DANH NGÔN ĐỂ ĐỜI

From facebook:   Từ Thức‘s post.
 
Image may contain: one or more people

Từ Thức

 

DANH NGÔN ĐỂ ĐỜI

-Cuộc chiến gay go của ta rất cần sự ủng hộ của Trung Quốc, sao lại nói quay lưng sang chống bạn. Họ có giải phóng Hoàng Sa giúp ta, thì sau này cũng trả lại cho ta ( LÊ ĐỨC THỌ )

-Tôi thấy lo lắng lắm..Không biết tuyên truyền thế nào, chứ từ trẻ đén ngưòi già đều có khuynh hướng ghét Trung Quốc ; Ai tích cực cho Trung Quốc là ngại. Tôi cho rằng cái đó là nguy hiểm cho dân tộc ( PHÙNG QUANG THANH, Cựu Bộ trưởng Quốc Phòng )

-Nếu xẩy ra đụng độ gì thì tình hình thế nào ? Giờ ta có ngồi đây mà bàn tổ chức đại hội Đảng được không ? ( NGUYỄN PHÚ TRỌNG )

-Trung Quốc là người bạn láng giềng lớn, muôn hay không cũng phải ăn đời, ở kiếp với nhau. Có ai chọn được láng giềng đâu ? ( NGUYỄN PHÚ TRỌNG )

-Ta và Trung Quốc cần tình hữu nghị, hợp tác, đoàn kết để hai dân tộc cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội ( NGUYỄN SINH HÙNG , cựu chủ tịch Quốc hội )

-Việc nước bạn Trung Quốc xâm phạm lãnh thổ ta, rồi đâm tầu, cắt cáp…Thực chất của vấn đề là, đó là cách hành xử của bố mẹ dạy con mình. Yêu cho con, cho vọt..Vậy sao phải bất bình ? ( NGUYỄN DUY CHIẾN, Phó Chủ tịch Ủy ban Biên Giới )

-Nhiều lần ta cũng nghĩ tới việc lấy lại ( Hoàng Sa ), nhưng trong lúc này chưa thể lấy lại được. Để đời con cháu chúng ta lấy lại .Trung Quốc bây giờ họ cũng như bất khà xâm phạm rồi. ( Thượng Tướng HUỲNH NGỌC SƠN , cựu phó chủ tịch Quốc Hội )

-Trung Quốc là anh, VN là em. Đánh Trung Quốc là hỗn ( Sư quốc doanh THÍCH CHÂN QUANG )

-Quan điểm giữa VN và nước bạn láng giềng TQ về tổng thể, trên các mặt, đang phát triển tốt đẹp. Chỉ còn vấn đề tranh chấp chủ quyền trên biển Đông ( PHÙNG QUANG THANH )

-Ta thế này thì bà con thấy ta ăn thua với họ sao được. Ai tài giỏi thì thử ra đó chỉ huy xem có thắng không ( Thượng Tướng HUỲNH NGỌC SƠN )

-Đối với TQ , hai điều ta không nên quên : họ đã từng xâm lược chúng ta nhưng không được quên họ đã nhường cơm xẻ áo cho chúng ta. Ta không thể là người vô ân bội nghĩa. ( Đại tá TRẦN QUANG THANH, Học viện Chính trị, Bộ Quốc Phòng )

-Trung Quốc không sợ bất kỳ quân đội nào trên thế giới. TQ chỉ sợ quân đội của đảng CSVN. Bọn đòi đa đảng là nhằm xóa sổ đảng CSVN . Trung Quốc không mong gì hơn là VN có đa đảng, vì ngay khi bọn đa đảng xóa sổ đảng CSVN, Trung Quốc sẽ xua quân đánh chiếm toàn cõi VN trong tám giờ làm việc (Đại biểu Quốc Hội HOÀNG XUÂN PHƯỚC )

-Không được mất chủ quyền, nhưng ưu tiên là giữ được môi trường hòa bình ( với Trung Quốc ) 
( Đại tá TRẦN QUANG THANH )

————————————————————————————

-Vấn đề nô lệ tùy thuộc trước tiên người nô lệ. Khi người nô lệ không còn là nô lệ trong tâm trí, họ sẽ thoát khỏi ách nô lệ ( Le problème de l’esclavage concerne, en premier lieu, l’esclave lui-même. Le jour où l’esclave cessera d’être esclave par esprit, il sera débarassé de l’esclavage. GOTSÉ DELTCHEV )

– Sự thụ động của người nô lệ có cái gì giống như cái lạnh lùng, u mê của người làm đĩ. ( La passivité de l’esclave a quelque chose qui ressemble à la froideur et à l’abbrutissement de la prostitution. GEORGE SAND )               

Ý kiến về ‘Người Cày Có Ruộng’

From facebook:    Trần Bang‘s post 
 
cải cách điền địa của VNCH (miền Nam trước 30-4-1975) có khác ” cải cách ruộng đất- đấu tố” của VNDCCH (ở miền Bắc, 1953-1956) ?

BBC: Từ ngày lập quốc, tổ tiên ta đã để ý tới việc phân chia ruộng đất, làm sao cho đa số người dân được chia sẽ đất đai. Tới năm 207 trước Tây nguyên ( công Nguyên), theo phép tỉnh điền của Tầu, Triệu Đà đã phân chia đất đai: mỗi mảnh đất được chia làm 9 lô: lô ở giữa thuộc công điền, còn lại thì phân chia cho 8 gia đình, họp lại là một “tỉnh” (tsing).

Dần dần, vua chia cho mỗi thanh niên 100 mẫu (‘meou’) tương đương 3,600 mét vuông để canh tác. Khi tới 60 tuổi thì phải trả lại để chia cho người khác. Nhờ không có tích lũy đất đai nên sự cách biệt giầu nghèo không quá lớn, công bình xã hội thời ấy đã tiến bộ xa hơn ở nhiều quốc gia khác.

Đến đời vua Trần Thuận Tôn (năm 1388) thì có chiếu ấn định không người dân nào được sở hữu quá 10 mẫu. Dưới triều Nguyễn, các vua Gia Long, Minh Mạng đều làm luật cải cách điền địa. Nổi tiếng là Sứ thần đặc trách Phát triển Nông thôn tên là Nguyễn Công Trứ, ông có công lớn biến đổi vùng đất hoang vu miền duyên hải gồm Ninh Bình, Nam định, Hải Dương thành đất canh tác và phân chia cho nông dân (trong đó có gia đình của tác giả).

Thời Đệ Nhất Cộng Hòa
Tổng thống Ngô Đình Diệm cố gắng cải cách ruộng đất trong điều kiện chính trị, kinh tế thật khó khăn vào lúc mới thành lập nền Cộng Hòa. Ông đã mạnh dạn ký Dụ số 57 (tháng 10, 1956) nhằm khởi sự một cuộc cách mạng ruộng đất, nhắm vào nhiều lãnh vực: cải tổ quy chế tá điền, khai khẩn ruộng đất bỏ hoang, dinh điền, để cho dân khai thác; khuyến khích chủ điền tự ý phân chia điền sản để bán cho tá điền rồi chính phủ giúp nông dân tín dụng để mua đất. Thành quả của bước đầu đang được gặt hái trong “Năm Năm Vàng Son” (Xem Chương 13, Khi Đồng Minh Nhảy Vào) thì ông bị sát hại năm 1963. Trong hai năm tiếp theo, tình hình chính trị Miền Nam thật nhiễu nhương, làm mất đi cái đà của những tiến bộ kinh tế và xã hội, trong đó có sự dán đoạn của công cuộc cải cách điền địa.

Thời Đệ Nhị Cộng Hòa
Vừa lên chức Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, Tướng Thiệu ký ngay Sắc Luật 020/65 ngày 8 tháng 10, 1965 để sửa đổi Dụ 57, “cấp quyền sở hữu thiệt thọ cho nông dân mua ruộng truất hữu.” Cùng một ngày vào năm sau, ông ký Sắc Luật số 021/66 “cấp quyền thực trưng vô thường trên những sở đất thuộc công sản Quốc gia tại các Dinh điền và Trại định cư cho những người đang thực sự khai khẩn.” (Chúng tôi may mắn sưu tầm được bản gốc của cả hai sắc luật này và in trong cuốn Tâm Tư TT Thiệu, trang 472-473).
Trong một chuyến đi Miền Tây vào tháng 2, 1966, ông tuyên bố ở Ba Tri (tỉnh Bến Tre) là ông không đồng ý với việc chính phủ cứ khư khư giữ đất lại. Ông tuyên bố: “Đất đai phải thuộc về người trồng cấy.” Chương trình được đại sứ Mỹ Bunker hết sức ủng hộ.
….

Ý kiến nói đạo luật về “Người Cày Có Ruộng” và kết quả cải cách điền địa là một điểm sáng chói trong sự nghiệp lãnh đạo của cố tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
 
BBC.COM|BY BBC NEWS

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VỚI KHUÔN MẶT NGƯỜI

+From facebook::  Dang Tuong‘s post. 
 
 
No automatic alt text available.
Dang Tuong

 

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VỚI KHUÔN MẶT NGƯỜI
(Socialism with a human face)

Ngày 20/8/1968 phong trào “Spring Praha” ở Tiệp khắc bị dẹp tan bằng xe tăng và quân đội Liên Xô.

Năm 1987, khi bị hỏi về sự khác biệt giữa “Spring Praha” của Dubcek và “Perestroika” của Gorbachev, Bộ Ngoại Giao Liên Xô trả lời bằng một con số: “19 năm”!
*

Đầu thập niên 1960, sau 12 năm theo chế độ cộng sản Stalin, nền kinh tế Tiệp Khắc suy sụp, những người cầm quyền cộng sản đã tìm cách cải tổ kinh tế và nới lỏng các kiểm soát chính trị.

1968, tiến trình cải cách đã dẫn tới cao trào “Mùa Xuân Praha” (the Prague Spring) do Alexander Dubcek, một lãnh đạo cộng sản cấp tiến lãnh đạo. 
Ông công bố chương trình cải tiến mang tên “Xã Hội Chủ Nghĩa Với Bộ Mặt Con Người” (Socialism with a human face). 
Trong thời gian 8 tháng dễ thở này (01/1968 – 20/8/1968), Dubcek là hình ảnh của hy vọng cho người dân Tiệp Khắc.

Brezhnev, coi các cải tiến tại Tiệp Khắc là “quá nguy hiểm” cho thể chế cộng sản, nên tháng 8/1968 đã xua 500.000 quân với đông đảo xe tăng tràn vào Tiệp Khắc, đàn áp phong trào “Mùa Xuân Praha”. Ngày 20/8/1968 lãnh tụ Dubcek bị bắt giải về Liên Xô. Phong trào bị dìm chết. Tất cả những ai có khuynh hướng cải tiến đều bị thanh trừng, dân chúng sống thu mình lại để được an toàn. 
***

Đúng 20 năm sau, ngày 21-8-1988 trước sự ngỡ ngàng của công an và nhà cầm quyền, 20.000 người đã xuống đường chống lại chế độ cộng sản, đòi dân chủ hoá thể chế. 
Đây là cuộc phản kháng lớn nhất kể từ năm 1969. Cảnh sát đã dùng hơi cay để giải tán và bắt giữ 400 người.

Vài tháng sau, từ 15 đến 20/1/1989
một cuộc biểu tình lớn lại nổ ra ở Prague. Cảnh sát dùng dùi cui, hơi cay, vòi nước và chó dữ để dẹp biểu tình. Nhiều nhà bất đồng chính kiến bị tuyên án.

Lại vài tháng sau, ngày 01/5 hơn 2.000 thanh niên lại xuống đường đòi dân chủ và cũng bị đàn áp.

Ngày 17/5, 35.000 người bất đồng chính kiến đã ký tên vào một thỉnh nguyện thư yêu cầu phải “Thay Đổi Tận Gốc Không Khí Xã Hội Và Chính Trị”.

Sau đó tại Prague càng về sau càng dồn dập nổ ra các đợt biểu tình lớn (28-8, 17-11, 20-11, 27-11-1989).

Ngày 29/11, áp lực của dân chúng lớn đến mức chính quyền cộng sản buộc phải công nhận hủy bỏ quyền lãnh đạo.

Ngày 29/12/1989, Liên Bang Cộng Hoà Czech-Slovakia được chính thức thành lập, điều mà lẽ ra người Tiệp đã làm được từ 21 năm trước!

Theo Văn Lang

Cao ủy Nhân quyền LHQ kêu gọi Việt Nam xét lại vụ án tử hình và bắt giam người chỉ trích chính phủ

Cao ủy Nhân quyền LHQ kêu gọi Việt Nam xét lại vụ án tử hình và bắt giam người chỉ trích chính phủ

#GNsP – Trong phiên họp lần thứ 36 của Hội đồng Nhân quyền khai mạc vào hôm 11/9, Cao ủy Nhân quyền LHQ Zeid Ra’ad Al Hussein đã có bài phát biểu cập nhật về tình hình nhân quyền đáng quan ngại ở 40 quốc gia cho Hội đồng Nhân quyền LHQ, trong đó có Việt Nam.

Tại phiên họp, Cao ủy nhân quyền LHQ kêu gọi Việt Nam xem xét lại các bản án tử hình về các tội phạm ma túy. Ông cho biết tội phạm ma tuý không được cơ chế nhân quyền coi là “tội phạm nghiêm trọng nhất” để phải chịu hình phạt tử hình theo luật quốc tế.

“Tội phạm nghiêm trọng nhất” theo như điều 6 của Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị, thì chỉ có duy nhất là tội phạm Giết người. Quy định này cũng đã loại trừ án tử hình về các loại tội phạm liên quan đến ma túy hoặc kinh tế.

Cho đến gần đây, người dân Việt Nam không được phép biết số người bị hành quyết mỗi năm, nhưng báo cáo gần đây của Bộ Công an cho biết đã hành quyết 429 người trong khoảng thời gian từ tháng 8/2013 đến tháng 6/2016.

Qua bài phát biểu, Cao ủy Nhân quyền cũng lưu ý rằng những người Việt Nam có bất kỳ hình thức nào công khai chỉ trích chính phủ hoặc những người tìm cách huy động người khác phải đối mặt với nguy cơ bị giam giữ và bị kết án tù là trái với các tiêu chuẩn nhân quyền.

Phạm Lê Vương Các

Mời xem toàn văn bài phát biểu của Cao ủy Nhân quyền tại:
http://www.ohchr.org/EN/NewsEvents/Pages/DisplayNews.aspx…

Tác phẩm Mối Chúa của nhà văn Tạ Duy Anh bị cấm phát hành

Tác phẩm Mối Chúa của nhà văn Tạ Duy Anh bị cấm phát hành

2017-09-22
 

Bìa quyển tiểu thuyết Mối Chúa của nhà văn Tạ Duy Anh.

Bìa quyển tiểu thuyết Mối Chúa của nhà văn Tạ Duy Anh.

 Ảnh chụp màn hình.
 

Tác phẩm Mối Chúa của nhà văn Tạ Duy Anh bị cấm phát hành. Đây được cho là tác phẩm văn học đầu tiên viết về người dân bị lấy đất một cách phi pháp tại Việt Nam lâu nay.

Công văn do ông Chu Văn Hòa, Cục trưởng Cục xuất bản in và phát hành, thuộc Bộ Thông tin và truyền thông, ký vào trung tuần tháng 9  gửi đến Nhà xuất bản Hội nhà văn yêu cầu đình chỉ việc phát hành quyển sách vừa nêu.

Theo trình bày của ông Chu Văn Hòa thì tác phẩm Mối Chúa đã mô tả xã hội và hệ thống cầm quyền từ thấp đến cao như là một hệ thống đen tối, tham lam và tàn nhẫn, trong đó nêu lên chuyện cưỡng chế đất đai của nông dân như là một lực lượng thù địch.

Theo trang Facebook của Luật sư Trần Vũ Hải, quyển sách Mối Chúa của nhà văn Tạ Duy Anh, với bút danh Đãng Khấu đã được Nhà xuất bản Hội nhà văn Việt Nam phối hợp với Công ty văn hóa Nhã Nam xuất bản, nhưng nay bị dừng phát hành.

Một số cư dân mạng cho rằng họ đang tìm cách để đọc được tác phẩm bị cấm phát hành như vừa nêu.

Chiến tranh Việt Nam. Đại lộ kinh hoàng.

From facebook:  Hung Tran

Chiến tranh Việt Nam.

Đại lộ kinh hoàng.

Nói đến chuyện đất nước biết bao nhiêu địa danh: nào là Nhan Biều, Cầu Ga, Ái Tử, Mai Lĩnh, Cầu Dài. Rồi đến biết bao nhiêu con sông, bao nhiêu rạch nước. Âm thanh đất Quảng của người dân chân chỉ hạt bột, vòng qua quay lại để sau cùng trở về với cái ngày cả gia đình bỏ Nhan Biều mà đi.

Ông Châu nói rằng, lúc đó dường như mọi người đã chạy hết. Phan văn Châu là trung sĩ thông dịch viên cho ngành tình báo tại Ðà Nẵng đang đi công tác về Ái tử.

Ðến khi thiên hạ bỏ chạy hết, thầy thông ngôn trẻ tuổi mặc đồ dân sự cùng một đứa cháu, dẫn vợ có bầu với ba đứa con nhỏ, năm một, 6, 7, và 8 tuổi. Tất cả vội vàng ra đi bỏ lại phía sau căn nhà mới cất tại Nhan Biều bên bờ bắc của sông Thạch Hãn.

Vợ con đi trước một đoạn với gia đình bà chị. Thằng cháu và ông Châu đi xe gắn máy kéo theo một chiếc xe gỗ hai bánh. Hành trang chất đầy, người kéo, người đẩy, chiếc xe qua khỏi cầu Ga, đi được một đoạn dài đến 9 giờ sáng thì pháo nổ ngay trên đường. Con đường đầy người chạy loạn. Cả dân cả lính với đủ mọi thứ xe. Ða số đi bộ vì đường tắc nghẽn nên không thể đi nhanh. Ðạn rơi chỗ nào cũng có người chết. Xác bắn tung lên trời. Khói lửa mù mịt. Mạnh ai nấy chạy. Vợ con thất lạc ngay từ lúc đó. Ông Châu nghĩ rằng vợ con có thể đang ở phía trước. Nhưng phía trước hay phía sau thì cũng bị pháo. Khi pháo tạm ngưng thì có người lại tràn ra đi tới. Nhưng phần lớn nằm yên chịu trận. Có nhiều người không chết ở đợt pháo đầu nhưng rồi bị chết ở các đợt pháo sau. Nhiều xác chết trên đường bị pháo đi pháo lại nhiều lần. Bị thương rồi lại bị pháo rồi cũng chết. Biết bao nhiều người cố chạy cho thoát bỏ lại cả gia đình vợ con. Những đứa nhỏ nằm khóc bên xác mẹ. Những em bé sơ sinh bú vú mẹ đã lạnh khô. Có người còn sống thấy đó mà phải bỏ đi. Ông Châu và đứa cháu chạy về phía đông quốc lộ, vùi thây xuống cát mà chịu đựng một ngày pháo kích. Ðủ loại pháo của cộng sản thay phiên bắn phá suốt một ngày dài. Pháo 122, pháo 130 và pháo 155. Chỉ khi nào có B52 đến thả bom mới thấy địch im tiếng súng được một lúc. Toàn thân ông tê liệt dưới trời nắng gắt. Phải bò đến các vũng nước có cả phân trâu và máu người để uống.

Khi trời tối dần, tất cả đều im lặng và ghê sợ. Ông Châu và đứa cháu bắt đầu bò quanh lật các xác chết đàn bà và trẻ em lên xem có phải vợ con. Lật một xác phụ nữ mà ông nghĩ rằng người vợ, đầu óc ông mê muội. Thằng cháu còn tỉnh táo nói rằng không phải mợ. Mợ có bụng mà cậu. Mấy người khác còn sống cũng làm như vậy. Tất cả đi tìm xác thân nhân. Nhưng rồi trời tối hẳn, bộ đội Việt Cộng bắt đầu xuất hiện. Chúng tìm đến các xe nhà binh và tìm các quân nhân mặc quân phục bắt đi hết. Cậu cháu ông Châu khai là dân thường nên được lệnh phải nằm yên tại chỗ. Ðêm hôm đó, ông Châu thức trắng trên bãi cát đẫm máu của Ðại lộ Kinh Hoàng. Hình như có đôi lúc ông cũng thiếp đi. Cũng chẳng còn nhớ rõ.

Chung quanh toàn xác chết. Người chết nhiều hơn người sống. Những xác chết cháy như than củi . Ông nghĩ rằng chắc xác vợ con cũng quanh đây. Sáng hôm sau, từ sớm mai những người còn sống đành phải bỏ lại một cánh đồng xác ở đằng sau để chạy về miền Nam. Ði đến cầu Dài gần sông Mỹ Chánh thì gặp toán tiền sát của thủy quân lục chiến Việt nam chận lại. Khi biết chắc là không phải quân địch, ông trung úy thủy quân lục chiến phất tay cho qua. Vừa đi khỏi một đoạn đường thì thấy ông sĩ quan bị du kích phía sau bắn sẻ chết ngay tại chổ. Ðó là cái chết cuối cùng ông chứng kiến tại Quảng Trị.

Tìm xe quá giang về Huế với tâm trạng hết sức não nề. Nhưng rồi phép lạ đầu tiên đến với cuộc đời ông. Ngay tại khu vực tạm cư Phú văn Lâu, thuộc thành phố Huế, ông gặp lại đầy đủ vợ con. Bà vợ mang bầu đã dẫn ba đứa con nhỏ đi xuống đường ven biển theo dân địa phương. Ðoàn người đi xa quốc lộ nên tránh được pháo kích.

Vợ con dắt díu nhau đi suốt một ngày một đêm về đến Mỹ Chánh, rồi được xe cho bà bầu quá giang về Huế. Hai năm sau người vợ đầu tiên của ông Châu qua đời, sau khi sinh cho ông thêm ba ngưới con nữa. Cô gái còn nằm trong bụng mẹ trên đại lộ kinh hoàng năm nay đúng 37 tuổi, tốt nghiệp đại học và đã có gia đình, hiện cư ngụ tại miền đông Hoa kỳ.

Giao Chỉ

Phim Vietnam War.

Phim Vietnam War.

  Trong công việc sưu tầm tài liệu cho Việt Museum, chúng tôi phải xem và đọc biết bao nhiêu tài liệu, đặc biệt phim về chiến tranh Việt Nam. Hết sức đau lòng. Xem bộ phim Vietnam War mới đây lại thêm đau lòng. Vẫn hiểu rằng đây là phim của người Mỹ làm cho khán giả Mỹ. Không phải dành cho người Mỹ gốc Việt. Tôi viết bài nhận xét sau đây, đã phổ biến nhưng phần lớn không đến tay các bạn. Xin gửi lại thêm một lần nữa. Nếu nhận được xin vui lòng cho biết. Cảm ơn.

Phim tài liVietnam War  

Cuc thm bi tái din

Giao Ch, San Jose

  

blank

Tin tức thời sự chính trị nước Mỹ vẫn tràn ngập trên diễn đàn truyền thông. Thiên tai vừa trải qua với cuồng phong và mưa bão tại miền Đông Nam Hoa Kỳ rồi tiếp đến động đất Mễ Tây Cơ. Bộ phim 10 tập 18 giờ do hai nhà làm phim Ken Burns và Lynn Novick bỏra mười năm với 30 triệu mỹ kim mới hoàn tất vẫn làm xôn xao dưluận. Phần lớn các nhà bình luận, các chính khách và nhân vật cộng đồng Hoa Kỳ đều hết lòng khen ngợi. Riêng phần chúng tôi có nhận định khác biệt. Là quân nhân của phe bại trận với niềm đau thương gặm nhấm suốt cuộc đời. Mất nước là mất tất cả. Một lần bại trận và phải đào thoát ngay trên quê hương. Từ đó thấy lại biết bao lần thảm bại tái diễn trên phim ảnh, làm sao mà vui mừng khi nhìn lại vết thương. Sau 42 năm phe tự do thua trận, với bộ phim công phu phổ biến năm nay, cuộc thảm bại trên chiến trường Việt Nam lại một lần nữa tái diễn. Xin có đôi lời đóng góp ý kiến như sau.         
                                            

 1) Vẫn hình ảnh đau thương cũ:  
Các nhà làm phim mới đã soạn lại tài liệu cũ. Thêm tài liệu sưu tầm trong thập niên qua. Cắt ráp và bình luận công phu, nhạc đệm xuất sắc. Phỏng vấn khoảng 100 người trong đó có chừng 30 nhân vật từ cả hai phía quốc cộng Nam Bắc Việt Nam. Đặc biệt có những hình ảnh và lời bình luận khen chê cả hai bên. Lần đầu tiên có đề cập đến vai trò của chiến binh Việt Nam Cộng Hòa cũng như vụ Việt cộng thảm sát Mậu Thân. Nhưng sau cùng khán giả của thế hệ hôm nay thuộc thế kỷ21 đều thấy rằng những nhà làm phim đã gián tiếp xác định sựchiến thắng của Cộng sản Việt Nam là hữu lý và tất yếu. Hình ảnh sau cùng vẫn là một dân tộc chống ngoại xâm và thống nhất đất nước. Dù hy sinh bao nhiêu họ cũng vẫn khoác danh hiệu chống Pháp xâm lược, chiến thắng trận Điện Biên thần thánh. Dủ chết thêm bao nhiêu cũng giữ được hào quang đánh Mỹ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bốn mươi năm sau chiến tranh, Hoa Kỳ vẫn còn vẳng nghe tiếng hô vang của hàng triệu thành viên phản chiến. Thế hệ Hoa Kỳ ngày nay làm sao hiểu được những khúc mắc phức tạp của cuộc chiến tranh Quốc Cộng. Trong lãnh vực truyền thông, hình ảnh sống động vẫn có khả năng thuyết phục hơn cảngàn lời nói. Một bên là chiến binh đồng minh dù là lính Pháp, lính Mỹ hay chiến binh miền Nam mặc quân phục, trang bị đầy đủ được yểm trợ bằng phi pháo hùng mạnh. Phía bên địch toàn là hình ảnh nữ dân quân, vũ khí thô sơ, chân dép áo nâu quyết tâm chiến đấu. Phe ta thua trên từng thước phim. Hình ảnh hàng ngũ lãnh đạo miền Bắc. Ốm yếu khắc khổ, cuộc sống thanh đạm và ý chí chiến đấu mãnh liệt. Tất cả đều đã vào tù ra khám. Trong khi đó phe ta là hình ánh quan lại, xiêm áo lịch sự, xa cách quần chúng, không chứng tỏ được tinh thần hy sinh cho dân và quyết tâm bảo vệ đất nước. Hình ảnh vị tướng VNCH đích thân lạnh lùng xử bắn tù binh trước ống kính của báo chí quốc tế, hình em bé trần truồng chạy bom. Những bức hình đã mang danh hiệu biểu tượng đau thương của cả thế kỷ. Và rất nhiều hình ảnh sẵn có phô diễn những sai lầm dã man của phe ta mà không có chứng tích tội ác của đối phương. Không thể nào có đủ lời lẽđể giải thích nguồn cơn. Dù 40 năm trước hay bốn mươi năm sau, một lần nữa chúng ta thua trận trên từng thước phim.

 2) Không th tranh lun được vi s thành công.  
Chúng ta phải chấp nhận rằng phe cộng sản đã chiến thắng phe tự do trong cuộc chiến Việt Nam. Hoa Kỳ từ tổng thống Johnson thực sự đã từng quyết tâm chiến thắng. Sau vụ hỏa mù trên Vịnh Bắc Việt, quốc hội Hoa Kỳ đã biểu quyết đồng thuận cho tổng thống toàn quyền. Nhưng sau cùng ý chí của chính phủ Mỹ thua ý chí của phe cộng sản. Nga, Tàu và Việt cộng không hề nao núng. Phong trào phản chiến đánh gục ý chí của chính phủ Hoa Kỳ. Mỹ thua trận ngay từ trong lòng dân chúng quốc nội.. Tiếp theo chính thức thua trận trên giấy tờ ký hiệp định Paris 1973. Sau cũng là cuộc bỏ chạy cùng Việt Nam Cộng Hòa trên nóc tòa đại sứ. Trong chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ đã thua hết sức cay đắng, nhưng vẫn còn vượt qua được vì đây chỉ là một chiến dịch trong chiều dài của lịch sử Hoa kỳ. Đối với Mỹ, Việt Nam chỉ là một mặt trận. Một cuộc chiến. Thế giới Tự do thua trong một cuộc chiến nhưng 20 năm sau đã toàn thắng khi liên bang Sô viết xụp đổ tại Nga. Với Nam Việt Nam năm 1972 thắng trận Bình Long, Kon Tum và lấy lại được Quảng Trị. Nhưng thua trận 75 là mất tất cả. Dù sau này một lần hay là 10 lần cờ đỏ phải hạ xuống ở điện Cẩm Linh thì Việt Nam Cộng Hoà cũng đã mất tất cả. Bao nhiêu sự hy sinh trong 21 năm chiến đấu và xây dựng 2 nền cộng hòa của miền Nam đều đổ ra sông ra biển.
 

3) Vì đâu nên nỗi: 
Phía Hoa Kỳ sai lầm hẳn đã học được bài học chiến tranh Việt Nam. Dù trở thành cơn ác mộng nhưng người Mỹvẫn còn sống. Nam Việt Nam thì hoàn toàn đã chết qua sự sai lầm trong chiến tranh. Đối với miền Nam Việt Nam thì việc thất trận là một thảm kịch vô cùng đau thương, không có điều gì có thể bào chữa ngoài lý do duy nhất là lỗi ở chính chúng ta. Kết quả mất nước là mất tất cả. Lỗi lầm không phải tại đồng minh không quyết tâm, cũng không phải bởi kẻ thù quá mạnh. Lỗi lầm là lãnh đạo ta không đủ sức vượt qua những khó khăn lớn lao và toàn dân không được vận động để quyết tâm tham chiến. Trong cuộc chiến 2 thập niên, trong khi miền Bắc vận dụng toàn dân tấn công thì miền Nam chỉ xử dụng được một phần rất nhỏ để tự vệ. Lãnh đạo lè phè và dân chúng thờ ơ.  Tất cả tùy thuộc vào Hoa Kỳ. Mỹ trực tiếp tham chiến đã cứu Việt Nam nhưng đồng thời cũng làm mất Việt Nam.Việt Nam mất khả năng tự chủ. Không dùng hết khả năng vào công việc phòng thủ. Không vận động được dư luận thế giới và đồng minh. Bị đồng minh Hoa Kỳ và thế giới bỏ rơi và chính nhân dân miền Nam cũng bỏ rơi cuộc chiến. Cho đến khi cả chính quyền và nhân dân miền Nam mất nước mới biết là mất tất cả. 
 

4) Nhng cuc chiến sau chiến tranh.  
Khi miền Bắc chiếm được miền Nam, hàng trăm ngàn chiến binh bị tù đầy, hàng triệu người miền Nam trở thành dân “Ngụy.” Lúc đó mới bừng tỉnh và tham dự vào hai cuộc chiến sau chiến tranh.  Cuộc chiến trong tủ đầy chiến đấu để tồn tại, và không bị khuất phục. Cuộc chiến của người dân bên ngoài tiếp tục chịu đựng phấn đấu đểnuôi tù và toàn dân tìm đường vượt thoát. Trong chiến tranh, hàng trăm ngàn chiến binh cộng sản đã được miền Nam Chiêu Hồi. Sau cuộc chiến, hàng trăm ngàn chiến binh VNCH bị tù đầy. Dù bịtuyên truyền và bỏ mặc đói rét. Dù bị hành hạ lao động khổ sai. Dù tuyệt đường tương lai, vô hy vọng có ngày tự do, nhưng tuyệt nhiên không hề đầu hàng cộng sản. Không một ai trở thành cộng sản. Đó là chiến thắng sau chiến tranh.Trong chiến tranh, đa sốdân miền Nam vẫn sống trong thanh bình tại các đô thị. Sau chiến tranh bắt đầu cuộc sống phải chiếu đấu khi được kẻ thù “Giải phóng” Đây là lúc toàn dân miền Nam tham gia chiến dịch chiến đấu để đào thoát. Cuộc chiến dành cho tất cả mọi người tham dự. Người già, em bé. Nam phụ lão ấu cùng tìm đường vượt biên. Đàn bà có bầu và trẻ sơ sinh. Tu sĩ và thầy chùa. Các nông dân và các giáo sư, bác sĩ. Trên đường tìm tự do đã hy sinh hàng trăm ngàn người. Tù đầy, sóng gió và hải tặc. Mọi người dù thất bại năm mười lần vẫn tiếp tục lên đường. Đó là cuộc chiến sau chiến tranh.
 

5) Ý nghĩa ca chiến thng:      
Kết quả ngày nay phe chiến thắng trở thành lũ độc tài đảng trị trăm lần tham nhũng, bất công. Kết quả ngày nay sau khi cả ngàn ngôi mộ hoang nằm lại trên các trại tù cải tạo và hàng trăm ngàn người vượt biên nằm dưới đáy biển. Đây mới là lúc luận bàn thắng bại trong chiến tranh Việt Nam. Nếu ngày nay, sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam trởthành quốc gia dân chủ tự do không cộng sản. Việt Nam trở thành một con rồng châu Á như Nam Hàn, Singapore, Hồng Kông, Đài Loan..Dân Việt Nam từ Bắc vào Nam đều sống trong tự đó hạnh phúc. Dân trí mở mang, các tệ trạng xã hội được giải quyết. Không kỳ thị về chính trị và tôn giáo. Không quá cách biệt giầu nghèo. Người dân Việt được kính trọng trên 5 châu 4 bể.  Được như vậy thì sự thất bại của Nam Việt Nam cũng là chuyện đáng cam chịu. Được như vậy thì cuộc chiến thắng của miền Bắc mới là điều cho Hoa Kỳ và chúng ta cần học hỏi. Nhưng Việt Nam ngày nay là nước độc tài đảng trị, tham nhũng và bị cả thế giới coi thường. Cuộc chiến thắng do đó trở thành vô nghĩa. Mọi hy sinh của người miền Bắc đều trởnên vô nghĩa. Và những tổn thất của miền Nam cũng như sự hy sinh của Hoa Kỳ vẫn muôn đời là những ghi dấu vô cùng cay đắng. Không, chúng ta không thể kết luận là Hoa Kỳ đã chiến thắng trong chiến tranh Việt Nam. Chỉ có thể nhận định rằng Miền Bắc đã chiến thắng trong một cuộc chiến nhưng không đem lại hạnh phúc cho toàn dân.

Riêng tại Hoa Kỳ, không có ai làm phim chiến thắng cho những người bại trận. Không bao giờ có vòng hoa cho người chiến bại. Sau chiến tranh Đông Dương, đại diện Khmer Đỏ với bàn tay diệt chủng giết cả triệu dân bước vào diễn đàn Liên Hiệp Quốc với những tiếng vỗ tay vang dội. Tiếp theo, tiếng vỗ tay lại vang dội nhiều hơn khi đại diện Hà Nội trở thành hội viên chính thức với thành tích đánh thắng 2 đế quốc Pháp và Mỹ. Sau gần nửa thế kỷ, dù thiên đàng Sô Viết đã tan rã, Việt Nam thống nhất đã biến hình ảnh những người nữ dân quân anh hùng trở thành nạn nhân nô lệ tình dục khắp Đông Nam Á. Trong chiến tranh, dù ở bên này hay bên kia, chỉ những người chết mới là người thua cuộc. Nhân chứng không phải là sự thực. Lời bình luận không phài là sự thực và ngay cả những thước phim cũng không phải là sự thực. Dù là phim tài liệu Vietnam War trị giá 30 triệu mỹ kim, 10 năm sưu tầm kéo dài 18 giờ qua 10 phim tập. Sự thực đã chôn vùi cùng những người lính trẻ ở cả hai bên chiến tuyến.

—   

Giao Chi San Jose.   giaochi12@gmail.com  (408) 316 8393

CHA ĐẺ CỦA “ĐẠI LỘ KINH HOÀNG”

CHA ĐẺ CỦA “ĐẠI LỘ KINH HOÀNG”

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Đài tưởng niệm 1.841 nạn nhân chết trên ĐLKH do báo Sóng Thần xây dựng năm 1972

Khoảng thời gian sau khi Hiệp định Paris có hiệu lực (ngày 27/01/1973) đến ngày thành phố Huế thất thủ (26/03/1975), hành khách từ Huế đi ra Bắc, khi vừa qua khỏi cầu Bến Đá ở vị trí cách Hà Nội 784 km, bên tay trái Quốc Lộ 1 thấy tấm bảng lớn độ 2 mét x 5 mét, sơn màu vàng, kẻ bốn chữ “Đại Lộ Kinh Hoàng” đỏ tươi màu máu.

Bên dưới góc phải có thêm 5 chữ nhỏ hơn, màu đen: “Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu”. Chắc chắn lúc bấy giờ, ngồi tại dinh Độc Lập trên cao ngất trời xanh – trong tình hình vi phạm ngưng bắn xảy ra khắp nơi, với việc Mỹ cuốn cờ, với các mặt trận ở Thường Đức (Quảng Nam), ở Phước Long, quân viện bị cắt, xăng không đủ cho máy bay yểm trợ phi pháo, đạn không có cho binh sĩ hành quân có hiệu quả – tổng thống Thiệu chẳng còn lòng dạ nào để đặt tên cho một đoạn quốc lộ 1, không quá 10 cây số, nằm lọt giữa con sông Bến Đá và sông Nhung bé tí trên bản đồ như thế, mà chỉ là tác phẩm của công chức phục vụ ở Ty Thông tin & Chiêu hồi tỉnh Quảng Trị, cố lấy chữ nhét vào miệng tổng thống. Dứt khoát, Nguyễn Văn Thiệu không là kẻ nặn từ đầu ra cái tên không mấy an lành và thanh tao ấy.

Sau khi đánh được thành, phá được địch và chiếm được đất, mặc dù chưa thắng được lòng dân, nhưng vào năm 1999, Bộ Quốc phòng cộng sản đã xuất bản cuốn “55 năm Quân đội Nhân dân Việt Nam” trong đó, ở phần đề cập đến chiến dịch tiến công Trị Thiên vào thời điểm Mùa Hè Đỏ Lửa ở Quảng Trị từ 30/03 đến 27/06/1972, Viện Lịch sử Quân sự chỉ viết ngắn gọn ở trang 324, với 219 chữ:

Tư lệnh: Thiếu tướng Lê Trọng Tấn. Chính ủy: Thiếu tướng Lê Quang Đạo. Lực lượng tham gia chiến dịch: ba sư đoàn bộ binh (304, 308, 324) và hai trung đoàn độc lập, hai sư đoàn phòng không hỗn hợp (366, 377) gồm tám trung đoàn pháo cao xạ, hai trung đoàn tên lửa, chín trung đoàn pháo mặt đất, hai trung đoàn xe tăng thiết giáp, hai trung đoàn công binh và 16 tiểu đoàn đặc công, thông tin, vận tải.

Từ 30/03 đến 5/04, ta phá vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài, giải phóng hai huyện Gio Linh, Cam Lộ, buộc địch phải rút khỏi tuyến phòng thủ đường số 9. Từ 10/04 đến 2/05, bộ đội ta tiếp tục thọc sâu, chia cắt, diệt từng tập đoàn quân địch phòng ngự ở Đông Hà, Ái Tử, La Vang, giải phóng toàn tỉnh Quảng Trị.Từ 3/05 đến 27/06, các đơn vị củng cố vùng mới giải phóng, đánh địch phản kích.

Sau gần ba tháng chiến đấu liên tục, ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 27.000 tên dịch, phá hủy 636 xe tăng thiết giáp, 1.870 xe quân sự, 419 khẩu pháo, bắn rơi và phá hủy 340 máy bay…, giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị và ba xã thuộc huyện Hương Điền (Thừa Thiên).”

Cầu sắt Bến Đá, nơi NgyThanh bò qua sáng 1-7-1972 và phát hiện gần 2 ngàn xác người

Quay lại khúc phim hãi hùng

Tác phẩm mới nhất có đề cập tới 4 từ “Đại Lộ Kinh Hoàng”, là cuốn “Phóng viên Chiến trường” của hai tác giả Dương Phục & Vũ Thanh Thủy, do nhà xuất bản Tiếng Quê Hương vừa trình làng lần đầu hôm 15/05/2016 tại Houston. Là một phóng viên chiến trường vào sinh ra tử, kinh nghiệm trận mạc, Dương Phục là một trong ba sĩ quan Quân lực VNCH (cùng với thiếu tá Đinh Công Chất và thiếu tá Phạm Huấn), được vinh dự đại diện cho chính phủ và nhân dân miền Nam bay trên chiếc C-130 ra Hà Nội vào đầu năm 1973, trong tư cách là Ủy ban Liên hợp Quân sự 4 bên [Four-Party Joint Military Commission; ghi chú của NgyThanh], để giám sát thủ tục trao trả tù binh Hoa Kỳ từ phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong hồi ký của mình, ở phần nhắc lại “Đại lộ Kinh hoàng”, ký giả Dương Phục viết:

Cuộc di tản hàng chục ngàn người tạo nên một đoàn rồng rắn suốt đoạn đường dài trên Quốc Lộ 1, và không ngờ đã biến họ thành mục tiêu dễ nhắm của bom đạn Việt Cộng.

Không điều gì gây phản tác dụng cho một chiến thắng hơn là cảnh dân chúng lũ lượt quang gánh, bồng bế nhau liều chết chạy trốn đoàn quân chiến thắng. Cộng sản điên cuồng trước chuyện dân chúng bỏ đi nên không ngần ngại làm bất cứ gì để ngăn cản. Với thói quen chỉ biết dùng bạo lực như phương cách duy nhất để áp chế người dân, họ đã dùng đạn pháo như mưa sa để đe dọa, hy vọng níu kéo người dân Quảng Trị ở lại…

… Hành động bỏ phiếu bằng chân đó đã như cái tát vào mặt đoàn quân Cộng sản ở bất cứ cửa ngõ thành phố nào họ đặt chân tới. Cộng quân do đó đã không ngần ngại xả đạn pháo kích thẳng vào đoàn người di tản, từ đoạn Cầu Dài, Diên Sanh, kéo dài đến tận gần cầu Mỹ Chánh. Quân nhân chỉ là thiếu số hướng dẫn đoàn di tản, còn lại đa số là người dân thường, ông già, bà cả, phụ nữ, trẻ em và thương bệnh binh đang nằm điều trị tại các quân y viện.

… Khi Thủy và tôi đến được khu vực này, xác người đã nằm phơi sương dải nắng gần hai tháng trời. Mùi tử khí vẫn nồng nặc trong cơn gió nóng hổi của vùng đất khô cằn như sa mạc. Chúng tôi ngỡ ngàng không hiểu tại sao quá đông người có thể chết gục cùng một lúc khắp nơi như thế. Quan sát kỹ, tôi nhận ra đa số thi thể nạn nhân đều bị hàng ngàn mảnh vụn li ti như đinh vụn từ đầu đạn pháo của Cộng quân. Một viên đạn pháo kích bắn ra, những mẩu đinh vụn sắt lẻm nầy tung bay mọi phía với tốc độ tàn khốc và xuyên thủng cả những thành xe bằng sắt của đoàn quân xa miền Nam. Loại vũ khí nầy đã hạ gục ngay lập tức mọi người, chết sững trong cùng động tác mà họ đang hành xử đúng lúc đạn pháo bay tới.

Chưa bao giờ trong đời chúng tôi thấy nhiều người cùng chết một nơi như vậy… Trái tim tôi quặn thắt trong lòng và Thủy vội làm dấu thánh giá rồi quay mặt sang một bên nôn ọe. Gần chỗ tôi đứng là thi thể một người mẹ tay ôm chặt đứa con trong lòng, đứa nhỏ vẫn đang ngậm bầu vú mẹ. Cả hai mẹ con nằm bất động bên bờ đường quốc lộ như hai hình nộm xám đen của một sân khấu quái đản.

Nếu không tận mắt chứng kiến, khó ai có thể tưởng tượng được quang cảnh kinh khủng như thế nào. Xác người nằm vất vưởng khắp nơi. Đồ đạc và quần áo tung tóe phủ kín mặt đường. Xe hơi, gắn máy, xe đạp, kể cả xe đò, nằm ngổn ngang, lăn lóc. Gồng gánh, bao túi, tan nát tung tóe phơi bày hết mọi thứ bên trong. Tất cả mọi xe cộ, từ quân xa, xe jeep, xe hồng thập tự, đến xe đò, xe tư nhân, đều lởm chởm vết đạn xuyên lủng khắp trên các thành xe.

Có những đoạn không còn một chỗ nào trống cho nhóm báo chí chúng tôi đặt chân bước qua. Thủy, vừa gạt nước mắt ứa ra trên má, vừa thận trọng lò mò dò từng bước chân trên mỗi khúc đường. Chúng tôi phải tìm những cành cây làm gậy chống và nhẹ gạt các mảnh quần áo còng queo sang một bên, để biết chắc là mình đã không dẵm lên các xác người khô khốc sau cả tháng phơi bày sương gió.

Đa số xác người đã rữa nát thịt vì nắng mưa, chỉ còn da bọc lấy xương khô lép kẹp đen sậm như những hình nộm ma quái trong các loại phim kinh dị. Sâu bọ và côn trùng bay túa ra khi gậy của chúng tôi lia trúng những xác người ngổn ngang trên đường đi. Có cả một chiếc xe buýt bị pháo bắn nát đầy lỗ đạn li ti khắp thành xe. Mọi hành khách dường như đều tử thương tức khắc vì mọi người vẫn ngồi gục trong từng vị trí trên băng ghế.

Đại Lộ Kinh Hoàng, do NgyThanh chụp và đặt tên ngày 1-07-1972

 Trách nhiệm của các tướng quân VNCH về cuộc thảm sát trên Đại Lộ Kinh Hoàng

Trước khi miền Nam Việt Nam thất thủ năm 1975, do sự tan rã của Sư đoàn 3 Bộ Binh, dẫn đến biến cố mất toàn bộ tỉnh Quảng Trị vào ngày đầu tháng 5/1972, dư luận và báo chí Sàigòn có khuynh hướng về hùa nhau, chê trách tài lãnh đạo của tướng Vũ Văn Giai, tư lệnh sư đoàn xấu số nầy, và trút hết trách nhiệm, kể cả về nhiều ngàn thường dân bị giết trên đường tản cư, cho ông ấy.

Những ngày sau khi mất Quảng Trị, toàn dân rúng động, dân chúng Huế cũng nhanh chân ùa vào Đà Nẵng, Sàigòn, kéo theo tâm lý sa sút, và tinh thần chiến đấu bị khủng hoảng nơi thân nhân họ. Vào thời điểm ấy, việc cứu vãn các tỉnh miền trung không thể tựa vào các sư đoàn trừ bị thiện chiến như Nhảy Dù, TQLC hay các liên đoàn Biệt Động Quân – vì thực sự các quân số nầy đang vướng tay ở các chiến trường khác trên khắp nước. Tổng tư lệnh quân đội VNCH chỉ còn một thế cờ chót trước khi đầu hàng: một tên tuổi đủ tài thao lược và sạch sẽ để dùng làm liều thuốc cuối cùng. Thật may, ông đã tìm ra, và đã quyết định kịp thời. Ngày 4/05/1972, Trung tướng Ngô Quang Trưởng đang là tư lệnh Quân đoàn 4 ở miền đồng bằng sông Cửu Long nhận lệnh bay ra Đà Nẵng nhận chức tư lệnh Quân đoàn 1, thay tướng Hoàng Xuân Lãm.

Tướng Trưởng là người thanh liêm, ít nói, dám làm. Bằng chứng là ông đã cứu nguy được tình hình, và còn chỉ huy tái chiếm được cổ thành Đinh Công Tráng, và tất cả lãnh thổ tỉnh Quảng Trị nằm ở phía Nam sông Thạch Hãn, rồi lầm lì im lặng. Mãi đến sau khi di tản sang Mỹ, vào thời gian được ban quân sử Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ mời, năm 1980 ông mới viết quyển “The Easter Offensive of 1972”, sau đó được Kiều Công Cự chuyển ngữ thành “Trận Chiến Trong Mùa Phục Sinh Năm 1972” ấn hành vào năm 2007, sau khi ông Trưởng đã qua đời.

Chính tướng Trưởng lên tiếng bạch hóa vai trò của tướng Giai trong các diễn tiến mất Quảng Trị, dẫn đến dân chết thảm trên Đại lộ Kinh Hoàng (ĐLKH). Trong cuốn sách kể trên, tác giả viết:

“… Tướng Lãm đã không quan tâm đến những khó khăn mà tướng Giai gặp phải. Thái độ của ông hoàn toàn lạc quan… Thái độ lạc quan của tướng Lãm lại được thể hiện rõ nét qua biến cố ngày 9/04… Ở thời điểm nầy, trách nhiệm và quyền hạn của tướng Giai đã vượt xa hơn vị trí của một vị tư lệnh sư đoàn. Ông đã chỉ huy 2 trung đoàn BB Cơ hữu (TrĐ 2 và 57), điều động hành quân 2 LĐ/TQLC, 3 LĐ/BĐQ, 1 LĐ/Kỵ binh và những lực lượng diện địa của tỉnh Q. Trị. Như vậy ông ta có đủ quyền hạn trên 9 LĐ bao gồm khoảng 23 tiểu đoàn và những lực lượng diện địa… Nhưng có một điều cần lưu ý ở đây là tướng Lãm không tự cảm thấy vội vàng đến thăm viếng những vị chỉ huy dưới quyền của ông ở tại mặt trận hay những đơn vị tuyến đầu của QĐ1. Ông chỉ nghe thuyết trình về những diễn biến của trận đánh qua các bản báo cáo và ban hành những chỉ thị, những huấn lịnh cho ban tham mưu của ông. Tự bản thân ông không bao giờ đi thị sát tuyến phòng thủ của SĐ3 để hiểu rõ những trở ngại mà các đơn vị trưởng phải đối mặt…

… Căn cứ Ái Tử, phía bắc sông Thạch Hãn, là một chọn lựa không thích hợp về mặt chiến thuật. Trong suốt tháng Tư, đây là điểm mà pháo địch gửi đến hàng ngày đêm với một mức độ dữ dội. Cho nên Tư lệnh SĐ3 đã quyết định dời bộ tham mưu về phía nam của con sông Thạch Hãn, trong cổ thành Quảng Trị. Ông ta chỉ hỏi ý kiến của vị cố vấn sư đoàn. Tướng Giai sợ rằng những cấp chỉ huy dưới quyền của ông biết được kế hoạch nầy, họ sẽ tìm cách phá hỏng bằng những hành động vội vàng nào đó. Ông ta cũng không thông báo kế hoạch nầy cho vị tư lệnh QĐ1. Đơn giản là ông ta muốn cẩn thận, muốn đặt mọi việc trước một sự đã rồi. Nhưng đó là một hành động gây tức giận cho tướng Lãm và sự bất tin cậy bắt đầu lớn dần giữa họ, khoảng cách càng lúc càng lớn cho đến những biến cố dồn dập xảy ra dẫn đến sự thất thủ của thành phố Quảng Trị…

… Trong vòng 4 giờ sau đó [ngày 1/05/1972, ghi chú của NgyThanh] những phòng tuyến của quân đội miền Nam đã đổ vỡ hoàn toàn… Sau cùng khi biết được những gì đã xảy ra, tướng Giai đã cùng ban tham mưu lên 3 chiếc M113 trong cố gắng bắt kịp đoàn người phía trước. Lúc đó những chiếc trực thăng Mỹ đã đến để di tản những toán cố vấn và những nhân viên người VN của họ. Tư lệnh SĐ3 muốn nhập vào đoàn người phía trước nhưng thất bại. Quốc Lộ 1 đầy cứng những người dân chạy loạn và những toán quân ô hợp và mọi loại xe cộ, quân đội và dân sự. Tất cả hốt hoảng tìm đường về Huế dưới những bức tường lửa dã man hung bạo của các loại pháo địch. Tướng Giai bị bắt buộc phải quay lại cổ thành và sau đó ông ta và ban tham mưu được trực thăng Mỹ bốc đi…

Trên QL1, cả một dòng thác người chạy loạn, dân sự và binh lính tiếp tục xuôi nam. Con đường đã diễn ra một cảnh tượng tàn sát không thể nào tưởng tượng nổi. Những chiếc xe đủ các loại bốc cháy dữ dội. Những chiếc thiết giáp, GMC, xe nhỏ của quân đội và dân sự đầy cứng cả con đường không tài nào lưu thông được. Trong khi đó pháo binh địch mở ra một cuộc tàn sát đẫm máu không nương tay. Cho đến xế trưa hôm sau, cuộc thảm sát mới chấm dứt. Hàng nhiều ngàn người vô tội đã được tìm thấy trên đoạn đường dài của QL1 và sau đó báo chí đã đặt cho cái tên là “đại lộ kinh hoàng”. Sự khích động và sự thảm thương của cảnh nầy, cũng giống như cuộc tàn sát tập thể tại Huế hồi Tết Mậu Thân 1968 đã ám ảnh người dân phía bắc của Vùng 1 Chiến thuật một khoảng thời gian lâu dài.”

Đại Lộ Kinh Hoàng, do thiếu tá cố vấn Robert Sheridan chụp tháng 7-1972

 Người Mỹ có biết về cuộc thảm sát trên ĐLKH?

Đào bới núi sách báo viết về chiến tranh Việt Nam để tìm hiểu thêm về số người từ Quảng Trị chạy về Huế vào ngày 1/05/1972, chúng tôi đã may mắn bắt gặp được tấm ảnh duy nhất do thiếu tá Robert Sheridan, TQLC Mỹ chứng kiến và thu vào ống kính. Trong ảnh đăng kèm bài nầy, độc giả thấy máy ảnh được đặt ở góc tây bắc của cầu Bến Đá, ống kính hướng ra phía quận lỵ Hải Lăng, nơi đặt bản doanh Lữ đoàn 369TQLC trong cuộc hành quân tái chiếm Quảng Trị vào tháng 7 và tháng 8/1972. Ảnh nầy lấy từ trang 195 trong cuốn “The Easter Offensive” (Trận Công kích Mùa Phục Sinh) của tác giả Gerald Turley được nhà xuất bản Presidio in vào năm 1985. Ở chương 18, ông đại tá nhân chứng trong tư cách cố vấn trưởng của SĐ3BB đã tường thuật:

Lúc 12 giờ trưa [ngày 1/05, ghi chú của NgyThanh] tướng Giai tuyên bố tình hình kể như tuyệt vọng; thành phố không thể cầm cự dù bất cứ tình huống nào. Ngay sau đó, hai chiếc thiết vận xa chạy vào thành cổ. Tức khắc, Giai cùng khoảng 25 sĩ quan cao cấp của ông trèo vào, hoặc ngổi bên trên các xe ấy để mở màn nỗ lực tẩu thoát về phía sông Mỹ Chánh. Hành động nầy bỗng dưng làm khoảng 18 quân nhân Mỹ bị bỏ rơi, phải trông chờ trực thăng đến di tản một cách vô vọng. Dave Brookbank và Glen Golden đã phải dùng kỹ năng của mình để lên kế hoạch chia nhau tử thủ cổ thành. Đến 2g00, hai chiếc thiết vận xa chở Giai và đoàn tùy tùng quay lại cổ thành. Hóa ra khi vừa ra khỏi thành phố mới chỉ được lối 1.5 km, xe của họ bị đối phương phác giác và tấn công. Đường thoát bị khóa, họ chỉ còn nước quay ngược về thành. Về tới, Giai tức thì gọi xin trực thăng để di tản ban tham mưu của mình… Bên trong cổ thành, việc chuẩn bị di tản tiếp tục với tốc độ chớp nhoáng trong khi các cố vấn Mỹ đốt bỏ tài liệu mật càng nhiều càng tốt song song với phá hủy tối đa các đồ quân cụ. Lúc 3g20, máy phát điện nổ. Vẫn chưa biết liệu có được di tản kịp không, nhưng các cố vấn đã bắt đầu nghe thấy tiếng súng nhỏ ngay phía ngoài tường thành, mỗi lúc mỗi nhiều, và khu vực cũ ngoài phố bắt đầu bốc cháy. Đến 4g30, chuyến trực thăng đầu tiên sà xuống. Ông Giai và các sĩ quan thân cận nhảy vội lên. 4g32, máy bay rướn lên, chở theo 37 hành khách. Chiếc thứ nhì nhào xuống, trong vòng hai hoặc ba phút, đã mang đi 47 người. Chiếc thứ ba xuống, bốc 45 người còn lại, với đại tá Murdock và thiếu tá Golden, là hai người sau cùng. Đến lượt chiếc thứ tư xuống, nhưng chỉ sau 30 giây, đã cất tàu trống lên khi các phi công biết là tất cả mọi người đã được cứu thoát. Cuộc di tản 129 quân nhân về Đà Nẵng đã kết thúc thành công. Thành phố bị cô lập và bỏ ngỏ…

Trước đó, giữa sáng 29/04, hai đại úy George Philips và Bob Redlin lái xe Jeep tới bộ chỉ huy Lữ đoàn 369TQLC để bốc thiếu tá Sheridan. Philips nói, ‘Chúa Mẹ ơi, ông có thấy gì ngoài quốc lộ không? Cả mấy ngàn người dân đang chạy, bỏ Quảng Trị lại sau lưng. Ngoài đó, nhìn vào phía nam hay ngược ra bắc đều thấy dầy kín dân tỵ nạn.

Đoàn người cứ thế tiếp tục trong nhiều tiếng đồng hồ. Khoảng giữa trưa 29/04, pháo binh Bắc quân lại bắt đầu ào ào nhả đạn vào đoàn người ấy. Khi đêm xuống, người tỵ nạn băng qua các vị trí bố phòng của TQLC. Đột nhiên, lúc 9g đúng, trừ những người chậm chân bị tụt hậu lại đàng sau, đoàn ngươi bỗng dưng đứt đoạn. Đại tá Mũ xanh Phạm văn Chung không lâu sau đó đã nhận được tin nguyên nhân sự đứt đoạn là bởi Bắc quân đã thành công trong việc cắt đứt Quốc Lộ 1 ở phía nam thành phố. Vậy rõ ràng là họ đã chiếm được cây cầu qua sông Nhung [cầu Dài, hoặc cầu Trường Phước, ghi chú của NgyThanh] do một cánh quân Biệt Động trấn giữ. Và như thế, nhiều bộ phận của Sư đoàn 3BB đã bị nhốt cứng cách phòng tuyến Mỹ Chánh độ 8 km về phía bắc.”

Đại Lộ Kinh Hoàng sau khi được Công binh bắt cầu Bến Đá và dọn quang lòng đường cho viện binh, chụp sau ngày 1/07/1972

Phóng viên Arnold Issacs của tờ Baltimore Sun có dịp đi qua ĐLKH , đã tông thấy tấn thảm kịch và ghi lại trong cuốn “Without Honor: Defeat in Vietnam and Cambodia” (Chẳng danh giá gì: Chiến bại ở Việt Nam và Cambodia):

Ở phần mở màn của trận phản công, binh sĩ Nhảy dù VNCH đã chứng kiến một trong những cảnh tượng khủng khiếp nhất trong toàn bộ cuộc chiến tranh: những tàn dư của một đoàn công voa gồm vừa lính tráng vừa thường dân bị đốt cháy và bị xé banh xác do bị kẹt lại ở phía bên kia của cây cầu đã bị giật sập [cầu Bến Đá, ghi chú của NgyThanh] để rồi bị tiêu diệt trên hành trình trốn chạy khỏi tỉnh. Trên chiều dài của nhiều dặm đường, xe cộ bị xé toạc thành từng miếng nằm nối đuôi nhau thành một hàng dài hầu như không đứt lìa dọc cả hai bên lề đường. Trên chuyến xe Jeep nhồi nhét đầy ắp nhà báo chạy về hương bắc một vài ngày sau khi lính Nhảy Dù qua sông, tôi đếm được hơn 400 xác xe trong 3 cây số đầu tiên, và tôi thôi không đếm nữa trước khi tới hết cái đuôi của sự tàn phá. Quân xa thì bạt che mui bị đốt cháy hay đã bay mất, chỉ còn trơ các thanh đỡ mui trông giống các que xương sườn của một bầy khủng long. Xen kẽ giữa chúng là các xác xe tư nhân nằm lộn xuôi lộn ngược: xe đò thì bên hông lăm dăm các lỗ thủng do mảnh lựu đạn hay đạn súng trường, xe đạp xe gắn máy bị vặn cong hoặc gảy gọng từng khúc, xe lam thì chiếc cháy chiếc bị xé từng mảnh, xe hơi cháy đen, đèn pha bị hất tung ra ngoài chỉ còn các lỗ trống như các hố mắt trên đầu lâu con người.”

Phần riêng thiếu tá Sheridan, ông ghi nhận những gì mà ông quan sát cảnh tượng vô bờ bến của tấn thảm kịch và sự tàn phá: “Đoàn người chạy giặc kéo dài hàng giờ và tôi nghĩ không đời nào còn có thể chứng kiến một hình ảnh tệ hại hơn khi mà vào sau giờ Ngọ, các pháo thủ của miền Bắc, vì lý do gì thì tôi sẽ không bao giờ hiểu thấu, đã khai hỏa các họng đại pháo trút đạn xuống đầu đoàn người. Hàng trăm người bị giết và bị thương, nhưng cái khối lúc nhúc người ấy tiếp tục ùn về phía nam. Chúng tôi không thể bắn trả vì tầm bắn của pháo binh địch xa hơn pháo của chúng tôi. Tất cả sự kính trọng tôi vẫn dành cho bộ đội Bắc Việt đã đánh mất từ hôm ấy. Các tiền sát viên của họ, những người chấm tọa độ và chỉnh bắn trận mưa pháo đã đến đủ gần để khẳng định rằng đa phần là dân thường và không thể là một lực lượng quân sự.”

Ba trong nhiều hình ảnh do NgyThanh chụp trên ĐLKH đăng trên nhật báo Sóng Thần, hiện đang được bảo lưu tại viện đại học Cornell ở tiểu bang New York.

Vòng tròn khép kín

44 năm trước, trong tuần lễ nầy, quốc lộ tử thần giữa cầu Bến Đá và cầu Trường Phước bốc mùi tử khí. Thật là một trùng hợp lịch sử: trong tháng 7 năm nay, cuốn nhật ký chiến tranh Mùa Hè Cháy của tác giả Quý Hải, nguyên là một đại tá của Quân đội Nhân Dân, đã được tái bản.

Sáng 1/07/1972, khi tôi từ Huế theo chân phóng viên chiến trường Đoàn Kế Tường đến cầu Bến Đá nằm ở phía bắc phòng tuyến Mỹ Chánh, thì cầu xe đã bị giật sập như các nhân chứng khác đã tường thuật. Thấy khu vực hai đầu cầu vắng lặng, không có lính Nhảy Dù phòng ngự trong các hố cá nhân và giao thông hào, chúng tôi phán đoán là phía VNCH đã đẩy được đối phương lùi lại một khoảng, nên rủ nhau bò qua chiếc cầu sắt xe lửa cũng đã gãy gục thành hình chữ V xuống nước, nhưng vẫn có thể bò qua được, nếu may mắn trên thành cầu không bị cài mìn hay lựu đạn. Với một chút liều lĩnh và hiếu thắng của tuổi trẻ, chúng tôi đã bò qua dễ dàng. Ngay đầu cầu phía bên kia của quốc lộ, là một bãi mìn dày đặc, do công binh VNCH cài một cách công khai, ngụ ý đe dọa để ngăn chặn đối phương hơn là nhằm sát thương. Bắt đầu từ bãi mìn hướng ra phía bắc, là dãy xe nhà binh, xe dân sự, xe đạp, xe gắn máy và la liệt xác người như trong tấm hình duy nhất mà tôi còn giữ lại được cho những sử gia nghiên cứu về sau. Sau nhiều năm tìm tòi, tôi thấy cần bảo lưu tấm hình không đạt yêu cầu nghệ thuật của mình, vì ngoài một tấm thứ nhì do thiếu tá cố vấn Robert Sheridan thuộc TQLC Mỹ chụp, tất cả các hình ảnh “đại lộ kinh hoàng” còn lại đều được chụp sau khi Công binh Chiến đấu của Trung tá Trần Đức Vạn đã bắt xong cầu dã chiến qua sông Bến Đá, để mang xe ủi qua sông, cào một dải khá rộng giữa lòng đường làm tuyến tiếp viện binh sĩ, súng đạn và thực phẩm cho tiền quân. Nhờ có cầu dã chiến, các phóng viên khác đến sau chúng tôi không phải bò qua cầu sắt, nhưng họ lỡ dịp may ghi vào ống kính tình trạng nguyên vẹn của cảnh tượng mà tôi đặt tên là “đại lộ kinh hoàng” trong cú điện thoại gọi về tòa soạn Sóng Thần từ bưu điện Huế trong đêm 1/07/1972.

Nhưng Tường và tôi vẫn là những kẻ đến muộn những 2 tháng sau khi đã xẩy ra cảnh tượng kinh hoàng. Người biết về cảnh tượng rùng rợn nầy trước chúng tôi chính là viên sĩ quan chỉ huy tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn 38 Pháo binh Bông Lau của miền Bắc, người ra lệnh từ đài quan sát ở cao điểm 132, và chịu trách nhiệm trên từng viên đạn pháo tầm xa, trong cuộc chiến nhằm “giải phóng nhân dân khỏi sự kềm kẹp của Mỹ Ngụy”.

************

Trong cuốn Mùa Hè Cháy, tác giả Quý Hải, bây giờ mang quân hàm đại tá, đã chỉ viết đúng một câu ngắn: “Dọc đường số 1 hàng trăm xe ngổn ngang, địch bỏ chạy. Máy bay địch thâm độc thả bom vào những đoàn xe để phi tang, bất kể lính của chúng bị thương còn ngổn ngang. Xe cháy nghi ngút.”

Là một trong hai nhà báo đầu tiên đặt chân đến và đặt cho địa ngục trần gian ấy cái tên “đại lộ kinh hoàng”, tôi thấy cái vòng tròn bao quanh cánh đồng chết giữa hai cây cầu Bến Đá và Trường Phước nay đã có thể khép kín, nếu người đặt tên là tôi, và cha đẻ của tác phẩm vấy máu đó chấp nhận ngồi đối diện nhau, cũng như đối diện với các oan hồn đã bị thảm sát.

Khi ngồi trước mặt nhau, tôi, một quân nhân mang cấp bậc Binh Nhất của miền Nam, chỉ xin phép thưa với thiếu tá pháo binh Nguyễn Quý Hải vài điều thật giản dị. Thứ nhất, hố bom do máy bay thả xuống và hố đạn pháo binh sau khi bị kích hỏa, tôi nghĩ là không thể trộn lẫn với nhau. Nhưng kiến thức của một Binh Nhất miền Nam có thể rất hạn hẹp, hay lầm lẫn; đề nghị thiếu tá hỏi lại thủ trưởng của mình, trung đoàn trưởng Cao Sơn. Là người đi suốt chiều dài tử lộ từ sông Bến Đá đến sông Nhung, tôi khẳng định với người anh hùng Bông Lau [dám tấn phong liệt sĩ cho khẩu đội trưởng Nhúng, Trọng và đồng đội đã hy sinh tại trận địa ngày 22/04/1972 mà không cần chờ chính phủ ban hành Nghị định số 31/2013/NĐ-CP, ngày 1/06/2013 quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng] – rằng, trên mặt đường nhựa ấy, chỉ có xác chết và xác xe, không có một hố bom, dù là loại bom nhỏ nhất. Thứ nhì, cây kim trong đống rơm còn có lúc phải thò ra ánh sáng, nữa là đoạn từ lộ dài trên 5km, xác xe đan vào nhau từ vệ đường bên nầy sang bên kia, bề ngang còn lớn hơn cả đoạn Bát Đạt Lĩnh của Vạn Lý Trường Thành, hà tất từ quỹ đạo địa cầu cũng có thể thấy đại lộ kinh hoàng. Hay là ông đại tá Bắc Việt chưa có đủ thông tin, hoặc giả thông tin chưa chuẩn xác về những nạn nhân của Bông Lau, chủ yếu là dân thường?

Tôi xin kể một mẩu tin ngắn để mua vui cho người hùng Bông Lau: mới đây thôi ngày 31/05/2016, tại giao lộ Briardale và Brook Canyon trong thành phố Charlotte, bang Bắc Carolina, một chị tài xế, để tránh khỏi cán một con mèo trên đường, đã làm chiếc xe buýt chở học sinh của chị lạc tay lái, húc văng một xe hơi đang đổ bên đường, rồi lao vào một căn nhà, gây thương tích cho 14 học sinh và bản thân chị. Chuyện nầy nhỏ như chuyện xe cán chó chó cán xe bên mình, chẳng ai buồn nhớ lại sau khi đọc cái tin, vì tránh không sát hại thú vật đã trở thánh nếp sống văn minh của con người. Thành thử, đoạn văn mà nhà văn đại tá dùng để kết án Mỹ ngụy thâm độc dùng máy bay thả bom vào những đoàn xe để phi tang, tôi không nghĩ là có cơ sở, sẽ có ai tin, mà tự nó vạch trần cho người đọc thấy được một nỗ lực lấp liếm, tráo trở kém trình độ. Muốn có người tin, e rằng trước tiến cần thu hồi toàn bộ sách Mùa Hè Cháy đã in, để hiệu đính vô số lỗi văn phạm, lỗi cú pháp và cách hành văn tối nghĩa như mõm chó, cũng như phải sửa lại đoạn vừa trích dẫn, vì chỉ vỏn vẹn có 40 từ, mà nhà văn lớn đã vấp phải lỗi điệp ngữ vĩ đại.

Thưa Đại tá Quý Hải:

Chiến tranh lùi lại sau lưng chúng ta đã 41 năm. Chuyện chết chóc và đau thương đã trở thành quá khứ. Nay người dân đang cần những tác phẩm mang tính chính sử, chứ không là ngụy sử. Nếu những trách nhiệm mà tướng Thân Trọng Một gây cho người dân Huế có thân nhân bị chôn sống hồi Mậu Thân đến nay vẫn trong diện ưu tiên cần né tránh, thì chắc chắn việc đại tá ra lệnh và điều chỉnh đường bắn, làm chết ít ra 1.841 người mà chính tay chúng tôi lượm được xác ba tháng sau đó – cũng chưa cần phải đưa đại tá ra trước vành móng ngựa của Tòa án Hình sự Quốc tế ở Hà Lan, để trả lời về tội ác chiến tranh, hay tội ác chống lại loài người. Mặc dù thiếu tá Robert Sheridan viết “Tất cả sự kính trọng tôi vẫn dành cho bộ đội Bắc Việt đã đánh mất từ hôm ấy”, nhưng là người Việt Nam với nhau, tôi sẽ sẵn sàng bày tỏ lòng kính trọng của mình dành cho tập thể Quân đội Nhân dân, trong đó có đại tá – với điều kiện đại tá nhận lời mời gọi kính cẩn của tôi, để mang vòng hoa trắng, đến thăm đài tưởng niệm các nạn nhân đã bị giết oan, và cầu cho oan hồn họ tiêu diêu cõi vĩnh hằng. Nếu dám đến, với sự hối tiếc chân thành, và với tư cách là người gây ra biến cố “Đại Lộ Kinh Hoàng”, tôi cho rằng đại tá Nguyễn Quý Hải xứng đáng được tha bổng.

NgyThanh

1/07/2016

Anh Thành Nguyễn gởi

Phút lâm chung con người nhìn thấy gì !?

From facebook:  Phan Thị Hồng added 4 new photos — with Hoang Le Thanhand Đào Nguyên.
Phút lâm chung con người nhìn thấy gì !?

Mỗi người sinh ra đã sẵn nằm trong vòng quay của sinh lão bệnh tử. Đối với nhiều người thì cái chết là một bi kịch song đối với những người có niềm tin vào cõi vĩnh hằng và vòng tay của Đức Chúa Trời thì cái chết ấy đã không còn quá đỗi sợ hãi, …

Ảnh: Sơ Cecilia sau thời gian chống chọi với căn bệnh ung thư phổi đã nở nụ cười rạng rỡ trên môi trước khi trút hơi thở cuối cùng.Sơ Cecilia từ lâu đã vật lộn với căn bệnh ung thư phổi, không thể nói chuyện và chỉ có thể ra hiệu bằng cử động yếu ớt. Vào giây phút cuối cùng trước khi ra đi, sơ đã nở nụ cười mãn nguyện, khiến những người xung quanh không khỏi xúc động.

Xin giới thiệu cùng các bạn bài tóm tắc cô đọng cuốn sách “Hồi ức về cái chết” của Tiến sĩ Raymond Moody, ông chú ý đến hiện tượng về trải nghiệm cận kề cái chết, sau đó ông bắt đầu thu thập dữ liệu cho công trình nghiên cứu, cuốn “Hồi ức về cái chết ” chính là kết quả mấy chục năm miệt mài nghiên cứu của ông.

Cầu mong một sự nhẹ nhàng, an lành và mãn nguyện khi chúng ta rời khỏi cuộc đời để về thế giới bên kia !
*

Giây Phút Trước Khi Chết Con Người Sẽ Nhìn Thấy gì? ông chú ý đến hiện tượng về trải nghiệm cận kề cái chết, sau đó ông bắt đầu thu thập dữ liệu cho công trình nghiên cứu, cuốn “Hồi ức về cái chết ” chính là kết quả mấy chục năm miệt mài nghiên cứu của ông.
10 Thể Nghiệm Thần Kỳ Nhất

Người tóm lược: Thôi Chân Tri 
Dịch giả: Việt Nguyên

Tiến sĩ Raymond Moody, nhà tâm lý học nổi tiếng người Mỹ đã nghiên cứu 150 trường hợp trải qua trạng thái “chết lâm sàng” sau đó hồi sinh trở lại. Sau khi tập hợp những nghiên cứu trong vài thập kỷ ông đã xuất bản cuốn “Hồi ức về cái chết” nhằm giúp con người vạch ra chân tướng của cái chết.

Có một sự tương đồng không thể xem nhẹ trong lời kể của những người đã “trải nghiệm cận kề cái chết” này, đại khái có thể quy về mười điểm sau:

1. Biết rõ về tin mình sẽ chết – Họ tự mình nghe thấy bác sĩ hoặc người khác có mặt tại nơi đó tuyên bố rõ ràng về cái chết của mình. Anh ấy sẽ cảm thấy cơ thể trở nên yếu ớt đến cùng cực.

2. Trải nghiệm niềm vui – “Trải nghiệm cận kề cái chết ” ban đầu sẽ có cảm giác yên bình và thanh thản, khiến con người thấy vui sướng. Đầu tiên sẽ cảm thấy đau, nhưng nỗi đau này chỉ lóe lên rồi qua đi, sau đó sẽ thấy mình lơ lửng trong một không gian tăm tối, một cảm giác dễ chịu mà chưa từng được trải nghiệm bao bọc lấy anh.

3, Âm thanh kỳ lạ – Khi “sắp chết”, hoặc lúc “chết đi” khi có một âm thanh kỳ lạ bay tới. Một phụ nữ trẻ cho biết cô nghe đã thấy một giai điệu giống như một khúc nhạc và đó là một khúc nhạc tuyệt vời.

4, Tiến nhập vào lỗ đen – Có người phản ánh rằng họ cảm giác bất ngờ bị kéo vào một không gian tối. Họ bắt đầu có cảm giác, giống như một khối hình trụ không có không khí, cảm giác như một vùng quá độ, vừa là đời này, vừa là một nơi xa lạ nào khác.

5, Linh hồn thoát xác – Chợt thấy mình đang đứng ở một nơi nào đó ngoài cơ thể mình, quan sát cái vỏ thân người của mình. Một người đàn ông chết đuối nhớ lại anh đã tự mình rời khỏi cơ thể, đơn độc trong một không gian, thấy mình tựa giống một chiếc lông.

6. Ngôn ngữ bị hạn chế – Họ dùng hết sức mình để nói cho người khác biết hoàn cảnh khó khăn của mình nhưng không ai nghe thấy lời họ nói. Một người phụ nữ nói rằng: Tôi đã cố gắng nói chuyện với họ, nhưng không ai có thể nghe thấy.

7, Thời gian như biến mất – Trong trạng thái thoát xác, cảm giác về thời gian như biến mất. Có người hồi tưởng lại rằng trong khoảng thời gian đó anh đã từng ra vào cơ thể mình rất nhiều lần.

8. Các giác quan vô cùng nhạy cảm – Thị giác và thính giác nhạy cảm hơn trước. Một người đàn ông nói rằng ông chưa bao giờ nhìn rõ đến như vậy. Trình độ thị lực đã được nâng cao đáng kinh ngạc.

9. “Người” khác đến đón – Lúc đó xung quanh xuất hiện một người “Người” khác. “Người” này hoặc là tới giúp họ quá độ tới đất nước của người chết một cách bình yên, hoặc là tới nói với họ rằng hồi chuông báo tử vẫn chưa vang lên, cần quay về trước đợi thêm một thời gian nữa.

10. Nhìn lại kiếp nhân sinh – Lúc này người trong cuộc sẽ nhìn lại toàn cảnh bức tranh cuộc sống đời mình. Khi bản thân họ mô tả lại thời gian ngắn ngủi giống như “cảnh nọ nối tiếp cảnh kia, chuyển động theo trật tự thời gian các sự việc xảy ra, thậm chí các bức ảnh nối tiếp nhau, một vài cảm giác và cảm xúc đều như được thể nghiệm lại một lần nữa.

Tiến sĩ Raymond Moody là một học giả và khoa học gia nổi tiếng thế giới, ông lần lượt giành được hai học vị tiến sĩ về triết học và y học. Ông nghiên cứu sâu về lý luận học, logic học và ngôn ngữ học, sau đó ông lại chuyển hướng đam mê sang nghiên cứu y học, và quyết tâm trở thành một học giả về bệnh tâm thần. Trong khoảng thời gian này ông chú ý đến hiện tượng về trải nghiệm cận kề cái chết, sau đó ông bắt đầu thu thập dữ liệu cho công trình nghiên cứu, cuốn “Hồi ức về cái chết ” chính là kết quả mấy chục năm miệt mài nghiên cứu của ông.

Từ khi cuốn sách “Hồi ức về cái chết” ra mắt từ năm 1975, nó đã đạt mức doanh thu kỷ lục toàn cầu với hơn 100 triệu bản, chỉ riêng tại Đài Loan đã tiêu thụ 13 triệu bản và được biết đến như một siêu phẩm bán chạy nhất. Cuốn sách đã thay đổi khái niệm về sự sống và cái chết của những người bình thường, đưa nghiên cứu “Trải nghiệm cận kề cái chết” vào một bước ngoặc mới, chính thức xâm nhập vào tầm nhìn giới y học phương Tây chủ lưu.

Nhằm khích lệ thành quả nghiên cứu khoa học nhiều năm qua và nỗ lực không mệt mỏi cho việc phổ cập công việc, năm 1988 ông đã được trao “Giải thưởng Chủ nghĩa Nhân đạo Thế giới” tại Đan Mạch.

Image may contain: 1 person, smiling
Image may contain: one or more people and people sitting
Image may contain: 2 people, people sleeping and indoor
Image may contain: one or more people and people sitting
 
Hoang Le Thanh
Hoang Le Thanh Cảm ơn bài đăng tóm tắc cuốn sách “Hồi ức về cái chết” và lời cầu mong:
“Cầu mong một sự nhẹ nhàng, an lành và mãn nguyện khi chúng ta rời khỏi cuộc đời để về thế giới bên kia !” của bạn Phan Thị Hồng.
Thiết nghĩ, chỉ có những con người hiểu sâu về chân giá trị cuộc sống và một cuộc đời nhân bản mới có thể ra đi một cách nhẹ nhàng, êm ái!
*
Lời cầu mong mọi người thanh thản đón nhận cái chết như một sự đương nhiên mà ai cũng một lần trãi nghiệm, đồng thời cũng nhắc nhở cho những con người độc ác, đen tối hãy biết ăn năn, hối cải để cuộc đời đáng sống và có giá trị hơn !!!
Cảm ơn bạn!

 
V Phung Phung
V Phung Phung     Sáng nay có tham dự lớp Tân tòng, xin ghi lại một câu rất ý nghĩa trong bài đầu tiên của lớp Tân tòng, nói về Đức tin: Đức tin là bảo đảm phu’c lộc mà mình hy vọng, là chứng minh những thực tại mà mình không xem thấy (Do thái 11,1)

Một ông ở Sài Gòn và những chuyến xe cuối đời miễn phí

Một ông ở Sài Gòn và những chuyến xe cuối đời miễn phí

Ông Nguyễn Ru Bi (phải) bên chiếc xe cấp cứu giúp chở thi thể người nghèo về các tỉnh miễn phí. (Hình: Báo SGGP)

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Gần một năm nay, một ông ở quận Tân Phú đã thực hiện gần 20 chuyến xe đưa thi thể các bệnh nhân nghèo từ bệnh viện về nhà ở các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, An Giang, Sóc Trăng, Phú Yên, Khánh Hòa… miễn phí.

“Có bệnh nhi ba tháng tuổi bị bệnh tim bẩm sinh vừa qua đời. Bé này nhà nghèo lắm, mấy giường bệnh xung quanh góp lại người mấy chục, người trăm ngàn để gia đình có tiền đưa bé về quê an táng. Anh xem thử, nếu được thì giúp nhé.”

 

Cuộc gọi bất ngờ vào một ngày cuối năm 2016 ấy đã khởi đầu duyên thiện nguyện của ông Nguyễn Ru Bi, quận Tân Phú, Sài Gòn, với những bệnh nhân nghèo, theo báo SGGP.

Thời điểm đó, ông Ru Bi đang có hai xe cấp cứu làm dịch vụ chuyên chở các bệnh nhân. Nghe vậy, ông liền vào bệnh viện tìm gia đình cháu bé. Thương hoàn cảnh gia đình này, ông quyết định chở thi thể cùng mẹ và bà ngoại của cháu bé về quê ở tận huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, hoàn toàn miễn phí thay vì lấy 4.5 triệu đồng (khoảng $192).

Đến nơi, nhìn căn nhà lá nhỏ xiêu vẹo, nằm hiu quạnh giữa đồng trống, cảm động trước hoàn cảnh quá cơ cực của gia đình này, ông Ru Bi hỗ trợ thêm 2.5 triệu đồng (khoảng $110).

Cảm nhận cuộc sống này có những mảnh đời cơ cực, khi nằm xuống còn phải dựa vào lòng hảo tâm của người khác mới có thể có được chuyến xe cuối đời về nhà, từ đó đến nay ông Ru Bi đã thực hiện gần 20 chuyến xe đưa thi thể bệnh nhân nghèo từ bệnh viện về nhà ở khắp các tỉnh, thành phố.

“Đọc trên báo thấy một số câu chuyện vì gia đình quá nghèo không có tiền thuê xe, phải dùng chiếu cuốn thi thể người nhà, chở bằng xe gắn máy từ bệnh viện về nhà mai táng, tôi càng muốn góp phần nhỏ bé của mình để bớt đi những câu chuyện đau lòng đó,” ông Ru Bi nói.

Hiện nay, khi biết thông tin những trường hợp cần giúp đỡ qua bạn bè hay trên mạng xã hội, ông trực tiếp liên lạc để tìm hiểu gia cảnh nhằm hỗ trợ. Tùy theo từng trường hợp, ông sẵn sàng chở miễn phí hoặc lấy 50% chi phí cho mỗi chuyến xe.

“Chi phí này không ít, thêm vào đó là sự mệt mỏi sau chặng đường dài, nhưng chỉ cần một câu cảm ơn của gia đình người qua đời là tôi và các nhân viên đã ấm lòng, cảm thấy việc làm của mình có ý nghĩa,” ông Ru Bi cho biết.

Điều ông còn tâm tư là có những trường hợp gia đình quá khó khăn, không lo nổi áo quan cho thân nhân qua đời. Song trước mắt, khả năng của ông chỉ mới giúp được chi phí chuyến xe đưa cuối đường đời, nên ông mong có thêm sự tham gia của các mạnh thường quân chung tay để những người nghèo không may được lo chu toàn khi nhắm mắt xuôi tay.

Hiện công ty Vận Chuyển Cấp Cứu 24h, ở phường Phú Thọ Hòa, quận Tân Phú, Sài Gòn, của ông đã có bốn xe cấp cứu chuyên dụng, nên ông càng có điều kiện mở rộng những chuyến xe nhân ái. (Tr.N)

Với Tứ Sa, Trung Quốc đang tiến tới đòi chủ quyền toàn bộ Biển Đông

Với Tứ Sa, Trung Quốc đang tiến tới đòi chủ quyền toàn bộ Biển Đông

RFA
2017-09-22
 

Bản đồ cho thấy những tranh chấp về chủ quyền trên Biển Đông

Bản đồ cho thấy những tranh chấp về chủ quyền trên Biển Đông

 AFP
 

Chính phủ Trung Quốc mới đây đã đưa ra một chiến thuật mới về pháp lý để đẩy mạnh đòi hỏi chủ quyền của mình ở khu vực biển Đông.

Theo trang tin Washington Free Beacon của Mỹ, chiến thuật này được ông Mã Tân Dân, Phó Tổng Giám đốc Cục Hiệp định và Pháp luật, Bộ Ngoại giao Trung Quốc, đưa ra trong một cuộc họp kín với các giới chức Ngoại giao Hoa Kỳ hôm 28 và 29 tháng 8 ở Boston, Mỹ.

Chiến thuật được nói đến gọi là ‘chiến tranh pháp lý’ bao gồm một sự dịch chuyển từ cái goi là đường đứt khúc 9 đoạn mà Trung Quốc vẽ ra ở biển Đông, vốn chiếm đến 90% diện tích vùng biển này.

Chiến tranh pháp lý sẽ áp dụng đối với 4 vùng đảo và thực thể trên biển Đông hiện đang có tranh chấp giữa các nước bao gồm Nam Sa (Trung Quốc gọi là Nansha) tức Trường Sa, Tây Sa (Xisha) là Hoàng Sa, Đông Sa (Dongsha) và Trung Sa (Zhongsha). Trung Quốc gọi các khu vực này chung là Tứ Sa.

Ông Mã nói rằng Trung Quốc khẳng định chủ quyền đối với Tứ Sa qua nhiều các đòi hỏi về pháp lý. Ông cũng tuyên bố đây là vùng nước lịch sử của Trung Quốc và là một phần trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của nước này. Bắc Kinh cũng đòi chủ quyền đối với Tứ Sa như một phần của thềm lục địa mở rộng của mình.

Giải thích về đòi hỏi chủ quyền đối với Tứ Sa của Trung Quốc, Đại tá về hưu thuộc Hải Quân Mỹ Jim Fanell, người đã từng đứng đầu đơn vị tình báo của Hạm đội Thái Bình Dương cho rằng đây là một bước tiếp theo trong chiến lược ‘lát cắt salami’ được Trung Quốc áp dụng từ trước đến nay ở biển Đông, dần dần lấn tới và cuối cùng là đòi chủ quyền toàn bộ biển Đông.

Theo Washington Free Beacon, các giới chức  Bộ Ngoại giao Mỹ đã tỏ ra ngạc nhiên về kế hoạch mới của Trung Quốc. Tuy nhiên người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ Justin Higgins sau đó đã không đưa ra một bình luận nào với báo chí về cuộc họp này. Ông chỉ khẳng định lập trường của Mỹ từ trước đến này là không đứng về bất cứ bên nào trong đòi hỏi về chủ quyền ở khu vực biển Đông.

Chính sách ba chiến tranh là gì?

Chiến tranh pháp lý thực ra là một trong 3 chiến thuật trong chính sách ‘3 chiến tranh’ của Trung Quốc bao gồm chiến tranh tâm lý, chiến tranh thông tin và chiến tranh pháp lý đã được Quân Ủy Trung ương Trung Quốc đưa ra từ hồi năm 2003.

Trên thực tế, đây là chính sách đã được Trung Quốc áp dụng rất rõ ràng để đối phó với phán quyết của Tòa Trọng tại Quốc tế trong vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc được bắt đầu hồi năm 2013. Theo Giáo sư Carl Thayer, thuộc Học viện Quốc phòng Úc, Trung Quốc sử dụng các chiến thuật này nhằm làm phân tán sự chú ý của quốc tế vào quyết định mang tính ràng buộc về mặt pháp lý, vốn yêu cầu các bên tham gia Công ước về Luật biển của Liên Hiệp Quốc (UNCLOS) phải tuân thủ. Trung Quốc là một thành viên của Công ước này.

Hồi tháng 7 năm 2016, tòa Trọng tài Quốc tế đã ra phán quyết bác bỏ tính pháp lý của đường đứt khúc 9 đoạn mà Trung Quốc vẽ ra trên biển Đông. Trung Quốc sau đó cũng đã lên tiếng bác bỏ phán quyết của tòa.

Mỹ cần phải có hành động đối phó

Tờ Washington Free Beacon trích lời của chuyên gia cao cấp Michael Pillsbury thuộc Viện Hudson ở Mỹ nhận định rằng chính phủ Mỹ hiện đang thiếu cả hai khả năng về chiến tranh pháp lý và đối phó với chiến tranh pháp lý của Trung Quốc. Ông nói “Trung Quốc dường như được tổ chức tốt hơn để thiết kế và thực hiện các chiến thuật pháp lý khôn ngoan để thách thức các quy tắc quốc tế mà không bị chế tài trừng phạt’. Ông Pillsbury cũng nói rõ hơn là có thể việc Trung Quốc áp dụng chiến thuật chiến tranh pháp lý ở biển Đông sẽ khiến Quốc hội Hoa Kỳ cho phép chính phủ xây dựng một khả năng tốt hơn để đối phó với Trung Quốc và khi Mỹ có được một đơn vị như vậy thì sẽ dễ dàng hơn để đối phó với chiến tranh pháp lý của Trung Quốc, nhất là khi có sự ủng hộ của Liên Hiệp Quốc.

Quốc hội Mỹ hiện vẫn chưa phê chuẩn Công ước Liên Hiệp Quốc về luật biển 1982 (UNCLOS) vì cho rằng Công ước sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của Mỹ trên biển. Trung QUốc từ trước đến nay trên các diễn đàn quốc tế và kênh báo chí vẫn tuyên truyền rằng Mỹ là đạo đức giả khi không phê chuẩn Công ước.

Chuyên gia Pillsbury cũng cho rằng Mỹ nên triển khai một hàng không mẫu hạm hoặc một nhóm tàu viễn chinh vĩnh viễn ở biển Đông để cho Bắc Kinh thấy là những lời nói của Mỹ được củng cố bằng hành động chứ không chỉ là lời nói đơn thuần.