Hoà thượng Thích Tuệ Sỹ là một hình mẫu lý tưởng về người trí thức hiện đại

Ba’o Tieng Dan

Thái Hạo

26-11-2023

Qua một số comment, thấy có những người mới chỉ lần đầu tiên nghe đến cái tên Tuệ Sỹ. Nhân đây, xin được gạch vài đầu dòng, theo sự hiểu biết hạn hẹp của bản thân [dành riêng cho các bạn này, ai đã biết đến thầy Tuệ Sỹ thì xin bỏ qua].

– Ở Việt Nam hiện có hai “giáo hội” là Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) và Giáo hội Phật giáo Việt Nam THỐNG NHẤT. Giáo hội thứ hai không được chính quyền thừa nhận chính thức và luôn chịu nhiều áp lực suốt từ sau 1975 đến nay. Thầy Tuệ Sỹ là người thuộc Giáo hội này.

– Thầy là một tu sĩ Phật giáo, người có kiến văn quảng bác cả về tư tưởng Đông phương lẫn triết học và văn hóa Tây phương. Là một trí tuệ lớn đã nối tiếp hòa thượng Thích Quảng Độ lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất cho đến khi viên tịch vào ngày 24.11.2023.

– Trước 1975, lúc mới 25 tuổi, Thầy đã là giáo sư đại học Vạn Hạnh lừng lẫy ở miền Nam, và là một trong những tên tuổi có ảnh hưởng lớn bậc nhất ở Tạp chí Tư Tưởng – một ấn phẩm đã đóng góp to lớn cho nền văn hóa Việt Nam hiện đại.

– Năm 1988 Thầy bị kết án tử hình với cáo buộc “âm mưu lật đổ chính quyền”. Với sự đấu tranh của tăng ni, Phật tử, trí thức và các tổ chức nhân quyền quốc tế, án được giảm xuống 20 năm tù giam. Sau 14 năm bị giam cầm, Thầy được thả trong tư thế bất khuất, tuyệt thực và không xin ân xá như đề nghị.

blank

– Thầy để lại một sự nghiệp văn hóa đồ sộ về thơ ca, triết học, Phật học và những lớp học trò trực tiếp và gián tiếp chịu ảnh hưởng sâu sắc của mình. Nhân cách và trí tuệ của Thầy là một tấm gương sáng chói về tinh thần tự học phi thường, thông thạo 12 ngôn ngữ, tinh tường cả hai nền văn hóa Đông – Tây, sống một đời giản dị thanh bần nhưng là một biểu tượng cao đẹp của tinh thần “uy vũ bất năng khuất”.

***

Với tôi, thầy Tuệ Sỹ trước hết và quan trọng nhất, là một hình mẫu lý tưởng về người trí thức hiện đại. Nếu chỉ biết đến Thầy như một nhà tu hành thì có lẽ sẽ là điều khiếm khuyết. Bằng tài năng, trí tuệ, nhân cách và thái độ dấn thân “ngã nguyện vô cùng”, thầy đã thị hiện một chân dung toàn vẹn của người tu sĩ Phật giáo chân chính bên cạnh hình ảnh trí thức và thái độ của một công dân nặng trĩu trách nhiện với xã hội, đất nước và dân tộc. Hình ảnh của thầy trái ngược hẳn với những kẻ đang “ôm giữ chùa tháp”, liên minh và quỳ sụp dưới chân quyền lực thế tục để mưu lợi tầm thường và đáng hổ thẹn đang nhan nhản trong thời buổi này.

Thầy cũng là một tiếng nói xa lạ với những người luôn rao giảng về “buông bỏ”, về “tỉnh thức”, về “lánh đục”; xa lạ với những lời ngụy tín của “năng lượng tích cực”, của “việc của mình là xanh”, của “tròn ngay tự trong tâm”…, để đứng sừng sững như một ngọn núi lớn giữa bão táp mưa sa của quyền lực đen tối và những thế lực đang phá hoại chánh pháp, hủy hoại nền văn hóa dân tộc.

 

Sống chết là lẽ tự nhiên của đời người. Với một bậc chân tu như thầy Tuệ Sỹ, cái chết có lẽ chỉ như việc thả mình vào một giấc ngủ bình yên, đến đi như hơi thở. Tuy nhiên, có lẽ đối với Phật giáo và văn hóa, tinh thần Việt Nam, sự ra đi của Thầy là một mất mát sẽ để lại khoảng trống lớn không gì bù đắp được.

Điều khiến cá nhân tôi bất an nhất chính là một sự đứt gãy khó hàn gắn trong dòng chảy vốn đã mỏng manh và đầy bất trắc này. Nguyện cho điều lo lắng ấy sẽ chỉ là thừa thãi, bởi những thế hệ nối tiếp của Thầy đã được chuẩn bị đến nhuần thấm nhân cách và có đầy đủ trí tuệ như thầy mình…

Việc ngưỡng mộ Thầy có lẽ quan trọng và chỉ thực sự có ý nghĩa khi mỗi người gắng học và sống như công hạnh của Thầy, được chút nào hay chút ấy…

Có thể tìm hiểu về thầy Tuệ Sỹ ở đây: https://tuesy.net/


Kẻ Đi Tìm sưu tầm:
Thơ Ca của Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ

Thi Ca, Nền Văn Học Hiện Đại.

Nói đến thơ của Thầy, hầu như ai cũng biết tập thơ Giấc Mơ Trường Sơn và Ngục Trung Mị Ngữ. Ngoài hai tập thơ này còn có các thơ khác qua nhiều dạng thức, được đăng trên các tạp chí, đặc san từ trong nước đến hải ngoại. ..

…Đọc thơ Thầy, để thấy tâm hồn của người nghệ sỹ, thi sỹ hay đọc thơ Thầy để cảm nhận, chia sẻ tâm thức của kẻ sỹ luôn hướng về đất nước bị đọa đày? Một đất nước đói nghèo đầy tủi nhục, một dân tộc lầm than khốn cùng, và ý chí ấy đứng thẳng để thấy quê hương và dân tộc Việt hào hùng trong ý thức tự tồn, độc lập. Thơ của Thầy mang nhiều cảm tính dạt dào tình người, tình đạo, tình non sông gấm vóc. Một tình cảm chân thật mà suốt dòng lịch sử quê hương còn mênh mang trong ý thơ mượt mà, hùng tráng:

Người đi đâu bóng hình mòn mỏi

Nẻo tới lui còn dấu nhạt mờ

Đường lịch sử

Bốn ngàn năm dợn sóng

Để người đi không hẹn bến bờ

        (Tĩnh Thất 24, 2000-2001)

Hay:

Tiếng trẻ khóc ngân vang lời vĩnh cửu

Từ nguyên sơ sông máu thắm đồng xanh

Tôi là cỏ trôi theo dòng thiên cổ

Nghe lời ru nhớ mãi buổi bình minh

Buổi vô thủy hồn tôi từ đáy mộ

Uống sương khuya tìm sinh lộ viễn trình

Khi nắng sớm hôn nồng lên nụ nhỏ

Tôi yêu ai, trời rực sáng bình mình.

         (Bình Minh – Tĩnh Tọa, tháng 9-1983)

 

Tiếp theo Giấc Mơ Trường Sơn là Ngục Trung Mị Ngữ, tập thơ làm trong thời gian ở tù bằng chữ Hán. Đọc Ngục Trung Mị Ngữ để thấy được tinh thần an nhiên tự tại của Thầy dẫu là những bài thơ trong lúc ở tù. Một tâm hồn thư thái nhẹ như mây và thong dong như gió, nhưng đầy ắp lòng thương yêu trần gian khổ lụy, đầy huyết lệ tuôn trào, mỗi khi bưng bát cơm tù. Từ những bi hoan của cuộc sống tù đày ấy, Thầy đã viết thành những lời thơ nói lên tâm cảm của mình, qua bài Cúng Dường:

“Phụng thử ngục tù phạn

Cúng dường Tối Thắng Tôn

Thế gian trường huyết hận

Bỉnh bát lệ vô ngôn.”

Dịch:

“Đây bát cơm tù con kính dâng

Cúng dường Đức Phật Đấng Tôn Thân

Thế gian chìm đắm trong máu lửa

Lệ nhỏ không lời, lòng xót thương”


 

Được xem 9 lần, bởi 1 Bạn Đọc trong ngày hôm nay