NGUYÊN TẮC THỨ NHẤT CỦA HỌC THUYẾT XÃ HỘI CÔNG GIÁO: NHÂN VỊ VÀ NHÂN QUYỀN

NGUYÊN TẮC THỨ NHẤT CỦA HỌC THUYẾT XÃ HỘI CÔNG
GIÁO: NHÂN VỊ VÀ NHÂN QUYỀN

Lm. Ernest Nguyễn văn Hưởng

nguồn: Conggiaovietnam.net

1. Nhân vị và nhân phẩm theo cái nhìn chung của nhân loại

Người ta thường hiểu con người là con vật có lý trí. Và câu chuyện trong dân gian Việt nam cũng hiểu như thế (chuyện Con cọp và người nông phu). Khi muốn hạ giá người nào,
người Việt Nam chúng ta đưa về con vật: Ăn như heo…

Nhân vị:

Khi nói tới nhân vị chúng ta thường hiểu mỗi cá nhân của xã hội loài người là một nhân vị, là chủ thể của quyền lợi và nghĩa vụ. Nhân vị dành cho con người nên phải hiểu đó là cá nhân có ý thức và tự do. Vì thế mỗi cá nhân phải được đối xử bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, không phân biệt phái tính, chủng tộc, v.v…Nhân vị không biệt lập nhưng hướng về nhân vị khác, thông hiệp với nhân vị khác.

Nhân phẩm:

– Nhân phẩm là phẩm giá con người, là giá trị tinh thần của một cá nhân với tính cách là một con người.

(Trích từ bài TÔN TRỌNG NHÂN PHẨM trên mạng);

– Nhân phẩm chính là những giá trị phản ánh và tạo nên phẩm chất của từng cá nhân. Mỗi con người đều có những giá trị nhất định.

– Người có nhân phẩm là người có danh dự và sẽ được cộng đồng xã hội tôn trọng và đánh giá cao. Người tự đánh mất nhân phẩm, danh dự của mình sẽ là người bị cộng đồng coi thường và đánh giá thấp;

– Người biết tôn trọng nhân phẩm là người có lòng tự trọng, biết đấu tranh và có thái độ
không đồng tình với những hành vi xâm hại hoặc chà đạp lên nhân phẩm của người
khác và của bản thân.

2. Con người theo cuốn Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo

2.1 Con người được Thiên Chúa tạo dựng

Nhân vật chính của toàn bộ đời sống xã hội là chính con người. Con người nên và phải luôn luôn là chủ thể, là nền tảng và là mục tiêu của đời sống xã hội (số 106). GHXHCG triển khai nguyên tắc: Con người có phẩm giá bất khả xâm phạm (số 107). Con người có phẩm giá của một ngôi vị, có khả năng biết mình, làm chủ mình và tự nguyện hiệp thông với người khác (số 108).

Khởi đi từ điều mọi người công nhận, Giáo hội cho biết con người được kêu gọi để có tương quan với Thiên Chúa. “Thực vậy, con người không lầm lẫn khi họ nhận biết mình cao cả hơn vũ trụ vật chất, và không coi mình chỉ như một mảnh vụn của thiên nhiên, hay như một phần tử vô danh trong xã hội loài người. Bởi vì nhờ có nội giới, con người vượt trên mọi vật. Khi con người quay về với lòng mình tức là họ trở về với nội giới thâm sâu nầy, ở đó Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm hồn, đang chờ đợi họ, và cũng nơi đó chính con người tự định đoạt về vận mệnh riêng của mình dưới con mắt của Thiên Chúa” (GS 14).

Cũng trong Hiến chế “Vui mừng và Hy vọng” (GS) Giáo hội không trả lời câu hỏi Con
người là gì ? Theo kiểu cổ điển: “Con người là một hữu thể có trí khôn, gồm có xác và hồn”, nhưng Giáo Hội hướng về Kinh thánh: “Con người đã được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa” (GS 12), “có khả năng nhận biết và yêu mến Đấng Tạo Dựng mình, được Ngài đặt làm chủ mọi tạo vật trên trái đất để cai trị và xử dụng chúng mà ngợi khen Thiên Chúa”.

Cũng khởi đi từ Kinh thánh, Giáo hội khai triển chiều kích xã hội: “Nhưng Thiên Chúa đã
không tạo dựng nên con người cô độc: Bởi vì từ khởi thủy Ngài đã tạo dựng có nam và có nữ (St 1,2-7). Sự liên kết giữa họ đã tạo nên một thứ cộng đoàn đầu tiên giữa người với người. Thực vậy, tự bản tính thâm sâu của mình, con người là một hữu thể có xã hội tính và nếu không liên lạc với những người khác con người sẽ không thể sống và phát triển tài năng của mình” (GS 12).

Con người có bản tính xã hội vì con người không thỏa mãn khi sống với thảo mộc, và sự
xuất hiện của người nữ làm thỏa mãn nhu cầu đối thoại liên vị (số 110). Con người liên hệ với những người khác như những người được giao cho sự sống của người khác (số 112). Vì mang tính xã hội nên con người hưởng dùng của cải với trách nhiệm, chứ không được tự do khai thác cách tùy tiện và ích kỷ (số 113).

2.2 Vết thương của tội nguyên tổ

Tội nguyên tổ làm con người mất đi sự thánh thiện và công chính nguyên thủy (số 115), tạo một vết thương nằm nơi sâu xa nhất của con người. Hậu quả của tội là sự tha hóa (xa rời Thiên Chúa và với chính mình, với người khác và thế giới chung quanh) (số 116). Giáo lý về tội nguyên tổ cho biết tội mang tính phổ quát, có nền tảng rất quan trọng. Giáo lý đó mời gọi đừng ở lại trong tội, đừng xem nhẹ tội, cũng đừng đổ lỗi cho người khác. Tuy nhiên không được tách rời giáo lý về sự phổ quát của tội với ý thức về sự phổ quát của ơn cứu độ (số 120).

2.3 Con người được cứu độ

Người kitô hữu nhìn thấy vực sâu của tội nhưng luôn nhìn trong ánh sáng hy vọng do Đức Kitô mang lại (số 121). Nhờ Đức Kitô chúng ta được hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi
(số 122). Theo Tân ước toàn thể thụ tạo cùng với nhân loại đều chờ đợi Đấng Cứu Chuộc.

2.4 Con người đa dạng

“Giáo huấn Xã hội Công giáo tìm cách chỉ ra những khía cạnh khác nhau của mầu nhiệm con người: con người phải được tìm hiểu “trong sự thật toàn vẹn của mình, từ sự
hiện hữu của bản thân con người cho đến chiều hướng cộng đồng và xã hội
”,
với sự quan tâm đặc biệt sao cho giá trị của con người được mọi người sẵn sàng nhìn nhận” (số 126).

– Tính thống nhất của con người: Thống nhất hồn xác, cả hai bản tính kết hợp thành
bản tính con người.

– Con người bước ra khỏi mình để hướng về Đấng Vô biên và và để hướng đến người khác. Con người độc nhất không thể sao chép và không thể xâm phạm. Từ đó đưa tới việc tôn
trọng nhân phẩm: Không thể lấy con người làm bàn đạp để thực hiện dự án, mà trái lại dự án là để phục vụ con người.

– Con người tự do hướng về điều tốt là một trong những dấu hiệu chứng tỏ con người giống Thiên Chúa (số 135).

– Mọi người đều bình đẳng vì được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và giống Thiên Chúa, “Không có Do Thái hay Hy Lạp, không có nô lệ hay tự do, không có nam hay nữ, vì
tất cả anh em đều là một trong Đức Kitô Giêsu” (Gl 3,28; x. Rm 10,12; 1 Cr 12,13; Cl 3,11).

– Con người là hữu thể xã hội (xem bên trên).

3. Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền

3.1 Giáo hội với bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền

Giáo hội đánh giá cao bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, Giáo hội ghi nhận “giá
trị tích cực của bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền,
được Liên Hiệp Quốc chấp nhận ngày 10-12-1948, và được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II coi như “một cột mốc thực sự trên con đường tiến bộ đạo đức của nhân loại”. Tôn trọng con người là tôn trọng quyền con người (Nhân quyền). Xác định và công bố các quyền của con người, là một trong những cố gắng quan trọng nhất nhằm đáp ứng cách hữu hiệu những đòi hỏi tất yếu của phẩm giá con người (số 152).

3.2  Vài nhận xét về bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền

Vài lưu ý về bản Tuyên ngôn :

–   Công nhận nhân phẩm của tất cả con người trong đại gia đình nhân loại và
những quyền bình đẳng không thể tước đoạt của họ là nền tảng của tự
do, công lý và hòa bình
trên thế giới.

–         Xem thường và chà đạp nhân quyền đã dẫn đến những hành động man rợ.

–         Nhân Quyền cần phải được bảo vệ bằng luật pháp.

–          Cácquốc gia hội viên đã cam kết hợp tác với Liên Hiệp Quốc, nhằm cổ vũ việc
tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do căn bản.

–      Dùng sự truyền đạt và giáo dục, để nỗ lực phát huy sự tôn trọng các quyền tự do này.

4. Học Thuyết Xã Hội về quyền con người

4.1 Nguồn gốc quyền con người

Thật ra, nguồn gốc các quyền con người nằm ngay trong chính phẩm giá của mỗi một con người.…(số 153). Những quyền này mang những đặc tính “phổ quát, bất khả xâm phạm, bất khả nhượng”.

Phẩm giá này đã được nhận thức và lĩnh hội trước tiên là nhờ lý trí. Nền tảng tự
nhiên của các quyền này càng trở nên vững chắc hơn khi, nhờ ánh sáng siêu nhiên, người ta nhìn nhận rằng phẩm giá của con người đã được Đức Giêsu Kitô đón nhận và cứu chuộc qua sự nhập thể, qua cái chết và sự sống lại của Người.

4.2 Bản liệt kê Quyền con người của Giáo hội

Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II lập một danh sách các quyền ấy trong Thông điệp entesimus Annus: “quyền được sống, một phần không thể thiếu trong quyền ấy là quyền của đứa trẻ được lớn lên trong bụng mẹ ngay từ khi thụ thai; quyền được sống trong một gia đình hợp nhất và trong một môi trường luân lý giúp phát triển nhân cách của đứa trẻ; quyền được phát huy trí thông minh, được tự do tìm kiếm và hiểu biết sự thật; quyền được chia sẻ công ăn việc làm để sử dụng các nguồn lực vật chất của trái
đất cách khôn ngoan, và quyền được lấy từ việc lao động những phương thế để trợ giúp bản thân và những người lệ thuộc vào mình;quyền được tự do lập gia đình, quyền có con và dạy dỗ con qua việc thực hiện hành vi tình dục một cách có trách nhiệm. Theo một nghĩa nào đó, nguồn gốc và tổng hợp các quyền này chính là quyền tự do tôn giáo, được hiểu như quyền được sống theo sự thật của đức tin và phù hợp với phẩm giá siêu việt của một con người” (Số 155).

4.3 Quyền lợi và nghĩa vụ

Liên kết hết sức chặt chẽ với đề tài quyền lợi là vấn đề nghĩa vụ của con người: “Trong xã hội loài người, quyền của người này là nghĩa vụ cho hết những người khác: Cụ thể là nghĩa vụ phải nhìn nhận và tôn trọng quyền ấy” (số 156).

4.4 Khoảng cách giữa chữ viết và tinh thần

Thực tế rất đáng buồn là các quyền ấy đã bị xâm phạm, với đủ loại chiến tranh và bạo lực, nhất là những cuộc diệt chủng và lưu đày tập thể, việc mở rộng gần như trên toàn thế giới những hình thức chưa từng thấy của sự nô lệ như buôn người, bắt trẻ em làm lính, bóc lột người lao động, buôn bán ma tuý trái phép, mãi dâm.

Có một khoảng cách giữa “chữ viết” và “tinh thần” của nhân quyền, vì người ta chỉ nhìn nhận các quyền này một cách hết sức hình thức (Số 158). Chính Giáo Hội cũng cảm thấy nhu cầu phải tôn trọng công lý và các quyền con người ngay trong hàng ngũ Giáo Hội (số 159).

5. Thay cho lời kết

Giáo hội bận tâm rao giảng tin mừng nên “Đẩy mạnh công lý và hoà bình, đưa ánh sáng và men Tin Mừng thâm nhập mọi lĩnh vực của xã hội con người, đó luôn luôn là mục tiêu Giáo Hội ra sức nhắm tới khi thi hành mệnh lệnh của Chúa”.

Giáo Hội dấn thân trong công tác mục vụ này theo hai hướng: bằng cách công bố những nền tảng Kitô giáo của nhân quyền và bằng cách tố giác những sự vi phạm các quyền này338. Dù sao, “công bố bao giờ cũng quan trọng hơn là tố giác, và không thể tố giác mà quên công bố, vì có như thế việc tố giác mới chắc chắn và có động cơ cao cả”w

(Trích tập san Giáo huấn Xã hội Công giáo số 2)

Được xem 1 lần, bởi 1 Bạn Đọc trong ngày hôm nay