Dịch Cân Kinh. Cách Tập và Kinh Nghiệm – Huỳnh Bửu Khương

Dịch Cân Kinh. Cách Tập và Kinh Nghiệm – Huỳnh Bửu Khương

Gần đây tôi có đọc loạt bài Đạt Ma Dịch Cân Kinh của BS Lê Quốc Khánh trong nhật báo Người Việt ngày 17 và 18/11/2000 và thấy rất vui mừng khi biết tập Cân Kinh lợi thấy rõ, người nào có bệnh thì Cân Kinh có thể chữa được nhiều bịnh nan y trong đó có cả bịnh ung thư. Do đó tôi muốn góp thêm ý kiến bằng cách nói lên kinh nghiệm bản thân về việc tập Dịch Cân Kinh để giúp đỡ độc giả hiểu rõ hơn cách luyện tập và củng cố lòng tin vào phương pháp tập luyện nàỵ

Vào năm 1974, chúng tôi được anh Nguyễn Kim Tri, Thiếu tá ở Võ Phòng Tổng Thống, cho chúng tôi phóng ảnh của quyển Dịch Cân Kinh bằng tiếng Tàu và khuyên chúng tôi nên tập luyện theo sách ấy, rất tốt cho sức khoẻ, vì đây là cách luyện tập của chùa Thiếu Lâm dành cho môn sinh luyện trước khi học võ.

Sau đó chúng tôi nhờ người dịch đại ý của quyển sách và tập luyện. Sau bốn tháng tập luyện mọi người trong phòng tôi (Khối Đặc Biệt, Trung Tâm Phối Hợp Thi Hành Hiệp Định Ba Lê, Phủ Tổng Thống) đều đạt kết quả tốt. Người nào không có bịnh thì đều lên cân, da dẻ hồng hào thấy rõ, người nào có bịnh thì bớt bịnh. Ông Long, thư ký đánh máy, bị huyết áp cao thì sau 4 tháng tập, huyết áp xuống bình thường mặc dầu không có uống thuốc. Lúc ấy ngày nào tôi cũng tập 1,200 cái đánh tay (Lúc mới khởi sự tập 200, về sau tăng dần)…

Sau tháng 4 năm 1975, suốt thời gian ở trong các trại cải tạo từ miền Nam ra tới miền Bắc, ngày nào tôi cũng tôi cũng tập Dịch Cân Kinh một lần, và vẫn giữ mức 1200 cái đánh taỵ Nhờ vậy mà mặc dù ăn đói và rất ốm yếu, tôi vẫn có thể chịu được và ít bịnh. Anh em nói vì tôi là quan văn trong nghành võ (luật sư Toà Thượng Thẩm Sài Gòn, thiếu tá) nên không có sức chịu đựng bằng các anh em khác, phần đông là tiểu đoàn trưởng tác chiến, quận trưởng hoặc hạm trưởng Hải quân cấp chỉ huy Biệt Kích Dù, an ninh quân đội v.v…

Hồi mới ra Hoàng Liên Sơn ở huyện Văn Chấn, thuộc tỉnh Nghĩa Lộc cũ, vào tháng 7 năm 1976, mỗi lần đi lấy gạo, tôi cùng một anh nữa khiêng lối 20, 25 kí đi bộ 7,8 cây số đường rừng. Khi về gần tới trại có đèo 19 tháng 5 rất cao, thường tôi yêu cầu anh cùng khiêng với tôi phải ngồi nghỉ một chút rồi mới đi tiếp. Sau đó tôi nói với thầy Thuần, một Đại Đức, thiếu tá tuyên úy Phật giáo, người ở cùng một láng và cùng tập Dịch Cân Kinh với tôi mỗi ngày, về việc tôi qua không nổi đèo 19 tháng 5. Thầy nói: “Bác cứ tập lên 2000 cái cho tôi, bác sẽ qua nổi đèo ấỵ Nghe lời thầy Thuần, tôi tập lên đến 2000 cái đánh tay mỗi ngàỵ

Và lối nửa tháng sau, khi đi lấy gạo, tôi được giao phải vác một mình 20 kí, (vì họ cho rằng chúng tôi ra Bắc một thời gian rồi, phải vác nổi 20 kí đi xa), nặng gấp đôi lần trước, thế mà khi qua đèo 19 tháng 5 tôi qua luôn, không phải ngừng lại để nghỉ như trước. Tôi biết ngay là nhờ tập Dịch Cân Kinh theo lối thầy Thuần chỉ nên mới đạt được kết quả ấy, chớ việc ăn uống thì chúng tôi vẫn bị đói dài dài (ở miền Bắc trong ba năm đầu gia đình không được gởi thực phẩm cho chúng tôi).

Hồi đó tôi tập nổi 2200 cái đánh tay cho mỗi lần là nhờ hằng ngày tôi phải leo núi, đồi, phải làm việc nặng nên chân mạnh hơn lúc ở Sài Gòn. Chân phải mạnh, rắn chắc thì tập mới lâu được, vì suốt buổi tập mình phải đứng tấn.

Tôi còn nhớ, có một hôm chúng tôi phải khiêng một khúc cây to. Anh bộ đội nói “Chỉ cần 10 người khiêng cây này, anh nào yếu cho khỏi khiêng.” Tôi đưa tay lên xin khỏi khiêng vì tôi biết là tôi yếu nhất trong anh em. Đồng thời có một anh nữa, anh Duyệt cũng đưa tay. Anh bộ đội trỏ tôi và nói: “Anh không yếu bằng anh này” vưà chỉ anh Duyệt. Sau đó tôi nhìn lại thì thấy anh Duyệt mặt mày xanh xao mặc dù thực sự anh mạnh hơn tôi. Nhờ tập Dịch Cân Kinh mỗi ngày nên dù ăn đói nhưng da mặt tôi không xanh mét như một số anh khác.

Tập Dịch Cân Kinh giúp mình luôn luôn ngủ ngon và không bao giờ bị táo bón, máu huyết được lưu thông mạnh trong thời gian tập, nhờ đó da dẻ chúng ta luôn được hồng hào và bệnh tật tan biến đi.

Sau đây tôi xin nói về cách tập thế nào cho đúng. Khi chúng tôi mới có cuốn Đạt Ma Dịch Cân Kinh, chúng tôi coi theo hình vẽ trong đó mà tập theo. Sau lối hai tuần tập luyện, chúng tôi thấy không có kết quả gì cả. Do đó chúng tôi phải nhờ người dịch cuốn sách ấy, và khi tập đúng cách rồi thì kết quả thấy rất rõ.

Tôi xin diễn tả tư thế và việc phải làm của một người tập Dịch Cân Kinh:

  1. Người tập Dịch Cân Kinh nên đi giầy hay dép, không nên đi chân đất,

Hai chân dang ra, khoảng cách giữa hai ngói chân cái bằng khoảng cách của hai vai, hai bàn chân bám chặt xuống giầy hay dép

  1. Gồng cứng bắp chuối và bắp vế chân, hậu môn nhíu lại và thót lên.

Suốt buổi tập hai chân như trồng cây xuống đất, từ thắt lưng trở xuống luôn luôn cứng nhắc, không suy suyển

Tóm lại đó là thế đứng tấn của người luyện võ. Nếu đã dang hai chân đúng tầm, đã gồng (lên gân) hai chân thật chắc, bám mười ngón chân thật chặt xuống dép hoặc giầy, nhíu hậu môn lại và thót lên rồi thì ta thấy từ thắt lưng trở xuống chân thật là chắc nịch.

Và trong suốt buổi tập ta phải luôn chú ý đến phần từ thắt lưng trở xuống và làm đúng như thế.

Nếu ta không chú ý đến phần này thì công phu luyện tập sẽ mất gần hết, không mang lại kết quả mong muốn.

  1. Đầu như dây treo (giống như có sợi dây treo mình lên vậy) để cổ được thẳng, mặt ngó về phía trước, nhìn một điểm cao hơn mình một tí để cổ không rùng xuống.
  2. Ở miệng, hai môi chạm nhẹ vào nhau, không mím môi cũng không hở môi. Hai hàm răng chạm nhẹ vào nhau (đầu chót luỡi chạm nướu răng trên để luồng điện được lưu thông)
  3. Ở mỗi bàn tay, các ngón luôn dính vào nhau (chớ không phải xòe ra, sách có vẽ hình rất rõ về điểm này). Khi đánh tay, lòng bàn tay hướng về phía sau (tức là mu bàn tay đưa ra phía trước). Động tác duy nhất là đánh hai tay từ phía trước ra phía sau. Khi đưa hai tay ra phía trước, hai cánh tay sẽ hợp với thân người thành một góc 30 độ. Khi đánh tay ra phía sau, một góc 60 độ.

Tóm lại khi đánh tay ra phía sau, đánh hết tay. Khi đưa hai tay ra phía trước chỉ là một cái trớn của việc đánh tay ra phía sau còn lại mà thôi, do đó chỉ có 30 độ.

Mỗi lần đánh tay từ phía trước ra phía sau thì kể một cái đánh tay. Khi mới bắt đầu tập, nên khởi sự đánh tay 200 cái mỗi lần tập. Nếu muốn mau có kết quả thì tập mỗi ngày hai lần, sáng và chiều. Còn nếu có ý chí lớn hơn nửa thì tập ba lần mỗi ngày (sáng, trưa, chiều) càng tốt.

Tập ở ngoài sân hay ở trong nhà đều được miển là thoáng khí và yên tĩnh.

Không nên tập sau khi ăn cơm no. Khi thấy mệt là nghỉ ngay, không nên tập quá sức, và khi còn có thể tập nữa mà không mệt thì nên tiếp tục tập cho đúng sức mình.

Khi mới tập, khởi sự bằng 200 cái đánh tay mỗi lần tập, về sau khi thấy còn có thể tập thêm thì tăng lên dần, thí dụ 250, 300, 350, v.v… Hồi tôi mới tập một thời gian ngắn sau là tôi lên đến 1200 cái đánh tay cho mỗi lần tập (trong 15 phút). Hồi đó còn trẻ nên tôi đánh rất nhanh, và mỗi ngày tôi chỉ tập một lần . Sau khi tập xong ta thấy khát nước (nên uống nước ngay), đó là tập vừa sức . Sau khi tập tôi thường đi chậm bằng cách giở chân lên cao, vừa co giản hai cánh tay.

Có người mới khởi sự đã tập trên 1000 cái thì mặt bị nổi mụt ngay. Nếu tập đúng cách tôi thấy không có bị phản ứng gì cả mà càng ngày ta càng thấy khỏe ra. Mình tập đuợc nhiều hay ít là do mình có thể đứng tấn được bao lâu, chứ không phải ai muốn tập bao nhiêu lần cũng được. Còn nếu đánh tay để đếm số lần cho được nhiều mà không gồng (lên gân) hai chân cho thật cứng chắc và nhíu hậu môn lại, thót lên thì sẽ không đạt được kết quả mong muốn.

Về tốc độ đánh tay thì sách nói đánh tay nhanh như người đi đánh đồng xa . Đánh tay càng nhanh thì máu huyết lưu thông càng mạnh trong thời gian ấy, và sẽ cuốn theo mọi bệnh tật .

Sách nói muốn tập trị bệnh thì nên tập từ 2000 – 3000 cái mỗi ngày trong vòng lối 30 phút.

Và sau đây là hai nguyên tắc quan trọng cần phải áp dụng trong lúc tập:

1) Thượng tam hạ thất:

Nếu trong thời gian tập mình dùng 10 phần sức lực thì từ thắt lưng trở xuống mình dùng đúng 7 phần và phải luôn luôn chú ý đến việc gồng cứng (lên gân) hai chân, nhíu hậu môn lại và thót lên.

Từ thắt lưng trở lên, mình dùng 3 phần sức lực .

Đó gọi là thượng tam hạ thất, là thượng hư hạ thực, trên ba dưới bảy, hay trên hư dưới thực.

Trong việc đánh tay cũng thế. Khi đưa tay ra phía sau dùng 7 phần sức lực, đưa ra trước thì chỉ dùng 3 phần.

Trước ba sau bảy, hay trước hư sau thực, đánh tay ra phía sau mới là thực cần thiết, và phải đánh cho hết tay.

2) Tâm bình khí tịnh:

Trong suốt thời gian tập ta không được suy nghĩ điều gì (điều này hơi khó) ngoại trừ việc nhẩm đếm số lần đánh tay. Đó là tâm bình. Còn khí tịnh là trong thời gian tập ta thở bình thường, chứ không phải thở theo nhịp tay.

Có một môn phái thở theo nhịp tay, nghe nói đó là phái Võ Đang. Nhưng phái Thiếu Lâm Tự thì không thở theo nhịp tay.

Hồi tôi ở Hoàng Liên Sơn, tôi tập không thở theo nhịp tay, thầy Thuần thở theo nhịp tay, cả hai chúng tôi đều đạt kết quả tốt .

Sau cùng tôi xin nói một vài kinh nghiệm trong khi tập:

Nếu đánh tay nhanh mà ta thấy tê mười đầu ngón tay thì đó là vì ta không nhíu hậu môn và thót lên, hoặc là vì ta để hở mười ngón tay (bàn tay năm ngón phải để dính với nhau, không được hở, điều này trong sách có vẽ hình rõ lắm).

Nếu lúc tập mà ta thấy đầu hơi nặng là vì cổ ta không thẳng, đầu không như dây treo, luồng điện thay vì đi xuống lại đi nguợc lên đầu.

Hồi ở Hoàng Liên Sơn, tối nào tôi cũng ra sân tập và đeo bao tay vi` trời lạnh. Khi đánh tay được lối 1500 cái trở lên là tôi thấy ấm người, khỏi mang bao tay nữa, và mỗi cái đánh tay nghe như có hai luồng điện chạy xuống hai chân vậy.

Bây giờ đã lớn tuổi, tôi chỉ tập nổi tối đa là trên dưới 800 cái đánh tay mỗi lần mà thôi. Thêm vào đó, ngày nào tôi cũng đi bộ ít nhứt nữa giờ và tôi thấy rất tốt cho sức khỏe, rất tốt cho việc tập Dịch Cân Kinh. Trong tất cả các môn tôi đã tập (hồi ở VN tôi tập dưỡng sinh trong vườn Tao Đàn), tôi nhận thấy môn Dịch Cân Kinh của Đạt Ma Tổ Sư là hữu hiệu hơn cả. Nhưng điều cần yếu là phải tin tưởng và kiên nhẫn tập đều đặn thì mới có kết quả.

Huỳnh Bửu Khương

Nhu Cầu Cận-Tử – Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức 

Nhu Cầu Cận-Tử

Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức 

…Cận-Tử là thời gian lão đang lần bước tới ngưỡng cửa Tử Biệt, của sự “dùng dằng nửa ở nửa đi”. Mà dùng dằng thì còn đôi chút quyến luyến, tiếc rẻ, nấn ná, cố kéo dài một it thời gian với cuộc đời. Nấn ná vì lão vẫn không tin rằng lão chỉ còn dăm tháng để hít thở không khí trần gian, để được gần gũi người vợ hiền, bầy con cháu. Và bạn bè quyến thuộc gần xa…

Khi được thầy thuốc cho hay bệnh đang đi vào giai đoạn cuối thì lão có những tâm trạng khác nhau.

Lão ngạc nhiên không tin chuyện đó có thể xẩy ra cho lão. Lão hốt hoảng kêu lên “Chắc là có sự lầm lẫn nào đây. Ðâu có phải là mình nhỉ”!? Lão cho rằng bệnh nhân giường bên kia ra đi sớm mới phải vì đương sự gầy gò ốm yếu, suốt ngày ho sù sụ, luôn luôn thở dốc, chứ lão đâu đã đến nỗi gì. Ðây cũng là phản ứng tự nhiên của nhiều người chứ chẳng riêng gì lão. Tự nhiên vì sắp mất tất cả mọi sự trên đời thì ai chẳng ít nhiều tuyệt vọng, đau khổ, bất mãn…

Nhưng mỗi lần gặp mặt, thấy ông thầy thuốc nghiêm nghị hơn, dè dặt hơn thì lão linh cảm là đúng. Ðôi lúc lão cũng đã ấm ức trách vị lương y vì chẳng chịu khó tìm kiếm phương thức thần diệu hơn để chữa cho mình.

Rồi lão cầu nguyện, mặc cả điều đình với đấng thiêng liêng giúp lão, cứu lão ra khỏi cơn bạo bệnh này, với lời hứa là từ nay sẽ sống đàng hoàng hơn, điều độ hơn. Từ hơn hai năm nay, khi thấy ho nhiều, lão bỏ hẳn rượu, thuốc lá, ăn nhiều rau trái cây và còn đi bô mỗi ngày, một việc mà trước đây không bao giờ lão nghĩ tới. Rồi thì lão được xác định bị ung thư phổi. Chẳng là vì lão hút thuốc lá từ năm 19 tuổi, hơn một nửa thế kỷ liên tục mang khói vàng của điếu thuốc vào phổi… Lão bắt đầu ho nhiều, khó thở, kém ăn, xuống cân. Và lão bắt đầu trị liệu.

Lão mong có phép lạ để lão sống thêm vài năm nữa, cho tới khi đứa con út tốt nghiệp đại học. Rồi ra đi cũng mãn nguyện…

Ðến khi y giới lắc đầu chịu thua thì lão thấy không còn hy vọng, lão trở nên buồn rầu, chẳng muốn gặp ai.

Có người nói lão sợ chết. Thời gian đầu khi nghe nói bệnh không chữa được thì quả tình lão có hoảng hốt sợ hãi thật. Ai mà chẳng sợ mất sự sống, phải lìa bỏ những gì đã gắn bó với đời mình cả nhiều chục năm. Nói rằng không sợ thì chỉ là dối lòng, phủ nhận chối bỏ sự thật. Bây giờ thì lão chấp nhận những giới hạn của chữa chạy. Nhiều lúc, lão cũng nghĩ là sống tới tuổi ngoài thất tuần của lão hiện nay cũng đã quá nhiều Ngày xưa cha mẹ lão chỉ thọ tới sáu chục tuổi. So với bố mẹ, “Bonus” tuổi mà Thượng Ðế dành cho lão đã quá nhiều… Lão chấp nhận và chỉ mong sao được ra đi bình an, thanh thản…

Nhưng lão cũng nghĩ tới một số nhu cầu, một số mong muốn được đáp ứng trước khi tử biệt. Những nhu cầu căn bản của con người nhưng đơn giản hơn, nhẹ nhàng hơn…

Vì lão nghĩ, dù trong tình trạng cận tử, lão vẫn còn là một sinh vật, vẫn còn cảm nghĩ, suy tư, rung động, vẫn còn đôi chút nhu cầu vật chất, những tình cảm thương yêu, tiếp xúc. Vậy thì lão vẫn còn những mong muốn. Y giới cũng đồng ý với lão rằng người cận tử có quyền được cung cấp một số đòi hỏi.

Lão quyết định sẽ chết đàng hoàng, trong tôn trọng. Lão nghĩ là lão may mắn có được một mái nhà ấm áp để sửa soạn ra đi chứ không cầu bơ cầu bất như nhiều người bất hạnh, tứ cố vô thân, không người thừa nhận. Lão đang ở trong một cơ quan chăm sóc người cận tử.

Lão nhớ lại, ngày xưa người ta thường chết ở nhà, nơi mà vợ chồng con cái sống chung với nhau thế hệ này qua thế hệ khác. Người ta sửa soạn cho sự chết giữa những người thân yêu, được người thân yêu quây quần chăm sóc. Mọi người có thời giờ thong thả nói với nhau, bàn bạc cùng nhau về hậu sự, về chuyện tương lai của các thành viên trong gia đình. Người chết được thân nhân tắm rửa bằng nước cỏ cây hoa lá nhiều mùi thơm, thân xác nguyên vẹn và được mặc quần áo mới may thật đẹp. Áo quan là những mảnh gỗ vàng tâm, gỗ gụ, gỗ lim… sắm sẵn dùng làm phản nằm cho bóng dẩu mồ hôi, để khi hữu sự thì làm áo quan, mang thân xác ra đi. Người chết được quyến thuộc bạn bè tới tận nhà để nhìn mặt nhau lần cuối, đưa tơi huyệt để vĩnh biệt chia tay…

Bây giờ thì mọi sự đều đổi thay, vì hoàn cảnh, nhu cầu cuộc sống. Người ta chết ở bệnh viện, ở nhà thương, ở nhà “hospice”, đôi khi trên xa lộ, tại thương xá, giữa biển cả, trên núi cao… Thôi thì “gặp thời thế, thế thời phải thế”, chọn lựa làm chi… Cũng là một cách chấm dứt sự sống…

Lão đã làm giấy từ chối mọi phương thức chữa chạy mạnh mẽ như là “gắn dây chỗ này, cài máy chỗ kia” trên cơ thể. Trong di chúc, lão ghi rõ ý muốn chăm sóc y tế như thế nào trong trường hợp mình không nói được vào giai đoạn cuối cuộc đời, khi không còn hy vọng cứu chữa. Lão cũng làm giấy ủy quyền cho một thân nhân quyết định phương thức điều trị khi lão hết sáng suốt. Lão đã tìm hiểu về chương trình chăm sóc cận tử –hospice- nên lão xin vào đây để hy vọng được nhẹ nhàng ra đi không đau đớn vì những biến chứng bệnh của ung thư…

Trước hết lão muốn được gặp gỡ tất cả thân bằng quyến thuộc nhất là người bạn trăm năm với các con các cháu. Hơn mấy chục năm chung sống với biết bao kỷ niệm buồn vui có nhau. Lão đã làm hết nhiệm vụ cho gia đình và lão cũng muốn nhân dịp này nhìn lại các thành quả đó trên gương mặt mọi người với những lời nhắn nhủ cuối cùng. Lão cũng cần giải quyết mọi chuyện với người thân thiết để đôi bên chia tay trong bình an… Và lão cũng được nắm bàn tay những  người thân yêu lần cuối, bàn tay đón lão vào đời, bàn tay tiễn đưa lão vĩnh viễn ra đi. “Xin chia tay, và nếu là mãi mãi, thêm một lần, xin mãi mãi chia tay”- một nhà thơ nào đó đã viết…

Lão mong muốn được đối xử như người còn sống. Theo lão, cận tử mới chỉ là gần chết, sẽ chết vì sự sống chỉ ngưng sau khi lão không còn hơi thở, tim lão ngưng đập, não bộ tê liệt. Lão vẫn còn là một sinh vật với mọi ý nghĩa của nó, như là có suy tư, cảm xúc, quyền hạn như mọi người. Có vui, có buồn, có hy vọng, có thương yêu…

Lão cần được duy trì các hy vọng dưới mọi hình thức. Hy vọng có thuốc tiên, có phương thức kỳ diệu để lão lành bệnh. Mặc dù biết rằng bệnh của lão đang đi vào giai đoạn cuối, những hung bào ung thư đã xâm lấn nơi xa, nhưng “còn nước còn tát”, lão vẫn hy vọng ở một phép lạ đến với lão. Lão đang cầu nguyện ơn trên. Rồi lão hy vọng những cơn đau không hành hạ mình. Hy vọng con cái gần mình. Hy vọng không chết đơn côi. Xin ai đó đừng làm tiêu tan hy vọng của tôi với lời an ủi xã giao, có lệ, “hãy nhìn vào sự thật, đừng mong ở phép lạ”…  Hy vọng có thể lành. Hy vọng chết không đau đớn. Hy vọng vợ hiền, con cháu ở lại bình an. Hy vọng mình được về nơi vĩnh phúc. Xin đừng thổi tắt những ngọn lửa hy vọng của tôi!

Dù thời gian không còn bao lâu, nhưng lão vẫn mong muốn tiếp tục được chăm sóc bởi những người có khả năng, hiểu biết, thông cảm với hoàn cảnh, bệnh tình  của lão. Lão vẫn muốn tiếp tục nhận dịch vụ y tế, dù mục tiêu bây giờ là làm nhẹ bệnh thay vì chữa khỏi… Những giải thích về bệnh của tôi từ bác sĩ, những hướng dẫn ăn uống từ điều dưỡng viên, sự chăm sóc vệ sinh cá nhân cũa người y công… đều làm ấm lòng tôi hơn, thoải mái hơn… Dù biết rằng sắp chết, tôi cũng vẫn cần… xin đừng cô lập tôi, bỏ tôi một mình trong sợ hãi!!! Lão nhớ có một tác giả nào đó đã viết: “Chết không phải là kẻ thù; sống với ám ảnh sợ hãi nó mới là kẻ thù…”

Lão cũng muốn được tham dự vào các quyết định liên quan tới lão. Về các phương thức trị liệu; cách ăn uống, sinh hoạt hàng ngày. Ngay cả hình thức ma chay, chôn cất mà lão đã sắp đặt đâu vào đó. Ðôi khi thân nhân không muốn kẻ sắp vĩnh biệt ra đi bận tâm với thủ tục, chi tiết rườm rà, nên quyết định hộ. Làm vậy là ta đã phủ nhận quyền quyết định của họ, coi họ như bất lực và vô hình dung giảm giá trị của họ…

Lão cần được giải thích đầy đủ và ngay thẳng cũng như có quyền nêu ra những thắc mắc về sự chết. Nhiều khi thầy thuốc không muốn nói tới chết chóc với bệnh nhân đau nặng, vì muốn để họ còn hy vọng. Hoặc cho rằng bệnh nhân đã biết rồi. Vì khó nói làm sao ấy. Lão cũng thông cảm với hoàn cảnh khó xử của người thầy thuốc đang chăm sóc lão. Nhiều lúc lão thấy ông ta dường như muốn nói với lão một điều gì quan trong, nhưng lại ngập ngừng. Chắc lại là chuyện “vô phượng trị liệu” về bệnh của lão chứ gì!? Thực tội nghiệp cho ông bác sĩ! Ðược huấn luyện để xua đuổi tử thần xa sự sống, chứ đâu có được hướng dẫn để nói về sự chết với bệnh nhân…

Từ lúc sinh thời, lão vẫn có một đức tin tôn giáo thì giờ đây lão cần sự chăm sóc tâm linh, để linh hồn lão có nơi tá túc bình an. Người ta muốn được lên cõi Thiên Ðàng, tiêu diêu miền Cực Lạc thì lão cũng muốn được về nơi vĩnh cửu mà lão đã từng ấp ủ. Lão muốn  được tâm sự với vi lãnh đạo tinh thần mà lão đã quen biết từ nhiều chục năm nay, để sửa soạn cho linh hồn lão…

Lão cũng cần được giải thích về diễn tiến của sự chết; Vì lão nghe nói khi chết thì sẽ có những khó khăn, những thay đổi về thể xác cũng như linh hồn. Liệu lão có bị những cơn đau bệnh hoạn xâu xé cơ thể!? Liệu những hoảng loạn, ác mộng có đến với lão?. Lão có mất ngủ, kém ăn, bí đại tiểu tiện… bác sĩ sẽ làm gì để giúp lão ra đi nhẹ nhàng?

Lão cần sự giải thích thành thực, sự thông cảm của thầy thuốc. Lão không muốn sống trong u mê, lo sợ của sự chờ chết… Lão nhớ lời nhắn nhủ của Nữ tu đáng kính Theresa “Ðừng sợ hấp hối vì nó rất giản dị…” 

Lão chỉ cần có vậy…

Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức 

From: TU-PHUNG

Trượt Chân, Té Ngã Khi Tuổi Già… – Trần Lý Lê

Trượt Chân, Té Ngã Khi Tuổi Già… – Trần Lý Lê

 Tác giả: Trần Lý Lê 

         

Chỉ một cú vấp ngã là cuộc sống con người có thể thay đổi hoàn toàn, cuộc thay đổi không thể kềm hãm xoay chuyển. Sự đau đớn thể xác đi kèm với nỗi vật vã tâm thần. Đây là mối ưu tư, ám ảnh của tuổi vàng khắp chốn.

Con người sống lâu hơn, ít bệnh tật hơn nhưng tuổi thọ lâu dài kia có những khúc quanh không như ý. Cơ thể trải qua những biến chuyển cần sự thích nghi và chấp nhận từ mỗi cá nhân. Ôi chao, biết bao nhiêu là biến chuyển trong cái thân thể mong manh kia sau 70 – 80 năm dãi dầu với thời gian?

Mắt nhìn không còn tinh anh. Tai nghe không còn tỏ tường, có vị còn chịu chứng ù tai, tinnitus, những âm thanh tai quái u u trong đầu suốt ngày đêm. Khứu giác chẳng còn “cảm” được một mùi hương nhẹ nên vị giác hầu như mòn mỏi. Khoảng 70% khả năng “nếm” đến từ khả năng “ngửi”.

Rượu [ngon] không còn giữ được hương vị cũ dù vẫn mang lại cảm giác lâng lâng và đôi khi còn gây chuếnh choáng nhanh chóng không ngờ. Bắp thịt không mạnh mẽ như trước, khuân vác một món gì cũng khó khăn. Khớp xương ê ẩm khiến việc xê dịch chậm chạp… Chưa kể sự thăng bằng, balance, kết hợp từ khả năng nhìn thấy, sức mạnh của bắp thịt, và khả năng cảm nhận vị trí của thân thể (proprioception) trong môi trường chung quanh, cũng sụt giảm qua thời gian. Và cuộc sống có thể đến khúc ngoặt không ngờ khi trượt chân, vấp ngã.

Tại Hoa Kỳ, số người cao niên (65+ tuổi) té ngã và chịu biến chứng nặng nề mỗi ngày một gia tăng. Nha Thống Kê của cơ quan Kiểm Soát và Phòng Ngừa Bệnh Tật (the CDC) công bố một con số đáng ngại, chỉ trong năm 2012, trên 2.4 triệu người té ngã, trong số ấy trên 200 ngàn người tử vong vì biến chứng trong cùng năm.

Theo hội chuyên khoa về tuổi vàng, Geriatrics, tai nạn gia tăng khi con người quá lạc quan quá tự tin, không lượng sức mình; người có tuổi cũng không ngoại lệ nhưng chịu ảnh hưởng của tai nạn nặng nề hơn. Những thứ bình thường trước đây bỗng dưng trở thành chướng ngại vật trong một phút không ngờ: các bậc thang, tấm thảm trên sàn nhà, bồn tắm trắng bóng, vồng u trong chỗ đậu xe, rễ cây ngoài vườn…, và ngay cả con chó con mèo quanh quẩn bên chân hằng ngày. Những món thuốc trị chứng cao huyết áp, chữa trầm cảm… có thể gây chóng mặt, choáng váng khiến việc vấp té, trượt chân xảy ra dễ dàng hơn.

Trong số các cụ cao niên té ngã và gãy xương chậu xương đùi, 20% tử vong trong cùng năm, 80% còn lại chịu ảnh hưởng nặng nề. 

Họ không còn tự di chuyển nên việc nhàn tản trên một quãng đường ngắn trở nên bất khả. Nhiều người mất luôn khả năng lái xe vì chân ga chân thắng không còn nhậm lẹ nên dễ gây tai nạn.

Không thể tự di chuyển, các cụ này trở nên phụ thuộc vào người chung quanh, từ bạn bè, hàng xóm láng giềng đến con cái. Tuổi vàng sợ đau đớn thể xác thì ít nhưng họ lại hãi hùng trước viễn ảnh mất hết khả năng độc lập.

Một sự thật khó chấp nhận là việc càng cao tuổi, càng dễ té ngã. Theo Tiến Sĩ Judy A. Stevens, chuyên viên Dịch Tễ, epidemiologist, tại CDC, té ngã xem ra giản dị nhưng lại là nỗi ám ảnh kinh hoàng cho tuổi vàng, không mấy ai muốn nhắc đến và ngay cả người bị té cũng không muốn đề cập đến. Lý do? Các cụ ngượng ngùng, bạn ạ, ngại bạn bè chê cười mình vụng về, nhưng lý do sâu thẳm nhất, các cụ sợ con cháu lo lắng quá lại khênh họ vào nhà dưỡng lão hầu được (bị) chăm sóc kỹ lưỡng hơn, và từ đó mất luôn cuộc sống độc lập riêng tư. Họ sợ hung thần té ngã còn hơn các trận đau ốm. Đau ốm khi hết bệnh còn có thể độc lập chứ té ngã thì lôi thôi lắm!

Phục hồi sau khi té ngã là một hành trình gian nan, chậm chạp. Với các ca gãy xương “bình thường”, sau khi bó xương, nối xương và vết thương tạm lành, bệnh nhân trải qua thời gian tập luyện để có thể tự di chuyển. Chương trình phục hồi kéo dài vài tháng, từ việc dùng xe lăn, khung cân bằng đến cách dùng gậy để chống đỡ thân mình và giúp thăng bằng.

Nhiều cụ không còn leo thang được nữa vì cần dùng khung sắt để di chuyển, và từ đó phải lìa bỏ tổ ấm nơi có các bậc thang thân quen, gần gũi. Thay đổi chỗ ở là cả một cú sốc trong tuổi vàng. Cụ nào chấp nhận và chịu thích nghi thì vết thương “lìa tổ ấm” sớm lành, cụ nào rầu rĩ vật vã với chỗ ở mới thì nhanh chóng rơi vào nỗi trầm cảm u uất và không thiết sống!

Ngược lại, được sinh sống trong khung cảnh quen thuộc là nỗi ấm áp, thoải mái trong tuổi vàng ngay cả khi các cụ không còn có thể tự chăm sóc thân thể.

Như mọi loại bệnh tật, phòng ngừa là phương cách tốt nhất. Té ngã cũng thế. Phòng ngừa té ngã để tránh thương tật và các biến chứng thay đổi đời sống của bệnh nhân.

Để phòng ngừa té ngã, bà Judy Stevens cho rằng thể dục là yếu tố quan trọng nhất. Khi thân thể khỏe mạnh, bắp thịt cứng cáp, thì ít bị té ngã; và nếu bị té ngã thì ảnh hưởng cũng bớt trầm trọng so với các cụ ít động đậy, đi lại.

Các lớp thể dục, nhất là các buổi dạy về thăng bằng, như tập đứng một chân, lăn trái banh Bosu cho quen với sự chông chênh. Môn Thái Cực với các động tác co duỗi thong thả, chậm chạp giúp thân thể phối hợp hoạt động của bắp thịt và hai lá phổi thở hít nhịp nhàng. Sự phối hợp này cần thiết cho việc hô hấp, thăng bằng và dáng đi đứng của thân thể.

Hiệu quả cụ thể nhất của sự tập luyện thân thể là việc có thể tự đứng dậy từ ghế ngồi mà không cần vịn tay: bắp thịt hai chân và bắp thịt bụng, lưng cứng cáp đủ để chống đỡ và thăng bằng thân thể khi thay đổi vị thế.

Những yếu tố khác không kém quan trọng là việc dùng các món thuốc. Thuốc trị cao huyết áp, khoảng 70% các cụ tuổi thất thập dùng món thuốc này, gây chóng mặt khi huyết áp xuống nhanh và dễ té ngã nếu không cẩn thận. Chưa kể các thứ dược thảo lợi tiểu, giảm đường giảm mỡ (?) hầm bà lằng khác bán tự do trên thị trường mà các cụ Á Đông dùng thường xuyên như uống trà.

Xin mở ngoặc để nhắc đến dược thảo một chút: Dược thảo là con dao hai lưỡi rất sắc, có thể vô cùng hiệu quả trong việc chữa trị một bệnh tật nào đó, nhưng dược chất trong dược thảo có liều lượng bao nhiêu lại là một điều bí mật. Bí mật thứ nhì là món dược thảo tuy có cùng tên nhưng mức khác biệt về dược chất [và dược tính] lại là khoảng cách mênh mông… chưa kể các phụ chất có dược tính khác.

Các cụ dùng thuốc trị cao huyết áp có tỷ lệ té ngã cao gấp đôi những người không dùng. Đặc biệt là loại thuốc lợi tiểu, diuretic, [dùng để giảm cao huyết áp và suy tim]. Nếu cần dùng, các cụ nên uống thuốc ban ngày để tránh những chuyến vào nhà vệ sinh trong đêm tối. Món thuốc khác, món thuốc trị mất ngủ, có thể gây mất thăng bằng, và nếu có thể, nên thay thế bằng một ly sữa ấm, một cuốn sách dễ đọc hoặc một vài bản nhạc êm dịu.

Cách phòng ngừa té ngã khác là cách xếp đặt vật dụng trong nhà, loại bỏ tấm thảm đặt hờ hững trên sàn nhà, bàn ghế nằm gọn ghẽ trong một góc khuất, dẹp giày dép, đồ chơi… trên lối đi.

Các cụ trong tuổi vàng cần đi khám mắt hàng năm và đeo kính để duy trì thị lực. Dùng kính đơn tròng khi đi bộ và chỉ dùng kính hai tròng, ba tròng (bifocal, progressive lenses) khi đọc sách, ngồi tại chỗ vì loại kính này có thể gây vấp té.

Trong nhà cần có đèn đủ sáng để thắp rõ vật dụng chung quanh. Và món vật dụng cần thiết nhất, với các cụ sống đơn chiếc, có lẽ là món “gọi cấp cứu”, emergency button, electronic alert, có thể trong dạng vòng đeo trên cổ tay có nút bấm, có thể là dây đeo trên cổ.

Mùa thu của cuộc đời không nhất thiết chỉ là mùa tàn úa, mùa lá vàng; với sự chấp nhận, sửa soạn và sẵn sàng cho tinh thần, mùa thu có thể trở thành… vàng lá, vàng ròng với các chuyến du ngoạn thong thả để tận hưởng sự thanh nhàn khi tâm tư không còn vướng bận với sinh kế nhọc nhằn và bổn phận dưỡng dục khó khăn?

Trần Lý Lê

ĂN UỐNG Ở TUỔI GIÀ-Bác sĩ Lương Lễ Hoàng

                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                              ĂN UỐNG Ở TUỔI GIÀ

Bác sĩ Lương Lễ Hoàng

 Nếu biết kết hợp chọn thực phẩm có lợi trong bữa ăn hằng ngày sẽ trì hoản được sự lão hóa.
Với những người có thói quen vận động cơ thể, việc giải phóng năng lượng thường xuyên dễ dàng duy trì được sức khỏe và sự trẻ trung.. Tuy nhiên, nếu biết kết hợp với việc chọn thực phẩm có lợi thì tuổi thọ sẽ tăng rất nhiều.
 
1- Món ăn cơ thể dễ hấp thụ nhất là cháo. Cháo có thể điều hòa dạ dày, bổ tì, thanh lọc phổi, mát đường ruột. Nhà dinh dưỡng thời nhà Thanh – Tào Tử Sơn đã từng nói: “Người già mỗi ngày nên ăn cháo, không kể bữa, có thể tăng cường sức khỏe và hưởng đại thọ”. (bữa ăn có canh mướp đắng (trái khổ qua) và cà chua là một trong 9 món trường thọ).

                                                                               

2- Theo nghiên cứu của nhà dinh dưỡng học Nhật Bản thì mướp đắng là thực phẩm trường thọ có giá trị dinh dưỡng “toàn phương vị”.. Một trong những bí quyết trường thọ của người Okinawa là ăn nhiều mướp đắng, uống trà mướp đắng và uống nước mướp đắng. Ở Việt Nam, mướp đắng còn gọi là khổ qua, có mặt tại hầu hết các địa phương. Cách chế biến cũng đa dạng, từ hầm canh, xào, ăn sống… tất cả đều tốt cho việc tăng cường tuổi thọ.

                                                                  

 

3- Bên cạnh khổ qua, sữa bò tươi cũng được coi là một trong những thực phẩm hoàn hảo.. Trong sữa có nhiều protein, canxi và những nguyên tố cần thiết khác cho não. Đặc biệt uống sữa là cách bổ sung canxi nhanh và hiệu quả nhất. Nếu công việc căng thẳng khiến mất ngủ, nguyên nhân gây giảm thọ, đặc biệt là với nam giới, chỉ cần thử uống một ly sữa nóng vào buổi tối, sẽ dễ dàng chìm sâu vào giấc ngủ.

                                                                       

 

4- Bắp: hiện được trồng khá phổ biến ở Việt Nam. Trong bắp có chứa nhiều axit béo và axit không no như axit linolic nên có tác dụng bảo vệ não bộ và giảm lượng mỡ trong máu. Đặc biệt, lượng axit glutamic trong bắp rất cao, nên sẽ kích thích các tế bào không ngừng chuyển động và trao đổi thông tin. Ăn bắp thường xuyên, nhất là bắp tươi sẽ giúp cho bạn có bộ não khỏe mạnh và duy trì cuộc sống dài lâu. 

                                                                              

 
5- Các nhà khoa học chứng minh rằng những người thường xuyên ăn cà chua có khả năng giảm đáng kể nguy cơ mắc bệnh ung thư. Bởi lẽ trong cà chua có chứa chất lycopene, một chất chống ôxy hóa rất quan trọng, giúp tiêu diệt các tế bào có nguồn gốc ung thư. Có thể ăn cà chua sống hoặc cà chua nấu chín mỗi ngày. Một khi cơ thể đủ khả năng chống ôxy hóa, sự tươi trẻ sẽ duy trì được dài lâu.
 

6- Khoai tây là loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, nhiều vitamin (C, B6, chất xơ), đặc biệt hàm lượng kali trong khoai tây được các chuyên gia dinh dưỡng xếp đầu danh sách củ nguyên chất chứa nhiều kali. Khoai tây giàu kali, hữu ích trong việc đề phòng chứng đột quỵ. Mỗi tuần, một người nên ăn từ 3 – 4 củ khoai tây.

                                                              
                                                  

                                                                         

 

7- Trong canh xí quách chứa thành phần chất béo collagen, vừa có thể giúp trẻ con tăng trưởng và giúp người có tuổi tăng sự dẻo dai cho xương, trì hoãn tủy xương lão hóa. Để cơ thể hấp thụ tốt món ăn này, trong thành phần chế biến canh xí quách cần có thêm một ít giấm, sẽ giúp cho phosphor và canxi của xương tan trong canh.

                                                                              

8- Song song với việc cung cấp các chất tái tạo tế bào, ngăn ngừa các tác nhân độc hại xâm nhập cơ thể cũng hết sức quan trọng. Bông cải xanh (broccoli ) là một thực phẩm đáp ứng được nhu cầu đó. Ngoài việc bông cải xanh ( broccoli ) thanh nhiệt, tốt cho sức khỏe, nó còn giúp cho tế bào da ngăn ngừa những tổn hại do bức xạ cực tím gây ra. Ở một quốc gia nhiệt đới, gió mùa như Việt Nam, lúc nào cũng có thể bị tiếp xúc với tia cực tím thì dùng bông cải xanh là lựa chọn khôn ngoan.

 

                                                                           

 
9- Tám loại thực phẩm trên, tùy theo khẩu vị, có thể kết hợp, thiết kế thực đơn hợp lý cho từng ngày. Món có thể và nên dùng mỗi ngày là trà xanh. Lá trà xanh vốn nổi tiếng vì khả năng chống lão hóa. 
Càng ngày, những nhà khoa học lại càng phát hiện thêm nhiều tính năng của trà xanh, nhưng điều khiến người ta quan tâm nhất là việc chống lão hóa và phòng ngừa ung thư của nó. Điều cần lưu ý là khi chế biến trà xanh, không nên hãm trà trong bình kín mà để hở nắp. Hơi trà thoát ra ngoài sẽ khiến nước trà không đục, sậm màu và có thể giữ được lâu.                          

 
Càng cao tuổi càng cần ăn ngon!
Chúng ta sống đến tuổi nầy là may mắn lắm rồi! Nên ăn những gì chúng ta thích, đừng hà tiện nữa! Để dành tiền cho con cháu biết bao nhiêu cho đủ ? Hơn nữa, chúng nó có bằng cấp, có công việc tốt, chúng nó hẵn nhiên là giàu có hơn mình thì tại sao mình lại hà tiện, chắt chiu để dành cho chúng biết bao nhiêu cho đủ ? Còn ăn được thì cứ ăn cho thỏa thích, một mai răng rụng hết chỉ còn nhìn mà hít hà thôi 
Tuy không hẳn vì bất hiếu nhưng do định kiến là người cao tuổi không cần ăn nhiều nên không thiếu người già bị rơi vào tình trạng suy dinh dưỡng một cách oan uổng! Thêm vào đó là nhiều người lớn tuổi phải kiêng cữ, thường khi thái quá do con cháu ép buộc, vì bệnh tiểu đường, cao huyết áp, tăng mỡ trong máu…

Vấn đề chưa dừng lại ở điểm cơ thể người cao niên vì thế mà thiếu dưỡng chất. Nguy hơn nhiều là do đó mà sức đề kháng bị xói mòn khiến bệnh bội nhiễm cũng như bệnh do thoái hóa cơ khớp trở thành mối đe dọa thường xuyên cho cơ thể vốn vừa nhạy cảm, vừa dễ thiếu nước khi tuổi đời chồng chất. Nếu xét về mặt dược lý, bữa ăn của người cao tuổi thậm chí quan trọng không kém viên thuốc đặc hiệu.
Quan điểm theo đó người cao tuổi phải e dè với từng miếng ăn là một sai lầm nghiêm trọng. Nhiều công trình nghiên cứu trong thời gian gần đây cho thấy hình thức ăn uống dồi dào rau cải tươi, nhiều cá biển, và nhất là ngon miệng, là chế độ dinh dưỡng lý tưởng cho người già.
Bằng chứng là người cao tuổi ở Địa Trung Hải ít bị nhồi máu cơ tim nhờ khẩu phần đa dạng với thực phẩm “xanh” chiếm tối thiểu 60% tổng lượng. Người Nhật có tuổi thọ cao nhất thế giới nhờ thực đơn hầu như không bao giờ thiếu cá biển và đậu nành. Ngược lại, người cao tuổi trong các nhà dưỡng lão ở Hoa Kỳ, nơi chế độ ăn uống kiêng cữ được đặt lên hàng đầu, lại có tỷ lệ tai biến mạch máu não và tử vong vì nhồi máu cơ tim vượt xa các nước khác!

                                                                                    

Từ nhận thức đó, thay vì tiếp tục đề cao hình thức kiêng khem, đa số chuyên gia dinh dưỡng ở khắp nơi đã đồng lòng tán dương chế độ dinh dưỡng mang nhiều nét “đổi mới” cho người già dựa trên các nguyên tắc như sau:
• Người cao tuổi nên ăn tất cả những món ưa thích và ngon miệng, miễn là với lượng không gây trở ngại cho chức năng tiêu hóa.
• Khẩu phần hàng ngày càng đa dạng càng tốt, càng ít thực phẩm công nghệ càng hay.
• Chắc chắn uống đủ nước trong ngày bằng cách chú trọng các món cung cấp nước như rau trái, món canh…, thay vì uống nước vì nhiều người già thường chỉ uống khi khát.
• Đừng nấu cho người cao tuổi các món ăn tuy bổ dưỡng về thành phần nhưng với khẩu vị nuốt không vô !. Đừng quên cảm giác ngon miệng là đòn bẩy cho sức kháng bệnh.
• Không nhất thiết phải cữ muối tuyệt đối nếu không có y lệnh của thầy thuốc trong giai đoạn bệnh tim mạch cấp tính.
• Không nên thiếu món ngọt nếu thực khách chưa bị bệnh tiểu đường.
• Luôn luôn có rau quả tươi trong khẩu phần.
• Nên có nhiều bữa ăn nhỏ thay vì ngày ba bữa đúng giờ.
• Một ly rượu vang cho mỗi bữa ăn là điều nên làm.
• Chỉ tránh các món ăn gây dị ứng, món chiên xào nếu đã có bệnh trên đường tiêu hóa như viêm đại trường mãn, viêm ruột dị ứng, trĩ…
• Có bữa cơm gia đình cùng con cháu thay vì ăn riêng trong buồn tẻ như người bệnh nặng.

  • Vận động nhẹ trước và sau bữa ăn.

                                                                              

Con cháu nếu biết thương ông bà đừng quên là các nhà nghiên cứu ở Hoa Kỳ vừa chứng minh hẳn hòi là: người cao tuổi nếu có da có thịt một chút, nghĩa là dư cân, ít bị bệnh và sống thọ hơn bạn đồng niên mình hạc xương mai. 
Lượng mỡ dưới da, tất nhiên không nhiều, chính là kho dự trữ dưỡng chất để đáp ứng cho nhu cầu phục hồi của cơ thể người cao tuổi mỗi lần ngã bệnh.
Không cho người già ăn no bụng và ngon miệng là một điều đáng trách cả về lý lẫn về tình.
 
Bác sĩ Lương Lễ Hoàng

Cá Salmon Tại Bắc Mỹ – Nguyễn Thượng Chánh, DVM

Cá Salmon Tại Bắc Mỹ – Nguyễn Thượng Chánh, DVM

 

Cá salmon (saumon) hay cá hồi, là một loài cá sống ở vùng nước lạnh như Canada và Bắc Âu. Tại Bắc Mỹ, cá Mỹ Mỹ , cá salmon được thấy bán quanh năm trong các chợ cá, các siêu thị cũng như trong các chợ Á Đông.

Salmon là cá gì vậy?

Tên Salmon, nguồn gốc từ tiếng La-tinh solmo có nghĩa là nhảy.

Đây có nghĩa là một loài cá có khả năng nhảy ngược dòng, vượt qua các chướng ngại vật để tìm đường về đẻ tại những vùng nước ngọt.

Lưng cá màu xanh dương lốm đốm đen. Hong và bụng màu vàng. Thịt màu hồng.

Salmon là một loại cá hay di chuyển.

Cá trưởng thành sống ngoài đại dương nước mặn, nhưng đến thời kỳ sinh dục thì cá trống lẫn cá mái đều lội cả trăm, thậm chí cả ngàn cây số, chúng vượt ngược dòng qua ghềnh qua thác trở về sông rạch nước ngọt…để đẻ trứng và để thụ tinh.

Khi vừa làm xong nhiệm vụ cao quý để duy trì và bảo tồn nòi giống ấy, thì cá mái chết đi vì kiệt sức!

Cá con sống tại vùng nước ngọt trong vòng hai năm. Sau đó, chúng tìm cách xuôi lần lần theo dòng nước trở ra biển để tiếp tục tăng trưởng và trưởng thành rồi lại tiếp tục chu trình nói trên.

Cá salmon có thể cân nặng từ 4kg đến 20kg.

Phần lớn cá salmon bán ngoài chợ đều là cá nuôi. 

Các quốc gia như Écosse, Norvège và Irlande dẫn đầu thế giới trong việc sản xuất cá salmon. Cá salmon nuôi cho một loại thịt thô và nhiều mỡ hơn cá trong thiên nhiên.

Tính chất của thịt còn tùy thuộc vào điều kiện nuôi dưỡng và thức ăn dùng để nuôi cá.

Theo cơ quan Pêches et Océan Canada, nhận thấy tính bổ dưỡng của cá salmon nuôi không khác gì cá salmon sống trong thiên nhiên.

Nhưng nỗi lo ngại lớn nhất của người tiêu thụ cũng vẫn là vấn đề hóa chất, kháng sinh và hormones sử dụng trong việc nuôi cá.

Cơ quan trên thông báo là không có vấn đề thuốc tăng trưỡng.

Còn thuốc kháng sinh vẫn được cơ quan CFIA theo dõi và kiểm soát thường xuyên.

Và vấn đề nhiễm hóa chất độc BPC (biphényles polychlorés) cũng không mấy quan trọng vì dư lượng vẫn nằm dưới mức cho phép. Chúng ta cũng không ngạc nhiên chút nào cả.

Vì những gì bất cứ một chánh phủ nào nói ra, thì luôn luôn đều tốt đẹp tất cả mà thôi!

Mặt trái của kỹ nghệ nuôi cá salmon

Từ lâu kỹ nghệ nuôi cá công nghiệp bị chỉ đích danh là nguyên nhân làm ô nhiễm môi trường.

Số báo La Presse, Montréal ngày 04/octobre/2010 có đăng bài viết của ký-giả Charles Côté, báo động vấn đề kỹ nghệ nuôi cá salmon tại tỉnh bang New Brunswick thuộc phía Đông Canada hiện đang ở trong tình trạng bi đát vì vấn đề ô nhiễm môi trường.

Cá tôm chết hàng loạt, mùi xú uế tại những trại nuôi cá salmon thật khủng khiếp.

Nguyên nhân do việc sử dụng một cách bất hợp pháp thuốc trừ sâu pesticide cyperméthrine để phòng trị bệnh cho tôm.

Ngoài ra, còn phải kể đến sự phân hủy thật đáng kể của khối lượng khổng lồ thức ăn hỗn hợp và phân cá nuôi được thải ra hằng ngày, đã làm thúi nguồn nước ven biển!

Cá salmon có ích lợi gì cho sức khỏe của con người Cá salmon chứa nhiều mỡ.

Mỗi 100gr cá cung cấp 10.85gr lipids và 183 calories.

Cá cho nhiều chất acid béo Oméga-3, rất tốt cho hoạt động của tim mạch. Cá có chứa các vitamins A&D, và các bần tố như magnesium Mg rất cần cho nhịp đập của tim cũng như hoạt động của thần kinh. Lại còn có thêm chất sắt Fe tốt cho máu.

Ngoài ra, cá salmon cũng là một nguồn cung cấp chất phosphore P tốt cho xương.

NUTRITIONAL INFORMATION (Per 3.5 oz /100grams of raw edible portion) Calories 183 Total fat 10.85g Saturated fat 2.18g Cholesterol 59.0mg Sodium 59.0mg – Source: USDA

Các loại cá salmon bán trên thị trường Bắc-Mỹ

*/ Atlantic salmon (Saumon de l’Atlantique)

Tên khoa học: Salmo salar

Đây là một giống cá salmon trong số nhiều giống khác. Rất được người tiêu thụ ưa chuộng.

Thịt rất chắc. Nó là giống salmon hoang dã duy nhất tại vùng Bắc-Mỹ Đại Tây Dương.

Việc câu cá bị hạn chế, vì loại giống này đang bị đe dọa bởi tình trạng ô nhiễm và bởi việc khai thác đánh bắt được cho là thái quá.

Ngày nay, cá Atlantic salmon được kỹ nghệ thủy sản nuôi trong trong những vùng ven biển.

*/ Chinook salmon hay King salmon (Saumon royal) Đánh bắt ở vùng biển phía Tây Canada. Thịt có màu hồng cam. Hông có màu ánh bạc. Loại cá Chinook rất phổ biến dưới dạng xông khói, đôi khi cũng thấy bán dưới dạng cá tươi hoặc đông lạnh.

*/ Pink salmon hay Humpback salmon (Saumon rose) Ngày xưa, người ta cho rằng loại cá này có phẩm chất kém vì thịt bở.

Cá pink salmon được bán tươi, đông lạnh và xông khói.

Thường nhất là được đóng hộp (conserve).

*/ Sockeye salmon hay Red salmon hay Blueback (Saumon rouge)

Thịt màu đỏ sậm, ăn rất bùi, thường được đóng hộp.

Đôi khi red salmon được bán dưới dạng cá muối (salted) hoặc xông khói (smoked).

*/ Coho salmon hay Silver salmon (Saumon argenté)

Ít phổ thông hơn Chinook salmon và Sockeye salmon.

Tuy vậy, nhưng đây là loại cá được bán nhiều nhất tại các vùng ven biển phía Tây Canada.

*/ Salmon keta hay Chum salmon, Dog salmon (Saumon chien) 

Được xem là loài cá có phẩm chất kém nhất vì thịt màu tái nhạt và xốp

Cá salmon làm gì ăn?

Lẩu cá Cá salmon được bán dưới dạng tươi hoặc đông lạnh nguyên con, dạng khứa, khúc, miếng dày (steak), lát cá thái không xương (filet) và hong khói.

Nói chung, cá tươi phẩm chất ngon hơn cá đông lạnh. Giá cả cũng phải đắt hơn nhiều.

Cá đông lạnh đều bị ngâm hóa chất bảo quản sodium phosphate và sodium erythorbate.

Người viết thường hay mua cá salmon tươi trong siêu thị lớn Costco (Montréal).

Thường là cá tươi được lạng dọc theo xương sống thành hai miếng rất dày gọi là filet, dài khoảng 60cm và nặng gần 2 ký. Giá khoảng 25 đô. Đem về chia làm hai phần nhỏ để dành ăn dần dần. Cái tiện lợi của cá salmon là rất nhiều thịt mà không có xương nhỏ.

Tại các chợ Á Đông hoặc chợ Việt Nam, cá salmon trở thành…“cá chỉ”, nghĩa là muốn mua bao nhiêu, mua đoạn nào của con cá nào, thì cứ việc chỉ vào con cá đó, người bán hàng sẽ cắt theo ý mình!

Được biết cá salmon có nhiều loại nên giá cả cũng khác nhau. Cá salmon cho thịt chắc và cứng lúc nấu chin.

Theo ý riêng của người viết, thì loài cá này nấu canh chua, canh ngót ăn không mấy ngon. Có thể nướng BBQ, chiên, hấp, kho tộ hoặc chưng…Cái sướng là cá toàn thịt là thịt, ăn không sợ bị mắc cổ. Ngoài ra, cá salmon tươi còn được dùng trong các món như sushi, sashimi, v.v.

Cá trout (truite) cho thịt mềm, béo và ngọt hơn nên nấu canh chua hay nấu ngót hoặc chưng tương ngon hơn cá salmon…Cái trở ngại là cá trout có quá nhiều xương nhỏ.

Giá cả cũng ngang ngữa với cá salmon.

Nhưng ngon nhất phải nói đến tên loại cá Chilean sea bass (không phải thuộc nhóm cá salmon).

Ăn thử một lần là nhớ đời. Cá bán dưới dạng filet, không có xương. Nó vừa béo, vừa mềm như thịt cua, vừa ngọt vừa ngon, hết xẩy vậy đó…Nhưng giá rất đắt: 40$/kg

Đúng là tiền nào của nấy!

Market name: Chilean Sea Bass (Scientific name:Dissostichus eleginoides) $19.75 per pound

Your order will be cut from 3-5 lb. fillets of Chilean Sea Bass http://www.alwaysfreshfish.com/chilean_sea_bass.html

Common names: Patagonian toothfish, Antarctic cod, icefish

At AlwaysFreshfish.com we purchase our Chilean Sea Bass, also known as Patagonian Toothfish through our worldly resources. Chilean Sea Bass, being a cold-water fish, can be caught throughout most of the Antarctic and Southern Hemisphere. Almost all of the Sea Bass is caught and frozen at sea on factory vessels (making for a very high quality fish). The fish is then shipped to commercial warehouses and redistributed to local seafood processors.

Kết luận

Theo các nhà dinh dưỡng, thì mỗi tuần nên ăn hai lần cá salmon để có đủ chất béo Omega-3, rất cần thiết để có một sức khỏe tốt!

Nhưng, có cái khổ là mùa đông tại Canada thì nhà nào nhà nấy đều then cài cửa đóng kín mít. Mua cá về ướp tỏi đem chiên thì nhà cửa quần áo đều có mùi cá đôi ba ngày cũng vẫn…ngữi chưa hết! Nhưng đây là một món ngon của người mình, các bạn có đồng ý không?

Mùa đông, bọc giấy nhôm đút vô lò thì có lẽ ít hôi hơn./.

Tham khảo:

-/ The Canadian farmed salmon industry. March 2006. (http://www.ats.agr.ge.ca/canada ) -/ BC sea food. Farmed Atlantic salmon. (http://www.bcseafoodonline.com/filet/farmed)

-/ Pêches et Océan Canada, 2005. Mythes & Réalité- Elevage de Saumon http://www.dfo-mpo.gc.ca/media/back-fiche/2005/salmon-fra.htm

-/ Bác-sĩ Thú y Nguyễn Thượng Chánh. Omega fatty acids Omega 3 & Omega 6. http://www.advite.com/omega.htm

Montreal 2022-june-22

Nguyễn Thượng Chánh

 Nếu nhà bạn có người cao tuổi, nhắc họ tuyệt đối không làm 8 việc hại sức khoẻ này

 Nếu nhà bạn có người cao tuổi, nhắc họ tuyệt đối không làm 8 việc hại sức khoẻ này

  1. Không dùng quá sức khi đi đại tiện

Hạn chế dùng sức rặn khi đi đại tiện là một trong những điều cần lưu ý đối với người cao tuổi. Bởi hành động này sẽ khiến ổ bụng chịu áp lực lớn, huyết áp lên nhanh và làm tăng nguy cơ xuất huyết não.

Bên cạnh đó, việc dùng sức rặn quá mạnh khi đi đại tiện còn tăng áp lực đối với tim và có thể dẫn tới nhồi máu cơ tim.

Những người cao tuổi mắc chứng táo bón nên tăng cường ăn rau xanh và hoa quả giàu chất xơ, hình thành thói quen đại tiện đúng giờ hoặc dùng thuốc theo chỉ định của bác sĩ để việc đi vệ sinh diễn ra dễ dàng và an toàn hơn.

Đại tiện cũng là một vấn đề sức khỏe cần lưu ý đối với người lớn tuổi. (Ảnh minh họa).

  1. Không nên vội rời giường khi vừa ngủ dậy

Khi vừa thức dậy, những người tuổi tác đã cao nên hạn chế việc xuống giường ngay lập tức để tránh nguy cơ xuất huyết não, thậm chí đứt mạch máu não.

Nguyên tắc này đặc biệt quan trọng đối với người cao tuổi có tiền sử cao huyết áp hoặc mắc bệnh động mạch vành.

Các chuyên gia kiến nghị, người cao tuổi nên tuân thủ nguyên tắc “chậm thêm 3 lần, tránh hại một giây”.

Tức là sau khi ngủ dậy, họ nên nằm yên trên giường thêm ba phút, từ từ ngồi dậy trong 3 phút, sau đó tiếp tục ngồi ở mép giường, thả lỏng 2 chân trong 3 phút rồi mới rời giường.

  1. Không nên ăn quá nhanh

Đối với những người cao tuổi mắc huyết áp cao hoặc có tiền sử xuất huyết não, thói quen ăn quá nhanh được ví như “hung thần” sức khỏe của họ.

Nguyên nhân là bởi chức năng nhai nuốt và tiêu hóa của họ đã bị thoái hóa theo thời gian và tuổi tác. Do đó, ăn quá nhanh sẽ không có lợi cho hệ tiêu hóa của nhóm người này, thậm chí còn dễ bị nghẹn, gây tổn thương thực quản và tăng áp lực lên tim.

Ăn uống từ tốn sẽ giúp người cao tuổi tránh được nhiều nguy hiểm đối với cơ thể. (Ảnh minh họa).

  1. Không nên đứng co một chân để mặc quần

Khả năng giữ thăng bằng ở người cao tuổi rất kém, nên việc đứng co một chân để mặc quần dễ khiến họ bị ngã và có nguy cơ gãy xương.

Vì vậy, cách mặc quần an toàn nhất đối với họ là ngồi lên giường hoặc dựa vào một vị trí cố định chắc chắn.

Ngoài ra, khi rời giường hoặc đi vệ sinh, đi tắm cũng là thời điểm dễ ngã. Những người tuổi tác đã cao nên chú ý vịn tay vào chỗ chắc chắn rồi mới từ từ hoạt động.

  1. Không nên nói nhanh, nói nhiều

Các chuyên gia y tế đặc biệt khuyến cáo, những người cao tuổi mắc bệnh tim hoặc có vấn đề về hệ tiêu hóa nên hạn chế nói quá nhanh, quá nhiều.

Trên thực tế, khi tuổi tác đã cao, càng nói to bao nhiêu sẽ càng gây hại cho sức khỏe của họ rất nhiều. Nói nhiều, nói nhanh, nói to đều khiến nhịp tim và huyết áp tăng nhanh một cách đột ngột.

Trong trường hợp tranh cãi với người khác, huyết áp của họ lại càng dễ tăng cao. Vì vậy, người cao tuổi nên duy trì thói quen nói chuyện nhỏ nhẹ, từ từ, giữ bình tĩnh trong mọi trường hợp và hạn chế tranh cãi cùng người khác.

Rèn luyện và duy trì thói quen nói chuyện từ tốn, thong thả cũng là một cách để bảo vệ sức khỏe đối với người cao tuổi. (Ảnh minh họa).

  1. Không bước lên cầu thang quá nhanh

Tuổi tác càng cao, các bắp thịt, xương cốt và hệ thống thần kinh càng lão hóa. Nếu trong lúc bước lên cầu thang, hệ thống thần kinh phụ trách điều khiển bỗng nhiên bị “chậm” lại và không theo kịp hành động cơ thể thì nguy cơ bị ngã là rất cao.

Vì thế, khi bước lên cầu thang, người cao tuổi nên chú ý vịn tay vào tường hoặc lan can, bước chắc chắn, từ từ, chậm rãi để đảm bảo an toàn.

  1. Hạn chế khom lưng

Trên thực tế, khom lưng là hành động không thích hợp với hầu hết người cao tuổi, đặc biệt là nhóm người có tiền sử mắc bệnh về hệ thống thần kinh.

Sự thoái hóa về xương cốt và hệ thống thần kinh khiến người già có khả năng thăng bằng kém, khớp xương cứng và bắp thịt không đủ khả năng bảo vệ xương cốt.

Bởi vậy, việc khom lưng quá thấp dễ dẫn đến nguy cơ trật khớp và làm tổn thương tới các khớp xương.

Các chuyên gia cũng khuyến cáo, người cao tuổi nên tránh việc đột ngột khom lưng quá nhanh để hạn chế nguy cơ xuất huyết não. Trong trường hợp phải cúi người nhặt đồ, họ nên cúi xuống một cách từ từ, vịn tay vào vật cố định hoặc ngồi xuống nhặt đồ với tư thế thẳng lưng.

Theo thời gian, xương cốt của chúng ta sẽ bị thoái hóa. Vì vậy, khom lưng hay cúi người đột ngột là hành động nên hạn chế khi tuổi tác đã cao. (Ảnh minh họa).

  1. Tránh quay đầu đột ngột

Khi quay đầu quá nhanh, các mạch máu dẫn lên não của người cao tuổi sẽ bị chèn ép đột ngột, dẫn đến tình trạng thiếu máu não, thậm chí kéo theo các biến chứng nguy hiểm như ngất, hôn mê, tai biến, đột tử.

Vì vậy, cách tốt nhất là người cao tuổi nên quay cả người lại phía sau, hoặc quay đầu một cách từ từ.

From: TU PHUNG

Một số bệnh nhân ung thư có thể không cần điều trị quá nhiều

Một số bệnh nhân ung thư có thể không cần điều trị quá nhiều

June 8, 2022

CHICAGO, Illinois (NV) – Sau khi giải phẫu, một số bệnh nhân ung thư có thể không cần được xạ trị hoặc hóa trị, theo AP trích dẫn tin từ hai nghiên cứu về việc giảm nhẹ điều trị ung thư.

Nghiên cứu đầu tiên sử dụng xét nghiệm máu để xác định những bệnh nhân ung thư ruột kết có thể bỏ qua quá trình hóa trị sau giải phẫu. Nghiên cứu này được sự  tài trợ của chính phủ Úc, Mỹ và các nhóm phi lợi nhuận, được tạp chí y khoa New England Journal loan tải hôm Thứ Bảy, 4 Tháng Sáu.

Một bệnh nhân được hóa trị. (Hình minh họa: Justin Sullivan/Getty Images)

Trong khi đó nghiên cứu thứ hai cho thấy một số bệnh nhân ung thư vú nguy cơ thấp có thể bỏ qua bước xạ trị sau khi cắt bỏ khối u. Nghiên cứu này được trình bày tại cuộc họp thường niên của Hiệp Hội Ung Thư Lâm Sàng Mỹ diễn ra vào Thứ Ba, 7 Tháng Sáu, tại Chicago.

Bác Sĩ Stacey Cohen của Trung Tâm Ung Thư Fred Hutchinson ở Seattle, người tham gia xem xét nghiên cứu thứ nhất, cho biết những phát hiện từ hai nghiên cứu này sẽ giúp bác sĩ “tập trung vào những bệnh nhân thực sự cần xạ trị, hóa trị, từ đó tránh được những tác dụng phụ ở những nhóm bệnh nhân còn lại.”

Nghiên cứu ung thư ruột kết

Nhiều bệnh nhân ung thư ruột kết vẫn phải hóa trị sau giải phẫu. Thuốc dùng trong quá trình này có thể đi kèm những tác dụng phụ như muốn ói, thiếu máu, các vấn đề về trí nhớ. Tuy nhiên việc xác định chính xác bệnh nhân nào không cần điều trị thêm không phải là việc dễ.

Vậy nên các nhà nghiên cứu muốn xem thử xét nghiệm máu có thể giúp giải quyết vấn đề này hay không.

Trong nghiên cứu, các nhà nghiên cứu tiến hành xem xét 455 bệnh nhân phải giải phẫu vì ung thư di căn vào ruột kết. Sau khi giải phẫu, một nhóm được xét nghiệm máu để thử xem còn bất kỳ đoạn DNA ung thư nào sót lại hay không.

Từ kết quả xét nghiệm máu, các nhà nghiên cứu đưa ra hướng chăm sóc cho các bệnh nhân. Nếu kết quả xét nghiệm máu cho thấy không còn dấu hiệu ung thư, thì bệnh nhân không cần hóa trị. Đối với nhóm không xét nghiệm máu thì sẽ điều trị theo cách thông thường, tức là dựa theo phân tích các khối u và mô lân cận.

Kết quả cho thấy sau hai năm, cả hai nhóm đều có khoảng 93% bệnh nhân không mắc ung thư, dù tỷ lệ hóa trị của nhóm xét nghiệm máu chỉ là 15% so với 28% của nhóm không xét nghiệm máu. Hay nói cách khác, dù hóa trị ít hơn nhưng kết quả của nhóm xét nghiệm máu tốt tương đương nhóm còn lại.

Bác Sĩ Jeanne Tie của Trung Tâm Ung Thư Peter MacCallum ở Melbourne, Úc, người dẫn đầu nghiên cứu, cho biết ở những bệnh nhân không còn DNA ung thư thì tỷ lệ tái ung thư là rất thấp, do đó hóa trị đối với họ không có nhiều lợi ích.

Nghiên cứu ung thư vú

Trong nghiên cứu về ung thư vú, nhóm nghiên cứu theo dõi 500 phụ nữ lớn tuổi mắc dạng ung thư vú giai đoạn đầu phổ biến với mức protein Ki67 (một dấu hiệu bệnh ung thư phát triển nhanh) thấp.

Sau khi giải phẫu, họ được dùng thuốc ức chế hormone, một phương pháp điều trị tiêu chuẩn, nhưng không được xạ trị.

Sau năm năm, chỉ có 10 phụ nữ bị tái phát ung thư cùng một bên vú, một ca tử vong vì ung thư vú. Mặc dù không có nhóm so sánh, tuy nhiên các nhà nghiên cứu cho biết kết quả cũng không thua kém với các dữ liệu về những bệnh nhân được xạ trị trong quá khứ.

Theo Bác Sĩ Timothy Whelan của đại học McMaster University ở Hamilton, Ontario, người dẫn đầu nghiên cứu, xạ trị không có nhiều lợi ích đối với nhóm bệnh nhân này, trong khi tác dụng phụ lại rất đáng cân nhắc. Bức xạ có thể gây ra các vấn đề về da, mệt mỏi, hoặc ít thấy hơn là có vấn đề lâu dài về tim hoặc thậm chí cả ung thư. (V.Giang) [qd]

 STRESS

  STRESS

Bs Đỗ Hông Ngọc

Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng… không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chất và tâm thần, nên rất cần biết cách “xả” stress trong cuộc sống đầy căng thẳng, âu lo hiện nay.
Stress là một phản ứng bảo vệ, khi cơ thể bị một mối đe dọa, mối nguy hiểm xảy đến cho nó. Người ta gọi nó là phản ứng (hay đáp ứng) “chiến đấu hoặc bỏ chạy” (fight or flight response), nghĩa là trong tình huống đó, chỉ có hai cách để chọn lựa: chiến đấu để sinh tồn hoặc bỏ chạy để… sinh tồn!

Lúc đó, cơ thể phải huy động toàn lực để đối phó. Não thùy sẽ ra lệnh tiết các kích thích tố cần thiết, nào adrénaline, nào norepinephrine, cortisol… ồ ạt đổ vào máu. Tim đập nhanh để bơm máu về các cơ bắp lớn, phổi hổn hển tăng tốc bơm oxy, đường huyết vọt lên cao nhằm tăng cường khẩn cấp năng lượng, đồng tử mắt nở to để nhìn cho rõ, tai vểnh lên, mũi phồng ra… Tóm lại, mọi thứ đều phải trong tư thế sẵn sàng. Trong lúc các mạch máu lớn chuyển máu đến các bắp cơ thì mạch máu nhỏ ngoại biên co thắt lại, để nếu có bị thương thì máu cũng không bị mất nhiều… Vì thế mà người bị stress thường mặt mày tái ngắt, xanh lè, tay chân đơ cứng!

Stress cấp tính có những phản ứng mạnh hơn ta tưởng. Một người đang đứng trước chuồng cọp, thấy cọp sổng chuồng thì… phân, nước tiểu tóe ra mà không hay, tay chân bủn rủn, ngất xỉu. Nguy cơ qua đi, hiểm họa chấm dứt thì mọi thứ lại trở về trật tự cũ. Tim đập chậm lại, hơi thở điều hòa, bắp cơ buông xả. Nếu sự đe dọa không mãnh liệt nhưng cứ dồn dập, hết lớp này tới lớp khác, đến một lúc vượt quá mức chịu đựng gọi là “mất bù” thì sẽ tạo ra những hiệu ứng âm thầm gây tác hại không lường được lên thể chất và tâm thần của ta.

Thời đại ngày nay, con người ít có dịp chiến đấu một mất một còn trước thú dữ hay trước “hòn tên mũi đạn” như xưa. Nhưng con người ngày nay lại phải thường xuyên đối đầu với những “hòn tên mũi đạn” còn nguy hiểm hơn, kiểu “bề ngoài thơn thớt nói cười / bề trong nham hiểm giết người không dao”.

Stress vượt qua ngưỡng lúc nào không hay và dẫn tới vô số bệnh tật mà bác sĩ cũng phải bó tay, đành gắn cho những cái tên mơ hồ như “rối loạn chức năng”, “mệt mỏi kinh niên”, “rối loạn thần kinh thực vật”… Ðại học Y khoa Harvard ước tính có từ 60%- 90% bệnh nhân (ở Mỹ) tìm đến bác sĩ là do stress.

Stress liên quan đến rất nhiều bệnh lý như nhồi máu cơ tim, tăng huyết áp, tiểu đường, suyễn, đau nhức kinh niên, mất ngủ, dị ứng, nhức đầu, đau thắt lưng, một số bệnh ngoài da, ung thư, tai nạn thương tích, tự tử, trầm cảm, giảm miễn dịch v.v… Tóm lại là rất phức tạp.

Bác sĩ nếu không quan tâm đúng mức – đau đâu chữa đó – thì chỉ chữa đựơc triệu chứng bên ngoài còn cái gốc sâu thẳm bên trong là stress vẫn không đựơc giải tỏa, bệnh vẫn cứ luẩn quẩn loanh quanh, chuyển từ “bệnh” này qua “bệnh” khác, và do đó, chất lượng cuộc sống bị giảm sút rõ rệt!

Nhiều khi ta tưởng cholesterol xấu tăng cao trong máu là do thức ăn, nhưng không phải, do stress nhiều hơn! Tiểu đường tưởng do ăn nhiều chất ngọt, thực ra do stress nhiều hơn. Ta thấy đời sống càng căng thẳng, bệnh tiểu đường càng phát triển mạnh! Vì nước ta mới mấy năm trước, tiểu đường chỉ lai rai, bây giờ thì… “năm sau cao hơn năm trước”, lan tràn cả ở thành thị lẫn nông thôn! Các nghiên cứu trên thế giới cũng cho thấy vào thời kỳ khủng hoảng kinh tế, người làm việc ở những khu vực dễ bị sa thải thì chết vi tim mạch, tai biến mạch máu não cao gấp đôi các khu vực khác…!

Stress thay đổi từ người này sang người khác. Cùng một sự việc, với người này thì nổi điên lên còn với người kia chỉ là một trò cười, với người này là cả một sự sụp đổ, với người kia là một bài học… Cùng là con ông bà “viên ngoại họ Vương”, cùng “sắm sửa bộ hành chơi xuân”, mà Thúy Kiều thì khóc sướt mướt, thở than, nằm mộng, làm mười khúc đoạn trường đầy nước mắt trong khi Thúy Vân ngạc nhiên sao chị mình “kỳ cục” vậy! Hẳn là bên trong Thúy Kiều có cái gì đó khác với Thúy Vân, bởi bên ngoài thì cả hai đều “mười phân vẹn mười” cả!

Người dễ bị stress là người thường có tính quá lo lắng, cầu toàn, hay tự chỉ trích, thiếu quyết đoán, hay do dự… Nếu bị thêm sức ép từ bên ngoài thì dễ suy sụp, dễ bị vượt ngưỡng! Nhiều học sinh học giỏi mà thi rớt cho là “học tài thi phận” một phần chính là do stress! Gia đình kỳ vọng nhiều quá, tạo một áp lực vô hình, khiến em không còn là chính mình nữa!

Những dấu hiệu sớm để nhận biết stress là có vấn đề về trí nhớ như hay quên, mất định hướng, thường hoang mang…

 Về cảm xúc thì dễ dao động, bứt rứt, dễ bị kích động, tâm tính bất thường, hay cáu gắt, lúc nào cũng có cảm giác bị tràn ngập, rất khó tìm được sự thư giãn. Trong lúc nghỉ ngơi mà vẫn cứ lo lắng, thậm chí còn lo lắng nhiều hơn!

Các triệu chứng về thể chất dễ nhận ra như nhức đầu, đau lưng, rối loạn tiêu hóa, buồn nôn, chóng mặt… Ðặc biệt đau cột sống cổ hay cột sống thắt lưng. Cứ tưởng là loãng xương, là gai cột sống, là thoát vị đĩa đệm gì gì đó, thực ra gốc ở stress.

Người bị stress dễ bị bệnh vặt, cảm cúm triền miên vì sức đề kháng giảm sút đáng kể, dễ bị mất ngủ, tức ngực, tim đập nhanh và … dễ nổi mụn, nổi chàm trên da. Không có gì ngạc nhiên vì ở trong phôi thai, não và da vốn cùng xuất phát từ một lá mầm ngoại bì (ectoderme). Não mà bất an thì da cũng nhăn nhúm, nổi mụn, nổi chàm, chữa hoài không khỏi, thoa mỹ phẩm đắt tiền cũng vô ích. Não mà an vui thì da cũng tươi nhuận, hồng hào, sáng láng.

Người bị stress còn hay có những hành vi bất thường như tự dưng thèm ăn, ăn hoài, lên cân đột ngột; hoặc bỗng nhiên bỏ ăn, sụt ký đột ngột…

Có người còn đi qua đi lại, đi tới đi lui, cắn móng tay, nhai nhóp nhép. Các huấn luyện viện bóng đá, ông nào cũng hay đi qua đi lại, đi tới đi lui, nhai nhóp nhép “sinh-gom” hoặc phì phèo thuốc lá liên tục giữa lúc hai đội bóng vờn nhau trên sân. Họ bị stress. Nhưng đó là một thứ stress cấp, coi căng vậy mà hiền, chóng qua, hết trận đấu là xong, lại bắt tay nhau vui vẻ!

Còn cái thứ stress nhai nhóp nhép kiểu “gặm một khối căm hờn trong cũi sắt”… mới là thứ stress nặng, mãn tính, triền miên, sinh đủ thứ chuyện.

Phòng bệnh hơn chữa bệnh.

Nguyên tắc là đừng tự đòi hỏi mình phải luôn hoàn hảo, phải luôn luôn đúng! 
Cũng đừng bao giờ so sánh mình với người khác. Con vịt là con vịt mà con gà là… con gà. Con gà mà dại dột so với con vịt thì sẽ chìm nghỉm trong nước! Lục súc tranh công không thể nào vui được! Một khi đã so sánh thì dù hơn, dù kém, dù ngang bằng cũng đều khổ!

Nên tránh những kẻ chuyên “phun” nọc độc! Họ rất sung sướng khi “tiêm” được nọc độc cho kẻ khác. Tránh những kẻ nhỏ mọn, đố kỵ, “đâm bị thóc, thọc bị gạo”
Bói ra ma quét nhà ra rác, dị đoan mê tín… làm ta căng thẳng lo lắng vô lối.

Một lời nói, một cử chỉ của thầy thuốc cũng có thể gây stress trầm trọng không ngờ. Bác sĩ vừa xem phim X quang, vừa lắc lắc cái đầu, đủ cho bệnh nhân thót tim, nhưng thực ra chì vì bác sĩ mỏi cổ do cả đêm thức coi bóng đá. Bác sĩ chỉ cần “phán” một câu mơ hồ như tim hơi lớn, gan hơi yếu, phổi hơi dơ… đủ cho bệnh nhân sống trong hoang mang ám ảnh dài lâu. Lời nói của bác sĩ không chỉ mang thông tin, mà còn truyền cảm xúc, gây stress, bởi người bệnh luôn ở trong một trạng thái tâm lý rất nhạy cảm khi tiếp xúc với thầy thuốc.

Có nhiều cách “xả” stress!
Nhậu nhẹt, hút thuốc lá, ma túy… cũng là một cách xả stress, nhưng rõ ràng là có hại, “chạy ô mồ mắc ô mả”!

Nhảy múa, ca hát, viết nhật ký, viết blog… là những cách xả stress tốt. Nói chuyện tào lao (tám) cũng là một cách xả stress…  miễn là đừng có “chuyển lửa” từ người này qua người khác! Thực ra, nói ra được với ai đó, một bạn thân thiết, một người có khả năng lắng nghe, một người sẵn sàng làm “thùng rác” cho mình thì mình sẽ cảm thấy nhẹ gánh! Không có bạn bè để tâm sự thì có thể tâm sự cùng tượng đá. Trải lòng ra một lúc, tượng đá cũng xiêu. “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau” là vậy! “Chửi chó mắng mèo”, “Giận cá chém thớt” cũng được. Ðập bể mấy cái ly cái dĩa… cũng hay! Có điều nên chọn trước một ít ly tách, chén dĩa mẻ, để dành sẵn, khi nào cần thì đập nghe vừa rôm rả vừa đỡ tốn kém!

Nguyên tắc chung là phải làm một cái gì đó cho năng lượng bị dồn nén trong stress có chỗ “xì” ra, thoát ra. Ta vẫn thường nói “xả xú bắp”, “xả hơi” đó thôi…

Tóm lại, đừng có ngồi đó mà gậm nhấm, suy nghĩ vẩn vơ. Giặt đồ, nấu ăn, rửa chén, lau nhà gì cũng tốt. Chạy bộ, đánh đấm, la hét, khóc lóc… cũng đựơc. Ðọc sách, xem phim càng hay, miễn là biết chọn phim, chọn sách!

Thấy người chồng trằn trọc mãi không ngủ được, lăn qua lộn lại cả đêm, người vợ hỏi có chuyện gì vậy anh? “Anh mắc nợ anh John hàng xóm một số tiền, hẹn ngày mai trả mà không có một xu dính túi!”. Người chồng đau khổ nói. Lập tức bà vợ tung mền dậy, chạy ra bờ rào gọi với sang nhà hàng xóm: “Anh John ơi, ngày mai chồng tôi chưa có tiền trả cho anh đâu nhé!”. Xong, bà quay vào bảo chồng: “Anh yên tâm ngủ đi, bây giờ là lúc để cho anh John trằn trọc”. Cô vợ đã rất thông minh! Cô đã “chuyển lửa” từ chồng mình sang… chồng hàng xóm. Chắc chắn anh John sẽ trằn trọc cho tới sáng, còn ông chồng cô sẽ ngủ ngon!

“Chuyển” như vậy vẫn chỉ là ở bên ngoài. Chuyển bên trong hay hơn. Chuyện xưa kể bà mẹ già có hai cô con gái, một cô bán dù, một cô bán giày vải. Cô bán dù sống nhờ những ngày mưa, cô bán giày làm ăn khá nhờ những ngày nắng ấm. Bà mẹ lo buồn cho cô bán giày suốt những ngày mưa và đau khổ cho cô bán dù ngày nắng ráo. Có người biết chuyện khuyên bà sao không làm ngược lại, mừng cho cô bán dù ngày mưa và mừng cho cô bán giày ngày nắng?

Não ta có một đặc điểm lý thú là không thể cùng lúc nghĩ tới hai việc. Ðã nghĩ điều này thì quên điều kia. Và người ta đã “lợi dụng” đặc điểm này để dịch chuyển các điểm tập trung trên vỏ não từ vùng này sang vùng khác. Chẳng hạn đang giận sôi lên thì… xảy ra động đất hay cháy nhà, lập tức vùng “giận sôi” của vỏ não tắt ngấm để nhường chỗ cho vùng sợ hãi!

Ta biết giận dữ hay sợ hãi đều tiêu tốn rất nhiều năng lượng. Nó có thể làm ta kiệt sức, suy sụp, thở không ra hơi… Có thể chọn cách nào khác chuyển dịch hay hơn, có lợi cho sức khỏe hơn chăng?      ***Có đó***.

Ðó là cách thở sâu, thở bụng, đưa hơi xuống huyệt… đan điền (dưới rún chừng 4 cm). Nó giúp làm cho ta tĩnh tâm lại, nó chuyển dịch vùng căng thẳng ở vỏ não qua vùng êm ái của … cái rún, với điều kiện là phải để tâm quan sát xem cái hơi thở đó nó vào ra lên xuống ra sao.

Khi chú tâm vào hơi thở, lắng nghe hơi thở, quan sát nó, dòm ngó nó, nghiền ngẫm nó… thì ta đã đánh “lạc hướng” cảm xúc ta rồi! Vỏ não khi đã tập trung vào hơi thở thì “quên” tập trung vào các chuyện linh tinh khác.

Cách đơn giản này có khả năng giải stress rất tốt. Tập luyện đúng mức, não thùy sẽ tiết ra một kích thích tố gọi là endorphine, một thứ á-phiện nội sinh, làm cho dịu nhẹ toàn thân, tạo sự sảng khoái, lâng lâng, mà không gây tác dụng phụ.

Thiền, yoga, dưỡng sinh, tài chí, khí công… đều là những cách làm cho thân tâm hợp nhất, làm cho ta quay trở lại với chính mình bằng cách lắng nghe hơi thở của chính mình (có thể kết hợp với động tác hay không cần động tác) đó thôi.

Hiện nay các kỹ thuật này ngày càng được nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi ở các Trung tâm y khoa lớn trên thế giới để trị liệu các bệnh do stress gây ra, các chứng trầm cảm, tâm thần, lo âu, đau nhức…, kể cả nghiện rượu, thuốc lá, ma túy… một cách rất có hiệu quả.

BS Ðỗ Hồng Ngọc

From: Do Tan Hung & KimBang Nguyen

KHẢ NĂNG TỰ CHỮA LÀNH CỦA CƠ THỂ CON NGƯỜI.

Chau Nguyen Thi

KHẢ NĂNG TỰ CHỮA LÀNH CỦA CƠ THỂ CON NGƯỜI.

Cơ thể con người sở hữu một khả năng tự chữa lành rất lớn, đáng kinh ngạc và bền bỉ.

Bệnh tật thường xảy ra khi chúng ta lạm dụng cơ thể hoặc tước bỏ các yêu cầu cơ bản để giữ cho chúng ta khỏe mạnh trong thời gian dài.

Tế bào và khả năng tái tạo bản thân tuyệt vời của nó

Đơn vị cơ bản nhất của cơ thể con người là tế bào.

Tất cả cuộc sống của con người ban đầu bắt đầu như một tế bào đơn lẻ, sau đó phân chia thành nhiều tế bào khác, cho đến khi một đứa trẻ được sinh ra sau chín tháng phân chia tế bào bên trong tử cung của người mẹ.

Mỗi giây chúng ta còn sống, các tế bào trong cơ thể chúng ta đang hoạt động không ngừng để đưa chúng ta trở lại trạng thái cân bằng nội môi hoặc cân bằng tự nhiên.

Khi chúng ta sử dụng thuốc hoặc các thao tác vật lý của hệ thống cơ thể để chữa bệnh, chúng ta chỉ thực sự chưa tạo điều kiện cho khả năng chữa lành tự nhiên của cơ thể từ bên trong.

Mỗi tế bào là một đơn vị sống năng động, liên tục theo dõi và điều chỉnh các quá trình của chính nó, cố gắng tự phục hồi theo mã DNA ban đầu mà nó được tạo ra và để duy trì sự cân bằng trong cơ thể. Các tế bào có khả năng tự chữa lành, cũng như tạo ra các tế bào mới thay thế những tế bào đã bị tổn thương hoặc phá hủy vĩnh viễn. Ngay cả khi một số lượng lớn tế bào bị phá hủy – các tế bào xung quanh vẫn tái tạo để tạo ra các tế bào mới, do đó nhanh chóng thay thế các tế bào đã bị phá hủy.

Khi chấn thương chảy máu xảy ra ở bất kỳ vị trí nào trên cơ thể chúng ta, các mạch máu tại vị trí đó sẽ co lại và làm chậm quá trình chảy máu. Tiếp theo, các tiểu cầu trong máu tiếp xúc với không khí, bắt đầu hình thành cục máu đông tại vị trí bị thương. Các tế bào bạch cầu sau đó tích tụ tại chỗ, phá hủy và tiêu hóa các tế bào chết bằng cách tiết ra các enzym đặc biệt được lưu trữ trong các gói nhỏ trong tế bào gọi là lysosome. Bằng cách đó, các mảnh vụn tế bào chết được loại bỏ và tạo không gian mới cho các tế bào mới chiếm giữ.

Gần như đồng thời, quá trình hình thành tế bào mới bắt đầu. Các tế bào mới này chủ yếu bắt nguồn từ các lớp tế bào mới hơn của một mô cụ thể, trong khi các tế bào cũ hơn được đẩy đến vị trí chấn thương, để dần dần lấp đầy không gian do chấn thương tạo ra. Quá trình phức tạp và đáng chú ý này sẽ tự động dừng lại khi quá trình tự chữa lành hoàn tất.

Quá trình chữa lành này không chỉ dành cho những vết thương. Nó cũng chăm sóc những hao mòn bình thường hàng ngày. Các tế bào bị hư hỏng, bị phá hủy hoặc chết được thay thế với số lượng lớn hàng ngày từ tầm nhìn, miệng, ruột và máu của chúng ta.

Gốc tự do

Định nghĩa về gốc tự do là bất kỳ nguyên tử hoặc phân tử nào có thừa hoặc không đủ số electron ở lớp vỏ ngoài cùng của nó, làm cho nó không ổn định và có tính phản ứng cao.

Các gốc tự do tồn tại trong các tế bào của cơ thể, và chúng là một phần bình thường của quá trình tạo ra năng lượng trong tế bào (tức là quá trình trao đổi chất). Một tỷ lệ nhỏ oxy được sử dụng để tạo năng lượng sẽ tạo ra các gốc tự do.

Các gốc tự do nhai nát chất thải do tổn hại đến bộ phận lưu trữ mã di truyền của tế bào (nhân) hoặc tế bào chất (cơ thể của tế bào, ngoại trừ nhân). Nhưng nếu số lượng gốc tự do trở nên quá mức, chúng sẽ tạo ra bệnh tật.

Các yếu tố làm tăng sản xuất các gốc tự do trong tế bào của chúng ta bao gồm: viêm, nhiễm trùng và căng thẳng cực độ.

Bệnh

Ngày càng có nhiều người ở Hoa Kỳ hiểu ra rằng nhiều căn bệnh có thể tránh được và việc ngăn ngừa chúng nằm trong tầm kiểm soát của chúng ta. Cho dù đó là cảm lạnh thông thường, hoặc một cái gì đó nghiêm trọng hơn như bệnh tim hoặc ung thư, chúng ta phải cố gắng ngăn chặn những căn bệnh đó.

Dẫn đầu lối sống lành mạnh và tiêu thụ các chế độ ăn uống lành mạnh (trái ngược với độc hại) sẽ giúp chúng ta giữ gìn sức khỏe một cách rất lâu dài, cho dù chúng ta còn trẻ hay lớn tuổi.

Ngủ và nghỉ ngơi hợp lý

Một nghiên cứu gần đây của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh cho thấy có tới 2/3 tổng số người Mỹ không ngủ đủ giấc.

Thời lượng ngủ hàng ngày tối ưu cho người bình thường là 8 giờ và trẻ em là 11-12 giờ. Nhưng vô số trách nhiệm mà nhiều người trong chúng ta, cả người lớn và trẻ em, phải gánh vác trong thời hiện đại này, khiến nhiều người đang tự cướp đi một trong những yếu tố quan trọng nhất để duy trì sức khỏe thể chất tốt, cũng như tinh thần / cảm xúc.

Cơ thể đang hoạt động không ngừng để tự sửa chữa và tái tạo. Điều này xảy ra rất nhiều khi chúng ta đang ngủ – khi năng lượng của cơ thể chỉ được sử dụng rất ít để duy trì chức năng hệ thần kinh tự chủ (nghĩa là các chức năng không tự chủ như nhịp tim) và hầu hết nó có thể hướng đến quá trình phục hồi và chữa bệnh. .

Ngủ ngắn được biết là làm suy yếu hệ thống miễn dịch. Để có được năng lượng theo cách nhân tạo (ví dụ, thông qua caffein) là làm cho cơ thể bị ảnh hưởng lớn, bằng cách phủ nhận thời gian nghỉ ngơi sẽ làm cho tất cả các hệ thống của nó, bao gồm hệ thống miễn dịch và các quá trình chữa bệnh và phục hồi của cơ thể, hoạt động tốt.

Chế độ ăn

Một cách khác mà chúng ta có thể cải thiện đáng kể các đặc tính tự phục hồi mạnh mẽ của cơ thể là ăn một chế độ ăn uống lành mạnh, giàu chất dinh dưỡng.

Điều quan trọng là chúng ta phải giảm thiểu tiêu thụ thực phẩm chế biến, cũng như phụ gia thực phẩm nhân tạo, chất bảo quản, chất tạo màu, hương vị, v.v.

Một chế độ ăn nhiều rau và trái cây, ít mỡ động vật và dầu hydro hóa là tốt nhất cho tất cả chúng ta. Các nguồn protein nạc như đậu cũng rất tốt. Các loại hạt rất giàu chất dinh dưỡng và chất xơ, và có các loại dầu có lợi.

Nhiều chuyên gia dinh dưỡng đồng ý rằng ăn rau sống tốt hơn là nấu chín vì chúng có giá trị dinh dưỡng cao nhất khi ở trạng thái thô. Tuy nhiên, hấp nhẹ rau cũng tốt. Nếu bạn thêm rau vào súp thịt, hãy thêm chúng sau khi thịt đã được nấu chín trong 30 phút hoặc lâu hơn; chỉ để rau nấu khoảng 10-15 phút. Các loại thảo mộc tươi (mùi tây, ngò, cỏ xạ hương, hương thảo và nhiều loại khác) cũng chứa nhiều chất chống oxy hóa (chống gốc tự do), tạo thêm hương vị tuyệt vời và có thể được thêm vào các món ăn và súp sau khi món ăn hoặc súp đã được nấu chín.

Thực phẩm hữu cơ được ưa chuộng hơn thực phẩm không hữu cơ, vì chúng có ít dấu vết của thuốc trừ sâu và kích thích tố tăng trưởng.

Ngoài ra, trái cây và rau hữu cơ đã được phát hiện có hàm lượng flavonoid cao hơn, các hợp chất thực vật có đặc tính chống oxy hóa được cho là giúp ngăn ngừa ung thư.

Tập thể dục

Tập thể dục thường xuyên củng cố và điều kiện mạng lưới tim mạch của cơ thể và giúp giảm căng thẳng về cảm xúc. Nó cũng thúc đẩy giấc ngủ ngon hơn.

Bạn và con cái của bạn không cần phải phát điên với nó – đó có thể là một hoạt động vui vẻ mà cả gia đình có thể tận hưởng, chẳng hạn như đạp xe hoặc chỉ là đi bộ thường xuyên sẽ kích thích lưu thông máu, giúp cơ thể cung cấp oxy và thanh lọc chính nó.

Mỗi chúng ta thực sự chịu trách nhiệm về sức khỏe của cơ thể mình. Và chúng ta càng làm việc nhiều hơn với cơ thể của mình, bằng cách cung cấp cho chúng những gì chúng thực sự cần, chúng ta sẽ càng ít phải dùng đến… thuốc theo toa hoặc sự thăm khám của bác sĩ!

Từ fb Tuấn Mai SG

Lo âu, căng thẳng kéo dài, cơ thể bị ảnh hưởng xấu nặng nề

Lo âu, căng thẳng kéo dài, cơ thể bị ảnh hưởng xấu nặng nề

May 25, 2022

SAN FRANCISCO, California (NV) – Nếu thường xuyên rơi vào trạng thái lo lắng, bồn chồn và căng thẳng triền miên, sẽ ảnh hưởng rõ rệt đến các thay đổi hành vi, gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với sức khỏe.

Vốn dĩ lo lắng là một phần bình thường của cuộc sống. Ví dụ như lo lắng trước khi phát biểu trước đám đông hoặc trong một cuộc phỏng vấn xin việc. Nhưng nó chỉ nên là trạng thái nhất thời.

Lo lắng là trạng thái bình thường trong cuộc sống nhưng nếu nó luôn tồn tại trong bạn thì không nên đánh giá thấp tí nào. (Hình: Liza Summer/Pexels)

Rối loạn lo âu có thể xảy ra ở bất kỳ giai đoạn nào của cuộc đời, nhưng chúng thường bắt đầu ở tuổi trung niên. Theo Viện Sức Khỏe Tâm Thần Quốc Gia, phụ nữ có nhiều khả năng mắc chứng rối loạn lo âu hơn nam giới.

Dưới đây là những phản ứng cơ thể nếu như chúng ta luôn trong trạng thái này, theo trang mạng Healthline.

CÁC LOẠI RỐI LOẠN LO ÂU

Rối loạn lo âu tổng quát

Rối loạn lo âu tổng quát (GAD) được định nghĩa là sự lo lắng quá mức không có lý do hợp lý. Hiệp Hội Sức Khỏe Trầm Cảm Hoa Kỳ, gọi tắt là ADAA, ước tính căn bệnh GAD ảnh hưởng đến khoảng 6.8 triệu người Mỹ trưởng thành mỗi năm.

GAD được chẩn đoán khi có biểu hiện lo lắng tột độ về nhiều thứ kéo dài sáu tháng hoặc lâu hơn. Ở trường hợp nhẹ, bạn vẫn có thể sinh hoạt bình thường. Nhưng những trường hợp nặng hơn có thể ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống đời thường của bạn.

Rối loạn lo âu xã hội

Triệu chướng rối loạn lo âu xã hội (social anxiety disorder) liên quan đến nỗi sợ hãi đến tê liệt đối với các tình huống xã hội, đối diện và nói chuyện người khác, cảm thấy không thoải mái, hồi hộp khi có cảm giác như người khác đang đánh giá bạn. Chứng ám ảnh sợ xã hội nghiêm trọng này có thể khiến người ta cảm thấy luôn trong trạng thái xấu hổ và cô đơn.

Theo ADAA, khoảng 15 triệu người Mỹ trưởng thành sống chung với chứng rối loạn lo âu xã hội. Độ tuổi khởi phát điển hình là khoảng 13 tuổi, trong đó có khoảng 1/3 số người mắc chứng rối loạn lo âu xã hội trong khoảng từ 10 năm trở lên mới tìm kiếm sự giúp đỡ và tìm cách chữa trị.

Rối loạn căng thẳng sau chấn thương

Rối loạn căng thẳng sau chấn thương (PTSD) phát triển sau khi chứng kiến ​​hoặc trải qua một điều gì đó đau buồn hay bị shock. Các triệu chứng có thể bắt đầu ngay lập tức hoặc bị trì hoãn trong nhiều năm. Các nguyên nhân phổ biến bao gồm chiến tranh, thiên tai hoặc từng trải qua cuộc tấn công và sợ hãi trong quá khứ. Các đợt PTSD có thể được kích hoạt mà không có cảnh báo trước.

Có rất nhiều kiểu rối loạn lo âu mà con người dễ mắc phải. (Hình: Ekaterina Bolvovtsova/Pexels)

Rối loạn ám ảnh cưỡng chế

Những người bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế (obsessive-compulsive disorder, gọi tắt là OCD) có thể cảm thấy bị “quá tải” với mong muốn thực hiện các hoạt động cụ thể (cưỡng chế) lặp đi lặp lại hoặc trải qua những suy nghĩ ngoài luồng và không có chủ ý có thể gây đến tình trạng ám ảnh, tạo nên cảm giác bồn chồn, khó chịu.

Các hành vi cưỡng chế phổ biến bao gồm thói quen rửa tay, đếm hoặc kiểm tra thứ gì đó, sắp xếp đồ vật ngay ngắn, liên tục và luôn trong tâm trạng mình làm chưa đủ. Những nỗi ám ảnh phổ biến bao gồm lo lắng về sự sạch sẽ, cơn bốc đồng hung hãn và tìm kiếm sự cân xứng trong mọi thứ.

ẢNH HƯỞNG CỦA CHỨNG LO ÂU ĐỐI VỚI CƠ THỂ

Hệ thống thần kinh trung ương

Các cơn lo lắng và hoảng sợ kéo dài có thể khiến não tiết ra các hormone căng thẳng một cách thường xuyên. Điều này có thể làm tăng tần suất xuất hiện các triệu chứng như đau đầu, chóng mặt và trầm cảm.

Khi bạn cảm thấy lo lắng và căng thẳng, não của bạn tràn ngập các hormone và hóa chất được thiết kế để giúp bạn đối phó với mối đe dọa.

Adrenaline và cortisol là hai ví dụ. Mặc dù đây là hai hormone hữu ích đối với những trường hợp căng thẳng cao độ thường xuyên, nhưng việc tiếp xúc lâu dài với hormone căng thẳng có thể gây hại nhiều hơn cho sức khỏe thể chất của bạn về lâu dài. Ví dụ, tiếp xúc lâu dài với cortisol có thể góp phần làm tăng cân, ảnh hưởng đến giấc ngủ, thậm chí là còn rơi vào trạng thái trầm cảm.

Khi căng thẳng thường xuyên, hệ miễn dịch trong cơ thể sẽ không đủ sức chống lại vi khuẩn. (Hình: Kayla Koss/Unsplash)

Hệ tim mạch

Rối loạn lo âu có thể gây ra nhịp tim nhanh, đánh trống ngực và đau ngực. Bạn cũng có thể bị tăng nguy cơ mắc bệnh cao huyết áp và bệnh tim. Nếu bạn đã bị bệnh tim, rối loạn lo âu có thể làm tăng nguy cơ biến cố mạch vành.

Hệ bài tiết và tiêu hóa

Lo lắng cũng ảnh hưởng đến hệ bài tiết và tiêu hóa. Bạn có thể bị đau bụng, buồn nôn, tiêu chảy và các vấn đề tiêu hóa khác. Chán ăn cũng có thể xảy ra.

Các nhà khoa học cũng cho biết các mối liên hệ giữa rối loạn lo âu và sự phát triển của hội chứng ruột kích thích (IBS) sau khi bị nhiễm trùng ruột. IBS có thể gây nôn mửa, tiêu chảy hoặc táo bón.

Hệ miễn dịch

Lo âu kéo dài có thể kích hoạt phản ứng chống lại căng thẳng của bạn và giải phóng một lượng lớn các chất hóa học và kích thích tố, như adrenaline, vào hệ thống của bạn.

Về ngắn hạn, điều này làm tăng nhịp đập và nhịp thở, vì vậy não của bạn có thể nhận được nhiều oxy hơn, giúp bạn chuẩn bị các phản ứng thích hợp với một tình huống căng thẳng. Hệ thống miễn dịch của bạn thậm chí có thể được tăng cường trong thời gian ngắn. Với căng thẳng không thường xuyên, cơ thể của bạn sẽ trở lại hoạt động bình thường khi căng thẳng qua đi.

Nhưng nếu bạn liên tục cảm thấy lo lắng và căng thẳng kéo dài, cơ thể sẽ không bao giờ nhận được tín hiệu để trở lại hoạt động bình thường. Điều này có thể làm suy yếu hệ thống miễn dịch của bạn, khiến bạn dễ bị nhiễm virus và bệnh tật thường xuyên. Ngoài ra, vaccine khi chích vào người có thể không hoạt động nếu bạn lo lắng.

Hệ hô hấp

Lo lắng gây ra tình trạng thở nhanh và không sâu. Nếu bạn bị bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, gọi tắt là COPD, bạn có thể có nhiều nguy cơ nhập viện do các biến chứng liên quan đến lo âu. Chúng cũng có thể làm cho các triệu chứng hen suyễn trở nên tồi tệ hơn. (UPK) 

 Bác Sĩ Albert B. Sabin

 Bác Sĩ Albert B. Sabin

Cách đây đúng 64 năm, năm 1957, một vị Bác sĩ đã quyết định không cần cấp bằng sáng chế cho vắc-xin của mình, để tất cả các công ty dược phẩm được quyền sản xuất và cung cấp vắc-xin cho trẻ em toàn thế giới.

 Đó là vị Bác sĩ Mỹ gốc Do Thái/Ba Lan, sinh ra ở Bialystok – ông Albert Bruce Sabin (1906 – 1993); nhà vi-rút học nổi tiếng với phát minh vắc-xin bại liệt (Polio Vaccine). Ông không cần tiền thưởng cho bằng sáng chế, để vắc-xin được tiếp cận tất cả mọi người bất kể giàu nghèo.

Từ năm 1959-1961, hàng triệu trẻ em khắp thế giới đã được chủng ngừa vắc-xin bại liệt của Sabin, dập tắt dịch bệnh này. Trong khi trước đó, gần như cả 1 thế hệ bị xóa sổ vì bệnh bại liệt.

Ông Sabin nói: “Nhiều người khuyên tôi nhất định phải lấy bằng sáng chế cho vắc-xin nhưng tôi không muốn. Đây là món quà tôi dành cho tất cả trẻ em trên thế giới”.
Được biết vì là người Do Thái, 2 cháu gái của ông đã bị phát-xít Đức giết hại. Được hỏi liệu ông có muốn trả thù, ông đáp: “Họ đã giết 2 đứa cháu gái tuyệt vời của tôi, nhưng tôi đã cứu hàng triệu đứa trẻ khắp thế giới. Bạn không nghĩ đây là một sự ‘trả thù’ lớn hơn sao?”
 

Trong thời Chiến tranh lạnh, Sabin đã tặng miễn phí các chủng vi-rút của mình cho nhà khoa học Liên Xô Mikhail Chumakov, cho phép phát triển vắc-xin của ông ở đất nước này.

 Ông Sabin tiếp tục sống với mức lương bình thường, nhưng trái tim ông tràn ngập niềm vui vì đã làm được điều tốt đẹp nhất cho nhân loại.

From: Do Tan Hung & KimBang Nguyen

Đi bộ chân không    

  Đi bộ chân không    

(coi chừng mảnh chai….)

Điều “kỳ lạ” gì sẽ xảy ra nếu bạn đi chân trần 5 phút mỗi ngày?

 Liệu pháp đi chân trần trên đường sỏi đá đặc biệt có lợi cho những người cao tuổi, từ 60 trở lên.

 1.Câu chuyện làm các nhà khoa học kinh ngạc

 Nhà nghiên cứu Mỹ, giáo sư Giôn Phise và các đồng nghiệp của ông thuộc Viện nghiên cứu Oregon khi đến Trung Cộng đã chứng kiến 1 cảnh tượng kỳ lạ. Đó là cảnh nhiều người đi tới đi lui, nhảy múa trên 1 đoạn đường rải đá.

Không hiểu được ý nghĩa của điều này, các nhà khoa học Mỹ khi trở về đã triển khai 1 cuộc nghiên cứu thực nghiệm bao gồm 108 người tham gia đi chân trần trên đường sỏi, một nửa đi chân không hoàn toàn, một nửa đi tất. Mỗi ngày họ đi bộ nửa giờ trên đường sỏi.

Sau 16 tuần thí nghiệm, sức khỏe của các thành viên đều tốt lên song chỉ số y học tốt nhất thuộc về nhóm đi chân trần. 

Giáo sư Giôn cho biêt là đối tượng này mỗi năm nên đi mỗi ngày 30 phút chân đất trên sỏi đá trong thời gian tối thiểu 4 tháng và phải đi trên đường sỏi chứ không phải là đường bê tông như ở các thành phố. Đi bộ trên đường bê tông hoặc nền gạch đá hoa không đem lại nhiều kết quả.

 2.Vì sao đi chân trần lại tốt cho sức khỏe?

Theo Đông y, lòng bàn chân là nơi tập trung rất nhiều huyệt vị phản chiếu tương ứng toàn bộ các cơ quan quan trọng bên trong cơ thể như tim, phổi, gan, thận.

Bàn chân trái ứng với nửa thân bên trái phản ánh tình trạng sức khỏe của tim, lá lách, hậu môn, trĩ… Bàn chân phải ứng với nửa thân bên phải phản ánh gan, mật, ruột thừa.

Do đó, đi chân đất sẽ khiến lòng bàn chân được chà xát mạnh, kích thích các huyệt vị này, nhờ đó nâng cao sức khỏe của các hệ cơ quan trong cơ thể.

 Các nhà nghiên cứu khuyên chúng ta nên đi chân trần trên bề mặt như cỏ, trên cát, gỗ hoặc sỏi để tăng sự nhạy cảm của chân và giúp cơ chân chắc khỏe.

Đồng thời lòng bàn chân được tiếp xúc trực tiếp với các vật trên sẽ có tác dụng massage hữu hiệu giúp lưu thông máu, tốt cho mạch máu và các mô liên kết gân và dây chằng. 

  1. Tác dụng của việc đi chân trần:

Theo tờ Sức khỏe gia đình, việc đi chân trần mỗi ngày sẽ đem lại những tác dụng sau: 

– Ngay trong vòng 1 giây: Giúp giải tỏa sự căng thẳng ngay lập tức, giảm bớt sự căng cơ và sóng não có sự dịch chuyển. 

– Mỗi ngày 5 phút đi chân trần: 

+ Nội tạng của bạn sẽ thay đổi tích cực

+ Độ đặc máu giảm đi, tương tự như hiệu ứng của aspirin

+ Hệ tuần hoàn được cải thiện

+ Tăng lượng ôxy trong máu

+ Huyết áp được cân bằng

+ Đường máu ổn định 

– Mỗi ngày 8 giờ đi chân trần (trong những trường hợp cần trị liệu):

+ Các dấu hiệu loãng xương giảm rõ rệt

+ Chức năng tuyến giáp được cân bằng

+ Mức cortisol (căng thẳng) giảm xuống 

– Đi bộ bằng chân đất trong nhiều ngày 

+ Dễ dàng thích nghi với sự thăng trầm trong cuộc sống

+ Các loại viêm và các loại bệnh liên quan tới viêm ít phát triển

+ Cơ thể phục hồi nhanh hơn từ căng thẳng thần kinh và chấn thương.

From: TU-PHUNG

Hãy thương cơ thể mình nghe

Hãy thương cơ thể mình nghe

– Bác sĩ, tui phải ăn kiêng những gì?

– Ui, bà 77 tuổi rồi còn ăn kiêng gì nữa. Thích ăn gì thì ăn thôi. Nhưng nhớ cho con là đừng ăn nhiều, ăn vừa đủ thôi.

– Ủa sao mấy bác sĩ kia dặn tui kiêng đủ thứ, không được ăn cái này không được ăn cái kia.

– Haha thì mấy bác sĩ kia muốn tốt cho bà, bà nghĩ coi bà ăn có được nhiều nữa đâu, bà còn thèm ăn và muốn ăn là mừng rồi.

– Ờ he bác sĩ, tôi ăn đâu có được nhiều.

– Cả đời bà gồng gánh bao nhiêu áp lực rồi, 77 tuổi rồi, nếu tính luôn tuổi mụ là 78, vậy mà còn phải gánh gồng thêm áp lực về chuyện ăn uống nữa … thì mệt lắm thay. Nghe con, thả lỏng, thích gì thì ăn nhưng ăn vừa đủ thôi và nhớ uống thuốc nghe.

Nhìn bà cụ lọm khọm đi ra khỏi cửa phòng mà thương. Bảy năm nay bà đến chỗ mình khám bệnh có mình ên dù bà khai có 7 đứa con.

– Bác sĩ đừng trách mắng tụi nó nghe. Tụi nó ở riêng hết à, với lại còn vợ còn chồng còn con … Lỗi là do tôi, tôi sinh đẻ nhiều quá, lại không có của để dành cho con, giờ tụi nó phải đi làm vất vả. Kêu tụi nó dắt đi khám lại phiền tụi nó.

– Ơ bà …. Bà đã sinh con và nuôi con bằng một tài sản hết sức quí giá đó là tình thương của người mẹ. Có tình thương là đủ, con nghĩ mọi thứ khác chẳng ý nghĩa gì bà à.

Bạn thấy đó, nước mắt bao giờ cũng chảy xuôi, sắp trút hơi thở cuối, người mẹ vẫn thương và luôn cố gắng bảo vệ con mình sợ bác sĩ trách chúng hờ hững.

– Bác sĩ này lạ à nghen, cho bệnh nhân ăn chè ăn chuối.

Một bệnh nhân nam, đái tháo đường, béo phì 57 tuổi lên tiếng với điệu cười khây khẩy.

– Dạ, ăn gì cũng được miễn ăn thấy ngon và thấy vui ạ. Một người ăn trong niềm biết ơn và niềm vui thì không thể ăn nhiều được. Một người biết yêu thương cơ thể mình, biết lắng nghe trái tim mình thì không thể nào béo phì được.

– Hả?

– Bởi vì khi chúng ta biết thương cơ thể mình, tâm hồn mình thì chúng ta sẽ tìm cách và hành động cho chúng đẹp hơn, tốt hơn, khoẻ hơn. Ví dụ, anh thương cơ thể anh nặng nề anh không thể ăn nhiều được.

– ….

– Giống như trong cuộc sống vậy, khi mình thương ai thì mình sẽ tìm cách và làm cho họ đẹp hơn, hạnh phúc hơn, bình an hơn. Chứ có ai thương nhau mà gây đau khổ và tù đày cho nhau?

– ….

– Ví dụ như nếu thương cơ thể mình chúng ta sẽ ngừng thuốc lá, ngừng rượu bia, ngừng những đêm thức khuya vì căng thẳng, ngừng những sinh hoạt tiêu cực. Chúng ta năng hoạt động thể thao ngoài trời, tìm những việc làm mang lại niềm vui, tìm những cuốn sách hay để đọc. Những chương trình tivi có thể làm chúng ta vui vẻ chốc lát, hời hợt nhưng đọc sách sẽ làm chúng ta chậm lại và sâu sắc hơn.

– Cảm ơn bác sĩ. Có lẽ anh về sẽ thay đổi.

– Chúng ta không biết thương lấy chính mình thì làm sao thương được người xung quanh. Có thể chúng ta có vợ có chồng có con nhưng tình thương đó không sâu sắc, sự hiện diện không làm tươi mát và bình an cho nhau. Chúng ta thương ai thật lòng thì sự hiện diện của chúng ta phải làm cho họ sống động hơn, đáng yêu hơn chứ không làm họ lo âu và mệt mỏi.

– ….

– Bác sĩ nói thì nói vậy thôi, tất cả đều là lý thuyết. Thực hành mới khó. Chỉ cần nhớ cho bác sĩ một điều ăn gì, làm gì, nghĩ gì là phải cân bằng. Ví dụ hôm nào lỡ ăn thêm cái bánh ngọt là phải đi bộ thêm 30 phút, nếu đau khớp gối thì ngồi xoay vòng, đánh tay, gập bụng. Khi chúng ta vận động thể lực sẽ làm mất đi năng lượng ăn vào. Thay vì tính chế độ Calories khó khăn hay cứ phải chú ý calories trên những hộp thực phẩm. Vận động thể lực, ăn ngon, ngủ ngon, suy nghĩ thoáng đạt … giúp cơ thể tiết ra một lượng hormon mà các nhà khoa học gọi là hormon hạnh phúc, giúp chúng ta tươi trẻ và yêu đời hơn.

Rồi một bệnh nhân khác hỏi:

– Mẹ tôi có uống được cà phê không bác sĩ?

– Bác sĩ thần kinh có bảo ngừng cà phê cho bệnh nhược cơ không?

– Dạ không.

– Vậy tại sao lại ngừng cà phê khi bà cụ 84 tuổi, đã có cả đời uống cà phê rồi, biết đâu cà phê giúp bà ấy sống ngần ấy tuổi mà không có ung thư gan?

– Ơ ….

– Cho bà uống cà phê sữa cũng được, hay cho chút đường cũng được.

– Ơ ….

– Uống cà phê mà đắng quá đâu có phê, chúng ta thường thích những gì ngọt ngào hơn đắng cay, chẳng phải vậy sao? Chỉ là nhớ chỉnh lại chế độ ăn bớt tinh bột một chút, tập thể dục thụ động cho bà. Người già không cần kiểm soát đường huyết quá nghiêm ngặt. Đứng ở góc độ khác, sống phải có chất lượng cuộc sống, phải vui mới đáng sống. Tạo áp lực cho nhau để sống tốt hơn cũng tốt, nhưng bác sĩ đâu có thể ở bên bệnh nhân 24/24 một ngày đâu. Đôi khi bác sĩ chỉ thấy bệnh mà không thấy người bệnh. Đôi khi bác sĩ chỉ kê toa đúng phác đồ nhưng không biết để mua được toa thuốc đó là lương cả tháng của họ hay con họ.

Hãy thương cơ thể mình nghe.

 BS Nguyễn Bảo Trung

From: TRUONG LE 

 Tương Tác Giữa Thuốc Và Thực Phẩm

Bài rất hay và hữu ích cho sức khỏe, nên lưu lại để truy lục khi cần thiết…

Re: Tương Tác Giữa Thuốc Và Thực Phẩm

Bác Sĩ NGUYỄN THƯỢNG CHÁNH – DVM.

Từ lâu , người ta đả biết rằng một vài loại thức ăn , hoặc thức uống có thể ảnh  hưởng  đến sự hấp thụ và tác dụng của  thuốc  sử dụng . Khoa học gọi đây là hiện tượng tương tác (interaction) giữa thực phẫm và dược phẫm. Tác dụng của món thuốc có thể bị thay đổi, như nó có thể bị gia tăng, suy giãm, hoặc bị vô hiệu quá.  Một số phản ứng phụ ( effets indésirable , side effects )  cũng nhân đó mà xuất hiện ra . Liều lượng thuốc sử dụng, tuổi tác , sức nặng của bệnh nhân , nam hay nử , ăn lúc nào , uống thuốc lúc nào củng như tình trạng sức khỏe đều là nhửng nhân tố có thể ảnh hưởng và chi phối hiện tượng tương tác.

Một vài thí dụ điển hình

(Trong thực tế còn rất nhiều loại dược phẫm không được nêu ra ở đây)

1-     Các loại thuốc kháng sinh trị nhiễm trùng

Penicillin ( Amoxicillin, Ampicillin) , Erythromycine : tránh ăn hay uống những thứ có tính chua hay acid , như nước trái cây , nước cam ,cà tomate , café . Dùng nhửng loại thực phẫm nầy sẻ làm tăng độ acid của bao tử và làm giãm tác dụng của thuốc . Nên uống lúc bụng trống , nghỉa là 1 giờ trước , hoặc 2 giờ sau khi ăn .Trường hợp bị xót bao tử thì nên ăn một chút thức ăn lúc uống thuốc .

Tetracycline , Ciprofloxacin ( Cipro)  : tránh ăn , hay uống nhửng thực phẫm có chứa nhiều calcium , như sữa , crème glacée ,  fromage , và yogourt .Củng không nên uống chung  với các loại vitamins hay supplements có chất sắt .Với nhửng loại thức ăn nầy , thuốc sẽ bị kém tác dụng đi . Nếu uống chung với  café , Coca Colas , trà , chocolat  , sẻ làm gia tăng nồng độ caffeine trong máu lên nhiều ,và gây kích thích  , bồn chồn . Củng không nên uống chung với các loại  thuốc  làm giãm độ chua  của bao tử thường được gọi là antacids như Maalox , Mylanta ….

Metronidazole ( Flagyl ) trị nhiễm trùng đường ruột và đường sinh dục : tránh rượu vì  có thể làm xót dạ dầy , làm đỏ mặt ( flushing ) , nhức đầu , đau bụng và nôn mửa . Các loại Sulfonamides , như Sulfamethazole + Trimetroprim ( Bactrim , Septra ) : tránh rượu vì có thể làm nôn mửa . Nên uống lúc bụng trống . Nếu cãm thấy khó chiụ , thì có thể ăn một chút gì đó .

2- Các loại thuốc chống nhiễm trùng do nấm ( antifungals )

Griseofulvin ( Grifulvin) , Ketoconazole ( Nizoral)  : tránh uống chung với sữa, fromage, yogourt , cà rem, và củng không nên dùng cùng một lúc với các loại thuốc antacids .  Tránh uống rượu, vì sẻ bị đỏ mặt , nhức đầu , đau bụng và nôn mửa .

3- Các loại thuốc chống đau nhức có codeine và narcotique

Codeine + Acetaminophen ( Tylenol avec Codeine ), Morphine, Oxycodone +Acetaminophen( Percocet ) , Meperidine ( Demerol ) : Không nên uống rượu cùng 1 lúc với thuốc , vì sẻ làm gia tăng sự ngầy ngật và buồn ngủ , rất nguy hiểm nếu phải lái xe hay sử dụng máy móc …. Nên uống thuốc lúc bụng đầy để khỏi làm xót bao tử

4- Các loại thuốc làm giãm viêm sưng và làm giãm đau nhức .

Acetylsalicylic ( Aspirin) ,Ibuprofen(Advil , Motrin ), Naproxen, Feldene     vv…nên uống lúc bụng đầy hay uống với sửa để khỏi xót dạ dầy .

Tránh dùng chung với rượu hay với các loại nước trái cây có tính chua . Rượu có thể làm hại gan và tăng nguy cơ xuất huyết bao tử . Tốt nhất là nên dùng các loại Aspirin có áo bọc bên ngoài ( buffered Aspirin , enteric coated Aspirin ) để không làm hại bao tử . Acetaminophen ( Tylenol , Tempra ) không hại  bao tử , muốn có hiệu quả cấp thời ,nên uống lúc bụng trống . Tuy nhiên đối với nhửng người nào thường hay uống rượu ,củng có thể bị hại gan và xuất huyết bao tử. Đối với các thuốc nhóm Corticosteroide trị viêm sưng , ngứa ngái , như Dexamethasone , Hydrocortisone, Prednisone, Triamcinolone  vv… , nên tránh rượu để khỏi làm xót bao tử. Các loại thuốc nầy có khuynh hướng giử nước cho nên cần tránh nhửng thức ăn có chứa nhiều muối sodium .  . Nên dùng nhửng thực phẫm nào có nhiều calcium   như sữa   chẳng hạn . Uống thuốc lúc bụng đầy để không xót bao tử .

5 – Các loại thuốc trị bệnh tiểu đường .

Ví dụ Chlopropamide ( Diabinese ) : Tránh rượu vì  có thể làm đỏ mặt và gây nôn mửa    . Tránh nhửng thực phẫm chứa nhiều bột đường ( carbohydrate ) nhưng lại chứa ít chất xơ .  Tốt hơn hết nên theo lời chỉ dẩn của bác sĩ và dược sĩ .

 6 – Các loại thuốc chống suy nhược tinh thần ( trầm cảm ) thuộc nhóm IMAO

Phenelzine ( Nardil) có thể tương tác với chất Tyramine hiện diện trong một số các loại fromage cứng , chocolat , gan bò , gan gà , rượu chát ,trong trái  avocado và trong các loại saucisse khô . Bệnh nhân bị nôn mửa , áp huyết động mạch gia tăng, và có thể bị tai biến mạch máu não .

7-    Các loại thuốc an thần khác như Paroxetine ( Paxil) , Sertraline ( Zoloft)

Fluoxetine ( Prozac ) : có thể uống lúc bụng trống hay bụng đầy . Tránh rượu

8 –  Các loại thuốc chống lo âu phiền muộn ( Anti anxiety drugs)

Lorazepam ( Ativan)  , Diazepam (Valium) , và Aprazolam ( Xanax ) : Tránh sử dụng máy móc    vì sẻ bị ngầy ngật , và phản ứng chậm lại lúc lái xe .  Café ngược lại sẻ kích thích, gây bồn chồn, và làm giãm sự công hiệu của thuốc .

9 – Các loại thuốc antihistamines chống dị ứng

Diphenhydramine ( Benadryl )  , Chlorpheniramine ( Chlor-Tripolon ) , Loratadine ( Claritin ) , Brompheniramine ( Dimetane ), và  Asternizole ( Hismanal ) : Nên uống lúc bụng   trống để tăng hiệu quả của thuốc . Không uống chung   với rượu , sẻ  làm tăng sự ngầy ngật và buồn ngủ . Các loại sirop để trị ho cảm  có chứa chất Dextromethorphane (  Sirop Balminil DM ) củng không nên được uống chung với rượu .

10 – Các loại thuốc làm giãn nở phế quản và trị hen suyển

Theophylline ( Theo- Dur) , Aminophylline ( Phyllocontin ) , không nên dùng nhửng thứ gì có caffeine ( trà ,café , Coke , Pepsi  vv…) Vì thuốc và caffeine đều kích thích hệ thần kinh trunh ương . Tránh rượu vì có thể bị nhức đầu và nôn mửa .

Theophylline , thức ăn nhiều   chất béo làm tăng chất thuốc trong cơ thể lên , còn ngược lại với thức ăn nhiều bột dường sẻ làm giãm chất thuốc  xuống .

Các loại thuốc trị bệnh tim và tuần hoàn

A –  Thuốc lợi tiểu ( Diuretics ) giúp đem nước ra ngoài cơ thể , và có 2 nhóm :

Nhóm làm mất Potassium, như Furosemide ( Lasix) và Hydrochlorithiazide ( HydroDiuril) : tránh dùng thực phẫm có nhiều muối sodium ( thịt nguội , bacon, đồ  hộp , bột ngọt ) vì chúng sẻ làm thất thoát potassium ra ngoài, gây xáo trộn các điện giải, và có hại đến sức khoẻ .

Nhóm giử potassium, như Tramterene ( Dyrenium) ,và Spironolacton ( Aldactone) : tránh dùng thực phẩm có chứa nhiều potassium như chuối , trái cây khô , mọng lúa mì , nước cam ( 2-3 ly )  , sung khô , hoặc sử dụng nhửng chất thay thế muối ( salt substitude ) có chứa nhiều potassium . Sự thặng dư potassium rất có hại cho tim , làm nó đập không đều .

B- Thuốc làm giản nở mạch, giãm áp huyết và điều hòa nhịp tim .

Catopril ( Capoten) , Enalapril ( Vasotec ) ,Nitroglycerine ( Nitrostat ), Atenolol ( Tenormin ) ,  Hydralazine ( Aprelosine ) , Methyldopa ( Aldomet ) và Metoprolol ( Lopressor ) : cần giãm thực phẫm có nhiều muối sodium .  Tránh rượu , vì áp huyết có thể hạ xuống quá thấp . Capoten có thể làm tăng chất potassium trong cơ thể , rất hại cho nhịp đập của tim ,  bởi vậy cần nên tránh dùng nhửng thực phẫm có nhiều potassium như chuối , cam và rau cải có lá thật xanh lúc uống thuốc nầy .  Thức ăn có thể làm giãm việc hấp thụ của thuốc Capoten  , nên uống 1 giờ trước khi ăn hoặc 2 giờ sau khi dùng bửa .  Đối với thuốc Digoxin , nếu ăn quá nhiều chất xơ và chất pectin ( có trong các loại jelly ) , sự hấp thụ của thuốc có thể bị giãm đi .

C –  Các thuốc làm giãm cholesterol

Thuờng được gọi chung là “Statins” . Tác dụng chính là làm giãm loại cholesterol xấu ( LDL ) . Một vài loại thuốc củng có thể  giúp kéo chất béo triglyceride xuống nửa . Thí dụ : Atorvastatin ( Lipitor ) , Simvastatin ( Zocor ) , và Lovastatin ( Mevacor ) , Pravastatin ( Pravachol) .  Mevacor và Pravachol nên được uống  vào bửa cơm tối  để tăng sự hấp thụ của món thuốc . Tránh uống nhiều rượu vì có thể hư gan .

Các thuốc làm loảng máu và thuốc kháng đông ( Anticoagulant)

Warfarin ( Coumadin ) :  vitamin K làm đông máu nên có ảnh hưởng ngược lại với các loại thuốc kháng đông . Nếu uống Coumadin thì nên tránh dùng nhửng thực phẫm có chứa nhiều vitamin K như  cải broccoli , rau mồng tơi ( spinach ) , turnip ,   bông cải ( cauliflower ) , cải brussel ( brussel sprouts ) .  Ngoài ra nếu có uống thêm supplement vitamin E  với liều lượng lớn trên  400 IU thì coi chừng nguy hiểm  vì nó có thể làm gia tăng sự  xuất huyết

Các  thuốc trị bệnh dạ dầy và ruột

Cimetidin ( Tagamet ) , Ranitidine ( Zantac ) , Famotidin ( Pepcid ) là nhửng thuốc trị loét bao tử  bằng cách giãm  độ chua acid của cơ quan nầy . Tránh rượu , café và thuốc lá . Đối với nhửng thuốc antacids làm giãm độ chua của dạ dầy như thuốc Mylanta và Maalox , nên tránh  dùng chung với sửa , crème glacée , fromage và yogourt .

Các thuốc nhuận trường và thuốc xổ  .

Lạm dụng nhửng thuốc loại nầy sẻ dẩn đến tình trạng cơ thể có thể bị mất các vitamins A,D,E, K , chất khoáng Potassium  , Sodium , và các dưởng chất do thực phẫm mang vào . Nếu sử dụng loại dầu huile minérale  để làm thuốc xổ thì sẻ  bị mất đi các vitamin hòa tan trong  chất béo  , như các vitamins A,D,E K .

Cẩn  thận với nước  bưỡi.

Nước bưởi ( grapefruit juice ) , củng như bưởi trái có thể  làm gia tăng gấp bội  mức độ hấp thụ của một số thuốc vào trong máu , đồng thời củng kéo theo nhửng phản ứng bất lợi nguy hiễm . Cam và chanh không thấy có ảnh hưởng nầy . Sau đây là nhửng thí dụ :

*- Thuốc trị cao áp huyết : Felodipine ( Plendil) , Nifedipine ( Adalat) , Nimodipine (Nimotop )

*- Thuốc làm giãm cholesterol : Simvastatin ( Zocor) , Lovastatin ( mevacor ), Atorvastatin ( Lipitor ) .

*- Thuốc làm giãm sức miển nhiễm dùng ở nhửng ca ghép bộ phận  : Cyclosporine ( Neoral)

*- Thuốc trị lo âu , mất ngủ, suy nhược tinh thần : Diazepam ( Valium), Triazolam ( Halcion)  , Carbamazepine ( Tegretol) , Trazodone ( Desyrel) , Chlomipramine ( anafraninl ) .

*- Thuốc trị dị ứng : Astremizole ( Hismanal ).

*- Thuốc trị Sida : Saquinavir ( Fortovase )

Nên uống thuốc với nước gì ?

RƯỢU :  là thứ cần nên tránh nhất lúc uống thuốc . Rượu thường làm đỏ mặt , nhức đầu , ói mửa , tim đập nhanh, làm ngầy ngật , gây buồn ngủ thêm . Các loại thuốc trị dị ứng  củng như nhửng loại thuốc có chứa morphine đều không  được uống chung  với rượu .

NƯỚC NGỌT CÓ GAZ : ví dụ Pepsi, Coke  vv…đều có tính làm tăng nhanh thời gian loại thải thuốc ra ngoài bao tử .

CAFÉ :   Một số thuốc có thể làm chậm lại sự biến duởng của café trong gan , vì vậy tác dụng của chất caffein tồn tại rất lâu trong cơ thể ,và gây ra một số phản ứng phụ bất lợi như làm tim đập nhanh và làm mất ngủ .

SỮA :   Calcium trong sữa sẻ kết hợp với Tetracycline để tạo thành 1 hổn hợp không hấp thụ được .

TRÀ :  Các hoạt chất của trà sẻ kết hợp với các chất sắt trong thuốc để tạo nên 1 hổn hợp không thể hấp thụ được . Tránh uống  các supplement có chứa chất sắt với nước trà .

NƯỚC LẠNH :  Uống thuốc với 1 ly nước lạnh là tốt nhất .

KẾT  LUẬN:

Đại học Laval , Quebec gần đây đả thực hiện 1 cuộc thăm dò về cách sữ dụng thuốc ở giới cao niên .  . Kết quả thật đáng ngại : 70% không hiểu rỏ nhửng lời chỉ dẩn ghi trên lọ thuốc , trong số nầy 50% không tôn trọng cách dùng thuốc  củng như thời gian trị liệu  . Hậu quả là 20% bệnh nhân  điều trị ở bệnh viện đều có nguyên do bắt nguồn từ thuốc mà ra …như dùng thuốc không đúng cách , dùng không đúng liều lượng  chỉ dẩn , phản ứng phụ quá mạnh  vv… Ngăn ngừa sự tương tác xảy ra , không có nghỉa là phải nhịn ăn , hay nhịn uống . Điều quan trọng ở đây là cần phải biết rỏ là mình có thể ăn những gì, lúc nào có thể ăn được và lúc nào có thể uống được . Muốn biết rỏ, không gì tốt hơn là nên hỏi  và  nghe theo lời chỉ dẩn của bác sĩ  và dược sĩ .

Nguyễn Thượng Chánh, DVM

From:Truong Le

10 HIỂU LẦM  VỀ  ĐỘT  QUỴ  KHIẾN  NGƯỜI  BỆNH  MẤT CƠ  HỘI  VÀNG  ĐIỀU  TRỊ   

10 HIỂU LẦM  VỀ  ĐỘT  QUỴ  KHIẾN  NGƯỜI  BỆNH  MẤT CƠ  HỘI  VÀNG  ĐIỀU  TRỊ   

Đột quỵ xảy ra rất phổ biến, tuy nhiên không phải tất cả các thông tin đồn đại về đột quỵ đều là sự thật. Có khá nhiều hiểu lầm còn tồn tại về tình trạng này.

Tại Việt Nam, theo Bộ Y tế, mỗi năm nước ta ghi nhận thêm 200.000 ca đột quỵ, trong đó khoảng 50% trường hợp tử vong. Nhiều người sống sót sau đột quỵ phải sống chung với các di chứng về thần kinh, vận động… Tỷ lệ đột quỵ ở người trẻ tuổi đang có xu hướng tăng lên, trung bình khoảng 2% mỗi năm, số lượng nam giới cao gấp bốn lần nữ giới. Trong đó, nhiều người bệnh không biết mình mang yếu tố nguy cơ, đến khi bị đột quỵ, đo huyết áp, thử đường huyết mới phát hiện.

Còn ở Mỹ, theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), mỗi năm có hơn 795.000 người bị đột quỵ, trong đó có khoảng 610.000 trường hợp là đột quỵ lần đầu tiên.

Trong năm 2019, đột quỵ là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ 2 trên thế giới, ước tính chiếm khoảng 11%.

Đột quỵ có 3 thể chính:

– Đầu tiên và phổ biến nhất (ước tính chiếm khoảng 87% các trường hợp) là đột quỵ thiếu máu não, xảy ra khi mạch máu cung cấp oxy cho não bị tắc nghẽn.

– Thứ hai là đột quỵ xuất huyết não, xảy ra do nứt vỡ các động mạch trong não dẫn đến phá hủy các mô xung quanh.

Cục máu đông làm ngừng lưu lượng máu đến một khu vực của não trong bệnh thiếu máu cục bộ (ảnh trái), trong khi máu rò rỉ vào mô não trong trường hợp xuất huyết (ảnh phải). Nguồn: scientificanimations.

– Thể thứ ba của đột quỵ là thiếu máu não thoáng qua (TIA), xảy ra khi dòng máu tới não là bị tắc nghẽn tạm thời, thường trong thời gian ngắn hơn 5 phút.

Đột quỵ xảy ra rất phổ biến, tuy nhiên không phải tất cả các lời đồn đại về đột quỵ đều là sự thật.

Có khá nhiều hiểu lầm còn tồn tại, khiến người bệnh bỏ qua các cơ hội vàng để hồi phục hoặc giảm thiểu nguy cơ đột quỵ.

Để giúp mọi người xóa bỏ những lầm tưởng và nâng cao hiểu biết, chúng tôi đã liên lạc với Bác sĩ Rafael Alexander Ortiz, trưởng khoa Phẫu Thuật nội mạch thần kinh và Xạ trị thần kinh can thiệp tại Bệnh viện Lenox Hill, Mỹ.

Hiểu lầm 1: Đột quỵ là vấn đề của tim

Mặc dù các yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch và đột quỵ có liên quan tới nhau, một số người nhầm lẫn đột quỵ và nhồi máu cơ tim. Đột quỵ xảy ra tại não, nguyên nhân do tắc nghẽn hoặc nứt vỡ của các mạch máu trong não. Trong khi đó, nhồi máu cơ tim xảy ra bởi sự tắc nghẽn dòng máu nuôi dưỡng tim.

Đột quỵ do thiếu máu cục bộ trong đó lưu lượng máu bị tắc nghẽn do cục máu đông. Nguồn: brown.edu

 Hiểu lầm 2: Đột quỵ không thể phòng tránh

Bác sĩ Ortiz nói: “Các yếu tố nguy cơ phổ biến nhất gây ra đột quỵ là tăng huyết áp, hút thuốc lá, tăng cholesterol máu, béo phì, đái tháo đường, chấn thương ở đầu hoặc cổ, và rối loạn nhịp tim”.

Nhiều trong số các yếu tố nguy cơ kể trên có thể được điều chỉnh bởi lối sống. Tập thể dục thường xuyên và ăn uống với chế độ lành mạnh có thể giảm các yếu tố nguy cơ như tăng huyết áp, tăng cholesterol máu, béo phì, đái tháo đường.

Các yếu tố nguy cơ khác bao gồm sử dụng nhiều bia rượu và căng thẳng. Loại bỏ hoặc làm giảm các yếu tố này cũng có thể làm giảm nguy cơ của đột quỵ.

Hiểu lầm 3: Đột quỵ không có yếu tố di truyền

Các rối loạn đơn gen như bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm làm tăng nguy cơ đột quỵ.

Các thành viên trong cùng một gia đình có cùng môi trường sống và lối sống. Do đó, môi trường và thói quen sinh hoạt không lành mạnh có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ ở tất cả các thành viên, đặc biệt là khi có các yếu tố di truyền kèm theo, ví dụ như tăng huyết áp hoặc các yếu tố nguy cơ liên quan đến tim mạch.

Hiểu lầm 4: Khó phát hiện triệu chứng đột quỵ

Các triệu chứng phổ biến nhất của đột quỵ tạo nên từ viết tắt F.A.S.T:

  • F (face): Khuôn mặt bị méo, một bên mặt bắt đầu tê liệt và nụ cười bị méo một bên.
  • A (arm): Một cánh tay bắt đầu yếu hoặc tê bì, khi nâng lên thì rơi xuống từ từ.
  • S (speech): Nói khó, nói ngọng.
  • T (time): Thời gian là vàng, hãy gọi tổng đài cấp cứu ngay khi phát hiện các triệu chứng trên.

Một số triệu chứng khác của đột quỵ bao gồm:

  • Tê liệt hoặc yếu mặt, cánh tay, chân, hoặc một bên cơ thể.
  • Lú lẫn, gặp khó khăn trong việc nói hoặc hiểu lời nói.
  • Khó nhìn ở một hoặc cả hai mắt.
  • Đi khó, bao gồm chóng mặt, mất cân bằng hoặc cả hai.
  • Đau đầu dữ dội không có nguyên nhân.

Hiểu lầm 5: Đột quỵ không thể điều trị

Bác sĩ Ortiz giải thích: “Có một số niềm tin cho rằng đột quỵ là không thể hồi phục và không thể điều trị. Nhưng niềm tin này không chính xác”.

Đây là thông tin đúng: Điều trị cấp cứu đột quỵ với thuốc tiêu sợi huyết, lấy huyết khối bằng cách đặt dụng cụ xâm lấn tối thiểu vào mạch máu (stent), hoặc phẫu thuật… có thể điều trị được các triệu chứng của đột quỵ ở rất nhiều bệnh nhân, đặc biệt nếu họ đến bệnh viện đủ sớm để thực hiện các liệu pháp điều trị (một vài phút hoặc một vài giờ từ khi khởi phát triệu chứng).

Các triệu chứng càng kéo dài thì kết quả điều trị sẽ càng thấp. Tuy nhiên, điều quan trọng là tại thời điểm khởi phát triệu chứng – ví dụ nói khó, nhìn đôi, liệt hay tê bì thì nên gọi cấp cứu sớm để đưa bệnh nhân tới bệnh viện gần nhất.

CDC cũng đã chỉ ra những bệnh nhân tới bệnh viện trong vòng 3 giờ đầu từ khi xuất hiện triệu chứng thì trong vòng 3 tháng sau đó, nguy cơ bị tàn tật sẽ ít hơn so với những bệnh nhân đến muộn.

Hiểu lầm 6: Đột quỵ chỉ xảy ra ở người già

Tuổi là yếu tố nguy cơ quan trọng của đột quỵ. Nguy cơ đột quỵ tăng gấp đôi mỗi 10 năm từ sau 55 tuổi. Tuy nhiên, đột quỵ có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi.

Một nghiên cứu của CDC đã chỉ ra rằng 34% các trường hợp đột quỵ ở bệnh viện trong năm 2009 có độ tuổi dưới 65.

Một báo cáo khác trong năm 2013 chỉ ra: “Xấp xỉ 15% tất cả các trường hợp đột quỵ thiếu máu não xảy ra ở người trẻ và thanh thiếu niên”.

Những nhà nghiên cứu cũng lưu ý rằng các yếu tố nguy cơ đột quỵ bao gồm tăng huyết áp, đái tháo đường, béo phì, rối loạn mỡ máu, và sử dụng thuốc lá là những tình trạng phổ biến nhất ở nhóm tuổi này.

Hiểu lầm 7: Tất cả đột quỵ đều có triệu chứng

Không phải tất cả các trường hợp đột quỵ đều có triệu chứng. Một số nghiên cứu cho thấy đột quỵ không có triệu chứng xảy ra phổ biến hơn đột quỵ có triệu chứng.

Một nghiên cứu thực hiện trên hơn 11 triệu người đột quỵ năm 1998 chỉ ra rằng chỉ 770.000 trường hợp có triệu chứng, trong khi đó có tới gần 11 triệu trường hợp là không có triệu chứng.

Bằng chứng của các trường hợp đột quỵ thầm lặng là các đốm trắng (biểu hiện của các sẹo hình thành trong mô não sau khi bị tổn thương do mạch máu bị tắc nghẽn hoặc bị vỡ) xuất hiện trên MRI.

Đột quỵ thầm lặng được xác định khi bệnh nhân nhận kết quả MRI sau khi xuất hiện các triệu chứng như đau đầu, giảm tri giác và chóng mặt.

Mặc dù các trường hợp này xảy ra không có triệu chứng, nhưng cũng nên được điều trị tương tự như là đột quỵ có triệu chứng. Đột quỵ thầm lặng đặt người bệnh vào nguy cơ đột quỵ có triệu chứng trong tương lai, suy giảm nhận thức, và sa sút trí tuệ.

Hiểu lầm 8: Thiếu máu não thoáng qua không rủi ro

“Một số người đang nghĩ rằng thiếu máu não thoáng qua chỉ là một cơn đột quỵ nhỏ và sẽ mang lại nguy cơ thấp”- bác sĩ Ortiz nói- “Quan niệm này cũng không chính xác. Đó không phải là cơn đột quỵ nhỏ mà là một dấu hiệu của một cơn đột quỵ lớn có thể xảy ra. Bất kỳ triệu chứng của đột quỵ cấp, thoáng qua hay dai dẳng đều cần được điều trị cấp cứu và quản lý để tránh một cơn đột quỵ lớn”.

Hiểu lầm 9: Đột quỵ luôn là nguyên nhân của liệt

Đột quỵ là nguyên nhân dẫn tới tàn phế lâu dài, nhưng không phải tất cả mọi người bị đột quỵ đều sẽ bị liệt hay yếu chi.

Các nghiên cứu chỉ ra rằng hơn một nửa số bệnh nhân trên 65 tuổi còn sống sau khi trải qua cơn đột quỵ sẽ bị giảm chức năng vận động. Tuy nhiên, ảnh hưởng lâu dài của đột quỵ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như là số lượng nhu mô não bị tổn thương và vùng não bị tổn thương. Nếu tổn thương ở bán cầu não trái thì sẽ ảnh hưởng tới bên phải cơ thể và ngược lại.

Nếu đột quỵ xảy ra ở bán cầu não trái, ảnh hưởng có thể bao gồm:

  • Liệt nửa người bên phải.
  • Lời nói và ngôn ngữ có vấn đề.
  • Hành vi chậm chạp và kỳ lạ.
  • Mất trí nhớ.

Nếu ảnh hưởng đến bán cầu não phải, liệt cũng có thể xảy ra và tổn thương ở bên trái cơ thể. Một số ảnh hưởng bao gồm:

  • Nhìn khó.
  • Hành vi nhanh và kỳ lạ.
  • Mất trí nhớ.

Hiểu lầm 10: Đột quỵ hồi phục nhanh

Quá trình hồi phục sau đột quỵ cần có thời gian vài tháng, nếu không muốn nói là vài năm. Tuy nhiên, có rất nhiều trường hợp không hồi phục hoàn toàn. Hiệp hội Đột quỵ Hoa Kỳ cho biết, trong số những người sống sót sau đột quỵ:

  • 10% sẽ hồi phục lại hoàn toàn.
  • 10% cần sự chăm sóc của điều dưỡng tại nhà hoặc phương tiện hỗ trợ lâu dài khác.
  • 25% sẽ hồi phục sự với suy yếu nhẹ ở một vài cơ quan.
  • 40% sẽ suy yếu từ mức độ trung bình tới nặng.

Các nghiên cứu chỉ rằng giai đoạn cửa sổ tính từ lúc khởi phát đột quỵ tới 2-3 tháng sau là khoảng thời gian vàng để tập phục hồi chức năng, mang lại cho bệnh nhân nhiều cơ hội hồi phục. Một số trường hợp cũng có thể tự phục hồi trong giai đoạn này.

Ngoài giai đoạn cửa sổ này và mốc 6 tháng, bệnh nhân vẫn có thể phục hồi các chức năng mặc dù khả năng phục hồi chậm hơn đáng kể.