột trong gia đình chứ không liên quan đến băng đảng thanh toán nhau.” Chín người Việt chết trong án mạng ở Canada , vượt qua nửa vòng trái đất, đến một nước văn minh, cuộc sống trở nên sung túc gấp mấy lần còn ở quê nhà, tại sao lại giết người thân kể cả trẻ con rổi tự tử. Tại sao vậy?

Đọc trong trang Web của Dòng Chúa Cứu Thế ngày 28-12 -2014 có hai bài viết:

Điều gì xác định một gia đình?

Lễ Thánh Gia: tôn vinh đời sống gia đình Trong bài này, Lm. Giuse Trương Hoàng Vũ, DCCT viết:

Thể hiện vẻ đẹp gia đình qua đời sống chung thủy để chống lại khuynh hướng coi hôn nhân như hình thức thỏa mãn tình cảm đơn thuần và có thể thay đổi tùy ý; thể hiện vẻ đẹp hôn nhân qua việc đón nhận con cái Chúa ban như là những quà tặng cao quý của sự sống; trân trọng và chăm sóc người già như di sản của đức tin và được thụ hưởng đức tin từ những chứng nhân sống động ấy; đón nhận và thăng hoa đời sống nghèo trong gia đình bằng việc tuân giữ và thi hành thánh ý Chúa. Sống được tất cả điều này chính là chúng ta tôn vinh ngày lễ Thánh Gia hôm nay.”

Đời sống tâm linh rất là quan trọng.

Giữ được bình an, vui tươi trong gia đình là ưu tiên, là mong muốn của mọi người, mọi gia đình để sống được hạnh phúc.

Nguyễn Hiến Lê nhà văn nổi tiếng trước năm 1975 đã viết trong hồi ký của ông như sau: “Đề cao nếp sống giản dị, đừng để hình hài làm hại cái tâm, đời sống vât chất thì nên dưới mức trung bình, đời sống tinh thần thì trên mức ấy”. Đời sống tinh thần là gì? Đó chính là đời sống nghiêng về chữ tâm, nghĩ đến phần linh hồn, đời sống tâm linh, ưu tiên cho linh hồn hướng thượng của mình. Có nghĩa là linh hồn mình luôn luôn dành cho Chúa và vì Chúa, mà kính Chúa thì phải yêu người, giúp đỡ cho tha nhân, nhờ thế đời sống chúng ta sẽ thấy vui hơn, hạnh phúc, bình an hơn vì luôn luôn có Chúa ở cùng, mà sau này, khi chết còn được hưởng hạnh phúc đời đời nữa.

Có phải chữ Tâm là quan trọng, là hàng đầu để chúng ta sống, đối xử với nhau từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội nên Nguyễn Du mới viết:

Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài?

12 giờ Đêm Giao thừa

cuối năm, 31-12-2014

đầu năm 01-01-2015

Phùng Văn Phụng


 

CHỈ MÌNH CHÚA – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Người ban cho các ông năng lực và quyền phép!”.

Một buổi chiều năm 1865, Lincoln vùi mặt vào tay, nói với nội các, “Thưa các ngài, chẳng bao lâu nữa, sẽ có tin quan trọng! Đêm qua, tôi mơ thấy mình đơn độc trên một chiếc thuyền, không chèo, không lái… bất lực trong một đại dương vô tận!”. Im lặng vần vũ! “Nhiều lần, tôi đã mơ như thế; mỗi lần, là một trận chiến lớn. Vâng, có lẽ ngày mai hay vài giờ nữa!”. Năm tiếng sau, ông bị ám sát. Vậy mà vị tổng thống luôn cảm nhận sự bất lực đó lại trở nên một ‘huyền thoại can trường’ nhờ niềm tin vào Chúa của mình!

Kính thưa Anh Chị em,

Như người dân Hoa Kỳ đã nhìn thấy sự bất lực nhưng can trường nơi vị tổng thống huyền thoại, trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta khám phá điều tương tự nơi các môn đệ. Chúa Giêsu sai họ đi trong ‘yếu hèn và mạnh mẽ’, ‘bất lực và quyền năng’; và ‘chỉ mình Chúa’ là hành trang duy nhất của họ.

Sai các môn đệ đi, Chúa Giêsu thông chia cho họ những gì Ngài có, “năng lực và quyền phép”; nhưng cùng lúc, Ngài buộc họ ra đi trong yếu đuối và khó nghèo, “Đừng mang gì đi đường!”. Ngài muốn những gì họ mang theo là chỉ một mình Ngài. Ngài hạn chế tối đa hành trang để họ biết rằng, khiên thuẫn của họ nằm ở tình yêu họ dành cho Ngài. Thiên Chúa thường hoạt động mạnh mẽ qua những trải nghiệm bất lực của con người. Chính trong tình trạng dễ bị tổn thương này, bạn và tôi sẽ chỉ cậy trông vào Đấng Sai Đi thay vì cậy mình hay cậy người! “Thiên Chúa sai kẻ mỏng manh để tỏ cho thế giới thấy sức mạnh của Ngài!” – Henri Nouwen.

Esdra, một con người lấy Thiên Chúa làm lá chắn, “Tôi quỳ gối, giơ tay lên Chúa là Thiên Chúa của tôi” – bài đọc một. Trong bất lực, ông van xin, “Tội chúng con quá nhiều!”; và Esdra nhận biết quyền năng Chúa khi Ngài đổi lòng vua Ba Tư để vua xót thương dân, cho dân định cư và xây đền thờ. Nhờ đó, họ hát mừng “Chúc tụng Thiên Chúa, Đấng muôn đời hằng sống!” – Thánh Vịnh đáp ca. Esdra trải nghiệm thế nào là sự cậy trông vào ‘chỉ mình Chúa’.

Anh Chị em,

‘Yếu hèn và mạnh mẽ’, ‘bất lực và quyền năng’ cũng như ‘chỉ mình Chúa’ là những trải nghiệm Chúa Giêsu đã sống. Ngài sinh ra trong hẩm hiu; chết đi trong tủi nhục; vậy mà chính trong sự bất lực tột cùng đó, sức mạnh và quyền năng của Chúa Cha được tỏ hiện. Như đã sai các môn đệ, Chúa Giêsu đang sai chúng ta đi, thông chia sức mạnh và quyền năng của Ngài cho mỗi người. Bao lâu không còn bám víu vào bất cứ điều gì khác ngoài Ngài, bạn và tôi luôn đủ sức để chiến đấu. Ngài đang nâng đỡ chúng ta ‘từ một khoảng kín đáo’; Ngài đang đợi mỗi người từng giây trong các nhà chầu để bổ sức và tạo niềm cảm hứng hầu bạn và tôi can trường ra khơi, nhất là những khi thuyền đời chúng ta gặp dông tố, khi “không chèo, không lái, bất lực trong một đại dương vô tận!”. “Trong sự phó thác, chúng ta tìm thấy can đảm để ra khơi giữa bão!” – Henri Nouwen.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa, vì con xác tín, ‘chỉ mình Chúa’ luôn bang trợ con ‘từ một khoảng kín đáo!’. Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Ngài!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

***************************************************

Lời Chúa Thứ Tư Tuần XXV Thường Niên, Năm lẻ

Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.  Lc 9,1-6

1 Khi ấy, Đức Giê-su tập họp Nhóm Mười Hai lại, ban cho các ông năng lực và quyền phép để trừ mọi thứ quỷ và chữa các bệnh tật. 2 Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. 3 Người nói : “Anh em đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai áo. 4 Khi anh em vào bất cứ nhà nào, thì ở lại đó và cũng từ đó mà ra đi. 5 Hễ người ta không đón tiếp anh em, thì khi ra khỏi thành, anh em hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.” 6 Các ông ra đi, rảo qua các làng mạc loan báo Tin Mừng và chữa bệnh khắp nơi.


 

Thánh Piô 5 dấu, linh mục dòng Phanxicô – Cha Vương

Chúc bình an! Hôm nay 23/09 Giáo Hội mừng kính Thánh Piô 5 dấu, linh mục dòng Phanxicô. Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.

*** CHÚ Ý: Cảm ơn bạn đã cho mình địa chỉ email. Nếu bạn biết những ai muốn nhận bài thì cứ gởi email đến cho mình. Xin hồi âm “Tạ ơn Chúa!” Để mình biết là đúng địa chỉ nhé. Đa tạ!

Cha Vương

Thứ 3: 23/9/2025

Thánh nhân sinh tại làng Pi-ết-ren-si-na gần Bê-nê-ven-tô nước Ý năm 1887. Người vào tu dòng Anh Em Hèn Mọn, ngành Ca-pút-xi-nô, và sau khi thụ phong linh mục đã tận tình lo việc mục vụ nhất là tại tu viện ở thị trấn Xan Gio-van-ni Rô-tôn-đô miền Pu-li-a.

    Cha Pio được mọi người biết đến qua hai việc: 

(1) Lòng tôn sùng Đức Mẹ triệt để. Ngài lần hạt suốt ngày. Có lần ngài nói với một người con thiêng liêng: “Luôn luôn nắm chặt lấy vũ khí của Đức Mẹ trong tay, nó sẽ giúp con chiến thắng kẻ thù”. 

(2) Giải tội cho người muôn phương—Ngài giải tội tùy theo tình trạng mỗi tâm hồn, chỉ cốt sao cho họ thành thực, được ơn tha thứ và cải thiện đời sống, nên nhiều khi ngài có những cư xử khác thường. Việc giải tội của ngài thường kéo dài 10 tiếng một ngày; người muốn xưng tội phải lấy số chờ đợi. Nhiều người nói rằng Cha Piô biết rõ các chi tiết cuộc đời của họ, mà chưa bao giờ họ tiết lộ.

    Sau đây là những lời nhắn nhủ của thánh Piô. Ước mong Bạn hãy dành thời gian để suy gẫm mà sống gần với Chúa hơn mỗi ngày nhé:

(1) CẦU NGUYỆN: “ Người ta tìm Chúa trong sách vở, nhưng gặp Chúa trong suy gẫm “Cầu nguyện là là chìa khóa để mở Trái Tim Chúa . “Hậu quả của cầu nguyện là bỏ cái “tôi”, sau đó Chúa sẽ nói chuyện với ta. “Chúa là tấm gương phản chiếu, ai biết suy gẫm, tâm trí hướng về Chúa, cũng sẽ nhận ra khuyết điểm của mình. “Trí óc không tập trung, thì lòng cũng không có tình mến Chúa “Tinh thần của Chúa là bình an, của quỉ là bực tức, nổi giận, lo lắng, nhưng ma quỉ như bị buộc giây, ta đứng xa thì không bao giờ bị cắn.

(2) KHIÊM TỐN: “ Biết mình không đáng, không tốt đẹp, có thể phạm nhiều tội ác… đó là ánh sáng Chúa chiếu vào linh hồn ta, cũng như vào linh hồn các thánh xưa để giúp tránh mọi tư tưởng kiêu ngạo, hư danh, và thêm lòng khiêm tốn”. “Biết làm cho linh hồn nên trống rỗng, Chúa sẽ làm cho nó nên giầu sang” “Người làm điều ác mà xấu hổ về việc đã làm, thì gần Chúa hơn là người tốt mà không dám làm việc lành”

(3) VÂNG PHỤC: “Không vâng phục thì không có nhân đức, không có nhân đức thì không có tốt lành, không có tốt lành thì không có yêu thương, không có yêu thương thì không có Thiên Chúa “

(4) THÁNH Ý CHÚA : “Mong được sống bình an đời đời  là điều chính đáng, thánh thiện, nhưng phải vâng theo ý Chúa . Vâng theo ý Chúa ở đời này còn quí hơn hưởng vinh phúc trên Thiên đàng. “Trong khi tùng phục, cảm thấy có phản loạn trong tâm hồn, thì đó là thử thách Chúa gửi đến, cần lý trí tùng phục, bản tính tự nhiên nổi dậy, mặc nó…

(5) BÁC ÁI: “Ai thương xót người nghèo là cho Thiên Chúa vay mượn.

“Chạm đến đức ái thì cũng như đâm vào con ngươi trong mắt Chúa”.

Yêu thương: ” Chúa không thể từ chối ban ơn, khi ta thật lòng muốn yêu mến Chúa “. “Chỉ có một hành động yêu thương của con người, chỉ có một hành động đức ái lớn lao trước mặt Thiên Chúa, đến nỗi cả thế giới này không đủ để thưởng công”.

(6) QUỶ CÁM DỖ VÀ Ý MUỐN: “Nhớ rằng quỉ chỉ có một cửa để vào linh hồn con, đó là ý muốn, không còn cửa nào khác. Không phải là tội, nếu không cố ý muốn phạm.

(7) ĐAU KHỔ: “Nhiều người xin tôi lấy đi thập giá của họ, nhưng rất ít người xin tôi cầu nguyện cho họ có sức mạnh để vác thập giá ấy. “Trần gian này là bể khổ, ta phải vác thánh giá. Không có hạnh phúc ở trần gian này. Học thức mà không nhắm vào Thiên Chúa Tự hữu thì có ích gì? Hãy gạt đi mọi hầm hố trần gian, hãy khiêm tốn, cầu nguyện, sẽ được bình an dưới đất và hạnh phúc trên trời. “Xác ta như con lừa, chúng cần roi vọt, nhưng không được quá tay, nếu nó ngã quị thì ai chở ta?

(8) SỐNG ĐẠO: “Hãy trở nên người công giáo tốt lành, nếu không, cuộc đời ta sẽ không có mục đích.

Câu nào đánh động Bạn nhất? Câu thứ 6 đánh động mình nhất.

Thánh Pio, cầu cho chúng con!

From: Do Dzung

**************************

Chúa Đau Cùng Con (Lời Nguyện Trong Cơn Đại Dịch) | Sáng tác: Sr. Quỳnh Thoại – Minh Nguyệt

“GIÁO DỤC LÒNG CĂM THÙ” – MỘT BI KỊCH CỦA NỀN GIÁO DỤC HẬU CHIẾN

Nguyễn Quốc Chính

                              ———-*¥¥. Gã Khờ

CỤM TỪ NGHẸN NGÀO..

Tôi đã từng uất nghẹn khi bắt gặp trong văn kiện, trong sách giáo khoa, thậm chí trong khẩu hiệu, cụm từ: “giáo dục lòng căm thù”.

Nghe qua, tưởng như đó là một mệnh lệnh mang tính “cách mạng”, như một thứ ngọn lửa để khích lệ chiến đấu. Nhưng càng nghiền ngẫm, càng thấy đau: căm thù vốn là phi giáo dục. Giáo dục là gieo hạt, là nuôi dưỡng, là khai mở nhân tính. Lòng căm thù chỉ làm chai sạn tâm hồn, làm con người thu hẹp vào hố sâu chia rẽ.

Đất nước ta từng trải qua hàng ngàn năm chống ngoại xâm. Nhưng chưa bao giờ tổ tiên dạy con cháu “căm thù”. Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo từng viết:

“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy chí nhân để thay cường bạo.”

Sau chiến thắng, cha ông còn cấp thuyền, ngựa, lương thực cho quân giặc về nước. Đó là minh triết của kẻ chiến thắng: chiến đấu để giành độc lập, nhưng không gieo thêm hận thù. Vậy mà, thời hậu chiến, chúng ta lại biến “căm thù” thành một nội dung giáo dục. Ấy là một trượt dài – và cần phải nhìn thẳng.

TRUYỀN THỐNG NHÂN BẢN CỦA DÂN TỘC

Không phải ngẫu nhiên mà sử Việt luôn toát lên tinh thần khoan hòa sau chiến tranh.Thời Trần, sau khi đánh tan Nguyên Mông, thay vì tận diệt, triều đình mở hội nghị Diên Hồng, lo chuyện phục hồi đất nước, và còn cấp ngựa, lương thực cho tàn quân rút về.Nguyễn Trãi soạn văn kiện để tuyên bố với thiên hạ rằng người Việt “lấy nhân nghĩa làm gốc”, không lấy hận thù làm kim chỉ nam.Nguyễn Huệ sau khi đại phá quân Thanh ở Đống Đa, không đem xác thù ra phơi thây, mà cho chôn cất tử tế, rồi gửi biểu cầu hòa.

Từ cổ chí kim, dân tộc này đánh giặc không phải để nuôi căm thù, mà để giành lại sự sống cho mình. Đánh giặc xong, việc cấp thiết nhất là hàn gắn vết thương, chứ không phải truyền đời sự hận hằn.

Ấy vậy, truyền thống nhân bản ấy đã bị bóp méo trong một giai đoạn.

KHI GIÁO DỤC TRƯỢT KHỎI BẢN CHẤT

Sau 1975, trong khí thế toàn thắng, đất nước thống nhất, những tưởng giáo dục sẽ lấy yêu nước, yêu người, khoan dung, sáng tạo làm gốc. Nhưng không, một đường ray khác đã được dựng nên: giáo dục lòng căm thù giai cấp, căm thù “kẻ thù dân tộc”.

Trong sách giáo khoa, học sinh phải thuộc lòng những bài văn, bài thơ gieo mầm thù hận. Trong trường học, nhiều phong trào, khẩu hiệu vang lên với âm hưởng: “Nhớ ơn căm thù…”, “Đời đời căm thù đế quốc…”.

Câu hỏi đặt ra: lòng căm thù có nuôi dưỡng nhân cách không?

Không. Nó chỉ nuôi dưỡng sự đối lập và nghi kỵ. Thay vì giúp thế hệ trẻ hiểu quá khứ, để trân trọng hòa bình, nó lại biến quá khứ thành vết thương chưa khép.

Ở mức chính sách, “căm thù” còn được sử dụng như một thứ công cụ chính trị – để duy trì kỷ luật tư tưởng, để buộc người trẻ phải đi theo một “đường thẳng” có sẵn. Nhưng giáo dục mà thành công cụ, thì đã mất đi bản chất.

HỆ LỤY XÃ HỘI

Hãy nhìn những hệ quả:Chia cắt tâm thức dân tộc: “căm thù” khiến thế hệ trẻ nhìn đồng bào miền Nam, kiều bào hải ngoại bằng ánh mắt nghi kỵ. Thay vì hòa hợp, lại đào sâu hố ngăn cách.Nghi kỵ lẫn nhau: hận thù giai cấp khiến xã hội thiếu niềm tin. Người ta dè chừng nhau theo “lý lịch”, thay vì đánh giá bằng năng lực.Kìm hãm sáng tạo: căm thù nuôi dưỡng sự tiêu cực, không giúp con người cởi mở. Trong khi sáng tạo cần khoan dung, cần thấu hiểu.Làm nghèo đi tình người: khi “căm thù” trở thành giáo điều, thì lòng nhân ái, sự bao dung – vốn là phẩm chất cốt lõi của người Việt – bị lu mờ.

Nói một cách cay đắng: chúng ta đã trồng căm thù, và gặt cô đơn, chia rẽ, hoang mang.

SO SÁNH QUỐC TẾ – BÀI HỌC CẦN NHÌN

Thế giới không thiếu những dân tộc từng trải qua chiến tranh. Nhưng cách họ giáo dục thế hệ trẻ sau chiến tranh khác ta rất nhiều.Đức sau Thế chiến II: không dạy học sinh “căm thù” ai cả. Họ đưa trẻ em đến trại Auschwitz để hiểu bi kịch chiến tranh, để từ đó nuôi dưỡng tinh thần hòa bình, nhân bản, trách nhiệm. Họ nói: “Không bao giờ nữa” – chứ không gieo hận thù.Nhật Bản: sau Hiroshima, Nagasaki, trẻ em được dạy về hậu quả của bom nguyên tử, về giá trị hòa bình, chứ không phải “căm thù nước Mỹ”. Kết quả là Nhật trở thành quốc gia sáng tạo, vươn lên bằng tri thức, chứ không bị nhấn chìm trong oán hận.

Nếu Đức và Nhật gieo căm thù, liệu họ có thể hòa giải, có thể trở thành cường quốc kinh tế, có thể là bạn với cả thế giới?

TRÁCH NHIỆM VÀ NGUYÊN NHÂN

Ai phải chịu trách nhiệm về sự trượt dài ấy?Nhà hoạch định chính sách: đã chọn cách dễ nhất để duy trì sự trung thành – gieo hận thù, thay vì nuôi dưỡng trí tuệ.Người làm giáo dục: không dám phản biện, buộc phải “soạn bài giảng căm thù” như một bổn phận.Xã hội: thụ động chấp nhận, coi đó là lẽ thường.

Nguyên nhân sâu xa chính là tư duy chính trị hóa giáo dục. Khi giáo dục bị biến thành công cụ chính trị, thì mục tiêu “trồng người” bị lấn át bởi mục tiêu “củng cố chế độ”.

ĐIỀU CẦN SỬA SAI

Đã đến lúc cần dũng cảm sửa sai.Xóa bỏ khái niệm “giáo dục lòng căm thù” khỏi mọi văn bản, sách giáo khoa.Thay thế bằng “giáo dục lòng nhân ái, khoan dung, yêu nước, yêu hòa bình”.Học theo Đức, Nhật: dạy trẻ em nhìn thẳng vào bi kịch chiến tranh để rút ra bài học nhân bản, chứ không để nuôi hận thù.Trả giáo dục về đúng bản chất: dạy trẻ làm người tử tế, có trách nhiệm, biết tôn trọng sự khác biệt.

Quan trọng hơn: cần một sự thành thật trong chính sách. Đừng dùng giáo dục để duy trì hận thù. Hãy dùng giáo dục để tạo nên những thế hệ công dân biết xây dựng.

VÌ TƯƠNG LAI CON EM CHÚNG TA

Một dân tộc không thể mãi sống trong bóng tối của căm thù. Thế hệ cha ông đã trả giá bằng máu để đất nước được độc lập. Thế hệ hôm nay phải có trách nhiệm trả lại cho con trẻ một nền giáo dục nhân bản – chứ không phải giáo dục căm thù.

Nếu không, chúng ta sẽ tạo ra những con người mang nặng quá khứ nhưng hụt hẫng với tương lai.

Giáo dục là gieo trồng. Xin hãy trả lại cho giáo dục Việt Nam hạt giống yêu thương, nhân ái, sáng tạo và trách nhiệm. Đó mới là con đường để dân tộc đi xa.

Đã đến lúc phải thẳng thắn nói ra: “Giáo dục lòng căm thù” là một sai lầm. Và sai lầm ấy cần được sửa ngay – để chúng ta có thể ngẩng cao đầu trước thế hệ mai sau.

⏤ Gã Khờ