“Thành đô! Rằng nhớ mãi nhớ nhé,”

“Thành đô! Rằng nhớ mãi nhớ nhé,”

Dù xa xôi sơn khê,

Thời gian quen chia lỵ

Chờ mong người đi trên đường về, đường về…

(Hoàng Thi Thơ – Nhớ Thánh Đô)

(Mc 10: 17-30)

“Nhớ mãi, nhớ nhé…” Đúng thế. Bần đạo đây, không chỉ nhớ nhiều về chốn “xa xôi sơn khê,” mà thôi, nhưng còn nhớ cả các sự kiện xảy đến với mọi người ở ngoài đời, hoặc dân con nhà Đạo mỗi lần hát những lời như thế. Bần đạo còn lạo xạo nhớ rất nhiều về con số 12, tên mình nữa.

Tên cúng cơm của bần đạo là “Mười Hai”, tức một “Tá”. Tá đây, có nghĩa là: người con thứ 12 sinh ra trong giòng họ Trần Ngọc, ở miền Bắc đất Hà Thành, chánh gốc. Vốn, họ Trần tên đệm (rất) Ngọc, lại là người sinh ra đời với ngôi thứ 12, nên bần đạo bầy tôi đây rất thích những gì mang số 12, lại không nhỏ. Tỉ như: 12 Tông đồ, 12 con giáp, 12 chi tộc nhà Israel, chu kỳ 12 năm tìm gặp lại các biến cố/sự kiện cứ trở lại sau 12 năm, vv… đều có số 12 cũng rất hên.

Hôm nay, bần đạo cũng đã hên nên mới tìm và gặp được bài “trần thuật” của vị linh mục họ Nguyễn tên tục là Văn Đông ớ xứ miền thừa-sai lai rai tâm sự 12 điều, tóm gọn bằng bài “san sẻ” bình-dị nhưng chất lượng như sau:

“Quý anh chị em chắc có biết, nói về tỉnh Kontum, phải nói tôi xin tự hào rằng: xứ tôi phụ-trách cái gì cũng nhất, lớn nhất, có người dân-tộc đông nhất, có nhiều đồng bào từ khắp mọi miền về nhiều nhất, có nhiều rừng núi nhất và… nghèo nhất.

Tôi làm linh mục đã hơn ba chục năm (năm nay là 2001). Tôi xin được giới thiệu trước anh chị em: như cha sở vừa có nói, tôi là người trẻ nhất trong số các cha tại Kontum. Năm nay tôi vừa tròn 61 tuổi. Tính đến bây giờ, địa phận tỉnh Kontum có được 4 cha mới, tổng số các cha trong toàn tỉnh là 30, chết hết 7 cha, có thêm 4 cha, mà hầu hết các cha đã rất giá, do vậy mà thưa anh chị em, vậy là chúng tôi thiếu linh mục trầm trọng…(nhà thờ lặng im)

Kontum là tỉnh có đến 180 ngàn người Công giáo, có 70% là người dân tộc, sống rải rác khắp nơi. Đi không từ giáo xứ này qua giáo xứ khác cũng mệt rồi. Huống chi bây giờ đi thăm người bịnh mà cả tỉnh chỉ có mỗi mình tôi. Các anh chị em, đồng bào sinh sống ở đây nghèo lắm, có thể nói là nghèo nhất nước. Tôi nhớ có lần tôi vào thăm một buôn làng, già làng nói: “Ơ, Bab ơii, Bab nói Bab nghèo haa, Khôngô, Bab mới nghèo, Bab khổ, chứ chúng tôi nghèo quá rồi, nghèo quen rồi, nghèo riết nên không thấy nghèo nữa, khổ quen rồi, cho nghèo luôn!!!” (Chú thích: Người dân tộc ở đây gọi các linh mục Công giáo là: Bab)

Có lần, anh chị em có biết là tôi lội bộ 12 cây số để vào thăm một buôn người dân tộc, họ có tục lệ là đối với người bị phong cùi, làng sẽ cất nhà riêng trong rừng cho ở, không cho ở chung. Mà đồng bào nghèo quá, khổ quá, nên cái nhà của họ đã không ra gì, giờ thì họ lại cất nhà cho người cùi ở, thật là không gọi là nhà, phải gọi là ổ mới đúng hơn, mà chỉ một mùa mưa là rách nát. Tôi, mỗi lần đến thăm họ, phải cúi sát đầu, lom khom mới vào “nhà” họ được. Thấy tôi đến, họ mừng lắm anh chị em à, họ cứ nhìn tôi họ cười, họ nói Bab đến thăm con là quý lắm, mừng lắm, họ cười mà tôi khóc anh chị em ơi! (cha Đông khóc, lúc này cả nhà thờ chánh tòa im lặng và khóc theo vị linh mục). Họ nghèo quá, lại cùi, nên tôi tặng họ vật gì của giáo dân góp cho tôi, là họ mừng lắm, cứ giữ khư khư ép vào ngực như sợ bị mất đi. (khóc)

Có một lần vào “nhà” một người cùi, họ nói với tôi: Bab ơi, Bab cho con xin một tấm, ờ miếng nylon đi, Bab có Bab cho con xin đi, một miếng thôi, để con che cái giường con nằm thôi, che chỗ con nằm thôi. Bab ơi, mấy hôm nay mưa quá, cả nhà con, chỗ nào cũng dột, lạnh quá, ướt quá con không ngủ được Bab ơi. (Khóc)

Khổ lắm anh chị em à, họ nghèo mà lại không có học hành gì, nên muốn giàu cũng không được, họ chỉ biết đếm 100 là hết. Các anh chị em có thể tưởng tượng nổi là họ cầm tờ 10 ngàn, họ mua chai nước mắm 3 ngàn 7 trăm, họ không biết nhận lại bao nhiêu, đưa bao nhiêu thì họ nhận bấy nhiêu, vậy đó. Đã nghèo, lại không được học, sống chỉ bám vào đất mà sống, nên giàu sao được. Cứ mỗi lần từ thị xã lên thăm họ, tôi cứ cố tìm chỗ nào có thức ăn rẻ nhất mà mua cho họ. Ví dụ như ở đây, tôi thấy một ký ruốc là 20 ngàn, nhưng ở Phan Thiết chỉ bảy ngàn thôi.

Tôi là người Bình Định, dân miền Trung cũng nghèo đói quá mà tha phương đến tận Kontum, nên tôi rành lắm. Ở Kontum, nhiều đồng bào mình nghèo quá khắp bốn phương về sinh sống. Bắc có, Trung có, Nam có, nhưng đều nghèo như nhau, lại tốt nữa, nên tôi đề nghị họ giúp gì, dù họ nghèo, họ cũng ráng giúp nhiều lắm. Tôi cứ lang thang khắp tỉnh, có cá vụn, cơm kô, muối hạt, tôi cứ xin chỗ nào người ta bán rẻ nhất là tìm đến xin mua cho họ. Có lần, có một số bạn nói với tôi, chúng con có ít tiền. Cha mua ít đồ tặng họ đi Cha. Tôi liền mua nhiều thứ rẻ, gói thành từng gói nhỏ. Như cá khô, thì tôi gói theo ký, cứ một ký là một gói. Tôi đem cho họ, họ mừng lắm. Khi đến một xã, khi tôi đã phát hết quà, còn lại trong giỏ mấy ký cá khô, lại gói trong gói giấy bóng vui mắt, nên trẻ con cứ theo tôi nhìn, ánh mắt của chúng ra vẻ thèm lắm, nhưng chúng không nói. Tôi hỏi, các con thích không, chúng gật đầu, tôi xuống xe ngay và phát hết mấy ký cá khô còn lại, đây, con một ký, con một ký. Chúng nhìn tôi chăm chăm, hai tay ôm bọc cá khô cứ hỏi tôi hoài:

-Bab ơi, Bab cho con thiệt hả Bab?

-Ừ, Bab cho con thiệt mà!

-Bab cho con à, Bab cho con thiệt hả Bab, Bab cho con thiệt hả Bab??

Thưa anh chị em, có đến những vùng này mới thấy hết cái khổ cùng cực của người dân nơi đây. Tôi cứ tự hỏi là: nếu mà tôi đem mấy ký cá khô này tặng các giáo xứ gần đây, chắc các bạn sẽ nói, ông Cha này bị khùng?! Thế đấy, thưa anh chị em. Tôi muốn nói rằng: chúng ta đối với những người nghèo, người bịnh, trong khả năng của chúng ta,không cần nhiều, mỗi người một ít thôi.

Thưa anh chị em, một ít thôi, một tấm nylon nhỏ, một ký cá khô, giúp cho họ bớt khổ, họ mừng lắm thưa anh chị em.

Thưa quý ông bà, anh chị em. Tôi mong rằng tất cả chúng ta sẽ sống đẹp hơn lên trong Mùa Chay năm nay, để xứng đáng với đức hy sinh quên mình của Thiên Chúa. Amen.” (x. Nhật Ký Nguyễn Ngọc Lan, 7.4.2001)

Đọc nhật ký người anh em đồng môn của bần đạo viết, bần đạo lại nhớ câu hát trích dẫn chưa hết nỗi niềm “vẫn nhớ và vẫn thương”, như sau:

“Tôi xa đô thành một đêm trăng mông mênh.

Tuy ra đi rồi mà vẫn nhớ vẫn thương

Hình bóng ấy người em thơ đang từng giờ đợi chờ.

Tiếng hát những chiều thành câu thơ thương yêụ

Bao nhiêu con đường nằm thức giấc giữa đêm khuya

Vì tiếng nói của con tim đi tìm mộng cuộc đời

Thành đô! Còn nhớ mãi nhớ mãi

Nhớ chiều mưa trên công viên,

Giờ chia ly sân ga

Và khi gặp nhau bên lề đường hẹn hò.”

(Hoàng Thi Thơ – bđd)

Là nghệ sĩ, người chỉ nhớ bấy nhiêu thôi ư? Là nhà Đạo, bần đạo là bầy tôi đây lại cũng nhớ khá nhiều điều, nhiều thứ: từ thành đô xa xôi, cho đến những người đã hơn một lần đi qua đời mình, dù phút chốc. Nhưng sao nỗi nhớ ở đây lại kéo dài: khiến ta nhớ hoài và nhớ mãi những người không chỉ là bạn bè/thân thuộc mà thôi, nhưng còn là “khúc ruột ngàn dặm” ở nơi nào, vào thời nào cũng đều có. Có, ở đó/ở đây, phương trời này. Không xa mấy. 

Nhớ nguời nghèo, là còn nhớ bài báo ở trời Tây có đề cập đến trường hợp các trẻ nghèo, như sau:

“Sau đây, là báo cáo của cơ quan World Family Map, lần này nói về tình trạng kinh-tế và xã hội của các gia đình. Nói, là nói thế này:

Nhiều gia đình trên thế giới, nay đang nghèo đến độ đặt con cái mình ở vào tình trạng nguy hiểm với những khó khăn về xã hội, cảm xúc, hạnh kiểm và sức khoẻ thể xác hơn những đứa trẻ thuộc các gia đình không đến nỗi tệ. Cũng từ đó, nay tê nạn nghèo đó lại được nối kết với các khó khăn này khác, như: giáo dục, nghề nghiệp, cơ cấu gia đình và lợi ích xã-hội. Các khiếm khuyết trong bất cứ địa hạt nào giống như thế đều ra như đang gặp phải nạn sa sút, thiếu hụt về thu nhập cũng như cảnh sống của gia đình.

Ngân hàng Thế giới vừa định ra lằn ranh tuyệt đối về tình trạng nghèo ở mức độ kiếm được $1.25 đô Mỹ một ngày; và tính như thế, cơ quan World Family Map  -tuy vẫn chưa có dữ liệu của tất cả mọi nước trên thế-giới- cũng vẫn nhận ra rằng: mức độ cao nhất về tình trạng nghèo đói ở Châu Phi có chỉ số đối với các nước phía Nam sa mạc Sahara thuộc hàng ngũ tính từ 17% cho đến 64% như ở Nigeria.

Với các khu vực khác, thì chỉ số có thay đổi một cách đáng kể, chẳng hạn như: ở Nam Mỹ chỉ số thay đổi từ 1% đến 15% (trong đó thấy có 3 nước nằm trong trạng huống này là: Bôlivia, Côlômbia và Nicaragua . Tại Châu Á, con số này thay đổi từ không như ở Malaysia cho đến 42% như Ấn Độ.

Tại các nước khá hơn, thì: tỷ lệ các gia đình được đánh giá là còn nghèo, xem ra có vẻ tương đối cho các gia đình nói chung. Thực tế, theo kinh nghiệm của các nhà phân tích về tình trạng nghèo đói tại các nước này, thì đúng ra phải nói đến tình trạng “trẻ em nghèo khó” thay vì gia đình khó nghèo, lý do một phần là vì: hầu hết các nước nghèo này được liên kết với các gia đình có đổ vỡ hoặc không đầy đặn. Theo Bản Tường Trình Innocenti của Quỹ Nhi Đồng Liên Hiệp Quốc UNICEF, gia đình nào được gọi là nghèo khi thu nhập của họ ở dưới phân nửa mức thu nhập bình quân trong nước. Cơ quan World Family Map nhận ra rằng có đến 6 cho đến 33% số trẻ em sống trong các gia đình được gọi là nghèo như thế.

Chỉ số trẻ em nghèo tại các nước Bắc Mỹ nằm trong khuôn khổ từ 13% đến 23%. Canada có mức độ thấp nhất về tình trạng nghèo đói tương đối, có mức độ là 13% số trẻ sống trong các gia đình có nguồn thu nhập nằm dưới mức thu nhập bình quân trong nước. Ngược lại, Hoa Kỳ và Mexicô có mức độ cao hơn về tình trạng trẻ em nghèo tương đối có mức độ 23% và 22%, tính như thế. Thật ra, Hoa Kỳ có chỉ số trẻ em tương đối nghèo cao nhất so với các nước có thu-nhập cao được chọn.

Châu Đại Dương, thì Úc có chỉ số trẻ em tương đối nghèo cỡ 11% và New Zealand là 12%. Với Châu Âu, số trẻ em tương đối nghèo trong khu vực có Hoà Lan là nước dẫn đầu với 6%, Thụy Điển, Ái Nhĩ Lan, Đức quốc và Pháp đều có chỉ số thấp hơn 10%. Anh quốc, Ý và Tây Ban Nha lại có tỷ lệ cao hơn một chút, ở mức độ từ 12% đến 17%.

Đến đây, ta cũng nên nhìn vào báo cáo của cơ quan World Family Map trong đoạn nói về cơ cấu gia đình, sẽ thấy rằng: hầu hết các trẻ em ngày nay ra như đang sống với một bên hoặc cả hai bậc cha mẹ ở Châu Mỹ, Châu Âu và Châu Đại Dương. Cũng theo cơ quan World Family Map thì khoảng 20% trẻ em tại các khu vực này đang sống chung với cha mẹ đơn chiếc chỉ một bên, thôi. Tại nước Anh và New Zealand thì con số này là 24%, Hoa Kỳ là 27%, tức con số đích thực có lẽ cũng cao hơn.

Nay nếu so sánh các chỉ số này với ngân sách do chính phủ tại các nước giàu có hơn (tức các nước thuộc tổ chức Kinh tế thế giới gọi tắt là OECD) từng tiêu pha cho lợi ích của các gia đình, thì chỉ thấy có độ 0.7%  đến 3.7% đối với Lợi tức Bình quân Quốc gia theo thống kê năm 2007, trong đó cơ quan World Family Map có nhấn mạnh:

Tại Bắc Mỹ, ngân sách tiêu pha cho lợi ích của các gia đình cũng chỉ xê xích vào khoảng 1%, trong đó thấy có: Mexicô là 1%, Canađa là 1.4%. Các nước Nam Mỹ, có Chilê còn thấp hơn, ở mức độ chỉ mỗi 0.8% thôi.

Các nước thuộc Châu Đại Dương lại đã bỏ nhiều tiền hơn cho lợi ích của gia đình hơn, trong đó có New Zealand đã bỏ ra 3.1% so với bình quân thu nhập toàn quốc và Úc có mức độ tiêu pha cho việc này là 2.8%….

Từ đó, ta có thể kết luận rằng: chỉ số các trẻ em nghèo được nối kết với các gia đình có cha hoặc mẹ đơn chiếc ở Anh và New Zealand, Pháp và Thụy Điển đã suy giảm là nhờ chính phủ ở các nước này đã gia tăng mức chi tiêu dành cho các trường hợp có vấn đề như thế. Hoa kỳ thì khác, ít có lòng đại độ về vấn đề này, thế nên mới có chỉ số trẻ em nghèo ở mức độ cao…” (xem Family Edge, Poverty, family structure and state spending, 01/3/2013)

Đọc báo cáo ở trên, có lẽ điều mà bạn và tôi nhớ đến nhiều nhất chắc không còn là câu hát trong bài “Nhớ Thành Đô” của Hoàng Thi Thơ, cho bằng nhớ Lời Thày Chí Ái khuyên nhủ người thanh niên giàu có nọ, hôm đó, từng đến hỏi Ngài làm sao để trở nên người hoàn thiện, như:

“Người thanh niên ấy nói:

“Tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ,

tôi còn thiếu điều gì nữa không?”

Đức Giê-su đáp:

“Nếu anh muốn nên hoàn thiện,

thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo,

anh sẽ được một kho tàng trên trời.

Rồi hãy đến theo tôi.”

Nghe lời đó, người thanh niên buồn rầu bỏ đi,

vì anh ta có nhiều của cải.”

(Mt 19: 21-22)

Rõ ràng là: muốn trở nên hoàn thiện như Lời Chúa dạy ở Tin Mừng, thì: phải bán hết của cải đi, mà theo Ngài. Nhưng, nếu không làm được thế, cũng nên nghĩ cách mà để lòng mình hướng về tình trạng của “trẻ em nghè” trên thế giới, là nạn nhân của những bất công trong xã hội, rất nhiều nhất.

Nói như thế, có lẽ cũng không quá đáng hoặc “nói trạng” lắm đâu. Nhưng, có nói hay không, cũng chỉ muốn chính mình và/hoặc bạn bè ngươi thân, ta nghĩ nhiều về tình cảnh nghèo/đói thực sự, chứ không chỉ nghèo và đói về tinh-thần, mà thôi.

Nghèo và đói thực sự, là: tình trạng nghèo, hèn, tật bệnh về thể xác cũng như tình trạng còn thấp kém về kiến thức, hiểu biết cũng như sinh hoạt đủ kiểu. Ngõ hầu tạo thành một thế giới ít cảnh bất công hoặc chênh lệch về kinh tế, nếp sống hoặc thực tại để ít xảy ra bất công hoặc chênh lệch cả trong lối sống thực tế giữa những người có khác biệt về sắc tộc, tôn giáo hoặc nghề nghiệp, kiến thức cũng như ý-thức-hệ, vv.

Còn nhớ, có lần thánh-sử Mátthêu có ghi lại Lời của Chúa vẫn khẳng định: “Nếu anh em không như trẻ bé mọn, sẽ chẳng vào Nước Trời được.” (Mt 18: 3). Có thể coi đây như một lời cảnh-tỉnh gửi đến các vị đang có nếp sống đề-huề, còn khá vững. Nói nôm na, là nói rằng: tình trạng sống như “trẻ bé mọn” là nếp sống của những kẻ sa cơ, lỡ vận. Những người không có quyền bính hay quyền lợi, dù rất ít. Trẻ bé mọn, còn là những người bị bỏ rơi, quên lãng hoặc bị đẩy lùi ra bờ rìa của xã hội toàn những tiêu-thụ và tiêu-thụ.

Thành ra, “Nhớ Thành Đô” ở đây, hôm nay, còn là nhớ đến các “trẻ bé mọn”. Nhớ, tức là: không còn khinh chê, miệt thị những người thua kém mình về nhiều mặt, nhiều thứ. Nhớ thành đô, còn là nhớ rằng: ở Nước Trời Hội thánh rất hôm nay, người tín hữu của Chúa sẽ còn phải đón tiếp và đón mừng những “Trẻ bé mọn” trong/ngoài cộng đoàn mà mình đang sống cùng, sống với nhau. Đón tiếp và đón mừng các trẻ bé mọn, nghèo hèn như thế phải giống như cung cách ta đón mừng Đức Chúa Hài Đồng, ngày Giáng Hạ.

Nhận chân ra được đòi hỏi rất gắt của Lời Chúa nơi Tin Mừng như thế, thiết tưởng bạn và tôi, ta cứ hiên ngang mà ngẩng đầu cao, mắt sáng hát những lời những lẽ trong bài “Nhớ Thành Đô”, với những câu:

“Thành đô! Rằng nhớ mãi nhớ nhé,

Dù xa xôi sơn khê,

Thời gian quen chia lỵ

Chờ mong người đi trên đường về, đường về…”

(Hoàng Thi Thơ – Nhớ Thánh Đô)

Hát thế rồi, ta lại sẽ bảo nhau cứ thế mà đi vào cuộc đời, rất ở ngoài, trong tư thế rất hiên ngang và quyết tâm nhớ mãi, hết mọi người, chí ít là các “trẻ bé mọn” ở Nước Trời, là nơi có những truyện kể rất dễ nể, như một kết đoạn của chuyện phiếm hôm nay:

“Truyện rằng,

Vừa xong bữa nhậu với bạn bè, anh chồng ngất ngư đi về nhà.
Để vợ không đoán được là mình uống rượu quá mức, anh ta quyết định đi thẳng vào phòng và ngồi mở Laptop xem thông tin như thường lệ. Vài phút sau, cô vợ vào và hỏi:
– Anh đang làm gì vậy?
– Đọc báo…
– Đồ điên! Đóng vali lại và ngủ ngay đi! Cái đó không phải là “laptop” đâu mà tin với chả thông!!!

Thế đấy, ở đời vẫn có những người tuy không là “đồ điên” như cô vợ nọ vẫn gọi chồng mình như thế. Nhưng, những người giống thế lại cứ như đang sống ở thế giới nào đó, có thông tin đủ mọi thứ/mọi điều, cả trong “vali” thế mới sợ. Sợ rằng, thông tin về “Trẻ bé mọn”, người lép vế và/hoặc cả đến những người sống ngoài rìa xã hội, chẳng muốn thông cũng chẳng tin, chỉ mỗi điều nhỏ, rất quyết tâm.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn tự nhủ

và cũng tự quyết,

rất như thế.

Được xem 1 lần, bởi 1 Bạn Đọc trong ngày hôm nay