ĐẬP THỦY ĐIỆN VÀ NHỮNG DÒNG SÔNG ĐANG KÊU CỨU

Tu Le

 ĐẬP THỦY ĐIỆN VÀ NHỮNG DÒNG SÔNG ĐANG KÊU CỨU

Mấy chục năm nay, người ta quen nói rằng: xây thủy điện là phát triển, là bắt dòng sông phải phục vụ cho cuộc sống văn minh. Nghe thì đúng, nhưng nếu nhìn vào những gì đang xảy ra ở miền Trung, ta sẽ thấy một điều rất cũ của loài người: hễ cứ chạy theo lợi trước mắt mà quên cái gốc thì sớm muộn gì cũng trả giá.

Dòng sông xưa vốn hiền, mùa mưa thì đầy, mùa nắng thì cạn, nhưng cái nết của sông là biết điều hòa. Cái gì thừa thì tự chảy đi, cái gì thiếu thì chắt chiu cho ruộng nương. Núi rừng hai bên che chở, giữ cho đất đai khỏi trôi, cho nước khỏi dồn xuống quá nhanh. Sông và rừng, hai thứ đó, gắn bó như hơi thở với lồng ngực. Mất một thứ, thứ kia cũng suy.

Rồi người ta bắt đầu ngăn sông, bít suối, chặt rừng làm thủy điện. Ban đầu là vài công trình lớn, tính toán kỹ lưỡng, có người giỏi xem xét, có người chịu trách nhiệm thực sự. Những công trình đó, dù có chiếm đất, có đổi dòng, nhưng vì được làm bài bản nên ít gây họa. Nhưng đến khi phong trào thủy điện vừa và nhỏ lan rộng, mỗi tỉnh vài chục dự án, mỗi con suối một cái đập, thì sự cân bằng nghìn đời của thiên nhiên đã bị phá đứt.

Phá một quả đồi để làm thủy điện không chỉ là mất cây. Mất cây thì đất không bám, đất không bám thì mưa xuống là trôi, trôi xuống là nghẹt dòng, lấp suối, tạo nên những cơn lũ hung hãn như người ta thấy mấy ngày nay. Bà con vùng dưới chân núi vẫn nói: ngày xưa mưa lớn cũng chỉ lên đến sân, sao giờ mưa vừa vừa đã ngập mái nhà. Đó không phải điều ông trời thay đổi. Đó là lòng người đổi trước.

Nhiều doanh nghiệp làm thủy điện chỉ nghĩ đến điện bán được bao nhiêu, chứ không nghĩ đến người dân sống dưới chân đập. Họ giữ nước trong hồ cho đầy để chạy máy, để lời lãi nhiều hơn. Đến khi nước quá ngưỡng, buộc phải xả, họ xả ào một cái, vừa xả vừa nói là đúng quy trình. Quy trình thì có thể đúng, nhưng lòng người thì sai. Cái sai đó, dân nghèo lãnh đủ: nhà trôi, trâu bò mất, mùa màng trắng tay. Còn doanh nghiệp chỉ mất một bản thông báo.

Nhà nước có trách nhiệm lớn trong chuyện này. Đáng lẽ những dự án nằm ở vùng rừng đầu nguồn, vùng đồi dốc, vùng có khả năng gây họa cho hạ du phải được xem xét thật kỹ, thậm chí kiên quyết không cho làm. Nhưng có thời điểm, giấy phép cấp ra rất dễ, báo cáo đánh giá tác động môi trường chỉ làm cho có, thanh tra kiểm tra thì theo kiểu xem hồ sơ nhiều hơn xem thực địa. Khi lợi ích chen vào, người ta dễ quên mất rằng mỗi dòng sông có linh khí, mỗi cánh rừng có bổn phận, và mỗi quyết định sai có thể khiến bao gia đình phải leo lên mái nhà để trốn lũ.

Người dân miền Trung không trách trời. Họ quen với nắng gió, quen với mưa bão, quen chịu thiệt thòi. Nhưng họ không quen với cảnh nước từ trên núi đổ xuống như pháo kích, không quen với tiếng còi xả lũ lúc nửa đêm, không quen với cảnh sáng ra chỉ thấy trời, nước và những tiếng kêu cứu lạc giọng. Mưa là của trời, nhưng lũ lớn bất thường này là của lòng người.

Muốn sửa sai thì phải bắt đầu từ chỗ sai nhất: dừng ngay việc làm thủy điện tràn lan ở những vùng nhạy cảm. Công trình nào đã gây họa, vận hành thiếu trách nhiệm thì phải xem xét lại, thậm chí đóng cửa. Phải xem rừng là tài sản lớn nhất, không thể bán rẻ cho vài chục megawatt điện. Phải xem dòng sông là mạch sống, không phải nơi để đặt bao nhiêu đập cũng được. Và phải xem an toàn của người dân là giới hạn cuối cùng, không được ai phép vượt qua.

Làm được điều đó thì dân mới yên lòng, rừng mới hồi sinh, sông mới trở lại nhịp chảy xưa. Còn nếu vẫn để lợi nhuận dẫn đường, để sự dễ dãi lấn át lương tri, thì miền Trung còn ngập nữa, còn tang thương nữa. Khi ấy, ta không thể trách trời đất. Chỉ có thể trách chính mình đã để những dòng sông kêu cứu quá lâu mà không nghe.


 

Được xem 2 lần, bởi 2 Bạn Đọc trong ngày hôm nay