Tán tụng hồng ân- Ca đoàn Thiên Ân
httpv://www.youtube.com/watch?v=zfyUFaZkQng
Bốn mùa và em – Dậu Nguyễn
httpv://www.youtube.com/watch?v=6qREAivfS4c&list=UUBoUB-hqnQqJw-dGnS_a09g&index=1
Xin cám ơn anh Nguyễn Xuân Dậu gởi
httpv://www.youtube.com/watch?v=zfyUFaZkQng
httpv://www.youtube.com/watch?v=6qREAivfS4c&list=UUBoUB-hqnQqJw-dGnS_a09g&index=1
Xin cám ơn anh Nguyễn Xuân Dậu gởi
CON RẤT MUỐN ĐẸP LÒNG CHA
(Lễ Chúa Chịu Phép Rửa, Năm C)
Tác giả: Tuyết Mai
Cuộc sống đời thường trên thế gian thật không ai làm cha mẹ mà không hiểu được tình cha con hay tình mẹ con ra sao, khi các con chúng đối đãi tệ bạc với cha mẹ. Thế cho nên đời người mới dậy chúng ta cái câu “công cha thì như núi thái sơn, nghĩa mẹ thì như nước trong nguồn chảy ra” từ ngay ở cái tuổi cho các con em vào học lớp mẫu
giáo.
Thiên Chúa của chúng ta Người thật sự yêu thương chúng ta vô vàn, nên đã quyết định cho Chúa Con Giêsu duy nhất xuống trần gian, để học cách sống của con người. Để tìm hiểu ngọn nguồn cách con người suy nghĩ, đối xử với nhau, và cùng đích của con người ham muốn và ao ước điều chi trước khi lìa đời?. Chỉ có cách duy nhất ấy
mà Thiên Chúa hiểu được ngọn ngành con người từ ngoài vào trong.
Muốn để đẹp lòng Cha (Chúa Cha) Ngài Giêsu đã trọn đời làm tất cả mọi điều, từ việc nhỏ cho đến việc lớn là làm theo thánh ý Chúa Cha. Vì Ngài hiểu rằng chỉ có duy nhất một con đường để được trở về bên Người Cha rất thân thương là làm theo Ý Cha của Ngài trên Trời. Do đó Ngài Giêsu triệt để Vâng Lời Cha Ngài cách trọn hảo và
tuyệt đối cho đến chết. Vì Cha của Ngài là Đấng rất trọn lành và là Đấng rất vô cùng!. Vì Cha Ngài Người rất có quyền năng đã tác tạo mọi tạo vật trên trời và dưới đất không ai hơn được Cha Ngài là điều mà không mọi tác tạo nào dám phủ nhận.
Thiết nghĩ con người chúng ta noi theo gương Chúa Giêsu thì muôn đời làm con sẽ không bao giờ mất chỗ tốt nhất mà cha mẹ dành riêng cho mình. Ở đây chúng tôi xin mượn gia đình Thánh Gia là mẫu gương để hết thảy chúng ta noi theo. Thường chúng ta thấy đứa con ngoan trong gia đình sẽ được mọi thứ tốt lành dành cho
chúng. Được cha mẹ thương thì các con ngoan luôn được chăm lo cách rất tận tình. Không bao giờ để cho chúng thiếu thốn bất cứ điều chi, phải không các cháu trẻ tuổi hiện còn đang sống trong vòng tay yêu thương của cha mẹ?.
Bởi như dưỡng phụ Thánh Cả Giuse và dưỡng mẫu Đức Trinh Nữ Maria, đã hiểu trọng trách của mình, một mực kính sợ Thiên Chúa, một mực dậy dỗ Chúa Giêsu cách trọn lành nhất mà các ngài có thể dậy Chúa Giêsu trong khả năng riêng bởi do Chúa Thánh Thần thêm sức và cho thêm sự hiểu biết đặc biệt. Khi chúng ta cha mẹ biết kính sợ Thiên Chúa, nghe theo và thực thi trọn lề luật của Chúa thì cách ta dậy dỗ chúng con sẽ không bao giờ sai, vì có Thiên Chúa luôn trợ giúp và luôn ở cùng.
Con cái trong gia đình có cha mẹ tốt thường cũng được tốt lành theo, bởi chúng
được dậy dỗ và lớn lên theo chiều hướng tốt và có cha mẹ làm gương tốt. Riêng thỉnh thoảng chúng ta cũng có ngoại lệ là gặp đứa con ngang bướng đã học và theo cách dậy dỗ ngoài đường nhiều hơn. Học cách đua đòi, ăn chơi, trác táng rồi về nhà hạch sách, vòi tiền, và làm khổ cha mẹ cùng anh chị em trong nhà.
Khổ nỗi trần gian thì giống như một màng nhện khổng lồ và nơi nào cũng có những con nhện (chúng quỷ) rất tinh vi và xảo quyệt. Chúng biết giăng những thứ mồi mà làm cho con người mê hoặc, đắm chìm vào, làm cho bị nghiện ngập, và làm cho chết từ từ mà không hay biết chi!?. Rất thú vị thay nếu chúng ta có dịp ngồi canh ở những
màng nhện xem cách các con nhện chúng giăng mồi như thế nào, thì sẽ hiểu con
người mắc bẫy y như vậy!. Chỉ có khác là chúng ta làm tăng độ lớn của màng nhện lên gấp 1000 lần và dây nhện nó không khác là những con đường tăm tối mà con người đang đi trên nó.
Con người chúng ta thì chẳng ai tài giỏi gì hơn ai, chỉ khác nhau ở cái có Chúa hay không có Chúa ở cùng, thế thôi!. Bởi con người sống không có Chúa trong người thì hoàn toàn không được vũ khí Chúa ban cho để nhận biết. Người luôn sống có
Chúa thì sẽ được Chúa ban cho con mắt đức tin, biết thấy được điều lành thì làm
và điều dữ phải tránh xa. Như biết rành rọt là “đi đêm thì có ngày gặp ma” là chuyện có thật. Còn người thích đi ra ngoài ban đêm thì họ cũng hiểu rằng có bao nhiêu thứ ngoài kia mà họ có thể gặp phải và đón đợi họ bất cứ lúc nào, ngay cả tìm cái chết bất đắc kỳ tử nhưng họ vẫn chọn để đi …. Đi vì lý do làm ăn riêng??.
Ai là con cái Chúa cũng có những khắc khoải và khao khát là luôn muốn được làm con ngoan của Chúa, và cùng đích là ao ước để được Về Trời, hưởng phúc vinh muôn đời với Chúa. Do đó để bắt chước gương Chúa Giêsu, ta cũng cố gắng tìm tất cả những điều Chúa Cha yêu thích mà chúng ta làm. Vì đường đời và số giờ sống của từng con
người là do thánh ý Chúa, không ai có thể bảo rằng tôi vắn số nên tôi cứ việc
hưởng thụ kẻo ngày mai tôi sẽ chết??. Mà cũng chẳng ai nói hay là tôi sống rất thọ nên để cuối đời đến 80 tuổi tôi mới nghĩ đến linh hồn sống đời của tôi??.
Lậy Thiên Chúa là Đấng nắm lấy vận mạng của từng con người chúng con, xin cho chúng con luôn siêng năng làm việc Chúa yêu thích để chúng con hãnh diện trong lòng, là được làm đẹp lòng Chúa. Luôn thực thi hai Giới Răn quan trọng nhất là “trước Kính Mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự; sau lại yêu người như chính
mình”. Thiết nghĩ là điều Chúa luôn muốn chúng con thực hành trong mỗi ngày sống của chúng con. Amen.
** Xin bấm vào mã số để hát theo:
http://www.youtube.com/watch?v=MyY5rOuNCts
(Kính Chúa Yêu Người)
Y Tá của Chúa,
Tuyết Mai
(01-13-13)
MINH TRIẾT CUỘC ĐỜI
“Con đừng nhút nhát khi cầu nguyện,
và đừng coi thường việc làm phúc bố thí.”
(Huấn ca 7:10)
Đây là minh triết cuộc đời
Những bài học sống tuyệt vời biết bao
Tương lai ai biết ra sao?
Chỉ còn có thể ước ao nồng nàn
Khó khăn quyết chẳng đầu hàng
Êm đềm không thỏa mơ màng phiêu du
Mọi người đều phải thiền tu
Chan hòa từ thiện khiêm nhu hiền lành
Giê-su huấn giáo ngọn ngành
Gọi mời xây dựng viên thành phận thân
Sẻ chia huynh đệ vang ngân
Cùng nhau cất bước phù vân cõi phàm
Hy sinh quảng đại hãy làm
Trái tim rộng mở luận đàm hợp hoan
Gia đình chăm chỉ lo toan
Phước ân Chúa đổ nhịp khoan diễm tình!
* Nguyễn Sông Núi
(Tv Thánh Gioan Neumann, Dallas, TX, Jan. 8, 2013)
Anh chị Thụ & Mai gởi
Ruột Thịt Tình thân .
Song Nhi
Tin chị Thơm bị chồng bỏ lan ra nhanh chóng đầu trên xóm dưới .
Có người nói tội nghiệp chị đẹp người đẹp nết , con nhà ăn học mà số long đong .
Nhưng có người lại mừng dùm và họ coi đó như giải pháp mà ông trời giải thoát cho chị khỏi cảnh khổ .
Chị Thơm là con gái duy nhất trong ba người con của thầy giáo Thức ở xứ này .
Thời sinh tiền lúc còn sống thầy và ông chủ tiệm vàng Kim Vinh là bạn tâm giao
nối khố có nhau dù một người làm buôn bán một người theo nghiệp chử nghĩa thánh
hiền .
Ngay khi chị Thơm chỉ là trẻ thơ lúc nghe ông Vinh muốn kết thông gia cho hai gia đình càng thân hơn ,thầy giáo Thức đã đồng ý ngay.
Thơm từ nhỏ đã sáng dạ học đâu nhớ đó , thương con nên lớn lên ba chị cho chị lên ở nhờ nhà người cô ruột trên Sài Gòn để tiếp tục việc học .
Bắt đầu hiểu biết Thơm đã nhiều lần dùng dằng phản đối chuyện hứa hôn của ba chị khi ai đó đề cập đến .Xét cho cùng chị cũng không sai bởi xứ này ai mà không biết Huân con trai lớn ông chủ tiệm vàng Kim Vinh học hành thì ngu dốt nhưng ăn chơi
trăng hoa thì có tiếng .
Năm đó tự nhiên ông Vinh bị một căn bệnh lạ , chạy chữa nhiều thầy thuốc mà
bệnh có vẻ không thuyên giảm .
Khi thầy giáo Thức sang thăm ông bèn nhắc chuyện xưa và muốn tiến tới hôn nhân cho con trai mình .
Trước là được yên lòng nhắm mắt vì con nên bề gia thất do ông Vinh biết rất rõ Thơm là cô gái rất tốt .
Thêm vào cái hy vọng là biết đâu hôn lể xua đi được cái vận hạn xui xẻo đang đè ám gia đình ông
.
Năm 19 tuổi Thơm được ba mình gọi về quê và lấy chồng trong cái không khí gấp rút của đám cưới đang chuẩn bị .
Lúc đầu Thơm phản đối bằng cách bỏ ăn và khóc lóc không ngừng .
Nhưng đến khi ba chị dọa thắt cổ tự vận nếu chị dám từ hôn làm trái ngược lại lời hứa mà ông coi trọng như núi .
Đến nước đó thì Thơm hết cách đành theo ý ba mình về làm vợ Huấn.
Cứ tưởng Huấn chồng chị Thơm lấy được người vợ như chị , anh ta hẳn vui mừng mới đúng .
Nhưng vốn tính nhỏ nhen thêm vào chất gia trưởng Huấn thấy chướng mắt vì sự học vấn của vợ.
Trong khi chị vận dụng cái giỏi giang của mình để gánh vác việc nhà chồng thì Huấn sau khi tỏ rỏ đường đi lối về với cô vợ trẻ anh ta lại miệt mài với những thú vui tình ái bên ngoài
.
Từ khi sinh Thu con gái đầu lòng chị Thơm nhiều lần khuyên chồng nên để đức cho con đừng đi gạt gẫm những cô gái khác nhưng Huấn gạt bỏ ngoài tai .
Thậm chí nhiều lần còn hạ cẳng tay , thượng cẳng chân với chị khi say.
Nhất là sau khi ba chồng chị là ông Vinh qua đời thì Huấn không còn phải e dè ,
kiêng kỵ̣ ̣một ai.
Một lần đoàn gánh hát của ông bầu Tám Ít về đây hát , Huân đi xem và đâm ra mê
mệt Hai Như cô đào nhì của gánh .
Khác với những lần trước lần này Huấn trong mắt Hai Như là con mồi lớn nên Hai Như quyết không buông , cô xõ mũi Huân một cách nhanh chóng .
Vốn xuất thân lang bạt nên Hai Như không dể dàng gì trở thành trò chơi của Huân cô buộc Huân phải cho cô danh chính ngôn thuận khi cô có mang .
Thế là sau 9 năm ,chị Thơm đành chịu tiếng bị chồng bỏ bởi không chịu nổi sự
cay nghiệt cũng như những trận đòn thừa sống thiếu chết của Huân gần đây .
Thầy giáo Thức ba của chị cũng qua đời vài năm trước đó nên chị cũng không muốn níu kéo.
Chị đồng ý ra đi với hai bàn tay trắng không làm phiền Huân cưới vợ mới nhưng bù lại Huân phải để chị dẩn bé Thu lúc này được 5 tuổi đi theo mình .
Buồn cho phần số dang dở của mình và cũng không muốn ở lại quê nơi có nhiều kỷ niệm gợi chuyện phiền lòng chị Thơm dẫn con gái lên lại Sài Gòn .
Ban đầu chị tá túc ở nhà cô ruột như trước .
Sau đó chị mang số tiền cha mẹ ruột cho phòng thân khi xuất giá lấy chồng làm vốn mua bán .
Chị mở một sạp bán trái cây và thuê căn nhà nhỏ gần đấy cho tiện việc đi về mẹ con chị sống yên ả vui vẻ với nhau .
Dạo gần đây có một anh chàng người Mỹ thường ghé mua trái cây chổ chị .
Anh ta gây sự chú ý cho Thơm bởi anh ta nói được tiếng Việt rất rành khác với những anh chàng Mỹ lớ ngớ thỉnh thoảng vẩn ghé chổ chị mua hàng .
Anh chàng người Mỹ John Smith ấy cũng thật bất ngờ khi thấy cô chủ hàng nói rất chuẩn thứ ngôn ngữ mẹ đẻ của mình và là một người có ăn học.
Lúc đầu chỉ là trò chuyện xã giao lâu dần họ thành bạn .
Dù hai người cách xa nhau về hình thức lẩn nơi sinh trưởng nhưng họ lại khá hợp nhau trong nhiều cách nghĩ .
Hơn một năm sau John ngỏ lời với muốn cưới Thơm làm vợ.
Phần Thơm thật sự chị dành rất nhiều cảm tình cho John nhưng chị cũng e ngại sự cách biệt và tiếng đời thường mĩa mai những người phụ nữ lấy Mỹ thời đấy nên chị còn lưỡng lự chần chừ .
Nhưng tấm chân tình của Louis khiến chị cảm động .
Hai năm từ ngày họ quen biết chị dẹp cửa hàng về làm bà Smith .
Mười mấy năm trôi qua gia đình chị Thơm có thêm một trai hai gái .
Peter được 13 tuổi , Mary 11 tuổi và Ann 9 tuổi.
Ngoài xã hội John là người khá thành công về kinh doanh nhưng khi về nhà John là người chồng có trách nhiệm .
Anh ta đối xử với Thu cũng như những đứa con khác của mình hết mực yêu thương không hề có sự phân biệt .
Gia đình họ sống đầm ấm hạnh phúc ngoài những lúc đến trường ở nhà chị Thơm vẩn gọi con bằng những cái tên tiếng Việt là Phú , My và Ái .
Khác biệt nhau về mái tóc và cả màu da nhưng bốn chị em Thu lại quấn quých hòa thuận ,luôn gắn bó bên nhau không rời .
Năm 1975 lúc này Thu đã 21 tuổi đang theo học một trường Dược ở Sài Gòn .
Một ngày chị Thơm nhận được tin Huấn chồng cũ của chị tức là ba ruột của Thu ở quê qua đời đột ngột vì một cơn đột qụy .
Đúng ra chị Thơm không muốn về bởi tình hình lúc đó có nhiều thay đổi và Huấn từ lâu không hề nhắc nhở hay đá động gì tới đứa con gái của mình là Thu .
Nhưng cuối cùng chị cũng dẩn Thu về chịu tang cho đúng phép tắc dù gì họ cũng là cha con .
Phần chị thì xem như nghĩa tử nghĩa tận đến thắp một nén hương cho phải đạo làm người , hơn nữa chị không an tâm để Thu về một mình .
Sau đám tang ngay lúc chị chuẩn bị trở về Sài Gòn thì thời thế thay đổi trong một đêm phải chờ đến cả tuần sau và bằng nhiều cách mẹ con chị mới lặn lội trở về được Sài Gòn .
Nhưng khi chị Thơm và Thu lên tới Sài Gòn thì mọi chuyện đã khác lạ hoàn toàn .
Dâu bể đổi dời chỉ trong khoảng thời gian ngắn , chị không thể vào được nhà cũ bởi chúng bị tịch thu nên chị không lấy được thông tin hay địa chỉ liên quan gì tới chồng mình ở Mỹ .
Cũng không thể hỏi thăm ai giữa cái lúc hổn loạn ấy chị dành dẩn Thu nương náu , mưa sinh ở một quận gần đó và cố gắng hết khả năng để nghe ngóng liên lạc với chồng và con của mình trong vô vọng.
Ngày xưa vì người ở quê hay kỳ thị , dè bĩu và lo cho sự an toàn của chồng vào thời còn chiến tranh .
Chị Thơm chỉ dẩn duy nhất Peter về quê ngoại chơi hai lần mà thôi .
Không cho John cùng hai con gái nhỏ về thăm quê lần nào.
Bởi má chị vẩn lên thăm gia đình chị ở Sài Gòn thường xuyên .
Do chị cũng ỷ y đâu có dè cuộc đời có những thay đổi như vậy .
Thời gian dần trôi không một tin tức nào về họ dù là sống chết .
Phần lo lắng thương nhớ con nên sức khoẻ chị Thơm mỗi ngày một kém .
Rồi chị qua đời vào một đêm mưa sau cơn bệnh trong tay vẩn còn nắm chặt tấm ảnh gia đình của mình .
Lúc lâm chung không biết có phải còn tiếc nuối hay ấm ức mắt chị mở trừng trừng khiến Thu khóc than tức tưởi khấn nguyện rằng sẽ cố gắng tìm được những đứa em và mang chúng về .
Phần John Smith vào lúc mọi người nhốn nháo rồng rắn di tản dù không muốn bỏ vợ
mình lại nhưng John không còn cách nào khác hơn đành dẩn ba người con của mình
lên máy bay về Mỹ trong nổi đau đáu lo lắng .
Khi về đến xứ sở anh ta cũng cố gắng liên lạc với vợ mình nhưng ngoài tên họ của vợ và con gái .
John chỉ biết thêm địa danh quê vợ là Xào Bân chứ không hề có thông tin gì khác .
Đường phố còn thay đổi tên thì nói chi muốn tìm một con người giữa cái đất Sài Gòn mênh mông ấy .
Ba năm sau trên đường đi làm về John qua đời trong một tai nạn giao thông thảm khóc .
Những đứa con của anh được chuyển về sống với ông bà nội ở bang Texas.
Gia đình họ lạc nhau từ đó…
*****
Ba mươi lăm năm sau
Thu bây giờ tóc đã bạc hơn phân nữa và lên chức bà Ngoại chị lấy chồng có được
ba người con .Chồng chị là người đàn ông tốt và hiền lành .
Các con chị vẩn sống và làm việc ở Sài Gòn .
Còn chị và chồng về sống ở quê vào 5 năm trước trên mãnh đất hương hỏa của bà Ngoại chia cho mẹ chị ngày xưa , vui thú cùng vườn cây ao cá, như bao người có tuổi khác .
Cuộc sống chị êm đềm, hạnh phúc như bao gia đình an phận bình thường nhưng dù bao năm trôi qua trong lòng Thu vẩn không quên được nổi nhớ về những người em của mình .
Thỉnh thoảng nhìn những tấm ảnh cũ đã úa vàng mà chị lưu giữ như một báu vật, chị lại chảy nước mắt .
Chị khóc khi hồi tưỡng cái khoảng khắc ngày xưa đút cơm cho những đứa em của mình .
Chị nhớ rõ đứa nào thích ăn gì , tính nết ra sao .
Nhớ lúc chạy giởn trong khoảng sân nhỏ cùng nhau giờ không biết họ lưu lạc phương trời nào và có bình an không ?.
Hiểu nổi khổ tâm bao năm của chị Thu các con chị cũng giúp mẹ bằng mọi cách họ có thể .
Từ những phương tiện thông tin hiện đại đến nhờ cả đại sứ quán giúp đỡ , nhưng thông tin qúa ít ỏi và trôi qua nhiều năm nên sự tìm kiếm của họ cũng rơi vào im lặng .
Peter ,Mary và Ann hiện tại cũng đã có gia đình và con cái họ khác xưa hoàn
toàn .
Vốn Việt Ngữ của họ gần như là mất hết , ngoại trừ Mary do làm quản lý ở một hãng có nhiều người Việt nên cô còn nói được chút ít .
Nhưng ba người họ vẩn không quên người mẹ và chị của mình .
Họ về Việt Nam rất nhiều lần nhờ sự giúp đở của nhiều nơi .
Nhắn tin trên báo để tìm kiếm nhưng tất cả vẩn không có tin tức gì ,họ cũng không có nhiều manh mối để mở rộng việc tìm kiếm..
Năm 2010 Peter lúc này đã 48 tuổi nhân dịp nghĩ thường năm anh ta dẩn theo cô vợ người Mỹ của mình là Jessica về Sài Gòn du lịch .
Lần đó khi đang ngồi trên chuyến xe tham quan của một đoàn du lịch chuẩn bị đi đến điểm vui chơi theo lịch trình .
Là người vui tính Peter trò chuyện cùng anh hướng dẩn viên là ngày xưa mình được sinh ra ở Sài Gòn .
Nhắc về kỷ niệm vô tình Peter nói rằng quê ngoại ở Xào Bân bằng một thứ tiếng Việt lơ lớ.
Có một vị khách lớn tuổi trong đoàn nghe được .
Ông ta nói là ông ta biết một nơi trước kia gọi là Xẻo Bần chứ không phải là Xào Bân .
Đó là một làng nhỏ do dân địa phương tự đặt tên ấy vì có cái rạch nhỏ chảy cắt ngang qua.
Mà bây giờ không còn ai gọi là Xẻo Bần nữa họ gọi bằng tên một thị trấn khác.
Không biết có cái gì xui khiến Peter vội lấy giấy bút ra và nhờ ông ta ghi lại
chính xác nơi đó bằng cái tên hiện hành ngày nay.
Bỏ dở chuyến đi chơi Peter cùng vợ ngược về Sài Gòn tìm đến trung tâm lữ hành du lịch và ngỏ ý muốn thuê một hướng dẩn viên thông thuộc miền Tây để đi đến địa danh mà vị khách lạ cho.
Khi họ đến nơi thì gần như không còn vết tích nào giống trong ký ức của Peter .
Anh ta nhớ ngày xưa phải đi bằng thuyền nhỏ và cây cỏ hoang dại .
Còn nơi anh ta đến ngày nay là thị trấn sầm uất đông đúc xe cộ chạy xuôi ngược .
Thấy vẻ thất vọng của Peter anh hướng dẩn viên cũng không biết làm sao hơn đành cùng người tài xế chở hai vợ chồng ông khách người Mỹ đi loanh quanh cho đúng theo trình tự một chuyến tham quan .
Xe chạy dọc những con lộ nhỏ và anh hướng dẩn viên giảng giải đây là một vùng chuyên về trồng trái cây .
Chợt lúc đó chuông nhà thờ đổ hồi chuông ban trưa thông lệ .
Như có một thứ giác quan mách bảo Peter đòi được đến nơi đó .
Cả nhóm họ rời xe đi bộ trên con đường làng khi đứng trước căn nhà thờ có tuổi thọ gần cả trăm năm được xây từ thời Pháp đô hộ.
Peter gần như là không kèm được sự xúc động bởi anh ta nhận ra đây đúng là quê ngoại mình mà ngày xưa anh được mẹ dẩn về .
Qua bao nhiêu năm nhưng cũng may là cái nhà thờ ấy vẩn không thay đổi hình dáng kiến trúc cũ .
Nhất là cái vị trí nằm ngay ngã ba sông rất đặc biệt .
Peter nhớ một cách rõ ràng như vậy do có một lần khi về quê chị lớn là Thu dẩn em trai mình đến đây chơi .
Đang vui đùa chợt Peter tự nhiên bị chảy máu cam không rõ nguyên nhân khiến Thu hốt hoảng cầu cứu.
Chính một vị ma-soeur hiền lành đã kêu Peter nằm ngay xuống trước sảnh nhà thờ và ngước mặt lên ngay cho máu ngừng chảy .
Trong khi bà đặt chiếc khăn lạnh trên trán của Peter để hạ nhiệt độ.
Theo trong trí nhớ của Peter nhà bà ngoại đi bộ cách đó một đoạn nhưng hướng nào thì anh ta mơ hồ không nhớ nổi .
Vốn nhạy bén sau một hồi suy tính Peter nhờ anh hướng dẩn viên hỏi thăm những
ai nhiều tuổi từng sống nơi đó về người đàn bà có tên Ba Thơm có con gái tên
Thu .
Nhưng già trẻ không một ai biết bởi ngày trước chị ba Thơm chỉ thỉnh thoảng về thăm quê rồi đi .
Số người còn lại họ đến ở nơi đây mới độ hai , ba chục năm thì làm sau biết chuyện ngày xưa cũ .
Thêm nữa ở quê người ta thường gọi theo thứ ít ai gọi tên nên chẳng ai biết người đàn bà mà Peter muốn kiếm là ai .
Cuối cùng Peter chỉ còn cách ghi lại địa chỉ khách sạn ở Sài Gòn nơi mình trú ngụ cùng số điện thoại cá nhân đang tạm dùng trong thời gian ở Việt Nam .
Peter hứa sẽ hậu tạ cho bất cứ ai có tin tức về hai người mình đang cần tìm .
Đúng lúc kẻ ghi người viết thì có một người đàn bà đứng tuổi đi chợ về ngang do tò mò bà ta rẽ đám đông vào xem .
Khi biết rõ câu chuyện bà ta chậm rãi nói:
-Tui biết có chị kia ở cạnh nhà bà sui gái của tui .
Nghe đâu tên của chỉ là Hai Thu mà tui không nghe chỉ có anh chị em chi hết .
Chị mới về đây sống độ mấy năm thôi không biết có phải chị Thu gì mà ông ấy muốn kiếm không ?
Nhà chị ấy tuốt dưới xóm dưới đường hơi khó đi một chút.
Sau khi nghe anh thông dịch nói lại , không bỏ sót một tia hy vọng vào , Peter
vội khẩn khoản bà ấy giúp mình.
Họ chọn ra giải pháp cả nhóm sẽ ngồi ở quán cafe đầu chợ .
Trước là chờ gặp người tên Thu mà người đàn bà ấy vừa nói .
Sau là uống ít nước và nghĩ ngơi tạm bởi vì nhóm họ điều thấm mệt sau hàng nữa ngày trời đi tới đi lui.
Người đàn bà kia thì lên một chiếc xe honda ôm đã được Peter trả tiền tới nhà chị Thu và nhắn chị ấy có người cần gặp ngồi chờ nơi quán nước trước cổng chợ.
Buổi xế trưa , sau bữa cơm chị Thu đang cho mấy con gà ăn trước sân như thường
nhật chợt có tiếng xe honda dừng trước cửa.
Khi nghe nói có ông tóc vàng mắt xanh cần gặp một người tên Thu .
Trước sống ở Sài Gòn và cở bằng độ tuổi của chị vì có chuyện cần , chị hai Thu đã luống cuống tay chân , buông luôn cái thau đựng cơm nguội xuống sân nhà .
Chị không kịp cám ơn người đàn bà tốt bụng mà vội chạy vào lấy cái nón lá và lên tiếng gọi ông chồng mình đang lui cui sau vườn.
Tay chị run rẩy đến nổi không thay nổi cái áo bà ba nên chị mặc nó tròng đôi vào cái áo đang bận .
Chị lập cập không giấu được vẻ hồi hộp của mình khi ngồi lên chiếc xe do chồng mình nổ máy chờ sẳn chạy vội ra chợ.
Ở quán cafe mọi người không dấu được ánh mắt tò mò trước hai vị khách ngoại
quốc đang ngồi chờ như ngóng trông ai đó.
Xe ngừng trước quán chị Thu bươn bả đi vào , đám đông khẽ nhích ra nhường lối cho chị .
Nãy giờ đi ngoài trời chói nắng nên chị lột vội cái nón lá quẳng vô góc để nhìn cho rõ , Peter cũng vội vã đứng lên .
Không cần phải nói hay hỏi han điều gì chỉ cần nhìn mặt Peter chị Thu đã biết đó chính là em trai của mình bởi Peter giống cha anh ta John Simth thuở xưa như tạc .
Chị Thu khóc ngất nói trong tiếng nấc :
-Em ơi ….Phú ơi ….
Cơn xúc động dâng lên cao độ khiến chị Thu loạng choạng như muốn ngất .
Peter vội đở lấy chị mình dìu chị ngồi xuống ghế anh ta cũng khóc khi nhìn gương mặt của chị Thu với những đường nét của mẹ mình ngày xưa.
Nhoài người tới ôm lấy người chị của mình Peter lắp bắp bằng một thứ tiếng Việt ngọng nghịu :
-Chị … chị Hai … Phú nè …chị chị Hai
Tiếng chị Thu miếu máo ngắt quãng từng chập :
-Mẹ mong chờ mấy em biết bao nhiêu… hu..hu …mẹ mất rồi em ơi .
Trong khi Jessica vợ của Peter nhẹ đưa cánh tay vỗ vỗ lên lưng chồng mình như
sẻ chia dù cô không hiểu chuyện gì đang xảy ra cũng như người đàn bà kia nói gì
.
Thì chồng chị hai Thu biết rõ câu chuyện hơn do vợ mình thường kể nên anh cố giấu đi vẻ xúc động bằng cách nói như phân bua:
-Em của vợ tui , chị em ruột ấy thất lạc mấy chục năm rồi không tin tức chi
hết.
Nhìn thấy một ông ngoại quốc cao lớn nắm chặt tay một người đàn bà Việt Nam mãnh
mai miệng chỉ lắp bắp được vài chữ ”chị ơi..”.Một số người trong quán hôm ấy
khẽ lén lau đi giọt nước mắt vừa ứa ra.
*****
Một buổi tối của hai tháng sau .
Nhà chị Thu đèn đuốt mở sáng choang nhiều người đi tới đi lui .
Mấy bà chị thì nhỏ to dưới bếp bên cạnh nồi cháo gà và vài món ăn nhẹ .
Họ lo không biết những ông bà người Mỹ ở nhà trên có ăn được những món ăn Việt Nam không và nêm nếm như vậy có vừa khẩu vị của họ chưa .
Vài người trẻ trong xóm ngồi ngoài mấy cái ghế tre trước hiên của nhà chị Thu .
Đôi ba ông cụ bà cụ lớn tuổi một chút ngồi trong phòng khách cùng chị hai Thu , Peter , Mary và Ann.
Họ tới mừng cho chị khi nghe được tin chị em trùng phùng sau bao năm và tò mò chờ nghe câu truyện có phần hơi ly kỳ của họ .
Bốn chị em của chị Thu ngồi trên bộ di văng nói chuyện với nhau .
Mary còn nói được chút ít tiếng Việt , Peter và thì nhớ được một vài câu xã giao ngọng nghịu .
Riêng Ann thì không nhớ một câu nào , cả ba người họ phải nói qua người phiên dịch đang ngồi trên cái ghế nhỏ cạnh đó .
Chị Hai Thu đưa khăn lên lau nước mắt khi nghe Peter kể sau khi ba chết họ về sống cùng ông bà ở nơi mới .
Đi học Peter hay bị bọn trẻ chọc ghẹo kỳ thị vì là con lai .
Khiến cậu ta đánh nhau đến nổi chút nữa thì bị đuổi học.
Chị lại cười khi Mary nói lúc về Mỹ muốn ăn trứng ấp thảo với cháo trắng như ngày xưa mẹ nấu ở Việt Nam nhưng đành chịu vì không biết cái trứng đó tên là gì.
Bao nhiêu năm Mary luôn cảm thấy tủi thân và không vui khi ai đó hỏi về nguồn cội bởi Mary không biết trả lời họ ra sau.
Ra vẻ ái ngại Ann nhìn họ rồi khẽ nói ,qua người thông dịch rằng :
” Lúc đầu khi nhìn những tấm ảnh cũ ố vàng ngày xưa và nghe anh Peter thông
báo tìm được chị và nhắn thu xếp về gặp nhau .
Cô được một vài người khuyên nên cẩn thận để tránh sự nhầm lẩn thậm chí biết đâu chừng đó là sự giả trá , lường gạt .
Vì khi đi cô là người nhỏ tuổi nhất rồi sống ở môi trường không có người Việt nên ký ức về chị trong cô không còn được rõ nét như hai anh chị mình .
Nên cô thật sự có phần dè dặt ,không tin lắm nhưng trên đường về đây khi ghé qua quán ăn tạm ở dọc đường , chị hai Thu đã ngăn cô lại khi cô định ăn một bát súp.
Chị ấy nói rằng súp đó được nấu bằng tôm mà chị biết rõ Ann từ nhỏ đã dị ứng với đồ biển. Rồi chị nhờ người thông dịch hỏi giúp chị vết sẹo trên đùi Ann có biến mất theo
thời gian không hay là to hơn .
Ann cố ý hỏi vặn lại vết sẹo gì ? Chị Hai Thu nói ngày trước Ann từng bị té vào chậu hoa sau vườn nhà nên đùi có một vết thẹo khá dài , chính chị đã băng lại giúp cô .
Ann đưa khăn giấy chậm nước mắt bằng vẻ bối rối , xúc động cô ngỏ lời xin lổi chị mình vì những nghi ngờ trước đó .
Bởi bây giờ cô đã tin chị thật sự là chị Hai của cô ngày xưa.
Ann hứa với chị khi về Mỹ sẽ cố gắng học thêm ít tiếng Việt để có thể trực tiếp nói chuyện với chị mà không cần phiên dịch .”
*****
Sáng hôm sau khi tia nắng bình minh vừa hiện ra ở chân trời , gió dìu dịu mùi sương sớm .
Trước ngôi mộ của dì Ba Thơm nơi phần đất hương hỏa giữa đồng .
Bốn mái đầu rấm rức khóc và cuối lặng thật lâu .
Trong mùi hương trầm và những bó hoa thơm lan tỏa lãng bãng , tiếng chị hai Thu nghèn nghẹn khấn :
-Má …con dẩn mấy em đến thăm má .Xin má linh thiêng phù hộ độ trị cho chị em
con và xin má an lòng yên nghĩ.
Một ngày cuối chiều ở sân bay , khi tiếng loa thông báo nhắc nhở tên ba vị
khách còn lại của chuyến bay về Mỹ nhanh chóng ra cửa khởi hành .
Vòng tay của chị em họ lại vội vã ôm lấy nhau giữa khóc – cười họ hứa sẽ quay lại sớm vào một ngày nào đó cùng gia đình của mình .
Mary vội nói cùng chị bằng cái âm chưa chuẩn và quơ tay như minh họa cho lời nói:
-Em biết Việt Nam gọi ngày chết là đám giỗ rồi .
Đám giỗ má vào mùng 9 sau tết Việt Nam.
Tụi em sẽ về vào ngày đó hằng năm .
Chị Hai yên tâm giữ sức khoẻ .
Mắt chị Hai Thu vẩn còn đỏ và đầy nước nhưng miệng chị cười tươi .
Chị đưa cánh tay lên lưu luyến vẩy theo dáng những đứa em của mình đang khuất dần sau cánh cửa kiếng
.
Có một dịp tình cờ nào đó sau tết âm lịch trong cái không khí hãy còn Xuân .
Bạn chợt ngang qua một thị trấn nhỏ xinh đẹp thuộc một tỉnh miền Tây đồng bằng sông Cửu Long .
Đi tới cái xóm nhỏ mà địa danh ngày xưa gọi là Xẻo Bần vô tình bạn nhìn thấy một nhóm người trên đường làng hay trong cái quán Phở ở chợ .
Nhóm người đó trung niên có , trẻ có , tây ta lẩn lộn .
Đôi khi cô gái trẻ tóc vàng mắt xanh cao lớn đang cố trọ trẹ học câu tiếng việt từ một cô Việt Nam cũng còn khá trẻ .
Rồi cũng có lắm lúc cô gái Việt Nam nói những câu Anh Ngữ để giải thích sự việc gì đó cho cô gái kia .
Thỉnh thoảng hai người trung niên lại nói tiếng Việt bằng một âm điệu chưa chuẩn lắm làm bà chị của họ bật cười.
Bạn đừng lấy làm ngạc nhiên bởi đó chính là đại gia đình của chị em họ và
con cái thuộc thế hệ kế .
Những người họ khác biệt nhau về ngôn ngữ , chủng tộc , tập quán và ở cách xa nhau nửa quả địa cầu , hàng chục giờ bay .
Nhưng họ có chung một thứ ,đó chính là dòng máu chảy trong huyết quản của họ có sự hiện diện của cái gọi là Ruột Thịt Tình Thân .
Cuối cùng thì tất cả các dòng sông điều trở về biển như một quy luật muôn
đời ….
Song Nhi
Anh Nguyễn Đình Hữu gởi
Quốc tế chỉ trích Việt Nam về các án tù đối với 14 thanh niên Công giáo
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Victoria Nuland.
10.01.2013
nguồn: VOA
Hoa Kỳ và các tổ chức bảo vệ nhân quyền trên thế giới đồng loạt lên án nhà cầm quyền Việt Nam về các mức án lên tới 13 năm tù đối với 14 nhà hoạt động Công giáo trẻ. Tòa án Nhân dân tỉnh Nghệ An hôm 9/1 kết tội những thanh niên này ‘hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân’ vì có liên hệ tới đảng Việt Tân ở hải ngoại.
Những bản án này cùng với việc bắt giữ các blogger khác và một luật sư nhân quyền hôm 27/12 là một phần trong xu hướng nhân quyền hết sức đáng quan ngại của Việt Nam…
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Victoria Nuland.
Ngay trong ngày 9/1, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã lên tiếng bày tỏ quan ngại sâu sắc trước việc Hà Nội kết án 14 nhà hoạt động vì họ đã thực thi quyền tự do bày tỏ quan điểm của công dân.
Vụ xử hàng loạt các nhà hoạt động Công giáo trẻ diễn ra sau khi Hà Nội bắt giam
nhà bất đồng chính kiến tích cực cổ võ cho tự do tôn giáo và nhân quyền tại
Việt Nam, luật sư Lê Quốc Quân, với cáo buộc tội ‘trốn thuế’ và giữ y án tổng
cộng 22 năm tù đối với blogger Điếu Cày, Tạ Phong Tần bất chấp sự phản đối mạnh
mẽ của thế giới.
Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Mỹ, Victoria Nuland, nhấn mạnh:
“Những bản án này cùng với việc bắt giữ các blogger khác và một luật sư
nhân quyền hôm 27/12 là một phần trong xu hướng nhân quyền hết sức đáng quan
ngại của Việt Nam, khơi dậy những nghi vấn nghiêm túc về các cam kết của Hà Nội
với Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị và với Tuyên ngôn Quốc tế
Nhân quyền.”
Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho biết trong số các trường hợp mà chính
phủ Hoa Kỳ quan tâm và vẫn đang nêu lên với chính phủ Việt Nam có blogger Điếu
Cày, Tạ Phong Tần, AnhbaSG, và 14 thanh niên Công giáo vừa bị kêu án tổng cộng
hơn 80 năm tù hôm 9/1.
14 người Công giáo và Tin Lành bị cáo buộc ‘hoạt động nhằm lật đổ chính quyền’
(ảnh: thanhnienconggiao).
14 nhà hoạt động mà nhiều người trong số này là các blogger bị Việt Nam cáo buộc là thành viên hoặc tham gia hoạt động với đảng Việt Tân, một tổ chức chính trị đấu tranh đòi dân chủ cho Việt Nam. Hà Nội cáo buộc Việt Tân là một tổ chức khủng bố, nhưng chính phủ Mỹ nói không có bằng chứng cho thấy Việt Tân cổ xúy bạo động.
Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội kêu gọi Việt Nam phóng thích ngay lập tức các nhà
hoạt động này cùng tất cả các tù nhân lương tâm khác.
Cùng ngày 9/1, đồng Chủ tịch Nhóm Nhân quyền Việt Nam, dân biểu liên bang Hoa
Kỳ Loretta Sanchez, ra thông cáo nêu rõ tình trạng đàn áp nhân quyền tại Việt
Nam là một thách thức với lương tâm của thế giới, khiến quốc tế phẫn nộ và
chứng tỏ Hà Nội không chấp nhận sự bất đồng chính kiến.
Dân biểu Loretta Sanchez.
Dân biểu Sanchez đề nghị chính phủ Mỹ phải hành động ngay lập tức trước thực trạng vi phạm nhân quyền tiếp diễn tại Việt Nam. Bà Sanchez cho biết sẽ tiếp tục kêu gọi Quốc hội Mỹ vận động chính quyền của Tổng thống Barack Obama chống lại sự đàn áp nhân quyền ở Việt Nam.
Các tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế nói bản án của 14 thanh niên Công giáo là
hành động chà đạp công lý và nằm trong khuôn khổ chiến dịch đàn áp ngày càng
mạnh tay của Hà Nội đối với quyền tự do bày tỏ quan điểm.
Hội Ân xá Quốc tế cho rằng diễn giải hoạt động của 14 người trẻ này là âm mưu
lật đổ chính quyền là vô căn cứ. Năm ngoái, chính phủ Việt Nam đã tăng cường
trấn áp các tiếng nói chỉ trích nhà nước và các nhà hoạt động ôn hòa. Ân xá
Quốc tế dự đoán với bản án của 14 thanh niên Công giáo đầu năm 2013, xu hướng
này sẽ tiếp diễn trong năm nay.
Theo tổ chức Theo dõi Nhân quyền Human Rights Watch, vụ án của 14 nhà hoạt động
ôn hòa là một bằng chứng thêm nữa chứng tỏ sự chuyên quyền, bạo ngược của Hà
Nội đối với nhân dân và với thế giới khi cho rằng những ai tìm cách bảo vệ
quyền con người là một mối đe dọa cho nhà nước.
Ủy ban Bảo vệ Ký giả CPJ chỉ ra rằng các bản án khắc nghiệt cho thấy mức độ quá
đáng của Việt Nam trong việc sẵn sàng đàn áp giới làm báo độc lập. CPJ kêu gọi
chính quyền Hà Nội đảo ngược phán quyết với 14 nhà hoạt động trẻ và phóng thích
tất cả các nhà báo tự do đang bị cầm tù vì những tội danh giả mạo liên quan đến
an ninh quốc gia.
Theo thống kê năm 2012 của CPJ, Việt Nam xếp thứ sáu trên thế giới trong danh
sách các nước bỏ tù ký giả tệ hại nhất.
QUÀ TẶNG GIÁNG SINH CHO MẸ
Andy ngồi trên tuyết, cậu bé thấy lạnh hơn từng giây một. Andy không đi ủng – thứ mà người ta vẫn thường đi trên tuyết vào mùa đông. Cậu bé không thích ủng và dù
sao cậu bé vẫn không có ủng cơ mà. Đôi giày vải, mỏng dính, mòn vẹt mà Andy
đang mang đã có vài lỗ thủng và chúng không thể làm được việc là giữ ấm cho đôi
chân cậu bé.
Andy đã ngồi trên tuyết thật là lâu rồi. Và dù cố đến mấy, cậu bé vẫn không thể
nghĩ ra được món quà Giáng sinh cho Mẹ. Cậu bé buồn bã lắc đầu ” Vô ích
thôi, dù rằng mình có nghĩ ra món quà gì, mình cũng không có tiền mà .”
Từ khi bố Andy mất 3 năm về trước, gia đình cậu bé suy sụp nặng nề. Ban đêm Mẹ
cậu làm việc ở bệnh viện, nhưng với đồng lương ít ỏi chỉ đủ mấy mẹ con sống tạm
qua ngày. Chúng còn nhỏ lắm, chẳng biết có nghĩ ra món quà gì để tặng Mẹ hay
không. Thật không công bằng, bây giờ đã là chiều tối đêm Giáng sinh mà cậu bé
vẫn ngồi đây, chẳng thể nghĩ được điều gì cả.
Chú chùi những giọt nước mắt, Andy đứng dậy đi xuống phố – nơi có rất nhiều cửa
hàng. Cuộc sống thật khó khăn khi mà cậu bé mới 6 tuổi và không có bố, đặc biệt
là khi mà người ta cần một người đàn ông để tâm sự. Andy đi từng cửa hàng này
sang cửa hàng khác, nhìn vào từng cửa sổ rực rỡ một. Mọi thứ đều đẹp và ngoài
khả năng của cậu. Trời đã bắt đầu tối, Andy buồn bã định quay về nhà thì bỗng
nhiên cậu bé nhìn thấy một vật gì đó ánh lên trong tuyết. Andy cúi xuống: 1
đồng xu nhỏ bóng loáng dưới đất. Hẳn chưa ai có cảm giác được giàu có như là
Andy cảm thấy vào lúc ấy.
Khi Andy nắm chặt “kho tàng mới nhặt được ” của mình, cậu bé cảm thấy như có hơi ấm chạy qua cơ thể, và cậu mạnh dạn bước vào cửa hàng đầu tiên, niềm hân hoan của
Andy ngay lập tức bị đóng băng lại khi từng nhân viên bán hàng bảo với cậu rằng
chẳng thể làm gi với đồng xu nhỏ xíu đó. Cậu bé đi ra, nhìn thấy một cửa hàng
hoa, Andy liều đứng lại xếp hàng
Khi người chủ cửa hàng hỏi Andy cần gì, cậu bé đưa một đồng u và e dè hỏi liệu
mình có thể mua được 1 bông hoa tặng Mẹ trong đêm Giáng sinh với đồng xu nhỏ
xíu này không, người chủ cửa hàng nhìn Andy, đặt tay lên vai cậu bé và nói
:” Đợi một chút, con trai, để ta xem có thể làm gì cho con.”
Khi đứng chờ, Andy ngắm những bông hoa tuyệt đẹp và cậu đã hiểu vì sao Mẹ cậu
cũng như bao người phụ nữ khác lại thích hoa đến thế.
Tiếng đóng cửa sớm khi người khách cuối cùng rời khỏi cửa hàng đã đưa cậu quay
về với hiện thực. Còn lại một mình trong cửa hàng, Andy bắt đầu cảm thấy cô đơn
và hoảng sợ. Bỗng người chủ cửa hàng lại đi ra.
Trước mắt cậu bé là 12 bông hồng đỏ thắm, cuống dài, lá xanh cùng với những
bông hoa gì đó trắng, nhỏ li ti, được bọc thành một bó có dây nơ màu bạc. Tim
Andy ngừng một nhịp khi ông chủ cửa hàng đặt bó hoa vào một chiếc hộp trắng và
bảo: “Tất cả là một đồng xu, con trai.”
Andy chậm chạp đặt đồng xu vào tay ông chủ cửa hàng. Không thể là thật được!
Không ai bán cho cậu cái gì với một đồng xu đâu ! Nhận thấy sự băn khoăn trên
mặt cậu bé, ông chủ cửa hàng giải thích: ” May mắn là ta có mấy bông hoa
bán với giá một đồng xu một bó. Con trai có thích không ? ”
Lần này thì Andy không ngần ngại nữa. Ra khỏi cửa hàng, Andy nghe thấy tiếng
ông chủ nói với theo :” Giáng sinh vui vẻ, con trai .”
Khi ông chủ cửa hàng quay vào trong nhà, vợ ông hỏi :”ông vừa nói chuyện và đem hoa cho ai thế ?” Nhìn qua cửa sổ và chớp chớp mắt để ngăn không cho nước mắt trào ra, ông chủ cửa hàng khẽ nói :” Một điều thật lạ lùng đã xảy ra. Sáng nay, khi
tôi chuẩn bị mở cửa hàng, tôi có cảm giác như ai đang mách bảo mình để sang bên
cạnh 12 bông hoa hồng thật đẹp vì đó sẽ là món quà đặc biệt. Tôi đã nghĩ là
mình đã tưởng tượng ra, thế nhưng tôi vẫn cứ để 12 bông hồng ra một chỗ. Và
ngay lúc nãy, một cậu bé vào cửa hàng và muốn mua hoa để chúc Giáng sinh cho Mẹ
chỉ với 1 đồng xu. Nhìn vào cậu bé, tôi thấy tôi của nhiều năm về trước. Tôi đã
là một đứa trẻ nghèo khổ không biết mua gì cho Mẹ vào đêm Giáng sinh.
Một người qua đường đã cho tôi 10 dolla không vì lý do gì. Khi tôi nhìn thấy
cậu bé tối hôm nay, tôi biết người đã mách bảo tôi là ai….
Tối Giáng sinh ấy, cả gia đình người chủ cửa hàng hoa và cả gia đình Andy nữa,
không ai cảm thấy lạnh chút nào….
Lequangchac sưu tầm
Phan Thiết đêm 22/12/2012
Chị Nguyễn Kim Bằng gởi
Chúa làm tất cả!
WGPSG — Gần đây tôi có tham gia vào một công trình khoa học kỹ thuật khá lớn. Vì qui mô lớn của công trình, chúng tôi phải tìm kiếm những chuyên viên có trình độ và kinh nghiệm trong nhiều lãnh vực để cộng tác.
Vì là công trình của Giáo Hội nên thường thì các cộng tác viên sẽ phải là người Công Giáo, không phải chúng tôi có sự phân biệt gì giữa lương với giáo, nhưng trong quá trình nghiên cứu và sáng tác, vai trò Lòng Tin đóng một vị trí quan trọng cùng với những kiến thức cần thiết về tôn giáo, không kể trong khi làm việc sinh hoạt với nhau, đồng đạo sẽ dễ nói chuyện và dễ tổ chức chương trình chung hơn. Dù vậy, cũng có một vài lãnh vực không nhất thiết phải là người có Lòng Tin mới làm được, vì nó đơn thuần khách quan khoa học.
Có một vị tiến sĩ khoa học rất trẻ, tốt nghiệp từ nước ngoài về, làm giảng viên của một trường đại học công uy tín trong cả nước, anh không phải là Công Giáo nhưng lại nhận lời cộng tác với chúng tôi. Anh không tham gia từ đầu (công trình đã khởi sự ba năm nay) nhưng chỉ tham gia khi công trình bước vào phần chuyên môn của anh. Chúng tôi quen nhau và làm việc với nhau đến này cũng gần tròn một năm.
Trong một chuyến đi khảo sát vùng cao nguyên, chúng tôi được Đức Cha Kontum tiếp đặc biệt. Sau buổi nói chuyện, khảo sát công trình và bữa ăn, Đức Cha có tặng đoàn chúng tôi mỗi người hai cuốn sách về công cuộc truyền giáo ở Giáo Phận Kontum.
Lưu lại Kontum và Pleiku hai ngày, trên đường ra phi trường trở lại Sàigòn, anh hỏi tôi nhiều điều về những vấn đề tôn giáo, tôi ngạc nhiên về những câu hỏi này, anh cho biết hai ngày qua, từ khi được Đức Cha tặng sách, anh đã đọc ngay và đọc xong trọn vẹn hai cuốn sách ấy, trong khi cũng hai cuốn sách này vẫn còn nằm nguyên trong balô của tôi và của mọi người “có đạo” trong đoàn, chưa ai mở ra đọc và đọc tới nơi tới chốn như anh. Tôi e rằng tính đến hôm nay đã hai tháng, chắc cũng chưa có ai đọc hết hai cuốn sách đó ngoại trừ anh.
Cách đây hai ngày khi chúng tôi cần phải làm việc với nhau, một ngày làm thí nghiệm, mọi việc êm ả trôi qua, kết quả khả quan. Hôm sau, chúng tôi ngồi làm việc trong phòng, bầu khí căng thẳng, nhiều tranh cãi và nhiều bất đồng. Khi trời đã xế chiều, tôi mệt mỏi tỏ vẻ thất vọng và buồn phiền về những kết quả ít ỏi trong ngày, anh nhìn tôi và nói với mọi người: “Cha đừng lo, Chúa sẽ giải quyết hết cho chúng ta”. Tôi ngạc nhiên về lời nói của anh, một cộng tác viên duy nhất trong nhóm là người không Công Giáo, một cộng tác viên duy nhất nói lời… phó thác cho Chúa! Anh, một người bị coi là “ngoại đạo”, chứ không phải là tôi, một Linh Mục Công Giáo.
Chiều tối ấy, trên bàn ăn vui vẻ với nhau, một cộng tác viên Công Giáo nói với tôi: “Từ hôm qua đến hôm nay, con đếm được anh ta nói đến năm lần câu: Chỉ có Chúa làm được thôi! Và cũng chỉ có mỗi mình anh ta nói câu ấy!”
Từ ngày làm việc với nhau, máu nhiệt thành tự nhiên khuyến khích tôi tìm cách giới thiệu Đạo với anh, tôi mong muốn qua cơ hội này anh biết Chúa và tôi cũng nhớ cầu nguyện cho anh nữa. Nhưng bất ngờ hôm nay, anh củng cố niềm tin của tôi, anh truyền cho tôi và những anh chị em “có đạo” niềm tin của anh, niềm tin rất đơn giản và nguyên sơ, niềm tin chưa hề qua Bí Tích. Tôi tự hỏi “Ai truyền niềm tin cho ai?”
Một lần nữa trong nhiều lần, tôi có bài học Chúa làm tất cả! Chẳng phải tôi, chẳng phải ai, mà là Chúa, Chúa làm việc của Chúa. Đừng ai nghĩ là chính mình làm, đừng ai tự hào vô duyên, kiêu căng lố bịch, vênh vang như là không hề chịu lấy!
Bài học Máng Cỏ là bài học gì trong Mùa Giáng Sinh này?
Maria Thanh Mai gởi
“Phúc cho những ai kiến tạo hòa bình”
Sứ Điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới Năm 2013
“Phúc cho những ai kiến tạo hòa bình”
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
1. Năm mới luôn mang lại cho chúng ta niềm hy vọng về một thế giới tốt đẹp hơn. Trong ánh sáng này, tôi nguyện xin Thiên Chúa, là Cha của nhân loại, ban cho tất cả chúng ta sự hoà thuận và bình an để những khao khát của chúng ta về một đời sống hạnh phúc và thịnh vượng có thể được thành tựu.
Năm mươi năm sau ngày khai mạc Công Đồng Vaticano II vốn là sự kiện giúp chúng ta đào sâu sứ mạng của Giáo hội trong thế giới, chúng ta phấn khởi nhận ra rằng những người Kitô hữu, như là Dân Thiên Chúa trong việc bước theo Người và sống giữa lòng thế giới, chúng ta dấn thân vào lịch sử để chia sẻ vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng [1], khi chúng ta công bố ơn cứu độ của Đức Kitô và thăng tiến hòa bình cho nhân loại.
Thực tế, thời đại của chúng ta được đánh dấu bởi sự toàn cầu hoá với những khía cạnh tích cực và tiêu cực của nó, cũng như sự tiếp nối của những xung đột bạo lực và những đe doạ của chiến tranh, đòi hỏi một sự dấn thân mới mẻ và mang tính hợp tác trong việc theo đuổi ích chung cũng như sự phát triển của mọi người, và sự phát triển toàn diện của con người.
Thật đáng báo động khi chứng kiến sự lan tràn của những căng thẳng và xung đột gây ra bởi sự phát triển của sự bất bình đẳng giữa giàu và nghèo, sự lan tràn của não trạng cá nhân và ích kỷ vốn tìm thấy sự biểu hiện của nó trong chủ nghĩa tư bản tài chính thiếu sự kiểm soát. Bên cạnh những hình thức đa dạng của chủ nghĩa khủng bố và tội ác quốc tế, hoà bình cũng bị đe doạ bởi trào lưu chính thống và chủ nghĩa cuồng
tín, bóp méo bản chất tôn giáo đích thực, vốn mời gọi cổ võ tình liên đới và sự hoà giải giữa mọi người.
Thời nào cũng vậy, những nỗ lực khác nhau trong việc kiến tạo hoà bình nhan nhãn trong thế giới chúng ta chứng minh rằng ơn gọi căn bản của con người là hoà bình. Nơi mỗi người, khao khát hoà bình là một khao khát căn bản, trong một cách thức nào đó, hoà hợp với nỗi khao khát về một đời sống hạnh phúc và thịnh vượng tròn đầy. Nói cách khác, nỗi khát khao hoà bình liên quan đến một nguyên lý luân lý nền tảng, nghĩa là liên quan đến nghĩa vụ và quyền lợi nơi sự phát triển của cộng đồng và xã hội, vốn cũng là một thành phần trong kế hoạch của Thiên Chúa dành cho con người. Con người được sáng tạo cho sự hoà bình vốn là một qùa tặng của Chúa.
Tất cả những thao thức trên thúc đẩy tôi chọn chủ đề cho Thông Điệp năm nay từ những lời của Đức Giêsu: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9).
Mối phúc Tin Mừng
2. Các mối phúc mà Đức Giêsu công bố là những lời hứa. Trong truyền thống Kinh Thánh, mối phúc là một thể loại văn chương liên quan đến những tin tốt lành, một “Tin Mừng”, là chóp đỉnh của một lời hứa. Do đó, các mối phúc không chỉ là những khích lệ về mặt luân lý, cổ võ người ta tuân giữ để thấy trước, thường là trong đời sống mai hậu, những phần thưởng hay những vị thế hạnh phúc trong tương lai. Đúng hơn, phúc lành mà các mối phúc nói đến hệ tại ở việc viên mãn của một lời hứa dành cho
tất cả những ai để cho mình được hướng dẫn bởi những đòi hỏi của chân lý, công
bình và bác ái. Trong con mắt của thế gian, những người tin tưởng vào Thiên
Chúa như thế thường bị xem là kẻ khờ khạo và xa rời thực tế. Tuy nhiên, Đức
Giêsu nói cho họ rằng, không chỉ ở đời sau nhưng ngay tại đời này, họ sẽ khám
phá ra mình là con cái của Thiên Chúa, và rằng Thiên Chúa đã, đang và sẽ mãi ở
bên cạnh họ. Họ hiểu rằng mình không lẻ loi, bởi vì Thiên Chúa là đồng minh với
những con người dấn thân cho chân lý, công bình và bác ái. Đức Giêsu, mạc khải
Tình yêu của Chúa Cha, không do dự trao ban chính mình như một sự tự hiến. Mỗi
khi chúng ta đón nhận Đức Giêsu, Đấng là Thiên Chúa và là con người, chúng ta
kinh nghiệm được niềm vui về một quà tặng lớn lao: sự sẻ chia chính sự sống của
Thiên Chúa, đời sống ân sủng và là lời hứa về sự hiện hữu hạnh phúc tròn đầy.
Cụ thể, Đức Kitô ban cho chúng ta bình an đích thực phát sinh từ một cuộc gặp
gỡ đầy tin tưởng giữa con người với Thiên Chúa.
Mối phúc của Đức Giêsu nói cho chúng ta biết hoà bình là một món quà của Đấng Mesia nhưng đồng thời cũng là hoa trái phát sinh từ những nỗ lực của con người. Thực vậy, hoà bình giả thiết về sự mở ra của con người đối với siêu việt. Nó là hoa trái của một món quà hỗ tương, của một sự phong phú mang tính hai mặt. Nhờ vào quà tặng này, một quà tặng có nguồn cội nơi Thiên Chúa, chúng ta có thể sống với và sống cho người khác. Nền đạo đức của hoà bình là đạo đức của tình liên đới và chia sẻ. Điều
tuyệt đối cần thiết là những nền văn hoá của chúng ta trong thời đại ngày nay
cần vượt qua những hình thức nhân loại học và đạo đức dựa trên những giả định
vốn chỉ mang tính chủ quan và thực dụng, nơi đó mối tương quan đồng tồn tại
được gợi hứng bởi các tiểu chuẩn về quyền lực và ích lợi, phương tiện trở thành
cùng đích chứ không phải ngược lại, văn hóa và giáo dục chỉ đơn thuần tập trung
vào thiết bị, kỹ thuật và hiệu quả.
Điều kiện cần thiết để có hoà bình là sự xoá bỏ chế độ độc tài của chủ nghĩa tương đối và của một giả định về nền luân lý hoàn toàn tự trị vốn không thừa nhận luật luân lý tự nhiên, được Thiên Chúa ghi khắc trong lương tâm của mỗi người nam và người nữ. Hoà bình cần được xây dựng trên sự đồng hiện diện của những thuật ngữ lý trí cũng như luận lý, được đặt nền tảng trên những tiêu chuẩn vốn không phải do con người tạo
nên, nhưng đúng hơn là do Thiên Chúa. Thánh Vịnh 29 nói rằng: Xin Yavê ban uy
lực cho dân Người, Yavê chúc lành cho dân Người bình an” (câu 11).
Hoà bình: Quà tặng của Thiên Chúa và hoa trái của nỗ lực con người
3.Hoà bình liên quan đến con người xét như toàn thể và nó đòi hỏi sự dấn thân trọn vẹn. Hoà bình với Thiên Chúa là một đời sống được sống theo ý muốn của Ngài. Hoà bình cũng là một sự bình an nội tâm nơi chính mình và hoà bình ngoại tại với tha nhân và với các tạo vật. Trên hết, như chân Phước Gioan 23 đã viết trong thông điệp Hòa Bình Trên Thế Giới (Pacem in Terris), mà chúng ta sẽ kỷ niệm 50 vào những tháng tới, hòa bình đòi hỏi xây dựng trên một sự đồng tồn tại được đặt nền tảng trên chân lý, tự do, bác ái và công bình[2]. Sự khước từ điều làm nên bản chất đích thực của con người trong những chiều kích thiết yếu nhất, trong khả năng nội tại để biết chân lý và sự thiện, và một cách tối hậu, là khả năng nhận biết chính Thiên Chúa, sẽ gây nguy hại cho việc kiến tạo hòa bình. Không có chân lý về con người vốn được Đấng Tạo Hóa ghi dấu trong trái tim con người, tự do và bác ái trở nên giả tạo, và công bình đánh mất đi nền tảng tồn tại của chính mình.
Để trở nên người kiến tạo hòa bình đích thực, chúng ta cần phải luôn nhớ về chiều kích siêu việt của mình và phải đi vào một cuộc đối thoại liên lỉ với Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, ngang qua đó chúng ta sẽ khám phá ra ơn cứu chuộc mà Người Con Duy Nhất của Ngài đã mang đến cho chúng ta. Nhờ đó, con người có thể vượt qua được những bóng mờ của sự tiến bộ và sự khước từ hòa bình vốn là tội lỗi trong tất cả hình thức của nó: ích kỷ, bạo lực, kiêu căng, khao khát quyền lực và thống trị, thiếu lòng khoan dung, ghen ghét và các cơ cấu bất công.
Thành tựu hòa bình phụ thuộc trước hết vào việc chúng ta nhận ra, nơi Thiên Chúa chúng ta là một gia đình nhân loại. Như Hòa Bình Trên Thế Giới (Pacem in Terris) dạy rằng, gia đình này được cấu trúc bởi các mối tương quan liên vị và các thể chế vốn được hỗ trợ và được làm sống động bởi cộng đồng “chúng ta”, đòi hỏi một trật tự luân lý nội tại cũng như ngoại tại, mà trong đó, hợp với chân lý và công bình, các quyền hỗ
tương và các nghĩa vụ tương ứng được chân nhận. Hòa bình là một trật tự được
sống động và hòa hợp bởi đức ái, trong đó chúng ta sẽ cảm thấy nhu cầu của tha
nhân cũng là của chính mình; chúng ta chia sẻ thiện ích với tha nhân và lao tác
cho thế giới cho một sự hiệp thông lớn hơn về những giá trị tinh thần. Hòa bình
là một giá trị đạt được trong tự do, nghĩa là trong một cách thế phù hợp với
phẩm giá của con người, với bản chất của mình như là những hữu thể có lý trí,
con người chịu trách nhiệm cho hành động của mình.[3]
Hòa bình không phải là một giấc mơ hay một điều gì đó không tưởng, nhưng là một điều khả thi. Chúng ta cần nhìn sâu xa hơn, vượt qua những vẻ bề ngoài và các hiện tượng bên ngoài, chúng ta sẽ nhận ra một thực tại tích cực tồn tại trong trái tim con người, vì mỗi người nam và nữ đã được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa và được mời gọi để lớn lên và góp phần vào việc xây dựng một thế giới mới. Chính Thiên Chúa, ngang qua mầu nhiệm nhập thể của Người Con và công trình cứu chuộc của Người, đã đi vào lịch sử và đã mang đến một cuộc tạo dựng và một giao ước mới, giao ước giữa Thiên Chúa và con người (xem Gr 31,31-34), và ngài cũng ban cho chúng ta một “trái tim mới” và một “thần khí mới” (xem Gr 36,26).
Vì lý do này, Giáo Hội nhận ra một nhu cầu cấp thiết trong việc tái công bố về Đức Giêsu, là yếu tố đầu tiên và nền tảng của sự phát triển hội nhất nơi con người và cũng là của sự hòa bình. Đức Giêsu là hòa bình đích thực, là công bình và sự hòa giải của chúng ta (x. Ep 2,14; 2Cr 5,18). Người kiến tạo hòa bình, theo mối phúc của Đức Kitô, là người tìm kiếm thiện ích cho người khác, thiện ích trọn vẹn nơi linh hồn và
trong thân xác, hôm nay cũng như mai sau.
Từ lời dạy này, người ta có thể suy ra rằng, mỗi người và mỗi công đoàn, cho dù thuộc về tôn giáo, nền giáo dục và văn hóa nào đi nữa, tất cả đều được mời gọi để lao tác cho hòa bình. Hòa bình là một sự thành tựu những thiện ích nơi một xã hội trong mọi mức độ khác nhau, ở mức độ cơ sở, trung cấp, quốc gia, quốc tế và toàn cầu. Rõ ràng, vì lý do này con đường để đạt đến thiện ích chung cũng chính là con đường phải đi
trong việc theo đuổi hòa bình.
(còn tiếp)
Maria Thanh Mai gởi
TÂM TRẠNG CHÁN ĐỜI KHÔNG NÊN Ở KHÔNG
Tác giả: Tuyết Mai
Nếu thỉnh thoảng chúng ta có tâm trạng chán nản, không buồn ra khỏi giường, không muốn đi đâu hay muốn làm gì dù có người rủ mời, là chuyện bình thường thôi! Chẳng có gì đáng lo ngại hay bất bình thường cả!. Ta hãy đổ thừa cho thời tiết thất thường,
nhất là vào mùa lạnh, thiếu bóng dáng của ánh nắng mặt trời, và đường xá có
tuyết phủ. Hay những mùa mưa thì cũng chẳng cách nào ta ra đường cho được vì lụt lội và vì trời u ám xám xịt cả ngày. Khí hậu thì luôn ảnh hưởng đến sức khỏe của con người nhất là cái lạnh thấu xương. Nhìn quanh ai ai cũng cảm, cũng ho, cũng khò khè, và quấn mền không ra được khỏi cái giường.
Có buồn chán lắm không vì chẳng biết làm gì cho qua thời giờ mà nhất là ta có rất nhiều giờ trong tay mà không biết làm gì cho qua giờ qua khắc?. Nhất là các anh chị em trẻ sau mùa thi cử, nghỉ hè, hay bị nghỉ bất đắc dĩ vì bị mất việc, v.v……
May mà thời buổi của ngày nay rất văn minh và hiện đại, ta còn có thể liên lạc với anh chị em ở khắp cùng trên mạng, nghe nhạc cũng trên mạng, coi phim, và muốn xem bất cứ thứ gì thì chỉ cần lên mạng.
Nhưng có những lúc ta thấy cái gì cũng nhàm chán, tự ta không muốn hay cảm thấy hứng thú hoặc vui vẻ với ngay cả chính mình? Có phải ta cần có ai đó có mặt mà đấm cho mấy đấm hay thọt lét cho ta cười, hay nói những câu để ta nghe xóc óc mà chịu đứng dậy để chịu vực dậy cái tấm thân lười của ta hay không?. Đó cũng là chuyện tâm lý bình thường của con người mà thôi, không gì trầm trọng lắm đâu!.
Điều tốt nhất là ta nên tìm những việc làm có tính cách hữu ích nhất là cho cái đầu óc của mình phải bận luôn. Bận tay bận chân lại còn tốt hơn nữa vì người Việt chúng ta
có câu “nhàn cư vi bất thiện” luôn là đúng đó!. Thà là chúng ta không biết việc gì để làm thì đi ngủ là tốt nhất, vì khi ta đi ngủ nó giống như được “turn off” hoàn toàn. Mà anh chị em có biết khi ta ngủ thì là lúc mọi tế bào trong cơ thể của ta chúng được nghỉ ngơi và được dưỡng bệnh không, nhất là trong khi ta bị cảm. Mọi tế bào (cells) lúc ta nghỉ ngơi là lúc chúng làm việc rất hăng say, được sinh nở thêm để thay thế cho
những tế bào đã chết từ tận bên trong như máu, ngũ tạng, cơ bắp, mọi thứ trong
đầu và tận bên ngoài là tóc, lông, và da.
Thế cho nên sự ngủ nhiều là điều tốt cho sức khỏe phải không nào? Miễn là chúng ta đừng ngủ nhiều quá mà thôi, hay triệu chứng ngồi đâu ngáp đó cảm thấy lúc nào người cũng mệt mỏi như người thiếu ngủ, thiết tưởng ta nên đi gặp bác sĩ để khám sức khỏe toàn diện xem sao?. Chứ thường tuổi các cháu trẻ thì còn nhiều hay dư sinh lực
lắm, nên tìm việc mà làm, chứ đừng ngồi không. Chúng tôi thường khuyên các cháu nhà khi chúng được nghỉ học và chờ mùa học tới là tìm kiếm việc bán thời gian để làm, thứ nhất để có thêm tiền dành dụm phòng cho những chuyệnbất trắc có thể xẩy ra, thứ hai là cho nhu cầu tối thiểu như quần áo, sách vở, ăn vặt, và xài vặt, v.v….
Kiếm tìm thêm nơi để làm việc thiện nguyện, làm đầu tàu để rủ hết thảy các bạn cùng giúp một tay vừa được thêm người lại thêm niềm vui cho anh chị em khốn cùng. Rồi để cho quân bình đầu óc được thoải mái thì cùng rủ nhau đi chơi nhóm như leo núi, đi biển, đi công viên, thăm thắng cảnh, hay tổ chức chung ăn uống, v.v….. Cùng bao nhiêu việc bác ái khác mà các cháu trẻ có thể làm như rủ nhau đi thăm trẻ cô nhi
viện, nơi nhà tình thương, nhà tù, giúp các em sống lề đường, v.v…. Đây chỉ là
lời góp ý chứ ngoài ra còn không bao nhiêu việc hữu ích khác mà các cháu trẻ
biết đến còn nhiều hơn chúng tôi nữa!. Chúng ta chỉ sợ thiếu người có lòng thiện chí, thiếu người có tấm lòng mà thôi chứ việc thiện nguyện thì không sao mà kể hay giúp cho hết được, thưa có phải?.
Điều chúng tôi xin góp ý cho các bạn trẻ khi nào chúng cháu rảnh cảm thấy quá buồn, chán nản, không còn biết việc gì để làm hay đi đâu cho có ý nghĩa thì hãy rủ nhau làm những việc hữu ích trên, dần tập cho các cháu có trách nhiệm với chính mình và với tha nhân qua các việc chịu thương chịu khó của các cháu bỏ công, bỏ thời giờ ra làm. Khi đã có lên chương trình, có tinh thần, và có dự định làm việc gì, các cháu hãy
nên bỏ ngoài tai những lời thị phi, phê bình với tính cách thiếu tinh thần xây
dựng và làm các cháu nản lòng. Vì tình yêu thương và lý tưởng thiết nghĩ các cháu cứ thế mà làm, dù ít nhiều gì cũng làm đẹp lòng Chúa và lòng người, và có phải đó đã là làm trọn lề luật yêu thương mà Chúa kêu gọi?. Trừ khi các cháu làm vì tiền hay vì muốn được nổi nang cho riêng mình thì công việc làm phước sẽ ra uổng công mà thôi!.
Thật tội nghiệp lắm thay cho những cháu vì không được người hướng dẫn, nhất là thiếu tình yêu thương từ trong gia đình, mà phải gánh vác việc đời ngay từ tuổi còn trẻ, nên vì trẻ người non dại đã có tư tưởng làm những sự việc thiếu suy nghĩ. Vì các cháu để cho mình bị ảnh hưởng quá nhiều khi coi phim ảnh quá khiêu khích nên đã tự hủy hoại đời mình và đời của người khác, hoặc cách này hay cách khác!?.
Lậy Thiên Chúa Vua tình yêu, xin luôn yêu thương hết thảy chúng con, chúc lành và ban bình an, để chúng con cảm nhận được tình yêu Chúa trên hết thảy mọi tạo vật và mọi điều chúng con không thấy và không cảm nhận được; những gì Chúa ban cho chúng con rất nhưng không. Mà không gì trên trần gian có thể mua hay sánh ví cho bằng. Như thử chúng con nín thở để đếm tiền thì không hiểu chúng con đếm được bao nhiêu thì bị tắt thở và lăn ra chết. Nghĩ thì buồn cười Chúa nhỉ nhưng con người nông cạn của chúng con thì luôn bám lấy tiền của trần gian cho thật chặt mà chẳng bao giờ muốn buông bỏ chúng?. Amen.
** Xin bấm vào mã số để hát theo:
http://www.youtube.com/watch?v=CILVKqh7urQ
(Cảm Tạ Chúa Đến Muôn Đời)
Y Tá của Chúa,
Tuyết Mai
(1-9-13)
SỰ THINH LẶNG TRONG ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG
Giữ thinh lặng là một nét đặc sắc của các tu sĩ chiêm niệm trong các đan viện. Nó cũng là điều được khuyến
khích và thường được tôn trọng trong những cuộc tĩnh tâm dành cho bất kì ai, không phân biệt linh mục, tu sĩ hay giáo dân. Mục đích của việc giữ thinh lặng là để suy gẫm, để gặp gỡ Thiên Chúa.
Có hai thứ thinh lặng: thinh lặng bên ngoài và thinh lặng bên trong hay nội tâm. Sự thinh lặng bên ngoài chủ yếu cốt ở tránh giao tiếp bằng lời nói với những người chung
quanh. Ngược lại, sự thinh lặng bên trong không liên quan gì đến tương quan với người khác, nhưng chỉ liên hệ đến chính bản thân. Như chúng ta đều biết, nội tâm chúng ta làm xuất hiện những ý tưởng, những hình ảnh và những điều tưởng tượng không liên quan gì đến việc cầu nguyện; trong nội tâm chúng ta nhiều khi nổi dậy những tình cảm và cảm xúc tự nhiên như vui, buồn, giận v.v… mà chúng ta quen gọi là thất tình.
Vậy thinh lặng nội tâm cốt ở tránh tất cả những cái đó mà chúng ta coi như là những tiếng nói và những tiếng động gây ồn ào bên trong. Chính cái ồn ào hay náo động này
phá sự yên tĩnh của tâm hồn. Chúng ngăn cản tâm hồn gặp gỡ Thiên Chúa, sống
hiệp nhất với Ngài, lắng nghe những lời nhắn nhủ của Ngài, đón nhận ơn soi sáng
của Chúa Thánh Thần, thưa gửi cùng Thiên Chúa và giải bày với Ngài những tâm
tình, những ước nguyện .v.v.
Như vậy, giữ thinh lặng bên trong là để cầu nguyện. Vì thế, trong viễn tượng đạo đức, sự thinh lặng bên ngoài chỉ có ý nghĩa khi nó tán trợ hay bảo vệ sự thinh lặng bên
trong. Cần nói như vậy vì trong không ít trường hợp, sự thinh lặng bên ngoài lại chỉ là cái bình phong che đậy cả một thế giới nội tâm ồn ào, náo động. Sự thinh lặng bên ngoài còn được hiểu theo nghĩa rộng là phải tránh nghe, đọc hay xem những gì có thể phá rối sự trầm mặc của tâm hồn. Nhưng cũng vì ý nghĩa hay mục đích của sự thinh lặng bên ngoài là như thế, nên sự thinh lặng này có tính cách mềm dẻo, nghĩa là, trừ trường hợp nó phải được tuân giữ tuyệt đối, nó vẫn cho phép có những cuộc trao đổi hay nói chuyện về Thiên Chúa và về những vấn đề thiêng liêng, những giờ cầu nguyện chung bằng lời kinh, tiếng hát, những lời khấn nguyện trong lúc riêng tư.
Nói giữ thinh lặng bên trong để cầu nguyện, tức là nhận có sự phân biệt giữa thinh lặng nội tâm và cầu nguyện. Nên nhắc đến sự phân biệt này, bởi lẽ chúng ta thấy rằng môn Yoga hay thiền Ấn Độ, kể cả thiền Phật Giáo, cũng tìm sự thinh lặng nội tâm, nhưng không phải để cầu nguyện. Tuy sự thinh lặng nội tâm khác với sự cầu
nguyện, nhưng cả hai gắn liền với nhau chặt chẽ; cái thứ nhất là điều kiện cần
thiết cho cái thứ hai; cái thứ nhất là phương thế, còn cái thứ hai là mục đích.
Vì sự thinh lặng nội tâm cốt ở sự vắng bóng những cái gây ồn ào náo động trong tâm hồn, nên chúng ta có thể hình dung đây là tâm hồn rỗng không. Nhưng vì là rỗng không để cầu nguyện, nên điều này cũng có nghiã là tâm hồn rỗng không để được đầy tràn, và cái làm đầy tràn chính là sự hiện diện của Thiên Chúa. Nói cách khác, giữ
thinh lặng nội tâm đồng nghĩa với việc gạt bỏ những cái gây ồn ào náo động để
tâm hồn được yên tĩnh, vì đó là nơi dành riêng cho Thiên Chúa, Đấng còn được gọi là Thiên Chúa thinh lặng.
Sự thinh lặng nội tâm có nhiều mức độ. Con người càng sống siêu thoát, nghĩa là càng từ bỏ mình và thế gian, thì sự thinh lặng càng sâu xa, bởi vì cái tôi được nuông chiều và thế gian được ham thích chính là những cái gây ồn ào náo động. Vì thế, ngày
xưa các vị tu rừng vào rừng sâu hay sa mạc là nơi thanh vắng để bỏ lại mọi sự
thế gian như tiền của, danh giá, địa vị. Họ từ bỏ mình bằng cách bắt thân xác chịu cực khổ, như mỗi ngày hay vài ngày mới ăn một bữa rất đạm bạc, mỗi đêm chỉ ngủ vài ba giờ. Có vị còn đeo xiềng xích nặng nề, tự giam mình trong chòi không đủ cao để đứng và không đủ dài để nằm, v.v… Bằng lối sống siêu thoát như vậy, họ có ý giữ cho tâm hồn được yên tĩnh để ngày đêm gặp gỡ Thiên Chúa, hay nói cách khác, để cầu nguyện liên tục trừ lúc ngủ. Điều vừa nói chứng tỏ rằng sự thinh lặng nội tâm là thành quả của sự từ bỏ và của cả một công trình tu luyện. Cũng vì thế mà có thể nói rằng
chỉ các vị thánh – thánh ở đây hiểu theo nghĩa thánh Công Giáo – mới là những
người giữ được sự thinh lặng nội tâm sâu xa. Nhưng không được phép nói ngược lại rằng người giữ được sự thinh lặng nội tâm sâu xa là người thánh. Thực vậy, sự thinh lặng nội tâm tự nó không phải là cầu nguyện hay hiệp nhất với Thiên Chúa, vì như đã nói trên, có những người ngoài Công giáo cũng từ bỏ mình và từ bỏ thế gian để đi tìm sự thinh lặng nội tâm. Vậy khi nói thinh lặng nội tâm, chúng ta chú ý đến một khía cạnh của linh hồn trong quan hệ với Thiên Chúa, đó là gạt ra ngoài các thứ “tiếng động” và “ồn ào” do xác thịt, thế gian và ma quỷ gây ra trong tâm hồn, để nhờ đó chúng ta mới có thể chăm chú gặp gỡ Thiên Chúa với thái độ lắng nghe. Đây là lúc chúng ta ở trong tình trạng hồi tâm, thu tâm (recueillement). Giữa lúc này, những tiếng động và ồn ào có thể tái xuất hiện và đe dọa phá vỡ tình trạng thu tâm kia. Nhưng dù chúng ta chưa là thánh nhân, chúng ta vẫn có thể, nhờ ơn phù trợ của Thiên Chúa, cố gắng ngăn cản được chúng. Chính sự cố gắng này cũng góp phần vào việc chúng ta chống lại sự cám dỗ của xác thịt, thế gian và ma quỷ.
Sau cùng, sự thinh lặng nội tâm cũng cần được bảo vệ và nâng đỡ bằng cảnh vật yên tĩnh bên ngoài do sự vắng bóng những người qua lại. Khi đọc Phúc Âm chúng ta biết Chúa Giêsu, sau khi chịu phép rửa ở sông Giođan, đã vào sa mạc cô tịch và sống ở đó
bốn mươi đêm ngày. Trong quãng đời hoạt động công khai, Ngài từng tìm nơi vắng vẻ để cầu nguyện: trên núi (Mt 14,23; Mc 6,46; Lc 9,28), trên núi vào lúc đêm khuya (Lc 6,12); nơi hoang vắng (Lc 5,16); nơi hoang vắng và sáng sớm, lúc trời còn tối mịt (Mc 1.35); trong vườn Giêtsêmani vào lúc đêm khuya (Mt 26, 36-46).
Hẳn không ai phủ nhận rằng những nơi thanh vắng, cô tịch là khung cảnh thuận lợi để nâng đỡ và bảo vệ sự thinh lặng nội tâm. Vì thế, các đan viện của các Dòng tu chiêm niệm, nếu không ở những nơi hiu quạnh thì ít ra cũng nằm trong những khu đất được vây kín. Các nhà tĩnh tâm cũng thường là những nơi tĩnh mịch, vắng vẻ. Ngay các tu viện hoạt động tông đồ, khi có thể, cũng có một khoảng đất nhỏ yên tĩnh, một mảnh vuờn kín đáo chẳng hạn, để dùng làm nơi cho tâm hồn hưởng những giây phút thư giãn và thanh thản, hoặc sống trầm mặc trong bầu khí êm dịu của cầu nguyện.
Rôcô Đinh Văn Trung, S.J.
Trích Tập San Hiện Diện
nguồn: Anh chị Thụ & Mai và
langthangchieutim gởi
KHI TÔI CHẾT !
Tác giả: Trần Đình PhanTiến
Khi tôi chết là khi linh hồn tôi bay bổng
Đến Thiên Nhan diện kiến Đấng toàn năng
Thân xác tôi nằm yên bất động
Nhưng thật ra,
tôi đang đi tới cõi vĩnh hằng
Lúc bấy giờ tôi mới ngộ ra rằng
Sự sống là do linh hồn bất tử
Còn xác thân chỉ là tạm bợ đương thời
Thân xác tôi của mẹ cha cho rồi
Nhưng linh hồn là mầm của sự sống
Từ bé xíu theo dần qua năm tháng
Thân xác lớn lên, linh hồn cũng trưởng thành
Năm tháng trôi qua, tôi được học hành
Được đào tạo để trở thành linh mục
Theo Chúa Kiô tôi thực hành nhân đức
Cùng vớii Người biến đổi nhân gian
Qua thời gian năm tháng yên hàn
Cùng sứ vụ tôi được phong giám mục
Nhờ ơn Chúa tôi cùng tiến bước
Cùng đồng hành với sứ vụ chủ chăn
Rồi đến lúc Chúa cho tôi ngừng việc
Ngoẳnh nhìn đời đã bảy sáu mùa thu
Tạ ơn Chúa không phải tôi bị mù
Mà là lúc tôi được chìm sâu trong Chúa
Khi tuổi hưu tôi vừa đúng lúc
Tôi được gọi mời sống đời ẩn tu
Bốn mươi năm trong sa mạc âm u
Tôi cảm nhận ân tình của Thiên Chúa…
Đời giám mục già nua khiếm thị
Trong xác thân như đứa trẻ tập đi
Sống tươi,sống đẹp chẳng phiền chi
Vâng Thánh ý ,tôi bền lòng trong Chúa
Cho đến hôm nay Ngài gọi tôi về
Linh hồn tôi trong sáng chẳng u mê
Trước Nhan Thiên Chúa tôi thật mãn nguyện
Khi tôi chết là thân xác trả lại đất
Chỉ còn linh hồn là bất tử muôn đời
Vậy ai không tin là không có linh hồn?
Không có Thiên Chúa làm sao có sự sống?
Khi tôi chết chính là lúc tôi sống
Chẳng già nua, chẳng bệnh tật chi
Thân xác tôi vùi chôn trong lòng đất
Sẽ tan ra theo hạt bụi của thời gian
Khi tôi chết người đời cho là mất
Nhưng kỳ thực ra tôi đi đến cõi trường sinh
Ngụp lặn trong ánh sáng quang vinh
Mình Chúa mình tôi tình đáp tình
Khi tôi chết là lúc tôi nhắm mắt
Để chia tay cùng bạn hữu gần xa
Nhưng khi tôi chết là lúc trở lại quê nhà
Vì chẳng có ai già mà không chết
Khi tôi chết chính là lúc tôi phải lìa xa
Để sống mãi trong vinh quang của Thiên Chúa./.
Kính tưởng niệm Đức cha Antôn Nguyễn Văn Thiện
Vị giám mục cao niên nhất thế giới.;
P.Trần Đình Phan Tiến
Đức khiêm nhường
Tác giả: Trầm Thiên Thu
(Chúa nhật I TN, năm C – Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa)
Chúa Giêsu hoàn toàn không hề có tội vì Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài vẫn lãnh nhận Phép Rửa. Ngài để cho ngôn sứ Gioan làm Phép Rửa cho Ngài trong dòng sông Gio-đan vì Ngài muốn nêugương khiêm nhường cho chúng ta. Khiêm nhường rất cần cho bất cứ ai, vì khiêm nhường là nền tảng của mọi nhân đức.
CAN ĐẢM ĐỂ LÀM GÌ ?
Thiên Chúa phán: “Hãy an ủi dân Ta. Hãy ngọt ngào khuyên bảo Giêrusalem, và hô lên cho Thành: thời phục dịch của Thành đã mãn, tội của Thành đã đền xong, vì Thành đã bị tay Đức Chúa giáng phạt gấp hai lần tội phạm” (Is 40:1-2). Chúa rất nhân từ, Ngài nói rõ là “an ủi” và “ngọt ngào khuyên bảo” người khác, chứ Ngài không bảo dùng “quyền” mà “hành” người khác, hoặc dùng “mệnh lệnh” mà “trấn áp” người khác. Lời Ngài rất đáng để chúng ta phải tự nghiêm túc xét lại mình.
Có tiếng hô to: “Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu. Bấy giờ vinh quang Đức Chúa sẽ tỏ hiện, và mọi người phàm sẽ cùng được thấy rằng miệng Đức Chúa đã tuyên phán” (Is 40:3-5). Sa mạc là nơi hoang vu, tĩnh mịch, vắng vẻ. Sa-mạc-tâm-hồn cũng rất cần cho chúng ta, đó là những giây phút tịnh tâm, nhất là những buổi tối, hoặc những ngày cấm phòng. Vì khi ở trong “sa mạc”, chúng ta có thể nhận biết mình rõ hơn, và nhờ đó mà có thể mở đường rộng, vạch đường thẳng, san núi đồi, lấp thung lũng, san bằng chỗ gồ
ghề,… để đến với Thiên Chúa và tha nhân.
Ngôn sứ Isaia kêu gọi: “Hỡi kẻ loan tin mừng cho Sion, hãy trèo lên núi cao. Hỡi kẻ loan tin mừng cho Giêrusalem, hãy cất tiếng lên cho thật mạnh. Cất tiếng lên, đừng sợ, hãy bảo các thành miền Giuđa rằng: “Kìa Thiên Chúa các ngươi!” (Is 40:9). Lên cao và nói to, sống đúng sự thật thì không gì phải sợ ai. Chính Đức Kitô vẫn thường xuyên động viên: “Đừng sợ!” (Mt 10:26; Mt 10:28; Mt 10:31; Mt 14:27; Mt 17:7; Mt 28:5; Mt 28:10; Mc 5:36; Mc 6:50; Lc 1:13 & 30; Lc 2:0; Lc 5:10; Lc 12:4; Lc 12:7; Lc
12:32; Lc 21:9; Ga 6:20).
Tại sao không sợ? Ngôn sứ Isaia cho biết: “Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng, tay nắm trọn chủ quyền. Bên cạnh Người, này công lao lập được, trước mặt Người, đây sự nghiệp làm nên. Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40:10-11). Muốn “đừng sợ” thì phải có lòng can đảm, muốn can đảm thì phải tập bằng cách tự động viên mình. Hãy hít sâu, nắm chặt hai bàn tay, và thở mạnh,
cảm giác sẽ khác hẳn. Nhưng đừng quên hướng về Đức Kitô.
Hãy tự nhủ như tác giả Thánh vịnh: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi!”, và thân thưa với Chúa: “Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả!” (Tv 104:1a). Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ rất khác biệt, không như bất kỳ thần thánh nào khác: “Áo Ngài mặc: toàn oai phong lẫm liệt, cẩm bào Ngài khoác: muôn vạn ánh hào quang. Tầng trời thẳm, Chúa căng như màn trướng, điện cao vời, dựng trên khối nước cõi thanh không. Chúa ngự giá xe mây, Ngài lướt bay cánh gió” (Tv 104:1b-3).
Đoàn tùy tùng của Ngài cũng hoàn toàn kỳ lạ: “Sứ giả Ngài là làn gió bốn phương, nô bộc Chúa là lửa hồng muôn ngọn” (Tv 104:4). Các việc Ngài làm vô số và không ai khả dĩ hiểu thấu: “Công trình Ngài, lạy Chúa, quả thiên hình vạn trạng! Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan, những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất” (Tv 104:24). Nhận biết Thiên Chúa để chúng ta có thể đủ niềm tin, nhờ đó mà có thể can đảm hơn.
Không sinh vật nào lại không nhờ ân lộc Ngài trao ban: “Này đại dương bát ngát mênh mông, nơi muôn vàn sinh vật to lẫn nhỏ vẫy vùng, hết mọi loài ngửa trông lên Chúa đợi chờ Ngài đến bữa cho ăn” (Tv 104:25). Ngài không chỉ ban cho những điều cần thiết mà còn ban cho những điều vượt ngoài tầm tay của chúng ta, thậm chí Ngài ban cả những điều mà chúng ta chưa biết mở miệng xin: “Ngài ban xuống, chúng lượm về, Ngài mở tay, chúng thoả thuê ơn phước” (Tv 104:28). Thế mà nhân loại vẫn vô ơn, bạc nghĩa. Ngay chính chúng ta – những người vinh hạnh làm con cái Ngài – cũng vẫn thường xuyên bội bạc, làm được điều gì nhỏ nhoi đã tưởng mình tài giỏi mà dám vênh vang tự đắc, coi khinh người khác. Chúng ta chỉ là “số không” mà cứ tưởng mình là “cái rốn của vũ trụ”. Đó là ảo tưởng, là kiêu ngạo!
CAN ĐẢM ĐỂ KHIÊM NHƯỜNG
Nhà toán học Pythagore nói rất chí lý: “Đừng thấy bóng mình to mà tưởng mình vĩ đại”. Là một bác học danh tiếng cả thế giới mà ông thấy vẫn chẳng là gì. Hoặc như Thánh Thomas Aquinas, Tiến sĩ Giáo hội, thông minh xuất chúng và viết nhiều sách giá trị, đặc biệt là bộ Tổng luận Thần học (Summa Theologiae), thế mà ngài lại nói: ngài khiêm nhường cho biết: “Những gì tôi đã viết có vẻ như rơm rác”. Còn khi người ta hỏi: “Làm thế nào để được cứu độ?”, Thánh Thomas trả lời ngắn gọn: “Phải khiêm nhường”.
Một hồng ân hiển nhiên mà chúng ta luôn cần thiết là không khí, nhưng chúng ta lại không coi đó là đại ân, hoặc cho đó là điều “dĩ nhiên”, là chuyện tự nhiên. Tác giả Thánh vịnh phân tích cặn kẽ: “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi. Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này” (Tv 104:29-30). Thế thì sao lại dám kiêu
ngạo chứ?
Thánh Phaolô nói rõ: “Quả thế, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” (Tt 2:11-12). Tại sao phải như vậy? Thánh Phaolô giải thích: “Vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang. Vì chúng ta, Ngài đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Ngài, một dân hăng say làm việc thiện” (Tt 2:13-14). Như vậy, chắc chắn người-hăng-say-làm-việc-thiện là người-của-Chúa, vì Chúa là Đấng từ bi, nhân hậu, và giàu lòng thương xót.
Thiên Chúa là Đấng cứu độ chúng ta, Ngài đã “biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Ngài đối với nhân loại” (Tt 3:4).
Thánh Phaolô “nói toạc móng heo”, không hề úp mở: “Không phải vì tự sức
mình chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Ngài thương xót, nên
Ngài đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh
và đổi mới” (Tt 3:5). Rõ ràng chúng ta chẳng có thể viện cớ gì để mà biện
hộ cho thói kiêu căng của mình. Tất cả là Hồng ân – Hồng ân nối tiếp Hồng ân: “Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta. Như vậy, một khi nên công chính nhờ ân sủng của Đức Kitô, chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời, như chúng ta vẫn hy vọng” (Tt 3:6-7).
Trình thuật Tin Mừng được Thánh sử Luca kể ngắn gọn nhưng súc tích: Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi: biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mêsia!
Nghe vậy, ông Gioan trả lời thẳng với mọi người: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài. Ngài sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa” (Lc 3:16). Ngôn sứ Gioan Tẩy Giả là con người khiêm nhường với câu nói nổi tiếng: “Tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài”. Không đáng cởi quai dép chứ đừng nói chi “xách dép”.
Là người đời, nhưng F. Engels cũng đã biết nhận xét tinh tế: “Trang bị quý giá của con người là sự khiêm tốn và tính giản dị”.
Thánh Luca cho biết rằng khi toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng chịu
phép rửa, và đang khi Ngài cầu nguyện thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống
trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là
Con của Cha, ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (Lc 3:22). Chính Chúa Cha đã
công khai xác nhận Đức Giêsu Kitô là Con Yêu Dấu, là Ngôi Hai Thiên Chúa. Quá
minh nhiên, không còn gì khả nghi nữa!
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin giúp chúng con luôn biết sống khiêm nhường và yêu thương để có thể đến với Chúa qua tha nhân. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên-Chúa-Làm-Người và Đấng Cứu Độ của chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU