Mục sư Rick Warren và sự Nhập cuộc của tín đồ tôn giáo.

Mục sư Rick Warren và sự Nhập cuộc của tín đồ tôn giáo.

Bài của  :  Đoàn Thanh Liêm

Tại nước Mỹ kể từ sau khi thế chiến thứ hai chấm dứt, thì có nhiều vị mục sư nổi danh với ảnh hưởng rất lớn lôi cuốn được số đông quần chúng khắp nước Mỹ và cả ở ngoại quốc nữa. Trong số này, phải kể đến mục sư Billy Graham, mục sư Martin Luther King và mục sư Rick Warren.

Billy Graham sinh năm 1918 là một vị giảng thuyết lôi cuốn đến hàng trăm triệu người khắp nước Mỹ và cả trên thế giới. Luther King là vị lãnh đạo kiệt xuất của phong trào tranh đấu dân quyền  (civil rights movement) của người Mỹ gốc Phi châu trong các thập niên 1950-60. Rick Warren là một tác giả cuốn sách “The Purpose Driven Life” (Cuộc sống có mục đích) bán chạy nhất, đến trên 30 triệu cuốn trong vòng có 6-7 năm.

Trong bài này, tôi xin viết về mục sư Rick Warren là người trẻ tuổi nhất, sinh năm 1954 tại San Jose và là người sáng lập nhà thờ Saddleback Valley Community Church tọa lạc tại thành phố Lake Forest trong Quận Cam, miền Nam California liền sát với khu Little Saigon của người Việt chúng ta. Trong bài sau, tôi sẽ viết riêng về mục sư Billy Graham. Còn về mục sư Luther King, thì đã có quá nhiều người biết đến rồi, nên tôi thiết nghĩ khỏi cần viết gì thêm về ông nữa.

1 / Tóm lược tiểu sử của Rick Warren.

Rick Warren là con của một vị mục sư và chính bản thân ông cũng đã hiến dâng trọn cuộc đời mình cho việc rao giảng Tin Mừng của Chúa Cứu thế theo truyền thống của phái Tin Lành Southern Baptist. Ông tốt nghiệp bậc cử nhân tại California Baptist University ở Riverside, bậc cao học về Thần học tại Southwestern Baptist Theological Seminary ở Fort Worth, Texas và bậc tiến sĩ về mục vụ tại Fuller Theological Seminary ở Pasadena, California.

Ông thừa nhận mục sư Billy Graham, giáo sư Peter Drucker và mục sư Jimmy Warren người cha của ông là những vị trong số những cố vấn đáng tin cậy nhất của mình (mentor).

Năm 1975, sau khi được truyền chức mục sư, Rick Warren làm lễ thành hôn với Kay Lewis sinh trưởng ở San Diego trong một gia đình có người cha cũng là một vị mục sư. Hai ông bà có 3 người con hiện đều đã trưởng thành và 4 cháu nội ngoại. Cả hai người cùng hợp tác trong việc truyền đạo và phát triển cộng đoàn tín hữu từ con số vài trăm người lúc mới thành lập tại Saddeback trong thành phố Lake Forest vào năm 1980 lên đến con số trên 20,000 tín hữu vào năm 2005. Với số tín đồ thường xuyên tham dự thánh lễ và các sinh họat rất đa dạng hàng tuần đông đảo như vậy, Saddleback Valley Community Church đã trở thành một “Megachurch” đứng hàng thứ 8 trong số trên 1,200 “đại giáo đoàn” của toàn nước Mỹ hiện nay. Megachurch là một hiện tượng tiêu biểu cho phong trào phát triển tôn giáo rất mạnh mẽ, lôi cuốn được hàng triệu tín đồ của các giáo hội Tin lành trong vòng 50 năm qua tại nước Mỹ và cả tại Đại Hàn.

Song song với việc phát triển cơ sở mục vụ này, Rick còn đóng góp rất tích cực vào việc đào tạo, hướng dẫn cho trên 400,000 mục sư và giới chức lãnh đạo hội thánh trên toàn thế giới, dựa theo tinh thần đã được phác họa trong cuốn sách xuất bản lần đầu năm 1995, được bán rất chạy, với nhan đề là “The Purpose Driven Church”.

Rick Warren lại còn nổi danh hơn nữa với cuốn sách được xếp vào loại bán chạy nhất (bestseller), mà hiện đã lên đến 30 triệu cuốn, đó là cuốn sách có nhan đề “The Purpose Driven Life”. Người viết sẽ giới thiệu chi tiết hơn về hai cuốn sách này trong một dịp khác.

Với số lợi tức thu nhập thật lớn lao do việc bán sách, vào năm 2005 Rick Warren đã hoàn lại cho nhà thờ toàn bộ số lương bổng  ông nhận được trong 25 năm với cương vị một mục sư. Và còn hơn thế nữa, ông tiếp tục đóng góp cho nhà thờ 90% số lợi tức thâu nhập của mình, thay vì số 10% mà người tín đồ thường đóng góp vào công quỹ của hội thánh, được gọi là “tithe” (thập phân).Và ông bà tiếp tục sống thanh đạm trong căn nhà nhỏ bé, với cái xe cũ kỹ, chứ không hề có một biểu hiện xa hoa nào của một gia đình triệu phú thường tình.

Nhưng điều đáng ghi nhận hơn cả về vị mục sư danh tiếng này, chính là việc ông đã tổ chức cho các tín đồ và các bạn hữu thân tín của mình tham gia dấn thân nhập cuộc với các dự án hết sức lớn lao về xã hội, y tế, giáo dục và phát triển có tầm vóc toàn cầu. Ta sẽ xem xét công việc này trong các mục tiếp theo đây.

2 / Sự gắn bó với Phi châu : Khởi sự ở Rwanda.

Sau mấy năm chuẩn bị, Rick Warren đã bắt đầu một loạt chương trình hành động của “đại giáo đoàn Saddenback” được mệnh danh là PEACE plan tại nước Rwanda là nơi có cuộc diệt chủng kinh hoàng vào năm 1994, tàn sát đến gấn một triệu sinh mạng trong một quốc gia với dân số chỉ có 9 triệu người. Chữ PEACE này ngoài ý nghĩa là Hòa bình, lại chính là chữ viết tắt của khẩu hiệu gồm 5 mục : Promote Reconciliation, Equip servant-leaders, Assist the poor, Care for the sick, Educate the next generation (Phát triển công cuộc Hòa giải, Trang bị cho người lãnh đạo-phục vụ, Giúp đỡ người nghèo khó, Chăm sóc người bệnh tật, Giáo dục thế hệ tương lai).

Vào năm 2005, tức là 11 năm sau vụ diệt chủng, Rwanda vẫn còn là một quốc gia vào loại nghèo nhất trên thế giới với 90% dân chúng có thu nhập chưa tới 2 dollars mỗi ngày. Ngay từ lúc đặt chân tới đây, Warren liền phát động ngay một chương trình hành động cấp thời gồm nhiều phương diện y tế, xã hội, giáo dục và nhất là cả kinh tế. Ông dẫn các giám đốc xí nghiệp, các doanh gia từ trong số các thành viên của cộng đoàn Saddenback đến tiếp súc và làm việc với giới doanh nghiệp và nhân viên chánh phủ Rwanda để tìm cách xây dựng nền kinh tế của xứ sở này. Họ chú trọng vào công việc đào tạo huấn luyện cho các nhà doanh nghiệp nhỏ tại các làng quê hẻo lánh, cho đến cả việc yểm trợ các dự án xây dựng hạ tầng cơ sở rất lớn lên đến nhiều triệu dollar. Điển hình như  dự án xây dựng đường sắt dài 720 miles nối liền Rwanda với Tanzania và Burundi, chi phí lên đến 2.5 tỷ mỹ kim vừa do 3 nước đó ký kết vào tháng Tư năm 2009.

Rick Warren rõ ràng là có tầm nhìn xa và có uy tín để kết hợp được cả giới lãnh đạo chánh quyền, giới doanh nghiệp tư nhân, cũng như giới lãnh đạo tôn giáo ở hạ tầng cơ sở tại những xóm làng hẻo lành, để cùng nhau thực hiện được rất nhiều dự án cụ thể về y tế đại chúng, từ việc lo chăm sóc cho hàng vạn người mắc bệnh HIV/AIDS, cho bao nhiêu trẻ mồ côi cha mẹ đã chết vì căn bệnh hiểm nghèo này, cho đến việc cấp vốn cho các gia đình nghèo túng để giúp họ phương tiện tự lực mưu sinh, để khỏi phải lệ thuộc mãi vào sự bố thí của người khác.

Phái đòan do Rick Warren hướng dẫn đã được chính Tổng thống Rwanda là Paul Kagame và tòan thể chánh phủ tín nhiệm và hợp tác rất chặt chẽ; nhờ vậy mà sau mấy năm làm việc chung với nhau, thì quốc gia này đã gặt hái được những thành quả rất đáng khích lệ về nhiều mặt kinh tế, xã hội cũng như văn hóa, ngọai giao.

3 / Quần chúng tín đồ các tôn giáo là một nguồn tiềm năng vô biên.

Trong nhiều dịp được mời tham gia các diễn đàn quốc tế như ở New York, Washington DC, ở Davos Thụy sĩ v.v…, Rick Warren đã luôn luôn trình bày rất thẳng thắn đại để như thế này :  “Trên thế giới ngày nay, chúng ta có đến trên 2 tỷ người tín đồ Thiên chúa giáo gồm Công giáo, Tin lành, Chính thống giáo, trên 1.5 tỷ người tín đồ Ấn độ giáo và Phật giáo và trên 1 tỷ người tín đồ Hồi giáo. Khối quần chúng tín đồ lớn lao như thế đó là một nguồn tài nguyên vô biên, mà cho đến nay chưa được mấy ai trong các tổ chức quốc tế chú trọng đúng mức để động viên thuyết phục họ cùng bắt tay dấn thân vào việc giải quyết những khó khăn bế tắc trầm trọng có tầm vóc tòan cầu. Riêng cá nhân tôi là một mục sư Thiên chúa giáo, thì với khả năng hạn hẹp của mình, tôi đã cùng với các tín đồ của nhà thờ Saddenback phát động kế hoạch PEACE để góp phần vào công cuộc phục vụ bà con đang gặp khó khăn ở nhiều nơi, cụ thể như ở Rwanda. Và tôi cũng ước mong quý vị tất cả nên chú ý đến cái khối tiềm năng vĩ đại này, hầu đề ra được những giải pháp tốt đẹp cho thế giới chúng ta đang gặp bao nhiêu bế tắc khủng hỏang ngày nay…”

Dịp khác, ông còn gợi ra hình ảnh tôn giáo là cái chân thứ ba để cùng hợp với khu vực nhà nước và khu vực tư nhân để tạo được thế đứng vững chắc cho tòan bộ chiếc ghế của thế giới ngày nay. Với uy tín sẵn có, Warren có dịp thường xuyên trao đổi và hợp tác với các nhân vật có tầm vóc họat động rộng rãi tòan cầu, điển hình như cựu Tổng thống Bill Clinton, cựu Thủ tướng Tony Blair …

Trong mùa tranh cử Tổng thống Mỹ năm 2008, Warren đã mời được cả hai ứng cử viên John McCain và Barak Obama cùng đến Saddenback để trình bày với cử tri về lập trường của mỗi người trước những vấn đề hệ trọng của đất nước. Và mục sư Warren lại còn được mời đọc lời kinh cầu nguyện trong buổi lễ nhậm chức của Tổng thống Obama tại thủ đô Washington vào đầu năm 2009.

Tạp chí US News and World Report xếp hạng Rick Warren là một trong “25 vị lãnh đạo hàng đầu của nước Mỹ” vào năm 2005. Tạp chí Time thì gọi ông là một trong “15 nhà lãnh đạo thế giới đáng kể nhất trong năm 2004” và cũng là một trong “100 nhân vật có ảnh hưởng nhất trên thế giới” vào năm 2005. Còn báo Newsweek trong năm 2006, thì gọi ông là một trong “15 nhân vật đã làm cho nước Mỹ trở thành vĩ đại”.

Tuy được tung hô khen tặng như vậy, Warren vẫn luôn giữ được sự khiêm cung đạo hạnh của một tu sĩ. Ông thường xuyên cầu nguyện và bày tỏ sự tin tưởng tuyệt đối vào sự dẫn dắt của Thiên chúa trên bước đường phục vụ tha nhân. Niềm xác tín và lòng nhiệt thành của ông đối với sứ mệnh rao giảng lời Chúa như vậy đã lôi cuốn, thuyết phục được hàng triệu tín đồ cũng như các mục sư khác cùng nhau dấn thân nhập cuộc vào những chương trình cụ thể, thiết thực nhằm chống lại nạn nghèo đói và bệnh tật, mở mang về giáo dục cho lớp người bị gạt ra ngòai lề xã hội và bảo vệ môi sinh trên phạm vi tòan cầu.

Tư tưởng cũng như hành động của mục sư Rick Warren quả thật là rất gần gũi với lập trường của Hội đồng Giám mục Công giáo Châu Mỹ La tinh (CELAM) đã được xác định từ lâu, đó là “Sự Chọn lựa của Giáo hội đối với Người Nghèo khổ” ( Church’s Option for the Poor) vậy./

California đầu tháng Mười 2010

Đòan Thanh Liêm

Richard Holbrooke (1941 – 2010) * nhà ngọai giao lỗi lạc & nhà báo tài năng*

Richard   Holbrooke (1941 – 2010)

* nhà ngọai giao lỗi lạc & nhà báo tài năng*

Bài viết của Đoàn Thanh Liêm

Nhân đọc sách :

* The  Unquiet  American

Richard Holbrooke in the world

Edited by :  Derek Chollet & Samantha Power

Published by : Public Affairs, New York 2011

(Sách nguyên tác tiếng Anh dày 383 trang, bìa cứng)

Có bản E Book : www.publicaffairsbooks .com

*     *     *

Richard Holbrooke là một nhân vật kiệt xuất trong nền ngọai giao hiện đại của nước Mỹ. Ông còn là một nhà báo ngọai hạng được sự mến chuộng và tin tưởng của giới truyền thông báo chí. Không may, ông mất sớm vào cuối năm 2010, khi mới có 69 tuổi đang lúc còn làm việc trong chính quyền của Tổng thống Barack Obama. Bao nhiêu nhân vật lãnh đạo trong chính giới của Mỹ và của nhiều quốc gia trên thế giới đã bày tỏ lòng thương tiếc trước sự ra đi của một chính khách lỗi lạc này.

Riêng đối với số đông người tỵ nạn từ Đông Dương, thì Richard Holbrooke có thể coi như là một vị ân nhân thật đáng quý – bởi lý do ông là một người đã tận tình tranh đấu thuyết phục được Quốc Hội Mỹ chấp thuận cho nhập cư vào nước Mỹ mỗi năm 144,000 người chạy thóat khỏi chế độ độc tài cộng sản sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Ngay sau khi ông mất, các bạn hữu thân quen đã hợp lại với nhau để cùng viết về những kỷ niệm sâu sắc với ông và cuốn sách được thành hình do sự biên tập chu đáo của hai nhà báo tên tuổi là Derek Chollet và Samantha Power.

Cuốn sách được xuất bản vào cuối năm 2011 với nhan đề chính là : ” The Unquiet American “ (Người Mỹ Không Thầm Lặng). Đó là do dụng ý của các tác giả khiến chúng ta nhớ đến cuốn sách có tên tương tự là : “The Quiet American” (Người Mỹ Thầm Lặng) của nhà văn nổi tiếng người Anh là Graham Greene – được xuất bản hồi giữa thập niên 1950 và đã hai lần được xây dựng thành phim vào năm 1958 và 2002 – (bản tiếng Pháp có nhan đề là : “Un Américain bien tranquille” được nhiều bà con ở Việt nam biết đến)

Trước khi giới thiệu chi tiết về cuốn sách, xin mời bạn đọc xem qua về tiểu sử của Richard Holbrooke.

I – Sơ lược về tiểu sử của Richard Holbrooke.

Sinh trưởng năm 1941 tại New York trong một gia đình mà cha mẹ có nguồn gốc Do Thái di cừ từ nước Nga sau cuộc cách mạng Bolshevik, Richard Holbrooke sớm có năng khiếu về ngành báo chí và bang giao quốc tế. Cha ông là một bác sĩ, nhưng không may bị mất sớm lúc Richard mới có 15 tuổi. Nhưng theo ý nguyện của cha, cậu đã siêng năng học tập và được học bổng để theo học tại Đại học danh tiếng Brown và đã sớm tham gia cộng tác với tờ nhật báo của Đại học này; đó là một tờ báo mà ít có một đại học nào có thể duy trì nổi.

Từ hồi còn theo bậc trung học, Richard kết thân với David Rusk là con của vị Giáo sư nổi danh Dean Rusk – mà sau này là Bộ trưởng Ngọai giao dưới thời các vị Tổng thống Kennedy và Johnson. Gia nhập ngành ngọai giao, Richard Holbrooke được bổ nhiệm tới làm việc ở Việt nam vào tháng 6 năm 1963, chỉ vài tuần sau cuộc tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức ở Saigon. Các bạn đồng sự với Richard ở Việt nam vào thập niên 1960 như Tony Lake, John Negroponte v.v… mà nhiều giới chức Việt nam hay có dịp gặp gỡ tiếp súc – thì sau này đều trở thành những nhân vật quan trọng trong chức vụ Cố vấn An ninh bên cạnh Tổng thống hay Đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quóc.

Là chuyên viên có tài năng và nhiều kinh nghiệm, Richard Holbrooke đã  gặt hái được nhiều thành tích đáng kể trong lãnh vực ngọai giao dưới thời các vị Tổng thống thuộc Đảng Dân chủ – cụ thể như là Phụ tá Ngọai trưởng đặc trách về Á châu dưới thời Tổng thống Jimmy Carter, rồi làm Đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc dưới thời Tổng thống Bill Clinton. Richard Holbrooke đặc biệt nổi danh và được nhiều người đánh giá cao trong công cuộc giàn xếp ổn thỏa cho vụ tranh chấp đẫm máu tại Bosnia thuộc Liên bang Nam Tư cũ – mà cụ thể là Thỏa ước Hòa bình được ký kết giữa các bên lâm chiến tại thành phố Dayton trong tiểu bang Ohio vào năm 1995 (Dayton Peace Agreement). Sau này, ông đã viết cuốn Hồi ký về chuyện này với nhan đề : “To End a War”, cuốn sách đã trở thành một thứ sách bán chạy nhất (bestseller).

Ông cũng còn là một nhà báo có tên tuổi với nhiều bài viết được đăng tải trên các tờ báo và tạp chí nổi tiếng như New York Times, Washington Post v.v… Đặc biệt ông còn làm Chủ bút trong nhiều năm cho tạp chí Foreign Policy (từ 1972 đến 1977). Cuốn sách khác ông viết chung với một người khác với nhan đề “Counsel to the President” cũng là một bestseller nữa.

Trong lãnh vực kinh doanh, Richard Holbrooke cũng giữ vai trò điều hành cho hai cơ sở tài chính quan trọng là Crédit Suisse First Boston và Lehman Brothers. Lọai công việc trong ngành tài chính ngân hàng này đã đem lại cho ông một nguồn lợi tức đáng kể.

Trong lãnh vực từ thiện nhân đạo cũng như văn hóa xã hội, ông cũng tham gia tích cực với các tổ chức có quy mô họat động rộng lớn điển hình như Global Business Coaliton nhằm chống lại bệnh HIV/AIDS hay viện Hàn Lâm Mỹ tại Berlin là một trung tâm trao đổi văn hóa giữa hai dân tộc Mỹ – Đức.

Về cuộc sống riêng tư gia đình, Richard Holbrooke có hai bà vợ trước đã ly dị – và người vợ sau cùng của ông là Kati Marton cũng là một nhà báo và tác giả nổi danh xuất thân từ một gia đình tỵ nạn cộng sản vào giữa thập niên 1950 từ nước Hungary ở khu vực Trung Âu.

II – Giới thiệu tổng quát về cuốn sách.

A – Điểm qua về một số tác giả có bài đóng góp (Contributors)

Cuốn sách được phân bố trong 12 chương với tất cả là 12 tác giả viết bài đóng góp trong mỗi chương đều có tiêu đề riêng. Và trong mỗi chương đều có kèm theo nhiều bài báo của chính Richard Holbrooke viết trước đây trong thời gian gần 50 năm họat động sôi nổi trong nhiều lãnh vực đa dạng của ông.

Xin kê ra một số tác giả là những nhà báo và tác giả nổi danh :

* Trước hết là chính phu nhân Kati Marton đã viết bài Giới thiệu cho cuốn sách. Bà là tác giả của 7 cuốn sách, trong đó cuốn mới nhất có nhan đề là : “Enemies of the People” được đánh giá cao mà người viết đã có dịp giới thiệu vào năm 2011. Bà làm việc lâu năm cho hãng Truyền hình ABC News, National Public Radio và hiện là Giám đốc Ũy Ban Bảo Vệ Ký Giả. Người chồng trước của bà là Peter Jennings cũng là một nhà hướng dẫn chương trình thật tài ba và duyên dáng của hệ thống truyền hình ABC trong nhiều năm trước đây nữa.

* Hai Biên tập viên  (Editors) : Derek Chollet và Samantha Power thì cũng đều là những nhà báo cộng tác với các tờ Washington Post, Financial Times, The New Yorker, The New Republic. Riêng Samantha Power còn được giải thưởng Pulitzer vì cuốn sách “A Problem from Hell : America in the Age of Genocide”. Còn Derek Chollet thì là tác giả cuốn sách “ The Road to Dayton Accords : A Study of American Statecraft”. Ông cũng là người sọan diễn văn cho Richard Holbrooke khi ông này làm Đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc nữa

* Strobe Talbott là Thứ trưởng Ngọai giao trong Nội các của Tổng thống Bill Clinton. Hiện ông là Chủ tịch của \Brookings Institution một thứ Think Tank danh tiếng của nước Mỹ.

* Jonathan Alter : Là nhà bỉnh bút cho Bloomberg View và có thời đã từng làm ký giả Phân tích Thời sự (Analyst) cho hệ thống Truyền hình NBC.

* Gordon Goldstein : Từng viết cho các báo NY Times, Washington Post, Newsweek và là tác giả cuốn sách nổi tiếng : “McGeorge Bundy & the Path to War in Vietnam”.

B – Liệt kê một sô chương đáng chú ý.

Nói chung, thì cuốn sách do những nhà báo có tên tuổi viết – mà tất cả lại đều có sự quý trọng, thông cảm và quen biết lâu năm với Richard Holbrooke – nên bài nào, chương nào cũng đem lại những mới lạ thích thú cho người đọc. Quả thật Holbrooke là một viên chức lỗi lạc đã có những đóng góp thật quý báu cho nền ngọai giao của nước Mỹ trong gần nửa thế kỷ gần đây.

* Riêng đối với người Việt chúng ta, thì nên chú ý đến hai chương III và IV có tiêu đề như sau :

Chương III :” Richard Holbrooke and the Vietnam War : Past and Prologue” do Gordon Goldstein viết trải dài trong 20 trang từ trang 76 đến 95, kèm thêm 5 bài viết của chính Holbrooke từ năm 1969 đến năm 2008 (trang 96 – 113).

Chương IV : “ Asia in the Carter Years” trong đó có bài “Restoring America’s Role in Asia” do Richard Bernstein viết trải dài từ trang (116 đến 131) – kèm theo 4 bài do chính Holbrooke viết từ 1975 đến 2008 (trang 132 – 161).

* Ngòai ra, thì cũng nên chú ý đến các chương V, VI, VII, VIII và IX nói về các đề tài :

Chương V : Europe in the Clinton Years

Chương VI : Bosnia & Dayton

Chương VII : The United Nations

Chương VIII : Fighting HIV/AIDS

Chương IX : Afghanistan & Pakistan

III – Để tóm lược lại.

A – Cuốn sách chứa đựng rất nhiều thông tin vừa chính xác, vừa sinh động về cuộc đời và sự nghiệp của một nhân vật kiệt xuất trong ngành ngọai giao và truyền thông báo chí tại nước Mỹ trong vòng gần nửa thế kỷ gần đây. Đúng như tác giả Strobe Talbott đã viết trong bài đầu với nhan đề :” Thinker, Doer, Mentor, Friend”, quả thật Richard Holbrooke  là một con người có sự suy nghĩ chín chắn vững vàng, mà cũng là một người hành động khôn ngoan cương quyết. Ông cũng là một người cố vấn, hướng dẫn tận tình cho lớp đàn em đặc biệt trong ngành truyền thông báo chí, mà Richard cũng còn là một người bạn thân tình ngay thẳng chân thật. Ít có viên chức cao cấp nào trong chính phủ Hoa kỳ mà lại có được cảm tình quý mến sâu đậm của nhiều người trên khắp thế giới như là Richard Holbrooke.

B – Ngay từ thời còn theo học ở Đại học Brown, lúc mới ở tuổi 18 – 19, Richard đã biết tìm đến phỏng vấn lãnh tụ Alexander Kerensky năm 1959 ở San Francisco, ông này lúc đó đã 78 tuổi. Kerensky là lãnh tụ đầu tiên của nước Nga sau khi chế độ Sa Hòang bị lật đổ năm 1917 và chính ông đã phải sớm đào thóat khỏi chế độ Bolshevik y hệt như người cha của Richard vậy.

Năm 1960, Richard còn được tờ nhật báo của Đại học Brown cử đi Paris để theo dõi Phiên họp Thượng đỉnh Eisenhower với Khrushev, nhưng phiên họp bị bãi bỏ vì Khrushev viện cớ Mỹ cho phi cơ U-2 do Francis Gary Powers lái để do thám Liên Xô mà bị bắn hạ trên đất Nga. Nhờ nói thông thạo tiếng Pháp, nên Holbrooke dễ thành công trong công tác ngọai giao sau này ở Việt nam cũng như ở Âu châu.

C – Nhân tiện, cũng xin ghi chi tiết hơn về việc Holbrooke tranh đấu vận động với Quốc Hội Mỹ chấp thuận cho nhập cư mỗi năm 144,000 dân tỵ nạn từ Đông Dương. Tại trang 130 trong sách, nhà báo Richard Bernstein có tường thuật lại chứng từ của John Negroponte rằng : “Dick Holbrooke có chỉ thị cho ông phải tìm cách thuyết phục Quốc Hội Mỹ chấp thuận nhận cho nhập cư mỗi tháng 12,000 dân tỵ nạn từ Đông Dương – như vậy mỗi năm tổng cộng là 144,000 người…” Lúc đó là vào năm 1978, Holbrooke đang là Phụ tá ngọai trưởng đặc trách về Á châu trong chính phủ Carter, nên ông đã tận tình lo lắng cho số phận người tỵ nạn chúng ta.  Dù nay ông đã quy tiên, tôi cũng xin được thay mặt cho các đồng bào tỵ nạn để bày tỏ lòng biết ơn sâu xa và chân thành đối với vị ân nhân đáng quý này vậy./

San Clemente California, Tháng Hai 2013

Đoàn Thanh Liêm

Tôn giáo và Xã hội Dân sự (III)

Tôn  giáo  và  Xã  hội  Dân  sự (III)

Lọat bài nhiều kỳ

Đòan Thanh Liêm

Bài 3 – Tôn giáo và Xã hội Dân sự Tòan cầu.

(Religion and the Global Civil Society)

Trong bài viết từ năm 2009 với nhan đề “ Sơ lược về Xã hội Dân sự Tòan cầu”, tôi đã có dịp trình bày về những nét chính yếu của một thực thể văn hóa xã hội đang mỗi ngày một thêm phát triển trong thế giới ngày nay với khuynh hướng tòan cầu hóa về nhiều phương diện, đặc biệt là về mặt khoa học kỹ thuật, về kinh tế chính trị, cũng như về văn hóa xã hội, và nhất là về sự bùng nổ thông tin qua kỹ thuật của mạng lưới tòan cầu internet vào những năm đầu của thế kỷ XXI hiện nay.

Trong bài viết này, tôi muốn được trình bày rõ ràng chi tiết hơn về các mặt sinh họat của Tôn giáo trên bình diện địa lý trải rộng khắp mọi vùng của thế giới nhân sinh, cũng như trên phương diện quy mô những vấn đề hệ trọng có liên hệ mật thiết đến sự sống còn của tòan thể các dân tộc hiện đang sinh sống trên hành tinh trái đất này.

Để độc giả dễ bề theo dõi câu chuyện, tôi xin được nhắc lại một cách hết sức vắn tắt về vài ba điều cốt yếu đã được đề cập đến trong các bài trước thuộc về chủ đề Xã hội Dân sự, mà có liên quan chặt chẽ đến sinh họat của càc tổ chức thuộc bất kỳ niềm tin tôn giáo nào. Tiếp theo, ta sẽ nêu ra những đường hướng phát triển sinh họat tôn giáo trong bối cảnh chung của xã hội đang trên đà tòan cầu hóa hiện nay vào đầu thế kỷ XXI.

A –  Tôn giáo phát triển cùng nhịp với Xã hội Dân sự.

1 – Trước hết, tôn giáo là một thành phần quan trọng nằm trong khu vực Xã hội Dân sự, với tính chất “ phi chính phủ “ (non- governmental NGO) và “bất vụ lợi” (non-profit), tức là nằm ngòai khu vực chính quyền Nhà nước, mà cũng khác biệt với khu vực Thị trường của các công ty xí nghiệp là những cơ sở kinh doanh chỉ nhằm mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận (for profit). Bình thường XHDS, cũng như Thị trường kinh doanh sinh họat trong khuôn khổ của một quốc gia, và chịu sự chi phối của luật pháp trong quốc gia đó. Trong nhiều quốc gia hiện nay, điển hình như ở Mỹ, ở Ấn độ, thì đã có đến hàng triệu những tổ chức NGO và nhiều triệu những nhóm nhỏ (small groups) mà lại có những họat động tại nhiều nơi trên trường quốc tế, chứ không phải chỉ giới hạn trong phạm vi nhỏ bé của riêng nước mình. Lại nữa, nhiều tổ chức nhỏ như Phong trào Bảo vệ Môi sinh (Green Peace), tổ chức Minh bạch Quốc tê (Transparency International), Ân xá Quốc tế (Amnesty International) v.v…, thì lại có họat động trên phạm vi tòan cầu, mặc dầu ngân sách và nhân sự của họ rất là eo hẹp hạn chế.

2 – Nhưng với sự phát triển của những công ty đa quốc gia (multi-national corporations), những định chế kinh tế tài chính đồ sộ như Ngân Hàng Thế giới (World Bank WB), Quỹ Tiền tệ Thế giới  (International Monetary Funds IMF)…, thì trên thế giới ngày nay đang trổi lên một thực thể kinh tế đồ sộ được gọi là nền kinh tế tòan cầu (the Global Economy).

Rồi đến tổ chức Liên Hiệp Quốc tuy chưa phải là một thứ “Chính phủ Tòan cầu” với thẩm quyền bao trùm trên mọi quốc gia thành viên, thì đó cũng là một Diễn Đàn, một Cơ cấu chính trị có tính cách tòan cầu nhằm giải quyết những tranh chấp mâu thuẫn giữa các quốc gia, cũng như tăng cường sự hợp tác phát triển và tình liên đới huynh đệ giữa mọi thành viên trong cộng đồng quốc tế.

Và cũng trong chiều hướng phát triển tương tự như thế, mà ta có thể nói rằng hiện đang có một thực thể văn hóa xã hội bao quát trong thế giới hiện đại được gọi là “Xã hội Dân sự Tòan cầu” (the Global Civil Society).

3 – Nhờ sự giao thông di chuyển mau lẹ, cũng như thông tin liên lạc dễ dàng, và nhất là phong trào di dân từ nước này qua nước khác mỗi ngày một thêm phát triển, các tôn giáo đã thiết lập được cả một hệ thống những tổ chức họat động riêng biệt của mình vượt ra ngòai mọi biên giới quốc gia, qua các nhà dòng thừa sai hay do các cơ sở văn hóa xã hội, từ thiện nhân đạo. Hiện tượng phổ biến này không phải là đặc trưng duy nhất xưa nay của Thiên chúa giáo từ các quốc gia Âu Mỹ, mà còn được thấy trong mọi tôn giáo, cụ thể như với phong trào phát triển Hồi giáo rất mạnh mẽ khắp nơi từ hơn nửa thế kỷ nay, hoặc sự phổ biến tại các nước Âu Mỹ của các trung tâm về thiền học xuất phát từ Á châu, của đạo Hindu xuất phát từ tiểu lục địa Ấn độ, của đạo Bahai’ xuất phát từ Ba Tư v.v…

Thành ra tình trạng đa dạng và đa nguyên về Tôn giáo (religious diversity/pluralism) mỗi ngày càng thêm khởi sắc tại nhiều quốc gia tiến bộ trên thế giới ngày nay. Và hậu quả là nhân lọai đang có một tinh thần bao dung về phương diện tôn giáo (religious tolerance) được cổ võ khích lệ ở mức độ cao nhất trong lịch sử các dân tộc từ xưa tới nay. Đó quả là một bước tiến bộ rất đáng lạc quan cho lòai người sau bao nhiêu thế kỷ tranh chấp đẫm máu tàn bạo vì lý do mâu thuẫn tôn giáo.

B – Tôn giáo ngày nay lại có thêm nhiều điều kiện     thuận lợi hơn để phục vụ con người và xã hội.

1 – Một số nhân vật điển hình nổi bật vì những họat động từ thiện nhân đạo và tranh đấu bảo vệ nhân phẩm và nhân quyền, cũng như góp phần vào công cuộc xây dựng hòa bình trên thế giới.

Trước khi phân tích về cơ cấu tổ chức và lề lối điều hành của các chương trình hành động xã hội dựa vào niềm tin tôn giáo ( Faith-based Social Action Program), ta có thể liệt kê ra một số nhân vật tôn giáo xuất chúng với những họat động được cả thế giới biết đến và cảm phục, cụ thể như sau đây :

a/ Mục sư Albert Schweitzer với bệnh viện chăm sóc cho người nghèo túng ở vùng rừng rậm trong xứ Gabon ở Phi châu. Ông sinh trưởng tại vùng Alsace, mà vừa là nhà thần học, nhạc sĩ và bác sĩ y khoa, ông có liên hệ bà con với thân mẫu của triết gia Jean Paul Sartre. Sự hy sinh kiên trì của ông trong việc chăm sóc cho các bệnh nhân ở Phi châu đã được thế giới đánh giá rất cao, và ông đã được cấp phát giải thưởng Nobel Hòa bình vào năm 1952.

b/ Nữ tu Teresa ở Calcutta, thường được gọi là Mẹ Teresa (Mother Teresa) là người xứ Albania mà qua phục vụ những người khốn cùng nhất trong khu vực Calcutta thuộc tiểu lục địa Ấn độ. Cả thế giới khâm phục sự hy sinh của bà cũng như của các chị em nữ tu Bác ái do bà điều khiển để tận tình chăm sóc cho những người tuyệt vọng vì bệnh họan, đói khát cận kề với cái chết. Chính cái cung cách chăm lo trìu mến chân thành như thế đối với lớp người cùng đinh mạt hạng trong xã hội Ấn độ đã làm cho tòan thế giới cảm kích mến chuộng và Chánh phủ Na Uy đã cấp phát cho Mẹ Teresa giải thưởng Nobel Hòa bình vào năm 1979, và chánh phủ Ấn độ cũng đã cấp phát quy chế công dân danh dự cho bà.

c/ Giám mục Desmond Tutu tại Nam Phi là một trong những người nổi tiếng trên thế giới vì đã tận lực tranh đấu chống nạn kỳ thị chủng tộc Apartheid ở Nam Phi và ông đã được vinh danh với giải thưởng Nobel Hòa bình vào năm 1984, cùng với nhiều giải thưởng cao quý khác trên thế giới. Ông cũng được Tổng thống Nelson Mandela mời chủ tọa Ủy Ban Sự Thật và Hòa Giải ở Nam Phi vào cuối thập niên 1990, nhằm hàn gắn những hận thù sâu đậm nặng nề giữa các sắc dân da trắng và da màu do chế độ kỳ thị tàn ác lâu đời Apartheid gây ra.

d/ Mục sư Martin Luther King ở Mỹ là một kiện tướng lãnh đạo phong trào tranh đấu dân quyền của lớp người da màu chống lại nạn kỳ thị tàn bạo, dày xéo nhân phẩm lâu đời đối với người Mỹ gốc Phi châu tại các tiểu bang thuộc khu vực miền Nam. Việc tranh đấu bất bạo động mà rất mực kiên quyết của ông đã được tòan thể người da màu hưởng ứng, và gây được sự ngưỡng mộ và thiện cảm của khắp thế giới, ông được tôn vinh với giải thưởng Nobel Hòa bình năm 1964. Nhưng tiếc thay, vào năm 1968, ông lại bị một kẻ cuồng tín sát hại.

e/ Mục sư Rick Warren tại Saddleback Valley Community Church trong Quận Cam, California được tạp chí Time xếp vào danh sách “15 nhà lãnh đạo thế giới đáng kể nhất trong năm 2004”. Ông là tác giả của cuốn sách bestseller, bán được trên 30 triệu cuốn  trong vòng có 6 – 7 năm. Cộng đòan tín hữu xung quanh ông hiện đã lên đến con số trên 25,000 người, được xếp hàng thứ 8 trong số trên 1,200 Megachurch (Đại giáo đòan) tại Mỹ. Megachurch này đặc biệt đang góp phần cộng tác với chánh phủ và nhân dân Rwanda trong việc thực hiện một chương trình xây dựng và phát triển kinh tế xã hội và nhân đạo rất lớn lao tại xứ sở này ở Phi châu là nơi đã xảy ra vụ tàn sát diệt chủng ghê rợn vào năm 1994. Megachurch này cũng tham gia hết sức tích cực vào việc chăm sóc cho hàng chục triệu nạn nhân bệnh HIV/AIDS ở Phi châu nữa.

f/ Ông Inamullah Khan là vị sáng lập và Tổng thư ký Hội nghị Hồi giáo Thế giới (The World Muslim Congress) tại Karachi, Pakistan. Ông dành trọn cuộc đời để xây dựng hòa bình giữa người Muslim, Thiên chúa giáo và Do thái giáo. Đặc biệt, ông còn đóng vai trò chủ yếu trong việc giàn xếp chấm dứt cuộc chiến tranh giữa Iran và Irak hồi đầu thập niên 1980. Năm 1987, ông được cấp phát Giải thưởng Hòa bình Niwano của Nhật bản. Và năm 1988, ông còn được lãnh Giải thưởng Templeton ở Anh quốc vì những đóng góp cho sự Tiến bộ về Tôn giáo, giải thưởng này có giá trị hiện kim là 1,000,000 đồng bảng Anh, còn cao hơn giải Nobel Hòa bình nữa. Ông qua đời vào năm 1997 ở tuổi 85, trước sự thương tiếc của biết bao nhiêu người.

g/ Đức Dalai Lama, vị lãnh đạo tinh thần và chính trị của Tây tạng cũng đã được trao tặng giải Hòa bình Nobel năm 1989, vì luôn cổ võ giải pháp hòa bình dựa trên sự khoan dung và tương kính lẫn nhau  nhằm bảo tòan truyền thống lịch sử và văn hóa của dân tộc Tây tạng. Vị lãnh đạo này kiên quyết chống đối việc sử dụng bạo lực trong cuộc tranh đấu nhằm giải phóng cho xứ sở của ông. Ngài được người dân Tây tạng tôn kính như là Vị Phật sống vậy.

2 – Chương trình Hành động Xả hội dựa vào Niềm Tin.

Nói chung, thì tôn giáo nào cũng có ba lọai sinh họat chính yếu, đại để là : Giảng đạo- Giáo lý-Nghi lễ (Ministry), Phục vụ Xã hội (Service) và Xây dựng Hòa bình (Peacebuilding).

Vì lý do kỹ thuật quản lý điều hành, các nhiệm vụ này được phân bố cho các cơ sở khác nhau, cụ thể như cơ quan Catholic Relief Services (CRS = Cứu trợ Công giáo) thì dù do Giáo Hội Công giáo Mỹ thành lập, nhưng họat động lại tách biệt khỏi hệ thống mục vụ của giáo quyền. Cơ quan World Vision (WV) cũng vậy, đó là một tổ chức họat động rất mạnh mẽ cùng khắp thế giới, nhưng cũng không trực tiếp thống thuộc vào một thẩm quyền của một Giáo hội Tin lành nào.

a/ Sau một quá trình họat động lâu dài, các tổ chức từ thiện nhân đạo này đã rút tỉa được nhiều kinh nghiệm quý báu, để mở rộng phạm vi họat động ra nhiều lọai dịch vụ phong phú nhằm đáp ứng được nhu cầu mỗi ngày thêm phức tạp của người dân, với sự khác biệt rõ rệt về truyền thống văn hóa xã hội, cũng như tôn giáo tại các châu lục khác nhau.

Khởi đầu, đó chỉ là một chương trình cứu trợ khẩn cấp để cấp phát thực phẩm, quần áo, thuốc men cho các nạn nhân thiên tai vì động đất, bão lụt hay do chiến tranh gây ra. Nhưng lần hồi, thì các tổ chức lớn như World Vision, Catholic Relief Services… lại đã có sáng kiến thực hiện những dự án có tính cách phát triển về kinh tế kỹ thuật (economic and technical development projects) nhằm giúp người dân có thể tự túc mưu sinh một cách lâu bền được, mà không phải cứ ngửa tay đi xin viện trợ, xin của bố thí mãi. Muốn làm được như vậy, các tổ chức này phải tìm cách “liên kết” (in partnership) với các đối tác ở từng địa phương, cũng như với các cơ quan chuyên môn của Liên Hiệp Quốc như UNESCO, UNICEF, UNHCR, WHO, ILO ( Cơ quan Văn hóa, Cứu trợ Nhi đồng, Cao Ủy Tỵ nạn, Tổ chức Y tế, Văn phòng Lao Động) v.v…

b/ Một vài con số thống kê minh họa.

*Vào năm 2007, ngân sách của World Vision là 2.6 tỉ mỹ kim, với tổng số nhân viên là 40,000 người, mà trên 90% là người địa phương các quốc gia sở tại và họat động sát cánh với người dân tại trên 100 quốc gia trong cuộc tranh đấu chống lại nạn đói, sự nghèo túng, nạn bất công xã hội… Riêng tại Ấn độ, WV đã có kinh nghiệm làm việc ở đây từ trên 50 năm dàn trải khắp 26 tiểu bang của quốc gia rất đông dân này. WV còn có sáng kiến hướng dẫn cho giới nông dân ở các nước Á châu, Phi châu, châu Mỹ Latinh mở những nông trại nhỏ với những kỹ thuật đơn giản để cho họ và gia đình có thể tự túc được (small farms for self-reliance).

*Vào năm 2010, ngân sách của CRS là trên 900 triệu mỹ kim với tổng số nhân viên là trên 5,000 người và cũng họat động tại 90 quốc gia. CRS cũng đã chi ra 190 triệu mỹ kim để cứu trợ các nạn nhân nạn Sóng thần Tsunami ơ Indonesia năm 2004. CRS cũng dự trù cung ứng 200 triệu mỹ kim trong 5 năm cho các nạn nhân nạn động đất ở Haiti năm 2010.

Ngòai ra CRS lại còn thường xuyên tổ chức các khóa hội thảo quốc tế về Xây dựng Hòa bình tại các cơ sở chuyên môn như Mindanao Peace Institute ở Philippines, tại Joan B Kroc Institute for International Peace Studies tại Đại học Notre Dame ở Indiana Hoa kỳ.

c/ Họat động cứu trợ của Hồi giáo và Phật giáo.

*Từ 40 – 50 năm gần đây, với sự tăng giá của dầu hỏa, nên nhiều quốc gia Hồi giáo ổ vùng Trung Đông đã trở nên giàu có, và họ đã rộng rãi đóng góp vào việc từ thiện xã hội tại nhiều nới, nhất là đối với các đồng đạo của họ mà gặp khó khăn vì thiên tai hay do bị độc tài áp bức như ở Liên Xô thời đó. Tại nhiều nước như Ả rập Seoud chẳng hạn, chính quyền đã giúp thiết lập một cơ quan cứu trợ Hồi giáo lấy tên là “International Islamic Relief Organisation” (IIRO). Vào năm 1984, một tổ chức độc lập được thành lập và lấy tên là “Islamic Relief Worldwide” (IRW). Tổ chức IRW này được nhận vào làm thành viên của Hội Đồng Kinh tế Xã hội của Liên Hiệp Quốc, và liên kết họat động với Hội Hồng Thập tự Quốc tế và Hội Lưỡi Liềm Đỏ (Red Crescent) và  cùng chung sức với 15 thành viên liên kết khác nữa. Ngân sách của IRW vào năm 2009 được ghi là có trên 100 triệu mỹ kim.

*Về phía Phật giáo, thì chưa có những tổ chức từ thiện nào có quy mô lớn lao có thể so sánh với các tổ chức WV, CRS, IRW nói trên. Nhưng từ xưa, tại các chùa ở miền quê hẻo lánh, thì các Phật tử ở địa phương vẫn thường xuyên tổ chức việc cứu đói, cứu nạn nhân thiên tai bão lụt v.v… Gần đây báo chí có đưa tin một số chùa ở Thái Lan đã thâu nhận và săn sóc cho những người bị bệnh HIV/AIDS mà bị gia đình hay xã hội ruồng bỏ. Trên Internet, ta có thể tìm thấy thông tin về một cơ quan lấy tên là Buddhist Global Relief (BGR) mới được thành lập 4-5 năm nay, và có chương trình họat động tai Kenya, Niger, Sri Lanka, India, Cambodia, Haiti, Mỹ và Việt nam. Ngân sách của BGR năm 2009 được ghi là có trên 111,000 mỹ kim.

Cũng cần ghi thêm về Quỹ Từ Tế ( Tzu Chi Foundation – the Buddhist Compassion Relief) do Sư Bà Chứng Nghiêm (Cheng Yen) ở Đài Loan thiết lập từ năm 1966 nhằm góp phần vào các chương trình phát triển cộng đồng, đặc biệt về y tế, giáo dục và nhân bản ở Đài Loan và tại nhiều quốc gia khác. Hiện nay Quỹ đã quy tụ được 10 triệu thiện nguyện viên và yểm trợ viên tại 50 quốc gia và điều hành các chương trình cứu trợ tại trên 70 nước khắp thế giới. Tháng 4 năm 2011, tuần báo Time đã xếp tên tuổi của Sư Bà Cheng Yen vào danh sách “ 100 Nhân vật có Ảnh hưởng nhất trên thế giới”. Có người còn gọi Sư Bà là một “Mẹ Teresa ở Đài loan” nữa.

C – Để tóm lược lại.

Qua sự trình bày sơ lược trên đây, ta có thể tạm thời rút ra được một vài ghi nhận khái quát như sau :

1 – Vì giàu lòng từ bi bác ái, nên tôn giáo nào cũng dễ dàng kêu gọi các tín đồ của mình tham gia tích cực vào công việc từ thiện nhân đạo để cứu trợ người đồng lọai đang gặp cảnh khó khăn ngặt nghèo do thiên tai hay do chiến tranh tàn phá. Khi dấn thân nhập cuộc để thực hiện những công tác này, các tôn giáo đã đóng vai trò “làm đối tác” đối với chính quyền nhà nước trong sự nghiệp phục vụ quần chúng nhân dân, như đã trình bày ở bài 1 trong lọat bài này (counterpart).

2 – Nhưng lần hồi các tôn giáo đã mở rộng thêm phạm vi họat động nhân đạo sang các lãnh vực khác như phát triển kinh tế xã hội, tìm mọi cách để bảo vệ các nạn nhân của nạn buôn người, của nạn bất công đàn áp bóc lột, nạn độc tài chà đạp nhân phẩm và nhân quyền của các công dân… Ngòai ra, các tôn giáo còn đi xa hơn nữa trong lãnh vực “Làm trung gian để giàn xếp những mâu thuẫn tranh chấp ở các địa phương”, cùng tìm cách góp phần vào công việc “Xây dựng Hòa bình trên Thế giới” nữa. Để có thể thực hiện viên mãn được những công việc khó khăn phức tạp này, các tôn giáo đã bắt đầu biết cách liên kết rộng rãi với giới hàn lâm đại học (academia),với các tổ chức NGO khác, và cả với các cơ quan chuyên môn của Liên Hiệp Quốc nữa. Làm như thế, các tôn giáo đã đóng được “vai trò làm Đối trọng đối với các chính quyền nhà nước” (counterbalance) trong ý hướng bảo vệ Công lý và Hòa bình cho con người trong xã hội ngày nay vậy.

3 – Nhờ sự cộng tác chân thành và sự liên kết bền chặt với nhiều thành phần có niềm tin tôn giáo khác nhau, qua những công tác cụ thể, thiết thực nhằm phục vụ đồng lọai kém may mắn trong suốt một thời gian lâu dài như vậy, mà các tôn giáo đã tạo ra được sự thông cảm, bao dung và tương kính lẫn nhau giữa các khối đông đảo quần chúng tín đồ của mỗi tôn giáo, để cùng chung sức góp phần xây dựng được một cuộc sống an lành, hòa nhã và nhân ái cho mọi người trong xã hội ngày nay.

Dĩ nhiên là vẫn còn một số thành phần cực đoan quá khích trong hàng ngũ các tín đồ, nhưng đó chỉ là một thiểu số rất nhỏ bé mà thôi, ta không nên quá bi quan với tình trạng tiêu cực này. Đại bộ phận các tín đồ vẫn còn giữ được truyền thống đạo hạnh, lương hảo và luôn sẵn sàng liên đới chia sẻ với nỗi bất hạnh khốn khổ của người đồng lọai.

Đó mới đích thực là niềm hy vọng chứa chan cho nhân lọai chúng ta vào đầu thế kỷ XXI ngày nay vậy./

(Trong các bài kế tiếp, chúng tôi sẽ lần lượt trình bày chi tiết cụ thể hơn về tình hình sinh họat xã hội của các tôn giáo ở các địa phương, đặc biệt là ở Phi châu, Á châu và châu Mỹ Latinh, cũng như tại các quốc gia cựu-công sản ở Đông Âu nữa.)

California, Tiết Vu Lan năm Tân Mão 2011

Đòan Thanh Liêm

Tôn giáo và Xã hội Dân sự (II)

Tôn  giáo  và  Xã  hội  Dân  sự  (II)

Bài 2  – Từ Họat động Nhân đạo đến Xây dựng Hòa bình

(Trường hợp của Giáo hội Tin Lành Mennonite)

Bài của Đòan Thanh Liêm

Tin lành Mennonite là một giáo hội rất nhỏ, số tín đồ trên tòan thế giới tính ra chưa tới quá 1.5 triệu người. Số tín đồ đông nhất là ở nước Mỹ, thì cũng chỉ có trên 368,000 người. Nhưng họ lại tham gia rất tích cực trong lãnh vực từ thiện nhân đạo, cũng như trong công cuộc xây dựng hòa bình tại khắp nơi trên thế giới.

Giáo hội này đã khởi sự sinh họat tại Việt nam từ trên 50 năm nay, cả trong lãnh vực truyền đạo và họat động từ thiện nhân đạo.Trong những năm gần đây, các nhà thờ tại gia (house churches) của tín đồ Tin lành Mennonite bị chính quyền cộng sản làm khó dễ đủ điều, đặc biệt là đối với người sắc tộc theo đạo Mennonite tại các vùng rừng núi cao nguyên. Việc này đã bị dư luận quốc tế phản ứng mạnh mẽ, nên kể từ năm 2004 – 2005 trở đi, thì đã có sự nới lỏng dễ thở phần nào. Ta sẽ có dịp tìm hiểu cặn kẽ hơn về chuyện này trong khuôn khổ chính sách của chính quyền Hanoi đối với các tôn giáo ở Việt nam trong một dịp khác.

Trong bài này, người viết xin trình bày chi tiết hơn về các họat động của người Mennonite tại Mỹ, mà tôi đã có dịp gần gũi quen biết từ nhiều năm qua. Như đã ghi trên nhan đề, bài viết này sẽ lần lượt đề cập đến hai lãnh vực : Từ thiện Nhân đạo và Xây dụng Hòa bình.

I – Ủy ban Trung ương Mennonite – MCC

(Mennonite Central Committee)

Ủy Ban này là cơ quan lúc ban đầu chỉ chuyên về họat động từ thiện nhân đạo do sự phối hợp của hai giáo hội Mennonite ở Canada và Mỹ với tổng số tín đồ lên tới khỏang nửa triệu người. Nhưng sau này, thì MCC lại mở rộng phạm vi họat động thêm nữa sang lãnh vực xây dựng hòa bình, chuyển hóa tranh chấp, bênh vực công lý và nhân quyền. MCC có trụ sở chính tại thành phố Akron tiểu bang Pennsylvania, trong khu vực Lancaster gần với thủ phủ Harrisburg.

Cơ quan này khởi sự từ hồi đầu thập niên 1920 khi chế độ cộng sản bolshevik được thiết lập tại nước Nga, thì xảy ra nạn đói rất trầm trọng tại miền Ukraine vốn xưa kia nổi tiếng với “vựa lúa mì Ukraine”. Được thành lập tại Chicago vào năm 1920, lúc đầu MCC chuyên tìm cách cứu trợ những người đồng đạo Mennonite đang lâm vào cảnh đói khát tại Liên Xô trong thời kỳ nội chiến đẫm máu giữa hồng quân Liên Xô với quân bạch vệ. Chiến dịch cứu trợ này kéo dài cho đến năm 1925 với chi phí tổng cộng lên tới trên 1.2 triệu dollar theo giá trị vào thời đó. Sau đó trong thập niên 1930, MCC tập trung vào việc giúp định cư những người Mennonite tỵ nạn từ Liên Xô chạy qua các nước Brazil và Paraguay ở châu Mỹ latinh.

Trong thế chiến thứ hai 1939 – 45, MCC lo việc cứu trợ cho mọi nạn nhân chiến tranh (chứ không chỉ hạn chế cho các đồng đạo như lúc ban đầu) tại các nước Ba lan, Anh và Pháp. Và sau đó, MCC tiếp tục phát triển và tham gia vào việc cứu trợ tại nhiều nơi khác trên thế giới. Hiện nay, MCC đang họat động tại trên 50 quốc gia ở khắp 5 châu lục với tổng số nhân viên là trên 1,100 người và ngân sách hàng năm lên tới trên 70 triệu dollars.

Trong phần xác định mục tiêu họat động của mình, MCC ghi nhận ngắn gọn rõ ràng như sau : “ MCC tìm cách biểu lộ Tình yêu của Thiên Chúa bằng cách làm việc cùng với mọi người đang đau khổ vì nạn nghèo túng, vì tranh chấp, vì bị áp bức và vì là nạn nhân của thiên tai. MCC phấn đấu cho hòa bình, công lý và phẩm giá của mọi người bằng cách chia sẻ những kinh nghiệm, tài nguyên và niềm tin nơi Chùa Giêsu Kitô.”

Nhân đây, cũng cần phải phân biệt rằng họat động của MCC thì độc lập riêng biệt so với họat động truyền giáo của các nhà thờ Tin lành Mennonite, mặc dầu tất cả đều cùng theo đuổi một tôn chỉ là nhằm thể hiện tinh thần môn đệ Chúa Giêsu Cứu thế tại trần gian này.

1 / Hoạt động từ thiện nhân đạo.

MCC họat động tại rất nhiều nơi trong các chương trình cứu trợ khẩn cấp, phát triển cộng đồng, xây dựng hòa bình, điều giải tranh chấp, bênh đỡ các nạn nhân, bằng cách chi tiêu tiền mặt và cung ứng thực phẩm, thuốc men, quần áo và dụng cụ học sinh…Ngòai những cứu trợ cấp thời, MCC tập chú những cố gắng phát triển lâu bền vào các lãnh vực như y tế, giáo dục, công lý và hòa bình, và trao đổi thương mại sòng phẳng (fair trade).

Đặc biệt phải kể đến hệ thống các cửa hàng do MCC bảo trợ, có tên là “Ten Thousand Villages”, nhằm phổ biến các sản phẩm thủ công mỹ nghệ tại nhiều nơi trên thị trường Mỹ và Canada với doanh số hàng năm lên tới 5 triệu US dollars.

Riêng tại Việt nam, thì từ nhiều năm gần đây MCC vẫn có chương trình họat động thường xuyên tại nhiều địa phương trong các lãnh vực cứu trợ, phát triển cộng đồng, giáo dục, y tế, tín dụng nhỏ, cung ứng nước sạch, chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS, cấp học bổng, dậy Anh ngữ tại đại học… Ngân khỏan chi tiêu mỗi năm cho các chương trình này ở Việt nam lên đến 9 triệu dollars, với số nhân sự lên tới gần 20 người.

2 / Họat động xây dựng hòa bình.

MCC tổ chức 3 văn phòng vận động (advocacy offices) bên cạnh tổ chức Liên Hiệp Quốc và các chính quyền Canada & Mỹ. Văn phòng ở New York được gọi là  MCC United Nations Liaison Office. Văn phòng ở thủ đô của Canada có tên là MCC Canada Ottawa Office. Văn phòng ở thủ đô Mỹ có tên là MCC US Washington Office. Cả ba văn phòng này vừa làm công tác thông tin liên lạc, phối hợp họat động và vận động về đường lối chính sách theo tinh thần hòa bình, công lý bên cạnh Liên Hiệp Quốc và các chính phủ Canada và Mỹ.

Các văn phòng này tiếp nối tinh thần của các vị tiên tri như Môisen, Esther, và John the Baptist là dám đương đầu với viên chức chính quyền về những vấn đề công lý và đức tin (challenge public officials on issues of justice and faith). Đó là một hình thức làm chứng nhân và phương cách cụ thể của lòng yêu thương con người đồng lọai bên cạnh mình vậy.

Lập trường kiên quyết chống việc sử dụng bạo lực và chiến tranh để giải quyết những mối bất đồng tranh chấp trong xã hội, thì luôn luôn được người Mennonite (cũng như người Amish và người Quaker) theo đuổi từ nhiều thế kỷ nay, mặc dầu họ thường bị các chính phủ ngăn cấm và đàn áp. Từ lâu nay, họ luôn tự nhận mình là “người chống đối không tham dự chiến tranh vì lý do lương tâm ” (Conscientious Objector = CO) và cương quyết không tham gia nghĩa vụ quân sự trong thời chiến tranh, dù có bị chính quyền làm khó dễ đến mức nào đi nữa.

Vào cuối năm 2008, do sự sắp xếp của vị Đại sứ của chính quyền Hanoi cạnh Liên Hiệp Quốc, Giám đốc Văn phòng Liên lạc của MCC ở New York là Doug Hostetter đã có dịp trao đổi thân mật và thẳng thắn với phái đòan Ban Dân Vận Trung ương của Đảng Cộng sản Việtnam về sự liên hệ giữa Tôn giáo và Chính quyền nước Mỹ, dựa trên tinh thần của Khỏan 1 Bản Tu chính trong Hiến Pháp Hoa kỳ. Cụ thể là Nhà nước tách biệt với Tôn giáo, nhưng giữa hai phía lại có sự tương kính tôn trọng lẫn nhau và có sự bảo đảm về tình trạng ” tự do tín ngưỡng và đa nguyên tôn giáo”.

II – Sự kết hợp giữa Đại học và Tôn giáo.

Riêng tại nước Mỹ, Giáo hội Mennonite đã thành lập được nhiều trường đại học, điển hình như  Eastern Mennonite University (EMU) tại Harrisonburg Virginia, Fresno Pacific University (FPU) ở California, Goshen College (GC) ở Indiana… Đó là chưa kể đến một chủng viện có quy mô lớn, lấy tên là Associated Mennonite Biblical Seminary (AMBS) tại Elkhart Indiana.

Các cơ sở giáo dục này là biểu hiện của sự hợp tác chặt chẽ giữa giới hàn lâm đại học và giới họat động tôn giáo. Đặc biệt trong vài chục năm gần đây, thì tại các cơ sở đại học này, ngòai công tác thường lệ về giảng dậy đào tạo sinh viên, thì lại đã có nhiều sự nghiên cứu trao đổi, gặp gỡ quốc tế để học hỏi thảo luận về những vấn đề sinh tử của thế giới ngày nay, điển hình như : – làm sao chấm dứt hay giảm bớt được những tranh chấp căng thẳng đẫm máu vì lý do sắc tộc, tôn giáo tại các địa phương? – làm sao chấm dứt được tình trạng bất công, bóc lột, đàn áp tàn bạo nhan nhản ở khắp nơi? – làm sao hàn gắn được những hận thù đổ vỡ giữa các nhóm đối nghịch cựu thù với nhau? v.v…

Những cuộc chiến tranh tại các địa phương khắp nơi kể từ sau năm 1945, thì còn gây ra sự thiệt hại khủng khiếp về nhân mạng tổng cộng gấp mấy lần so với hai cuộc thế chiến hồi đầu thế kỷ XX. Đó là điều khiến cho các tôn giáo hiện nay rất quan tâm lo lắng và cùng tìm mọi phương cách để giảm bớt lọai tai họa này do con người gây ra (man – made disaster) ngay tại mỗi địa phương.

Cụ thể như tại đại học EMU ở Virginia, cách xa thủ đô Washington DC chừng 100 miles, thì từ trên 15 năm nay đã thiết lập một cơ sở lấy tên là “Trung tâm Công lý và Xây dựng Hòa bình (CJP = Center for Justice and Peacebuilding) trong đó ngòai việc nghiên cứu lại còn có chương trình đào tạo bậc Cao học về “Chuyển hóa Tranh chấp” ( Master of Arts in Conflict Transformation). Hiện đã có đến trên 300 sinh viên tốt nghiệp về ngành này, trong số đó có mấy sinh viên từ Việt nam được cấp học bổng sang theo học tại đây.

Trong khuôn khổ của CJP tại EMU, lại còn có Viện Xây dựng Hòa bình Mùa Hè ( Summer Peacebuilding Institute = SPI). Viện này chuyên tổ chức các khóa hội thảo học tập trong suốt mấy tháng 5 và 6 mỗi năm dành cho các tham dự viên từ khắp nơi trên thế giới quy tụ gặp gỡ nhau để cùng trao đổi kinh nghiệm với nhau về các đề tài như “Hàn gắn Chấn thương” (Trauma Healing), “Chuyển hóa Tranh chấp” (Conflict Transformation), “ Công lý phục hồi” (Restorative Justice), “Phát triển cộng đồng và phát triển quốc tế”  (Community and International Development)… Các chương trình học hỏi trao đổi này đều do các giáo sư hướng dẫn điều khiển, nên có giá trị vững chắc theo đúng tiêu chuẩn nghiêm túc của môi trường đại học.

Hiện đã có trên 2,200 tham dự viên từ 121 quốc gia trên thế giới đến sinh họat trong các mùa hè tại đây. Các tham dự viên thuộc đủ mọi nghề nghiệp khác nhau và theo khuynh hướng tôn giáo khác nhau, như Tin lành, Công giáo, Chính thống giáo, Hồi giáo, Phật giáo, Ấn độ giáo  v.v… Có người là mục sư, linh mục, nữ tu, chức sắc tôn giáo, hoặc chỉ là tín đồ bình thường. Có người là dân biểu, nghị sĩ, giáo sư, luật sư, kỹ sư, viên chức chính quyền hay là thiện nguyện viên… họat động ở những vùng xa xôi hẻo lánh.

Và hiện đã có tất cả 7 viện Xây dựng Hòa bình trong 6 quốc gia đang sinh họat theo mô hình SPI của EMU.

III – Đòan Xây dựng Hòa bình Thiên chúa giáo

(Christian Peacemaker Teams  CPT)

CPT là một tổ chức quốc tế được thành lập vào giữa thập niên 1980 nhằm yểm trợ các thiện nguyện viên họat động cho hòa bình trong các vùng có tranh chấp trên thế giới. CPT có nguồn gốc từ các nhà thờ theo chủ trương Hòa bình (Peace Churches) tại Bắc Mỹ và được sự hỗ trợ của các giáo hội Mennonite ở Mỹ và Canada và một vài giáo hội khác. Họ theo đuổi chủ trương bất bạo động trong việc góp phần hòa giải tranh chấp tại các địa phương. Hiện CPT có chừng 30 đòan viên họat động tòan thới gian cùng với trên 150 đòan viên trừ bị (reservists) tự nguyện tham gia công tác từ 2 tuần đến 2 tháng mỗi năm.

CPT đang họat động tại Colombia, Irak, West Bank (giữa Do Thái & Palestine), biên giới Mỹ- Mễ Tây Cơ, Kenora, Ontario Canada. Họ theo lý tưởng Xây dựng Hòa bình của Chúa Kitô, nhưng lại không nhằm đi truyền đạo như các vị thừa sai. Các đòan viên này là những tín hữu có niềm tin sâu sắc và kiên trì dấn thân bằng hành động cụ thể và bất bạo động theo đúng lời giảng dậy trong kinh thánh là : “Phúc thay cho những ai làm cho người hòa thuận” (Blessed are the peacemakers). Họ sinh sống và cùng làm việc với các người có thiện chí tại những vùng có tranh chấp căng thẳng,  nhằm mục đích duy nhất là tìm cách hòa giải giữa các phe đối kháng thù nghịch lẫn nhau. Vì thế mà họ gặp rất nhiều hiểm nguy đến tính mạng của bản thân mình.

Điển hình như vào cuối năm 2005, bốn thành viên họat động về nhân quyền liên kết với CPT đã bị bắt cóc ở thủ đô Baghdad của Irak, trong đó có ông Tom Fox bị hạ sát. Ông này 54 tuổi và là một vị lãnh đạo của chương trình sinh họat thanh niên tại Virginia. Và những đòan viên CPT họat động trong lãnh thổ của người Palestine tại vùng West Bank, thì nhiều khi bị thương tích do những cuộc xung đột thường xuyên giửa người định cư Do thái (settler) với người Palestine địa phương.  Cả ở Colombia, Mexico bên Nam Mỹ, thì CPT cũng thường gặp những chuyện hiểm nguy tương tự như vậy nữa.

Nói chung, thì trong mấy chục năm gần đây, các tôn giáo đã bắt đầu tham gia tích cực và cụ thể vào lãnh vực xây dựng hòa bình và bảo vệ công lý tại hạ tầng cơ sở ở các đia phương, cũng như tham gia góp phần xây dựng hòa bình trên bình diện tòan thế giới nữa. Từ vị thế làm đối tác (counterpart) với chính quyền nhà nước, thông qua những họat động từ thiện xã hội nhân đạo truyền thống, các tôn giáo đã can đảm chủ động dấn thân nhập cuộc hơn trong vai trò làm đối trọng (counterbalance) đối với chính quyền để bảo vệ người công dân trước những bất công, bóc lột đàn áp và dày xéo nhân phẩm do các thế lực chuyên chế thống trị gây ra. Những hoạt động của các tín đồ Mennonite tại Canada và Mỹ như được ghi lại vắn tắt trong bài viết này, thì đó là một minh họa rõ ràng cho chiều hướng nhập cuộc hết mình của Tôn giáo cùng với xã hội ngày nay vậy.

Trong một bài viết sau, chúng tôi sẽ trình bày về họat động của Hội đồng Giám mục Công giáo tại châu Mỹ Latinh (CELAM). Xin mời quý bạn đọc tiếp tục đón xem./

Costa Mesa, tháng 7 năm 2011

Đòan Thanh Liêm

Tôn giáo và Xã hội Dân sự (1).

Tôn  giáo  và  Xã  hội  Dân  sự (1).

Lọat bài nhiều kỳ của : Đòan Thanh Liêm

Bài I –  Mối liên hệ giữa Tôn giáo và Chính quyền Nhà nước.

Như ta đã biết : Xã hội Dân sự (XHDS) là một khu vực khác biệt với khu vực Chính quyền Nhà nước và khu vực Thị trường Kinh doanh, đó là ba khu vực cấu thành cái Không gian Xã hội do con người sống hợp quần với nhau trong xã hội mà tạo lập ra. Và càng ngày với sự tiến bộ của nền dân chủ tại khắp nơi trên thế giới, thì sinh họat của XHDS mỗi ngày càng thêm khởi sắc phong phú hơn.

Ta có thể tóm lược cái định nghĩa này về XHDS trong một phương trình đơn giản như sau :

Không gian Xã hội = Nhà nước + Kinh doanh + Xã hội Dân sự

(The Social Space = The State + The Marketplace + The Civil Society).

Khu vực XHDS bao gồm các tổ chức phi chính phủ, bất vụ lợi (non- governmental, non-profit organisations – NGO – NPO) và các nhóm nhỏ (small groups) do các cá nhân hay tập thể tự nguyện đứng ra thành lập và điều hành. Như vậy, các tổ chức nhân đạo từ thiện hay văn hóa xã hội do các tôn giáo trực tiếp đảm trách hay yểm trợ, thì đều thuộc khu vực XHDS. Vì các tổ chức này đều có tính chất bất vụ lợi, nên cũng khác biệt với các công ty xí nghiệp có tính cách vụ lợi (for profit) thuộc khu vực thị trường kinh doanh.

Cụ thể như tại nước Mỹ, thì có đến cả triệu các đơn vị NGO ( mà hầu hết được chánh quyền cấp phát cho quy chế miễn thuế) và trên 3 triệu nhóm nhỏ (không cần đăng ký để được miễn thuế). Và trong các tổ chức này, thì có đến 60% xuất phát từ các tôn giáo, mà thường được gọi là các tổ chức họat động xã hội dựa vào niềm tin tôn giáo ( Faith-based social action organisations/groups).

Trong một thể chế dân chủ đích thực, thì chánh quyền nhà nước không bao giờ lại đi can thiệp vào sinh họat riêng biệt của các tổ chức thuộc khu vực XHDS. Mà trong một số trường hợp, nhà nước lại còn cấp ngân khỏan tài chánh, và yểm trợ cho các họat động từ thiện nhân đạo hay văn hóa xã hội của XHDS nữa. Và ngân khỏan điều hành chủ yếu của các đơn vị trong khu vực XHDS là do sự đóng góp tự nguyện của các thành viên, hay do sự tài trợ của các công ty xí nghiệp kinh doanh cấp phát cho (các khỏan tài trợ này đều được khai miễn thuế – tax exempt).

Chỉ có trong một chế độ chuyên chế độc tài tòan trị (totalitarian dictatorship) như tại Trung hoa, Việt nam, Bắc Triều tiên và Cuba hiên nay, thì đảng cộng sản mới xâm nhập, lũng đọan tòan thể khu vực XHDS, cũng như khống chế cả khu vực kinh doanh kinh tế nữa. Điển hình như tại Việt nam hiện nay, thì các cơ sở ngọai vi của đảng như Mặt trận Tổ quốc, Tổng Công đòan, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đòan Thanh niên Cộng sản Hồ chí Minh, Hội Nhà văn v.v…, mặc dầu trên danh nghĩa đó là các tổ chức phi chánh phủ và bất vụ lợi, nhưng thực chất thì đều do đảng cộng sản lập ra để nắm giữ độc quyền thao túng và lũng đọan tòan bộ XHDS, nhất là để khống chế đối với các tổ chức tôn giáo.

Trong bài Dẫn nhập này, ta sẽ bàn về mối Liên hệ của Tôn giáo đối với chính quyền Nhà nước dưới các khía cạnh sau đây :

1/ Sụ tách biệt giữa Tôn giáo và Nhà nước.

(Separation of  Church and  State)

2/ Vai trò Tôn giáo làm Đối tác đối với Nhà nước (Counterpart).

3/ Vai trò Tôn giáo làm Đối trọng đối với Nhà nước

(Counterbalance)

*  Sự tách biệt giữa Tôn giáo và Nhà nước.

Từ mấy trăm năm gần đây, nhiều quốc gia trên thế giới đã xây dựng được một nền nếp sinh họat chính trị xã hội khá ổn định vững chãi, mà trong đó phải kể đến sự tách biệt rõ ràng giữa hai lãnh vực họat động của Tôn giáo và của chính quyền Nhà nước. Cụ thể là các Tôn giáo không tìm cách can thiệp, khuynh lóat hay thao túng vào công việc của cơ quan nhà nước. Và ngược lại, chính quyền Nhà nước cũng không xen vào sinh họat đạo đức tâm linh của các tổ chức tôn giáo.

Phạm vi họat động của một nhà nước thế tục càng ngày càng được quy định rõ rệt và chi tiết về nhiều phương diện chính trị, kinh tế xã hội cũng như văn hóa. Và dù có sự khác biệt tại một số quốc gia do ảnh hưởng của truyền thống lịch sử để lại, thì chiều hướng chung hiện nay trên thế giới vẫn là : lãnh vực thần quyền của tôn giáo không được lấn át hay đồng hóa vào trong lãnh vực thế tục của nhà nước; mà trái lại hai bên đều có sự tương kính và tương trợ lẫn nhau trong ý hướng cùng chung phục vụ quần chúng nhân dân. Đó là điều ta sẽ thảo luận chi tiết hơn trong hai mục tiếp theo sau đây.

** Vai trò Tôn giáo làm Đối tác với Nhà nước.

Chính quyền Nhà nước dù có thiện chí đến mấy đi nữa, thì cũng không thể chăm sóc đày đủ cho người dân về mọi phương diện vật chất cũng như tinh thần được, nhất là khi gặp thiên tai bão lụt, động đất, hay khi có chiến tranh tàn phá. Do đó mà cần phải có sự hợp tác của các tổ chức từ thiện nhân đạo của tư nhân, đặc biệt là của các tổ chức xã hội của Tôn giáo, để cùng chung sức góp phần vào việc phục vụ các nạn nhân, các bệnh nhân ngặt nghèo như bệnh phong cùi, bệnh HIV/AID, và tầng lớp quần chúng kém may mắn nhất của xã hội như trẻ mồ côi, góa phụ, người già neo đơn v.v… Về giáo dục, y tế cũng vậy, các trường công cũng như các bệnh viện công lập của nhà nước không thể thỏa mãn được nhu cầu của số quá đông các học sinh hay bệnh nhân, do đó mà cần phải để cho các tổ chức tư nhân cũng như các tôn giáo tham gia vào lãnh vực y tế giáo dục này.

Chỉ có trong chế độ độc tài cộng sản, thì nhà nước mới giữ độc quyền, không hề để cho các tổ chức tư nhân được tham gia vào việc phục vụ xã hội, như ta thấy ở Việt nam từ khi có chế độ cộng sản đến nay.

Tại các quốc gia dân chủ, không những tôn giáo được quyền tham gia vào các họat động xã hội, mà lại còn được nhà nước khuyến khích hỗ trợ để tôn giáo có thể phục vụ người dân một cách thỏa đáng hơn nữa. Cụ thể như ở nước Pháp, thì nhà nước thường trợ cấp và dành nhiều thuận lợi cho những cơ sở xã hội từ thiện nào mà được công nhận là có ích lợi công cộng, thí dụ như Hội Hồng Thập Tự, Hội Hướng Đạo, Hội Bác Ái Vincent de Paul v.v… (organisation reconnue d’utilité publique). Vì có sự hợp tác cụ thể và thường xuyên như vậy, nên đã phát sinh ra sự hiểu biết thông cảm và thân thiện giữa các viên chức cán bộ cùa Nhà nước với các tu sĩ và tín đồ của các tôn giáo. Và từ đó mà lần hồi tránh bớt được những ngộ nhận, thành kiến, ác cảm đối nghịch thường có giữa hai phía Nhà nước và Tôn giáo.

Triết gia người Pháp nổi danh là Jacques Maritain từ hồi giữa thế kỷ XX đã nhận định rằng tại nước Mỹ thì từ lâu đã có “ sự  phân biệt sắc nét và sự hợp tác thực tế ” giữa tôn giáo và nhà nước (sharp distinction and actual cooperation), mà ông gọi đó là một “kho báu lịch sử” rất đáng trân trọng cần phải được duy trì và phát triển thêm lên mãi (an historical treasure).  Và mới đây, vào đầu thế kỷ XXI Tổng thống Nicolas Sarkozy của Pháp cũng kêu gọi phải phát triển cái “tinh thần thế tục tích cực” (a positive laicité) với thái độ cởi mở hơn đối với tôn giáo.

*** Vai trò Tôn giáo làm Đối trọng đối với Nhà nước.

Chính quyền nào thì cũng dễ có khuynh hướng lạm quyền và vượt quyền, khiến gây ra những sự bất công áp bức đối với người dân. Vì thế mà tại các nước dân chủ, người ta mới phải áp dụng các phương thức gọi là “ kiểm soát và cân bằng” (checks and balance), nhằm ngăn chặn những vi phạm sai trái của cơ quan thi hành luật pháp mà thường gây ra thiệt hại cho dân chúng. Giới truyền thông báo chí, các tổ chức bênh vực nhân quyền, các đại diện dân cử do người dân bàu ra… đều có trách nhiệm đóng vai trò cảnh giác và ngăn chặn đối với những vi phạm này của nhân viên chính quyền.

Vì đi sâu đi sát với quần chúng nhân dân, nên Tôn giáo dễ phát hiện ra được những sự bóc lột bất công áp bức trong xã hội, và do đó cũng phải có trách nhiệm tham gia vào việc bảo vệ người dân bằng cách làm áp lực bắt buộc chính quyền phải sửa sai chấn chỉnh lại cái lề lối cai trị của mình, phải bài trừ nạn sa đọa quan liêu tham nhũng của nhân viên cán bộ nhà nước. Muốn làm được như vậy, thì giới tu sĩ và các tín đồ phải có lòng ngay thẳng và sự dũng cảm để dấn thân nhập cuộc cùng với tầng lớp sĩ phu trí thức, với giới văn nghệ sĩ – là những thành phần ưu tú của Xã hội Dân sự – trong sự nghiệp tranh đấu chung cho công bằng xã hội, cho nhân phẩm và nhân quyền của tòan thể cộng đồng dân tộc.

Thái độ im lặng, thụ động buông xuôi trước những bất công áp bức đày rẫy trong xã hội thì rõ ràng đó là sự lẩn tránh trách nhiệm, là cái tội đồng lõa với giới cầm quyền thống trị ác nhân ác đức. Đó là điều mà người chính nhân trượng phu quân tử, cũng như giới lãnh đạo tinh thần đích thực nơi các tôn giáo, thì không bao giờ lại có thể mắc phải được. Dân gian ta vẫn thường nói là : “ Anh hùng thấy sự bất bình chẳng tha”. Đó là sự nhắc nhở đề cao tán dương cái hành động cao quý của người có nghĩa khí hào hiệp, biết xả thân ra tay bênh vực cứu vớt những nạn nhân khốn khổ trước sự lộng hành của bọn côn đồ ác ôn thường hãm hại đàn áp dân lành vậy.

Nói vắn tắt lại, muốn làm tròn nghĩa vụ làm Đối trọng đối với chính quyền Nhà nước, thì giới lãnh đạo Tôn giáo cần phải có sự hợp tác chặt chẽ với giới Hàn lâm Đại học (Academy), vì giới này có sự hiểu biết bao quát và chính xác về tình hình xã hội, họ có tầm nhìn xa, có viễn kiến sâu rộng (global thinking / global vision). Họ có Trí tuệ thông suốt, mà Tôn giáo thì có cái tấm lòng từ bi nhân hậu, có sự hy sinh nhẫn nại kiên trì. Cho nên nếu kết hợp được cái Tâm và cái Trí như vậy, thì nhất định việc xây dựng và phát triển xã hội có cơ may thành công tốt đẹp, đáp ứng được niềm mong ước chính đáng của đại đa số quần chúng trong xã hội ngày nay vậy.

Nhân đây, cũng cần phải xác định cho rõ rằng : Xã hội Dân sự cũng như Tôn giáo, thì không bao giờ lại nhằm vào việc đánh đổ hay thay thế chính quyền Nhà nước. Mà XHDS chỉ nhằm hợp tác với Nhà nước để cùng chung nhau phục vụ dân tộc một cách có hiệu quả tối ưu mà thôi.

Trên đây là mấy suy nghĩ hết sức đại cương tóm lược về sự dấn thân nhập cuộc của Tôn giáo trong hòan cảnh xã hội đương thời, nhằm sát cánh chung với các thành phần khác của Xã hội Dân sự trong sự nghiệp xây dựng một xã hội tiến bộ, công bằng và nhân ái tại mỗi một địa phương quốc gia.

Trong các bài kế tiếp, chúng tôi sẽ xin trình bày chi tiết hơn về kinh nghiệm họat động cụ thể và suy nghĩ đúc kết của một số tổ chức tôn giáo điển hình có danh tiếng trên thế giới, và đặc biệt tại riêng một số quốc gia ở Á châu, Phi châu và châu Mỹ La tinh.

Xin quý độc giả đón coi tiếp theo vậy nhé./

California, Tháng Năm 2011

Đòan Thanh Liêm

Ý hướng Xây Đời Mới

 

Ý  hướng  Xây  Đời  Mới

Trong Chương Trình Phát Triển Quận 6, 7, 8 Saigon (1965 – 1971)

Hồi tưởng của Đoàn Thanh Liêm

*     *     *

Vào khỏang tháng 6 năm 1965, một số thanh niên chúng tôi đang ở lứa tuổi 25 – 30 cùng hội họp bàn thảo với nhau liên tục trong nhiều ngày và cuối cùng chúng tôi đã đúc kết cuộc thảo luận thành một tài liệu lấy tên là Dự Án về một chương trình họat động xã hội, tài liệu này dài chừng 30 trang có nhan đề là :

“Phong Trào Xây Đời Mới

Chương Trình Phát triển Quận 8 Saigon”

Bản Dự Án này liền được đệ trình lên văn phòng của vị Chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung ương (tức là Thủ tướng Chính phủ) lúc đó do Tướng Nguyễn Cao Kỳ đảm trách.

Sau khi xem xét ít lâu, Tướng Kỳ đồng ý chấp thuận trên nguyên tắc mấy đề nghị của chúng tôi và chỉ thị cho Bô Thanh niên và Tòa Đô chính Saigon cùng đứng ra bảo trợ cho công việc thực hiện Chương Trình Phát Triển này.

Thế là vào khỏang trung tuần tháng 8 năm 1965 đó, anh em thiện nguyện chúng tôi bắt đầu cùng “xuất quân” xuống quận 8 là một địa phương tương đối nghèo túng và kém mở mang nhất tại Saigon thời ấy.

Sau một năm họat động, chương trình này đã mở rộng phạm vị họat động sang hai quận lân cận là quận 6 và quận 7. Và trong suốt 6 năm hăng say họat động (1965 – 1971), chương trình đã thực hiện được một số công trình xây dựng cụ thể đem lại sự thay đổi cải tiến rõ rệt trong nếp sống vật chất và tinh thần của người dân trong cả ba quận ở về phía Tây Nam thành phố Saigon.

Trong mấy năm gần đây, tôi đã có dịp tường thuật chi tiết về chương trình xây dựng này trong nhiều bài viết, nên trong bài này tôi khỏi cần nhắc lại những điều đã ghi ra trước đây nữa. Mà tôi chỉ xin nhắc lại cho rõ hơn về cái ý hướng tích cực góp phần vào công cuộc xây dựng Đời Sống Mới của lớp thanh niên thiện nguyện chúng tôi vào cái thời kỳ đất nước mình còn đang sôi động với cuộc chiến tranh tàn khốc cách nay đã gần 50 năm. Xin thật ngắn gọn trong vài mục như sau :

I – Không phải “Phong trào Xây Đời Mới” – mà là “Kế Hoạch Xây Đời Mới”

Mặc dầu như đã ghi ở trên, bản Dự Án đệ trình lên văn phòng Thủ tướng có viết rõ là “Phong trào Xây Đời Mới” như là một tổ chức thực hiện “Chương trình Phát triển Quận 8” – thì đến khi tra tay vào giai đọan hành động cụ thể tại địa phương, anh em chúng tôi lại không bao giờ nhắc đến danh xưng “Phong trào Xây Đời Mới” nữa.

Lý do là vì các anh em trong ban điều hành cho rằng danh xưng “Phong trào Xây Đời Mới” này dễ gây hiểu lầm nơi nhiều người coi như đây là một thứ tổ chức chính trị – chứ không phải là một chương trình thuần túy họat động xã hội nữa. Vì thế mà mọi họat động của nhóm anh em thiện nguyện chúng tôi – ngay kể từ lúc khởi đầu vào tháng 8 năm 1965 – thì đều được đặt trong khuôn khổ của một chương trình phát triển cộng đồng tại địa phương quận 8 mà thôi. Và chỉ sau một thời gian ngắn, qua những việc làm cụ thể có ích lợi rõ rệt cho đồng bào địa phương, thì chương trình đã bắt đầu tạo ra được sự tin tưởng của số đông người dân – để rồi từ đó mà tiến lên thêm bước nữa với những công tác có quy mô lớn lao rộng rãi hơn mãi.

Vì thế mà qua năm 1966, khi được phép mở rộng phạm vi họat động sang các quận 6 và 7, thì cơ cấu tổ chức cũng phải được nới rộng ra. Cụ thể là, ngòai Chương trình Phát triển Quận 8 rồi, thì lại có thêm hai đơn vị nữa, đó là : Chương trình Phát triển Quận 6 và Chương trình Phát triển Quận 7. Và ở trên cả ba Chương trình này là một cơ quan để phối hợp điều khiển – được anh em cho khai sinh dưới cái tên chính thức là: “Kế Hoạch Xây Đời Mới”.

Qua danh hiệu Kế hoạch Xây Đời Mới này, ta có thể thấy ngay được cái ý hướng Xây Đời Mới vẫn được duy trì như từ lúc ban đầu. Tức là mọi họat động nhằm cải thiện về gia cư, chỉnh trang các ngõ hẻm, đặt hệ thống thóat nước cho đến việc mở mang thêm trường học, tổ chức các lớp dậy nghề, chăm sóc về y tế vệ sinh công cộng v.v…- thì tất cả những công tác đó đều nhằm mục tiêu duy nhất là : Góp phần xây dựng cuộc sống mới tại địa phương sao cho mỗi ngày một thêm tốt đẹp, thoải mái tươi vui hơn mà thôi.

II – Vai trò làm “chất men, chất xúc tác” nhằm khơi động quần chúng tham gia vào công cuộc xây dựng ở địa phương.

Vì chủ trương theo đuổi công cuộc phát triển lâu bền tại hạ tầng cơ sở ở địa phương (at the grassroots), nên anh em chúng tôi phải kiên trì bám sát địa bàn họat động qua những cuộc tiếp súc tham khảo thường ngày với các vị thân hào nhân sĩ là những nhân vật có uy tín đối với đồng bào trong khu vực. Các vị này thường là giới giáo chức, giới tu sĩ của các tôn giáo, giới công tư chức đã về hưu và cả giới tiểu thương tiểu chủ của các cơ sở kinh doanh nhỏ v.v… Qua những cuộc tham khảo bàn luận với quý vị tôn trưởng như vậy, chúng tôi lần hồi mới đề ra được những công tác có ích lợi cụ thể thiết thực  để mời gọi bà con trong cộng đồng cùng ra tay chung sức với nhau – người góp công, kẻ góp của – mà thực hiện cho có kết quả tốt đẹp, đem lại sự cải tiến cho môi trường sinh họat của địa phương sở tại.

Làm việc sát cánh với bà con trong các xóm hẻm trong thời gian lâu dài, chúng tôi nhận ra được là nơi đâu, lúc nào thì cũng đều có những người có tấm lòng tốt luôn quan tâm đến việc giúp đỡ những người kém may mắn hơn mình – cũng như lưu tâm đến sự an vui của tập thể dân chúng ở địa phương nơi gia đình mình cùng sinh sống. Những người có thiện chí như thế chính là những nhân tố thiết yếu cho sự thay đổi của xã hội (essential agent for social change). Họ khôn ngoan tìm cách khuyến dụ lôi kéo thêm những bà con khác cùng tham gia vào công việc đem lại ích lợi chung cho cả tập thể cộng đồng. Và chỉ khi nào mà số đông bà con ở địa phương cảm nhận được cái nhu cầu cần phải cải thiện xã hội như thế nào đó (felt need), thì chính khối quần chúng nhân dân đông đảo đó họ mới hăng hái đem hết công sức ra mà thực hiện những công việc có ích lợi chung cho tòan thể cộng đồng.

Như vậy, vai trò chính yếu của mỗi thanh niên thiện nguyện chúng tôi là làm chất men, chất xúc tác (catalyst) được vùi trong môi trường quần chúng nhân dân – nhằm khơi động mọi người ý thức được cái nhu cầu cải tiến xã hội – và rồi tiếp theo là họ sẽ nhập cuộc tham gia vào công việc xây dựng cộng đồng cho thêm phần tốt đẹp hơn. Một anh bạn khi đến thăm và thấy công chuyện chúng tôi làm ở quận 8, thì anh đã phát biểu như thế này: “Các bạn đích thực là những người đang khơi động công trình phát triển cộng đồng ở địa phương này đấy” (nguyên văn tiếng Pháp :  Animateurs de développement communautaire).

Nói khác đi, điều chúng tôi thực hiện lúc đó, thì chính là khai mở ra cái quá trình gây lên men, gây ý thức và vận động quần chúng dấn thân tham gia vào công cuộc phát triển tòan diện ngay tại địa phương sở tại (mass fermentation, mass conscientisation, mass mobilization).

Linh mục Bernard Pineau có lần nói với tôi như sau : “ Luật sư Trần Văn Tuyên trong dịp gặp gỡ gần đây, có trao đổi với tôi về chuyện công tác xã hội các em đang làm ở Quận 8 – thì cả hai chúng tôi đều coi đó là một việc làm thật sự có ích. Rõ ràng đây là một thứ “micro-réalisation” (nguyên văn) rất thích hợp trong hòan cảnh chiến tranh hiện nay…”

III – Một số công trình xây dựng điển hình với giá trị lâu bền.

Trong những năm tháng họat động hăng say nhiệt thành sát cánh với bà con tại địa phương các quận 6,7 và 8 Saigon thời ấy, chương trình đã thực hiện được hàng mấy trăm những công trình xây dựng lớn nhỏ trong các lãnh vực chỉnh trang tái thiết gia cư, cải thiện hạ tầng cơ sở nơi các khu ổ chuột (slum areas), mở mang thêm trường học, tổ chức các lớp dậy nghề v.v… Anh chị em thiện nguyện viên phải chia nhau đến tham dự các phiên họp của ủy ban công tác nơi các xóm hẻm – hầu hết là hội họp vào ban đêm hay các ngày nghỉ thứ bảy, chủ nhật – vì chỉ lúc đó bà con mới có thời gian rảnh rỗi để tham gia sinh họat cộng đồng, sau khi đã làm xong công việc buôn bán hay ở sở làm.

Xin đơn cử một số công trình xây dựng điển hình mà hiện vẫn còn có giá trị thiết thực ở địa phương như sau.

1 – Trường Trung học Lương Văn Can khởi sự từ năm 1966 tại Quận 8.

Trường này được thành lập do sự vận động của số đông thân hào nhân sĩ trong quận 8 và được Bộ Giáo dục chấp thuận cho họat động với điều kiện địa phương phải lo xây dựng sao cho đày đủ cơ sở vật chất và trang bị bàn ghế cho các lớp học – trong khi Bộ cử giáo sư về lo việc giảng dậy. Như thế, đây là một thứ trường công lập để học sinh khỏi phải đóng học phí – nhờ vậy mà con em các gia đình nghèo túng ở địa phương mới có cơ hội học tiếp lên bậc trung học.

Vì thế mà ban đầu, trường có tên là “Trung học Cộng đồng Quận 8” – đây là lọai trường trung học đầu tiên ở miền Nam mà do người dân địa phương đứng ra xây dựng và thành lập, rồi được Bộ Giáo dục chấp thuận và cử thày giáo đến chăm lo phụ trách việc dậy dỗ. Sau này, trường đổi tên là “Trung học Lương Văn Can” và hiện vẫn còn họat động cho đến ngày nay. Và sau 47 năm họat động, thì tính ra đã có đến hàng vạn học sinh đã hòan tất chương trình học tập tại cơ sở này, và nhiều cựu học sinh Lương Văn Can nay đã trở thành ông nội, bà ngọai với tuổi đời trên dưới 60 nữa rồi.

2 – Cây cầu “Phát Triển” ngang qua rạch Ụ Cây, sau chợ Xóm Củi.

Rạch Ụ Cây là một con rạch nhỏ bề ngang chừng 40 mét, ngăn cách khu vực Xóm Đầm thuộc phường Hưng Phú với phường Xóm Củi là nơi thị tứ sầm uất nhất ở quận 8. Hằng ngày, có đến hàng ngàn người dân ở Xóm Đầm phải băng qua con rạch này để đến mua bán ở chợ Xóm Củi và học sinh thì qua học tại trường Tiểu học Xóm Củi. Mà họ phải trả tiền cho người chủ con đò nổi trên con rạch – chủ đò mỗi năm phải đấu thầu nơi Sở Tài chính của đô thành Saigon để được độc quyền khai thác dịch vụ chuyên chở ngang qua con rạch. Có gia đình vì nhu cầu mua bán ở chợ và con cái đi học, thì phải trả rất nhiều tiền cho việc đi qua con đò nổi này. Vì thế mà bà con bày tỏ sự mong ước có được một cây cầu bác ngang qua con rạch để vừa đi lại cho an tòan, thuận tiện, mà cũng vừa đỡ tốn tiền nữa.

Về phương diện kỹ thuật, việc xây cất một cây cầu nho nhỏ với bề rộng cỡ 2 mét và chiều dài chừng 50 – 60 mét, thì tương đối không phải là chuyện quá khó khăn. Nhưng cái khó là làm sao vận động để chánh quyền tại Tòa Đô chánh chấp thuận cho xây dựng cây cầu đó – và như vậy thì phải bãi bỏ chuyện đấu thầu – khiến cho ngân sách hàng năm của nhà nước mất đi một khỏan thu nhập đáng kể. Đó là chưa kể sự chống đối rất mạnh mẽ quyết liệt của người chủ con đò – vì họ không muốn mất đi một số lợi khá lớn cho cả gia đình, nói gì đến quyền lợi của giới có chức có quyền mà vẫn được người chủ con đò mua chuộc lấy lòng bằng đủ thứ lọai quà cáp này nọ.

Nhưng vì cần phải bảo vệ quyền lợi chính đáng của số đông bà con lao động như vậy, nên chương trình chúng tôi đã phát động một chiến dịch vận động rất mạnh mẽ rộng lớn để giới chức chính quyền thể theo nguyện vọng của đồng bào mà chấp thuận việc xây dựng cây cầu này. Và kết cục chính quyền đã đồng ý và dự án xây dựng cây cầu được thực hiện trong một thời gian thật ngắn. Và đó là căn nguyên của công trình được mang tên là Cầu Phát Triển như nhiều bà con tại khu Xóm Đầm ngày nay vẫn còn nhớ đến vậy.

3 – Khu tái thiết 1,200 căn nhà tại phường Cầu Tre Bình Thới, quận 6.

Trong vụ tấn công xâm nhập vào thành phố của quân đội cộng sản hồi Tết Mậu Thân năm 1968, thì có đến mấy chục ngàn căn nhà tại 3 quận 6,7, 8 bị phá hủy. Vì thế mà chương trình phát triển chúng tôi phải ưu tiên dồn mọi cố gắng vào công cuộc tái thiết thật quy mô mà được dàn trải ra đến trên 20 khu chỉnh trang tái thiết – do các gia đình nạn nhân cùng hợp nhau thành lập thành các Ban Tái thiết cho từng khu vực để điều hành công việc xây dựng thật khó khăn mệt nhọc này.

Khu tái thiết lớn nhất nằm trong địa hạt phường Cầu Tre thuộc quận 6, giáp ranh với quận Tân Bình Gia Định, phía sau ngôi chùa cổ Giác Viên, thì có đến trên 1,200 đơn vị gia cư. Cái khó trong việc này là khu vực đó không bị tàn phá bình địa, mà vẫn còn lại nhiều căn nhà còn nguyên vẹn hay chị bị hư hại nhẹ – thế nhưng vì cần phải mở rộng đường xá cho ngay ngắn tại khu tái thiết rộng lớn này, thì cần phải hy sinh đập bỏ hết số căn nhà đó đi, để mà xây dựng lại thành những lô nhà theo họa đồ chỉnh trang hòan tòan mới. Việc này, nếu chính các chủ nhân không tự nguyện cho đập bỏ, thì chương trình chúng tôi cũng không có phương cách nào mà bó buộc cưỡng ép họ được. Do đó mà chúng tôi chỉ có thể gợi ý cho Ban Tái thiết trong khu ráng tìm cách thuyết phục các vị chủ nhân đó thỏa thuận cho phá bỏ căn nhà của mình đi – với điều kiện họ được quyền ưu tiên chọn căn nhà ở lô mặt tiền hay căn bìa.

Và kết cục, sau chừng vài năm khu tái thiết Cầu Tre Bình Thới này đã được hòan tất tốt đẹp như ta còn có thể thấy ngày nay vậy.

*     *     *

Bài viết đã dài rồi, tôi chỉ xin ghi tóm tắt thêm một vài chi tiết thật ngắn gọn như sau :

*  Trong lòng khối quần chúng nhân dân, thì bất kỳ ở đâu, lúc nào cũng đều có sẵn một tiềm năng thật quý báu dồi dào phong phú – để có thể sử dụng vào công cuộc xây dựng và cải tiến xã hội về mọi mặt tại mỗi địa phương. Như vậy, vấn đề là người cán bộ xây dựng xã hội phải tìm ra đúng cái phương pháp để khơi động khai thác được cái kho tàng năng lựợng vô biên đó. Có làm được như vậy, thì mới mong phát huy được cái sức mạnh tổng hợp của quần chúng hầu thực hiện được những công trình có quy mô rộng lớn.

*  Chương trình phát triển ở các quận 6,7,8 Saigon mới chỉ là một thí điểm trong thời gian ngắn ngủi có 6 năm đó (1965 – 1971) – mà lại giữa cái thời chiến tranh ác liệt – thì cũng chỉ mới gặt hái được một số thành quả tương đối còn khiêm tốn hạn chế mà thôi.

*  Tuy nhiên, chương trình này cũng đã có thể coi như là một chứng minh cho cái phương thức vận động quần chúng phấn khởi hăng hái tham gia nhập cuộc vào những dự án phát triển cụ thể thiết thực ở mỗi địa phương. Điểm đáng ghi nhớ tại đây là ở chỗ chương trình đã tìm cách đáp ứng đúng với nguyện vọng sâu xa cuả quần chúng là được sống an vui trong một xã hội trong đó phẩm giá của mỗi con người đều được tôn trọng đúng mức.

*  Cụ thể là cái ý hướng “Xây dựng Đời Sống Mới” đã được thể hiện thông qua nhiều công trình xây dựng cải tiến thiết thực – ngay tại nơi những xóm hẻm khuất nẻo nghèo túng, trong các khu nhà ổ chuột của tầng lớp người dân lao động cần cù lương hảo.

Và đây cũng là một minh họa cho vai trò của các đơn vị thuộc khu vực Xã hội Dân sự trong công cuộc xây dựng một cuộc sống tươi vui tốt đẹp cho chính khối quần chúng nơi những khu vực kém may mắn trong xã hội chúng ta vậy (the most underpriviledged areas)./

Costa Mesa California, trung tuần tháng Bảy năm 2013

Đoàn Thanh Liêm

Phụ   Lục

*           *           *

Vào giữa năm 1990, lúc tôi bị giam giữ tại trại B34 trong khu Tổng Nha Cảnh Sát cũ ở Saigon, thì nhân kỷ niệm năm thứ 25 ngày khởi sự của Chương trình Phát triển Quận 8 (1965 – 1990), tôi có làm mấy câu thơ để tặng các bạn cùng làm việc chung với nhau tại Chương trình này trong khuôn khổ của Kế Hoạch Xây Đời Mới (1965 – 1971).

Bài thơ gồm có 4 câu như sau đây. Xin được ghi lại để đính kèm bài viết có nhan đề “Ý hướng Xây Đời Mới trong Chương trình Phát triển Quận 6,7,8 Saigon (1965 – 1971)

Tặng các bạn Xây Đời Mới

Quận Tám năm xưa cùng Phát Triển

Ngày đêm lặn lội – vai sánh vai

Đời Mới ước mơ thời trai trẻ

Vẫn còn tươi nét – chẳng phôi phai.

Trại B34 Saigon

Tháng 8 năm 1990

Đoàn Thanh Liêm

Peter F Drucker:Một con người chính trực

Peter F Drucker  :  Một con người chính trực

(1909 – 2005)

Bài của  :  Đoàn Thanh Liêm

Peter Ferdinand Drucker sinh năm 1909, tại thành phố Vienna, thủ đô nước Áo. Ông mới qua đời tại thành phố Claremont, thuộc miền Nam California vào năm 2005, ở tuổi thọ 96. Trong suốt trên 60 năm ông chuyên dậy học tại nhiều trường đại học ở Mỹ, viết rất nhiều sách chuyên về vấn đề quản lý, và đồng thời còn làm cố vấn cho rất nhiều đại công ty kinh doanh tư nhân, cho các cơ quan chánh phủ tại ba quốc gia Mỹ, Nhật và Canada, và đặc biệt ông đã tận tình hỗ trợ cho các tổ chức thiện nguyện bất vụ lợi.

Có thể nói Peter Drucker là một mẫu người ngoại hạng, với sự nghiệp chuyên môn hết sức lớn lao, và nhất là một nhân cách sáng ngời của sự ngay thẳng chính trực.

Bài viết này xin được giới thiệu chi tiết với quý bạn đọc người Việt về con người sĩ phu trí thức rất mực cao quý này của thế kỷ XX.

A – Học tập ở Âu châu, thành danh ở Mỹ châu.

Sinh trưởng trong một gia đình trí thức tên tuổi, với người cha là một vị luật sư và giáo sư đại học, Peter Drucker ngay từ buổi thiếu thời đã được tiếp xúc với những vị thức giả có tên tuổi lớn tại Âu châu, điển hình như Sigmund Freud là người đã khai sinh ra ngành Phân tâm học (Psychanalysis).

Sau khi tốt nghiệp trung học tại quê nhà vào năm 1927, thì Peter qua học về luật tại đại học Frankfurt bên nước Đức. Tại đây, ông đậu văn bằng tiến sĩ về luật quốc tế và công pháp. Ông chịu ảnh hưởng của bậc đại sư, mà cũng là một người bạn của thân phụ ông, đó là giáo sư Joseph Schumpeter về sự quan trọng của tinh thần sáng tạo và tài năng tháo vát trong lãnh vực kinh doanh. Rồi sau này khi rời bỏ nước Đức lúc Hitler lên cầm quyền vào năm 1933, để qua sống tại Anh quốc, thì ông được thụ giáo với cả vị kinh tế gia lừng danh thời trước chiến tranh là John Maynard Keynes.

Ở tuổi đôi mươi ông đã hăng say tham gia viết báo, làm việc trong ngành bảo hiểm, rồi ngành xuất nhập cảng và ngân hàng tại nước Đức và nước Anh.

Vào năm 1937, với tư cách là đặc phái viên cho một nhóm báo chí Anh quốc, ông qua Hoa Kỳ cùng với người vợ mới cưới là Doris Schmitz. Vào tuổi ba mươi, với tài năng chín mùi, Peter Drucker đã có nhiều cơ hội phát huy sở học và kinh nghiệm thâm hậu của mình. Ông được mời giảng dậy tại nhiều trường đại học tại phía miền đông nước Mỹ như trường New York University trong gần 30 năm. Đồng thời, ông vẫn tiếp tục cộng tác với các tờ báo nổi danh về kinh tế tài chánh như Wall Street Journal, The Economist, Harvard Business Review, và với cả các tờ báo có uy tín hàng đầu như The Saturday Evening Post, The Atlantic Monthly v.v…

Kể từ năm 1945, ông được nhiều đại công ty như General Motors mời làm cố vấn. Tính ra ông đã nhận làm cố vấn cho trên 50 công ty tầm cỡ rất lớn như General Electric, Coca Cola, IBM, Citycorp, Intel… Ông cũng được giới doanh nhân ở Nhật rất tín nhiệm và mời ông vào chức vụ cố vấn cho các vị giám đốc của Toyota Motor Corp., Ito-Yokado Group v.v… nữa. Đó là chưa kể đến việc làm cố vấn miễn phí cho các tổ chức bất vụ lợi như Hội Nữ Hướng đạo Mỹ, Salvation Army, Hội Hồng Thập Tự, tổ chức CARE v.v…

Sau đó vào thập niên 1970, thì ông qua California, tiếp tục việc dậy học và làm cố vấn cho nhiều cơ sở kinh doanh tại phía bờ biển miền tây nước Mỹ. Ông giữ chức vụ Giáo sư về Khoa học Xã hội và Quản trị tại trường Cao học về Quản trị Claremont, mà sau này được đổi tên là “Peter F. Drucker School of Management” để vinh danh ông vào năm 1987. Lớp học cuối cùng ông dậy tại trường này là vào năm 2002, lúc ông đã bước vào tuổi 92.

Về sự nghiệp biên soạn sáng tác, ông đã cho xuất bản 39 cuốn sách, phần lớn bàn về vấn đề quản trị, mà điển hình là cuốn “The Practice of Management” xuất bản năm 1954 và cuốn “Management : Tasks, Responsabilities, Practices” xuất bản năm 1973. Riêng về lãnh vực các tổ chức bất vụ lợi, thì có cuốn viết năm 1990 với nhan đề : “Managing the Non-Profit Organisation : Principles and Practices”. Phần lớn các sách của ông đã được dịch ra trên 30 ngôn ngữ khác nhau trên thế giới.

B – Các giai thọai về nhân vật xuất chúng Peter Drucker.

Ít có nhân vật nào mà lại xông xáo họat động năng nổ tích cực trong cả ba khu vực cấu thành “không gian xã hội” như là Peter Drucker (the social space bao gồm khu vực Nhà nước, khu vực Thị trường kinh tế và khu vực Xã hội dân sự). Ông giúp cho các nhà lãnh đạo cơ sở công quyền, cũng như giám đốc công ty xí nghiệp tư nhân trong việc họach định được một chính sách tối ưu. Mà đặc biệt ông còn hỗ trợ hết mình cho các tổ chức phi chánh phủ, bất vụ lợi thực hiện được những thành tựu tốt đẹp cao nhất trong công cuộc phục vụ nhân quần xã hội.

Những khám phá của ông trong lãnh vực quản lý xí nghiệp đã trở thành một huyền thọai, được truyền tụng trong giới doanh nhân cũng như trong giới hàn lâm đại học. Nhiều người đã gọi ông là nhà tư tưởng táo bạo, một triết gia của xã hội kỹ nghệ đang ở vào giai đọan phát triển cao độ. Lớp học do ông giảng dậy thu hút quá đông sinh viên theo học, đến nỗi nhà trường phải sử dụng cả khu tập thể dục mới có đủ chỗ rộng rãi cho thầy trò sinh họat, trao đổi thảo luận với nhau cho thoải mái được

Một cựu sinh viên kể lại câu chuyện như sau : Dù lớp học đày ắp sinh viên, mà giáo sư Drucker vẫn tìm cách nêu các câu hỏi gợi ra sự tranh luận sôi nổi giữa cử tọa. Có lần ông hỏi cả lớp như thế này đây : “ Các bạn cho tôi biết sự kiện nào nổi bật, gây ảnh hưởng nhất trong thời gian 100 năm gần đây trong xã hội nước Mỹ? Các sinh viên lần lượt kê ra, nào là sự phổ biến điện thọai, điện lực, hai cuộc thế chiến, cuộc khủng hỏang kinh tế …Tất cả các câu trả lời đều bị giáo sư lắc đầu, từ chối. Cuối cùng thì ông cho chúng tôi biết : Đó là việc sản xuất xe hơi hàng lọat (the mass production of automobile), vì nó tạo cho giới nông dân phương tiện để chở vợ con ra thành phố vào cuối tuần – nhờ đó mà họ mới tránh được lọai bệnh tâm thần do sự cô lập quạnh hiu ở nông thôn gây ra… Đây quả thật là một lối suy luận độc đáo, bất ngờ khiến cả lớp chúng tôi cứ nhớ hòai!”

So với các bậc tiền bối, thì quả thật Peter Drucker là thứ “hậu sinh khả úy”, là môn đệ mà đã vượt qua cả bậc sư phụ của mình. Cụ thể như đối với Frederik Taylor (1866 – 1915) là người khai sáng ra môn tổ chức công việc sản xuất theo khoa học nhằm nâng cao năng xuất trong kỹ nghệ, thì Drucker đã bổ túc môn này bằng cách mở rộng sự nghiên cứu trong lãnh vực văn hóa, quan hệ nhân bản, và nhất là viễn tượng tương lai đối với những thách đố và khả năng trong xã hội kỹ nghệ. Và đối với John Maynard Keynes (1883-1946) thì cũng vậy, Drucker đưa thêm vào lý thuyết định lương vĩ mô (macro-economics) của vị đại sư này cái phương pháp nghiên cứu về động thái con người (behavior of people); như vậy là làm tăng thêm khía cạnh nhân bản trong lãnh vực kinh tế vi mô (micro-economics).

Các giám đốc công ty đã không tiếc lời ca ngợi vị đại sư Peter Drucker. Điển hình như Andy S. Grove của công ty Intel Corp., thì đã viết : “Lời khuyến cáo của ông đã ảnh hưởng đến không biết bao nhiêu hành động hàng ngày tại các xí nghiệp. Và riêng đối với tôi, thì cái ảnh hưởng đó đã kéo dài liên tục trong nhiều thập niên”. Tom Peters thì gọi Drucker là người đã sáng lập ra môn khoa học quản lý hiện đại; ông là người đầu tiên đã cung cấp cho chúng ta thứ dụng cụ để quản lý những tổ chức kinh doanh mỗi ngày càng trở thành phức tạp hiện nay.

C – Con người ngay thẳng chính trực.

Nhưng Peter Drucker còn làm cho bao nhiêu người mến phục bởi sự ngay thẳng chính trực lạ thường của ông. Ngay từ thời còn ở bên nước Đức, lúc mới có 23-24 tuổi, ông đã viết một cuốn sách về nhà triết học Friedrich Julius Stahl, mà đã bị chính quyền Đức quốc xã tịch thu và cho đốt hết đi. Mấy năm sau, thì cuốn sách thứ hai nhan đề “Vấn đề Người Do Thái tại nước Đức” cũng lại chịu chung số phận đó. Đến nỗi mà hiện nay chỉ còn sót lại một cuốn duy nhất trong văn khố nước Áo với dấu hiệu chữ vạn đóng trên bìa sách.

Được nuôi dưỡng theo truyền thống nghiêm túc của đạo Tin lành, Peter Drucker đã sống và hành động theo những nguyên tắc chặt chẽ về luân lý và đạo hạnh. Mặc dầu được các đại công ty trả lương rất hậu cho dịch vụ cố vấn của ông, Drucker cũng không ngần ngại phê phán những thiếu sót bất cập của giới doanh nghiệp tại Mỹ. Khi được biết giới đứng đầu doanh nghiệp dành cho mình những bổng lộc quá lớn, lên đến cả trăm lần lương của người công nhân bình thường, ông đã không  cầm được sự giận dữ và lên tiếng phê phán gắt gao chuyện này. Ông nói : “Đó là điều không thể tha thứ được, xét về mặt luân lý cũng như về mặt xã hội; và chúng ta sẽ phải một cái giá nặng nề cho tình trạng này.” (This is morally and socially unforgivable, and we will pay a heavy price for it). Ông còn ghi rõ là : “ Thâu nhập của người giám đốc không được gấp quá 20 lần mức lợi tức của người công nhân”.

Thất vọng trước sự sa sút về phương diện giá trị đạo đức của giới doanh nghiệp Mỹ, ông đã phải thốt lên : “Đó là sự thất bại cuối cùng của chủ nghĩa tư bản doanh nghiệp” (the final failure of corporate capitalism).

Và kết cục là ông đã dành hầu hết thời giờ và năng lực vào việc yểm trợ cho các tổ chức bất vụ lợi. Đó là lãnh vực xã hội dân sự, mà ông tin tưởng sẽ góp phần quan trọng vào việc phục hồi lại hệ thống giá trị tốt đẹp truyền thống của nước Mỹ. Ông đặc biệt dành sự ưu ái cho mục sư và cũng là một tác giả nổi danh với cuốn sách bestseller “The Purpose-driven Life” Rick Warren của Nhà thờ Saddleback tại thành phố Lake Forest trong Quận Cam miền Nam California. Vị mục sư này thuật lại rằng : Ông Peter Drucker căn dặn tôi : “Chức năng quản lý trong một nhà thờ là làm cho nhà thờ đó mỗi ngày đích thực là nhà thờ hơn, chứ không phải là một loại tổ chức kinh doanh (to make the church more churchlike, not more businesslike). Như vậy thì nhà thờ mới có thể thực hiện đúng sứ mệnh riêng biệt của mình.”

** Tóm tắt lại, ta có thể ghi nhận rằng Peter Drucker là một mẫu người ngoại hạng của thế kỷ XX. Sự đóng góp chuyên môn trong việc giáo dục đào tạo nhiều thế hệ sinh viên trong ngành quản trị doanh nghiệp, trong sự nghiệp trước tác, cũng như trong việc cố vấn hướng dẫn cho giới lãnh đạo cơ sở công quyền, cũng như xí nghiệp tư nhân, và nhất là trong sự yểm trợ cho các tổ chức bất vụ lợi thuộc khu vực Xã hội Dân sự, thì thật là lớn lao vĩ đại ít người nào có thể sánh kịp được.

Mà còn hơn thế nữa, cái nhân cách trong sáng và tính ngay thẳng chính trực của ông mãi mãi là một tấm gương cao quý cho giới sĩ phu trí thức cùng khắp thế giới hiện nay noi theo vậy./

California, Tiết Trung Thu Canh Dần 2010

Đoàn Thanh Liêm

THANH THIẾU NIÊN VÀ CÔNG TÁC XÃ HỘI (BÀI 3) – CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN QUẬN 8 SAIGON

THANH THIẾU NIÊN VÀ CÔNG TÁC XÃ HỘI (BÀI 3) – CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN QUẬN 8 SAIGON

Đoàn Thanh Liêm

*   * Khác với Chương trình Công tác Hè 1965, Chương trình Phát triển Quận 8 Saigon đặt trọng tâm vào công việc phát triển cộng đồng tại một quận ven biên của thành phố Saigon, lúc đó quận này chỉ có dân số cỡ 150,000 người. Những anh em chủ trương thiết lập chương trình này, thì phần đông cũng đã từng tham gia với công tác cứu trợ bão lụt miền Trung vào cuối năm 1964, cũng như ít nhiều tham gia cộng tác với Chương trình Hè trong mấy tháng đầu năm 1965. Cho nên tuy đây là ba loại công tác khác nhau, nhưng cũng đều do giới thanh niên đứng ra khởi xướng và đảm trách, nên có thể nói được rằng cả ba chương trình hoạt động này đều là sự biểu lộ của tinh thần dấn thân nhập cuộc của giới thanh thiếu niên tại miền Nam Việt nam, hồi giữa thập niên 1960, với những công việc cụ thể, thiết thực nhằm phục vụ tầng lớp đồng bào kém may mắn nhất trong xã hội thời ấy. Anh chị em đều có một mẫu số chung, tức là đem hết tâm sức và khả năng hiểu biết của mình vào việc thực hiện cho được những việc có ích lợi rõ rệt cho quần chúng nhân dân, mà hiện đang phải sống trong những điều kiện rất khó khăn thiếu thốn về nhiều mặt vật chất, cũng như tinh thần.

Trong khoảng tháng 5 và 6 năm 1965, một số chừng trên 15 anh em đã hội họp bàn thảo với nhau để lập ra một dự án công tác (project) nhằm phát động công cuộc phát triển tại một quận kém mở mang nhất tại Saigon, đó là quận 8 tọa lạc phía bên kia cầu chữ Y, cầu Nhị Thiên Đường, giáp ranh với quận Cần Giuộc, Long An. Sau vài tháng miệt mài tìm hiểu tình hình tại chỗ và nghiên cứu soạn thảo, anh em đã hoàn thành được một bản dự án mệnh danh là “ Chương trình Phát triển Quận 8 Saigon “ và đệ trình lên văn phòng Thủ tướng Chánh phủ lúc đó do Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ đứng đầu, để xin duyệt xét và chấp thuận cho anh em được quyền cùng chung nhau thực hiện chương trình này.

Sau khi cứu xét, văn phòng Thủ tướng đã chấp thuận trên nguyên tắc mấy đề nghị ghi trong dự án, đại cương như sau :

1/ Chấp thuận cho hai người trong anh em là Hồ Ngọc Nhuận và Mai Như Mạnh giữ chức vụ Quận trưởng và Phụ tá Quận trưởng Quận 8.

2/ Cấp phát 10 triệu đồng VN để làm Quỹ Điều hành của Chương trình.

3/ Đặt Chương trình Phát triển Quận 8 dưới sự bảo trợ và kiểm soát của  Đô trưởng Saigon (lúc đó là Bác sĩ Văn Văn Của) và Bộ trưởng Thanh niên (lúc đó là Bác sĩ Nguyễn Tấn Hồng).

Như vậy là chỉ có hai người của Nhóm anh em trong Ban Điều hành Chương trình mới là viên chức của nhà nước mà thôi. Còn tất cả các anh chị em khác, thì đều là những thiện nguyện viên, không hề có giữ chức vụ gì trong guồng máy chánh quyền địa phương cả. Và sau một vài phiên họp với Tòa Đô chính và Bộ Thanh niên là hai cơ quan bảo trợ, để bàn thảo về các chi tiết thi hành dự án, thì anh chị em bắt đầu khởi sự kéo nhau xuống làm việc ở Quận 8, vào giữa tháng 8 năm 1965.

Phải thành thật mà nói, anh chị em chúng tôi đều có lòng hăng say, có thiện chí muốn phục vụ đồng bào, nhưng tất cả đều còn quá trẻ, mới ở vào lứa tuổi 20-30, làm gì có kinh nghiệm nào trong loại việc vận động quần chúng địa phương tham gia vào công việc cải tiến dân sinh. Vì thế, phải mất một thời gian dò dẫm, thăm hỏi các vị thân hào nhân sĩ, các vị tôn trưởng, các vị tu sĩ của các tôn giáo và nhất là các thầy cô giáo trong các phường khóm, thì lần hồi chúng tôi mới nắm bắt được cái phương thức sinh hoạt và làm việc với bà con trong cộng đồng địa phương.

Nhờ thái độ khiêm tốn nhã nhặn trong cách giao tiếp với các vị tôn trưởng tại địa phương như thế, nên chúng tôi đã nhận được nhiều sự góp ý chân tình và thiết thực về tất cả những gì cần phải làm, cần phải chuẩn bị để có thể lôi cuốn, thuyết phục được người dân tích cực và phấn khởi tham gia vào các việc có ích lợi cho tập thể cộng đồng. Bắt đầu bằng những công tác đơn giản, nhỏ bé như sửa chữa đường hẻm, khai thông ngập úng, đặt đường cống thoát nước, tu sửa cầu tiêu công cộng v.v…Rồi lần lần tiến lên  mời gọi bà con tham gia vào những công tác có quy mô lớn lao và phức tạp hơn, điển hình như chỉnh trang gia cư tại những khu ổ chuột, xây cất thêm trường lớp cho các học sinh có chỗ học vào các giờ mát mẻ, thay vì phải học vào ca buổi trưa nóng bức, bắc cầu qua các kinh rạch để bà con đi lại cho thuận tiện và an toàn v.v…Các dự án cải tiến nhỏ bé, đơn giản như vậy mà được bà con cùng góp công, góp vật liệu để cùng chung nhau thực hiện cho thành công tốt đẹp, thì có tác dụng tinh thần và tâm lý rất tốt, tạo thêm sự quen biết gắn bó, liên đới thân thương với nhau giữa các thành viên trong khu xóm, cũng như giữa bà con với cán bộ thiện nguyện chúng tôi. Và một khi đã có được sự tin tưởng của quần chúng địa phương như vậy, thì sự vận động cho những dự án tiếp theo sẽ dễ dàng êm xuôi hơn. Rồi qua năm 1966, thì chương trình đã mở rộng thêm sang các quận 6 và 7 nữa, với tổng số dân trong cả 3 quận lên đến 500,000 người.

Nói cho ngắn gọn lại, qua thời gian cộng tác mật thiết với bà con ở các khóm hẻm rải rác trong quận, anh chị em chúng tôi đã học tập được vai trò “làm chất men, chất súc tác”, được hòa vào với môi trường của quần chúng nhân dân địa phương và đã phát huy tác dụng là khơi động được sự hăng hái, phấn khởi nhiệt tình của số đông quần chúng, trong việc hưởng ứng tham gia tích cực vào công cuộc phát triển xã hội văn hóa tại địa phương của chính họ. Đây chính là cái quá trình “gây ý thức, gây men và vận động quần chúng “ (mass conscientisation/fermentation/mobilization) mà các nhà nghiên cứu xã hội học thường hay nói tới. Và quần chúng tại hạ tầng cơ sở lần hồi đã cảm nhận ra được các nhu câu cần phải cải thiện môi trường sinh hoạt tại địa phương của mình (felt needs), để rồi từ đó ra tay dấn thân nhập cuộc vào công trình xây dựng và phát triển của địa phương, nơi chính họ và gia đình cùng sinh sống cư ngụ.

Trong 6 năm hoạt động tại cả 3 quận 6,7 và 8, chương trình đã cùng với đồng bào thực hiện được hàng mấy trăm công trình cải tiến ngõ hẻm, và đặc biệt hoàn thành được việc chỉnh trang gia cư tại trên 20 khu trong khắp 3 quận, với tổng số căn nhà được xây cất mới lên đế 8,000 đơn vị gia cư. Sở dĩ số nhà phải chỉnh trang tái thiết lên cao như vãy, đó là vì do các vụ tấn công hồi Tết Mậu thân năm 1968, khu vực 3 quận này bị thiệt hại rất nặng nề. Chương trình cũng giúp tổ chức nhiều lớp dậy nghề như các lớp nữ công gia chánh, các lớp may cắt, thêu đan cho nữ giới, các lớp sửa máy xe hơi, máy thủy động cơ, sửa radio, TV cho nam giới. Phần lớn các lớp này là do các tu sĩ Phật giáo hay Công giáo đứng ra tổ chức tại khuôn viên các chùa hay các nhà thờ. Và Chương trình đi xin các phương tiện máy móc và vật liệu từ những cơ quan từ thiện nhân đạo quốc tế, để rồi chuyển đến cho các trung tâm dậy nghề này. Về mặt y tế, chương trình còn có một xe y tế lưu động, để đi khám bệnh và phát thuốc cho bà con tại các khu vực hẻo lánh trong cả 3 quận nữa.

Ngoài ra cũng cần phải kể đến 2 công trình phát triển có ảnh hưởng lâu dài nhất, đó là chương trình đã xây dựng được hai trường trung học cộng đồng ờ quận 6 và quận 8, mà tổng số học sinh vào năm 1974-75 lên đến trên 3,000 em. Các em học sinh lớp đầu tiên nhập học năm 1966 ở trung học quận 8 (nay là trường Lương Văn Can) lúc đó cỡ 13-14 tuổi, thì nay đã ở vào tuổi 57-58, đã có cả cháu nội, cháu ngoại cả rồi. Và hiện vẫn còn nhiều thành phần trong số các em đó vẫn tiếp nối được cái tinh thần “ tự nguyện dấn thân vào công cuộc phát triển tại địa phương”, mà lớp cha bác và thầy của các em đã từng tham gia và truyền lại cho thế hệ các em bây giờ. Đó mới chính là cái thành quả bền vững nhất, đáng ghi nhớ nhất của chương trình phát triển cộng đồng mà đã khởi sự tại 3 quận 6,7,8 cách nay đã trên 45 năm rồi vậy.

*  *  Tóm lược về mục  “ Thanh thiếu niên và Công tác Xã hội”

Trong ba bài trên đây, chúng tôi đã trình bày đại cương ngắn gọn về ba chương trình công tác xã hội do giới thanh thiếu niên tại miền Nam Việt nam thực hiện hồi giữa thập niên 1960. Đó là “ Ủy ban Phối hợp Cứu trợ Bão lụt miền Trung năm 1964”, “Chương trình Công tác Hè 1965” và “Chương trình Phát triển Quận 8 Saigon”. Tất cả ba chương trình đều phát xuất từ tinh thần hy sinh tự nguyện của giới trẻ để tham gia đóng góp vào những công việc xã hội cụ thể, thiết thực, nhằm phục vụ đồng bào gặp cảnh khó khăn ngặt nghèo, cũng như tạo cơ hội cho giới thanh thiếu niên được gặp gỡ thân thiện gắn bó với nhau, trong khi cùng nhau theo đuổi công tác xã hội, phục vụ đồng bào.

Đó chính là các anh chị em đã bắt đầu “có ý thức về xã hội” (social awareness), rồi lôi cuốn rủ rê nhau cùng tích cực tham gia những chương trình phục vụ đồng bào và phát triển xã hội tại các địa phương. Thực hiện các chương trình xã hội cụ thể, thực tiễn như thế đó, chính là các anh chị em đã đóng vai trò “làm đối tác” (counterpart) của Xã hội Dân sự để cùng chung với Nhà nước trong việc phục vụ quần chúng nhân dân tại hạ tầng cơ sở vậy.

Nếu ta chú ý đến bối cảnh chính trị, quân sự vào giai đoạn những năm sau 1965, khi cuộc chiến mỗi ngày một leo thang với bao nhiêu sự thiệt hại về nhân mạng cũng như tài sản và tình hình chính trị bất ổn ở miền Nam hồi đó, mà nội các chánh phủ cứ bị thay đổi hoài hoài, thì việc giữ cho phong trào sinh hoạt văn hóa xã hội của giới thanh thiếu niên vẫn có thể tiến hành tương đối tốt đẹp, êm thắm như đã được thể hiện qua 3 chương trình công tác như được ghi lại trong mục này, phải được coi như là một sự thành công ngoạn mục của lớp huynh trưởng sáng lập và điều hành của phong trào.

Vào thời gian đó, thì vẫn có một số thanh niên ngả hẳn theo đường lối tranh đấu chính trị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt nam do Hanoi chỉ đạo. Giới thanh niên này luôn chỉ trích các chương trình xã hội nhân đạo nói trên như là một thứ “cải lương”, chỉ có tác dụng làm hậu thuẫn cho cái “ chánh quyền bù nhìn của các Tướng Thiệu Kỳ” mà thôi. Thế nhưng đại đa số anh chị em thanh niên ở miền Nam hồi đó đã “bỏ ra ngoài tai các lời chỉ trích cực đoan” như thế, mà vẫn tiếp tục dấn thân vào những dự án xã hội văn hóa cụ thể và thiết thực của mình, ngay cho đến năm 1975, khi chế độ Việt nam Cộng hòa sụp đổ.

Vào năm 2010 này, ghi lại cái kỷ niệm thân thiết của giới trẻ ở miền Nam cách nay đã trên 40 năm, người viết lại càng xác tín rằng lớp người trẻ này đã có sự chọn lựa đứng đắn và can đảm trong bối cảnh đất nước đen tối vì cuộc chiến tranh tàn khốc thưở đó. Và cảm thấy lương tâm thanh thản nhẹ nhàng, vì đã cố gắng hết sức mình trong công cuộc phục vụ số đông đồng bào nạn nhân chiến cuộc của mình trong giai đoạn khó khăn đó vậy./

California, Tháng Ba 2010

Đoàn Thanh Liêm

THANH THIẾU NIÊN VÀ CÔNG TÁC XÃ HỘI (BÀI 2) – CHƯƠNG TRÌNH CÔNG TÁC HÈ 1965 (SUMMER YOUTH PROGRAM 1965)

THANH THIẾU NIÊN VÀ CÔNG TÁC XÃ HỘI (BÀI 2) – CHƯƠNG TRÌNH CÔNG TÁC HÈ 1965 (SUMMER YOUTH PROGRAM 1965)

Đoàn Thanh Liêm

*   * Phấn khởi với sự thành công của công tác cứu trợ nạn nhân bão lụt miền Trung vào cuối năm 1964, các anh chị em trong thành phần lãnh đạo chiến dịch này đã bàn thảo với nhau là cần phải mở rộng thêm khuôn khổ sinh hoạt và phục vụ xã hội của giới trẻ, đặc biệt là các sinh viên và học sinh còn đang theo học tại các trường ở khắp miền Nam. Vào năm 1965, thì đã có ít nhất 4 trường Đại học, đó là ĐH Saigon, ĐH Huế, ĐH Đalat và ĐH Vạn Hạnh và một số trường Cao Đẳng Kỹ thuật. Về bậc trung học, thì có đến vài ba trăm trường trung học công lập, cũng như tư thục. Và tổng số sinh viên và học sinh trung học trên toàn quốc cũng phải lên tới hàng mấy trăm ngàn người. Đó là một quân số rất lớn, mà các huynh trưởng này nhắm để tổ chức cho giới trẻ học đường có điều kiện gặp gỡ, vui chơi và hợp tác với nhau trong một tinh thần lành mạnh và xây dựng, trong ý hướng góp phần cải thiện môi trường xã hội về mặt vật chất, cũng như về mặt tinh thần, trong giới hạn khả năng hạn hẹp của mình. Việc làm như thế này, trên nguyên tắc, thì luôn được sự khuyến khích và hỗ trợ của các Bộ Giáo Dục, Bộ Xã Hội, và nhất là của Bộ Thanh niên.

Đó là đại cương sự suy nghĩ tính toán của những anh chị em cùng đứng ra thiết lập một chương trình hành động cụ thể, dành riêng cho giới thanh niên, sinh viên và học sinh tại miền Nam Việt nam. Và danh xưng chính thức của chương trình này đã trở thành : “Chương Trình Công Tác Hè 1965”. Những huynh trưởng khởi xướng chương trình này đều đã ở vào lớp tuổi trưởng thành từ 21 đến 30 tuổi, phần đông đã tốt nghiệp đại học và đi dậy học. Họ cũng đã từng hoạt động lâu năm trong các đoàn thể như Hướng Đạo, Thanh niên Thiện chí, Sinh viên Phật tử, Sinh viên Công giáo v.v… Do đó mà họ rất có kinh nghiệm trong việc tổ chức sinh hoạt cho giới trẻ như đi cắm trại, đi thăm các cô nhi viện, đi làm công tác thiện nguyện như sửa sang trường lớp tại miền ngoại ô hay miền quê, tham gia giúp đồng bào khai thong các khu phố bị lầy lội, ngập lụt v.v… Vì thế mà họ rất tự tin về nội dung các công tác sẽ đề ra cho Chương trình hè này, mà thường có sức lôi cuốn giới trẻ tham gia, nhằm mục đích phục vụ công ích cho đồng bào ở các vùng nông thôn hay ngoại ô nghèo túng.

Điểm thuận lợi khác nữa, đó là những người sáng lập Chương trình này lại được sự hợp tác và hỗ trợ hết mình của tổ chức IVS (Đoàn Thanh niên Chí nguyện Quốc tế). Vì IVS gồm các đoàn viên thiện nguyện còn trẻ, mới tốt nghiệp đại học, và đã từng hoạt động tại một số tỉnh ở miền Nam từ 5-7 năm trước, nên họ rất gần gũi gắn bó với giới sinh viên và thanh niên Việt nam. Sự tham gia của IVS lại càng quan trọng, vì chính IVS đã vận động để cơ quan Viện trợ Mỹ cấp ngân khoản điều hành lên đến 25 triệu $ VN cho Chương trình. Cho nên có thể nói Chương trình Hè 1965 này là một thứ Dự án hơp tác (joint project) giữa IVS và Ban Điều Hành của chương trình.

Vì tính cách độc đáo mới lạ của cái “joint project” này, nên các Bộ bảo trợ lúc ban đầu tỏ ý e ngại, không dám quyết đáp trong việc chấp thuận cho phép Chương trình tiến hành hoạt động trên toàn quốc.

Nhưng may, mà anh chị em lại biết đích thân xin được gặp và trình bày vấn đề với chính Vị Phó Thủ tướng đặc trách về Kế hoạch lúc đó là Luật sư Trần Văn Tuyên, thì cuối cùng mọi việc về phương diện hành chánh pháp lý đối với cơ quan nhà nước mới được giải quyết êm thắm tốt đẹp. Lý do Luật sư Tuyên dễ dàng chấp thuận Dự án này, đó là khi xưa vào hồi còn trẻ ở thập niên 1930, ông đã là một huynh trưởng trong Phong trào hướng đạo mới được thành lập ở Việt nam, cho nên ông nhận ra ngay tức khắc sự quan trọng và ích lợi của Chương trình Hè này. Và từ đó chính vị Phó Thủ tướng Chánh phủ đã ký giấp phép chấp thuận cho Chương trình này được phép hoạt động, và chỉ thị cho  các Bộ liên hệ như Bộ Giáo dục, Bộ Thanh niên và Bộ Xã hội phải tích cực giúp đõ giới thanh niên trong các hoạt động lành mạnh và hữu ích như thế này.

Kết cục là trong mấy tháng hoạt động, Chương trình Hè 1965 đã gây được bàu không khí sinh hoạt rất là phấn khởi, náo nhiệt cho giới trẻ ở Saigon cũng như ở các tỉnh địa phương miền Trung, miền Nam cũng như tại Cao nguyên. Thường các bạn trẻ tổ chức gặp gỡ nhau qua các hình thức trại công tác kéo dài cỡ vài ba ngày, để cùng sinh sống chung với nhau, trao đổi kinh nghiệm công tác và sinh hoạt theo nhóm và đoàn thể ở địa phương, kèm theo các màn văn nghệ ca hát, diễn kịch. Và nhất là cùng nhau hoàn thành một công tác có ích lợi thiết thực cho cộng đồng địa phương, điển hình như tu bổ đường hẻm, khai thông cống thoát nước, sửa cầu bắc qua kinh rạch, sửa sang lớp học, làm nhà vệ sinh cho các học sinh ở địa phương v.v…Những trại công tác và sinh hoạt như vậy tạo cơ hội cho giới trẻ gặp gỡ vui chơi thân thiện với nhau, đồng thời cũng nâng cao tinh thần phục vụ xã hội bằng những việc làm cụ thể, thiết thực, góp phần vào việc cải thiện môi trường sinh sống của bà con lối xóm, về vật chất cũng như tinh thần. Nói chung, thì những việc làm nhỏ bé, khiêm tốn, mà thiết thực như thế dễ gây được thiện cảm của bà con, cô bác ở các vùng nông thôn, cũng như tại khu vực ngoại ô thành phố.

Đáng kể nhất trong loại trại công tác này trong khuôn khổ của Chương trình Hè 1965 là một trại rất quy mô lấy tên là  :“Công trường Thanh niên Tự do”   (Liberty Youth WorkCamp) được tổ chức vào tháng 10 năm 1965, tại xã Thạnh Lộc Thôn, quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định. Mục đích chính yếu của công trường này là xây dựng 200 căn nhà cho đồng bào tỵ nạn phải di tản từ vùng mất an ninh về khu ven biên Saigon-Gia định. Các trại sinh là đại diện của nhiều tỉnh tề tựu lại, cùng sinh hoạt và làm việc chung với nhau trong gần 2 tuần lễ, để thực hiện một “ công trình đại quy mô này”. Ban tổ chức còn có sáng kiến mời thêm được mấy sinh viên quốc tế có mặt ở Saigon lúc đó đến tham dự nữa. Với tổng số trại sinh lên đến trên 200 người, có thể coi đây là một công tác tiêu biểu nhất trong bảng thành tích của chương trình vậy.

Với một số thành tựu như vậy, nên sau khi Chương trình Hè 1965 kết thúc vào cuối năm, thì kể từ năm 1966, Bộ Giáo Dục đã thiết lập một chương trình khác tương tự, lấy tên là “ Chương trình Phát triển Sinh hoạt Học đường”, mà thường được viết tắt là CPS. Lúc đầu, CPS hoạt động cũng khá quy mô và lôi cuốn được sự tham gia hăng say của nhiều anh chị em học sinh, sinh viên trong một thởi gian mấy tháng. Nhưng về sau vì do Bộ Giáo dục trực tiếp quản lý và chỉ đạo quá chặt chẽ, gần như theo quy chế của một cơ quan hành chánh, không cho phép các huynh trưởng điều khiển chương trình được tự do phát huy sáng kiến của mình, nên nó đã không thể phát triển thoải mái, tự nhiên như là ở Chương trình Hè 1965, hay như tại Chương trình Phát triển Quận 8 Saigon, mà sẽ được trình bày trong một bài sau.

Nhân tiện, cũng xin ghi qua về sự phát triển của Phong trào Du ca của giới thanh thiếu niên hay đi tham dự công tác xã hội vào thời gian sau năm 1965. Đó là một sáng kiến của những huynh trưởng thanh niên như Hoàng Ngọc Tuệ, Trần Văn Ngô, Đỗ Ngọc Yến, Đỗ Quý Toàn, và đặc biệt là các nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, Ngô Mạnh Thu …, nhằm gây thành một phong trào sinh hoạt ca hát vui tươi lành mạnh cho giới thanh niên vốn từng tham gia công tác xã hội tại khắp nơi, ở miền quê, tại đô thị, cũng như nơi các trại tạm cư của các nạn nhân chiến cuộc, mà phải rời bỏ nhà cửa vì lý do chiến tranh tàn phá, nhất là tại các tỉnh ở về phía bắc miền Trung, kể từ năm 1967 trở đi, lúc chiến sự mỗi ngày càng trở nên khốc liệt, đẫm máu. Anh chị em thanh thiếu niên quy tụ sinh hoạt văn nghệ với nhau, cùng nhau trình bày những bài ca mới sáng tác, phản ánh tâm trạng của giới trẻ trong tình hình xã hội đen tối bế tắc vì cuộc chiến tranh không có lối thoát. Nói chung phong trào Du ca này đã tạo nên một luồng sinh khí sinh động và phấn khởi lôi cuốn giới trẻ gắn bó, gần gũi với nhau trong khi cùng tham gia công tác xã hội nhân đạo, để phục vụ đồng bào, đặc biệt là các nạn nhân chiến cuộc./

California, Tháng Ba 2010

Đoàn Thanh Liêm

THANH THIẾU NIÊN VÀ CÔNG TÁC XÃ HỘI (BÀI 1) – VIỆC TRỢ GIÚP NẠN NHÂN BÃO LỤT Ở MIỀN TRUNG NĂM 1964.

THANH THIẾU NIÊN VÀ CÔNG TÁC XÃ HỘI (BÀI 1) – VIỆC TRỢ GIÚP NẠN NHÂN BÃO LỤT Ở MIỀN TRUNG NĂM 1964.

Đoàn Thanh Liêm

Lời mở đầu – Đã từ lâu, tôi dự tính viết một Bản Phác thảo về Lịch sử Sinh hoạt của giới Thanh Thiếu niên tại Miền Nam Việt nam trong giai đoạn 1950-1975. Nhưng vì còn bận rộn với nhiều chuyện khác có tính cách thời sự cấp bách hơn, nên việc soạn thảo này đã phải tạm gác lại, để khi nào có điều kiện thâu thập được nhiều tài liệu chính xác hơn, thì sẽ lại tiếp tục với công trình biên soạn có tính cách sử liệu này.

Tạm thời, người viết xin ghi lại một cách đại cương ngắn gọn về những công tác xã hội tương đối có quy mô rộng rãi, mà giới thanh thiếu niên ở miền Nam Việt nam đã thực hiện được trong thời gian 1964 đến 1975, dưới đề mục : “ Thanh thiếu niên và Công tác xã hội”. Loạt bài này sẽ gồm 3 bài, mỗi bài chỉ dài chừng 2,000 – 2500 chữ mà thôi.

Người viết chưa có điều kiện để đi sâu vào chi tiết về các sinh hoạt của phong trào thanh thiếu niên trong giai đoạn trước năm 1975 tại miền Nam Việt nam, nhất là của từng đơn vị đoàn thể, hiệp hội đã từng được thành lập từ lâu và đã có những hoạt động khá sôi nổi, bền vững trong một thời gian dài. Điển hình như Hội Hướng Đạo, các đoàn thể thanh thiếu niên do các tôn giáo tổ chức v.v… Do đó tác giả mong ước rằng tại mỗi một đơn vị đoàn thể, hiệp hội, sẽ có một ban đặc trách biên soạn về lịch sử sinh hoạt của riêng tổ chức của mình. Các tài liệu này sẽ là căn bản cho sự tham khảo của giới viết về lịch sử chung của toàn thể phong trào thanh thiếu niên ở miền Nam trong giai đoạn 1950-1975 vậy.

Xin mời quý bạn đọc quan tâm theo dõi mấy bài sau đây như là một gợi ý cho một công trình biên soạn hoàn chỉnh và đày đủ hơn trong tương lai vậy nhé.

Xin cảm ơn sự thông cảm của các bạn. ĐTL

*  * Năm 1964 vào tháng 10 và 11, có trận bão lụt rất lớn tại một số tỉnh Miền Trung, đặc biệt Tuy Hòa, Bình Định, Quảng Ngãi và Quảng Nam là các nơi bị thiệt hại nặng nề nhất. Đáp ứng lời kêu cứu của các bạn hữu là nạn nhân từ các địa phương bị lụt, giới thanh niên, sinh viên, học sinh tại Saigon đã hợp tác chung với nhau nhằm ra tay tiếp cứu những bà con nạn nhân của trận bão lụt dữ dội này. Anh chị em lập ngay ra một tổ chức lấy tên là “Ủy ban Phối hợp Cứu trợ Bão lụt Miền Trung” và chia nhau đảm trách các công việc tùy theo khả năng chuyên môn của mình. Đây đúng là sự phối hợp của nhiều đoàn thể, tổ chức của giới thanh niên, sinh viên và học sinh các trường Đại học cũng như Trung học, với tổng số người tham dự lên đến hàng vạn người.

Bắt đầu là do sáng kiến của Tổng Nha Thanh niên do Ông Nguyễn Đình Tú làm Tổng Giám Đốc. Ông Tú kêu gọi các đoàn thể đến Nha Thanh niên để bàn thảo cách thức hỗ trợ khẩn cấp cho các nạn nhân bão lụt. Và kết quả là Ủy ban Phối hợp đã được thành lập với sự tham gia tích cực của hầu hết các tổ chức tư nhân như Hội Thanh niên Thiện chí, Hội Hướng Đạo, ngành Nam cũng như ngành Nữ, Đoàn Sinh viên Phật tử, Đoàn Sinh viên Công giáo, Đoàn Thanh niên Chí nguyện, Phong trào Học đường Phục vụ Xã hội, Đoàn Thanh niên Ích thiện, Tổng hội Sinh viên, Ban Chấp hành Đoàn sinh viên và học sinh các trường v.v…

Có thể nói đây là lần đầu tiên có sự quy tụ đông đảo của các tổ chức tư nhân của giới trẻ ở thủ đô Saigon, nhằm đóng góp vào công tác xã hội nhân đạo cấp bách tại một số tỉnh xa xôi ở miền Trung. Các bạn trẻ đã có dịp phát huy sáng kiến về mặt tổ chức sinh hoạt nội bộ, và phân công cho nhau đi quyên đậu sự đóng góp của bà con từ khắp các ngõ ngách của thành phố. Các nhà thờ, các chùa, các trường học đều mở rộng cửa cho đoàn cứu trợ mượn làm kho chứa gạo, quần áo, vật dụng và thực phẩm do đồng bào đích thân mang đến tặng cho Ủy ban Cứu trợ. Để tránh sự lạm dụng, Ủy ban không trực tiếp đứng ra nhận tiền bạc của bà con có nhã ý hiến tặng. Nhờ sự thận trọng đó, mà anh chị em thanh niên sinh viên, học sinh tránh được sự dị nghị, thắc mắc của một số người vốn có tính đa nghi đối với những cuộc lạc quyên công cộng.

Hồi đó vào năm 1964 ở Saigon, thì chưa có đài truyền hình. Cho nên sự vận động công chúng tham gia cứu trợ, thì hoàn toàn phải nhờ vào đài phát thanh và các báo chí, cũng như cơ quan thông tin địa phương của chánh quyền cấp thành phố, cấp quận xuống đến tận cấp phường khóm. Trên phương diện cấp bộ, thì Bộ Xã hội là cơ quan tập trung các tin tức về tình hình biến chuyển từng ngày, từng giờ tại các địa phương. Và trên nữa, thì có một cơ quan cấp liên bộ do Phó Thủ Tướng Nguyễn Xuân Oánh điều khiển, để phối hợp các hoạt động cứu trợ cho toàn thể các khu vực bị lâm vào cảnh cô lập, rất khó tiếp tế, bởi lẽ đường xá giao thông bị úng ngập không sao di chuyển dễ dàng được. Cho nên Ủy ban Cứu trợ của giới thanh niên phải làm việc ăn ý với các cấp chánh quyền ở địa phương, cũng như ở trung ương, thì mới có thể hoạt động có hiệu quả được.

Những phái viên của Ủy ban Phối hợp Cứu trợ được cử đến các tỉnh bị lụt, thì thường được sự cộng tác rất chặt chẽ và thân tình của các đoàn thể thanh niên cũng như của những cơ quan chánh quyền tại địa phương. Đặc biệt anh em chúng tôi lại được sự tiếp sức của các sinh viên Mỹ thuộc Đoàn Thanh niên Chí nguyện Quốc tế (IVS = International Voluntary Services) vốn đã từng làm việc trong ngành giáo dục và canh nông tại địa phương từ lâu, nên họ đã giúp chúng tôi hết sức hiệu quả, bằng cách liên hệ với các giới chức người Mỹ để cung cấp phương tiện chuyên chở người, và đặc biệt là phẩm vật cứu trợ đến tận tay các nạn nhân bị kẹt tại các vùng bị cô lập lâu ngày, vì đường xá bị hư hỏng, xe bình thường khó mà di chuyển đến được.

*  * Kết quả là trong 3 – 4 tháng cùng chung nhau hoạt động trong Ủy ban Phối hợp Cứu trợ này, anh chị em thanh niên chúng tôi đã học hỏi được rất nhiều về các phương diện “đối nhân xử thế” đối với đồng bào tại các địa phương hẻo lánh, ”về sự giao tế “với các cấp chánh quyền trung ương cũng như địa phương, và nhất là được “chứng kiến tận mắt nỗi khó khăn vất vả” của người nông dân tại các tỉnh miền Trung, vốn xưa nay là vùng đất khô cằn, mà “đất cày lên sỏi đá”.

Thế hệ chúng tôi lúc đó mới ở vào lứa tuổi 20-30, lòng còn đày nhiệt huyết, mà có dịp được sát cánh với nhiều bậc cha bác, các vị huynh trưởng ở Saigon, cũng như ở các địa phương nhằm cứu trợ những nạn nhân rất đông đảo ở các vùng quê bị bão lụt tàn phá, thì mở rộng được nhãn quan để hiểu biết và yêu mến xã hội đất nước và dân tộc của mình hơn trước đây, chỉ có ru rú ở một nơi tiện nghi an toàn của thành phố thủ đô, mà dễ bị lây nhiễm theo lối sống hào nhoáng kiêu sa của lớp người phong kiến, quan liêu trưởng giả. Và chúng tôi cũng đón nhận được những tình cảm thân thương, chân tình và bền chặt của đồng bào các giới, đặc biệt là của bà con từ các miền quê hẻo lánh. Nhờ sự tiếp cận cụ thể với các tầng lớp quần chúng nhân dân như vậy, mà lớp anh chị em chúng tôi có được cái ý thức sâu sắc hơn về các vấn đề xã hội, cũng như văn hóa trong cộng đồng dân tộc thân yêu của mình.

Rõ ràng là qua “chiến dịch cứu lụt” này, anh chị em chúng tôi đã trưởng thành, chín chắn, và chững chạc hẳn ra. Và rút kinh nghiệm từ giai đoạn hoạt động xã hội nhân đạo thực tiễn này, vào đầu năm 1965, bọn chúng tôi lại dấn thân vào một số chương trình hoạt động có quy mô còn lớn hơn công việc cứu lụt này rất nhiều. Đó là “Chương Trình Công Tác Hè 1965” và “Chương Trình Phát Triển Quận 8 Saigon” cũng khởi sự từ năm 1965, mà người viết sẽ xin được trình bày chi tiết cặn kẽ hơn trong các bài sau./

California, Tháng Ba 2010

Đoàn Thanh Liêm

Vaclac Havel và Cách Mạng Nhung ở Tiệp Khắc

Vaclac Havel và Cách Mạng Nhung ở  Tiệp Khắc

Đoàn Thanh Liêm

*     *     *

Tài liệu tham khảo chính yếu :

HAVEL : A Life

by Michael Zantovsky

do Grove Press New York ấn hành

năm 2014, sách dày 543 trang

* * Năm 1989, lịch sử thế giới đã ghi nhận một biến cố cực kỳ quan trọng: đó là sự sụp đổ của chế độ cộng sản tại khu vực Đông Âu để rồi kéo theo sự giải thể của Liên Bang Xô Viết vào cuối năm 1991. Và kể từ đó là sự kết thúc cuộc Chiến Tranh Lạnh (The Cold War) giữa hai khối Cộng sản và Tư bản – cuộc đối đầu thật căng thẳng liên miên giữa hai siêu cường Mỹ và Nga khởi sự ngay sau khi thế chiến II chấm dứt vào năm 1945.

Trong bối cảnh chính trị xã hội sôi động của Đông Âu vào thời kỳ đó, thì tuy chỉ là một nước nhỏ với dân số tổng cộng chỉ vào khỏang 15 triệu người, thì Tiệp khắc đã được cả thế giới chú ý và ca ngợi vì thành tích tranh đấu bền bỉ để dành lại Tự do và Nhân quyền thông qua Phong trào Hiến chương 77 khởi sự từ đầu năm 1977 (The Charter 77 Movement). Và đặc biệt là cuộc Cách Mạng Nhung diễn ra trong các năm 1988 – 1989 (The Velvet Revolution) cùng với một nhân vật lãnh đạo xuất chúng: đó là Vaclac Havel – người sau này được bầu vào chức vụ Tổng thống suốt mấy nhiệm kỳ kéo dài trên 13 năm.

Bài viết này được xây dựng dựa trên những thông tin và tư liệu rất phong phú được chứa đựng trong cuốn sách có nhan đề là: “Havel : A Life” do tác giả Michael Zantovsky biên sọan và cho ấn hành mới đây vào năm 2014 – sau khi Vaclac Havel qua đời vào cuối năm 2011.

I – Sơ lược về tác giả Michael Zantovsky.

Michael Zantovsky hiện đang là Đại sứ của Cộng hòa Czech tại Anh quốc và là Chủ tịch của Viện Aspen Praha. Ông là một trong những thành viên sáng lập phong trào điều hợp công cuộc lật đổ chế độ cộng sản ở Tiệp khắc.

Năm 1990, ông trở thành phát ngôn viên, tùy viên báo chí và cố vấn cho Tổng thống Vaclac Havel. Sau đó, ông giữ chức vụ Đại sứ của Czech tại Washington và Tel Aviv. Ông họat động trên lãnh vực chính trị, ngọai giao và  còn là một tác giả và dịch giả chuyên giới thiệu tác phẩm của các tác giả đương đại của Anh và Mỹ cho độc giả người Tiệp khắc.

II – Giới thiệu tổng quát về cuốn sách “Havel: A Life”.

Là một bạn chiến hứu thân thiết đã từng sát cánh lâu năm với Havel, nên tác giả Zantovsky đã có thể cống hiến cho chúng ta rất nhiều tư liệu và thông tin về đời tư và nhất là về những họat động thật hăng say sôi động của Vaclac Havel (1936 – 2011), đó là một nhân vật cực kỳ nổi danh của Tiệp khắc vào cuối thế kỷ XX qua đầu thế kỷ XXI.

Cuốn sách trải dài 543 trang, được phân chia thành 47 đề mục với mỗi tiêu đề riêng cho từng mục. Tuy vậy, tác giả lại không chia thành những chương, những phân đọan như thường gặp trong các sách khác và cũng không chịu ghi số thứ tự của mỗi mục. Vì thế mà  người đọc gặp khó khăn trong việc theo dõi diễn biến của các sự việc với vô số chi tiết xảy ra xung quanh cuộc sống và họat động của Havel là nhân vật chính yếu của tác phẩm.

Đại cương, ta có thể ghi nhận tóm lược về cuộc đời của Havel với mấy nét nổi bật như sau:

(II) 1 – Trong thế chiến II, gia đình của Havel đã phải trải qua những đày đọa do chế độ độc tài Đức Quốc Xã gây ra cho tòan thể nước Tiệp Khắc. Rồi sau khi hết chiến tranh chẳng bao lâu, thì kể từ năm 1948 chế độ cộng sản do Stalin lãnh đạo đã bao trùm lên tòan thể khu vực Đông Âu và cậu bé Havel vừa đến tuổi 12, thì đã bị gạt ra ngòai lề xã hội, không được tiếp tục đi học và cũng thật khó mà kiếm được một việc làm tương đối ổn định – vì lý do là cậu xuất thân từ một gia đình tư sản địa chủ được coi như là một thứ “kẻ thù của cách mạng vô sản”.

Tuy vậy, do cố gắng vượt bậc vào độ tuổi 30 Havel đã trở thành một nhà viết kịch có tên tuổi với nhiều vở kịch được công chúng trong nước cũng như ngòai nước yêu chuộng – nhờ vậy mà ông đã có thể sống tự túc được bằng công việc sáng tác.

(II) 2 – Biến cố Mùa Xuân Praha năm 1968 và tiếp theo là cuộc “xâm lăng ào ạt” của các đạo quân thuộc khối Liên minh Quân sự Varsava do Liên Xô điều động để xâm nhập vào Tiệp khắc – nhằm dẹp bỏ cái chủ trương “Xã hội chủ nghĩa với bộ mặt nhân bản” (Socialism with Human Face) do giới lãnh đạo cộng sản địa phương phát động – đã khơi dậy tinh thần quật cường yêu nước của đa số nhân dân Tiệp khắc.Điển hình là vụ tự thiêu vào đầu năm 1969 của sinh viên Jan Palach tại công trương Wensceslav nơi trung tâm thủ đô Praha.

Và rồi với Thỏa ước Helsinki năm 1975, phong trào tranh đấu nhân quyền trong các quốc gia do cộng sản Liên Xô cầm trịch đã nhất lọat vùng lên – sự kiện này lại càng tiếp sức cho công cuộc đòi hỏi tự do và nhân quyền ở Tiệp khắc kể từ ngày nước này bị Liên Xô chiếm đóng sau vụ Mùa Xuân Praha như đã ghi ở trên.

Và chính trong bối cảnh chính trị xã hội sôi động đó mà Havel đã dấn thân nhập cuộc cùng với các bạn đồng chí hướng với mình trong việc đòi hỏi nhà nước cộng sản đương quyền phải trả tự do cho những tù nhân lương tâm bị giam giữ vô lý  – điển hình như vụ các nghệ sĩ bị đàn áp vì lý do trình diễn lọai nhạc theo trào lưu Rock N Roll ở các nước Tây phương. Đó là điểm xuất phát của Phong trào Hiến chương 77 với sự phổ biến tòan văn Bản Hiến chương này được gửi đến chính quyền cộng sản. Ta sẽ bàn thảo chi tiết về biến cố cực kỳ quan trọng này khởi sự từ đầu năm 1977 ở mục sau.

(II) 3 – Tiếp theo là cuộc Cách Mạng Nhung phát động vào năm 1988 – 89 đưa đến thắng lợi cuối cùng là giải thể được chế độ cộng sản vào cuối năm 1989 và sau đó Vaclac Havel được dân chúng tín nhiệm giao cho trách nhiệm lèo lái con thuyền quốc gia Tiệp khắc trong giai đọan xây dựng và tái thiết đất nước kể từ đầu thập niên 1990.

Lãnh tụ Havel đã được cả thế giới biết đến và yêu chuộng vì phong cách hòa ái nhân hậu khi điều hành guồng máy nhà nước – mà cũng vì lập trường tranh đấu bất bạo động và hết sức kiên cường chống lại chế độ độc tài chuyên chế cộng sản. Ta sẽ ghi thêm chi tiết về họat động của người nghệ sĩ và chiến sĩ Havel trong mục sau.

III – Vaclac Havel là một nghệ sĩ mà cũng là một chiến sĩ nữa.

Là người sọan kịch (playwright) với nhiều tác phẩm được công chúng tán thưởng yêu chuộng, Havel luôn cố gắng trau dồi vê học thuật tư tưởng theo truyền thống nhân bản của Âu châu. Nhờ vậy mà ông đã có được một căn bản sở học vững vàng để hội nhập được với trào lưu văn hóa tiến bộ của thế giới.

Và mặc dầu phải sống trong khung cảnh ngột ngạt do sự kềm kẹp của Liên Xô sau biến cố Mùa Xuân Praha năm 1968, Havel vẫn tìm cách liên hệ được với giới văn nghệ sĩ trí thức tại các nước Âu Mỹ qua những vở kịch được trình diễn ở nước ngòai. Nhờ đó, mà ông được sự yểm trợ và bênh đỡ tận tình của những nhân vật có tên tuổi trên thế giới – mỗi khi bị nhà cầm quyền cộng sản đàn áp, bắt giam vì những họat động tranh đấu cho Tự do và Nhân quyền. Dưới đây, ta sẽ xem xét chi tiết hơn về sự nhập cuộc của Havel khi bước vào tuổi 30. Và sau đó, cũng điểm qua một số thành tích nổi bật nhất của ông trong thời giam giữ chức vụ Tổng thống của Tiệp khắc tự do dân chủ.

(III) 1 – Cuộc tranh đấu kiên cường ròng rã suốt trên 20 năm (1968 – 1989)

Nói chung, sau vụ khối Liên Xô kéo quân đội vào Tiệp khắc năm 1948, thì giới trí thức văn nghệ sĩ tại xứ này cũng như tại Đông Âu lại càng trở nên bất mãn và chống đối lại chính quyền cộng sản do Liên Xô áp đặt để kềm kẹp dân chúng chặt chẽ, khắc nghiệt hơn nữa – theo chính sách mà họ gọi là “bình thường hóa” (normalisation) để tái lập quyền thống trị tòan diện của đảng cộng sản chống lại khuynh hướng cải cách (reformist). Havel đã mỗi ngày tham gia nhiệt thành hơn vào cuộc tranh đấu của những phần tử cấp tiến nhất trong giới văn nghệ sĩ trí thức tại quê hương mình.

Nổi bật nhất là việc Havel góp phần sọan thảo bản văn của Hiến Chương 77 và rồi được giao phó trách nhiệm là một trong ba người phát ngôn viên của tổ chức này (spokeman). Lời văn nhẹ nhàng, khiêm tốn, nhưng nội dung thật dứt khóat tập chú vào việc đòi hỏi chính quyền phải tôn trọng nhân quyền bằng cách thả những người bị bắt giữ vì lý do chính kiến bất đồng (dissident).

Cũng vì tích cực hành động như vậy mà Havel đã bị giam giữ ngặt nghèo liên tục đến gần 5 năm từ năm 1978 đến 1983.

Tiếp đến là vào năm 1988, nhân kỷ niệm 40 năm ngày công bố Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (1948 – 1988), giới tranh đấu lại quy tụ với nhau dưới danh nghĩa “Diễn Đàn Công Dân” (Civic Forum) để đẩy mạnh hơn nữa cuộc tranh đấu cho Tự do và Nhân quyền. Và đó là căn nguyên của cuộc Cách Mạng Nhung đưa đến sự sụp đổ dứt khóat của chế độ cộng sản ở Tiệp khắc vào cuối năm 1989. Gọi là Cách Mạng Nhung bởi vì không hề có bạo động đổ máu và cũng không có sự trả thù của bên thắng cuộc là phe tự do dân chủ của Havel đối với những cựu đảng viên cán bộ cộng sản ở bên thua cuộc.

Tổng thống Havel được quốc tế ca ngợi và mến phục vì thái độ trượng phu quân tử khi nắm quyền lãnh đạo quốc gia sau khi chế độ cộng sản sụp đổ năm 1989 đó vậy, mặc dầu ông cũng bị một số bà con đồng bào ấm ức bất mãn vì chuyện quá ư nhân đạo bao dung cho kẻ đã từng gây ra bao nhiêu tội ác trong suốt hơn 40 năm đảng cộng sản nắm giữ quyền hành.

(III)  2 – Một vị Tổng thống được nhiều người mến mộ.

Từ sau năm 1990, ít có vị lãnh đạo quốc gia nào mà lại được tòan thể chính  giới quốc tế ca ngợi mến chuộng như là đối với Tổng thống Havel của Tiệp khắc, một nước nhỏ mà vừa mới thóat khỏi ách cộng sản do thắng lợi kỳ diệu của cuộc Cách Mạng Nhung. Nhưng thành tích nổi bật nhất của Tổng thống Havel là ông đã thật khôn ngoan nhiệt thành trong việc vận động để Tiệp khắc được gia nhập minh ước phòng thủ  NATO và tiếp theo là gia nhập vào Liên Hiệp Âu Châu (EU = European Union).

Đó quả thật là một kỳ công để Tiệp khắc có thể trở về trong vòng tay ấm cúng của đại gia đình Âu châu vốn có truyền thống văn hóa lịch sử cũng như học thuật tư tưởng sáng chói –  mà nước này cũng như Ba Lan, Hungary ở Đông Âu đã chia sẻ chung với nhau từ cả ngàn năm trước. Chỉ có tầm nhìn thật bao quát rộng lớn của người nghệ sĩ trí thức như Vaclac Havel mới có thể lôi cuốn thuyết phục được giới lãnh đạo chính quyền cũng như xã hội dân sự tại các nước Tây Âu và Hoa kỳ chấp thuận cho Tiệp khắc hội nhập êm thăm với cộng đồng Tây Âu như vậy mà thôi.

(III)  3 – Một số tác phẩm tiêu biểu của Vaclac Havel.

Tại cuối sách “Havel:A Life”, tác giả Michael Zantovsky đã ghi ra khá nhiều tác phẩm của Havel mà ông đã trích dẫn trong sách. Xin ghi nơi đây một số tác phẩm tiêu biểu ;

A – “Disturbing the Peace” do Paul Wilson dịch, ấn hành năm 1990.

B – “Letters to Olga” cũng do P.Wilson dịch, ấn hành 1990. Olga là bà vợ lâu năm của Havel, hai người không có con với nhau. Bà chết vì bệnh ung thư năm 1995. Sau khi Olga mất, Havel tục huyền với Dasa Dagmar.

C – “Toward a Civil Society” do P. Wilson và những người khác dịch, ấn hành năm 1995.

D – “ The Power of the Powerless” tiểu luận viết năm 1978  (có đề tặng và  tưởng niệm triết gia Jan Patocka người bị chết sau cuộc điều tra của công an mật vụ vì là đồng tác giả và phát ngôn nhân của Hiến chương 77).Bản dịch tiếng Anh ấn hành năm 1985 tại London.

E – “Selected Plays, 1963 – 83”, do Vera Blackwell dịch ấn hành tại London năm 1992

*  * Tóm tắt lại, Vaclac Havel là một nhân vật xuất chúng của Tiệp khắc vào cuối thế kỷ XX sang đầu thế kỷ XXI. Ông là một đại diện nổi trội nhất của tầng lớp trì thức văn nghệ sĩ tại Đông Âu với lòng dũng cảm kiên trì trong phong trào tranh đấu bất bạo động cho Tự do, Dân chủ và Nhân quyền để đạt tới thắng lợi cuối cùng vào năm 1989 – là dẹp bỏ dứt khóat được chế độ cộng sản độc tài tòan trị do Liên Xô áp đặt trên quê hương đất nước ông từ năm 1948. Cả thế giới đều ngưỡng mộ con người kiệt xuất này của thời đại chúng ta ngày nay vậy./

Costa Mesa California, Tháng Sáu 2015

Đoàn Thanh Liêm

Tình Yêu Thương trong Hành Động

Tình  Yêu  Thương  trong  Hành  Động

( Love  in Action )

( Hồi tưởng về một ngày sinh họat với giới trẻ ở Hòa Lan năm 1971)

Đòan Thanh Liêm

Đầu năm 1971, tôi được mời qua tham dự một ngày “Trò chuyện với Giới Trẻ” tại thành phố Utrecht ở Hòa Lan. Đây là một thứ Đại Hội của giới trẻ nhân dịp đầu năm với cái tên thật ngộ nghĩnh : “Palaver” theo tiếng Anh, còn tiếng Pháp thì viết là “Palabre” mà phiên âm ra Việt ngữ là “Ba láp”, tức là nói thả giàn, lung tung ( Có người còn gọi là “ba láp, ba xàm” hàm nghĩa là không nghiêm chỉnh). Nhưng mà chủ đề của Palaver 1971 thì lại rất là nghiêm túc, đó là : “Love in Action” (Tình Yêu Thương trong Hành Động).

Dịp đó, từ đầu tháng 12 năm 1970, tôi qua tham dự sinh họat với Nhóm Thành lập INODEP (Institut oecumenique au service du developpement des peuples = Viện Đại Kết Phát triển Các Dân Tộc) ở Paris. Nhân tiện Ban Tổ chức ở Hòa Lan cũng mời tôi đến tham dự luôn, sau khi công việc ở Pháp đã hòan tất. Từ Paris, tôi đi xe lửa qua thủ đô Bruxelles nước Belgique để thăm gia đình anh chị Nguyễn Văn Tánh/Lê Thị Bạch Nhựt, rồi từ đó lại đi tiếp qua Hòa Lan. Xe lửa xuyên Âu châu hồi đó đã khá là tiện nghi, thuận tiện.

Lúc đó ở Việt nam chiến tranh còn đang diễn ra tàn khốc, khói lửa tang thương khắp nơi mù mịt. Mà ở các nước Âu châu, thì cuộc sống thật là thanh bình êm ả, thịnh vượng sung túc.

Ban Tổ chức là do Liên Hiệp  các Hội Thánh Kinh (Union of Bible Societies) đứng ra đảm trách việc quy tụ giới trẻ để cùng nhau trao đổi về việc sống theo tinh thần của Tin Mừng trong thời đại hiện nay. Người đại diện cho tôi biết : “ Chúng tôi đã phân phát ra cả hàng triệu cuốn sách Thánh Kinh cho công chúng; nhưng mà chẳng thấy có được mấy người chịu khó đọc và học hỏi về Thánh Kinh cả. Vì thế cho nên chúng tôi từ mấy năm nay, mới tổ chức các buổi Palaver như thế này, để tạo cơ hội cho thế hệ trẻ trao đổi, chuyện trò thỏai mái về những đề tài cụ thể, thiết thực liên quan đến cuộc sống thường ngày của họ (everyday life). Chúng tôi không thể áp dụng cái lối giảng đạo cứng nhắc như ngày trước, mà bây giờ bị coi là nhàm chán lỗi thời mất rồi…” Một vị khác lại nói thêm: “ Chúng tôi mời các vị khách quốc tế đã từng dấn thân phục vụ như ông trong hòan cảnh khó khăn thiếu thốn ngặt nghèo ở các nước trong thế giới thứ ba, hay tại các nơi có chiến tranh như ở Việt nam của ông, để mong các “guestspeaker” này, mỗi người một vẻ, gửi cái chứng từ của việc quý vị đang làm tại xứ sở của mình cũng chính là “thể hiện cái tình yêu thương đồng lọai bằng những hành động cụ thể, trong môi trường riêng biệt của mỗi vị. Tuổi trẻ của chúng tôi ở Hòa Lan hiện đang sống trong cảnh sung túc, an bình thịnh vượng, nên nhiều khi đã sao lãng không chú ý gì đến người đồng lọai đang đau khổ ở nhiều nơi vì đói rét, vì bất công áp bức, hay vì chiến tranh tàn sát với lòng hận thù cuồng nhiệt … Xin quý vị cứ thỏai mái nói lên cái kinh nghiệm và cảm xúc của mình, hầu giúp cho con em chúng tôi có được sự thông cảm và liên đới với nhân dân trong xứ sở của quý vị…”

Địa điểm tổ chức là khu vực trình diễn tranh tài thể thao gồm nhiều tòa nhà rất đồ sộ rộng lớn, có sức chứa đến cả mấy vạn người. Thời tiết đang ở giữa mùa đông, nên nhiệt độ ngòai trời rất thấp, cỡ trên dưới zero độ bách phân. Thành ra trong các tòa nhà đều phải có hệ thống sưởi ấm cho đủ tiện nghi. Buổi sáng được dành cho việc thăm viếng các gian hàng triển lãm tranh ảnh, vừa có tính cách mỹ thuật, vừa có tính thời sự, trưng bày đồ thủ công mỹ nghệ từ các nơi xa của các tổ chức nhân đạo từ thiện gửi tới, lại có một số diễn đàn dành cho các khách từ ngọai quốc đến trao đổi theo yêu cầu của công chúng. Năm đó, đề tài gây được sự chú ý nhất là “ Vấn đề tranh đấu bất bạo động theo tinh thần của Thánh Gandhi và nhất là của Mục sư Luther King là người vừa mới bị ám sát tại Mỹ năm 1968”.Dĩ nhiên là cũng có nhiều quày bán đồ ăn, thức uống cho số khách tham dự rất là đông đảo, đặc biệt là lớp trẻ từ 14-15 đến 20-25 tuổi. Tính ra có đến trên vài chục ngàn người tham dự Ngày Đại Hội này.

Mục chính yếu của Palaver gồm hai phần được bắt đầu vào lúc 1.00 PM tại đại sảnh đường và kéo dài đến 5.00 PM. Hai phần đó là :

1/ Cuộc thi hát trong chương trình “Relipop Song Festival”, tức là Religious Popular Song (Ca nhạc Tôn giáo Đại chúng).

2/ Diễn thuyết của 7 khách mời quốc tế (International Guestspeakers).

Cuộc thi hát chung kết đã rất sôi động hào hứng do sự hợp tác của nhiều tổ chức văn hóa tôn giáo của tòan thể các nước Tây Âu, trong đó có Đài truyền Hình Âu châu (Euro-Vision). Do vậy mà giới truyền thông báo chí tới theo dõi làm phóng sự rất đông. Ban giám khảo gồm 5 vị đều là các nhạc sĩ nổi danh từ nhiều nước Âu châu. Và số thí sinh trình diễn cũng khá đông và đều là các ca sĩ nổi tiếng. Đó là các ca sĩ đã lọt qua được vòng sơ khảo tại mỗi quốc gia, nay thì họ đại diện cho xứ sở của mình để tranh giải chung kết của tòan Âu châu. Đáng chú ý nữa là cả một ban nhạc hùng hậu của Salvation Army từ London cũng đến, để tiếp sức khơi động hào khí nhiệt thành của tòan thể lớp khán giả, mà hầu hết đều còn rất trẻ ở vào tuổi teen age.

Những bài hát trình diễn tuy là phản ảnh tâm tình đạo đức tôn giáo, nhưng đó không phải là thứ “Thánh ca phụng vụ” (Liturgical Song) như các ca đòan vẫn hát ở nhà thờ trong các thánh lễ. Và bài ca này lại có tính cách phổ biến rộng rãi trong quần chúng, chứ không phải hòan tòan có tính cách nghệ thuật trau chuốt. Và kết cục, ca sĩ người Hòa Lan năm ấy đã được Ban Giám Khảo đồng thuận trao giải nhất cho bài ca cô trình diễn.

Về phần các diễn giả quốc tế, thì năm ấy có tất cả 7 vị từ Á châu, Phi châu và châu Mỹ La tinh. Mỗi người chỉ được có 7 phút để trình bày, kể cả thời gian để dịch ra tiếng Hòa Lan nữa. Mỗi diễn giả được mời phát biểu xen lẫn vào giữa các bài hát của các ca sĩ đại diện mỗi nước Âu châu. Nhờ vậy mà các bài diễn thuyết không bị dồn cục vào cùng một lúc, khiến cho cử tọa dễ buồn chán. Tôi thấy mỗi diễn giả đều trình bày ngắn gọn và gây được sự chú ý theo dõi của mọi người, xuyên qua câu chuyện dí dỏm, độc đáo và đặc thù của hòan cảnh thực tế sinh động trong môi trường sinh họat tại địa phương của từng người diễn giả một. Cụ thể là cử tọa đã luôn vỗ tay tán thưởng nồng nhiệt sau mỗi lần trình bày của các diễn giả.

Riêng tôi là người từ Việt nam đến, thì được cử tọa chú ý hơn là vì lý do tin tức và hình ảnh về cuộc chiến tranh được phổ biến hàng ngày trên báo chí, radio, tivi. Tôi nói đại ý là : “ Người Việt nam chúng tôi như đang sống trong địa ngục chiến tranh, mà ở Hòa Lan thanh bình này, thì các bạn như đang sống ở thiên đàng vậy. Nhưng sau mấy ngày nữa, thì tôi cũng lại trở về với gia đình, với bà con bạn hữu của tôi ở Việt nam, dù nơi đó đang quả thật là một thứ “địa ngục trần gian”. Tôi phải trở về để sống chết với gia đình và dân tộc thân yêu của tôi. Đơn giản vậy thôi. Cụ thể, thì tôi vẫn tiếp tục tham gia vào công việc từ thiện nhân đạo để chăm sóc cho các nạn nhân chiến cuộc (war victims), ngay trong vùng ven biên thành phố tại các quận 6,7 và 8 Saigon, nơi mà cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968 đã tàn phá hàng mấy chục ngàn căn nhà, sát hại bao nhiêu nạn nhân thường dân vô tội, như các bạn đã thấy rất rõ trên màn ảnh tivi. Điều mong ước sâu xa nhất của người dân Việt nam chúng tôi là : “Làm sao chấm dứt được cuộc chiến tranh tàn bạo này, để cho chúng tôi cũng được sống an lành như các bạn trên xứ sở Hòa Lan thanh bình này…”

Sau đó, thì chị Elisabeth trong ban Tổ chức có trao đổi tâm sự với tôi, đại khái chị nói như sau : “ Chúng tôi nhận được cái tín hiệu(message) của anh gửi đến cử tọa rất rõ ràng, chân thực. Đó là một đóng góp rất quý báu, giúp cho giới trẻ Hòa lan chúng tôi hiểu biết và thông cảm hơn với nỗi khổ đau của người dân Việt nam trong cuộc chiến tranh tàn khốc hiện nay. Chúng tôi cũng mong ước có thể đóng góp phần nào trong việc dập tắt được cái ngọn lửa chiến tranh đó, như lời kêu gọi rất ư là thống thiết, chân tình của anh…”

Cũng trong dịp ban Tổ chức khỏan đãi các diễn giả chúng tôi tại bữa tiệc kết thúc Palaver, tôi còn có cơ hội trao đổi chi tiết và thân mật hơn với các bạn quốc tế khác, kể cả người Hòa Lan là chủ nhà. Nhờ vậy mà thắt chặt hơn nữa cái mối tình liên đới keo sơn giữa những anh chị em cùng nhằm chung về một hướng, đó là phục vụ cụ thể cho những người đồng lọai kém may mắn hơn trong môi trường xã hội địa phương của mình.

Nói chung, thì tôi học hỏi được rất nhiều qua những cuộc gặp gỡ trao đổi thân tình như thế này. Nó còn giúp cho tôi thêm nghị lực để tiếp tục công việc cụ thể, tích cực là :“Đem yêu thương vào nơi óan thù” như trong kinh nguyện Hòa bình của Thánh Phanxicô, mà bây giờ người công giáo ở Thái Hà đang hát mỗi ngày./

California, Tháng Năm 2009

Đòan Thanh Liêm