Con chó đợi đèn

Con chó đợi đèn
Nguoi-viet.com      

Tạp ghi Huy Phương

Hình ảnh trên YouTube ghi lại chuyện một con chó nhất quyết đợi đèn xanh mới sang đường trong khi có hai cô gái vượt đèn đỏ khiến nhiều người xem không khỏi ngạc nhiên, vì đây là một câu chuyện lạ đối với nhiều người.

(Hình minh họa: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)

Hẳn con chó này chưa hề ngồi qua một lớp dạy luật lệ giao thông dành cho chó, hay được ai dạy dỗ, căn dặn về chuyện tôn trọng luật lệ đi đường. Nhưng có một điều tôi biết chắc là người chủ của con chó là một người “công dân có giáo dục” và là một người tử tế. Từ khi con chó được lớn lên trong gia đình này, đi theo người chủ, chưa bao giờ nó thấy người chủ vi phạm luật giao thông, ông chưa bao giờ vượt đèn đỏ để qua đường, và con chó đã học được thói quen ấy trong nhiều năm.

Bây giờ không có người chủ đi bên cạnh, không có cảnh sát hướng dẫn, không có cây chắn đường, con chó vẫn ngồi chờ cho đến khi có đèn xanh, để qua đường. Cử chỉ này xem qua có vẻ đơn giản nhưng quá khó khăn, vì hiện nay hàng triệu người Việt Nam văn minh, tử tế vẫn chưa làm được như con chó này.

Chuyện con chó chờ đèn xanh để qua đường gây được sự chú ý của dư luận, lẽ cố nhiên, phần lớn là ở trong nước, vì ở ngoại quốc, người ta xếp hàng trước tiệm ăn, hay một con chó chỉ chịu qua đường khi đèn xanh bật lên thì đâu có gì lạ. Không thấy ai khen ngợi con chó, không ai chấp nhận nó còn hơn cả con người, sinh vật mà lâu nay đi bằng hai chân, một tác phẩm tuyệt hảo của Thượng Đế hay sao?

Thật là ngu như chó! Nó không thông minh, không linh hoạt, không thích ứng như con người. Vì vậy người ta xem nó hành động cứng nhắc vì nó không biết cách “uyển chuyển theo tình huống” bằng con người, nghĩa là khi không có xe thì cứ qua, khi không có cảnh sát thì cứ vượt đèn đỏ.

Bình luận cho việc một con chó đợi đèn, một người trong nước cho biết ý kiến: “Tôi không cổ xúy cho việc phải phá vỡ luật nhưng mình cứ chọn đúng thời điểm, chớp thời cơ thì không có gì là sai cả!” Theo ý kiến người này, không cần thiết phải đợi đèn, cứ vượt đèn đỏ đúng lúc, “miễn là đúng thời điểm” và chớp thời cơ, phải chăng là khả năng của con người XHCN trong bất cứ hoàn cảnh nào. Cách đây 70 năm, Hồ Chí Minh đã “chọn đúng thời điểm, chớp thời cơ” nhảy ra cướp chính quyền, việc lớn cũng không sao, huống gì ngày nay với dăm ba việc lẻ tẻ, sống sao có lợi cho bản thân mình là được.

Bí quyết thành công của con người hôm nay là phải quên cái câu “mình sống vì mọi người,” ngày nay muốn thành công “phải đạp lên đầu người khác mà đi!”

Ở Việt Nam hiện nay, họa là ngu mới đứng lại ở đầu đường khi đèn trở màu đỏ. Tai nạn vượt đèn đỏ không nguy hiểm tàn khốc bằng tai nạn khi chúng ta tuân hành đèn giao thông và dừng lại khi thấy đèn đỏ, vì chúng ta sẽ bị những loạt xe đằng sau tiến lên cán nát.

Một người khác thì cho rằng: “Đèn giao thông chẳng qua là một quy định chung cho số đông, nhưng cái mà nó tiến đến cũng là phục vụ sự thuận tiện cho con người!”

“Phục vụ sự thuận tiện cho con người!” có nghĩa là sống theo luật rừng, thuận tiện nhưng không cần đến quy luật. Phục vụ cho sự thuận tiện của con người, phải chăng là thấy đói thì ăn, không biết thức ăn đó là của ai, khát thì uống dù thức uống đó không phải của mình, phóng uế bất cứ nơi đâu khi cần, và buông thả thú tính khi không có ai kèm thúc, ràng buộc.

Không thấy hổ thẹn khi con người phá bỏ ngay quy ước và luật lệ do con người đặt ra để bảo vệ an toàn chính cho con người. Bài báo này hẳn không có mục đích để ca tụng một con chó, con vật mà trong xã hội Việt Nam, lâu nay vốn đã xem nó là thấp hèn, hạ tiện biết chừng nào. Từ việc xem chó như một con vật bình đẳng của một số rất nhỏ hiện nay, tiến tới chuyện con người Việt Nam biết thương yêu và tôn trọng những con vật như chó, người Việt Nam phải trải qua, ít nhất là vài trăm năm nữa!

Có nhiều điều rất mâu thuẫn trong cung cách đối xử giữa con người với nhau, và sự khinh miệt của con người đối với một con chó. Tuy khinh miệt loài chó, loài người Việt Nam có thể hung hãn giết một con người bằng đủ loại hành động tàn khốc, man rợ thời trung cổ, để bênh vực một con chó, dù chỉ là một con chó qua đường, không thuộc quyền sở hữu của họ.

Có một đất nước nào tôn trọng, bênh vực sự sống tốt đẹp của loài chó như trong “thiên đường” Việt Nam không, để cho bất cứ con chó nào trên trái đất này đều có một mơ ước trở thành một con chó Việt Nam? Nghĩa là vì sự sống của một con chó, người ta có thể giết một con người. Nhưng sự thật là không phải vậy. Phải ở trong xã hội Việt Nam mới thấy cái “chó” của những vở kịch đẫm máu này!

Bài viết nhỏ nhoi này không hề có ý bệnh vực loài chó vì trong câu chuyện này vẫn có người khẳng định: “Con người hơn chó là vậy đấy. Người hơn chó vì biết chớp thời cơ!”

Câu chuyện còn đưa đến một kết luận: “Đơn giản là chú chó sợ chết hơn con người.” Sợ chết, muốn sống là bản năng của sinh vật, bất kể con người hay con chó. Nhưng vì sao con chó trong câu chuyện này sợ chết, mà con người lại không?

Những bản tin trên báo chí Việt Nam đọc đến nhàm chán: – “Ba xe chờ đèn đỏ bị xe tải chạy tới hất văng,” – “Đang đứng lại đầu đường vì đèn đỏ, thiếu nữ bị tông xe, ngã nhào,” – “Xe container đâm hàng loạt xe đang chờ đèn đỏ,” – “Vợ chồng dừng lại đèn đỏ, vợ bị xe sau tông chết…” Như vậy, chúng ta đi xe dừng lại khi thấy đèn đỏ bật lên là đúng luật hay sai luật? Nhưng quan trọng là con người lại muốn sống hơn là được công nhận thi hành đúng luật giao thông hay không?

Chúng ta hãy nghe một tài xế vượt đèn đỏ gây tai nạn giải thích lý do: “Đèn bật đỏ! Tôi tưởng cái xe chạy trước tôi đi luôn, nhưng không hiểu sao, nó dừng lại!” Các bạn đã thấy một đám xe gắn máy khi gặp đèn đỏ chưa? Họ hung hãn, tống chân ga, chen lấn, ào lên, lấn lách, tràn lên hè phố, nơi người ta buôn bán, đi bộ.

Đứa nào đứng lại, không thuộc loại dại cũng là ngu, không thuộc loại lừ đừ cũng là thứ gà chết. Cuối cùng, đứng lại khi thấy đèn đỏ cũng chết, vượt đèn đỏ sai luật lại càng dễ chết hơn.

Ở Mỹ này, có khi bạn đi về rất khuya, đến chỗ đèn đỏ, dù lúc bấy giờ đường sá vắng tanh, không có một ai qua lại, bạn vẫn tự động dừng xe lại chờ. Không phải vì bạn sợ chết như chuyện con chó đợi đèn, hay bạn sợ một ông cảnh sát nào đó bỗng nhiên lù lù hiện ra, mà đó chỉ là một thói quen, một phản ứng tự nhiên. Để có một phản ứng như vậy, bạn phải có chừng năm, bảy năm sống trong một cộng đồng loài người văn minh, ở một xứ sở văn minh.

Sài Gòn có thể cần $5 triệu để chống ngập lụt, $5 triệu nữa để chống nạn kẹt xe, nhưng thật tình tôi không biết phải cần bao nhiêu tiền nữa để sửa cái “công tắc” trong đầu mỗi người dân, cái “công tắc” đó để chỉ huy người lái xe, tự động đứng lại khi gặp đèn đỏ và chỉ chạy xe khi có đèn xanh?

Là người Việt Nam!

Là người Việt Nam!
Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Cách đây khoảng 10 năm, sau một chuyến đi xa, trên đường trở lại California, vợ chồng chúng tôi và hai người bạn đang ngồi chờ đổi máy bay tại phi trường Atlanta, thì bất chợt một ông Việt Nam trung niên, áo vest, thắt cà vạt, tiến về phía ghế ngồi của chúng tôi. Một cách mừng rỡ và vội vã, không kể người trước mặt mình là đàn ông hay đàn bà, quen hay lạ, y thọc tay về phía chúng tôi: – “Các bác là người Việt Nam!” Không đợi câu trả lời, quơ được bàn tay của chúng tôi đưa ra một cách phản xạ, y lắc đấy lắc để.

Phải nói là chúng tôi phản ứng quá chậm hay gần như không có phản ứng gì.

Cho đến lúc người đàn ông lạ mặt này thấy không mấy phấn khởi với cuộc làm quen này, quay lưng đi, chúng tôi vẫn ngồi yên tại chỗ, lặng lẽ và ngao ngán không nói một câu gì. Phải, chúng tôi là người Việt Nam, nhưng cuộc gặp gỡ với một người Việt Nam kỳ này không đem lại điều gì hứng thú cho chúng tôi, qua ngôn ngữ và cách xử thế, chúng tôi thấy có một khoảng cách khá lớn, và cũng là người Việt Nam, nhưng tôi cảm thấy y không giống tôi, ngoài một thứ ngôn ngữ đã khá dị ứng, con người này như đến từ một xứ sở nào khác.

Như thế, ít ra tôi cũng đã hiểu vì sao một người Tàu ở Hồng Kông trước năm 1999 chỉ nhận họ là người Hồng Kông, hay sau 1949, những người Tàu ở Đài Loan, cho rằng mình là người Đài Loan (“Trung Hoa Dân Quốc” hay “Trung Hoa Đài Bắc”) để khỏi nhầm với Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (Trung Hoa lục địa hay Cộng Sản Trung Hoa). Hẳn không một người Nam Hàn nào thích hiểu lầm họ là người Bắc Hàn (được Việt Nam gọi là Triều Tiên) và trước đây giữa người Đông và người Tây Đức mặc dầu nguồn gốc của họ là người Đức. Người ta không thể phủ nhận nguồn gốc của mình nhưng có thể phủ nhận chính thể đương thời và lựa chọn quốc tịch cho mình.

Chỉ có hai tiếng Bắc Kỳ thôi, và chỉ trong vòng 30 năm, người Việt Nam cũng đã chọn chỗ đứng rõ ràng khi phân biệt ai là Bắc Kỳ cũ, Bắc Kỳ mới, ai là Bắc Kỳ “chín nút” (54), ai là Bắc Kỳ 75! Nếu trong câu chuyện nói, còn có chút gì kỳ thị, thì chúng ta cũng không nên trách, đây không phải là chuyện đoàn kết dân tộc, mà là chuyện văn hóa và chính kiến, nó phát xuất từ những khổ đau và bất hạnh mà con người ta phải gánh chịu, qua những thăng trầm của lịch sử.

Tôi là người Việt Nam, và những ngày còn nhỏ, tôi vẫn thường hãnh diện mình là người Việt Nam, với “bốn nghìn năm văn hiến,” “con Rồng cháu Tiên,” lớn lên trong thời loạn lạc, người chẳng ra người, ta lại được hãnh diện thêm vì quê hương mình “rừng vàng biển bạc,” thủ đô “là đỉnh cao trí tuệ của loài người,” “đánh thắng ba đế quốc sừng sỏ!” “mỗi buổi sáng thức dậy ước mơ mình trở thành một người Việt Nam,” “Việt Nam dân chủ gấp vạn lần các nước Tây phương,” “vị thế Việt Nam tiếp tục được nâng cao trên trường quốc tế!” thì không còn gì để có thể hãnh diện hơn được nữa!

Gom tất cả tinh hoa của người Việt trên thế giới để làm những tác phẩm vĩ đại để ca tụng con người Việt Nam là điều không khó, vì những khuôn mặt thành đạt vẻ vang này ở nước ngoài, sau ngày phải bỏ nước ra đi, chúng ta không chỉ có hàng chục nhân vật đủ làm một tác phẩm mà con số này có thể lên đến hàng trăm, hàng nghìn người. Nhưng nếu tập họp họ lại, xếp hàng ngay ngắn như trong một cuộc “diễu hành,” có một mỹ nhân mặc quốc phục dẫn đầu cầm một tấm bảng lớn mang dòng chữ “Tôi là người Việt Nam” thì điều này quả còn quá nhiều gượng ép.

Đồng ý nguồn gốc họ đều là những người Việt Nam, có người bỏ nước ra đi từ ngày chủ thuyết Cộng Sản đến Việt Nam, nhưng cũng có người sinh ra ở nước ngoài, mỗi người có một cuộc đời, hoàn cảnh, tình cảm và chính kiến khác nhau. Nếu có ai hỏi họ: – “Ông bà là người Việt Nam?” thì câu trả lời sẽ là: – “Phải, tôi là người Việt Nam! Nhưng đó là câu chuyện cách đây 40 năm. Đó là một câu chuyện dài!”

Trong chúng ta, ai cũng có một câu chuyện dài phải được kể lại, hay bây giờ mới được kể lại!

Những nhà tuyên truyền thường nhắc đến tình tự dân tộc, biểu tượng từ một tiếng đàn bầu, một tiếng hò trên sóng nước để gợi cho con người nhớ đến quê hương. Người ta lập lại mãi câu nói “quê hương chỉ một” hay anh em đi xa là “khúc ruột ngàn dặm” và không ngừng kêu gọi một sự trở về tha thiết, – “Nếu đi hết biển thì đến đâu hở mẹ!”- “Đi hết biển thì sẽ trở về làng cũ!” Vì sao con chim phải bay trở lại cái lồng đã giam hãm nó, có khi là cái thòng lọng hay cái cũi nhốt của một con vật. Đó là con người của tự do, có ý thức, không phải chiếc xe lửa chạy lui tới trên đường ray.

Có người đem chuyện người Việt lưu lạc của Kiến Bình Vương Lý Long Tường (1136-1175) là con thứ sáu của vua Lý Anh Tông, đã cùng họ hàng vượt biển Bắc vào đầu thế kỷ thứ 13 vì bị phe cánh Trần Thủ Độ hãm hại, sau đó trôi giạt đến Cao Ly, để nói chuyện người Việt trở về tìm lại nguồn cội. Xin quý vị yên tâm đi, không cần phải nói chuyện đạo lý, nhân nghĩa, Cộng Sản thôn tính miền Nam mới nửa thế kỷ, dòng dõi Lý Long Tường bỏ nguồn cội đã bảy tám thế kỷ này. Thời gian hãy còn quá sớm để cho những người Việt lưu lạc tha phương trở về.

Hình ảnh tìm về cội nguồn hẳn là đã được ca ngợi rất nhiều.

Truyền thống dân gian cho rằng loài cá hồi trở về đúng nơi chúng được sinh ra để đẻ trứng, nhưng cuộc nghiên cứu đã cho thấy hành động quay lại nơi ra đời này đã được thể hiện phụ thuộc vào ký ức khứu giác và thói quen, hẳn không hề có ý nghĩa về cội nguồn. Và trong một câu chuyện khác, hàng năm vào mùa Xuân, những đàn én từ phương Nam đã bay trở về nhà nguyện San Juan Capistrano (California) và về phía Nam Mỹ là để trốn mùa Đông giá rét. Đến mùa nắng ấm, chúng lại bỏ gác chuông nhà thờ để ra đi, không hề có có ý niệm trở về hay qui cố hương.

Nếu câu hỏi đặt cho một người và câu trả lời dành cho một người, nó mang một ý nghĩa khác, nhưng khi chúng ta tập trung họ lại, cố tình hướng dẫn họ thành một đám đông và mở đường, sắp xếp cho họ có chung một câu trả lời theo dụng ý của những nhà đạo diễn, tôi cho đây là điều thiếu đạo lý.

Vả lại, điều dễ thấy rõ, hàng chục người vừa tuyên bố mình là người Việt Nam ở đây đều nằm trong 3 triệu người, bỏ nước ra đi, bằng lý do này hay lý do khác; họ không có nổi một tờ giấy tùy thân hay một “sổ đăng ký hộ khẩu thường trú” của chế độ đương thời, vậy thì họ là ai, người Việt nhưng người Việt nào? Câu trả lời gần như được xếp chung một loại “thấy sang bắt quàng làm họ!” Quơ vào những cái quả thực không phải của mình. Mục đích của người làm phim đã quá rõ ràng. Chẳng qua là khán giả của loại chương trình này quá dễ dãi, họ dễ chấp nhận một cái vui nhỏ, một cái cười cợt dính ngoài môi, để quên đi những điều cốt lõi mà họ đang được mời tham dự, mà nội dung đã được tính toán, có dụng ý chính trị, của ông chủ chi tiền.

Phải chăng trong không khí rộn ràng của màu sắc, âm nhạc, da thịt, phấn son, ít ra trong một thời gian ngắn người ta quên được những khuôn mặt Việt Nam cần phải được cởi áo che tại Nhật, hàng nghìn khuôn mặt phụ nữ khổ đau xấu hổ không dám nhìn ai trên quê hương nhầy nhụa hôm nay.

Rõ ràng là chế độ tham lam, ham muốn chạy theo những thành công nhất thời của mỗi con người không phải trong xã hội của mình để áp đặt hai chữ Việt Nam, mà không chịu xây dựng được một con người tử tế ngay trong xã hội của mình.

Chúng ta hãy nghe phát biểu của ông Lê Kiên Thành, con trai ông Lê Duẫn, cố bí thư thứ nhất đảng CSVN, trên vietnam.net trong vài ngày gần đây: “…tôi cứ băn khoăn mãi. Hôm trước mở báo ra tôi cứ bị ám ảnh hình ảnh hai ông già đi ăn trộm gà bị bắt, bị đánh hộc máu mồm ra, rồi bắt ngậm con gà chết. Tôi cứ bàng hoàng, tự hỏi: ‘Chẳng lẽ đây là người Việt Nam chúng ta?’”

Có những nhà văn như thế đấy!

Có những nhà văn như thế đấy!

Tạp ghi Huy Phương

Hồ Anh Thái, sinh năm 1960 tại Hà Nội, là một nhà văn đương thời của Việt Nam, từng là chủ tịch Hội Nhà Văn Hà Nội trong vòng 10 năm, tác giả của gần 30 tác phẩm và đoạt bốn giải thưởng “nội địa.” Ông được xem thuộc thế hệ nhà văn thời hậu chiến và là một nhà ngoại giao, tiến sĩ Văn Hóa Đông Phương, hiện giữ chức vụ phó đại sứ Việt Nam tại Iran.

Nói về Hồ Anh Thái, Anh Chi, trong tạp chí Nghiên Cứu Văn Học Hà Nội đã ca tụng: “Bây giờ nhìn nhận hiện tượng văn chương Hồ Anh Thái, chúng tôi nghĩ, anh đã và đang tiếp tục sáng tác những tác phẩm chứa đựng nhiều phẩm chất văn hóa,” hay “…Với lao động sáng tạo liên tục và mang tính chuyên nghiệp, anh đã thể hiện bản lĩnh của một nhà văn hàng đầu ở Việt Nam trong thời đại văn chương nước ta hội nhập với văn chương thế giới!” Nói chung Hồ Anh Thái được ca tụng như một nhà văn lớn, có tầm cỡ quốc tế của Việt Nam.

Như vậy, khi Bắc Việt chiếm miền Nam, Hồ Anh Thái mới 15 tuổi, chưa đến tuổi ra trận, trước 1975 chỉ mới là loại thiếu nhi khăn quàng đỏ, đánh trống ếch và thuộc lòng “ai yêu bác Hồ Chí Minh bằng các em nhi đồng,” bị nhiễm độc bằng lối tuyên truyền xảo trá Mỹ đang xâm lược miền Nam và lính ngụy là bọn ăn thịt người. Thời nhỏ, có thể Hồ Anh Thái mục kích cảnh máy bay Mỹ dội bom xuống Hà Nội, thấy lửa cháy và những cái chết, muốn trở thành nhà văn, nhưng nếu muốn viết về chiến tranh, phải cần có kinh nghiệm sống, hay học hỏi, nghiên cứu, chứ không phải qua những câu chuyện kể của những người đi xâm lược miền Nam trở về sau ngày 30 Tháng Tư, 1975.

Khi đã trở thành người thắng cuộc, ai cũng là anh hùng, người lính có bao nhiêu điều phấn khởi, hả hê, khoác lác để kể chuyện cho bọn trẻ đang ngóng tai nghe. Một trong những đứa trẻ ấy lớn lên trở thành một nhà văn viết về chiến tranh, mà kinh nghiệm sống là chỉ cần nghe những kẻ bốc phét, hoang tưởng, kể lại những chuyện không có được một phần nghìn sự thật.

Câu chuyện lính ngụy ăn gan người, uống máu có lẽ đã được mô tả trong nhiều tác phẩm của các nhà văn miền Bắc trong và sau chiến tranh, chỉ với mục đích gây lòng căm thù cho quần chúng, nhưng nhà văn mới lớn sau 1975, Hồ Anh Thái đã đi quá đà, thêm câu chuyện moi gan, ăn tim bằng cách mô tả lính ngụy “quay” tử thi Việt Cộng, rồi “róc thịt uống rượu!” như sau:

“Hai ngày sau bọn địch phản công. Cả trung đội mình bị bằm nát. Thằng Thiết bị đạn găm đầy mình, vừa đưa tay ấn ruột vào, vừa bóp cò. Bọn ngụy ào lên như lũ quỷ, quyết bắt sống thằng Thiết. Như sau này anh em trinh sát kể lại, chúng quay thằng Thiết như quay một con lợn rồi róc thịt uống rượu trả thù cho đồng đội.”

Trong một cảnh khác, lính ngụy không quay Việt Cộng như quay heo, mà chỉ nổi lửa để nướng tim, gan ăn tại chỗ, đặc biệt trí tưởng tượng của nhà văn bắt đầu đi đến chỗ điên khùng khi viết: “Hai hột tinh hoàn thì được phân chia cho hai thằng chắc là cấp cao hơn.”

“…Cuối cùng, điều Hoa không ngờ đã tới. Cô chỉ nghĩ rằng bọn thám báo sẽ lôi Hùng đi làm tù binh để tiếp tục lấy khẩu cung. Nhưng thằng cầm con dao găm của anh đã cúi xuống rạch một đường thành thạo trên bụng Hùng. Anh quằn quại hét lên một tiếng rùng rợn. Ở trên cao, Hoa nghiến chặt răng gần như ngất đi. Hai thằng kia đè chặt chân tay Hùng cho thằng mổ bụng moi tim gan ra. Chúng nổi lửa nướng tim gan ăn ngay tại chỗ. Hai hột tinh hoàn thì được phân chia cho hai thằng chắc là cấp cao hơn.”

Hồ Anh Thái có thể chỉ nghe kể lại qua một nhân vật ngôi thứ ba, với chuyện lính ngụy quay người, moi tim gan uống rượu, nhưng với Dương Thu Hương, như lời người kể chuyện thật với nhân vật “chúng tôi” nói về lính thám báo miền Nam, hiếp dâm, xẻo vú và cửa mình thanh nữ xung phong miền Bắc:

“…Chúng tôi hướng vào góc rừng đã tỏa ra mùi thối khủng khiếp mà đi. Tới vực cô hồn, gặp sáu cái xác truồng. Xác đàn bà. Vú và cửa mình bị xẻo, ném vung vãi khắp đám cỏ xung quanh.

Nhờ những tấm khăn dù, nhờ những chiếc cổ áo sơ mi kiểu lá sen tròn và hai ve nhọn mà chúng tôi nhận ra đấy là những người con gái miền Bắc. Có lẽ họ thuộc một binh trạm hoặc một đơn vị thanh niên xung phong cơ động nào đó bị lạc. Cũng có thể họ đi kiếm măng hoặc rau rừng như chúng tôi rồi vấp bọn thám báo.

Chúng đã hiếp các cô tàn bạo trước khi giết! Những cái xác bầm đập méo mó! Da thịt con gái nõn nà tươi thắm vậy mà khi chết cũng thối rữa y như da thịt một lão già phung lỡ hay một con cóc chết!” (tiểu thuyết Vô Đề)

Phải chăng vì bọn ngụy ác độc, man rợ như vậy nên miền Bắc có quyền vẽ lên hình ảnh “người lính cụ Hồ” đáp lễ với những cách người hả hê, khát máu, để làm gương cho cả một thế hệ sôi sục vì căm thù:

“Quân ta ào lên, bắt giết, đâm, giẫm đạp. Một mụ ngụy cái, ngực để trần, miệng há ra ú ớ. Niềm căm thù kẻ hạnh phúc hơn mình bốc lên ngùn ngụt trong ngực mình. Mình găm vào ngực mụ cả loạt khiến ngực mụ vỡ toác mà mặt mụ vẫn chưa tắt hy vọng. Giết người lúc ấy sao thấy sướng thế! Một thằng ngụy bị mình xọc lê vào bụng, nghe ‘thụt’ một cái. Mình nghiến răng vặn lê rồi trở báng súng phang vào giữa mặt hắn. Hắn lộn một vòng, gồng mình giãy chết như con tôm sống bị ném vào chảo m…ỡ.” (Tạ Duy Anh, “Đi Tìm Nhân Vật,” tiểu thuyết, NXB Văn Hóa Dân Tộc, 2002.)

Tôi ở miền Nam, không biết ngoài mặt trận “con ngụy cái” này là ai, vì chúng tôi không có nữ quân nhân tham chiến, không lẽ đây là một người đàn bà trong ngôi làng, một cán bộ Xây Dựng Nông Thôn để lính Bắc Việt trút hết nỗi căm hờn và thỏa mãn thú tính lên cao độ như thế, một con chó cắn người hay một con cọp vồ mồi cũng không “thú” hơn” là chất “thú” của một người lính Việt Cộng?

– “Giết người lúc ấy sao thấy sướng thế!”

Ở ngoài mặt trận, không giết người thì người giết. Nhưng giết người mà thấy khoái cảm thì nhân loại chỉ thấy có người lính Bắc Việt. Ngay cả ISIS cắt cổ người cũng không có cái hả hê như thế! Tạ Duy Anh còn không che đậy, nói rằng “niềm căm thù kẻ hạnh phúc hơn mình bốc lên ngùn ngụt trong ngực mình!” Thì ra thế là đấu tranh, không phải tạo hạnh phúc cho người khác, mà là nếu họ hạnh phúc hơn mình, hãy giết hết họ, chẳng qua vì lòng ganh ghét.

Đó là nguyên nhân rõ ràng của “cải cách ruộng đất,” vì họ giàu hơn mình, của “thảm sát Mậu Thân,” vì họ sướng hơn mình.

Với Tạ Duy Anh “giết người thấy sướng,” đối với Dương Thu Hương “với khoái cảm không che đậy”:

“…Hùng thường nghĩ ra những cách giết người đặc sắc trong các trận giáp lá cà. Và gã kể lại cho đồng đội nghe với khoái cảm không che đậy. Kẻ thì gã xọc lê từ họng xuống tim, kẻ gã chọc từ nách bên phải qua bên trái, kẻ gã lại đâm từ hạ bộ ngược lên ở bụng. Kỳ thú nhất là một lần đánh ấp, gã bò vào phòng riêng một tên sĩ quan ngụy, chờ tên này dính chặt với cô vợ trắng phôm phốp của y như một cặp cá thờn bơn, gã mới phóng lê từ trên xuống. ‘Một xọc xuyên hai, bảo đảm là sướng mắt…’” (TTVĐ- chương 11)

Một sự thèm khát đầy dục vọng, ở đây Dương Thu Hương rất giống Tạ Dụy Anh hay Tạ Duy Anh rất giống Dương Thu Hương, ở chỗ “niềm căm thù kẻ hạnh phúc hơn mình bốc lên ngùn ngụt trong ngực.”

Đó là chưa nói đến chuyện bừa bãi, vô lý trong tình tiết một tên bộ đội bò “vào phòng riêng một tên sĩ quan ngụy,” “bị đạn găm đầy mình, vừa đưa tay ấn ruột vào, vừa bóp cò,” thám báo hoạt động trong lòng địch mà nổi lửa quay người hay hiếp dâm, xẻo vú!

Chuyện căm thù, dã man của người lính miền Bắc đã để lại trong một câu chuyện có thật, đó là cái chết của nhà văn Y Uyên, người sĩ quan của TK Bình Thuận năm 1966.

“Trên thân xác của Uy, khi chở về quân y viện, có những dấu đạn thừa, những dấu dao vô lối. Những dấu đạn, vết dao không thể cắt nghĩa được. Nếu không phải là chúng có từ những thù hận ghê gớm, những chất ngất căm hờn, thì không thể làm sao tìm ra lý do giải thích sự hiện diện của chúng trên thân hình một người đã chết.”

Tôi xin nhường sự phê phán ấy cho một nhà văn miền Nam:

“Tôi không hiểu bằng cách nào, trong cuộc chiến tương tàn, ròng rã hơn 20 năm này, những người lãnh đạo Cộng Sản đã dạy cho binh lính của họ như thể nào để lòng thù hận chất ngất mênh mông đến thế? Tôi chấp nhận những viên đạn thứ nhất là hợp lý – Ừ, thì cứ cho là hợp lý. Nhưng những viên đạn bắn bồi, những nhát dao đâm thêm trên một xác thân đã chết là những viên đạn, những nhát dao không thể cắt nghĩa, không thể chấp nhận được. Những người Cộng Sản Việt Nam đã làm những điều dã man như thế, khởi đi từ lòng thù hận, từ sự cuồng tín.” (“Núi Tà Dôn và Dấu Chân Uy” của Lê Văn Chính -Tạp Chí Văn, số 129, phát hành ngày 1 Tháng Năm, 1969)

Bốn mươi năm đã trôi qua, bây giờ người ta đang nói chuyện “hòa hợp hòa giải,” “khép lại quá khứ,” nhưng sau 40 năm cũng là lúc đã nhìn rõ mặt nhau. Có những nhà văn như thế đấy! Nếu có một cuộc xét lại, những nhà văn miền Bắc sẽ nghĩ gì về những tác phẩm “hoang tưởng” như thế? Và dù sao thì nó cũng đã để lại những vết dơ của nền văn hóa XHCN, còn ảnh hương lâu dài đến những nhận thức của những lớp người mới lớn lên sau khi Sài Gòn đổi tên.

Để kết luận bài này tôi xin ghi lại những câu thơ đầy lương tri của miền Nam viết trong chiến tranh:

“…Xem chiến cuộc như tai trời ách nước.
Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước
Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi.”
(Nguyễn Bắc Sơn)

“…Trời ơi, những xác thây la liệt
Con ai, chồng ai, anh em ai?”
(Tô Thùy Yên)

‘Diễu binh,’ chuyện như ‘diễu!’

‘Diễu binh,’ chuyện như ‘diễu!’

Nguoi-viet.com
Tạp ghi Huy Phương

Trước kia ở miền Nam, chúng ta chỉ nghe nói duyệt binh, diễn binh mà không nghe nói đến tiếng “diễu binh,” “diễu hành.”

Trong thời đại này, chúng ta phải hiểu “diễu binh” như thế nào? Mới đây nhân cuộc diễu binh ngày 2 Tháng Chín tại Hà Nội, có ký giả cắc cớ hỏi Trung Tướng Võ Văn Tuấn, phó tổng tham mưu trưởng quân đội, cũng là tổng chỉ huy cuộc diễu binh này, vì sao chúng ta “diễu binh” mà không diễn binh. Sau đây là câu trả lời:

“Duyệt binh là có vũ khí trang bị đi theo, như tên lửa, máy bay, xe tăng, đạn pháo… còn diễu binh chỉ có người diễu hành. Tạm thời, nhà nước đang sử dụng ‘diễu binh’ – tức là chỉ có con người mà không có vũ khí tham gia. Có nhiều nguyên nhân chúng ta tổ chức diễu binh chứ không phải duyệt binh, trong đó có việc tiết kiệm.”

Về mặt mày, thì ông Tuấn này “sáng sủa” hơn cả ông Lê Đức Anh và ông Phùng Quang Thanh nhiều, nhưng lối giải thích của ông này lại quá “tối tăm.”

Cô Phạm Trúc Sơn Quỳnh. (Hình: Facebook Phạm Trúc Sơn Quỳnh)

Như vậy, theo ông này “diễu binh” là chỉ có người, không có vũ khí kèm theo như xe tăng, đại pháo, hỏa tiễn! Nhưng trong lúc đó, báo chí, truyền hình Việt Nam đều loan tin hai cuộc “diễu binh” lớn của Nga ngày 5 Tháng Chín tại Moscow và của Trung Cộng ngày 3 Tháng Chín ở Bắc Kinh. Trong hai cuộc diễu binh này Nga va Trung Cộng đều phô trương các vũ khí hiện đại như phi cơ, hỏa tiễn tối tân nhất do chính các nước này sản xuất. Như vậy nói vì tiết kiệm mà Việt Nam chỉ có “diễu binh” mà không diễn binh là coi thường người đặt câu hỏi và khinh thường sự hiểu biết của quần chúng.

Trong tình thế này chính phủ CSVN không diễn binh mà chỉ “diễu binh” (không có vũ khí như lời ông Võ Văn Tuấn) chẳng qua là vì, không lẽ trong khi Tàu và Nga đang diễu võ dương oai, biểu dương vũ khí hiện đại do họ sản xuất, thì “bộ đội cụ Hồ” không lẽ đem AK47, B40, B41, pháo 130 ly, hỏa tiễn Sam, Stinger, giàn hỏa tiễn Kachiusa, Mig 15, xe tăng T54 thời “ta đánh là đánh (thuê) cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc” ra để hù thiên hạ!

Ông Võ Văn Tuấn cũng chưa phân biệt được “duyệt binh” và diễn hay “diễu binh.”

Sau nghi lễ khai mạc, trước khi cuộc diễn binh hay “diễu binh” bắt đầu, vị nguyên thủ quốc gia lên xe mui trần cùng với chỉ huy của lễ diễn binh, đi “duyệt” hàng quân trong tư thế nghiêm và bắt súng chào. Sau khi vị nguyên thủ quốc gia trở về khán đài, cuộc diễn binh (hay diễu binh) mới bắt đầu và lần lượt các đơn vị tiến qua khán đài, được quan khách trên khán dài danh dự và dân chúng hai bên đường vỗ tay hoan hô.

Điều này chúng ta đã thấy qua các hình ảnh “duyệt binh” của VNCH với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, và tại Bắc Kinh Tháng Năm, 2012 với Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào.

Khi ký giả hỏi về việc tại sao lại bắn 21 phát đại bác trong ngày Quốc Khánh mùng 2 Tháng Chín mà không phải con số khác, ông Võ Văn Tuấn cho rằng, “Đến bây giờ chưa có ở đâu lý giải được vì sao lại bắn 21 loạt đại bác nhưng có thể liên quan đến ý nghĩa một tuần nhân với 3. Giống như tượng Oscar khi người ta làm ra thì tình cờ giống ông chú tên Oscar của những người làm (!)”

Thật là khó hiểu khi ông tướng này so sánh “khập khễnh” 21 phát đại bác với với chuyện tượng Oscar. Nếu ông chịu khó vào Wikipedia mà tìm thì đâu đến nỗi!

Về chuyện cô gái xinh đẹp dẫn đầu cho khối Quân Y là Phạm Trúc Sơn Quỳnh, “nữ sĩ quan xinh đẹp khối trưởng khối diễu binh quân y, làm sốt cộng đồng mạng bởi khuôn mặt xinh xắn, tác phong mạnh mẽ, dứt khoát, các động tác điều lệnh chuẩn mực,” thì dư luận cho rằng được mượn từ bên Đại Học Thương Mại, và được mang cấp bậc trung tá (hai vạch, hai sao). Bộ Quốc Phòng khẳng định cô là quân nhân chuyên nghiệp mang cấp bậc thiếu úy, chứ không phải đi mượn về. Về cấp bậc trung tá đeo mang trên ngực cô, theo Trung Tướng Tuấn, cô là người đi đầu khối nên phải mang cấp bậc theo quy định thống nhất về cấp chỉ huy khi “diễu binh.”

Vào YouTube xem “diễu binh,” chúng ta thấy thêm một điều nữa là tất cả lính tráng trong hàng quân đều mang một loại huy chương và số lượng huy chương giống nhau, mỗi người ba cái. Quân đội thì có người già, người trẻ, có người có chiến công, nhưng cũng có người vô tích sự, vì sao phải dối trá đồng loạt như vậy, ông Tuấn có cho đây là “nguyên tắc diễu binh” không? Bốn mươi năm ngồi không, mà bây giờ có anh lính mặt non choẹt mang cấp tá và huy chương đầy ngực.

Theo kiểu nói bình dân Nam Bộ ngày trước, đây là “lon Lèo!” và “huy chương Lèo!” hay là đồ hàng mã, giả dối, lừa người!

Cùng mang huy chương giống nhau. (Hình: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)

Như vậy, cô Sơn Quỳnh được dẫn đầu khối quân y, mang cấp bậc trung tá chỉ vì cô trẻ, đẹp, và có lẽ sĩ quan cấp bậc lớn nhất trong khối này già và xấu, quá gầy hay quá mập nên đã bị “cách ly” không cho tham dự “diễu binh” như bọn cai tù vẫn thường giấu những anh tù “cải tạo” ốm đói bệnh tật mỗi khi có phái đoàn cấp trên hay báo chí đến thăm viếng trại tù. Theo tôi, Sơn Quỳnh có khuôn mặt khá bụ bẫm, nhưng nhan sắc cũng thuộc loại tầm tầm, nếu vị chỉ huy lễ “diễu binh” cần đến những cô trẻ, đẹp để dẫn đầu khối cho đẹp mặt chính phủ và đảng, tôi xin giới thiệu với ông, ngay đất Hà Nội, thiếu gì diễn viên, người mẫu, sinh viên chân dài, hiện nay đang làm nghề nằm, nên dựng mấy cô dậy mà cho đi “diễu hành” là đẹp nhất!

Câu chuyện dối trá này làm chúng ta liên tưởng đến câu chuyện của Thế Vận Hội Olympic Bắc Kinh năm 2008. Trung Cộng đưa một cô bé xinh đẹp tên là Lâm Diệu Khả, 9 tuổi, trình diễn ca khúc “Ngợi ca tổ quốc” tại lễ khai mạc, thực ra chỉ hát nhép môi và diễn thay cho giọng của ca sĩ thực là Dương Bái Nghi, 7 tuổi. Ca sĩ trẻ tuổi này không được xuất hiện vì nhan sắc và dáng dấp không bằng Lâm Diệu Khả.

Sự dối trá “vĩ đại” này được Trung Cộng ngụy biện rằng họ quyết định dùng em Lâm vì ”chúng ta phải đặt lợi ích của đất nước lên trước!”

Màn trình diễn pháo bông tại đêm khai mạc cũng là giả tạo, vì được ghép nối thêm trước khi chiếu trên TV cho cả thế giới xem. Ban tổ chức cũng giải thích “làm điều đó để tạo thuận lợi và ấn tượng ngoạn mục cho các đài truyền hình!”

Vậy thì sự thật và sự lương thiện không hề được “cha con nhà nó” tôn trọng.

Việt Nam khoe, một nhà báo Úc đã viết: “Gộp hết tất cả lễ hội lớn của Úc, các cuộc diễu hành, từ lễ hội Mardi Gras ở đường Oxford cho tới lễ hội Moomba ở Melbourne, cộng lại tất cả những đám đông đã đến dự Thế Vận Hội Sydney, hay những trận đấu bóng đá, cũng không bằng sự kiện 2 Tháng Chín ở Việt Nam.”

Úc thua Việt Nam là phải, nên chi dân Việt giờ này mà còn đóng tàu vượt biển sang Úc. Có gì đâu mà hãnh diện! Kiểu nhà nghèo, con nợ thiên hạ mà đòi chơi bảnh!

Mới đây, World Bank công bố Việt Nam nợ nần lên đến $110 tỷ và chỉ riêng khoản chi trả tiền lời đã lên đến 7.2% tổng chi ngân sách nhà nước.

Câu chuyện về tính lương thiện

Câu chuyện về tính lương thiện

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Người ta định nghĩa “lương thiện” là tốt lành, không vi phạm đạo đức, pháp luật. Các phát biểu về lương thiện, có lời của nhà văn Nhất Linh: “Muốn cho người ta dễ có lòng thiện thì làm thế nào cho người ta khỏi nghèo khổ.” Một nhân vật khác là E. Rueys thì cho rằng: “Khi giàu làm người lương thiện không gì dễ bằng, khi nghèo nàn làm được người lương thiện mới khó!” Nói như vậy có khác chi cho rằng phần đông người nghèo ít lương thiện hơn người giàu có.

Người ta căn cứ vào chuyện một cô người Mexico đến dọn dẹp nhà cửa cho một người chủ Việt Nam đã lấy trộm một cái nhẫn kim cương mà người chủ quên bỏ đầu giường, hay chuyện những đứa trẻ đi lượm bao ny-lông ngày trước ở quê nhà đánh cắp một đôi dép hay vơ một cái áo đang phơi trên cây sào. Nhưng cũng không phải vậy, mà trong xã hội này người ta cho rằng kẻ nghèo hèn đều đi ăn cắp và người giàu, có một cuộc sống tốt lành, kiểu nói “bần cùng sinh đạo tặc.” Ðó chính là lý do những chính trị gia như Lý Quang Diệu của Singapore, để cải tạo xã hội, phải làm cho dân chúng được cơm no, áo ấm, ai cũng giàu có.

Chúa Jesus thì nói: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn một người giàu vào nước Thiên Chúa (Mt. 19,24).” Người ta có thể hiểu câu nói này theo cách: Người giàu khó là một người lương thiện.

Hiện nay, nạn cướp giật điện thoại cầm tay xẩy ra thường ngày ở Việt Nam, thì một người bán vé số nghèo nàn, lượm được một cái “iPhone 6 plus” đem giao lại cho người mất, trong khi hàng triệu cán bộ lợi dụng chức, quyền, là những người giàu, dựa vào đảng, lương vài trăm đô la nhưng có nhà, xe, đất hàng triệu đô la, nhờ sự thiếu lương thiện, nói rõ là bất lương: “Con ơi nhớ lấy câu này, cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan!”

Một chị bán ve chai nhặt được số tiền 5 triệu Yen ($4,200) lập tức có những kẻ kém lương thiện, đến làm phiền, có người hăm dọa đòi anh chị chia số tiền nhặt được. Một phụ nữ đến nhận vơ đó là tiền của chồng bà đang lao động ở Nhật, gửi về cho mình, bà cất giấu trong thùng loa cũ rồi quên. Một người khác đem sổ đỏ “dỏm” đến cầm.

Một ông giám đốc ở Hà Nội khuyến khích sự lương thiện của người bán ve chai, đề nghị chị đem trả số tiền này lại cho chính phủ Nhật, vì giấy bạc này do Nhật in ra, là thuộc quyền sở hữu của chính phủ Nhật! Theo ông này, phải trả lại tiền cho nước Nhật để “nâng cao hình ảnh thân thiện, nhân văn của người Việt Nam đối với đất nước Nhật nói riêng và bạn bè quốc tế nói chung.” Trong khi bao nhiêu đứa cướp giật, ăn cắp, buôn lậu làm xấu mặt Việt Nam ở đất nước Nhật, thì ông quan chức này đề nghị chị bán ve chai, hy sinh, dùng tính lương thiện của mình để cứu vãn cái mặt Việt Nam. Mặc dầu ông có hứa là sẽ vận động thiên hạ gây quỹ, đóng góp lại cho chị, nhưng đó là chuyện “cái mồi in bóng dưới nước.”

Hy vọng các quan chức Việt Nam từ đây về sau, ai cũng có lòng lương thiện cho dân đỡ khổ, nhưng xúi người khác lương thiện có lẽ dễ hơn chính mình phải lương thiện.

Chúng ta dạy trẻ em phải lương thiện trong khi, hơn 20 con heo đất của học sinh tại Trà Vinh để giúp học sinh nghèo bị người lớn ngành giáo dục “rút ruột” 20 triệu đồng. Chúng ta dạy trẻ sống công chính trong khi chúng ta có những “tên” hiệu trưởng như Sầm Ðức Xương sống bằng nghề “ma cô.”

Trong một xã hội như hiện nay, dạy cho con lương thiện, có nghĩa là đưa con vào con đường chết đói, vì đời này: “Thẳng thắn, thật thà thường thua thiệt, lọc lừa lươn lẹo lại lên lương!”

Nói về nghề lương thiện, không biết ở Việt Nam người ta sắp xếp cao thấp thế nào về mức độ lương thiện qua các ngành nghề. Tuy nhiên, tạm thời chúng ta hãy cho nghề lương thiện nhất là nghề bán ve chai, có muốn bất lương cũng khó lòng. Và nghề nào là nghề phi đạo đức nhất? Cứ nhìn tài sản của đám viên chức chính phủ và Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam, hoàn toàn không tương xứng với số lương bổng hàng tháng, chúng ta sẽ thấy rõ bọn sâu mọt chuyên đục khoét ngân khoản, tài nguyên đất nước và bóc lột “nhân dân” đến mức nào.

Viện Gallup ở Mỹ không thăm dò tính lương thiện qua giai cấp giàu nghèo mà qua nghề nghiệp. Ðứng đầu lương thiện nhất là ngành y, nhưng bác sĩ y khoa lại được xếp sau y tá, dược sĩ và bác sĩ thú y.

Ðược xếp đồng hạng sau đó là kỹ sư, giảng viên và linh mục (tỉ lệ tin cậy đều là 58%). Ít lương thiện hơn là cảnh sát và chuyên gia tâm lý.

Tệ hơn hết, người Mỹ cho rằng nghề bán xe hơi (car saleman) là nghề khó tin nhất, chung chiếu với nghề bán xe hơi là nghề quảng cáo, nghề bảo hiểm y tế và nhân viên bán bảo hiểm (tỉ lệ tin cậy từ 13% đến 12%). Các chính trị gia cũng được xếp hạng thiếu lương thiện như tỉ lệ tin cậy đối với các dân biểu chỉ có 14%, thượng nghị sĩ là 15%. Ðiều này có lẽ dân chúng thấy rõ hơn vào các mùa bầu cử.

Còn nghề ký giả thì không thấy cuộc thăm dò của Gallup nhắc đến.

“Nhà báo nói láo ăn tiền,” là một câu nói khá hàm hồ và ác cảm của ai đó đối với nghề báo. Phải chăng đó là loại nhà báo chuyên tường thuật các đại hội đảng hay tổng kết thi đua “sống và làm việc theo gương Hồ Chủ Tịch.” Thật tình, nguyên tác của nghề báo là viết sự thật, dù ở đâu, do đó đây cũng là một nghề “dễ chết” nhất. Ở Việt Nam hiện nay đã có bao nhiêu nhà báo vì nói sự thật, đã bị cho thôi việc, cầm tù hay bị ám hại.

Ủy Ban Bảo Vệ Ký Giả cho biết, trên thế giới, chỉ tính từ năm 1992 cho đến 2011 đã có khoảng 850 ký giả bị giết, nhiều nhất là vì lý do chính trị, chiến tranh, tham nhũng, nhân quyền và tội phạm, trong đó, 39% bị giết trong khi hành nghề vì lý do chính trị. Riêng tại Mỹ và Canada kể từ năm 1976, có ít nhất 15 vụ ký giả bị giết khi đang làm công việc của mình, trong số 15 người này có năm người gốc Việt. Những ký giả này không phải là nhà báo nói láo, mà nói quá thật theo quan điểm của mình, những sự thật làm mất lòng người khác.

Nhưng nghề “viết” cho phép kèm theo chữ “lách.” Và cũng nên thông cảm rằng, đôi khi không dám viết sự thật, không phải là vì thiếu lương thiện.

Chí Phèo đã từng lớn tiếng trước mặt Bá Kiến: “Tao muốn làm người lương thiện!” “Không được! Ai cho tao lương thiện?”

Ðôi khi làm người lương thiện không dễ!

Rồi có một ngày…

Rồi có một ngày…

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Tôi thường nghe những câu hỏi trăn trở của những người tị nạn Cộng Sản bỏ nước ra đi:

– Liệu năm nay Việt Nam có gì thay đổi không?

– Bao giờ thì Việt Nam không còn Cộng Sản?

(Hình minh họa: Andreas Altwein/AFP/Getty Images)

Hầu hết những người Việt bỏ đất nước từ những ngày cuối cùng của Tháng Tư, 1975, khi Cộng Sản tràn vào Sài Gòn, đã nói với tôi rằng, họ chỉ trở lại Việt Nam khi không còn chế độ Cộng Sản trên quê hương nữa. Một vài vị lớn tuổi “gần đất xa trời” an ủi với nhau rằng, “có lẽ ta đâu mãi thế này” và mong được sống thêm vài năm nữa, để nhìn ngày tàn của chế độ Cộng Sản.

Nhưng bao giờ thì chế độ Cộng Sản sụp đổ?

Năm năm? Mười năm? Mười lăm năm? Và bây giờ 40 năm đã trôi qua!

Mà khi Việt Nam không còn Cộng Sản nữa thì đất nước này sẽ ra sao?

Cũng khó tưởng tượng ra có một cuộc thay đổi êm ái, đảng cầm quyền ra đi, tổ chức bầu cử tự do, các cơ chế hoàn toàn thay đổi, Hiến Pháp được viết lại, Việt Nam có đa đảng. Nhiều người còn mang ảo tưởng lạ lùng là “hải ngoại” sẽ được Bộ Chính Trị Đảng CSVN mời về “bàn giao” trong êm thấm trong khi họ lặng lẽ cuốn gói ra đi, và những “chủ tịch,” “thủ tướng,” và “quốc trưởng” ở đây sẽ về nhậm chức mà không cần đổ một giọt máu, kiểu nói “bất chiến tự nhiên thành” và dưới cái quan niệm sẽ được cường quốc này, đất nước nọ “bật đèn xanh…”

Nếu có một cuộc cách mạng thật sự đúng nghĩa bùng nổ, thì cuộc cách mạng lật đổ chế độ Cộng Sản ở Việt Nam phải là một cuộc cách mạng đổ máu tàn khốc nhất trong lịch sử. Bốn mươi năm qua, chế độ Cộng Sản này đã gây bao nhiêu thảm họa, tai ương cho miền Nam và đối với miền Bắc là 70 năm. Chẳng ai là không có mối thù với Cộng Sản, từ thời Việt Minh cho đến ngày miền Nam sụp đổ. Bao nhiêu thủ đoạn tù đày, kỳ thị, đánh tư sản, đổi tiền, đày đọa người dân rời bỏ thành phố hay đuổi họ xuống tàu ra biển.

Chẳng có gia đình nào tránh khỏi đau khổ, tù đày, chia lìa, chết chóc hay bần cùng. Ngay trong thời đại “tự do,” “hạnh phúc,” liệu những gia đình nạn nhân Đoàn Văn Vươn bị cưỡng chế chiếm đất, những mẹ con như gia đình bà Phạm Thị Lài trần truồng bị kéo lê trên nền đất, những phụ nữ như bà Lê Thị Trâm bị xe xúc chèn lên thân, cũng như gia đình có thân nhân chết mờ ám trong đồn công an, hàng triệu nạn nhân của chế độ công an trị, có bằng lòng một cuộc chuyển quyền êm ái không?

Cho thuận lẽ nhân quả ở đời sẽ có một cách mạng “máu kêu trả máu, đầu van trả đầu?”

Nhưng thành phần nào sẽ cầm đầu cuộc cách mạng này, và đừng có ảo tưởng là sẽ có một lực lượng ngoại nhập phát xuất từ Mỹ, từ Úc hay từ… Tàu.

Tuy vậy cũng sẽ không có chuyện biển máu với 3 triệu đảng viên Cộng Sản Việt Nam bị đem ra bắn bỏ, bị tịch thu tài sản, bị lùa vào các trại tù, hoặc đẩy chạy sang Tàu. Nhưng làm thế nào để Việt Nam có một cuộc thay đổi, Cộng Sản không còn là đảng cầm quyền và Việt Nam sẽ trở thành một đất nước có chế độ đa đảng. Nhưng vào thời điểm đảng Cộng Sản không còn nữa, Việt Nam sẽ ra sao?

Cũng như sau khi Liên Bang Xô Viết tan rã, ở Việt Nam cũng sẽ có rất đông đảo, hàng triệu người đã vứt thẻ đảng và ra khỏi đảng. Trừ một số đảng viên đã chuẩn bị “hạ cánh” với bất động sản, tiền ngân hàng hay cơ sở kinh doanh ở Mỹ, Úc, Canada… nhưng 3 triệu đảng viên Cộng Sản với châm ngôn “đảng còn ta còn” và tổng cộng các lực lượng an ninh đủ loại với ít nhất là 6.9 triệu người (theo Giáo Sư Carl Thayer) với khẩu hiệu “công an nhân dân chỉ biết còn đảng, còn mình” sẽ là một vấn nạn khó xử cho xã hội mới, một khi “mất đảng,” nhưng chúng nhất quyết chưa chịu “mất mình.”

Người viết không có khả năng phân tích tình hình chính trị Việt Nam sau khi không còn đảng Cộng Sản cầm quyền hay chuyện kinh tế của Việt Nam thời hậu Cộng Sản, nhưng cứ nghĩ đến cái đất nước tan hoang, sau 40 năm cai trị của đảng này, thì cái giấc mơ nghĩ đến một ngày nào đất nước hết Cộng Sản, cũng chẳng phải là một giấc mơ tốt đẹp.

Có thể Cộng Sản sẽ để lại cho đất nước những cái cầu tráng lệ, những xa lộ tối tân, những con tàu “siêu tốc,” những cái tháp truyền hình đi vào kỷ lục, những lâu đài kiến trúc đẹp đẽ, những sân bay hiện đại và dai dẳng những món nợ con cháu trả mấy đời không hết. Và những vạn dặm rừng, nghìn vuông đất cho thuê chưa lấy lại được, nhưng cũng không đau xót bằng hằng triệu con người mất cả niềm tin vào tương lai, lòng người ly tán, đạo lý suy đồi.

Muốn xây dựng lại xã hội phải xây dựng con người, mà xây dựng một con người phải mất bao nhiêu năm?

Hồ Chí Minh sao chép câu “Bách niên thụ nhân” của Quản Trọng bên Tàu, nhưng với hạt giống vốn bể nát, thối tha của người khác đã vứt đi lượm đem về, gieo trồng trên đám đất đai chai lỳ toàn trị, bón bằng những thứ phân bón tha hóa, xấu xa, dối trá; tưới bằng thứ nước dơ bẩn của bạo lực, cường quyền, thì cây không có trái, hoa không dám nở, mà chỉ sinh sản ra một loài cỏ dại. (*)

Một xã hội mà chủ động mãi dâm còn tuổi vị thành niên, khi bị công an bắt còn xin về đi thi trung học phổ thông. Một xã hội mà một thanh niên chỉ mới 22 tuổi cắt cổ sáu người mà vẫn có giấc ngủ yên lành. Một xã hội có những đứa trẻ 14 tuổi đi bán dâm trong khi đã mang thai bốn tháng. Một xã hội mà thanh niên lớn lên không có nhà máy, chỉ toan tính chạy vạy tìm cách ra nước ngoài làm thuê, ở mướn. Một xã hội mà thiếu nữ nông thôn lớn lên không có một thời yêu đương, thơ mộng, bỏ ruộng vườn, lăm le đi khỏi mướt kiếm một tấm chồng, hay kể cả chuyện bán thân, miễn có một đời sống no đủ. Một xã hội mà sinh viên, người mẫu sẵn sàng lên giường vì đồng đô la. Một xã hội mà người ác, kẻ tham được bảo vệ, người làm điều xấu không biết nhục, kẻ trung trực, ngay thẳng thì bị đọa đày.

Liệu có một vị cứu tinh dân tộc nào xuất hiện trong giai đoạn này để cứu nước, độ dân không? Nước Nhật sau hai quả bom nguyên tử ném xuống hai thành phố Hiroshima và Nagazaki, và cả trận sóng thần xảy ra năm 2011, đã đứng dậy tái thiết, khắc phục hậu quả của những thảm họa chiến tranh và thiên tai, nhờ tinh thần và phẩm chất truyền thống của dân tộc Nhật. Nhưng với “thảm họa dân trí, đạo đức” mà chế độ Cộng Sản để lại cho Việt Nam, sau ngày 30 Tháng Tư, 1975, mà chúng ta thường gọi là một trận hồng thủy, mà những điều tốt đẹp, đạo đức của dân tộc đã bị băng hoại, cuốn trôi, chúng ta làm cách nào để xây dựng lại đất nước này?

Bao giờ thì có thay đổi, bao giờ thì không còn Cộng Sản? Đây chính là những nỗi trăn trở của cả dân tộc, nhưng là những chuyện khó khăn bắt đầu chứ không phải là những điều kết thúc tốt đẹp mà chúng ta vẫn thường mơ ước! Đó chính là nỗi thống khổ của Việt Nam, và còn khổ đến bao giờ.

(*) “Cộng sản là loài cỏ dại, mọc trên hoang tàn của chiến tranh, là trùng độc, sinh sôi, nảy nở, trên rác rưởi cuộc đời.” (Dalai Latma)

Nỗi vinh nhục của tượng đài

Nỗi vinh nhục của tượng đài

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Năm 1999, việc Trần Trường treo ảnh Hồ Chí Minh và cờ đỏ sao vàng trong tiệm băng nhạc của y đã đưa đến một cuộc biểu tình phản đối dữ dội của những người tỵ nạn Cộng Sản tại Nam California kéo dài 52 ngày đêm ròng rã. Trần Trường nghĩ rằng hành động của y đáng để cho Việt Cộng mang ơn, nhưng sự thật đây là một chuyện trắc nghiệm, gây hậu quả không ai lường trước được và lòng căm thù Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản bộc phát, dâng cao.

Tượng Lenin ở Kiev, Ukraine, bị kéo đổ hôm 8 Tháng Mười Hai, 2013.
(Hình: Anatoli Boiko/AFP/Getty Images)

Vào đầu Tháng Tám năm nay, chính quyền tỉnh Sơn La vừa tuyên bố sẽ xây tượng đài Hồ Chí Minh 1,400 tỷ tại đây. Chuyện chưa biết sẽ ra sao, nhưng từ ngày Sơn La có quyết định này, cả nước, và đồng bào hải ngoại không ngớt lên tiếng chê bai, chửi rủa hết lời. Hình ảnh xấu xa của Hồ Chí Minh và bọn cầm quyền vô lại, lại được đưa ra làm mục tiêu cho quần chúng ném đá, trát bùn. Phải chăng đây cũng là một lần trắc nghiệm nữa về hình ảnh của “Bác?”

Bọn bồi bút và ngay cả “chính Bác”(CB) vẫn thường tranh nhau viết về cuộc đời thanh liêm, đơn giản của “Bác.” Tiêu biểu nhất là chuyện “đôi dép râu.”

Trong thời gian kháng chiến, mà sau ngày trở về Hà Nội, “Bác” vẫn đi đôi dép cao su đã mòn vẹt, “bảo vệ” đề nghị với “Bác” mua một đôi dép mới để thay, nhưng “Bác” gạt đi cho là lãng phí! Anh em “bảo vệ” liền tráo một đôi dép khác, không mới để “Bác” khó nhận ra, nhưng còn tươm tất. Nhưng cuối cùng “Bác” cũng biết, và nằng nặc đòi bảo vệ trả lại đôi dép cũ cho “Bác!”

Trong thư gửi Báo Vệ Quốc Quân vào Tháng Ba, 1947, “Bác” có câu: “Tuyệt đối không đem của công dùng vào việc tư, không động đến cái kim sợi chỉ của dân; khi đến đóng, lúc kéo đi, phải giữ gìn nhà, vườn của dân cho sạch sẽ; mua bán phải công bình, mượn cái gì phải trả tử tế, hỏng cái gì phải bồi thường.”

Chuyện này, đám con cháu “Bác” chuyên làm ngược lại.

Trong di chúc trước khi “bước sang từ trần,” “Bác” đã dặn phải thiêu xác và rải tro đi khắp nước, tuy nhiên chúng nó không chịu thiêu “Bác” mà rình rang xây lăng mộ như các bậc vua chúa thời xưa. Số tiền tốn kém cho lăng này không bao giờ được tiết lộ, nhưng chỉ việc phải nhờ chuyên viên ướp xác Liên Xô, lăng chống được bom đạn, địa chấn, được xây dựng bằng đủ các thứ gỗ, đá, cây trồng quý giá vận chuyển từ khắp các địa phương trong nước, trong lúc còn chiến tranh thì tổn phí phải nói là không nhỏ.

Xây lăng xong, Bắc Việt phải nghĩ đến việc bảo vệ lăng.

Để bảo vệ lăng “Bác” một đơn vị quân đội được đặt tên là Đoàn 969 với quân số của một sư đoàn (10,000 người) do nhân dân đóng thuế nuôi, chỉ dùng cho mỗi việc bảo vệ một các xác khô. Bảo vệ là đúng, vì chúng ta còn nhớ, vào ngày 3 Tháng Hai, 2014, bốn thành viên của Pháp Luân Công đã mang búa tạ vào để đập bể lăng “Bác.”

Về chuyện “không động đến cái kim sợi chỉ của dân; …mua bán phải công bình, mượn cái gì phải trả tử tế, hỏng cái gì phải bồi thường” như lời “Bác” dạy thì chúng không thèm “động đến cái kim sợi chỉ của dân” nhưng tham ô, cướp đất, đuổi nhà, làm giàu trên chuyện tham ô, hối lộ khiến cho đảng càng ngày càng giàu mà dân mỗi năm mỗi đói.

Câu kinh nhật tụng của bọn tham ô vận dụng để xây tượng “Bác” là “nhằm đáp ứng nguyện vọng và tình cảm” của đồng bào các dân tộc, trong khi thật sự nguyện vọng của đồng bào xứ này là cầu cho có bữa cơm no, có trường cho trẻ em học đàng hoàng và đến trường khỏi đu dây “biệt kích!” Trong khi nguyện vọng của chính quyền là muốn có thêm tiền bỏ túi.

Chúng ta khó tưởng tượng ra là hiện nay trên cả nước đã có 134 tượng đài “Bác” xây dựng trong khuôn viên trụ sở cơ quan, đơn vị, trong đó có tới 45 tượng “Bác” với bộ đội Biên Phòng và “Bác” đứng ngồi tại các quảng trường là 31 cái.

Như vậy cũng chưa đủ, hiện nay chúng còn muốn xây thêm 58 tượng đài “Bác” nữa, theo đề nghị ở các tỉnh đủ loại như “Bác” đứng vẫy tay chào, “Bác” ngồi đọc sách, “Bác” với các cháu thiếu nhi, “Bác” với đồng bào dân tộc… Đại khái là sẽ có tượng đài “Bác” với thanh niên xung phong ở tỉnh Bắc Kạn; tượng “Bác” với nông dân ở Thái Bình; tượng “Bác” và bố “Bác” tại Bình Định… Các tỉnh được hưởng “xái” xây tượng đài là Bắc Kạn, Bắc Ninh, Bình Định, Đà Nẵng, Điện Biên, Hải Phòng, Hải Dương, Kiên Giang, Quảng Bình, Quảng Trị, Sơn La, Thái Bình, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc.

Ngay tại Tòa Đô Chánh cũ ở Sài Gòn trước đây đã xây tượng “Bác” ngồi đọc sách, có lẽ ngồi lâu sợ “Bác” đau lưng, không tiếc tiền của dân, Cộng Sản đập đi và thay vào đó là bức tượng “Bác” đứng, lại khánh thành tưng bừng, có các em chân dài múa may trước mặt “Bác.” Các tỉnh tranh nhau để được xây tượng “Bác.” Bắc Ninh nói: “Tỉnh có vinh dự đón Bác 18 lần, vậy mà chưa có tượng đài nào!” Hải Phòng cũng khiếu nại muốn dựng tượng Bác vì “Bác” đã chín lần về thăm Hải Phòng. Như vậy rồi đây, tượng “Bác” sẽ lềnh khênh, ra ngõ là “gặp anh… hồ!”

Sẽ có tượng “Bác” ở làng Sen, nơi Bác sinh ra; ở Pắc Bó nơi “Bác” tắm suối và gặp mẹ của Nông Đức Mạnh; ở số 66 Hàng Bông Nhuộm, nơi xảy ra mối tình “Bác” với Nông Thị Xuân; ở Phan Thiết, nơi “Bác” đi qua, ở bến Nhà Rồng nơi “Bác” lên tàu… Ôi làm sao kể xiết những dấu chân của “Bác” để lại!

Việt Nam sẽ điên đầu với những tượng đài!

Với chủ trương tôn sùng cá nhân, tượng đài các quốc gia Cộng Sản mọc lên như nấm sau cơn mưa. Từ Lenin, Stalin, cho đến Mao Trạch Đông, cha con nhà họ Kim II-sung, Kim Jong-il, và Hồ Chí Minh. Cũng theo thứ tự như thế, lần lượt các chế độ Cộng Sản tàn lụi trên trái đất, sẽ chôn vùi theo các tượng đài.

Những năm gần đây, thế giới đã muốn xóa bỏ dấu tích của quá khứ Cộng Sản. Năm 1991, sau khi Liên Xô sụp đổ một thời gian, hàng ngàn người tụ tập ở quảng trường Dushanbe (thủ đô của Tajikistan), kéo sập tượng Lenin. Năm 1994, chính quyền Hungary đã quyết định hạ tượng Karl Marx ở khuôn viên đại học Corvinus, và ở khắp nơi các tượng đài Lenin, Stalin đều đã bị phá bỏ.

Cuối năm 2012, Mông Cổ đã cho dỡ bỏ bức tượng Lenin cuối cùng khỏi thủ đô Ulan-Bator. Tháng Tám, 2013, tượng Lenin ở Kiev đã bị giật sập, khởi đầu từ đó, tượng của Lenin trở thành mục tiêu phá bỏ tại các thành phố Ukraina khác như Zhytomyr, Boyarka, Slavuta, Bila Tserkva, Khmelnitsky và Bila Tservka.

Trong khi ở Việt Nam, ông Lenin của nước Nga vẫn còn đứng ở vườn hoa nước mình!

Ngày nay Stalingrad đã trở lại với Volgograd, Leningrad đã trả lại cái tên cũ là Saint Petersburg.

Thành phố Hồ Chí Minh ngày trở lại tên Sài Gòn là lúc dân chúng Việt Nam “Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc…” chúng ta kéo nhau đi đập nát những tượng đài…

Nỗi nhục của tượng đài không phải là lúc bị lật đổ, mà cả những lúc được dựng lên trong nỗi ta oán của quần chúng. Đó cũng là một lối tiêu xài hoang phí của đám cầm quyền trên nỗi lầm than, cơ cực của những người dân sống chung quanh tượng đài.

Sài Gòn và Hà Nội

Sài Gòn và Hà Nội

Tạp ghi Huy Phương

Sau khi đi tù về vài năm, khoảng 1985, tôi có mở một tiệm làm hình và tráng phim gia công trên đường Lý Thái Tổ, Sài Gòn.

Nhờ vậy, ở đây tôi có dịp tiếp xúc với nhiều người đủ mọi tầng lớp xã hội và ở khắp mọi miền, nhất là dân miền Bắc, sau Tháng Tư, 1975, đổ xô vào Nam kiếm ăn rất nhiều. Vì dù miền Nam sau ngày “giải phóng” đã xuống cấp tột cùng, trông cũng còn khá giả, tươm tất hơn ở miền Bắc sau 20 năm dưới chế độ cộng sản.

Sài Gòn ngày nay. (Hình: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)

Một ngày nọ, tôi gặp một người trung niên miền Bắc, trông mặt mày cũng khôi ngô, nhưng áo quần nhàu nát, làn da xanh mét như người thiếu ăn, anh vào tiệm, ngửa tay ra, nói mấy câu. Nghe giọng nói tôi biết ngay là người này ở ngoài Bắc mới vào, đang hành nghề xin ăn.

Tôi hỏi anh, “Tận ngoài Bắc, sao anh vào đây đi ăn xin?”

Không hề ngượng nghịu, anh nói rõ, “Vào đây xin 10 người cũng có được 6 người móc túi cho, lại chẳng bao giờ bị chửi bới. Ngoài Bắc, nhất là Hà Nội, thì đừng hòng! Có mà chết đói.”

Ðó là điều tôi nhận ra, như vậy là có sự khác biệt nhau giữa Sài Gòn và Hà Nội. Hà Nội đại diện cho miền Bắc và Sài Gòn phản ánh cho những đặc tính của miền Nam.

Cộng Sản vào không phải làm điện khí hóa cho nông thôn trở thành thành thị, nhưng thật tình đã “nông thôn hóa” thành thị, nên dân Sài Gòn thường trực bị cúp điện, nhiều nơi tìm cách đào giếng để kiếm nước và sẵn sàng bới sân gạch lên để trồng khoai lang cải thiện, hay như ông bạn tôi ở chung cư Thanh Ða, bớt chỗ sinh hoạt để nuôi hai con heo nái trên sân thượng.

Sài Gòn sau thời gian đổi tên, nguyên do chỉ vì cái bến Nhà Rồng chết tiệt, chẳng mấy chốc xuống gần bằng Hà Nội. Bằng Hà Nội hơn, nhất là sau khi họ ồ ạt “vào thành phố” như một câu hát của Trịnh Công Sơn, với những “cửa hàng thịt phụ nữ,” “cửa hàng chất đốt thanh niên” mọc ra, cái cảnh phơi áo quần trên cửa sổ, treo khăn lông trong “xe con,” nuôi heo, trồng rau ngay trong sân nhà, hay hai anh bộ đội lái xe khác chiều dừng xe ngay giữa lộ để nói chuyện với nhau, bất cần tiếng chửi của thiên hạ.

Mới thoạt nhìn, Sài Gòn bỏ ngỏ và bắt đầu nhếch nhác giống Hà Nội, nhưng sự thật trong gan ruột, hai thành phố đối cực, đối đầu này đang có những điều khác biệt, một bên là “nơi hang ổ cuối cùng và đâu cũng thấy tàn dư Mỹ Ngụy,” và Hà Nội, “thủ đô của lương tri, phẩm giá con người!” Vì vậy mà ngày nay, sau gần 40 năm “thống nhất” người ta còn đi tìm và thấy ra có quá nhiều khác biệt giữa Sài Gòn, Hà Nội. Cách biệt vì cách đối xử chính trị như vậy, trách sao Sài Gòn và Hà Nội không cách biệt về văn hóa, mặc dầu lúc nào hai bên cũng cho bên kia là “quê hương tù dày!” Tuy vậy, Hà Nội thắt lưng, buộc bụng, tẩy não, “dốc hết hạt gạo, cục muối cho miền Nam đánh Mỹ,” làm sao so được với Sài Gòn “bơ thừa sữa cặn!”

Nói về giáo dục, sau Tháng Tư, 1975, đồng bào và thầy cô giáo miền Nam hẳn đã biết loại văn hóa ăn nói vô lễ, thô tục của lũ trẻ miền Bắc mới vào Nam, vì miền Bắc không có khẩu hiệu “tiên học lễ, hậu học văn” treo trong các lớp tiểu học. Ngày ra Bắc, lên tận Hoàng Liên Sơn, tôi đã trông thấy những nét văn hóa tiêu biểu, được viết bậy lên vách tường nhà trường tiểu học, chưa kịp xóa sạch, nói đến sự quan hệ của ngành công an và giáo dục: “Công An (đ.) Cô Giáo!”

Trên đường làng Cẩm Nhân, Yên Bái, chúng tôi đi ngang một nhà giữ trẻ của hợp tác xã, nghe tiếng trẻ khóc la và tiếng quát của một phụ nữ: “Bố mẹ chúng mày đéo cho lắm vào, để chúng mày làm khổ thân bà!” “Bà” đây là người giữ trẻ của hợp tác xã nông nghiệp, bà có nhiệm vụ giữ trẻ thì khỏi ra đồng như các hợp tác xã viên khác. Liệu lũ trẻ này lớn lên dưới sự chăm sóc của những người này này, ngôn ngữ của chúng sẽ ra sao?

Trên các blog và báo chí trong nước, đề tài “những sự khác biệt giữ Sài Gòn và Hà Nội” tương đối là một đề tài hấp dẫn.

Tôi dẫn một vài ví dụ:

Giao tiếp:

– Ở Sài Gòn, bạn dửng dưng khi thấy cô bán hàng cúi gập người chào bạn.
– Ở Hà Nội, bạn xúc động đến sững sờ khi thấy ai đó nói lời cảm ơn.

Hàng quán:

– Tô hủ tíu mì Sài Gòn được bưng ra với tô được đặt trên chiếc đĩa.
– Bát phở gà Hà Nội được khuyến mại với ngón tay cái của con bé bưng bê!

Ca ve:

– Khi bạn vừa thanh toán xong tiền cho cave…

Cave Hà Nội: “Cho em xin thêm 10 nghìn để còn đi xe ôm về.”
Cave Sài Gòn: “Em bớt cho anh 10 ngàn, lần sau nhớ kiu em nha!”

Nhà sách:

– Hà Nội: Nhân viên hách dịch.
– Sài Gòn: Vào đọc chùa thoải mái, nhất là các em bé, có thể ngồi tại chỗ đọc mà không sợ bị đuổi!

Trong quán ăn:

– Sài Gòn: “Vâng em làm ngay đây.”
– Hà Nội: “Làm gì mà cuống lên thế! Muốn nhanh thì xéo sang hàng khác!”

Bạn bè:

– Hà Nội: Hay để bụng, ghét mà trước mặt vẫn chơi, về nhà nói xấu.
– Sài Gòn: Mau huề, ghét là biến, không chạm mặt!

Nhưng liệu những sự khác biệt này kéo dài được bao lâu nữa? Bây giờ, Sài Gòn và Hà Nội đã bắt đầu đầu giống nhau, ảnh hưởng và bị đồng hóa, vì người Nam ra Bắc thì ít mà người Bắc vô Nam càng ngày càng đông, như một người tên Jor Dan viết trên blog: “Mỗi người có một cách suy nghĩ riêng. Nhưng đa phần chỉ nói yêu Hà Nội, nhưng lại thích được sống ở Sài Gòn. Ca sĩ Hà Nội vào Sài Gòn lập nghiệp nhiều quá còn gì!”

Sau gần 40 năm bây giờ hai thành phố này đã có những chuyện giống nhau. Ở đâu cũng kẹt xe kinh khủng, và sau một trận mưa, không chỉ ở thành phố “bác” mà ở Hà… cũng lội!

Vô kỷ luật:

Sinh viên:

– Hà Nội: Nhiều em cave trông như sinh viên.
– Sài Gòn: Nhiều em sinh viên trông như cave.

Giao thông:

– Sài Gòn: Bạn có thể vượt đèn đỏ thoải mái.
– Hà Nội: Bạn có thể lượn lờ trước mũi xe hơi.

Chúng ta không hy vọng gì Hà Nội và Sài Gòn sẽ mãi mãi khác nhau. Sự đồng hóa và việc di dân ồ ạt sẽ làm cho Sài Gòn càng ngày càng gần với Hà Nội. Ðiều rõ nhất là Hà Nội trước năm 1954 và Hà Nội bây giờ hoàn toàn khác nhau. Năm 1954, sau Hiệp Ðịnh Geneva, một số người đã mang sự thanh lịch của Hà Thành năm xưa đi xa, để “Hà Lội” ngày nay cho những người mới vào tiếp thu, từ giọng nói đến văn hóa cư xử đã hoàn toàn khác biệt.

Người Sài Gòn hôm nay sẽ không còn là người Sài Gòn của những ngày tháng cũ, tất cả chỉ còn là chuyện thời gian.

Chỉ sợ sau ngày Sài Gòn trở lại tên cũ, chất Sài Gòn sẽ không còn nữa.

‘Mồm loa mép giải’

‘Mồm loa mép giải’

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Thành ngữ “mồm loa mép giải” của Việt Nam có nghĩa là “to tiếng và lắm lời, nói át cả người khác.” Một định nghĩa khác gay gắt hơn là “lắm mồm, ngoa ngoắt, đanh đá, luôn lấn át người khác, bất chấp cả đúng hay sai!”

Những cái loa phóng thanh ở phố phường Hà Nội.
(Hình: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)

Thành ngữ này làm chúng ta nhớ đến cái loa.

Loa và cái mã tấu là hai dụng cụ đáng sợ nhất thời Việt Minh. Ở những vùng “xôi đậu,” nửa đêm nghe giọng nói oang oang qua chiếc loa giấy kết tội Việt gian là sáng ra, thế nào cũng thấy một xác người bị cắt họng hay mất đầu nằm ngoài ngõ. Ba mươi năm từ mã tấu đến AK, rồi tên lửa, cái loa cũng thay hình đổi dạng, từ thời thô sơ làm bằng giấy bồi đến thời hiện đại, loa sắt có đường kính 1.7 m, có công suất từ 500w đến 600w do Liên Xô và Trung Cộng viện trợ.

Trong một bài trước, chúng tôi khi viết bài cái cột đèn có nhắc tới một vật gắn liền, đè đầu cưỡi cổ cái cột đèn, làm khổ lỗ tai, nhức đầu thiên hạ là cái loa.

Nói về loa, tài liệu trong nước cho biết loa thường gắn thành cụm (chùm), mỗi cụm thường có hai đến ba loa, các cụm loa đặt cách nhau từ 400 đến 600 mét.

Mỗi xã có từ 12 đến 20 cụm loa, ở các huyện thị trên toàn quốc có trung bình từ 300 đến 400 loa. Cả nước có 698 huyện, nên tổng số loa trong cả nước là 279,000 cái.

Theo tài liệu của Giáo Sư Nguyễn Văn Tuấn nêu ra, thì trong cả nước Việt Nam hiện nay có 900,000 cái loa (http://press.anu.edu.au/wp-content/uploads/2013/11/Vietnam.pdf.) Hệ thống loa tiếp cận dân số hơn 58 triệu người (chiếm 67.1% dân số Việt Nam). Như vậy cứ hai người dân xã hội chủ nghĩa thì có hơn một người phải chịu cảnh đày đọa tra tấn của cái loa phóng thanh mỗi ngày.

Con số loa nêu ở trên còn ít ỏi nếu so với loa thời nay. Xã Tả Phời, thuộc thành phố Lào Cai, theo quy định của Bộ Thông Tin và Truyền Thông, toàn phố đã lắp đặt 380 cụm loa, với tổng số 900 loa công cộng, chuyển âm thanh từ 85% 2010 lên 90% năm 2014, 100% (theo Nghị Quyết Đại Hội Chi Bộ 2010-2015). Loa trong XHCN không những sắp đặt san sát, mà năng suất của loa càng ngày càng lớn đủ sức làm cho người dân chảy máu tai.

Thời gian trước năm 1975, ở bờ Bắc Bến Hải, Cộng Sản Bắc Việt đã lắp đặt những chiếc loa có công suất 500W với đường kính rộng đến 1.7m và bổ sung thêm 20 loa loại 50W, bốn loa loại 250W của Liên Xô.

Bắc Việt lấy lý do “đài địch” ở bờ Nam, Tháng Tám, 1963, quyết định xây dựng một mạng lưới loa dày đặc dọc theo tuyến bờ bắc sông Bến Hải. Bốn cụm loa 500W được mọc lên (mỗi cụm gồm 20 loa nén loại 25w), thêm ba cụm loa cực mạnh ở Hiền Lương, mỗi cụm loa 1,000w gồm 40 loa loại 25w. Tại mỗi cụm, loa được gắn vào một dàn sắt kiên cố hình chữ nhật đứng trên hai trụ bê tông cốt thép cao 11 m, hướng miệng loa sang bờ Nam. Họ khoe là mỗi lần hệ thống loa cất lên “giống như sấm rền, làm cả một vùng sông nước cứ sôi lên ùng ục!” Như vậy chưa đủ, Bắc Việt xây thêm trạm tiếp âm lớn đặt ở ngã ba Hiền Lương với hai máy khuếch âm 10,000W. Vĩnh Linh còn có một xe lưu động có máy nổ riêng, gắn loa 180W và loa đại có công suất 500W do Trung Cộng sản xuất.

Hệ thống loa là để tuyên truyền nhắm về phía Nam, nhưng ai nghe?

Truyền thông miền Bắc nói rằng “đêm đêm, nhân dân bờ Nam ngóng về phương Bắc, lặng lẽ lấy ảnh Bác Hồ được cất giấu kỹ ra xem và cầu mong lực lượng vũ trang miền Bắc tấn công tiêu diệt hết lũ xâm lược…” hay “những ngày lễ tết, đoàn văn công trung ương từ miền Bắc vào thường ghép thuyền, dựng sân khấu bên mép sông để biểu diễn cho nhân dân xem, người dân mà cả lính miền Nam cũng đổ ra bờ sông để ngóng vọng sang thưởng thức. Nội dung tin, bài rất phong phú, đa dạng… hấp dẫn đến mức cảnh sát bờ Nam đến giờ đài Vĩnh Linh phát sóng là lẳng lặng bấm nhau trốn ra nơi vắng để nghe,” và “một số cảnh sát ngụy háo hức đứng xem văn nghệ,” và “nghe tiếng loa vang lên, mặc dù bị lính ngụy ngăn cản, đồng bào bờ Nam vẫn đổ xô đứng dọc bờ sông Bến Hải hoan hô, reo hò: ‘Bà con ơi, o Nhạn, eng Tích chưa chết. Đài Vĩnh Linh còn. Quốc gia nói láo!’”

Thậm chí “lợi dụng lúc pháo sáng của ta bắn sang, bà con các xã ven sông như Trung Sơn, Xuân Mỹ, Bạch Lộc… hô nhau chạy ùa ra sông, lội bộ sang bờ Bắc” … “một số binh lính ngụy ngồi trên một xe quân sự chạy thẳng qua cầu Hiền Lương để cố vượt sang phía ta, song chiếc ô tô bị cảnh sát ngụy bắn thủng lốp và tất cả xuống xe chạy bộ, đều bị chúng bắt lại, tống vào nhà tù…”

Đúng là miệng lưỡi XHCN: “Xạo Hết Chỗ Nói!”

Những ai đã từng đi du lịch Dubai, Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất, một xứ theo Hồi Giáo, dù ở đâu, trong khách sạn sang trọng hay ngoài đường phố, mỗi ngày ba lần, đều phải chịu cảnh tra tấn bằng cách phải nghe kinh Koran qua những chiếc loa mà công suất không kém loa Hà Nội.

Trong một bài viết về cái loa, Giáo Sư Nguyễn Văn Tuấn ở Úc đã phát biểu, “Tôi nghĩ cái loa phường ở Việt Nam cũng là một loại nghi thức tôn giáo, nhưng chỉ có khác là nó rè và cũ mèm hơn cái loa bên Saudi Arabia.”

Du khách đến Hà Nội cũng phải chịu cảnh tra tấn tương tự bằng những chiếc loa chõ mồm vào cửa sổ khách sạn, oang oang vào lúc 5 giờ sáng, và những du khách đã đi nhiều nơi, ngạc nhiên vì họ đã gặp loại tuyên truyền này “ở Moscow năm 1956 thì nay nó xuất hiện (hay tồn tại) ở một quốc gia Đông Nam Á vào năm 2014.”

Người ta không hiểu vì sao trong một thời đại văn minh như hiện nay, Việt Nam còn cần đến cái loa sắt kiểu này? Một cái loa không đem lại kiến thức gì cho con người mà chỉ nhồi nhét vào tai của người dân, theo ký giả Michael Totten, một ký giả người Mỹ thường viết về Việt Nam, “những loại ‘rác rưởi’ (bullshit) bất kể người dân có thích hay không!”

Nếu nay mai, chế độ Cộng Sản tàn mạt trên đất nước Việt Nam, thì thể chế mới, xin làm ơn dẹp hết 900,000 cái loa, đem bán ve chai, vì quả cái loa, nó là một điều gì ám ảnh, một ám ảnh khôn nguôi về cái bóng ma Cộng Sản, từ thời Việt Minh cho đến hôm nay.

‘Post’ này chẳng tày ‘Post’ nọ!

‘Post’ này chẳng tày ‘Post’ nọ!

Nguoi-viet.com

Huy Phương

Cục Trưởng Cục Báo Chí Hoàng Hữu Lượng vừa mở miệng lòi ra cái khả năng hiểu biết thấp kém, khi nói rằng, “Thế giới có rất nhiều tờ báo bưu điện có tiếng như Washington Post, Bangkok Post. Bộ giữ lại cái tên báo Bưu Điện Việt Nam cũng với hy vọng sẽ tạo được uy tín và danh tiếng như vậy!”

Bộ đây là Bộ Thông Tin và Truyền Thông, và cái gọi là “The Vietnam Post News” (Báo Bưu điện Việt Nam) là báo của Tổng Công Ty Bưu Điện Việt Nam (Vietnam Post) có nhiệm vụ “thực hiện chức năng cơ quan ngôn luận của bộ; thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền vì sự nghiệp phát triển của ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ: tổ chức quản lý, xuất bản báo điện tử Infonet theo đúng tôn chỉ, mục đích và nội dung thông tin theo quy định của pháp luật.”

Rõ ràng hơn, nhân dịp kỷ niệm “90 năm ngày Báo Chí Cách Mạng Việt Nam,” Thứ Trưởng Trương Minh Tuấn đã chúc Báo Bưu Điện Việt Nam, luôn giữ đúng tôn chỉ mục đích, đặc biệt, tờ Bưu Điện Việt Nam phải chuyên về bưu điện.”

Như vậy, không nghi ngờ gì nữa, tờ “The Vietnam Post News” là một tờ báo của ngành bưu điện mà vì chữ Post, Hoàng Hữu Lượng đã đem so sánh với Washington Post hay Bangkok Post. Theo kiến thức này thì New York Post hay Denver Post cũng là “cơ quan ngôn luận” của Sở Bưu Điện hai tiểu bang này.

Thực sự thì “Vietnam Post” của Hoàng Hữu Lượng chỉ là một loại báo đảng, báo bộ, báo ngành, báo tỉnh, báo huyện đang “trăm hoa đua nở” ở Việt Nam.

Nhưng trước hết Hoàng Hữu Lượng là ai? Sau một thời gian đi lính, năm 1982, y được bộ đội gửi theo học đại học Tổng Hợp Hà Nội, sau đó làm việc tại Viện Lịch Sử Quân Sự Việt Nam thuộc Bộ Quốc Phòng, và được làm ký giả cho Tạp Chí Lịch sử Quân sự, đã có dịp phỏng vấn nhiều nhân vật quan trọng trong quân đội Cộng Sản. Nói chung, Hoàng Hữu Lượng có nhiều “hồng” nhưng chẳng có chút “chuyên” nào, kiến thức và chữ nghĩa của ông chỉ mục đích ca tụng đảng hết lòng. Nếu như Hoàng Hữu Lượng là một quan chức có văn bằng Tiến Sĩ Báo Chí, thì đã có người viết bài cho ông nói, đằng này có sao nói vậy, nên ngoài kiến thức “vẹt” rổn rảng như các thủ trưởng khác, khi cao hứng nói ra chuyện ngoài đề là lòi cái “ngu” ra ngay.

Lãnh đạo ngành báo chí, nhưng y vẫn bị ám ảnh bởi hai chữ “cho phép:

“- Nước ta hiện có 849 cơ quan báo in, 67 đài phát thanh-truyền hình với gần 200 kênh truyền hình, 98 cơ quan báo chí điện tử và 1,525 trang thông tin điện tử tổng hợp, 420 mạng xã hội được phép hoạt động với lượng truy cập cao, ảnh hưởng ngày càng lớn về thông tin.”

849 tờ báo đó là báo nào, nếu không là báo đảng, báo đoàn, báo mặt trận, báo bộ, báo huyện, báo xã mà mỗi tờ báo đều có một tên đảng ủy ngồi chồm hổm trong đó. Tạp Chí Cộng Sản là Cơ Quan Lý Luận và Chính Trị của Trung Ương Đảng CSVN. Báo Người Lao Động là tiếng nói của Liên Đoàn Lao Động TP.HCM. Bộ Công An thì có báo Công An từ Công An Nhân Dân (báo Bộ) cho đến báo Công An Thành Phố (Sài Gòn), Công An Đồng Nai, Công An Đà Nẵng. Bộ Tư Pháp thì có báo Pháp Luật Việt Nam, báo Pháp Luật TP.HCM. Báo Tiền Phong là cơ quan của đoàn TNCS HCM. Báo Thanh Niên là Diễn Đàn của Hội Liên Hiệp Thanh Niên Việt Nam. Báo Thiếu Niên Tiền Phong là Cơ Quan Trung Ương Đoàn Thiếu Niên Cộng Sản HCM. Báo Phụ Nữ là Cơ Quan Liên Hiệp của Hội Phụ Nữ Việt Nam. Báo Phụ Nữ Thủ Đô Hà nội là Cơ Quan Liên Hiệp của Hội Phụ Nữ Hà Nội (cứ như vậy báo Phụ Nữ có mặt khắp nước…) Báo Cà Mau là cơ quan của đảng Bộ Đảng Cộng Sản tỉnh Cà Mau, Báo Hải Dương là cơ quan của đảng Bộ Đảng Cộng Sản tỉnh Hải Dương… Báo Người Cao Tuổi là cơ quan của Trung ương Hội Người Cao Tuổi Việt Nam (nằm trong mặt trận tổ quốc Việt Nam.) Báo Giác Ngộ là cơ quan của Giáo Hội PGVN (Quốc Doanh). Công giáo và dân tộc là tờ báo của Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo thành phố Sài Gòn. Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo này là một cơ quan được mặt trận tổ quốc Việt Nam thiết lập để vận động người công giáo thi hành những mệnh lệnh của đảng CSVN.

Trong 849 tờ báo này không hề có một tờ báo nào của tư nhân, nên chúng không mang còng của đảng thì cũng đội vòng kim cô của mặt trận, mà mặt trận là con của Đảng Cộng Sản.

Cũng đừng coi thường ông Cục Báo Chí Hoàng Hữu Lượng, ông khoe ông chỉ huy gần 35,000 cử nhân, tiến sĩ:

“Đến nay lực lượng báo chí đã có 35,000 người, trong đó có gần 18,000 là nhà báo chuyên nghiệp; tỉ lệ người làm báo có trình độ đại học và trên đại học là 95,9%.”

Hy vọng 35.000 người có trình độ đại học và trên đại học là 95,9% này không đến nỗi dốt như ông.

Nhiệm vụ của báo chí dưới chế độ Cộng Sản là gì? Cục trưởng Báo Chí xác định, “là một bộ phận của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản và theo sự phân công của hệ thống chính trị đó, báo chí có quyền lợi và trách nhiệm thông tin, tuyên truyền chủ trương chính sách của Đảng Cộng Sản và Hệ Thống Nhà Nước, đoàn thể dưới sự lãnh đạo của nó…” Thế là, nếu “thú cách hóa” thì nhà báo ấy là con vẹt, “vật cách hóa” nhà báo ấy là cái loa tuyên truyền treo đầu xóm. Con vẹt không có suy nghĩ chỉ biết lặp lại, và cái loa chỉ có khả năng truyền đi nguyên xi những cái gì nó nhận được!

Con vẹt, cái loa làm sao mà tự do suy nghĩ và có tự do phát biểu được.

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo ở trong nước phân biệt hiện nay có hai lối làm báo, “Làm báo nói láo ăn tiền” và “làm báo nói thật ăn đòn.” Nói xạo, ca tụng đảng, tâng bốc công ty, xí nghiệp, tạo thành tích láo thì có tiền bỏ túi, mà còn được lãnh huân chương lao động, hay trở thành “nhà báo nhân dân.”

Còn “nói thật ăn đòn” thì vô số kể:

Năm 1992, Vũ Kim Hạnh bị đình chỉ chức vụ Tổng Biên Tập báo Tuổi Trẻ, vì đã đụng tới Hồ Chí Minh, đăng tin của Hồ đã từng có vợ là người Trung Quốc.

Trần Quang Thành hiện đang định cư tại Tiệp Khắc là một nhà báo bị tạt acid khiến dung mạo bị dị dạng, thân thể bị hủy hoại 81%, chỉ vì dám viết bài phơi bày tham nhũng tại Việt Nam.

Năm 2008 Cộng Sản trừng phạt hai ký giả, giải nhiệm tổng biên tập và phó tổng biên tập báo Đại Đoàn kết vì báo có bài chỉ trích chính phủ và Đảng Cộng Sản cầm quyền.

Mới đây nhất, 2015, Kim Quốc Hoa, Tổng Biên Tập báo Người Cao Tuổi, bị cách chức và truy tố vì có những bài viết chống tham nhũng đụng tới đảng.

Làm báo đảng đã khổ vậy, còn làm báo “ngoài luồng” như các blogger thì bị kết tội phản quốc, gián điệp, chịu cảnh tù đày, đánh đập, bể đầu, hộc máu miệng, nhan nhản hằng ngày trên cái bãi rác có cắm bảng cấm “độc lập-tự do-hạnh phúc.”

Chánh án Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ Hugo Black (1886-1971) đã nói, “Chỉ có một nền báo chí tự do không bị áp chế thì mới vạch trần hữu hiệu những thủ đoạn lừa bịp của chính phủ. Trong nhiều trách nhiệm của báo chí, quan trọng nhất là phòng chống bất cứ một bộ phận nào thuộc chính phủ lừa dối nhân dân…”

Nếu Hoàng Hữu Lượng biết chuyện hai nhà báo Mỹ Bob Woodward và Carl Bernstein của tờ Washington Post đã làm cho Tổng Thống Richard M. Nixon phải rời Bạch Ốc trước nhiệm kỳ, thì đã chẳng nói năng kiểu “ếch ngồi đáy giếng” kiểu này! Và hơn nữa, con ếch này lại muốn to bằng con bò cơ!

Con Cái Thời Nay

Con Cái Thời Nay

Huy Phương

Xem tin tức ở Việt Nam chúng ta thường nghĩ đến lúc đạo lý đã suy đồi. Thời gian qua, số vụ án con cái giết cha mẹ đang có chiều hướng gia tăng. Trên báo chí, không thiếu tin tường thuật những vụ án mạng tàn bạo do những đứa con bất hiếu thẳng tay đâm chém cha mẹ dù chỉ với những bất bình nhỏ.

Nếu kể chuyện nghịch nữ hoặc nghịch tử ở Việt Nam, hẳn phải mất hàng nghìn trang giấy: Tơ Đênh Triệu (Quảng Nam) say rượu giết cha. Đặng Hùng Phương (Vĩnh Long) giết cha rồi đem lên Sài Gòn phi tang. Trần Văn Kiệt (Tây Ninh) đâm cha sau một lần cãi vã. Lê Văn Lực (Thanh Hóa) chỉ vì lời mắng “đồ ăn hại” đã đoạt mạng cha mình. Nguyễn Xuân Hậu (Lào Cai) chỉ vì bị la không chịu lo sửa soạn Tết đã đâm chết cha. Nguyễn Khả Đ. (Rạch Giá) giết mẹ rồi giấu xác trong lu nước. Nguyễn Thị Phin (Tây Ninh) giết mẹ chiều 30 Tết để lấy tiền, vàng. Nông Văn Thùy (Bắc Giang) xin tiền không được, đã vung chày sát hại mẹ. Bùi Minh Đạt (Hà Nội) vì mâu thuẫn đất đai, đã dùng dao chém nhiều nhát vào cổ, đầu, tay mẹ khiến nạn nhân tử vong tại chỗ. Lê Văn Phước (Đồng Nai) trong lúc tắm rửa, vệ sinh cho người mẹ 82 tuổi bị tai biến, đã liên tục chửi bới và đánh đập khiến bà cụ tử vong…

Chúng ta những người Việt đang sinh sống ngoài Việt Nam, ở Hoa Kỳ hay các nước khác thường cho là mình may mắn không phải sống ở cái đất nước đạo lý suy đồi, luân thường bại hoại. Nước Mỹ có 320 triệu dân, nửa năm chưa xảy ra một vụ án mạng con giết cha mẹ, đất nước Việt Nam chỉ có 90 triệu dân, tuần nào cũng có chuyện cha mẹ bị con đâm chém. Nhưng như thế có phải cha mẹ người Việt sống ở Mỹ, đời sống được bảo vệ và có hạnh phúc hơn không? Sở dĩ chúng tôi trình bày như vậy, vì giữa văn hóa Việt và Mỹ có những phần khác biệt.

Nhà văn Lâm Ngữ Đường trong “Một Quan Niệm Về Sống Đẹp” (Nguyễn Hiến Lê dịch) đã cho rằng người cao niên ở Mỹ về già vẫn làm việc hăng hái, vì họ theo chủ nghĩa cá nhân một cách thái quá, tự đắc, muốn độc lập, cho sự nhờ vả con cái là tủi nhục. Trong các quyền của công dân không có cái quyền của cha mẹ được con cái phụng dưỡng. Tại phương Tây, ông già bà lão không muốn xen vào đời sống của con, lánh mặt trong một nơi nào đó, tự lo cho cái ăn ngủ của mình. Người Trung Hoa (và người Á Đông?) không có cái quan niệm cá nhân độc lập, mà cho rằng những người trong gia đình có bổn phận giúp nhau, nếu về già mà phải nhờ cậy con, có điều chi mà xấu hổ!

Bản năng của muôn loài là thương yêu và bảo vệ con. Con gà mẹ dùng đôi cánh che chở cho bầy gà con trước sự hung hiểm của diều hâu. Con chim bay xa tha mồi về mớm cho con non nớt yếu đuối bên bờ tổ. Hung dữ như cọp beo cũng không có loài nào ăn thịt con. Nhưng muôn loài cũng không có cái cảnh nào có đàn con đi kiếm thức ăn cho những người sinh nở ra chúng lúc họ về già, không còn khả năng săn nhặt, nằm chờ chết trong hang ổ. Nhà văn Lâm Ngữ Đường cho rằng, “Người nào cũng yêu con, nhưng người có văn hóa mới biết thương yêu cha mẹ!”

Ở Mỹ, trong giờ hành chánh mà một đứa con lang thang ngoài đường, thì cảnh sát lập tức kết tội cha mẹ của chúng, nhưng một cụ già bị bỏ ngoài đường thì người ta tìm đến sở xã hội, liệu có ai truy tìm và lên án những đứa con.

Chúng ta phải chờ vài ba thế hệ nữa may ra, chứ hiện nay, các bậc cha mẹ người Việt ở Mỹ, tâm lý vẫn chưa sẵn sàng, còn cảm thấy tổn thương và đau khổ, than trách khi bị con cái đẩy ra khỏi nhà. Những vị cao niên Mỹ không ai than phiền vì con cái không quan tâm hay “bỏ rơi” mình. Đối với họ, con trên 18 tuổi đã ra khỏi gia đình, vì muốn cho con tự lập, có khi muốn con đi học xa, thăm hỏi, quan tâm là điều tốt, nhưng cha mẹ không bao giờ kỳ vọng nơi con cái khi mình về già, trông đợi sự giúp đỡ của con. Cha mẹ và con cái từ đây hết còn bổn phận với nhau. Do đó, họ chuẩn bị để dành tiền, đầu tư, mua bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm “sức khỏe lâu dài,” chuẩn bị “hậu sự” cho mình.

Như vậy các bậc cha mẹ này không còn cảm thấy đau khổ vì những lý do về con cái.

Trái lại người Việt hay Á Đông luôn cho rằng trong trăm nết thì chữ hiếu đứng đầu (Bách hạnh hiếu vi tiên). Theo Phật Giáo thì “tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật.” Khi thấy con cái đối xử với mình tệ bạc thì đem lòng ai oán, nhất là vào buổi giao thời, vẫn thường so sánh lối sống của gia đình ngày xưa, với lối sống “Mỹ hóa” bây giờ của con cái, và cũng vì chính sự đổi thay quá nhanh chóng của con cái, sinh ra ở Mỹ, hay chịu lối sống Mỹ quá sớm, hoặc là dùng chữ gia đình “vô phước” như cách than phiền của nhiều vị.

Quí vị đã có dịp lui tới chuyện trò với các vị cao niên người Việt trong các nhà dưỡng lão, đã thường biết đến nỗi buồn của họ, không phải vì tiền, vì danh mà vì một nỗi cô đơn, chỉ vì con cái không ngó ngàng đến họ. Khi tôi muốn kể nỗi lòng của một vị cao niên buồn bã, cô đơn trong một nhà dưỡng lão, trên trang báo, thì ông cụ chấp tay vái tôi, “Thôi xin ông, con tôi mà biết tôi kể lể với ông thì chúng hành tôi đến chết mất!”

– Một gia đình, khi người cha qua đời, những đứa con thấy mẹ thui thủi một mình, khuyên mẹ bán ngôi nhà rồi về ở với chúng nó. Như một trái bóng, bà bị đưa qua đưa lại giữa những đứa con, và chỗ ở cuối cùng của bà bây giờ là nhà dưỡng lão!

– Một bà cụ khi bị đưa vào bệnh viện, rồi nhà hưu dưỡng, vì lo xa, bà làm thủ tục trao cho cô con gái duy nhất, ngôi mobile home của bà, nhưng chỉ ít lâu sau, cô này bán ngôi nhà lấy tiền bỏ túi. Khi khỏe mạnh được trở về nhà, bà phải đi “share” phòng cho đến lúc qua đời.

– Một gia đình lúc người cha mất, bà mẹ vội vã sang tên ngôi nhà cho hai cô con con gái. Cô chị trả cho em một nửa số tiền để lấy hẳn ngôi nhà, và mời bà mẹ ra khỏi nhà. Lý do: Hạnh phúc gia đình của riêng cô. Người mà cô chọn là chồng, chứ không phải mẹ!

– Nếu bạn đọc thấy một người phụ nữ luống tuổi thường đi xe đạp trong khu Little Saigon, đó là người mẹ có bốn đứa con, bà đang ở nhà “share” vì không đứa con nào chịu “nuôi” mẹ.

Hầu hết những nhân vật trong câu chuyện này là quý bà, vì trong buổi giao thời này, còn mang tâm lý “nội trợ,” không biết lái xe, không biết Anh ngữ, và tình thương con cái còn nhiều như thuở còn ở Việt Nam, còn các ông thì dễ sống hơn. Mặt khác là bậc cha mẹ người Việt ở Mỹ không biết là các con đổi thay quá nhanh.

Phần đông những bậc cha mẹ ở Mỹ lâm vào cảnh ngộ trên vì có con cái sinh ra ở Mỹ hay được đem đến Mỹ quá sớm, và con cái có bằng cấp càng cao, giàu có càng nhiều thì hình như càng không nghĩ đến chuyện mình phải có bổn phận phụng dưỡng cha mẹ già. Không những phụng dưỡng cha mẹ già mà còn như lường gạt, lừa đảo các bậc sinh thành như những câu chuyện thường xảy ra trong cộng đồng Việt Nam mà chúng tôi trình bày ở trên. Cái cảnh trong gia đình nghèo, anh chị em thương nhau, con cái hiếu với cha mẹ, hình như chúng ta vẫn thường thấy trong đời. Những đứa con lớn lên ở Việt Nam, đã qua cái cảnh thiếu ăn, cha tù đày, mẹ vất vả ngược xuôi, hẳn trong lòng chúng còn một chỗ tựa cho cha mẹ.

Những câu chuyện con, dâu, con rể mời cha mẹ ra khỏi nhà không thiếu ở đây, nhan nhản, chẳng khác gì những thảm cảnh con cái giết cha mẹ ở Việt Nam. Gia đình người Việt ở Mỹ chưa thấy cảnh cha mẹ chết dưới tay con, nhưng khổ đau u sầu do con cái gây nên thì không thiếu, “Giết nhau chẳng cái Lưu Cầu, giết nhau bằng cái u sầu độc chưa?”

Cuối cùng bài học chưa thuộc của tuổi già vẫn là: “…Người hiểu đời coi việc lo liệu cho con là nghĩa vụ, là niềm vui, không mong chờ báo đáp. Chờ báo đáp là tự làm khổ mình.” (Chu Dung Cơ).

Bài học thứ hai là đừng bao giờ “dốc túi” cho con quá sớm trước khi nhắm mắt.

Thực ra, “Nuôi con mới biết lòng cha mẹ, về già mới biết lòng con cái.”

Trong chúng ta ai thực sự đã chuẩn bị cho tuổi già như người bản xứ, thôi thì trăm sự, đường cùng phải nhờ đến ông nhà nước.

Huy Phương

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Dị ứng với chữ nghĩa!

Dị ứng với chữ nghĩa!

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Tôi đồng ý với nhiều người đã cho rằng không có ngôn ngữ Việt Cộng, ngôn ngữ miền Nam mà chỉ có ngôn ngữ Việt Nam và ngôn ngữ phát triển và đa dạng hóa theo thời gian. Nhưng là một người sinh ra và lớn lên, sống ở miền Nam ít nhất là nửa thế kỷ, tôi cảm thấy hụt hẫng và cảm thấy dị ứng với thứ ngôn ngữ hôm nay, nói rõ là thứ ngôn ngữ phát sinh ra từ sau ngày đại họa, khi mà Việt Cộng cai trị toàn bộ đất nước miền Nam.

Người dân Việt Nam hiện nay dùng chữ “siêu” để thay cho chữ “rất
nhiều” hay “rất cao” như bảng quảng cáo này. (Hình: Getty Images)

Không phải dị ứng với chữ nghĩa, mà tôi còn dị ứng với giọng nói của Hà Nội bây giờ, nó khác xa với Hà Nội thanh lịch của bốn mươi năm về trước. Làm sao tôi quên được giọng nói của đài phát thanh Hà Nội, “thủ đô của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” mà mỗi tối, tôi vẫn thường phải nghe cái giọng the thé của cô xướng ngôn viên qua chiếc loa rè treo ở cái chòi gác đầu trại, những đêm rét buốt ở trong những trại tù Hoàng Liên Sơn. Giọng nói đó còn theo đuổi, ám ảnh tôi cho đến ngày hôm nay.

Từ ngày bị anh em “ngoài ta” thống trị, ngoài những tiếng “ngụy ngôn” xảo trá như cách mạng, giải phóng, học tập cải tạo, ngụy quân, ngụy quyền… chúng ta thấy cả một rừng chữ nghĩa đảo lộn trong một xã hội điên đảo. Dân Sài Gòn đã nhìn tận mắt loại chữ nghĩa quái đản, sản phẩm của chế độ mới như “xưởng đẻ,” “cửa hàng thịt phụ nữ,” “nhà đái nam, nhà đái nữ…”

Cũng không phải vì lý do chính trị mà tôi ghét nó, hoặc có định kiến, kiểu “ghét ai ghét cả tông nhân họ hàng,” nhưng tôi ghét cái thứ ngôn ngữ tùy tiện, vô nghĩa và lai căng hay bắt chước Tàu một cách hoàn toàn vô ý thức và thiếu khôn ngoan.

Trước khi đi quá xa, và để cho độc giả khỏi quên, tôi xin nói ngay vào lối nói kiểu Tàu của người trong nước bây giờ. Chúng ta vẫn nghe những tiếng lạ tai từ khi nón cối dép râu “tiến về Sài Gòn,” thứ ngôn ngữ đặc sệt Tàu, mà chúng ta chưa hề nghe, chưa biết dùng nhưng cuối cùng cũng phải dùng, phải nghe nếu không sợ bị lạc đường. Đó là những tiếng hộ khẩu, hộ lý, hải quan, xuất khẩu, trợ lý, thủ trưởng, đăng ký, đường cao tốc, vô tư, bức xúc, bảo vệ, cơ địa, xử lý, khẩn trương, triều cường, giải phóng mặt bằng, quân hàm, sư trưởng… khác xa những gì mà chúng ta đã dùng thời trước.

Cái thì quá Hán, nhưng có cái thì quá nôm na. Thủy Quân Lục Chiến thì gọi là “Lính Thủy Đánh Bộ,” Bạch Ốc là “Nhà Trắng,” trực thăng là “máy bay lên thẳng,” tài xế thì gọi là “lái xe,” đại tiện hay tiểu tiện thì gọi là “ỉa, đái”… có khi nửa nôm nửa hán như “cán bộ gái,” có khi thô bỉ như “giường cứng- giường mềm,” có lúc ngớ ngẩn và vô nghĩa như “làm gái!”

Nếu chữ nghiêm trang, nghiêm chỉnh của chúng ta để nói về một thái độ, một nhân dáng thì vì sao trong nước lại dùng chữ nghiêm túc (nghĩa của nó là đứng yên – toàn thể túc lập!) Nếu chữ “liên lạc” của chúng ta dùng trong nghĩa trao đổi, thông tin thì cũng với nghĩa đó, họ dùng chữ “liên hệ,” như trong nghĩa nó có nghĩa trói buộc với nhau như gia tộc, con cái, họ hàng. Vì chúng ta đâu cần phải “liên hệ” qua điện thoại với một công ty khi chỉ cần mua một món hàng.

Có những địa hạt, việc dùng chữ nghĩa quá tùy tiện và ngu dốt, một cách “nói chữ” như chữ “xử lý” bị lợi dụng một cách nặng nề và không cần thiết như nói “xử lý cá xong” thì đến “xử lý” rau. Thay vì nói đơn giản “một con bọ xít” thì họ nói “một cá thể bọ xít,” thay vì nói “đi dạy học tại trường X.” thì người ta nói “nhận công tác giảng dạy…”

Nói chung là người ta thích dùng “đại ngôn” cho nó oai, ra điều chữ nghĩa, như ông bà ta có câu: “dốt thì hay nói chữ,” quảng cáo cho mấy cái bồn rửa nhà cầu, người ta cũng dùng đến tiếng “hoành tráng.”

Ba chữ “dòng, luồng và chùm” bị lạm dụng và gán ép một cách ngây ngô như: – “Dòng kem dưỡng da;” – “Luồng tư duy, luồng thông tin , luồng văn hóa , khám bệnh ngoài luồng;” – “Chùm ảnh, chùm thơ…”

Trong nước bây giờ thích nói chữ, Tây hay Tàu hơn là thuần Việt: Ảnh “nude” hơn là ảnh khỏa thân , “VIP” hơn là nhân vật quan trọng , “logic” là lý luận, “tuổi teen” hơn là tuổi thiếu niên, “ô tô” thay vì xe hơi, “nội y” thay vì áo quần lót , “sở hữu” hơn là có , “khẩn trương” thay vì nhanh lên.

Nếu vì trời sương mù mà trên xa lộ nhiều chiếc xe hơi đụng nhau dây chuyền (xe nọ đụng đít xe kia) thì vì sao họ dùng chữ “đụng liên hoàn,” cho ra Tàu, trong khi chữ liên hoàn còn có nghĩa “trở lại” như thơ liên hoàn là bài thơ mà câu cuối lặp lại câu đầu tiên. Cái xe đầu tiên bị đụng không thể nào đụng lại cái xe cuối cùng trên đường!

Trong khi chúng ta dùng chữ máy thu thanh (radio) thì Cộng Sản dùng chữ “đài,” chữ này chỉ có thể dùng để chỉ nơi phát thanh, như đài phát thanh Hà Nội. Cũng với lối nói tắt này, đôi khi vô nghĩa, nhưng theo thói quen ở trong nước, người ta vẫn hiểu, như vừa “xuất viện” là mới ở bệnh viện (nhà thương) ra, “nhập viện” là vào nhà thương. Nếu nói “điện” thì phải hiểu nghĩa là điện thoại. Thu phí là thu lệ phí!

Cộng Sản lấy tên Hồ Chí Minh đặt thay cho Sài Gòn có nhiều điều bất tiện và bất kính, vì người ta không thể nói: “Tôi đi… Hồ Chí Minh,” hay “Hồ Chí Minh bây giờ nạn cướp bóc tràn lan” mà phải dùng nguyên câu “thành phố Hồ Chí Minh.” Vì cái tên quá dài, nên bây giờ người Cần Thơ đi Sài Gòn thì chỉ cần nói là “lên thành phố!” là người ta đã hiểu.

Cỡ lớn láo như Phùng Quang Thanh, lên tới đại tướng mà còn mở miệng nói, “Không phong tướng, anh em tâm tư!” thì “chị em ta” cũng có thể nói, “Chị làm em cũng tâm trạng theo chị!” hay “con ấy… cực kỳ!” Danh từ, động từ, tĩnh từ, trạng từ… cứ loạn cả lên, toàn là những thứ “lộng ngôn” và “loạn ngôn” một cách rất “bất quy tắc!”

Thời trước đi học, mà viết, làm luận văn, nói lối này thì chắc chắn là bị thầy, cô giáo sổ…toẹt! Và thời nay nếu bỏ nước ra đi khá lâu, về thăm lại quê hương nên có một người đi theo để thông dịch.

Nói chuyện chữ nghĩa thời nay, thì phải viết thành một cuốn từ điển dày nghìn trang. Tôi không có tham vọng làm một cuộc nghiên cứu hay thống kê mà chỉ ghi.. tạp một vài chuyện mua vui. Nhưng chúng ta cũng nên cẩn thận, đừng ngộ nhận, khi có những tiếng ít nghe, ít dùng, nghe chưa quen tai đã vội chụp nón cối cho nó. Có lần tôi dùng tiếng “xiển dương” trong một bài viết, đã bị một ông bạn già khiển trách “sao lại dùng chữ Việt Cộng?”

Điều đau lòng tôi muốn trình bày với độc giả hôm nay là chúng ta lệ thuộc Tàu cả nghìn năm mà còn giữ được tiếng nói, chữ viết và bản sắc dân tộc. Trong nước nô lệ Cộng Sản mới bốn mươi năm mà dễ chừng ngôn ngữ đã có những sự thay đổi, nhất là ảnh hưởng không ít với những người đã đi ra nước ngoài, đã từng là nạn nhận của Cộng Sản. Tôi đã gặp những người tù chính trị đã ở trong nhà tù tập trung năm, mười năm mà vẫn dùng những danh từ “đi học tập- cải tạo” hay “trước giải phóng- sau giải phóng” một cách không suy nghĩ, thì trách gì vợ con họ, lấy lý do vì ở với Cộng Sản một thời gian dài, nên bị “đồng hóa!”

Một chuyện khác là các cơ quan truyền thông ở hải ngoại, vẫn cho mình là có lập trường chống Cộng nhưng vẫn dùng nguyên bản những tin tức, chương trình trong nước mà không chịu bỏ thời giờ sửa đổi lại theo cách nói và cách viết truyền thống của người Việt tại miền Nam trước 1975 và kể cả tại miền Bắc trước năm 1954.

Có khi vì thiếu vốn, lười biếng hay thỏa hiệp, truyền thông hải ngoại đem luôn cả chương trình làm sẵn, các cuốn phim của các nhà sản xuất hay đài truyền hình Việt Nam chiếu trong chương trình hằng ngày. Do vậy, tuy trên đài truyền hình không có cờ đỏ sao vàng, có chân dung lãnh tụ cộng sản, nhưng ngôn ngữ, hình ảnh, và chương trình từ giải trí đến thời trang, thi hoa hậu, đố vui, thực chất là những đài truyền hình Cộng Sản được soạn ra công phu để dành làm quà cho hải ngoại.

Người ta đã nói đến chuyện con ếch được luộc chín từ từ trong nước lạnh, hay chiến thuật vết dầu loang. Dần đà, chúng ta sẽ nghe quen tai, nhìn quen mắt và bị “luộc” lúc nào không hay.

Và những con người vốn chân chất, thật thà, tin người, chỉ thấy cái lợi trước mắt và cho cá nhân mình, không cảnh giác sẽ còn thua… nữa!