Tình trạng thất vọng của công nhân Trung Cộng bị thất nghiệp vì thuế nhập cảng cao của Hoa Kỳ

Đài Á Châu Tự Do và các báo 

Công nhân nhà máy điện tử Shangda biểu tình ở thành phố Toại Ninh, Trung Quốc.

Công nhân nhà máy điện tử Shangda biểu tình ở thành phố Toại Ninh, Trung Quốc. (@YesterdayBigcat)

“Đình công! Đình công!”, công nhân hét lớn bên ngoài nhà máy Shangda Electronics ở thành phố Toại Ninh vào Chủ Nhật, trong một video về cuộc biểu tình được người dùng X ‘ @YesterdayBigcat ‘ đăng tải trên mạng xã hội, một nguồn thông tin nổi bật về các cuộc biểu tình ở Trung Quốc.

Các công nhân cho biết công ty này, có trụ sở tại tỉnh Tứ Xuyên, chuyên sản xuất bảng mạch mềm, đã không trả lương cho họ kể từ đầu năm và các chế độ phúc lợi an sinh xã hội trong gần hai năm – kể từ tháng 6 năm 2023.

Tuần trước, vào ngày 24 tháng 4, hàng trăm công nhân của Công ty TNHH Hàng thể thao Guangxin ở huyện Đạo đã đình công sau khi nhà máy của công ty đóng cửa mà không trả lương cho nhân viên hoặc các chế độ phúc lợi an sinh xã hội.

Tại Nội Mông, nhiều công nhân xây dựng đã leo lên, đứng trên các mái nhà của Cộng đồng Vườn Hoàng gia Jincan ở thành phố Thông Liêu vào ngày 25 tháng 4, nơi họ đe dọa sẽ nhảy khỏi tòa nhà nếu không được trả số tiền lương còn nợ, một video khác được đăng trên cùng tài khoản X cho thấy.

“Hiện tại không dễ dàng gì,” một công nhân khác ở nhà máy sản xuất đồ chơi 26 tuổi nói với tờ thời báo Tài Chính – Financial Times. Chủ lao động của anh, ở thành phố Chiết Giang, Trung Quốc, chủ yếu bán cho Hoa Kỳ, và ban quản lý gần đây đã buộc công nhân phải nghỉ hai tuần không lương vì thuế quan.

Theo phân tích của Goldman Sachs, ít nhất 16 triệu việc làm trong nhiều ngành công nghiệp ở Trung Quốc đang bị đe dọa do Tổng thống Trump áp dụng mức thuế 145% đối với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc.

Trong ngành sản xuất của Trung Quốc, ngành thiết bị truyền thông có khả năng mất nhiều việc làm nhất, tiếp theo là ngành may mặc và sản phẩm hóa chất, các nhà phân tích của Goldman, bao gồm Xinquan Chen và Lisheng Wang, đã viết trong một lưu ý gửi cho khách hàng vào Chủ Nhật, 4-5-2025.

Báo Bưu Điện Hoa Nam – SCMP cho biết:

Một sự thay đổi đáng chú ý đang diễn ra trong sản xuất toàn cầu khi ngày càng nhiều công ty Trung Quốc chuyển cơ sở sang đất Hoa Kỳ. Sự di chuyển này diễn ra trực tiếp để đáp trả mức thuế quan đáng kể mà Tổng thống Donald Trump áp đặt đối với hàng hóa Trung Quốc, khiến việc xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ ngày càng trở nên đắt đỏ.

Ryan Zhou, người điều hành một doanh nghiệp quà tặng mới lạ ở miền đông Trung Quốc, đã nhấn mạnh bản chất quan trọng của thị trường Mỹ.

“Hoa Kỳ chiếm gần 95% đơn đặt hàng của chúng tôi. Đây không phải là thị trường mà chúng tôi có thể để mất”, Zhou nói với SCMP. Đối mặt với mức thuế quan khổng lồ 90% đối với các lô hàng của Trung Quốc, Zhou chuẩn bị mở một cơ sở mới tại Dallas, Texas vào tháng tới như một hậu quả trực tiếp của các rào cản thương mại này.

Zhu Ning, một chuyên gia tư vấn cho các công ty Trung Quốc về việc mở rộng ra nước ngoài, đã ghi nhận sự gia tăng đột biến trong các yêu cầu di dời. Ông báo cáo đã xử lý hơn 100 yêu cầu như vậy chỉ trong bốn tháng qua, mức độ quan tâm chưa từng có trước khi áp dụng thuế quan của Trump, theo SCMP.

Có một ngày 30 Tháng Tư khác

Ba’o Nguoi- Viet

May 1, 2025

Thủy Như

Sau năm 75, ngày nào cũng là ngày 30 Tháng Tư đối với tôi, bởi gia đình tôi bị gọi là ngụy quyền phản động bán nước, và cái loa phóng thanh của thị xã sáng nào cũng hát “diệt đế quốc Mỹ, phá tan bè lũ bán nước…” làm tôi nhức cả đầu.

Những người đàn ông trong họ nhà tôi là lũ bán nước đó. Tôi nghe hoài bài hát ấy mà muốn điên. Cả mười năm như vậy, tôi cảm thấy đời mình bị dập sát đất. Sau đó tôi vào ở ruộng rẫy của miền Nam, chẳng có điện đóm, nên thấy đời tối hơn, nhưng được cái là không phải nghe mấy câu hát đó hét vào tai. Rồi cả nhà đùm túm theo ba sang Mỹ, túi bụi với việc làm để bắt đầu cuộc sống nơi xứ người, nên cái ngày 30 Tháng Tư đó ra khỏi đời tôi. Tôi nghĩ mình chẳng việc gì phải bận tâm đến cái ngày đã nhận chìm biết bao cuộc đời.

Giờ tôi đã ở xứ tự do, chả có ai kêu gia đình tôi là lũ này lũ nọ. Thôi thì cho cái ngày đen tối ấy trôi tuột vào quá khứ đi cho rồi. 

Vậy mà những năm gần đây, mỗi năm vào ngày 30 Tháng Tư tôi lại nghĩ ngợi về ngày khổ cực, đầy lo sợ và đau đớn ấy. Càng nghĩ càng cảm thấy buồn và tức giận về một thời kinh khủng.  Mấy hôm nay ngày nào cũng đọc những bài viết về kỷ niệm buồn 30 Tháng Tư, rồi một người bạn cho nghe Lê Khôi hát “Biết bao giờ quay trở lại.” Một người bạn khác gởi bài “Sài gòn niềm nhớ không tên.” Tôi nghe mà cảm thấy thật nặng nề.

Sáng nay trước khi đưa con đi học, tôi đọc cho các con câu Kinh thánh trong bài tĩnh nguyện Thi thiên 119: 147, “Buổi sáng tôi dậy sớm và kêu xin. Tôi đặt hi vọng nơi lời Ngài.” Chàng của tôi hỏi, “Có gì mà nặng nề thế?” Tôi đáp, “Em cần câu này. Hôm nay là 30 Tháng Tư, ngày mất Việt Nam.”

Ngày xưa, nếu tôi đọc những câu này, tôi sẽ nghĩ người viết chính trị hoá vấn đề. Đó không phải là những câu nói chuyện thường ngày trong một gia đình bình thường.  Nhưng hôm nay tôi nói như vậy và cảm thấy buồn, rất buồn khi nhớ về 30 Tháng Tư, 1975, khởi đầu những chuỗi ngày cơ cực nghèo khó của đại gia đình tôi 50 năm trước. Tôi cầu nguyện, xin Chúa cất khỏi tôi cái cảm nghĩ nặng nề ấy trước khi đi làm.

Tôi vào xe mở máy, đài KUSC phát nhạc cổ điển cho tôi nghe. Mỗi sáng vào lúc 7:45, đài có chương trình Mystery in History. Hôm 30 Tháng Tư cũng vậy. MC kể cho vài chi tiết về một ngày quan trọng trong lịch sử nước Mỹ để thính giả có thể đoán xem 30 Tháng Tư có sự kiện quan trọng gì.  Tôi thật ngạc nhiên khi nghe câu trả lời. Hôm nay, 236 năm trước là một ngày quan trọng của vị tổng thống mà tôi ngưỡng mộ nhất – Tổng thống George Washington. Vậy mà tôi không biết và chưa bao giờ nghe ngày lịch sử 30 Tháng Tư có liên hệ đến vị tổng thống đầu tiên của nước Mỹ.

Nhớ lại lúc học lịch sử nước Mỹ, ông giáo sư già kể lịch sử nước Mỹ mỗi buổi học.  Ông chẳng bao giờ cho học trò có ý kiến, ý cò gì cả.  Mình ông nói thao thao bất tuyệt.  Tôi nghe mấy người bạn giới thiệu về ông thầy này trước khi ghi danh lấy lớp. Chẳng phải vì tôi yêu thích môn lịch sử nước Mỹ, bởi tôi đâu có giỏi tiếng Anh mà lấy lớp học đầy chữ ấy, nhưng phải học vì đó là môn bắt buộc để đủ tiêu chuẩn xin học chương trình cử nhân. Một cậu em trong nhà thờ giới thiệu, “Chị lấy lớp học với ông này đi. Bảo đảm đậu, miễn là chị đừng trốn học, nhưng cái này thì không phải lo, vì em nghĩ chị không trốn học bao giờ. Nhưng mà nhớ là đừng cho ổng thấy chị ngủ gục trong khi ổng giảng bài nha. Nếu chị làm được vậy không chừng chị được A đó. Nói thiệt chứ không phải chơi đâu nghe.” Cả đám bật cười với lời giới thiệu của cậu em đó.

Theo lời khuyên của cậu em, tôi thường ngủ một giấc trong xe trước khi vào lớp để khỏi ngủ gục trong lớp. Vào giờ học, tôi ráng căng tai căng óc ra chăm chú nghe ông thầy giảng. Tiếng được tiếng mất. Mấy chục năm rồi chẳng nhớ ông thầy giảng những gì ngoại trừ một điều. Ông thầy bảo, “Người ta nói Tổng Thống Washington là người cha của nước Mỹ. Tôi nghĩ vì ông là một trong những người sáng lập ra nước Mỹ, và là tổng thống đầu tiên nên người ta phong cho ông ấy danh hiệu đó. Ông Tổng Thống Abraham Lincoln xứng đáng với danh hiệu đó hơn. Nhưng càng ngày tôi càng nghĩ họ đúng. Ông Washington là tổng thống đầu tiên. Khi một người ngồi vào một chiếc uy quyền như vậy thì họ không muốn xuống. Họ sẽ làm mọi cách để giữ chiếc ghế đó. Ông Washington thật khác người. Ông làm hai nhiệm kỳ và về hưu. Ông định ra một thể chế chính trị mới cho một quốc gia mới. Ông Washington là một người giỏi nhưng rất khiêm nhường, có tinh thần xây dựng một đất nước theo thể chế dân chủ. Tổng thống Washington xứng đáng là người cha của nước Mỹ.”

Sau khi nghe câu chuyện trên đài KUSC, tôi tìm trên mạng thấy có nhiều điều lý thú về Tổng Thống Washington. Chắc ai cũng biết ông đã lãnh đạo nước Mỹ non trẻ dành độc lập từ nước Anh như thế nào. Chính vì vậy, dân Mỹ qua cử tri đoàn đã bỏ phiếu 100% để ông làm vị tổng thống đầu tiên. Lễ tuyên thệ nhậm chức của ông vào thứ năm ngày 30 Tháng Tư năm 1789. Sau nhiệm kỳ đầu tiên, Tổng Thống Washington không muốn ra tranh cử thêm nhiệm kỳ thứ hai. Nhưng vì nhiều người trong đó, mạnh mẽ nhất là hai ông Jefferson và Hamilton thúc dục, ông ra tranh cử nhiệm kỳ hai và thắng với số phiếu 77-50.  Ngày 4 Tháng Ba năm 1797, Tổng Thống Washington đã từ biệt quốc dân để về hưu, sau hai nhiệm kỳ tổng thống. 

Diễn văn từ biệt của Tổng Thống George Washington. (Hình: United States Library of Congress’s Religion and the Founding of the American Republic exhibition/commons.wikimedia.org)

Phó Tổng Thống John Adams thành vị tổng thống thứ hai của nước Mỹ, bắt đầu vào năm 1797.  Tháng Bảy năm 1798, Tổng Thống John Adams mời cựu Tổng Thống Washington quay lại phục vụ đất nước với nhiệm vụ là sĩ quan chỉ huy của Quân Hội Hoa Kỳ để giúp lập kế hoạch cho cuộc xung đột có thể xảy ra với người Pháp. Cựu Tổng Thống Washington miễn cưỡng chấp nhận. Vì lẽ đó, một năm sau, vào Tháng Sáu năm 1799, Jonathan Trumbull Jr., thống đốc Connecticut, người đã từng là thư ký quân sự của ông Washington trong cuộc cách mạng, nài nỉ ông Washington ra tranh cử thêm nhiệm kỳ thứ ba. Ông Washington từ chối lời kêu gọi đó. 

Trong thư trả lời cho Thống Đốc Trumbull, ông Washington viết, “Ranh giới giữa các Đảng phái trở nên rõ ràng đến mức các chính trị gia “không coi trọng sự thật hay sự đứng đắn; tấn công mọi nhân vật, không tôn trọng những người – công hay tư – tình cờ khác biệt với họ về chính trị.” Ông viết thêm rằng, ngay cả khi ông sẵn sàng tranh cử tổng thống một lần nữa, với tư cách là một người theo chủ nghĩa liên bang, “tôi hoàn toàn tin rằng tôi không nên thu hút một phiếu bầu nào từ phe chống liên bang.” Đối với ông Washington, các đảng phái chính trị đã làm cho tình hình chính trị của đất nước trở nên tồi tệ và tạo ra một bầu không khí mà theo như ông dự đoán trong bài phát biểu từ biệt năm 1796, “những kẻ vô nguyên tắc sẽ có thể lật đổ quyền lực của nhân dân và chiếm đoạt quyền lực của chính phủ.”

Nếu ông Washington tham gia tranh cử lần thứ ba, có lẽ ông thắng. Nhưng việc ông không ra tranh cử đã nâng ông lên thành một nguyên thủ quốc gia có một không hai trên thế giới.  Ông không tham quyền lực, và vì vậy mà thể chế chính trị do ông góp phần xây dựng được tiếp tục cho đến ngày nay.

Tổng Thống George Washington tuyên thệ nhậm chức vào thứ năm ngày 30 Tháng Tư năm 1789. (Hình: Tranh vẽ Tổng Thống George Washington của Gilbert Stuart năm 1797 – The Athenaeum/commons.wikimedia.org)

Dường như Tổng Thống Washington cũng có một tuổi thơ khó nhọc. Thuở nhỏ ông không qua một trường lớp chính qui nào cả. Ông mất cha lúc 11 tuổi, mẹ ông vất vả nuôi sáu người con, nên không có tiền để cho ông đến trường. Ông có một người thầy dạy kèm, giúp ông tự học nhiều thứ. Thấy những bản viết tay của ông mà tôi cứ tưởng như là chữ in vì nét chữ rất đẹp và đều răm rắp. Ông tự học hình học và lượng giác, hai môn học không dễ chút nào, nếu không có thầy dạy. Nhờ hai môn học này mà ông trở thành người đo đạc đất đai, một nghề chính của ông. Ông tự học mọi thứ qua sách vở. Trước khi trở thành tổng thống, ông có một thư viện với khoảng 400 – 500 đầu sách, trong số đó đa số viết về chính trị và triết học.

Tổng Thống Washington có quá nhiều điều hay để ngưỡng mộ. Nhưng điều tôi thích nhất là ông đã tuyên thệ nhậm chức lần đầu tiên vào ngày 30 Tháng Tư.  Từ nay về sau, tôi sẽ nghĩ về ngày này như vậy, để không phải buồn phiền vì cái ngày 30 Tháng Tư của Việt Nam với bao kỷ niệm buồn đến rã người. Hãy nhớ ngày 30 Tháng Tư là ngày nhậm chức của một vị tổng thống tài ba lỗi lạc, nhưng không hám danh, lạm quyền. Điều này thật tốt hơn nhiều so với ngày kia.

(30 Tháng Tư, 2025)


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Chùa Xưa Người Cũ 

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

05/05/2025

Hoà thượng Thích Tuệ Sỹ: “Một thứ phật giáo theo định hướng XHCN còn quái dị hơn kinh tế thị trường định hướng XHCN

 Tôi không có duyên lắm với những người phụ nữ cầm bút, đặc biệt là những cô hay những bà làm thơ, kể cả Bà Huyện Thanh Quan. Vấn đề hoàn toàn chả phải vì lý do cá nhân, hay tư tiêng gì ráo. Điều không may chỉ vì tôi gặp nữ sỹ hơi quá sớm, thế thôi!

Thuở ấy, thuở mười ba mười bốn, tôi mới bước chân vào trung học mà đã giáp mặt với nàng thơ rồi. Có hôm, tôi vừa hối hả rời sân bóng đá (chạy vào phòng học) mồ hôi chưa kịp ráo lưng, đã nghe vị thầy phụ trách môn Việt Văn trầm giọng đọc bài Thăng Long Hoài Cổ:

Tạo hoá gây chi cuộc hý trường,

Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.

Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,

Nước còn chau mặt với tang thương…

Tôi vừa cắm cúi ghi chép, vừa khuých tay thằng ngồi cạnh:

– Cuộc hý trường là cuộc gì?

– Không biết.

– Thăng Long ở đâu vậy?

– Ai biết!

Thằng bạn chung bàn của những ngày xưa thân ái đã xa xôi và phôi pha ấy (nay) chả hiểu đã lưu lạc phương nào, sống chết ra sao? Còn tôi, sau cái cuộc hý trường (1975) thì lâm vào cảnh đời tha phương cầu thực và tha hương cho mãi đến bây giờ.

Chiều qua, ở một góc trời xa, tôi tình cờ đọc lại một truyện ngắn (“Mái Chùa Xưa”) của Võ Hồng và mới chợt hiểu (thấm thía) thế nào là nỗi niềm hoài cổ:

Làng tôi có ba ấp, mỗi ấp có một ngôi chùa. Tôi ở ấp Quảng Đức, lên năm tuổi đã biết tên chùa là Châu Lâm…, đã thấy ông thầy chùa đầu tiên trong đời, thỉnh thoảng đi về trên con đường xuyên qua xóm.

Ngoại trừ cái áo nâu dài mặc đi ra đường là tươm tất, còn khi ở chùa thì thầy mặc áo vải thô vạt hò màu xám có nhiều mụn vá nơi vai hoặc nơi cùi chỏ. Cái vạt áo nhọn làm cho dáng thầy từ mảnh mai trở nên gầy gò… Đi ra đường thì thầy mang guốc sơn, còn ở chùa thì mang guốc bằng gỗ cây sầu đông tự thầy đẽo lấy. Quai guốc là một mảnh da trâu cứng.

Một cảnh chùa nghèo nàn như vậy không thể ban phát lợi lộc vật chất cho ai hết, nhưng nhờ đó mà nó trở nên thân mật với mọi người. Ai muốn ghé chơi chùa cũng được, ghé vào giờ nào cũng được, của Tam quan gần như không bao giờ đóng. Nhà chùa không phải coi chừng kẻ trộm cắp vì chẳng có chi đáng để trộm cắp…

Trải qua cuộc chiến giằng co, ấp Quảng Đức của tôi đã thành bãi chiến trường. Đồng bào bỏ nhà cửa ruộng vườn lũ lượt gồng gánh ra đi. Ngôi chùa xưa chắc còn tịch liêu tàn phế hơn xưa, những con chim chào mào chìa vôi chắc cứ ngang nhiên làm tổ ngay ở chái sau, hiên trước.

Cuối cùng “cuộc chiến giằng co” rồi cũng đến lúc kết thúc, hoà bình được tái lập. Chùa chiền nhiều nơi được trùng tu với qui mô lớn, đạt kỷ lục thế giới bởi những quần thể tu viện mênh mông và những pho tượng phật khổng lồ. Đây đều là những công trình tập thể, đòi hỏi sự kết hợp của nhiều thành phần xã hội – theo nhận xét của T.S. Nguyễn Xuân Diện:

“Để tạo thành được những Chùa Bái Đính, Chùa Ba Vàng, Chùa Tam Chúc, Chùa Yên Tử như hiện nay, phải hội đủ ba mặt: Chức sắc Phật giáo + Chính quyền huyện đến tỉnh sở tại + Đại gia. Thiếu một trong ba thì không thể nào vẽ ra được các khu kinh doanh như vậy.”

Sau khi đã “vẽ” xong “các khu kinh doanh như vậy” thì vấn đề kế tiếp là điều hành, quản lý. Đây là giai đoạn cần sự “can thiệp” của Chính Quyền Trung Ương và Bộ Nội Vụ, với những ban ngành “có nhiệm vụ đào tạo sư sãi để ‘yểm’ Hội Phật Giáo Việt Nam, để trấn giữ hệ thống chùa toàn quốc.”

Phương thức tổ chức này được nhập khẩu (nguyên con) từ nước bạn Trung Hoa Vỹ Đại:

“Tất cả các nhóm tôn giáo dựa trên đức tin ở Trung Quốc, bao gồm 41 viện nghiên cứu Phật giáo trên toàn quốc, đều được Ban Tôn giáo Chính phủ [State Administration of Religious Affairs] giám sát.” (“The decline and fall of Chinese Buddhism: how modern politics and fast money corrupted an ancient religion.” South China Morning Post, Sep. 21, 2018 translated by Hoàng Kim Bảo).

Chỉ có điều hơi khác là ta “can thiệp” rất vụng về và “giám sát” quá sống sượng nên đã gây rất nhiều điều tiếng:

– Từ Thức: “Qua cửa BOT của chùa VN ngày nay, người ta bước vào thế giới ma quái của oan hồn, của ‘vong’ ngất nghểu, ra rả đòi tiền như nặc nô đòi nợ.”

– Nguyễn Văn Tuấn: “Thuở đời nay nhà sư đã xuất gia mà ăn thịt chó, uống tiết canh, hút thuốc lào, uống rượu Tây, say xỉn bí tỉ. Đó không phải là nhà sư nữa (chưa nói đến bậc chân tu), mà là dân ‘giang hồ’ rồi.”

– Đặng Văn Sinh: “Có những hòa thượng vốn là nhân viên công lực hàm cấp cao tót vời, khoác áo cà sa trụ trì ở những chùa lớn theo dõi nhất cử nhất động của giới tăng ni phật tử.”

– Mạnh Kim: “Những gì đang diễn ra khiến diện mạo Phật giáo ngày càng bi thảm là kết quả của chính sách ‘nhuộm đỏ’ Phật giáo, trong lớp áo ‘Đạo pháp và Dân tộc’ ra đời từ đầu thập niên 1980.”

– Vương Trí Nhàn: “Ngày Phật đản… Sao ở giữa cảnh đèn nhang nghi ngút của chùa Quán Sứ, giữa bao nhiêu cụ bà thành tâm cúng vái, lại thấy một vị sư tuổi còn thanh niên, có nét mặt trông như một trung đoàn trưởng, tiểu đoàn trưởng nào đó, mà tôi từng thấy ở các mặt trận.”

Những vị sư “có nét mặt trông như một trung đoàn trưởng nào đó” – đôi lúc – vẫn tưởng rằng mình đang ở giữa mặt trận nên đã phát biểu như một chiến sĩ (thực thụ) khiến công luận không khỏi bàng hoàng: “Chúng ta phải quyết tâm xây dựng quân đội nước ta mạnh như là quân đội của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên.”

Bây giờ thì còn tìm đâu ra một ngôi chùa nhỏ bé, nghèo nàn nhưng thân thiết như chùa Châu Lâm trong ký ức tuổi thơ của Võ Hồng:

Ai muốn ghé chơi chùa cũng được, ghé vào giờ nào cũng được, của Tam quan gần như không bao giờ đóng. Nhà chùa không phải coi chừng kẻ trộm cắp vì chẳng có chi đáng để trộm…

Sự liên hệ giữa dân xóm và nhà chùa là một liên hệ tinh thần, dầu không sâu đậm thiết tha nhưng mà lúc nào cũng sẵn sàng hiện diện. Khi có niềm đau nỗi buồn quá sức giải quyết của người thì về chùa để tìm sự an ủi và hy vọng. Nhà có tang mời thầy tụng kinh siêu độ, nhà có người đau ốm trầm kha mới thầy tụng kinh cầu an.

Mười năm một lần, ban trị sự Ấp tổ chức đàn tràng mời thầy hành lễ, làm chay múa lục cúng suốt ba ngày đêm để cầu an cho dân chúng cả Ấp. Người lớn trẻ con, thanh niên thiếu nữ dập dìu tới dự, áo quần tươm tất tắt mặt mày tươi vui khiến tôi nghĩ rằng đây vừa là lễ Tạ Ơn cho mười năm đã qua vừa là Lễ Cầu An cho mười năm sẽ tới.

Cỗ bàn dọn ra, ai có mặt cũng được mời ngồi và cầm đũa thọ trai, không phân biệt kẻ lớn người nhỏ kẻ sang người hèn. Y như trong những ngày lễ lớn làm chay ở chùa vậy.

Những vị tu sĩ “mặc áo vải thô vạt hồ màu xám có nhiều mụn vá nơi vai hoặc nơi cùi chõ, mang guốc bằng gỗ cây sầu đông tự thầy đẽo lấy” cũng đều đã biệt tăm/biệt tích.

Những người muôn năm cũ

Hôn bây giờ ở đâu?


 

Chút trải nghiệm về khát khao cầu nguyện

dongten.net

Mácta Nguyễn Thị Ngọc Hạnh

 Hình ảnh “cầu nguyện, phó thác” thật tuyệt vời đang diễn ra trước mắt tôi. Từng đoàn người bệnh tật ngồi trên xe lăn, được những thiên thần tình nguyện đẩy họ; cùng nhau lần lượt tiến vào hang đá Đức Mẹ Lộ Đức. Những khuôn mặt rạng rỡ niềm tin, niềm hi vọng, tay gắn liền với chuỗi hạt, miệng thì thầm những lời nguyện dâng lên Mẹ Maria tận đáy lòng của họ. Hình ảnh này luôn đánh động tôi thật mãnh liệt trong mỗi lần tôi đặt chân tới nơi này. Sự khát khao cầu nguyện, và rõ rệt nhất là “cầu nguyện theo thánh ý Chúa”. Họ đang thực thi lời Mẹ nhắn nhủ năm xưa mà Mẹ đã gởi cho Hội Thánh, khi hiện ra ở nơi này, hoặc ở Fatima, và ở các nơi khác; “siêng năng cầu nguyện theo thánh ý Chúa”. 

Việc cầu nguyện là việc mọi người đều phải làm và phải tập làm. Chỉ cần cầu nguyện vắn tắt trong bất cứ lúc nào, bất cứ nơi nào. Tôi có một thói quen nói chuyện với Đức Mẹ và thưa với Chúa, kể cả trong những lúc tôi đang rất bận rộn “xin thương giúp con biết đón nhận Chúa vào lòng con. Xin luôn ở bên con, đừng bỏ con”. Tôi tín thác một điều, Chúa sẽ rất vui mừng nếu mỗi người chúng ta trở thành con người cầu nguyện. “Mục đích đời con là tới với Chúa”. 

Cầu nguyện, nơi tìm lại bình an nội tâm, nâng tâm hồn lên tới một thế giới tĩnh lặng, hoan lạc thật cao. Để đạt được sự bình an nội tâm này, chúng ta cần liên lỉ tới với Chúa. Đây là đời sống bên trong con người, đời sống thiêng liêng, đời sống sâu thẳm của tâm hồn. Theo cách nói của giáo lý Công Giáo, thì đời sống nội tâm là “đời sống tha thiết với các chân lý thiết yếu của cuộc đời. Như mục đích đời mình, chết rồi đi đâu. Đời sống nội tâm là sống có Chúa, với Chúa và trong Chúa”.

 Nhìn lại hành trình theo khóa Magis, tôi nhận ra rất rõ hoa trái của việc cầu nguyện. Thực sự tôi đã được ơn Chúa bước vào đời sống cầu nguyện qua những bài làm. Những suy tư khi đọc sách thiêng liêng hoặc những câu hỏi Cha Linh hướng đưa ra, từ từ đã đưa tôi đến gần với Chúa và được trổ sinh hoa trái: giúp tôi kiên nhẫn hơn, khiêm tốn hơn, tâm hồn hoan lạc hơn, và rất là bình an. Trên hết, tôi yêu mến Thiên Chúa hơn và những người anh chị em đang gặp khó khăn. Giờ đây, tôi luôn muốn sống phục vụ cho Giáo Hội, phục vụ tha nhân qua khả năng hạn hẹp của mình. Nhưng nếu tôi chỉ dấn thân hành động mà thiếu cầu nguyện, thì hành động của tôi sẽ không chuyển tải được sự sống Chúa Ba Ngôi, và các giá trị thiêng liêng, tôi sẽ không có ánh sáng của Chúa chiếu vào lòng tôi, và sẽ không giúp tôi nhận ra đâu là những giá trị đích thực mà Chúa muốn tôi phát triển và chia sẻ. Tất cả những gì tôi gặt hái được, không đến từ những nỗ lực của tôi, nhưng được đến từ Một Đấng ban tặng cho tôi, Ngài ban cho tôi sự thanh thản, Ngài ban cho tôi sự điềm tĩnh khi gặp những vấn đề, những lo toan và không bị sợ sệt khi những khó khăn ập xuống. 

Bình an nội tâm là một quà tặng quý giá, bởi chính trong hương thơm của nó, đức ái lớn lên. Bình an này làm cho chúng ta sẵn sàng trước công việc của ân sủng, giúp chúng ta phân định những hoàn cảnh và những quyết định cần đưa ra.

 Trong mỗi ngày sống con cảm tạ Chúa vì được gọi Chúa là Cha, và được Chúa nhận làm con, qua lời kinh “Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Con xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho con biết trách nhiệm nội tâm, mà Chúa trao ban cho con.

 Những hoa trái quý giá nhất là sự tinh tuyền trong tâm hồn. Cầu nguyện có khả năng lớn lao thanh luyện nội tâm. Trong cầu nguyện, tâm hồn được lắng đọng, trở nên giản dị và quy về Thiên Chúa với lòng khát khao đầy tín thác; đó là yêu mến Người cách chân thành và thực thi ý Người. 

“Những ai nghe các lời Thầy nói, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa nước cuốn hay bảo táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ tan tành” (Mt 7,26-27). Lời Chúa cảnh báo xưa kia thật ứng nghiệm. Nếu ta xem nhẹ việc gặp gỡ Ngài, ít cầu nguyện với Ngài, ít suy niệm Lời Ngài, thì làm sao chúng ta có thể gặt hái được hoa quả tốt, làm sao có được hiệu quả trong việc cầu nguyện. Sự khát khao, trung thành, liên lỉ, kiên trì là giá trị chính của cầu nguyện. Ước nguyện chân thành tìm gặp Thiên Chúa, làm vui lòng Người và yêu mến Người. Hiệu quả tuyệt vời của cầu nguyện mà tôi vẫn thường nghĩ: Đó là một phép lạ, một món quà đến từ Một Đấng; tâm hồn được đổi mới một cách âm thầm. Được tái sinh trong Chúa Thánh Thần. Sự tái sinh này được thực hiện một cách hết sức thầm lặng khiêm tốn. Tôi, một con người tội lỗi đã đựợc ơn trở về, một con người kiêu ngạo sa ngã đã được ơn trở lại. Xin Chúa Thánh Thần ban ơn cho con luôn biết phấn đấu với chính mình, phải thường xuyên cầu nguyện và tỉnh thức trước mọi thử thách, con quyết tâm theo Chúa trọn đời. 

“Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau yếu mới cần. Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5,31-32). Tôi tin Chúa yêu thương tôi, chính vì tôi là kẻ tội lỗi. Tôi tin Ngài yêu tôi, trước khi tôi trở lại với Ngài. Nghĩa là, tôi cầu nguyện với lòng tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu của Ngài và ở lại trong tình yêu ấy. Niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa đã giúp tôi nhận ra, cuộc sống là một chuỗi dài những ơn Chúa ban. Cầu nguyện được coi là một điều thiết yếu thuộc về cuộc sống. Cuộc sống gắn liền với cầu nguyện. Cầu nguyện đi theo mọi tình huống cuộc sống. Lúc nào cũng cầu nguyện. Sống là cầu nguyện. Cầu nguyện là hơi thở của cuộc sống. Cầu nguyện đưa tôi đến gần Thiên Chúa, để tôn vinh Danh Ngài, để thành thật nói với Ngài về những yếu đuối của tôi, những nguyện vọng của tôi. Và tôi xin Chúa cho tôi được ơn vâng theo thánh ý Chúa. Chỉ với tinh thần cầu nguyện, tôi sẽ biết nghĩ đúng, chọn đúng, làm đúng trong âm thầm và khiêm tốn.

 Cầu nguyện nhất thiết là một hành vi đức tin, còn là phương thế trước nhất và tự nhiên để diễn tả đức tin. Hành vi đức tin này giúp chúng ta nên một với Thiên Chúa. Đối với tôi, tin vào Chúa chính là gặp gỡ Chúa. Đây là một cuộc gặp gỡ sống động giúp ta thấy Chúa. Người đến trong tâm hồn tôi. Người đào tạo tôi nên tạo vật mới. Người giúp tôi tiến bước trên con đường thực thi thánh ý Chúa. Thánh Thần Chúa mở lòng tôi ra, cho tôi thấy bầu trời của đức tin. Càng thấy đức tin, càng thúc dục tôi đến gặp gỡ Thiên Chúa. Bên cạnh Ngài, tôi thấy mình rất tội lỗi, thế mà được Chúa thương một cách lạ lùng. Tôi không hiểu hết được tình thương xót của Ngài, nhưng tôi tin nơi Người, gặp gỡ Người, bước theo Người, bắt chước Người, từ bỏ mình, khoan dung, nhẫn nhục, yêu thương phục vụ, chấp nhận khổ đau và tuyệt đối tuân phục thánh ý Ngài. 

“Những người yêu mến Chúa Thánh Thần, sẽ thấy việc cầu nguyện đầy hoan lạc đến nỗi họ không thấy đủ thời giờ để cầu nguyện” (Cha Thánh d’Ars Johann Marie Vianey).

 Cảm giác và cảm xúc đóng một vai trò không thể thiếu trong đời sống thiêng liêng. Có hai khả năng này chúng ta mới có thể cảm nếm sự hiện diện của Thiên Chúa và sự trìu mến của Người. Bằng không Người vẫn luôn xa lạ đối với chúng ta.

Trong đời sống hiện tại, mối lo âu hàng đầu, theo tôi, chính là sự lãnh đạm của rất nhiều người công giáo chúng ta đối với Lời Chúa, đối với Bí Tích Thánh Thể, đối với những thao thức của Chúa, đối với những lo âu của Hội Thánh Chúa. Nghĩ đến sự lãnh đạm này, tôi sợ cho chính bản thân tôi, những cám dỗ vây quanh từng giây phút. Đó là cám dỗ chủ quan, lười biếng, về ỷ lại, kiêu căng… Dần dần, nó sẽ biến tôi thành một người bất lực trong việc dành một vị trí xứng đáng cho khả năng cảm nhận của mình.

 “Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy”. Chúng ta có quyền xin ơn tri giác để có thể cảm nếm một điều gì đó từ mầu nhiệm Thiên Chúa, cảm nhận nhũng chân lý đức tin… bằng các giác quan và những cảm xúc thể lý; bằng không chúng ta không thể hiểu cũng không thể đem chúng vào đời sống một cách năng động. Khả năng cảm nhận của chúng ta cần được thanh luyện. Cầu nguyện là găp gỡ Thiên Chúa chứ không chỉ là những cảm giác mà sự hiện diện của Thiên Chúa gợi lên nơi chúng ta. Điều quan trọng không phải là những gì chúng ta cảm nhận, nhưng là điều chúng ta tin. Hành vi đức tin vượt xa mọi cảm xúc của chúng ta và thật sự giúp chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa ngay cả khi chúng ta hoàn toàn trống trơn và tâm hồn khô cằn. Cầu nguyện như là đường dẫn đến tự do. Mặc cho những khô khan, việc trung thành cầu nguyện và kiên trì thực hành đức tin trong cầu nguyện sẽ dần dần giúp chúng ta tự do thanh thoát đối với những cảm xúc. Để có thể đạt được đến điểm son “trung thành cầu nguyện”, tôi cần sấp mình trước Mặt Chúa và khiêm tốn nhận mình chưa biết tỉnh thức và cầu nguyện, liên lỉ kiên trì xin Chúa giúp, để cùng được với Chúa mà tỉnh thức và cùng với Chúa mà cầu nguyện. Tôi tín thác, Chúa sẽ cho tôi một trái tim đổi mới, để tôi có một cái nhìn mới về Hội Thánh, về cộng đoàn, về chính bản thân tôi. Lúc đó, tôi mới thấy đâu đâu cũng cần được Chúa cứu độ, đâu đâu cũng kêu gọi sự cộng tác của tôi vào việc cứu độ. Cộng tác bằng sự tôn thờ kính yêu Chúa Giêsu Thánh Thể. Cộng tác bằng sự phục vụ những người xung quanh một cách khiêm nhường. Cộng tác bằng tâm tình sám hối và cảm thương, mối tương quan của tôi với người khác không dựa trên vui thú mà họ trao ban. Tự do đích thực cốt tại yêu thương họ, dù họ làm tôi hài lòng hay không làm tôi hài lòng; trung thành cầu nguyện bất cứ giá nào. Lạy Chúa, xin Chúa giúp con. 

Lý trí đóng một vai trò nền tảng trong đời sống con người và đời sống thiêng liêng; đức tin không thể hoạt động mà không có lý trí. Càng hiểu điều mình tin, đức tin càng trở nên ánh sáng và sức mạnh cho chúng ta. Trong đời sống cầu nguyện, chúng ta sẽ thường đón lấy những luồng sáng soi rọi trí năng trong  nhiều lãnh vực: một sự hiểu biết những khía cạnh nào đó của mầu nhiệm Thiên Chúa, nhận biết cách sống động con người Đức Kitô hay ý nghĩa của thân phận con người v.v…Mỗi khi tâm trí được soi sáng như thế, thì nó là một quà tặng quý giá và chúng ta cần làm hết sức có thể để sống đức tin của mình một cách khôn ngoan, sử dụng các khả năng suy tư, nhận thức, phân tích và những gì còn lại. Chúng ta phải cầu xin và tìm kiếm những soi dọi khai mở trí năng. Một đầu óc lười biếng và một sự sống động thiêng liêng không sánh đôi cùng nhau được.

“Ôi, sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm đường nào! Quyết định của Người, ai dò cho thấu! Đường lối của Người ai theo dõi được!”

 Trí tuệ có thể mang chúng ta đến gần Thiên Chúa hơn, nhưng nó không dẫn chúng ta đến với những gì Thiên Chúa thực sự là Người nơi chính Người. Chỉ có đức tin mới có thể làm điều đó. Chính đức tin, đức mến và sự thờ phượng đặt chúng ta vào sự gặp gỡ Thiên Chúa. Đức tin và duy chỉ đức tin, mới thiết lập cuộc gặp gỡ đích thực với sự hiện diện sống động của Thiên Chúa. Tôi tin và tôi cảm nghiệm thấy điều này: Chúa chủ động trong cách Ngài đến với tôi, trong thời gian và trong nơi Ngài đến với tôi. Vì thế, nhận ra sự hiện diện của Ngài, việc Ngài đến là một ơn trọng đại vô cùng, tôi không thể nào diễn tả hết được. Ơn Chúa ban qua lòng thương xót của Ngài. Tôi chỉ biết bổn phận của tôi phải cộng tác một cách tích cực bằng sự khiêm nhường cầu nguyện và khiêm nhường tỉnh thức. Điều tôi lo sợ cho mình là mất khả năng lãnh nhận. Do hẹp hòi, do tự đắc, do dửng dưng bất cần. Lạy Chúa, xin Chúa giúp con luôn khiêm tốn và chân thành để tiếp xúc với Thiên Chúa với một lòng tin tuyệt đối.

 Tin không nhất thiết là phải thấy, hiểu hay cảm nhận, nhưng đức tin là điều sống động nhất trong đời sống thiêng liêng. Một cách huyền nhiệm nhưng thiết thực, nhờ đức tin, chúng ta có thể “chạm đến Thiên Chúa” và để cho mình được người chạm đến; đức tin thiết lập một mối hiệp thông nội tại với Người và cho phép chúng ta được biến đổi dần dần bởi ân sủng Người. Sự hiểu biết Thiên Chúa mà đức tin mang đến có khả năng đốt lên trong chúng ta ngọn lửa yêu mến hơn bất cứ một kiến thức cụ thể, rõ ràng nào của trí năng. Thánh Gioan Thánh Giá đã diễn tả: “Đức tin trong đó chúng ta yêu mến Thiên Chúa mà không hiểu biết Người”.

 Lạy Chúa, con tin Chúa nắm trong tay cuộc sống của con. Chúa có kế hoạch riêng cho đời con. Chúa có quyền sắp xếp mọi chi tiết cuộc đời con. Nơi Chúa, con tìm được ý nghĩa đời con. Bỏ Chúa, mọi thực hiện của con cho dù có thành công, cũng sẽ chỉ là phù du, mong manh. Chúa dạy con biết yêu thương, biết phục vụ, biết đón nhận, và làm gì, nghĩ gì, điều quy vào Lời và Thánh ý của Chúa.

Con đến với Chúa, con mời Chúa vào tâm hồn con. Một tâm hồn tội lỗi, xấu xí, nhưng Chúa vẫn đi vào và ở lại với con. Khi được đồng hành với Chúa trong chuyến đi cuộc đời, con sẽ không ngừng nhìn vào Chúa là Chúa của con. Con như một trẻ nhỏ khi cảm nhận được sự hiện diện của Chúa trong bản thân mình.

 Chúa Giêsu thực là Chúa của con, là Đấng cứu độ con.

Thiên Chúa là chủ cuộc đời. Không có Chúa con người chẳng làm gì nên công trạng. Vì thế phải sống trong đức tin. Đức tin cho thấy ta chẳng là gì. Chúa là tất cả. Ta chẳng có gì. Chúa có tất cả. Nhưng Chúa vô hình. Nên ta phải tin tưởng. Sống trong đức tin, con người được giải thoát, được tự do. Không còn lệ thuộc vào những gì bên ngoài: Lề Luật, dư luận. Chỉ sống cho Chúa. Sống trong đức tin vào Thiên Chúa.

Sống đức tin thực sự. Sống nội tâm thực sự. Tôi chẳng còn bận tâm đến bên ngoài. Đến người ngoài. Chỉ thanh tẩy nội tâm. Để một mình Thiên Chúa chiếm ngự tâm hồn. Thế là đủ và thật hạnh phúc!


 

50 Năm – Việt Nam Đang Ở Đâu, Làm Được Gì? Chau Doan

Chau Doan 

Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Tô Lâm đang muốn đưa đất nước vào “kỉ nguyên vươn mình” và bài phát biểu nhân 50 năm ngày thống nhất đất nước đã gây được cảm hứng và hy vọng cho nhiều trí thức ở Việt Nam. 

Đấy là một việc tốt nhưng điều quan trọng là cần định vị đất nước đang ở đâu, điều cần thiết phải làm, mối nguy hiểm nào có thể rình rập và nếu là trí thức thực sự thì phải nhìn ra điều ấy thay vì tán thưởng với kiểu hời hợt và rỗng tuyếch. 

Để có thể đánh giá được thành tựu của một vị lãnh đạo trong vài năm tới, điều quan trọng là ta cần phải có một bàn cân có thể “cân đo, đong đếm” hiện trạng. Thực tế gần 50 năm thống nhất, đảng cộng sản Việt Nam và chính quyền Việt Nam nói chung đã không hề tạo được một bước đột phá nào đáng kể trong việc lãnh đạo đất nước. Việc cố bí thư Nguyễn Phú Trọng tự hào thốt lên “đất nước ta đã bao giờ được như thế này chưa” thể hiện một tầm nhìn hạn hẹp, lạc quan tếu, một ý chí yếu ớt trong việc đưa dân tộc đi lên. 

Ở đây cần làm rõ mấy ý. Đừng mang cái đói nghèo của thời bao cấp ra rồi gật gù tâm đắc bảo: thấy chưa, xưa áo rách, cơm độn bo bo, giờ áo lành, bữa ăn đầy thịt cá, công của ai?

Cũng đừng mang cái ý như kiểu một người đàn ông bảo vợ: Xưa mà không có anh lấy thì em ế. 

Cũng đừng bảo đất nước ta mới qua chiến tranh, thế là tốt rồi. 50 năm là một quãng đường rất dài, bằng 2/3 đời người. Đủ để một dân tộc với ý chí quật cường như Việt Nam phát triển rực rỡ, hoàn toàn có thể ngang hàng hay hơn Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Thái Lan… 

Giờ chúng ta hãy nhìn thực trạng của Việt Nam về mọi mặt. 

Về kinh tế, mặc dù tuyên bố tăng trưởng GDP cao nhưng thực chất 80% là do FDI mang lại, Việt Nam đơn giản là làm thuê cho nước ngoài trên chính đất nước của mình. Các “nắm đấm thép” của nhà nước đã biến thành những móng vuốt thép cào cấu nát bét ngân sách quốc gia.

Cuối năm 2023, Bộ Tài Chính điểm ra 1000 dự án lãng phí không hiệu quả, riêng Bộ Công Thương có 12 dự án thua lỗ nghìn tỉ với tổng mức đầu tư 63.610 tỉ đồng. 

20 tập đoàn kinh tế nhà nước chiếm giữ 80% tín dụng ngân hàng, họ là những đứa con đẻ được nuông chiều hết mực nhưng đóng góp không hề tương xứng với ưu đãi nhận được mà ngược lại làm góp phần suy yếu nền kinh tế. 

Trong khi ấy, nội lực kinh tế của một quốc gia thực chất phải nằm ở kinh tế tư nhân. Mô hình của Hàn Quốc cho thấy, những tập đoàn tư nhân sẽ phải tự bươn chải, chỉ khi lớn đến một mức nào đấy, đã chứng tỏ được năng lực, họ sẽ có được sự hỗ trợ nhất định của nhà nước và kết quả cho thấy Hàn Quốc đã trỗi dậy với những thương hiệu khổng lồ. 

Cùng với nó là nạn tham nhũng ngày càng tệ hại ở Việt Nam chắc chắn có liên quan tới năng lực yếu kém của những “đứa con đẻ” của nhà nước. 

Kinh tế yếu kém sẽ dẫn tới quân sự yếu kém, công nghệ yếu kém. 

Hãy mang những thành tựu của người anh em cùng ý thức hệ của chúng ta so sánh. 

Trung Quốc đang làm chấn động thế giới bởi sự vươn mình thực sự của họ. Nền kinh tế của họ là thực sự do nội lực cách doanh nghiệp trong nước. Họ chuyển từ những kẻ học việc, bắt chước thành những nhà sáng chế. 

Giờ đây Mỹ đang toát mồ hôi trong cuộc chiến về thành tựu vật lý lượng tử, máy tính lượng tử và trí tuệ nhân tạo của Trung Quốc, hàng hoá Trung Quốc tràn ngập khắp thế giới. Với đà này, với một dân số khổng lồ và nội lực vượt trội như vậy, nếu họ có vượt trội Mỹ về kinh tế và sức mạnh quân sự thì cũng không phải là điều đáng ngạc nhiên. 

Điều ấy liên quan tới vận mệnh dân tộc Việt Nam. Nếu ông Nguyễn Phú Trọng có tầm nhìn bao quát thì thay vì thốt ra mấy câu cảm thán đầy hãnh diện thì ông đã nên thâm trầm mà nhìn ra nguy cơ khi đất nước ta phải sống cạnh ông bạn cùng lý tưởng, quá mạnh và vô cùng sâu hiểm. 

Hãy nhớ rằng khi anh em thân thiết nhất, hữu hảo nhất, chúng ta mất Hoàng Sa. Những năm trở lại đây Trung Quốc đã xây dựng 7 cơ sở quân sự ở Biển Đông. Những cơ sở quân sự thậm chí không có một bóng cây bởi mục đích đậm đặc của quân sự, đường băng, kho tàng vũ khí quân dụng. Họ xây dựng đảo không phải để sống, mà để tạo ra những cơ sở quân sự để kiểm soát biển Đông. 

Lãnh đạo Việt Nam nhận thức được điều này và đang nỗ lực xây dựng cơ sở quân sự ở Trường Sa nhưng với một nền kinh tế yếu kém, sự nỗ lực ấy không là gì so với thành quả xây dựng của Trung Quốc. 

Việt Nam đang trong một thế vô cùng hiểm nghèo, có thể thay câu nói của ông Trọng bằng câu nói: “Việt Nam đã bao giờ nguy đến thế này chưa?” 

Tại sao nguy, bởi phía Bắc giáp biên giới Trung Quốc, hướng biển Đông với 7 cơ sở quân sự của Trung Quốc và phía Tây Nam có Campuchia, một người anh em đang ngả hẳn vào vòng tay của Trung Quốc và tâm lý thù ghét có tính lịch sử với Việt Nam vẫn còn. 

Khi thằng hàng xóm xấu tính, đầy tham vọng ăn nuốt mà lại quá mạnh thì ta phải làm sao? Ta phải nỗ lực nâng cao năng lực, sức chiến đấu của mình, ta phải có đồng minh mạnh. Chơi với kẻ xấu tính, khi nó hữu hảo nhất, ta mất nhiều nhất, Hoàng Sa là minh chứng rõ ràng và đau đớn nhất. 

Trong khi nguy cấp như vậy nhưng quan chức Việt Nam lại khét tiếng là những thanh củi dự bị ngày càng to hơn. Lý tưởng, khát vọng xây dựng đất nước không có hay có nhưng quá yếu ớt, bị che lấp bởi lòng tham muốn kiếm lợi riêng. Cơ chế thiếu khoa học và bộ máy yếu kém lại chính là một cái công xưởng tạo ra củi, xong lại tự hào là mình đốt lò quyết liệt. Cái cần làm là trị tận gốc, tức là phải thay đổi cơ chế tạo ra củi, chứ không phải kiểu một tay tạo củi, tay kia đốt lò. 

Hãy nhớ kinh Trung Quốc được như ngày hôm nay là nhờ Đặng Tiểu Bình và hiện thời là Tập Cận Bình, hai người hiểu là muốn làm được việc lớn cho quốc gia, sự trong sạch với đồng tiền, với lợi ích riêng là điều cần thiết. 

Ông Nguyễn Phú Trọng sở dĩ có được một uy tín như vậy bởi ông là một người được đánh giá là trong sạch nhưng tiếc thay, tầm nhìn của ông quá hạn chế. Ông đắc ý về một thứ giá trị tầm phào như “ngoại giao cây tre”. 

Với thực trạng trung bình 10 người dân có một cán bộ, viên chức nhà nước, trung bình 5 lao động nuôi một viên công chức thì việc ông Tô Lâm cho tinh giản bộ máy, cắt giảm ngân sách của các tổ chức, hội nhóm trực thuộc nhà nước là một việc làm đúng đắn nhưng đấy mới chỉ là một bước nhỏ trong chặng đường trước mắt. 

Hãy nhìn vào khoa học kĩ thuật. 

Trong khi thế giới đang ráo riết và rầm rộ trong cuộc đua về máy tính lượng tử, trí tuệ nhân tạo, liên tục đạt được những thành tựu mới thì Việt Nam chỉ có con số không tròn trĩnh. 

Nói tới kỉ nguyên mới là phải nói tới những lĩnh vực này mà muốn phát triển được hai lĩnh vực này thì cần phải có ngân sách đáng kể dành cho R&D, nghiên cứu và phát triển nhưng tham nhũng như vậy, sự tích luỹ ngân sách yếu ớt như vậy thì làm sao có được R&D đáng kể? 

Do vậy, cái việc cắt giảm bộ máy cồng kềnh của ông Tô Lâm là hoàn toàn đúng. Hãy tạo ra một bộ máy tinh gọn để giảm gánh nặng cho ngân sách và cái quan trọng là phải tận diệt tham nhũng. 

Có dám làm quyết liệt hay không, bộ máy nằm trọn trong tay, không có gì là không thể nhưng đừng có kiểu tự hào đốt củi như ông Nguyễn Phú Trọng bởi với dưới góc nhìn của người dân củi là sản phẩm bộ máy của chính quyền và diệt tham nhũng chính trách nhiệm của các vị, không phải là thành tựu gì đáng để người dân tung hô. 

Hãy nhìn thực trạng của quản lý thị trường. Phải cắt đứt được vấn nạn nhập lậu qua biên giới Trung Quốc, Lào (tôi không rõ về biên giới Campuchia). Tôi đã phải có lúc 12 giờ đêm nằm phục để chứng kiến đoàn người vác đồ lậu xuyên biên giới. 

Doanh nghiệp Việt Nam nào có thể cạnh tranh với hàng hoá nhập lậu như vậy? 

Rồi thực phẩm chức năng, thuốc tây, gần đây có 600 loại sữa giả lan tràn trên thị trường suốt bao năm. 

Đại dịch đã phô bày đạo đức cán bộ ngành y tế với que chọc mũi và những chuyến bay “giải cứu”. 

Tôi đau xót tự hỏi với đạo đức cán bộ như vậy thì bao dân oan mất đất đã phải tàn lụi trong đau khổ, uất ức. Những biệt phủ, siêu xe do các cán bộ buôn chỏi đót, nuôi lợn, chạy xe ôm thêm hay được xây bằng máu và nước mắt dân oan? 

Nếu thực sự “do dân vì dân” thì các vị phải nhìn thấu vấn đề. Trên con đường ra phía trước, các vị bảo không “bỏ lại ai phía sau” nhưng những người dân đã gục chết trên con đường tìm công lý thì làm sao chạy cho kịp với hành trình dân tộc? Phải chăng oan hồn của họ sẽ được bám theo? 

Tôi tự hỏi trong cái “kỉ nguyên mới” của ông Tô Lâm, bao phần trăm được hướng tới giá trị tinh thần của dân tộc? Con người ngoài bánh mì còn cần có hoa hồng. Hoa hồng ở đây là tự do, dân chủ, nhân quyền, công lý, văn học nghệ thuật, nền giáo dục tinh hoa, khai phóng con người, nền y tế khiến con người cảm thấy được chăm sóc chu đáo. Và điều quan trọng là niềm tự hào dân tộc. Ở đây tôi không nói tới niềm tự hào về lịch sử, về dòng giống con rồng cháu tiên mà là niềm tự hào của thành tựu hiện tại của một đất nước. Sao cho khi người dân ra nước ngoài, ai hỏi họ từ đâu tới, khuôn mặt người ta có thể bừng sáng rực rỡ mà trả lời “tôi là người Việt Nam.” 

Mấy “trí thức” nhân bài phát biểu của ông Tô Lâm mà “làm thơ” bằng văn xuôi, lại “tát nước theo mưa”, lại cao hứng tán thưởng, tràn trề hy vọng, lại “bay cao”… Mấy trí thức như vậy thật nhạt nhẽo, vô hại và ăn hại, chẳng có chút giá trị khai dân trí chút nào. 

Chúng ta ở đây không phải để khiến nhau thoả mãn, để vỗ tay, để cười giả lả ve vuốt hồn nhau, không phải để nhau “xuất ra” cho thoải mái và thư giãn tinh thần, để thăng hoa những cái ngã siêu bé của chúng ta. Chúng ta ở đây để nói lời thật, tư duy thật, thứ tư duy cần bao năm tháng học hỏi và suy ngẫm, thứ tư duy cần trăn trở, cần đọc nhiều, cần liên kết để đưa ra nhận định đúng đắn. 

Trước hết, nếu ông Tô Lâm thực sự là người có tâm có tầm, việc đầu tiên ông cần làm là nâng cấp, cải thiện nghĩa trang Việt Nam Cộng Hoà, dựng tượng tưởng nhớ những nạn nhân vượt biển mà ta gọi là thuyền nhân. Máu của người Việt Nam đã làm đỏ thêm biển Đông, nước mắt của thuyền nhân Việt Nam đã làm nước biển Đông thêm mặn. 

Họ chạy đi bởi sự đối xử tàn ác của chính quyền các vị. Có ai muốn bỏ quê hương đất nước ra đi trong khi biết nguy cơ bị chết đói, hãm hiếp và cướp bóc rất cao. Hành trình đầy sóng gió, máu, nước mắt, khi phải chứng kiến người thân chết trước mắt mình. 

Hãy dựng tượng thể hiện sự thông cảm, sự thương cảm của dân tộc Việt Nam với họ. Hành động ấy sẽ nâng hình ảnh của ông lên rất cao, và ông sẽ được ghi nhận mãi mãi trong lịch sử và trong lòng người dân. 

Hãy rà soát lại danh sách tù nhân lương tâm và hãy thả họ ra nếu các vị thấy họ vô tội. Tôi tin rằng đa phần các vị biết họ vô tội nhưng bởi thói quen độc tài, các vị bất chấp và nhân danh thứ gọi là pháp luật để buộc tội họ. 

Tôi là người trong cuộc, tôi biết rõ điều này. Tôi làm gì mà phải có kiến nghị khởi tố, cấm xuất cảnh, triệu tập và rình rập, đeo bám người nhà, bạn bè, học sinh để truy bắt? 

Hãy nhớ cho rằng tôi là người luôn thân thiện, hợp tác, lực lượng an ninh suốt từ năm 2000. 

Tôi là người ôn hoà. Bố mẹ tôi vốn có doanh nghiệp xe buýt, thời thế thay đổi, với chính sách cải tạo công thương mà trắng tay. Một doanh nghiệp ông tự xây dựng lên bằng bàn tay người thợ. Cuối đời ông thành một người bất đắc chí và chỉ cay đắng thốt lên “chúng nó cấu cánh tao.” Chỉ sợ xây nhà thì chính quyền đến cướp. Đến giờ tôi hiểu tại sao ông lo sợ, hồi hộp đến vậy khi thấy tôi mua sắt về xây nhà. 

Tôi là người ôn hoà nên không lấy câu chuyện, sự mất mát của gia đình làm mối hận thù, bởi tôi hiểu ấy là lịch sử và ta phải chấp nhận lịch sử. Ta không để cái sai của lịch sử định hình tư tưởng và hành động của ta. 

Sự công bằng, chính trực luôn là tiêu chí của tôi. 

Nhưng những ngày tháng trốn tránh này tôi càng nhận diện chân dung của các vị. Các vị nói một đằng làm một nẻo. Bảo tôi về nhưng ráo riết lùng sục. Liệu tôi có nên nhắm mắt, giả ngu để trao sinh mệnh cho các vị? Để số phận của tôi được các vị định đoạt? 

Một vị an ninh nhắn tin là chìa tay mà tôi từ chối. Ai chìa tay cho ai? Tôi có sa ngã gì đâu mà chìa tay cứu vớt? Ngược lại, tôi đang chìa tay cho cả chính thể của các vị. Bàn tay của tôi là bàn tay nhân ái, bàn tay trí tuệ, bàn tay của hiểu biết, bàn tay của khao khát thực sự đưa dân tộc đi lên, bàn tay chai sạn của lao động và tu luyện, bàn tay ấm nóng của một con tim đầy nhiệt huyết và lý tưởng cao đẹp chứ không phải bàn tay lừa lọc, đạo đức giả, bất nhân và độc tài. 

Ngày mai, ngày kia, tuần sau các vị có thể bắt được tôi nhưng các vị không bao giờ có thể khiến dân chúng nhìn sai về Đoàn Bảo Châu bởi tôi đã để ánh sáng của công lý, sự minh bạch, sự thật xuyên qua tâm hồn, hành động và toàn bộ bản thể thiêng liêng của tôi. Các vị bắt tôi, điều ấy chỉ tô thêm một nét xấu trên chân dung vốn đã không mấy tốt đẹp của các vị. 

Các vị phải học rất nhiều. Không phải học từ nhau bởi một cái ao tù thì lấy đâu ra sự trong lành mà học từ thế giới, từ những nhà hiền triết đã sống xuyên qua nhiều thế kỉ. Tôi hiểu là các vị không thể học nhanh được nhưng một con thuyền buồm sẽ tới được đích khi nó biết hướng đi. Buồm to được giương lên mà không có hướng đúng thì chỉ lạc lối mãi mà thôi. 

Vậy kỉ nguyên vươn mình của dân tộc sẽ có thể vươn được đến đâu thì ta cần phải chờ thêm thời gian và điều ấy phụ thuộc vào chính các vị. Không phải phụ thuộc vào những người được gọi là “trí thức” của đất nước bởi chính các vị đã làm hỏng họ, đã biến họ thành một thứ nhạt nhẽo, lờ lợ, ăn theo nói leo, vỗ tay và cười xu nịnh. 

Cũng không phụ thuộc vào quần chúng bởi cũng chính các vị đã biến họ thành một lớp người cam phận, sợ sệt, hèn nhát, ích kỷ và khôn lỏi. 

Muốn dân tộc vươn mình, lãnh đạo thực sự phải vươn mình trước về tư tưởng, tầm nhìn, sự quyết đoán và nhất định phải có con tim yêu nước thực sự.

Thời gian sẽ trả lời điều này và tôi cũng có hy vọng vào các vị. 

Đoàn Bảo Châu.

50 Years – Where Is Vietnam, What Has It Achieved?

The General Secretary of the Communist Party of Vietnam, Mr. Tô Lâm, wants to lead the country into an “era of rising,” and his speech on the 50th anniversary of the country’s reunification has inspired and given hope to many intellectuals in Vietnam.

That is a good thing, but the important thing is to determine where the country stands, what needs to be done, what dangers might be lurking, and if one is a true intellectual, they must see these things instead of giving shallow and empty and hollow praise. 

To be able to evaluate the achievements of a leader in the coming years, it is crucial that we have a scale that can “weigh and measure” the current situation. In reality, nearly 50 years after the guns fell silent, the Communist Party of Vietnam and the Vietnamese government in general have not made any significant breakthroughs in leading the country. The fact that the late Secretary-General Nguyễn Phú Trọng proudly exclaimed, “Has our country ever been like this before?” reflects a narrow vision, a naive optimism, and a weak will to lead the nation forward.

Let me clarify a few points here. Don’t bring up the poverty and hunger of the subsidy period and then nod smugly, saying: Look, in the past we wore tattered clothes, ate rice mixed with bo bo, now we have intact clothes, meals full of meat and fish—who’s to thank for that?

Also, don’t use the kind of logic like a man telling his wife: If I hadn’t married you back then, you’d still be single.

And don’t say that our country has just come out of war, so this is good enough. 50 years is a very long time, equivalent to two-thirds of a person’s life. It’s enough for a nation with a resilient spirit like Vietnam to develop brilliantly, completely capable of being on par with or surpassing South Korea, Taiwan, Singapore, Thailand… 

Now let us look at the reality of Vietnam in all aspects.

Economically, despite claims of high GDP growth, in reality, 80% of it comes from FDI; Vietnam is simply working for foreign countries on its own land. The “iron fists” of the state have turned into steel claws that tear the national budget to shreds.

At the end of 2023, the Ministry of Finance pointed out 1,000 wasteful and ineffective projects, with the Ministry of Industry and Trade alone having 12 loss-making projects worth thousands of billions, with a total investment of 63,610 billion VND.

20 state-owned economic corporations hold 80% of the banking credit; they are the spoiled children who are pampered to the fullest but contribute far less than the privileges they receive, and in fact, they contribute to weakening the economy.

Meanwhile, the true economic strength of a nation should lie in the private sector. The South Korean model shows that private corporations must struggle on their own, and only when they grow to a certain level and prove their capabilities do they receive certain support from the state. The result is that South Korea has risen with giant brands.

Along with that is the increasingly terrible corruption in Vietnam, which is certainly related to the incompetence of these “children” of the state.

A weak economy leads to a weak military, weak technology.

Let’s compare it with the achievements of our ideological brother.

China is shaking the world with their true rise. Their economy is genuinely driven by the internal strength of domestic enterprises. They have gone from being apprentices and imitators to becoming innovators.

Now, the U.S. is sweating in the race over achievements in quantum physics, quantum computers, and artificial intelligence against China, with Chinese goods flooding the world. At this rate, with such a huge population and superior internal strength, if they surpass the U.S. in economic and military power, it would not be surprising.

This relates to the fate of the Vietnamese nation. If Mr. Nguyễn Phú Trọng had a broader vision, instead of uttering those proud exclamations, he should have been more reflective and seen the danger of our country living next to a friend with the same ideology, who is too strong and extremely cunning.

Remember that when we were closest and most friendly, we lost the Paracel Islands. In recent years, China has built seven military bases in the South China Sea. These military bases don’t even have a single tree because their purpose is purely military—runways, weapon storage facilities. They build islands not to live on, but to create military bases to control the South China Sea.

Vietnam’s leadership is aware of this and is trying to build military bases in the Spratly Islands, but with a weak economy, those efforts are nothing compared to China’s achievements.

Vietnam is in an extremely dangerous position, so much so that we could replace Mr. Trọng’s statement with: “Has Vietnam ever been in such danger as it is now?”

Why is it dangerous? Because to the north, we border China; to the east, the South China Sea has seven Chinese military bases; and to the southwest, there’s Cambodia, a brother who has fully leaned into China’s embrace, with a historical resentment toward Vietnam that still lingers. 

When the neighbor is bad-tempered, full of ambition to swallow us, and far too strong, what must we do? We must strive to enhance our capabilities, our fighting strength, and we must have strong allies. When dealing with a bad-tempered neighbor, even at its most friendly, we lose the most—the Paracel Islands are the clearest and most painful proof.

Yet, in such a critical situation, Vietnamese officials are notorious for being increasingly large “firewood reserves.” The ideals and aspirations to build the country are either nonexistent or too weak, overshadowed by the greed for personal gain. An unscientific mechanism and an incompetent system are exactly the factory that produces firewood, and then they proudly claim they are fiercely “burning the furnace.” What needs to be done is to address the root cause, which is to change the mechanism that creates firewood, not to create firewood with one hand while burning the furnace with the other.

Remember that China’s success today is thanks to Deng Xiaoping and now Xi Jinping, two people who understood that to achieve great things for the nation, integrity with money and personal interests is essential.

Mr. Nguyễn Phú Trọng gained such prestige because he is considered an honest man, but unfortunately, his vision is too limited. He takes pride in something trivial like “bamboo diplomacy.”

With the reality that, on average, for every 10 citizens, there is one state official or employee, and on average, five workers support one civil servant, Mr. Tô Lâm’s decision to streamline the system and cut the budget of state-affiliated organizations and associations is a correct move, but it is only a small step on the road ahead.

Let’s look at science and technology.

While the world is racing fiercely in the competition over quantum computers and artificial intelligence, continuously achieving new milestones, Vietnam has a round zero.

Speaking of a new era means speaking of these fields, and to develop these fields, there needs to be significant funding for R&D, research and development. But with such corruption and such weak budget accumulation, how can there be significant R&D?

Therefore, Mr. Tô Lâm’s move to cut down the cumbersome system is absolutely correct. Create a lean system to reduce the burden on the budget, and the important thing is to eradicate corruption completely.

Do they dare to act decisively or not? The system is entirely in their hands; nothing is impossible. But don’t be proud of burning firewood like Mr. Nguyễn Phú Trọng, because from the people’s perspective, firewood is a product of the government’s system, and eradicating corruption is their responsibility, not an achievement for the people to praise.

Look at the reality of market management. We must cut off the problem of smuggling across the borders with China and Laos (I’m not sure about the Cambodian border). I once had to lie in wait at midnight to witness groups of people carrying smuggled goods across the border.

Which Vietnamese businesses can compete with smuggled goods like that?

Then there are functional foods, medicines, and recently, 600 types of fake milk have been flooding the market for years.

The pandemic exposed the ethics of health sector officials with nasal swab kits and “rescue” flights.

I painfully ask myself, with such ethics among officials, how many unjustly displaced people have withered away in misery and resentment? Were those villas and supercars of officials earned from selling brooms, raising pigs, or working as motorbike taxi drivers on the side, or were they built with the blood and tears of the wronged?

If you truly “serve the people, for the people,” you must see through the issues. On the road ahead, you say you won’t “leave anyone behind,” but the people who have died on the path to justice—how can they keep up with the nation’s journey? Could it be that their wronged spirits will follow along?

I ask myself, in Mr. Tô Lâm’s “new era,” what percentage is directed toward the spiritual values of the nation? People need not only bread but also roses. Roses here mean freedom, democracy, human rights, justice, literature and arts, an elite education system that liberates people, a healthcare system that makes people feel well-cared for. And the most important thing is national pride. I’m not talking about pride in history or the lineage of dragon and fairy descendants, but pride in the current achievements of a nation—so that when people go abroad, and someone asks where they’re from, their faces can light up brightly as they answer, “I am Vietnamese.”

Some “intellectuals,” upon hearing Mr. Tô Lâm’s speech, “compose poetry” in prose, “pour water with the rain,” enthusiastically praise, brim with hope, and “soar high”… Such intellectuals are truly bland, harmless, and useless, with no value in enlightening the people.

We are not here to satisfy each other, to clap, to laugh fakely and flatter each other’s souls, not to “release” for comfort and mental relaxation, to exalt our tiny egos. We are here to speak the truth, to think genuinely, the kind of thinking that requires years of learning and reflection, the kind of thinking that demands concern, extensive reading, and connection to make accurate judgments.

First of all, if Mr. Tô Lâm is truly a man of heart and vision, the first thing he should do is to upgrade and improve the Republic of Vietnam Cemetery, erect a statue to commemorate the victims of the boat people exodus. The blood of the Vietnamese has reddened the South China Sea further, the tears of Vietnamese boat people have made the sea saltier.

They fled because of the cruel treatment by your regime. Who would want to leave their homeland knowing the high risk of starvation, rape, and robbery? A journey full of storms, blood, tears, witnessing loved ones die before their eyes.

Erect a statue to express the sympathy and compassion of the Vietnamese nation toward them. That action would elevate your image greatly, and you would be forever remembered in history and in the hearts of the people.

Review the list of prisoners of conscience and release them if you find them innocent. I believe most of you know they are innocent, but due to your authoritarian habits, you disregard that and use what you call the law to convict them.

I am someone directly involved; I know this clearly. What have I done to deserve a proposal to prosecute, a ban on leaving the country, summons, and being stalked, with my family, friends, and students harassed to hunt me down?

Let me remind you that I have always been friendly and cooperative with the security forces since 2000.

I am a peaceful person. My parents used to own a bus company, but times changed, and with the policy of industrial and commercial reform, they lost everything. A business my father built with his own hands as a worker. At the end of his life, he became a disillusioned man, bitterly saying, “They clipped my wings.” He feared that if he built a house, the authorities would come and take it. Now I understand why he was so afraid and anxious when he saw me buying steel to build a house.

I am a peaceful person, so I don’t use my family’s story and losses as a source of hatred, because I understand that it is history, and we must accept history. We cannot let the wrongs of history shape our thoughts and actions.

Fairness and integrity have always been my principles.

But during these days of hiding, I have increasingly seen your true face. You say one thing and do another. You tell me to return but relentlessly hunt me down. Should I close my eyes, play dumb, and entrust my life to you? To let my fate be decided by you?

A security officer texted me, offering a helping hand, which I refused. Who is helping whom? I haven’t fallen into anything to need saving. On the contrary, I am offering a hand to your entire regime. My hand is a hand of compassion, a hand of wisdom, a hand of understanding, a hand with a genuine desire to lift the nation, a calloused hand from labor and cultivation, a warm hand of a heart full of passion and noble ideals—not a hand of deceit, hypocrisy, cruelty, and authoritarianism.

Tomorrow, the day after, or next week, you may catch me, but you will never make the people see Đoàn Bảo Châu wrongly, because I have let the light of justice, transparency, and truth shine through my soul, my actions, and my entire sacred being. If you arrest me, it will only add another stain to your already less-than-ideal portrait.

You have a lot to learn. Not from each other, because a stagnant pond cannot produce purity, but from the world, from the sages who have lived through many centuries. I understand you cannot learn quickly, but a sailboat will reach its destination if it knows the direction. A large sail hoisted without the right direction will only drift further away.

So, how far the nation’s era of rising can go depends on time, and it depends on you. It does not depend on those called “intellectuals” of the country, because you have ruined them, turned them into something bland, lukewarm, parroting, clapping, and laughing sycophantically.

Nor does it depend on the masses, because you have turned them into a class of people who accept their fate, who are fearful, cowardly, selfish, and cunning.

For the nation to rise, the leadership must first rise in thought, vision, decisiveness, and must absolutely have a heart that truly loves the country.

Time will answer this, and I, too, have hope in you. 

Đoàn Bảo Châu


 

MÃI NO THOẢ – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!”.

Cha linh hướng của Catarina Siêna kể, “Một hôm, có việc phải đi sớm, tôi không dâng lễ; chiều về, Catarina đến thưa, “Thưa cha, con đói lắm!”. Tôi bảo, “Rất nhọc, không dâng lễ được!”. Catarina buồn rầu rời đi; nhưng vài phút sau, trở lại, thưa như trước. Không cầm lòng, tôi ra kéo chuông và dâng lễ. Lạ lùng thay, khi vừa bẻ Mình Thánh, một nửa trong tay tôi biến mất. Tôi lo sợ tìm kiếm, nhưng Catarina nói, “Chúa đã đến với con!”. Lúc ấy, mặt chị sáng như mặt thiên thần!”.

Kính thưa Anh Chị em,

‘Cơn đói của linh hồn’ chị thánh Catarina Siêna được Chúa Giêsu khai triển trong Tin Mừng hôm nay. Ngài nói đến cơn đói siêu nhiên, nói đến “lương thực thường tồn” cho con người ‘mãi no thoả’; và ai tiếp nhận Ngài, mặt người ấy sẽ sáng như mặt thiên thần.

Trước hết, hãy xét xem bối cảnh! Kìa, mới hôm qua, Chúa Giêsu nhân bánh cá ra nhiều để thết hàng ngàn người; và bây giờ, họ muốn điều đó tái diễn. Nhân cơ hội này, Ngài dạy họ về Bánh Ban Sự Sống; Ngài cũng muốn làm như thế cho bạn và tôi!

Vậy bạn đói khát điều gì? Có lẽ bạn có nhiều thức ăn, hoặc cũng có thể là không. Nhưng như Catarina, một khi xác định được cơn đói sâu xa nhất của mình – đói Giêsu – bạn hãy cho phép Ngài nói với bạn về Bánh Hằng Sống. Hãy nói với Ngài, “Đó là những gì con đói!”. Sau đó, hãy để linh hồn lắng nghe Ngài, “Ta muốn cho con nhiều hơn. Ta là những gì con thực sự đói. Hãy đến với Ta, con sẽ ‘mãi no thoả!’”. Đây là nội dung diễn từ Bánh Hằng Sống – suốt chương 6 Tin Mừng Gioan – Chúa Giêsu đã nói với người đương thời.

Đừng quên, Thánh Thể có khả năng biến đổi bạn ở mức độ sâu xa nhất! Vậy mà chúng ta thường đến với Bí tích này cách uể oải và hay sao nhãng; kết quả, bạn và tôi thường không thực sự tiếp nhận Chúa Giêsu ở mức độ mang lại niềm vui, sự phấn khích, cũng như sự no thoả vô tận sâu sắc nhất. Như Catarina, Têphanô – mặt sáng như mặt thiên thần – cho thấy sự no thoả đó, “Kìa, tôi thấy trời mở ra và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa” – bài đọc một. Thánh Vịnh đáp ca có chung một tâm tình, “Trong tay Ngài, lạy Chúa, con xin phó thác hồn con!”.

Anh Chị em,

“Ai đến với tôi, không hề phải đói!”. “Bánh Ban Sự Sống” cho con người để nó không còn đói chính là Chúa Kitô, một quà tặng không chỉ có khả năng nâng đỡ tâm hồn và thể xác mà còn lôi kéo chúng ta vào niềm vui bất tận của thiên đàng. “Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đừng quên rằng, nếu cần phải lo lắng về lương thực, thì điều quan trọng hơn nữa là nuôi dưỡng mối quan hệ của chúng ta với Ngài, củng cố đức tin của chúng ta vào Ngài, “Bánh Hằng Sống”, Đấng đã đến để thoả mãn cơn đói chân lý, cơn đói công lý và cơn đói tình yêu của chúng ta!” – Phanxicô. Đến lượt mình, chúng ta hãy đi, mang theo bánh Giêsu và làm no thoả cơn đói tinh thần và vật chất của anh chị em mình; để như chúng ta, họ cũng ‘mãi no thoả’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con đói lắm! Bao anh chị em con trong thế giới đói lắm! Cho con ‘no Chúa’ và con sẽ đi đến tận mút chân trời, mang bánh Giêsu đến cho anh chị em con!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

***************************************************************

Thứ Ba Tuần III Phục Sinh

Không phải ông Mô-sê, mà chính là Cha tôi đã cho bánh bởi trời, bánh đích thực.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.  Ga 6,30-35

30 Khi ấy, đám đông dân chúng hỏi Đức Giê-su rằng : “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông ? Ông sẽ làm gì đây ? 31 Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép : Người đã cho họ ăn bánh bởi trời.”

32 Đức Giê-su đáp : “Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Mô-sê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, 33 vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian.” 34 Họ liền nói : “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy.” 35 Đức Giê-su bảo họ : “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói ; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ !”


 

“Anh em hãy học cùng Tôi, vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường”- Cha Vuong

Chúc 1 ngày thật mạnh mẽ trong đức Tin, bền vững trong đức Cậy, tràn đầy trong đức Mến nhé. 

Thứ 2, 3PS: 5/5/2025

TIN MỪNG: Họ liền thưa lại rằng: “Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?” Chúa Giêsu đáp: “Đây là công việc của Thiên Chúa, là các ngươi hãy tin vào Đấng Ngài sai đến”. (Ga 6:28-29)

SUY NIỆM: Có những người tự nghĩ rằng chỉ cần có đức tin là đủ để được cữu rỗi. Liệu đức tin của họ có đủ mạnh để tin vào quyền năng của Chúa qua những nghịch cảnh đang xẩy ra trong đời, hay họ sẽ tìm cách bám víu vào những thực tại khác? Còn đức tin của bạn thì sao? Muốn đi theo ai, muốn ở với ai, thì phải biết rõ người ấy, biết người ấy xuất thân từ đâu và có đáng tin không. Muốn đi theo Chúa Giêsu và ở với Chúa Giêsu thì người Kitô hữu phải biết Chúa Giêsu là ai, đường lối của Ngài như thế nào? Vậy thì, đối với bạn, Đức Giêsu Kitô là ai? Bạn mô tả mối quan hệ của bạn với Chúa như thế nào?

    Để biết Chúa Giêsu Kitô là ai và đâu là đường lối của Ngài, bạn cần phải gạt bỏ những hình ảnh trần tục ta vẫn có về Chúa Kitô, những hình ảnh do con người tạo ra: một Đức Kitô của quyền lực, của thống trị… có những người theo Chúa vì ích lợi riêng… “Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm ta không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê. Bạn hãy nhớ lời Ngài dạy: “Anh em hãy học cùng Tôi, vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường”.

LẮNG NGHE: Cái lợi tuyệt vời là được biết Chúa Giêsu kitô, Chúa của tôi. (Pl 3:8).

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa Giê-su Phục sinh, xin tăng thêm lòng tin cho con để luôn biết dấn thân làm chứng cho Chúa và sống đức tin cách can trường trong mọi hoàn cảnh.

THỰC HÀNH: Cố gắng tuân theo lời Chúa dạy trở nên hiền hậu và khiêm nhường hơn.

From: Do Dzung

**************************

Con Tin Chúa Ơi – Lm Duy Thiên 

Robot Humanoid của Tesla đang dẫn đầu công nghệ người máy?

Hiện tại, Tesla có thể khẳng định mạnh mẽ là nhà sản xuất robot hình người tiên tiến nhất của Mỹ và thế giới, tận dụng chuyên môn của mình trong sản xuất ô tô và lái xe tự động để thúc đẩy dự án Optimus. Tuy nhiên, Trung Quốc có vẻ đang ở vị thế thuận lợi để thống trị thương mại hóa trong dài hạn, “có khả năng phản ánh thành công đã thấy trong ngành [xe điện] và máy móc”, theo các nhà phân tích tại JPMorgan. Khi các nhà sản xuất Trung Quốc triển khai chiến lược cắt giảm chi phí quen thuộc của họ, được xây dựng dựa trên mạng lưới nhà cung cấp sâu rộng và chuyên môn kỹ thuật đáng gờm trong sản xuất hàng loạt, họ có thể xác định được ai sẽ mang robot hình người giá cả phải chăng — có khả năng là một thị trường trị giá 7 nghìn tỷ đô la, theo Citigroup — đến các nhà máy, văn phòng và hộ gia đình trên toàn cầu. 

Thời báo Hoa Thịnh Đốn – Washington Post

Optimus (được đặt theo tên nhân vật Transformers, làm chuyển đổi), còn được gọi là Tesla Bot , là một người máy hình người đa năng đang được Tesla, Inc. phát triển. Nó đã được công bố tại sự kiện Ngày trí tuệ nhân tạo (AI) của công ty vào ngày 19 tháng 8 năm 2021,  và một nguyên mẫu đã được trình làng vào năm 2022. Giám đốc điều hành Elon Musk đã tuyên bố vào năm 2022 rằng ông nghĩ Optimus “có tiềm năng trở nên quan trọng hơn mảng kinh doanh xe hơi của Tesla theo thời gian.”

Tự Điển Mở Bách Khoa – Wikipedia

Elon Musk , người từ lâu đã nói về kế hoạch đầy tham vọng nhằm xâm chiếm sao Hỏa , đã tuyên bố rằng ông sẽ gửi robot đến hành tinh xa xôi này — và kế hoạch này có thể bắt đầu sớm hơn dự kiến.

Du khách xem Tesla Bot Optimus tại Hội nghị AI thế giới năm 2024 và Cuộc họp cấp cao về Quản trị AI toàn cầu tại Trung tâm triển lãm và hội nghị World Expo Thượng Hải vào ngày 4 tháng 7 năm 2024 tại Thượng Hải, Trung Quốc.

Vào thứ năm (10-4-2025), Musk cho biết robot Optimus của Tesla , ban đầu được giới thiệu là trợ lý gia đình vào năm ngoái, “hy vọng” sẽ được đưa lên hành tinh đỏ trên chuyến bay SpaceX vào cuối năm sau.

Musk, người sở hữu cả Tesla và SpaceX, đã viết trong một bài đăng trên X rằng: “Hy vọng Starship sẽ khởi hành đến sao Hỏa vào cuối năm sau cùng với các robot thám hiểm Optimus”.

Các trở ngại cho việc sản xuất Optimus: ( theo báo Washington Post)

Mặc dù công ty của Musk là công ty đi đầu trong đổi mới, Trung Quốc kiểm soát các chuỗi cung ứng quan trọng đối với các thành phần thiết yếu, bao gồm bộ truyền động, động cơ và cảm biến. Thậm chí còn nói lên nhiều điều hơn: Musk cho biết lệnh hạn chế xuất khẩu nam châm đất hiếm gần đây của Trung Quốc – rất quan trọng đối với động cơ điện – có thể cản trở sản xuất Optimus. Với suy nghĩ này, cuộc đấu khẩu công khai của Musk với Peter Navarro, cố vấn thương mại của Tổng thống Donald Trump, về thuế quan – bao gồm cả thuế áp dụng đối với châu Âu, do tầm quan trọng của các nhà cung cấp tại đó như Tập đoàn Schaeffler của Đức và SKF của Thụy Điển, càng có lý do rõ hơn.

Một cuộc chiến thương mại kéo dài có thể củng cố sự thống trị của Bắc Kinh trong lĩnh vực robot, ngay cả khi Washington đáp ứng được loại hỗ trợ của chính phủ mà họ hiện dành cho các nhà sản xuất chip (điều mà các công ty này đang kêu gọi ).

 

Tác giả “Thề không phản bội quê hương” qua đời

Saigon Nhỏ 

 Nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân (Hình:TK)

Nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân, tác giả ca khúc lừng danh “Thề không phản bội quê hương” đã bất ngờ qua đời vào ngày 3 Tháng Năm 2025, không biết được giờ chính xác, do ông ngã quỵ trong nhà, và qua đời không ai hay biết. Theo vài người trong xóm ước tính, giờ mất của ông có lẽ vào khoảng 13g30 trưa.

Nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân sinh năm 1939, mất ở tuổi 86, thuộc lứa thứ hai của những nhạc sĩ thành danh trong dòng bolero của miền Nam như Mặc Thế Nhân, Hà Phương, Giao Tiên…

Ngôi nhà của ông ở trong con hẻm nhỏ, đường Trương Tấn Bửu, Quận Ba (nay là đường Trần Huy Liệu, Quận Phú Nhuận) ít người qua lại. Chỉ đến khi hàng xóm nhìn qua song sắt nhà, thấy ông nằm trên đất, gọi không dậy, nên đã hô hoán. Vì ông sống một mình nên sau đó công an khu vực đến phá cửa và đưa ông vào phòng lạnh ở Bệnh viện Nguyễn Tri Phương, chờ cho thân nhân bên Pháp về chôn cất.

Hiện ngôi nhà nhỏ mà ông vẫn ngày ngày mở cửa nhìn ra ngoài, đón đôi ba đứa học trò đến học nhạc hay thăm viếng, đã niêm phong.

(Hình: AB)

Nhiều năm nay nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân sống cô độc một mình. Sau khi ly hôn, vợ và các con định cư ở nước ngoài, nhạc sĩ chọn ở lại cùng kỷ niệm trong căn nhà nhỏ chỉ khoảng 20m2. Dưới nhà là chỗ ông dạy học, tiếp khách, kể cả nấu bếp. Tối đến ông lên lầu và nghỉ cùng các kỷ vật của vợ con, sách vở của ông.

Sau năm 1975, nhạc sĩ Trường Hoàng Xuân chọn sống đời khép kín. Ông không bè bạn với ai. Những ngày sau này khi sống một mình, lúc buồn, ông lái chiếc honda cũ của mình đi loanh quanh thành phố, ghé nơi nào đó, làm ly café, một mình nhìn phố phường rồi về. Hàng xóm biết ông là nhạc sĩ nổi tiếng một thời nhưng chưa bao giờ nghe ông nói về mình, ông chỉ chào hỏi rồi lại lui vào nhà.

Nhạc sĩ Trường Hoàng Xuân mắc một số bệnh gan, viêm phế quản, viêm mũi dị ứng kinh niên. Ông không khỏe nhưng tự trọng, tránh nhờ cậy ai giúp mình, và cũng không than vãn.

Nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân nổi tiếng với nhiều bài hát như Hái Hoa Rừng Cho Em, Xé Thư Tình, Bạc Trắng Lửa Hồng… nhưng ca khúc nổi tiếng và được nhắc nhiều vào thời trước 1975 là Thề Không Phản Bội Quê Hương, viết cho Cục Chỉnh Huấn vào năm 1971. Bài hùng ca này được trình bày ở nhiều nơi và tới nay vẫn còn được yêu thích.

(Hình: PB)

Trương Hoàng Xuân học nhạc trong nhà thờ và chơi đàn kiếm sống tại các nhà hàng khi 16 tuổi.

Năm 1960, ông tốt nghiệp Sư phạm, về dạy tại Long Khánh, tỉnh Bình Tuy. Đến năm 1968 thì ông đi lính và được điều về Đài phát thanh Quân đội làm việc chung với Tô Kiều Ngân, Đỗ Kim Bảng, Trầm Tử Thiêng.

Năm 1972, ông được Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa bổ nhiệm về dạy nhạc tại trường Trung học tổng hợp Nguyễn An Ninh, Quận 10.

Năm 1978, Sở giáo dục chính quyền mới phát hiện ông là tác giả của Thề Không Phản Bội Quê Hương, cũng như quá trình làm việc cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa nên đã cho thôi việc, ông xin qua Ngành Bưu điện làm hoạt động văn nghệ quần chúng cho đến khi nghỉ hưu vào năm 2000.


 

Những thất bại nhìn thấy từ ‘đại lễ 50 năm giải phóng’

Ba’o Nguoi-Viet

May 1, 2025 

Nam Việt

Hà Nội chưa công bố kinh phí để thực hiện “đại lễ 50 năm giải phóng,” nhưng theo lệ thường tại Việt Nam, các sự kiện tuyên truyền lớn vẫn được rút từ ngân sách nhà nước, kết hợp với các nguồn xã hội hóa, mà các con số chi tiết hiếm khi được công bố rộng rãi.

Nhìn tổng thể, ngân sách thực hiện cho duyệt binh, pháo bông, hậu cần… là rất lớn.

Chỉ riêng bắn pháo bông, chính quyền TP.HCM phải chịu tiền, ước tính chi phí cho hoạt động bắn tầm cao, tầm thấp, hỏa thuật, hậu cần và tổ chức, tại 30 điểm trong ngày 30 Tháng Tư, vào khoảng gần 4 tỷ đồng.

Dù là hoạt động tuyên truyền của nhà nước, nhưng các chi phí này thường được “huy động” từ nguồn xã hội hóa, chủ yếu từ các doanh nghiệp và tổ chức tư nhân. Con số chính xác chỉ nằm trong báo cáo tài chính chính thức từ UBND hoặc Sở Văn Hóa và Thể Thao sau sự kiện, và dĩ nhiên là thường giữ kín.

Kế hoạch cho “đại lễ 50 năm đánh thắng Đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam” được chuẩn bị chu đáo từ năm trước, nhưng cuối cùng để lộ ra những điều không hay, nếu không nói là thất bại.

Khách mời quốc tế “anh em” của Hà Nội. (Hình: Tuổi Trẻ)

Khách mời quốc tế của 30 Tháng Tư là ai?

Chưa bao giờ Việt Nam đón nhận sự lạnh nhạt từ thế giới như qua lễ duyệt binh. Không rõ Việt Nam gửi thư mời đi đến bao nhiêu quốc gia, nhưng phía truyền thông nhà nước chỉ dè dặt chính thức nhắc tên vài nước chắc chắn tham dự là Lào, Campuchia, Cuba, Belarus, thậm chí không có tên Nga. Đa số còn lại là đại diện các Đảng Cộng Sản Ấn Độ, Nhật, Ý, Pháp…

Tin tức rò rỉ chuyện Tổng Thống Donald Trump ra lệnh cho các quan chức ngoại giao Mỹ không chính thức tham gia lễ kỷ niệm, đã tạo không khí đóng băng trong quan hệ quốc tế, khiến các phóng viên quốc tế vào Việt Nam đưa tin dịp này đều có an ninh kèm chặt. Chỉ duy nhất dạ tiệc vào tối 29 Tháng Tư của giới quan chức và các cơ quan ngoại giao đóng tại Việt Nam thì được nói là khá nhiều nước tham dự, nhưng chi tiết về dạ tiệc này không được đưa tin rộng rãi.

Trung Quốc diễn hành tại Sài Gòn (Hình: SGGP)

‘Nghiến răng’ đón Trung Quốc diễu hành

Trên các trang mạng xã hội, người dân Việt Nam vẫn diễu cợt câu chuyện 118 lính Trung Quốc đến Việt Nam diễu binh theo lời mời của phe quân đội, nhưng dồn dập tin tức và hình ảnh về việc Hải cảnh Trung Quốc đổ bộ lên đá Hoài Ân của Việt Nam ở biển Đông và tuyên bố chủ quyền rất “đúng lúc” khiến hình ảnh tốt đẹp của việc “đóng góp” cho đại lễ từ phía Trung Quốc trở nên hết sức gắng gượng.

Suốt hai tuần, kể từ khi tin tức Trung Quốc “vỗ mặt” Việt Nam trên biển Đông, phía Bộ Ngoại Giao Việt Nam chết lặng và không có lời đáp nào, mặc dù hai ngày sau đó, Tòa Bạch Ốc lên tiếng cảnh cáo, và nói đây là một hành động “khiến tình hình trở nên nghiêm trọng.”

Trên các trang mạng báo Trung Quốc đua nhau ca ngợi sự có mặt của lính Trung Quốc diễu hành tại Việt Nam, và bình luận rằng mọi thứ nồng nhiệt và được người Việt Nam chào đón hơn cả phần trình diễn của quân đội chủ nhà.

Tuy vậy, an ninh cho phần lính Trung Quốc diễu hành được tổ chức chặt chẽ. Mọi thành phần chống Trung Quốc xâm lược biển đảo đều bị công an giữ chặt tại nhà. Nhiều người được “mời làm việc” đúng ngày lễ. Giới dư luận viên tung bài viết, nói ra rả đừng nghe bọn “ba sọc” kích động mà chống lính Trung Quốc, làm tổn hại quốc gia. Ngoài những tiếng reo hò cỗ vũ đã được dàn dựng khi lính Trung Quốc diễu hành, người ta chỉ được dăm ba tiếng hô “Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam.”

Tô Lâm phát biểu, kêu gọi gác lại quá khứ, tiến đến tương lai (Hình: QĐND)

Diễn văn chính lễ 30 Tháng Tư của CSVN vẫn không thật lòng

Ngôn luận chính của dịp 50 năm chấm dứt chiến tranh, xoay quanh các phát biểu của Tổng Bí Thư Tô Lâm bộc lộ nhiều điều, mà giới phân tích cho rằng còn đầy bóng tối, và chủ yếu cho thế thế giới thấy có chút đổi khác, mặc dù, cốt lõi cộng sản vẫn không thay đổi.

Chủ nghĩa dân tộc, dòng máu Lạc Hồng, tình anh em cùng trong một quốc gia… được họ Tô nhắc đi nhắc lại, ông cũng có lời trân trọng với những người thuộc Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Có thể nói, về mặt ngôn từ, đây là lần đầu tiên một tổng bí thư có phát ngôn cởi mở như vậy về cộng đồng này, đặc biệt khi đề cập đến người Việt ở nước ngoài, bao gồm những người rời đi trong làn sóng thuyền nhân.

Tuy nhiên, lời nói của ông Tô hay Đảng Cộng Sản chưa đi đôi với hành động. Việc vẫn nuôi dưỡng một đạo quân hàng ngày chửi rủa, bẻ cong và phủ nhận lịch sử, vẫn dùng cách gọi thù địch như “ngụy quân,” “ngụy quyền” trong truyền thông chính thống, cổ xúy sỉ nhục cờ vàng VNCH… tạo nghi ngờ về tính chân thành của thông điệp lúc này.

Cũng có ý kiến cho rằng bài phát biểu của ông Tô Lâm có thể phục vụ mục đích chính trị nội bộ, như củng cố hình ảnh cá nhân hoặc tạo sự đồng thuận trong bối cảnh chuẩn bị cho Đại Hội Đảng XIV. Thông điệp hòa hợp bị coi chỉ là một chiến lược tuyên truyền ngắn hạn, thay vì cam kết lâu dài.

Ông Tô Lâm kêu gọi gác lại lịch sử, hướng tới tương lai, nhưng từ chối nhìn nhận những sai lầm và đau thương mà các công dân VNCH đã chịu, như chính sách cải tạo đối với quân nhân và quan chức VNCH, cùng với việc tịch thu tài sản, đã để lại nhiều vết thương khó lành. Việc kêu gọi nghe xuôi tai này, tạo hoài nghi về khả năng thực hiện hòa hợp của chính quyền hiện nay.

Hòa giải dân tộc là một quá trình dài hạn, đòi hỏi sự thay đổi từ cả hai phía – chính quyền và cộng đồng người Việt từng đứng ở hai bờ chiến tuyến, nhưng không có lộ trình rõ ràng và những hành động thiết thực, lại tạo thêm sự bất tín.

Nửa thế kỷ, tính kiêu ngạo vô lối cộng sản vẫn y nguyên 

Tính kiêu ngạo cộng sản cố hữu của Hà Nội vẫn lộ rõ qua vụ dựng pano sỉ nhục Mỹ vào dịp 30 Tháng Tư rồi vội vã gỡ xuống trong một ngày. Nhưng đó cũng chỉ là một trong hàng trăm kiểu tuyên truyền, quảng bá cho bộ mặt “cộng sản quang vinh tự hào.” Sự kiện nhục nhã chung cho mọi cơ quan truyền thông CSVN là vội vàng lấy tấm ảnh làm giả hình ảnh cờ đỏ sao vàng, có dòng chữ tiếng Anh “Kỷ niệm 50 năm ngày thống nhất Việt Nam,” tung hô rằng đã xuất hiện trên màn hình lớn của công ty NASDAQ ở Quảng Trường Thời Đại tại New York, Mỹ.

Nhiều báo của Việt Nam cùng dẫn nguồn lấy từ trang cá nhân của Đại Sứ Đặng Hoàng Giang, trưởng phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên Hợp Quốc. Nhưng trong vài giờ đồng hồ, nhiều người chỉ ra những chi tiết chỉnh sửa. Đến ngày 1 Tháng Năm, hầu hết báo đều gỡ tin và ảnh này, mà không có lời xin lỗi hay đính chính nào.

Một trong những điều mỉa mai, là chính quyền TP.HCM cho dựng pano có hình cô Nhíp dẫn quân Bắc Việt vào Sài Gòn. Thế nhưng giờ đây cô Nhíp đã tham gia dòng người bỏ đảng, tìm đến cuộc sống tự do của “kẻ thù Đế Quốc Mỹ,” và hơn thế nữa là cô còn đang sống trong lòng của những người đào thoát khỏi chế độ Bắc Việt từ năm 1975 đến nay.


 

Từ buông súng tới giải phóng, ai giải phóng ai?

Tác Giả: Đàn Chim Việt

30/04/2025

Sài Gòn trước năm 1975. Giao lộ Tổng Đốc Phương (Châu Văn Liêm) và Hồng Bàng. Ảnh tư liệu

Trong lịch sử nhân loại, chiến tranh chưa từng thiếu vắng những danh nghĩa rực rỡ. “Giải phóng” từng được nhân danh để thúc đẩy những đoàn quân tiến vào, để dựng nên những tượng đài quyền lực, để phủ lên những cánh đồng đầy huyệt mộ. Nhưng khi lịch sử lùi xa khỏi cơn mê sảng của thời đại, người ta buộc phải tự hỏi: Giải phóng là gì? Và ai thực sự giải phóng ai?

Giải phóng không phải là giành lấy một thành phố đã tan hoang. Giải phóng không phải là việc hạ xuống một lá cờ để dựng lên một lá cờ khác. Giải phóng không nằm ở việc thay đổi tên gọi một thể chế hay một chủ nghĩa, mà nằm ở khả năng khơi mở cho con người quyền được làm người: quyền được sống mà không sợ hãi, được suy nghĩ mà không bị bóp nghẹt, được yêu thương, phản tỉnh, và tự do kiến tạo đời mình.

Giải phóng, nếu còn mang chút ánh sáng cho đời sống nhân sinh, là hành trình âm thầm, khổ hạnh và bất tận của tinh thần tự do, chứ không bao giờ là cuộc diễu binh của súng đạn.

Trong bất kỳ cuộc chiến nào, tuyên bố buông súng không đồng nghĩa với thất bại. Trái lại, có khi đó là hành vi nhân bản vĩ đại nhất — khi một người, một lãnh đạo, hay một dân tộc, chọn sinh mạng con người thay vì tiếp tục nuôi dưỡng hận thù. Vua Ashoka sau trận Kalinga, Robert E. Lee tại Appomattox, Mahatma Gandhi trong trường kỳ đấu tranh bất bạo động, Đức Đạt Lai Lạt Ma trong những năm tháng lưu vong — mỗi người, theo cách riêng của mình, đã chứng tỏ rằng: có những chiến thắng lớn lao nhất bắt đầu từ việc buông xả.

Ngày 30 tháng Tư năm 1975, tại Sài Gòn, Tổng thống Dương Văn Minh, trong thế cờ đã an bày, tuyên bố buông súng để tránh đổ máu. Quân đội miền Bắc tiến vào thành phố mà hầu như không còn gặp kháng cự. Sự kiện ấy được gọi là “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”. Nhưng ngay sau đó, hàng triệu con người đã bỏ nước ra đi, trốn chạy khỏi cái gọi là “giải phóng” ấy.

Trong giờ phút cuối cùng đó, hành động buông súng của Tổng thống Dương Văn Minh — vốn từng bị cho là dấu hiệu của nhược bại — nhưng nay, sau năm mươi năm nhìn lại, đã được giới sử học và cộng đồng lưu vong đánh giá lại với cái nhìn công bằng hơn, ông không phải người gây nên thất bại, mà chỉ là người gánh lấy bi kịch không thể tránh, và chọn cứu thành phố Sài Gòn khỏi một cuộc biển máu. Các nhà nghiên cứu ngày nay thừa nhận rằng nếu không có quyết định buông súng ấy, có thể hàng vạn sinh mạng vô tội đã ngã xuống ngay trong những giờ phút cuối cùng. Hành động của ông, tự nó, là một tiếng thở cuối cùng còn sót lại của lòng nhân bản trong một thời đại đã quá mệt mỏi vì chém giết.

Vậy ai mới thực sự giải phóng người Việt Nam?

Không phải những đoàn quân lăm lăm tay súng tiến vào thành phố. Không phải những bản tuyên ngôn thắng trận.

Người Việt Nam chỉ thực sự được giải phóng khi họ, từng người một, ý thức rằng tự do không đến từ quyền lực áp đặt, mà từ chính khát vọng không chịu khuất phục trong lòng mình.

Khi người mẹ dắt con vượt biển khơi tìm tự do, khi người quân nhân âm thầm bước ra khỏi trại tù cải tạo mà vẫn giữ vững niềm tin vào nhân phẩm, khi thế hệ tiếp nối còn nhắc đến tự do như ngọn lửa nhỏ truyền tay — ấy là lúc Việt Nam, chậm chạp nhưng bền bỉ, đang tự giải phóng chính mình khỏi mọi hình thức giam cầm.

Giải phóng không phải một ngày lịch sử. Không phải một đoàn quân chiến thắng. Không phải một lá cờ dựng trên nóc dinh thự quyền lực.

Giải phóng, rốt cuộc, là hành trình trường kỳ của linh hồn, là cuộc chiến âm thầm nhưng bất khuất giữa con người tự do với mọi cường quyền trấn áp.

Trong ánh sáng ấy, lần buông súng năm xưa không phải là dấu chấm hết của một bi kịch, mà là điểm khởi đầu cho một bản trường ca kiên nhẫn: bản trường ca của những con người biết rằng tự do không thể ban phát, không thể cưỡng chiếm, mà chỉ có thể sinh ra từ trái tim không bao giờ chịu quy hàng.

Yuma, ngày 29 tháng 04 năm 2025

Nguyên Việt (Diễn đàn thế kỷ)