Kỹ Thuật cuối tuần: Hệ Thống phản Radar của máy bay chiến đấu J-10 của Trung Cộng khá hữu dụng trong không chiến giữa Pakistan và Ấn

Các máy bay phản lực của Không quân Pakistan (PAF) đã bắn hạ ít nhất hai máy bay ném bom chiến đấu của Không quân Ấn Độ (IAF) vào ngày 7 tháng 5, bao gồm ít nhất một chiếc Dassault Rafale do Pháp sản xuất . Theo aviationweek.com, PAF đã triển khai các máy bay chiến đấu JF-17 và J-10 do Trung Cộng sản xuất để ngăn chặn các cuộc tấn công của IAF sau lời thề trả đũa của chính phủ Ấn Độ đối với một cuộc tấn công vào ngày 22 tháng 4 nhằm vào thường dân Ấn Độ.

Một chiếc Chengdu J-10 đang được trưng bày©乘号同学, CC0, qua Wikimedia Commons. Hình ảnh Power Sport/Getty

Chengdu J-10, lần đầu tiên bay vào năm 1998, là máy bay chiến đấu đa chức năng một động cơ với cánh phụ và thiết kế cánh tam giác. Tập đoàn công nghiệp máy bay Chengdu sản xuất máy bay phản lực tại Thành Đô, Tứ Xuyên, Trung Cộng.

Chiến đấu cơ J-10 đi vào hoạt động năm 2005, trang bị cho Không quân Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Cộng, với 246  chiếc, và Hải quân có 25 chiếc. Không quân Pakistan cũng tự hào có 18 đơn vị biến thể J-10C, với bảy đơn vị khác đang được đặt hàng.

Dưới đây là bảng so sánh để làm nổi bật những điểm khác biệt chính giữa Chengdu J-10 F-35 Rafale và F-16 . Bảng này sẽ cung cấp cái nhìn tổng quan rõ ràng hơn về vị trí của từng máy bay chiến đấu về khả năng và thông số kỹ thuật:

Tính năng Thành Đô J-10 Máy bay F-35 Lightning II Máy bay chiến đấu Dassault Rafale Máy bay chiến đấu F-16 Falcon
Vai trò Máy bay chiến đấu đa năng Máy bay chiến đấu tàng hình đa năng Máy bay chiến đấu đa năng Máy bay chiến đấu đa năng
Thế hệ 4 (J-10C: 4,5) thứ 5 4,5 thứ 4
Động cơ WS-10 Thái Hành (J-10C) Pratt & Whitney F135 Snecma M88-2 Pratt & Whitney F100 / GE F110
Tốc độ tối đa Tốc độ 2.0 Tốc độ 1,6 Mach Tốc độ 1,8 Mach Tốc độ 2.0
Phạm vi 1.850 km (có bình chứa bên ngoài) 2.200 km 3.700 km 2.200 km
Lực đẩy (Khô/Có bộ đốt sau) 12.000 kgf (có bộ đốt tăng lực) 19.500 kgf 15.100 kgf 13.000 kgf
Rađa AESA (trên J-10C) AESA RBE2 AESA AN/APG-83 AESA (phiên bản mới nhất)
Khả năng tàng hình Khả năng quan sát thấp (không tàng hình) Tàng hình Tính năng tàng hình hạn chế Không có
Thiết bị điện tử hàng không Hiện đại hóa (J-10C) Kết hợp cảm biến tiên tiến Bộ cảm biến và thiết bị điện tử hàng không tiên tiến Vừa phải
Vũ khí Tên lửa PL-8, PL-15, bom LS-6 AIM-120 AMRAAM, JDAM, GBU-12 MICA, Thiên thạch, DA ĐẦU, Exocet AIM-120 AMRAAM, AGM-88 HARM
Chi phí cho mỗi đơn vị 27-40 triệu đô la 80-100 triệu đô la 85-125 triệu đô la 30-40 triệu đô la

Các phiên bản máy bay chiến đấu phản lực J 10

Trong nhiều năm qua, Chengdu Aircraft đã sản xuất nhiều phiên bản của J-10 với nhiều nâng cấp khác nhau nhằm mục đích tăng cường hiệu suất và khai thác các cơ hội hoạt động.

  • J-10A: Biến thể đầu tiên ra đời năm 2005 chủ yếu phục vụ mục đích chiếm ưu thế trên không.
  • J-10B: Phiên bản này có đầu dò mũi dài hơn, cho phép tích hợp khả năng radar tiên tiến hơn, hệ thống điều hướng lực đẩy và hệ thống điện tử hàng không tốt hơn để nâng cao nhận thức tình huống.
  • J-10C: Đây là phiên bản mới nhất của máy bay chiến đấu với radar AESA, hệ thống điều hướng lực đẩy và nhiều tính năng tiên tiến khác tương tự như các máy bay chiến đấu khác đang được sử dụng trên toàn thế giới.

Các báo cáo cho thấy rằng máy bay chiến đấu J-10C của Pakistan đã tham gia vào một cuộc không chiến với máy bay Rafale của Không quân Ấn Độ (IAF). Theo các quan chức Pakistan, J-10C đã gây nhiễu hệ thống radar và liên lạc tiên tiến của Rafale, dẫn đến việc máy bay này bị bắn hạ.

Khi một máy bay bật radar chủ động, nó sẽ truyền tín hiệu phản xạ từ máy bay khác. Làm như vậy cũng phát sóng vị trí của máy bay. Để tránh tiết lộ vị trí của mình, khả năng liên kết với radar của máy bay khác để có được dữ liệu ban đầu cho tên lửa là một khả năng rất hữu ích. PAF và J-10 của họ có khả năng đó, và đó là điều giúp J-10 có thể vào vị trí để phóng hoả tiễn PL-15 mà không gây chú ý. Yếu tố khác trong phương trình này là radar ERIEYE được gắn trên máy bay cánh quạt đôi SAAB 2000. Pakistan có chín máy bay như vậy, bao gồm một chiếc nhận được từ Thụy Điển vào tháng 8 năm 2024.

Tên lửa PL-15 của Trung Cộng so với AIM-120 AMRAAM của Mỹ, chúng đều là tên lửa không đối không ngoài tầm nhìn (BVRAAM) tiên tiến, nhưng chúng có những khác biệt quan trọng về thiết kế và khả năng chiến đấu.

 

 

 

PL-15E Missile Transfer to Pakistan Sparks Strategic Concerns in South Asia

PL-15 (Trung Cộng)

  • Tầm bắn: Ước tính 200–300 km (biến thể xuất khẩu PL-15E có tầm bắn ngắn hơn, khoảng 145 km).
  • Tốc độ: Mach 5+.
  • Dẫn đường: Tự dẫn radar chủ động.
  • Động cơ: Tên lửa nhiên liệu rắn hai xung, giúp tăng tầm bắn và khả năng cơ động.
  • Nền tảng phóng: Được sử dụng trên J-20, J-10C, J-16, JF-17 Block-3 và các máy bay của Trung Quốc và Pakistan.

 

 

Advanced Medium Range Air-to-Air Missile, AIM-120, Tyndall… | Flickr

 

 

AIM-120 AMRAAM (Mỹ)

  • Tầm bắn: Biến thể AIM-120D mới nhất có tầm bắn 160–180 km, trong khi các phiên bản cũ có tầm bắn ngắn hơn.
  • Tốc độ: Mach 4+.
  • Dẫn đường: Tự dẫn radar chủ động với hệ thống chống gây nhiễu điện tử tiên tiến (ECCM).
  • Động cơ: Tên lửa nhiên liệu rắn một xung.
  • Nền tảng phóng: Được sử dụng trên F-22, F-35, F-16, F/A-18 và các máy bay của NATO.

 

Sự khác biệt chính

  • PL-15 có tầm bắn xa hơn AIM-120D, giúp nó hiệu quả hơn trong các trận chiến tầm xa.
  • AIM-120 có khả năng chống nhiễu điện tử (ECCM) tốt hơn, khiến nó khó bị vô hiệu hóa.
  • PL-15 sử dụng động cơ hai xung, giúp duy trì năng lượng tốt hơn trong giai đoạn cuối của chuyến bay.


 

Được xem 2 lần, bởi 2 Bạn Đọc trong ngày hôm nay