Ưu tiên hóa giải công hàm Phạm Văn Đồng

Ưu tiên hóa giải công hàm Phạm Văn Đồng

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-06-04

namnguyen06042014.mp3

Công hàm ông Phạm Văn Đồng gửi Trung Quốc

Công hàm ông Phạm Văn Đồng gửi Trung Quốc

RFA file

Trước khả năng chính quyền Việt Nam khởi kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế về vụ giàn khoan HD 981 xâm phạm vùng biển Việt Nam, nhiều ý kiến từ giới học giả trí thức cho rằng nhà nước phải nhanh chóng  hóa giải công hàm Phạm Văn Đồng 1958 về việc công nhận lãnh hải Trung Quốc.

Khúc xương mắc nghẹn

Công hàm Phạm Văn Đồng 1958 từng được coi là một khúc xương mắc nghẹn của Việt Nam. Lúc đó Trung Quốc tuyên bố chủ quyền lãnh hải 12 hải lý tính từ đất liền, kể cả các hải đảo như Tây Sa và Nam Sa tức Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Ngày 14/9/1958, ông Phạm Văn Đồng Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã gởi công hàm ngoại giao tán thành tuyên bố đó của Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai. Sau này Phía Trung Quốc đã sử dụng công hàm Phạm Văn Đồng như một lợi thế trong mọi tranh chấp chủ quyền biển đảo với Việt Nam.

Qua vụ Trung Quốc hạ đặt giàn khoan HD 981 bất hợp pháp xâm phạm chủ quyền Việt Nam ở ngoài khơi tỉnh Quảng Ngãi, hôm 23/5/2014 lần đầu tiên Bộ Ngoại giao Việt Nam họp báo chính thức ở Hà Nội để biện giải công hàm Phạm Văn Đồng không có giá trị. Công luận Việt Nam đưa ra rất nhiều ý kiến tranh cãi phản biện về nội dung công hàm Phạm Văn Đồng và về cách thức làm thế nào để vô hiệu hóa giá trị của nó.

Chúng tôi ghi nhận ý kiến mới nhất của học giả Đinh Kim Phúc, một nhà nghiên cứu biển Đông hiện sống và làm việc ở Sài Gòn. Ông nói:

Hiệp định Geneve 1954 chia đôi hai miền Nam Bắc, rõ ràng là một bên từ vĩ tuyến 17 trở ra là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa; một bên từ vĩ tuyến 17 trở vào là Việt Nam Cộng Hòa. Rõ ràng hai quần đảo Hoàng Sa Trường Sa thuộc về Việt Nam Cộng Hòa còn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thì có tư cách gì mà nói đến.
-Thạc sĩ Hoàng Việt

“Dù là người phát ngôn Bộ Ngoại giao hay là Thứ trưởng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao thì đều không có giá trị, phải có một Nghị quyết của Quốc hội phủ nhận hoàn toàn công hàm Phạm Văn Đồng thì mới có thể đấu lại Trung Quốc. Còn công hàm Phạm Văn Đồng đúng hay sai thì kiện ra tòa các nhà luật học sẽ chứng minh công hàm đó đúng hay sai ở mức độ nào trong từng thời điểm của lịch sử. Tôi nghĩ rằng tôi không bênh Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhưng như tôi đã thường nói cái ý thức hệ đồng chí anh em nó đã khiến cho những người lãnh đạo Việt Nam đã phải ký cái công hàm này thì đó là cái giá phải trả rất lớn mà đến ngày hôm nay không rút được kinh nghiệm thì Việt Nam sẽ còn trả những cái giá lớn hơn mất trọn biển Đông.”

Một trong các luận điểm được nhiều học giả Việt Nam và nay cũng là luận điểm của giới chức chính phủ Việt Nam để hóa giải công hàm Phạm Văn Đồng 1958.  Đó là miền Bắc vào thời điểm 1954-1975 không có thẩm quyền gì đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa do miền Nam tức quốc gia Việt Nam Cộng Hòa quản lý và không thể cho người khác cái gì mà bạn chưa có được. Thạc sĩ Hoàng Việt, giảng viên luật quốc tế Đại học Luật TP.HCM, thành viên Quỹ nghiên cứu biển Đông đã kiên trì với lập luận của mình:

“Không có ông nào ở miền Bắc lúc đó có quyền nói về công nhận Hoàng Sa Trường Sa được cả. Bởi vì lúc đó theo Hiệp định Geneve 1954 chia đôi hai miền Nam Bắc, rõ ràng là một bên từ vĩ tuyến 17 trở ra là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa; một bên từ vĩ tuyến 17 trở vào là Việt Nam Cộng Hòa. Rõ ràng hai quần đảo Hoàng Sa Trường Sa thuộc về Việt Nam Cộng Hòa còn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thì có tư cách gì mà nói đến.”

Đề nghị vô hiệu hóa công hàm PVĐ

Untitled-2.jpg

Công hàm Phạm Văn Đồng 1958

Ngày 26/5/2014 ông Trương Nhân Tuấn, một người Việt Nam cư trú ở Pháp đã gởi thư không niêm cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Phó Thủ tướng Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh để góp ý là, các luận cứ của giới chức chính phủ và nhiều học giả khác có thể bất lợi và khó thuyết phục về việc công hàm Phạm Văn Đồng 1958 không có giá trị. Ông Tuấn viện dẫn Hiệp định Geneve 1954 xác nhận Việt Nam là nhà nước độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, có chủ quyền và thống nhất và được tái xác nhận theo Hiệp định Paris 1973. Theo Hiệp định Geneve 1954, Việt Nam là một quốc gia nhưng tạm thời bị phân chia, trong khi chờ tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Từ quan điểm này, ông Trương Nhân Tuấn đề nghị vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng.

Trong dịp trả lời Gia Minh đài ACTD, ông Trương Nhân Tuấn phát biểu:

“Trên tinh thần một nước Việt Nam “độc lập, có chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ” của các hiệp ước 1954 và 1973, thì bất kỳ các tuyên bố, các hành vi đơn phương của một bên (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa), nếu có làm tổn hại đến việc toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chúng đều không có giá trị.

Công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng viết trong khoảng thời gian 1954-1973, có liên quan đến chủ quyền và đe dọa toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, đi ngược lại tinh thần hai Hiệp định 1954 và 1973, do đó không có giá trị pháp lý ràng buộc.”

Rất khác biệt với ý kiến của ông Trương Nhân Tuấn, Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng một nhà hoạt động xã hội dân sự từ Đà Nẵng nhận định:

“Lẽ ra mình phải làm ngay chuyện này trước, tức là hóa giải công hàm Phạm Văn Đồng. Thứ hai là phải thừa nhận Việt Nam Cộng Hòa để chúng ta có tuyên bố chủ quyền liên tục từ 1954 tới 1975 vì chủ quyền Hoàng Sa từ 1954 tới 1975 Việt Nam Dân Chủ Công Hòa ở phía Bắc không có tuyên bố chủ quyền. Cho nên hai điều quan trọng nhất là phải hóa giải cho được công hàm Phạm Văn Đồng, tức là phải tuyên bố rõ với thế giới là công hàm Phạm Văn Đồng không có giá trị, thứ nhất là không được Quốc hội thông qua. Thứ hai là trong hoàn cảnh VNDCCH phía Bắc đã không sở hữu quần đảo Hoàng Sa này. Và thứ ba để có một tuyên bố chủ quyền liên tục, để tiến tới kiện thì phải có tuyên bố với thế giới, có văn bản thừa nhận chính quyền VNCH. Phải có những tiền đề rồi sau đó cùng với các nước ASEAN, cụ thể là những nước có tranh chấp như Philippines, Malaysia, Indonesia. Những chuyện về các hòn đảo thì mình bàn trước đi để thống nhất tạo một cái luật chơi.”

Công luận Việt Nam, từ báo chí chính thức đến các diễn đàn xã hội đều cho thấy nhà nước Việt Nam phải đặt ưu tiên số một về việc hóa giải công hàm Phạm Văn Đồng, còn làm thế nào để vô hiệu hóa nó thì sự tranh cãi vẫn đang tiếp tục. Liệu Việt Nam có thể khởi kiện Trung Quốc hay không trước khi thực sự hóa giải được công hàm Phạm Văn Đồng 1958.

Bàn về hai cách thoát khỏi Công hàm 1958

Bàn về hai cách thoát khỏi Công hàm 1958

Chuacuuthe.com


VRNs (04.06.2014) – Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai đã “đóng đanh” bức Công hàm Phạm Văn Đồng 1958 bằng những chứng cứ trên giấy trắng mực đen như sau:

– Thực chất của công hàm đó là “công khai tuyên bố thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc ở các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, là “rất tai hại, rất phản động”, “là một tai họa cho Việt Nam”, là “có tác hại phản quốc phải hủy bỏ”.

140604-CH PVD

4- Đó là một CÔNG HÀM cấp nhà nước (xem hình bên), giữa hai đại diện cao nhất của hai chính phủ, vì thế không thể tùy tiện hạ thấp tầm quan trọng của công hàm này thành một “công thư”, coi văn bản này “không có giá trị, vì anh không thể đem cho cái không phải quyền của anh”. Tác giả cho thấy cách lập luận nhằm hủy bỏ tầm quan trọng của một Công hàm như vậy là “hời hợt”, chỉ là “cãi chày cãi cối”, là “vô trách nhiệm”!

– Vì vậy. để hủy bỏ được công hàm tai hại ấy, tác giả thấy phải đưa ra một giải pháp khác là “Quốc Hội mới của CHXHCN VN phải phủ quyết cái công thư phản động ấy”.

Đấy là những kết luận dứt khoát dựa trên những chứng cứ không thể chối cãi. Nhưng một khi đã công nhận những kết luận ấy không thể không tiếp tục đặt ra những câu hỏi khác và bàn thêm về hai cách giải thoát khỏi Công hàm 1958 ấy cho thật cặn kẽ.

1/ Một Công hàm đã bán chủ quyền, đã “phản động, phản quốc” như vậy thì tác giả của Công hàm ấy, cá nhân cũng như tập thể, cần được phán xét ra sao, chịu trách nhiệm thế nào với hậu thế, với sự tồn vong của đất nước? Bài học rút ra là gì?

2/ Thoát khỏi Công hàm 1958 bằng cách nào?

Mọi người đều thấy Công hàm 1958 là sự ràng buộc nguy hiểm nên đều thấy phải tìm cách thoát khỏi Công hàm đó. Nhưng tùy thuộc mục đích ưu tiên bảo vệ đất nước hay ưu tiên bảo vệ chế độ mà phát sinh hai kiểu thoát hiểm.

– Muốn bảo vệ cái nền móng, bảo vệ thể chế, sợ dứt dây động rừng thì lái cho thiên hạ quên đi tầm quan trọng của Công hàm đó, hạ thấp tính chính thống và tính pháp lý của Công hàm, coi Công hàm là thứ chẳng đáng quan tâm. Song ngụy biện kiểu này chỉ để tự che mắt mình và che mắt dân, chứ không thể cãi được với kẻ xâm lược tinh quái đã “nắm đằng chuôi”, và cũng không thuyết phục được công lý quốc tế khách quan. Thật vậy, ai có thể tưởng tượng một Thủ tướng lại dễ dãi đến mức quyết định “cho” nước láng giềng một phần lãnh thổ của Tổ quốc chỉ vì nghĩ rằng phần lãnh thổ ấy đang thuộc phần quản lý của đồng bào mình ở miền Nam thì cứ việc “cho” cũng chẳng hại gì? Trong khi vị Thủ tướng này luôn nhắc lời Chủ tịch Hồ Chí Minh, người chịu trách nhiệm cao nhất bấy giờ, rằng “Tổ quốc Việt Nam là một,… chân lý ấy không bao giờ thay đổi” kia mà? Thêm nữa, đã tâm niệm “Tổ quốc Việt Nam là một” thì khi Trung Quốc chiếm mất Hoàng Sa năm 1974 phải hiểu là một phần Tổ quốc của mình bị xâm lược (dù đồng bào nửa nước bên kia đang quản lý), sao không có một lời phản đối bọn xâm lược. lại phấn khởi vui mừng vì một vùng biển đảo của Tổ quốc đã vào tay nước bạn để nước bạn giữ cho? Thật tiếu lâm, khôi hài đến chảy nước mắt.

– Tóm lại là cố gắng vô hiệu Công hàm 1958 kiểu này không có giá trị thực tế gì, rất dễ bị đối phương bẻ gãy. Nếu kiện ra Liên Hiệp Quốc, chỉ một Công hàm Phạm Văn Đồng đủ làm cho Việt Nam đuối lý (chưa cần đến những hiệp ước nhượng bộ, đầu hàng về sau mà Trung Quốc đã thủ sẵn trong tay). Khi Trung Quốc đã chốt được tính pháp lý chính danh của Công hàm 1958 thì mặc nhiên đã vô hiệu được tất cả những chứng cứ lịch sử trước 1958 và cả những tranh cãi sau 1958 đến nay. Chính phủ Việt Nam cũng biết vậy nên cứ trì hoãn không dám kiện Trung Quốc, viện lý do rất “đạo đức” là sợ làm đổ mất “bát nước đầy” (cái bát nước hữu nghị mà phía Trung Quốc đã phóng uế vào!). Kiểu chống đỡ này lúng túng bởi vì ưu tiên bảo vệ chế độ, bắt Tổ quốc phải hy sinh cho chế độ, vô tình hay hữu ý tránh né việc phê phán sai lầm của chế độ.

– Vậy phải thoát khỏi Công hàm 1958 bằng cách khác, “bằng một tuyên bố công khai có giá trị pháp lý cao hơn” ví dụ “Quốc hội mới của CHXHCN VN phải phủ quyết cái công thư phản động ấy” như bác Nguyễn Khắc Mai đề xuất. Nhưng giải pháp này có hiệu quả đến đâu? Vấn đề là một chính phủ với tư cách hậu duệ kế tục của chính phủ Phạm Văn Đồng – Hồ Chí Minh thì đương nhiên có trách nhiệm thi hành những tuyên bố của chính phủ hợp pháp trước đây đã ký, Trung Quốc có quyền đòi hỏi theo luật như vậy, điều Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký thì Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có trách nhiệm thực hiện, một khi ông Thủ tướng sau đã nguyện kế tục sự nghiệp của ông Thủ tướng trước. Chỉ còn một cách: Muốn khước từ thi hành Công hàm Phạm Văn Đồng 1958 buộc Chính quyền Việt Nam hiện nay phải nhân danh nhân dân Việt Nam tuyên bố khước từ và tẩy chay những sai lầm “phản động, phản quốc” của chế độ cũ, lập chế độ mới. Liệu cái Quốc hội Cộng sản hiện nay có dám cắt đứt cái mạch máu huyết thống này để kiến tạo một quyết định thoát Cựu, thoát Trung, ích nước lợi nhà như vậy không?

Khó khăn cốt lõi vẫn ở chỗ: Muốn thoát Hán, mà bước một là thoát khỏi Công hàm phản quốc 1958, chỉ có cách phải giải Cộng, thoát Cộng! Chỉ có nhân dân đứng lên, trong một thể chế của nhân dân, mới vô hiệu hóa được mọi ký kết phản quốc, vi hiến, đã ký kết sau lưng nhân dân như Công hàm PVĐ!

3/ Thoát Cộng được lợi những gì?

Trong thực tiễn Việt Nam hiện nay nói thoát Cựu, thoát Cộng hay “vượt qua chính mình” thực ra cùng một nghĩa, tuy “vượt qua chính mình” là cách nói dễ nghe hơn, nhưng tôi xin được dùng chữ thoát Cộng vì đúng thực chất nhất.

Nếu giữ chủ nghĩa Cộng sản thì phải gánh chịu những tai hại gì?

Toàn bộ kế hoạch “đô hộ Việt Nam kiểu mới” mấy chục năm nay của Trung Cộng được thiết kế trên hai chữ Cộng sản, giữ cái nền Cộng sản là giúp cho mưu đồ Hán hóa có một ưu thế ở tầm chiến lược.

– Giữ Cộng sản thì Việt Nam bị ràng buộc bởi quá khứ đầy nợ nần và lầm lỡ, khó thoát ra, chẳng hạn như công hàm 1958, cam kết Thành Đô, các ký kết thời Lê Khả Phiêu, thời Nông Đức Mạnh, thời Nguyễn Phú Trọng…

– Còn giữ Cộng sản thì quan hệ ràng buộc Trung-Việt như quan hệ giữa “thú dữ và con mồi” cứ thít chặt lại, trong khi các khối đoàn kết để kháng cự thì bị lỏng ra, ví dụ giới lãnh đạo thì bị chia thành phái thân Tàu và nhóm lợi ích, lãnh đạo thì ngày càng đối lập với dân, quốc nội với hải ngoại vẫn còn cách biệt, các liên kết Việt Mỹ, Việt Âu, Việt ASEAN… đều bị yếu tố Cộng sản hạn chế một phần, không thể thanh thoát… Như thế lấy đâu ra sức mạnh? Giữ được nước hay không chủ yếu là do có sức mạnh hay không, đừng trông chờ quá nhiều ở công pháp quốc tế.

Trái lại, chỉ cần thoát Cộng thì tất cả những trở ngại trên sẽ được giải tỏa, đặc biệt là toàn bộ dân Việt khắp nơi khắp chốn tự nhiên sẽ ôm lấy nhau mà reo hò, không cần bất cứ một nghị quyết “hòa hợp hòa giải” nào hết, niềm mơ ước một hội nghị Diên Hồng từ đó mới có cơ sở để mở ra, nếu không thì Diên Hồng mãi mãi chỉ là một lời hô hào suông, không có thực chất.

4/ Thoát Cộng dễ hay khó?

– Sẽ quá khó, quá gay go, nếu Đảng Cộng sản cứ ôm lấy vinh quang quá khứ và lợi quyền hiện tại khiến cho Đảng ngày càng xa dân, đối lập với dân, mỗi động tác dân chủ hóa, dẫu còn ở mức độ “cải lương” thôi cũng đã là một cuộc cọ xát nảy lửa, đã xảy ra bắt bớ cầm tù, nói gì đến sự đổi mới thể chế, đổi mới hệ thống?

– Nhưng không, sẽ vô cùng dễ dàng nếu Đảng biết “tự vượt qua mình”, lấy lợi ích dân tộc trên hết mà vượt trên quá khứ, chuyển sang nền dân chủ đa nguyên như các nước tiên tiến thì Đảng có mất chỉ mất cái danh hão mà được tất cả. Chẳng những không ai chỉ trích quá khứ nữa làm gì, mà các vị cầm quyền còn được nhân dân yêu quý và biết ơn thật sự, không còn tình trạng “thấy mặt là tắt tivi” như bấy lâu nay. Về tinh thần đã thanh thỏa như vậy, về vật chất cũng cơ bản được đảm bảo; có phải nhân dân đã từng bắn tiếng rằng nếu người lãnh đạo biết đổi mới để cứu nước, thoát Hán thì dân sẵn sàng độ lượng cho tận hưởng bổng lộc đấy thôi? Triển vọng xán lạn ấy có thể lắm chứ, sao lại không?

Quả bóng cứu dân cứu nước hiện đang trong chân người cầm quyền, dân rất mong mỏi những người cầm quyền biết xử lý thông minh, khôn ngoan, ích nước lợi nhà. Chỉ trừ trường hợp chẳng may, đợi mãi, vô vọng (chẳng hạn như tiền đạo họ Phùng cứ sút mãi bóng vào lưới nhà) thì tất nhiên dân phải đứng dậy giành quả bóng về chân mình mà xử lý theo đúng ý nguyện của dân, để “nâng thuyền hay lật thuyền” như quy luật của muôn đời mà Nguyễn Trãi đã diễn tả bằng một hình ảnh lưu danh bất hủ…

H.S.P. (2-6-2014)

Hà Sĩ Phu

Nguồn: http://www.boxitvn.net/bai/26882

Nếu biến cố Thiên An Môn xảy ra hôm nay

Nếu biến cố Thiên An Môn xảy ra hôm nay

Trần Trung Đạo (Danlambao) – Một sinh viên đứng trên bục cao trong tang lễ Hồ Diệu Bang ngày 24 tháng Tư 1989, phát biểu: Đồng chí Hồ Diệu Bang vừa qua đời. Ông là một lãnh đạo trong sạch. Ông không có một chương mục ngân hàng ở nước ngoài. Con cái ông không thăng quan tiến chức chỉ vì cha là lãnh đạo đảng Cộng Sản. Hôm qua chúng ta nói về minzhu, dân chủ. Vậy minzhu nghĩa là gì? Min là “nhân dân” và Zhu là “làm chủ”. Chúng tôi muốn nhận trách nhiệm làm chủ!

Lời phát biểu của anh được đáp lại bằng những tràng pháo tay nồng nhiệt của hàng trăm ngàn người như được ghi lại trong cuốn phim tài liệu nổi tiếng The Gate of Heavenly Peace của Long Bow Group.

Và đó cũng là một trong hàng loạt các hoạt động của phong trào dân chủ Trung Quốc đã kéo dài suốt bảy tuần lễ tại quảng trường Thiên An Môn. Kết quả, một thiên hùng ca được viết bằng máu của nhiều ngàn sinh viên Trung Quốc yêu dân chủ và được thế giới biết đến hôm nay và mãi mãi về sau như Tàn Sát Thiên An Môn. Một điều cần lưu ý, nguyện vọng của nhân dân bị đáp lại bằng máu chẳng phải chỉ phát xuất từ quan điểm Cộng Sản cứu cánh biện minh phương tiện thôi mà còn là đặc tính riêng của văn hóa Trung Quốc. Ngay từ 1926, Lỗ Tấn đã phát biểu “Thỉnh nguyện lên chính phủ xảy ra tại mọi nước. Điều đó không cần thiết phải kết quả bằng cái chết, ngoại trừ, dĩ nhiên tại Trung Quốc”.

Lý tưởng Cộng Sản được Marx, Engel và các môn đệ ở Trung Quốc điểm tô như một thiên đàng tuyệt hảo, có khả năng thỏa mãn mọi nhu cầu của loài người tự giác. Lý thuyết đó cuốn hút hàng triệu nông dân Trung Quốc nghèo khó bỏ gia đình, vợ con, ruộng vườn, đi theo Mao Trạch Đông tìm chân lý. Từ vỏn vẹn 12 đại biểu đại diện cho 57 đảng viên cả nước trong đại hội thành lập đảng 1921 tại Thượng Hải, đảng Cộng Sản Trung Quốc có trên 10 triệu trong đại hội lần thứ Tám vào 1956, chưa tính số đảng viên bị giết trong thời kỳ nội chiến và trong chiến tranh chống Nhật.

Tuy nhiên, sau khi tóm thâu toàn lục địa Trung Hoa, đảng Cộng Sản Trung Quốc đã lộ nguyên hình là một đảng độc tài toàn trị, chăn dân chẳng khác gì chăn trâu ngựa. Thiên đàng đâu không thấy, chỉ có một chế độ nô lệ mới ra đời trong địa ngục trần gian Trung Quốc. Giới lãnh đạo Cộng Sản Trung Quốc đã phản bội khát vọng của nhân dân, bỏ chết đói nhiều chục triệu người qua các chính sách kinh tế vô cùng ngu xuẩn trong những năm từ 1958 đến 1961, và sáng sớm ngày 5 tháng Sáu 1989 đã tàn sát thêm nhiều ngàn thanh niên Trung Quốc vô tội.

Trong lúc phong trào Thiên An Môn 1989 là một thiên hùng ca về khát vọng dân chủ tự do của con người sẽ mãi mãi được hát lên trên khắp địa cầu, nguyên nhân, diễn tiến và hậu quả thảm khốc của biến cố đã để lại những bài học hữu ích cho các phong trào sinh viên dân chủ thế giới, đặc biệt đối với các phong trào sinh viên dân chủ tại các quốc gia có hoàn cảnh chính trị tương tự như Trung Quốc trong những ngày trước mắt.

Trước hết cần sơ lược những diễn biến chính của phong trào Thiên An Môn. Tại Trung Quốc, các buổi tập hợp nhằm mục đích biểu dương sức mạnh quần chúng đã trở thành một tập quán lâu đời. Có thể vì nhiều lần và có nội dung trùng hợp, nhất là trong thời “Cách Mạng Văn Hóa” nên các biến cố thường được gọi bằng ngày tháng mà biến cố đó phát sinh thay vì nguyên nhân tạo nên biến cố. Ví dụ, Phong Trào 4 tháng Năm để nhắc nhở cuộc nổi dậy chống đế quốc qua các hiệp ước bất bình đẳng do sinh viên Bắc Kinh phát động ngày 4 tháng Năm 1919 hay biến cố 5 tháng Tư với hàng trăm ngàn người tập trung để kỷ niệm một năm ngày cố Thủ Tương Chu Ân Lai qua đời. Biến cố 4 tháng Sáu, hay còn được báo chí quốc tế gọi là biến cố Thiên An Môn, diễn ra từ 14 tháng Tư đến 5 tháng Sáu 1989, được quan tâm nhiều nhất, không những vì phong trào kéo dài nhiều tuần lễ, số người chết cao, được hàng ngàn nhà báo quốc tế theo dõi mà còn gây tác dụng mạnh mẽ đối với vị thế chính trị của Trung Quốc trong bang giao quốc tế.

Biến cố Thiên An Môn phát sinh sau khi cựu Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Trung Quốc Hồ Diệu Bang, nguyên là một lãnh tụ Cộng Sản có khuynh hướng cải cách ôn hòa, qua đời sáng sớm 15 tháng Tư 1989. Sáng hôm đó, hàng trăm ngàn người thuộc nhiều giới, trong đó có các đảng viên Cộng Sản trẻ, các nhóm Cộng Sản có khuynh hướng cải cách, các nhóm Cộng Sản thuộc phe đệ tứ tập trung để thương tiếc cựu tổng bí thư và phản đối chính sách trung ương tập quyền của đảng, đòi hỏi các cải cách chính trị, kinh tế. Trong những ngày đầu này sinh viên chưa thực sự tham gia mặc dầu có một số đã có mặt, trong đó có Chai Ling, người sẽ đóng vai trò quan trọng trong nhiều tuần sau đó. Ngày 15 tháng Tư cũng là ngày sinh nhật của cô sinh viên 23 tuổi này và như cô ta nhìn lại sau này: “Phong trào là một biểu lộ ý thức dân chủ tự nhiên của người dân và sinh viên”.

Sau tuần lễ đầu không có một lãnh tụ nào nổi bật và cũng không có mục đích cụ thể, sáng 17 tháng Tư, ba ngàn sinh viên từ Đại Học Bắc Kinh tiến về quảng trường Thiên An Môn, và tiếp theo sau, nhiều ngàn sinh viên khác từ Đại Học Thanh Hoa (Tsinghua) nỗi tiếng cũng tham gia cuộc biểu dương lực lượng. Cuộc biểu tình nhận được sự ủng hộ của các trường đại học khác ở Bắc Kinh và bắt đầu lan tràn sang các thành phố khác.

Ngày 19 tháng Tư, một liên hiệp sinh viên các trường đại học tại Bắc Kinh ra đời. Ba ngày sau, sinh viên tham dự lễ tưởng niệm cựu Tổng Bí Thư Hồ Diệu Bang tại Nhân Dân Đại Sảnh. Vào thời điểm này, một bản thỉnh nguyện bảy điểm được sinh viên công bố, gồm (1) Khẳng định quan điểm dân chủ và tự do của cố Tổng Bí Thư Hồ Diệu Bang; (2) thừa nhận chiến dịch chống sa đọa tinh thần và giải phóng tư sản là sai lầm; (3) công khai hóa lợi tức của các lãnh đạo nhà nước và gia đình họ; (4) chấm dứt việc ngăn cấm báo chí tư nhân và cho phép tự do ngôn luận; (5) tăng ngân sách giáo dục và tăng lương cho trí thức; (6) chấm dứt hạn chế biểu tình tại Bắc Kinh; (7) tổ chức các cuộc tuyển cử dân chủ để thay thế các viên chức chính phủ đã thực hiện các quyết định sai lầm. Ngoài ra, các lãnh tụ phong trào Thiên An Môn còn đòi hỏi các phương tiện truyền thông nhà nước phải công bố các yêu sách của họ cho dân chúng biết.

Ngày 26 tháng Tư, tờ Nhân Dân Nhật Báo trong bài bình luận đã tố cáo “một nhóm nhỏ âm mưu” tạo sự xáo động nhằm lật đổ đảng Cộng Sản và hệ thống xã hội chủ nghĩa. Sinh viên đã phản ứng bằng một cuộc biểu dương lực lượng của 40 trường đại học để phản đối nội dung của bài bình luận trên báo Nhân Dân. Ngày 13 tháng Năm sinh viên bắt đầu cuộc tuyệt thực trước Nhân Dân Đại Sảnh, trụ sở của Ủy Ban Thường Trực Hội Đồng Đại Biểu Nhân Dân. Hơn một ngàn người tham gia chiến dịch này. Trong lúc đó, nhiều ngàn sinh viên khác bao vây khu Trung Nam Hải, trụ sở của các cơ quan nhà nước. Tại cả hai nơi, các lãnh tụ sinh viên yêu cầu chính phủ phải công bố bản thỉnh nguyện bảy điểm. Các lực lượng công an phòng vệ giải tán bằng gậy gộc. Sinh viên phản ứng bằng cách kêu gọi đình công, bãi trường. Cả Tổng Bí Thư Triệu Tử Dương lẫn Thủ Tướng Lý Bằng đều có gặp sinh viên để tìm cách chấm dứt cuộc tuyệt thực nhưng không có kết quả. Trong các lãnh đạo đảng, Triệu Tử Dương có khuynh hướng mềm dẻo, trong lúc Lý Bằng và Đặng Tiểu Bình thiên về các phương pháp cứng rắn. Đặng Tiểu Bình trong một phiên họp mật của trung ương đảng đã cảnh giác một mối đe dọa thực sự đang xảy ra. Mặc dù vị trí nhà nước của họ Đặng tương đối thấp so với các lãnh đạo khác, y lại là Chủ Tịch Quân Ủy Trung Ương và là người có quyết định ban hành luật quân sự nhân danh các lãnh đạo nhà nước, phần lớn chỉ có tính cách lễ nghi.

Trong lúc cuộc tuyệt thực đang tiến hành, ngày 15 tháng Năm, Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Liên Xô Mikhail Gorbachev đến Bắc Kinh trong ngày đầu của chuyến viếng thăm cực kỳ quan trọng giữa hai nước. Đây là chuyến viếng thăm chính thức đầu tiên trong 30 năm và hy vọng sẽ tái lập mối quan hệ ngoại giao vốn bị rạn nứt từ thời Nikita Khrushchev. Hơn một ngàn đại diện báo chí quốc tế, trong đó rất đông do chính nhà nước Trung Quốc mời, để tường thuật chuyến viếng thăm của Mikhail Gorbachev. Luật quân sự được ban hành ngày 20 tháng Năm. Ngày 24 tháng Năm, Tổng Hành Dinh Bảo Vệ Quảng Trường Thiên An Môn được thành lập và sinh viên bậc cao học Chai Ling được bầu làm Tổng Chỉ Huy. Một bức tượng Nữ Thần Tự Do cao mười mét được dựng lên vào tuần lễ sau đó.

Lúc 5 giờ chiều ngày 2 tháng Sáu, Lưu Hiểu Ba và hai người khác bắt đầu tuyệt thực. Trường hợp Lưu Hiểu Ba rất đặc biệt vì khi mới bắt đầu xảy ra vụ Thiên An Môn ông còn ở New York. Như ông trả lời trong một cuộc phỏng vấn truyền hình sau đó, các hình ảnh trên TV Mỹ đã có tác dụng sâu sắc vào nhận thức của ông và ngày 26 tháng Tư, ông quyết định trở lại Trung Quốc qua ngả Tokyo. Ngày 2 tháng Sáu, Trung Ương Đảng dứt khoát đồng ý dọn sạch quảng đường Thiên An Môn bằng võ lực. Ngày 3 tháng Sáu, các đơn vị Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc bắt đầu tấn công vào quảng trường. Binh đoàn 27 được báo chí ghi nhận là chủ chốt gây thương vong cho sinh viên và dân chúng. Vào lúc 5 giờ 40 sáng 4 tháng Sáu, quảng trường Thiên An Môn nằm trong tay kiểm soát của quân đội. Số người bị giết được ước tính khác nhau tuy theo nguồn tin. Tình báo của NATO ước lượng 7 ngàn người bị giết trong lúc tin của Liên Xô có khoảng 10 ngàn và theo tin của cơ quan Hồng Thập Tự Trung Quốc có 5 ngàn người bị giết và 30 ngàn bị thương.

Dưới các chế độ Cộng Sản những cuộc thảm sát thường không được tiết lộ ra ngoài. Các chính sách kinh tế sai lầm tệ hại của Mao dẫn đến hàng nhiều chục triệu người dân vô tội chết oan, chết đói cũng không được thế giới biết đến một cách chi tiết. Cuộc Tàn Sát Thiên An Môn là biến cố được các hãng truyền hình ghi nhận nhiều nhất và đã có tác hại trầm trọng đến uy tín chính trị của đảng và nhà nước Cộng Sản Trung Quốc trong bang giao quốc tế một thời gian khá dài vì hai lý do. (1) Các cơ sở truyền thông quốc tế đến Trung Quốc như một trùng hợp ngẫu nhiên để đưa tin về chuyến viếng thăm Trung Quốc của Tổng Bí Thư Liên Xô Michail Gorbachev nhưng lại có cơ hội hiếm hoi ghi nhận các hậu quả của biến cố Thiên An Môn, và (2) các hãng truyền thông truyền hình của đảng trong lúc chỉ trích cuộc biểu tình qua các tin tức, phóng sự truyền hình đã vô tình tiếp tay giúp loan tin đến các tầng lớp quần chúng và kích động quần chúng tham gia biểu tình.

Dù gây một tiếng vang lớn, phong trào Thiên An Môn của sinh viên Trung Quốc đã không đạt được mục đích như đã đề ra trong tuyên bố bảy điểm và để lại cho các phong trào dân chủ trẻ thế giới nói chung và tại các quốc gia Cộng Sản nói riêng những bài học cần thiết:

1. Đoàn kết nội bộ: Theo ký giả Robert Gifford của đài BBC nhận xét nhân dịp đánh dấu 10 năm Tàn Sát Thiên An Môn, một trong những lý do dẫn đến sự thất bại của phong trào Thiên An Môn là sự thiếu đoàn kết trong lãnh đạo phong trào sinh viên. Phần lớn các lãnh tụ sinh viên tham gia một cách tự phát cuộc biểu tình chỉ vì bất mãn trước tình trạng lạc hậu kinh tế, tham nhũng xã hội và độc tài chính trị nhưng không có một nghị trình rõ ràng cần phải làm gì để chuyển hóa một tập thể đầy cảm tính sang một phong trào có tổ chức. Sự chia rẽ không những vì quan điểm mà còn cục bộ đến mức theo mỗi trường, mỗi khoa, mỗi nhóm đã diễn ra rất sâu sắc trong hàng ngũ lãnh đạo phong trào.

2. Ý thức về dân chủ: Tất cả sinh viên Trung Quốc trong lứa tuổi hai mươi trưởng thành dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, ở đó các lý thuyết dân chủ hoàn toàn không được giảng dạy đừng nói chi đến việc ứng dụng vào một hoàn cảnh xã hội đa văn hóa vô cùng phức tạp như Trung Quốc. Bản thân của những lãnh tụ sinh viên chẳng những không phải phát xuất từ thành phần chống đảng mà còn được rèn huấn bằng lý luận Cộng Sản. Cha mẹ của Chai Ling, lãnh tụ hàng đầu của phong trào là đảng viên Cộng Sản và bản thân cô là thành viên của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Trung Ương.

3. Phong trào kéo dài quá lâu nhưng không thực hiện các biện pháp có tính quyết định: Các lãnh tụ sinh viên lẽ ra ngay từ đầu phải đặt chỗ dựa vững chắc trong lòng nhân dân, tìm mọi cách nối kết với các phong trào lao động, nhưng theo nhiều nguồn tin quốc tế, họ đã tỏ ra do dự không chịu sự hợp tác đấu tranh với tầng lớp công nhân. Thái độ thiếu dứt khoát và tầm nhìn chiến lược quá giới hạn của sinh viên đã dẫn phong trào đến chỗ bế tắc. Căn cứ vào lời phát biểu của các lãnh tụ sinh viên, dù vụ tàn sát Thiên An Môn không diễn ra, phong trào Thiên An Môn sớm muộn cũng tự giải tán. Tác giả Eddie Chang trong tác phẩm Standoff at Tiananmen mô tả tâm trạng tuyệt vọng của các lãnh tụ sinh viên trong những ngày cuối trước khi cuộc tàn sát xảy ra như trường hợp Chai Ling: “Ngoại trừ những khi thật cần để phát biểu để sinh viên lên tinh thần, Chai Ling ít khi xuất hiện và giao phó hết công việc cho phụ tá của cô”.

Đó là chưa kể các khó khăn về thông tin, vệ sinh, thực phẩm, nước uống, y tế, trật tự trong quảng trường bao la với nhiều trăm ngàn người tập trung suốt nhiều tuần lễ.

Vào thời điểm 1989, phần lớn những khó khăn đó là những khó khăn khách quan bị quy định bởi hoàn cảnh xã hội, ý thức chính trị và giới hạn thông tin tại Trung Quốc.

Nếu biến cố Thiên An Môn xảy ra hôm nay, những khó khăn đó chắc chắn sẽ được vượt qua khá dễ dàng bởi vì, về mặt chủ quan thế hệ trẻ ngày nay có một nhận thức dân chủ rõ ràng và vững chắc, và về mặt khách quan thế giới đã chuyển mình sang một thời đại thông tin rộng mở mà không nhà nước nào, không một kỹ thuật nào có khả năng bưng bít được hoàn toàn, kể cả tại Trung Quốc. Cuộc cách mạng tin học bùng nổ đầu thập niên 1990 đã giúp mang con người không phân biệt giàu, nghèo, sang, hèn, khác biệt về tôn giáo đến gần nhau trong một căn nhà. Trái đất mỗi ngày một nhỏ dần. Những hàng rào ngăn cách giữa người và người đã bị giới hạn nhiều. Nhân loại ngày nay cần được sống trong một xã hội mở, không bị bao bọc trong bốn bức tường độc tôn hay độc tài.

Một số nhà phân tích tình hình Trung Quốc cho rằng những gì đang xảy ra tại Quảng Trường Tahrir ở Cairo không thể xảy tại Quảng Trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh như giới lãnh đạo Trung Quốc đang lo lắng quá xa. Xin đừng quên, trước ngày Thiên An Môn bùng nổ 1989 không ai nghĩ biến cố đó có thể xảy ra. Các lãnh đạo nhà nước Trung Quốc được Đặng Tiểu Bình đưa lên trong giai đoạn đó như Triệu Tử Dương, Lý Bằng là những chuyên viên có đầu óc thực dụng. Chính sách bốn hiện đại hóa đang chứng tỏ thành công. Nền kinh tế Trung Quốc đang bước vào thời kỳ phát triển thứ hai với các kết quả vượt kế hoạch dự trù. Hệ thống tập thể hóa nông nghiệp đã bị xóa bỏ. Công nghiệp tư doanh phát triển một cách nhanh chóng. Giá cả hàng hóa không còn bị quy định bởi nhà nước mà theo nhu cầu thị trường. Nhưng tất cả những phát triển đó đã không đáp ứng được đòi hỏi của thế hệ thanh niên đã tiến xa hơn thực tế xã hội.

Sau ngày thảm sát Thiên An Môn tháng Sáu 1989, một nhà văn Trung Quốc dấu tên đã viết những lời tưởng niệm và dán lên bức tường Thiên An Môn chưa khô hết máu, trong đó có đoạn: “Chúng tôi vững tin tưởng rằng, sẽ có một ngày khi chúng tôi có thể hát bài hát vui mừng và chiến thắng cho những người đã chết hôm qua, cho những người đang chết hôm nay, và sẽ chết ngày mai, và cho những người gặp nhau đây rồi vĩnh biệt hôm sau.”

Đúng vậy, phong trào Thiên An Môn bùng nổ và đã bị dập tắt nhưng chắc chắn một Thiên An Môn khác đang được hình thành tại Trung Quốc bởi vì khát vọng tự do dân chủ là ngọn lửa thiêng âm thầm cháy trong lòng người dù đang sống ở đâu trên mặt đất này. Nơi nào có độc tài đảng trị nơi đó sẽ có cách mạng dân chủ. Không ai biết thời điểm nào một cách mạng sẽ diễn ra nhưng không thể phủ nhận hay trốn tránh quy luật xã hội đó.

Nếu biến cố Thiên An Môn xảy ra hôm nay, ý thức dân chủ trong thệ hệ trẻ Trung Quốc đã trưởng thành cộng với các phương tiên thông tin đang có, cuộc tranh đấu sẽ không dừng lại ở những điều thỉnh nguyện suông mà có thể dẫn đến sự sụp đổ toàn bộ hay ít nhất làm thay đổi căn bản cơ chế chính trị tại Trung Quốc. Bắc Kinh sẽ ngăn chận Internet như họ đã ngăn chận Twitter, Facebook, Flickr, Youtube, Blogspot v.v. nhân dịp kỷ niệm 20 năm Tàn Sát Thiên An Môn cách đây hai năm, nhưng phe dân chủ vẫn còn rất nhiều cách để thông tin trong nội địa cũng như chuyển và nhận tin từ nước ngoài. Một chuyên viên kỹ thuật Trung Quốc dấu tên khi được hỏi những gì sẽ xảy ra nếu biến cố Thiên An Môn đang diễn tiến hôm nay, đã thừa nhận rằng với số lượng người được nối kết vào Internet mỗi ngày tăng hàng triệu, việc chận đứng toàn bộ và lâu dài không phải là chuyện dễ dàng.

Mộtbằng chứng điển hình, theo The Wall Street Journal Asia phát hành hôm 31 tháng Giêng 2011, chính phủ Trung Quốc chặn hai chữ Egypt và Cairo từ các nguồn tìm kiếm internet. Hành động trẻ con đó của giới lãnh đạo đảng Cộng Sản Trung Quốc cho thấy họ luôn sống trong bất an, bị động và luôn nằm trong thế thủ hơn là thế công. Hơn ai hết, giới lãnh đạo Trung Quốc biết vị trí của họ là vị trí của một quốc gia bị bao vây, bởi vì chung quanh họ hầu hết là kẻ thù, không chỉ thù kinh tế, chính trị mà cả về văn hóa, lịch sử, địa lý. Ngoài ra, Trung Quốc ngày nay không phải là một quốc gia đang phát triển, không có gì để mất như hai chục năm trước mà là một cường quốc, dù muốn hay không, họ cũng phải đóng vai trò cường quốc với tất cả trách nhiệm quốc tế để bảo vệ quyền lợi của Trung Quốc. Nếu không, một khi phong trào dân chủ thế giới qua đi, Mỹ sẽ xuất hiện trên trường quốc tế như một cường quốc có lợi nhất, ngay cả còn mạnh hơn một nước Mỹ sau thế chiến thứ hai.

Và cho dù chế độ có thể ngăn chận được thông tin trong lục địa Trung Quốc, Bắc Kinh cũng không thể làm gì được để ngăn chận thông tin quốc tế được truyền đi qua hàng trăm phương tiện internet nhanh nhất và có tác dụng tạo nên một làn sóng công phẫn trên phạm vi toàn thế giới. Sinh viên Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc sẽ không cô đơn như 1989 mà cả nhân loại sẽ đứng về phía họ. Hàng trăm cuộc biểu tình trước các tòa đại sứ Trung Quốc ở nước ngoài sẽ tạo nên một áp lực quốc tế thường trực không kém gì tại lục địa Trung Hoa. Thượng Nghị Sĩ John McCain phát biểu trên CNN tuần này “Chúng ta không thể chấp nhận một Tiananmen Square xảy ra tại Cairo”. Điều đó có nghĩa nếu Thiên An Môn xảy ra hôm nay, giới lãnh đạo Mỹ, vì cả hai lý do nhân đạo cũng như kinh tế, sẽ không đứng bàng quan nhìn hàng ngàn thanh niên vô tội bị nghiền nát dưới lằn xích sắt như đã diễn ra trong 1989.

Giống như cơ chế nhà nước tư bản là hệ quả khoa học của cuộc cách mạng kỹ nghệ vào thế kỷ 18, các chế độ dân chủ mở rộng ngày nay là hệ quả khoa học của một nền kinh tế đang được toàn cầu hóa. Ánh sáng tự do đang rọi vào những nơi mà trước đây không mấy ai quan tâm đến như Tunisia, Sudan, Yemen, Morocco và lần lượt sẽ đến nhiều nơi khác đang sống dưới chế độ độc tài.

Trần Trung Đạo

danlambaovn.blogspot.com

Còn Đảng còn mình

Còn Đảng còn mình

Nguyễn Hưng Quốc

02.06.2014

Câu khẩu hiệu “còn Đảng còn mình”, cho đến nay, chỉ xuất hiện trước các đồn công an và, từ đó, trở thành một đối tượng để phê phán của những người ngoài đảng và có tinh thần dân chủ và độc lập.

Kể cũng dễ hiểu.

Câu khẩu hiệu ấy sai đến dại dột và lố bịch. Trên thế giới, có lẽ không ở đâu người ta dại dột và lố bịch đến như vậy. Bởi, trên thế giới, từ lâu, người ta đã biết và đã thực thi nguyên tắc: Công an phải độc lập với đảng cầm quyền. Nhiệm vụ của công an không phải là để phục vụ và kiếm lợi từ cái đảng ấy. Nhiệm vụ của công an là bảo đảm an toàn và an ninh cho xã hội và chỉ tuân theo luật pháp.

Giới lãnh đạo Việt Nam, ngay trong ngành công an, có lẽ cũng hiểu điều ấy. Nhưng họ vẫn nói, hơn nữa, nói một cách công khai, đàng hoàng và dõng dạc, thành khẩu hiệu. Để làm gì? Như một lời hứa, một sự cam kết đối với công an.

Bởi vậy, câu khẩu hiệu trên phản ánh không những tình trạng đảng trị và phi dân chủ mà còn cả sự mua chuộc của đảng Cộng sản đối với lực lượng công an. Điều này, thật ra, đã được nhiều người nêu lên: Hiện nay, đảng Cộng sản bảo vệ thế đứng độc tôn của mình trên chiếc kiềng ba chân: một là quân đội, hai là công an; và ba là nền kinh tế quốc doanh, qua đó, đảng có thể vơ vét tài sản quốc gia và phân phối lợi nhuận cho những người trung thành, kể cả hai lực lượng nòng cốt vừa nêu: công an và quân đội.

Tuy nhiên, theo tôi, câu khẩu hiệu “còn đảng còn mình” không chỉ giới hạn trong lực lượng công an. Nó còn là nếp tư duy chung của đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay, đặc biệt trong giới lãnh đạo, nhất là trong quan hệ với những thử thách họ đang đối đầu.

Nói một cách vắn tắt, ít nhất cho đến thời gian gần đây, trước khi vụ giàn khoan HD-981 bùng nổ, tất cả những toan tính chiến lược của nhà cầm quyền Việt Nam không phải là bảo vệ đất nước mà, trước hết, bảo vệ quyền lực và quyền lợi của chính họ; và vì những quyền lực và quyền lợi ấy gắn bó với sự tồn tại, hơn nữa, tồn tại một cách độc tôn của đảng Cộng sản, do đó, hệ quả là, mọi người cứ lo chăm chắm bảo vệ đảng dù cái giá phải trả có khi là mất đi một phần lãnh thổ hay lãnh hải.

Có lẽ sự chọn lựa ấy được định hình thành chính sách sau cuộc hội nghị ở Thành Đô giữa giới lãnh đạo Việt Nam và giới lãnh đạo của Trung Quốc, ở đó, Việt Nam công nhận Trung Quốc là lãnh tụ độc nhất của khối xã hội chủ nghĩa, thay thế vị trí của Liên Xô trước đó; và Việt Nam thề thốt trung thành với con đường xã hội chủ nghĩa; điều đó cũng có nghĩa là trung thành với Trung Quốc.

Không phải chỉ trong lời nói. Việt Nam thành thực tuân theo các thỏa thuận ấy, xem Trung Quốc như một đồng chí tốt, hơn nữa, một thứ đàn anh tốt. Sự thành thực ấy không chỉ phản ánh trong lời nói, ở các diễn văn cũng như các khẩu hiệu tuyên truyền. Nó còn thể hiện qua việc làm: lúc nào cũng đề cao và nhường nhịn Trung Quốc. Hơn nữa, họ còn hết lòng tin tưởng Trung Quốc. Theo dõi ngân sách của Việt Nam cho lãnh vực quốc phòng, giới quan sát chính trị thế giới nhận ra một điểm đặc biệt: Việt Nam chỉ bắt đầu hiện đại hóa quân đội Việt Nam chỉ từ năm 2004, tức là 14 năm sau hội nghị Thành Đô, khi âm mưu xâm lấn của Trung Quốc đã quá rõ rệt và khi dân chúng đã quá bức xúc trước những âm mưu xâm lấn đó.

Ngoài ngân sách, sự tin cậy và lệ thuộc vào Trung Quốc cũng thể hiện rất rõ qua vô số cách hành xử của giới lãnh đạo Việt Nam, ví dụ, trong việc thả lỏng cho Trung Quốc muốn làm gì thì làm, từ việc khai thác bauxite ở Tây Nguyên đến việc thuê dài hạn rừng núi, ngay cả ở những khu vực có vị trí chiến lược về quân sự, việc nhắm mắt để công nhân Trung Quốc ào ạt sang làm việc một cách trái phép, việc để cho người Trung Quốc di trú và hoạt động bất hợp pháp ở những nơi được xem là hiểm yếu của Việt Nam như hải cảng quân sự Cam Ranh, việc để cho các công ty Trung Quốc thành công trong phần lớn các cuộc đấu thầu liên quan đến các dự án có tầm vóc quốc gia, việc lơ đễnh để báo chí, bản đồ, thậm chí, cả sách giáo khoa, thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa là của… Trung Quốc, v.v…

Không ai bày tỏ quan điểm bảo vệ đảng bằng mọi giá như Trần Đăng Thanh, đại tá, giáo sư tiến sĩ, thuộc Học viện chính trị Bộ quốc phòng. Phát biểu trước các cán bộ lãnh đạo trong ngành giáo dục vào tháng 12 năm 2012, ông Thanh thể hiện tư tưởng ghét Mỹ và bài Mỹ qua nhận định “Người Mỹ chưa hề, chưa từng và không bao giờ tốt thật sự với chúng ta cả”.  Ngược lại, với Trung Quốc, ông nhấn mạnh: “Ta không thể là người vong ơn bội nghĩa, đấy là đối với Trung Quốc”.  Cuối cùng, ông kêu gọi mọi người hãy trung thành với Đảng với lý do thiết thực: “Hiện nay các đồng chí đang công tác chưa có sổ hưu nhưng trong một tương lai gần hoặc một tương lai xa chúng ta cũng sẽ có sổ hưu và mong muốn mỗi người chúng ta sau này cũng sẽ được hưởng sổ hưu trọn vẹn”.  Nói một cách đơn giản: Nếu đảng còn thì sổ hưu của các “đồng chí” còn!

Những người chủ trương trang Bauxite Việt Nam phải thốt lên một lời nhận định đầy cay đắng: “Chưa bao giờ những lời rao giảng về lý tưởng xã hội chủ nghĩa lại ‘thực dụng’ đến như thế và cũng… thảm thiết đến như thế!”

Chính cách tư duy “còn đảng còn mình” và “còn đảng còn sổ hưu” ấy chi phối thái độ và chính sách của đảng Cộng sản Việt Nam đối với Trung Quốc: Cho dù lấn hiếp Việt Nam đến mấy thì Trung Quốc cũng vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa; Việt Nam chỉ cần nhường nhịn Trung Quốc là có thể bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, nghĩa là bảo vệ vị thế lãnh đạo độc tôn của đảng Cộng sản. Chúng cũng chi phối thái độ và chính sách của Việt Nam đối với Mỹ và Tây phương nói chung: Các quốc gia ấy lúc nào cũng đòi hỏi dân chủ và nhân quyền tức là lúc nào cũng âm mưu “diễn tiến hòa bình” để lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa.  Mà tất cả những kẻ nào có ý định lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa đều bị xem là “lực lượng thù nghịch”.

Nói cách khác, dưới mắt giới lãnh đạo Việt Nam, những kẻ bị xem là “thù nghịch” không phải là những kẻ mưu toan lấn chiếm vùng biển và hải đảo Việt Nam mà chính là những kẻ muốn Việt Nam được dân chủ hóa. Nói cách khác nữa, với họ, việc bảo vệ đảng quan trọng hơn việc bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và lãnh hải.

Dân chúng hiểu rõ điều đó cho nên lâu nay vẫn truyền tụng một câu nói thật thông minh và sắc sảo, thể hiện thế lưỡng nan của nhà cầm quyền Việt Nam: “Đi với Trung Quốc thì mất nước, đi với Mỹ thì mất đảng.” Mà hình như không phải là “lưỡng nan”. Bởi không chừng nhà cầm quyền Việt Nam đã có chọn lựa rõ ràng: “Thà mất nước hơn là mất đảng”, cũng theo cách nói của dân chúng.

Hy vọng sau biến cố giàn khoan HD-981, giới lãnh đạo Việt Nam sẽ thức tỉnh.

Chỉ hy vọng vu vơ vậy thôi chứ cho đến nay cũng chưa thấy có dấu hiệu nào về sự thức tỉnh ấy cả. Buồn.

 

“Buồn rơi giữa đêm mù lẻ loi,

“Buồn rơi giữa đêm mù lẻ loi,

sao người còn đi hoài đi mãi.
Cho tôi hoang vắng trong đêm dài, buồn rơi lẻ loi.
Nỗi muộn phiền trên vùng tóc rối, khi trời còn đi vào đêm tối.
Xin thương yêu sưởi ấm đôi môi.”
(Từ Công Phụng – Đêm Không Cùng)

(Rm 14: 9-13)

Buồn, mà lại rơi giữa đêm mù lẻ loi, như “hát sĩ” cất lên lời trong buổi nhạc “Hát Cho Nhau Nghe” hôm 15.3.2014 với chủ đề “Đêm Vắn Tình Dài!” Như thế là quá buồn! Buồn, cả vào đêm vô cùng thánh thót, trong ngày lễ thánh rất yên vui! Thực-tế đời người có đêm buồn nào ra như thế? Có hôm nào, bầu bạn buồn đến như thế, không?

Hỏi ở đây, tức: đã trả lời một chút rồi. Trả một lời, như câu hát buồn và lẻ loi như sau:

“Buồn rơi trên tâm hồn lẻ loi, thương hình hài con người nhỏ bé

Nghe bơ vơ tiếng ru ai về, ngủ đi người yêu

Thôi nụ cười đêm đừng chợ tắt cho một loài hoa đừng héo hắt

Cho tôi vẫn vô cùng một mình.”

(Từ Công Phụng – bđd)

“Buồn rơi trên tâm hồn lẻ loi”, có lẽ và có thể cũng là nỗi buồn của ai đó, trong nhà Đạo từng viết đôi hàng trên báo điện, nay nhắn nhủ:

“Có lẽ, có những điều mà tôi đây, một nữ giáo dân lâu nay vẫn sống đạo bình thường nhưng vẫn tự hỏi: điều gì làm cho bọn trẻ ở đây đó, tự tìm đến cho mình một niềm tin vừa bắt gặp hay vẫn chỉ bực-bõ khi thấy cha mẹ mình chỉ tin vào những chuyện hình-thức hoặc bề ngoài gì đâu không à? Thật ra thì, có nhiều yếu-tố khả dĩ rất đánh động tâm-lý của trẻ em cũng rất nhiều, như: tánh tình lúc nắng lúc mưa, tâm trạng ở trường học, tâm-tình cùng bạn bè chòm xóm và/hoặc nỗi niềm quan-tâm đến đạo-giáo?

Hỏi thì hỏi thế chứ, mới đây bản thân tôi vừa được đọc một bài viết do vị Giáo sư đồng thời là nhà nghiên-cứu giáo-dục có tên là Vern L. Bengston có cho biết, là: những yếu-tố gây ảnh-hưởng khá nhiều lên niềm tin của con trẻ, rất mạnh mẽ mà ta có thể kể ra, chỉ vài điều thôi, cũng đủ để bà con suy-tư/xem xét thử thực/hư ra sao:

Thứ nhất, là: gương đẹp/gương xấu từ người lớn: điều này ai cũng biết. Nhưng, nó vẫn cần để nhắc nhở hết mọi người. Cha mẹ nào biết sống thực niềm tin của mình, thì con em họ sẽ cảm-kích tin vào những gì mình tặng ban cho chúng. Tận phần thâm sâu, con trẻ ra như “nói một đằng làm một nẻo” chẳng lý gì niềm tin do cha mẹ tặng. Trong khi đó, cha  mẹ chúng lại vẫn giữ nguyên niềm xác-tín như thế khi nuôi dạy chúng.

Thứ hai, là: quan-hệ tốt giữa cha mẹ và con cái: Cha mẹ có làm gương tốt cách mấy đi nữa, mà con cái lại không gần gũi thì chúng cũng chẳng bắt chước được những tính tốt của mẹ cha, khi tin tưởng và giữ Đạo. Quan-hệ trên có tốt, thì cả hai bên mới duy-trì được niềm tin cần có. Không tạo được như thế, thì con cái thấy những gì cha mẹ dạy chúng chỉ như một mớ những điều luật và lệ, thôi.

Kế đến, là: điều hay đẹp học được từ người cha, cách riêng: Thật sự thì đây mới là điểm son trong quá-trình học đòi/bắt chước những tốt đẹp, từ cuộc sống. Điều hay và đẹp từ người cha vẫn quan-trọng hơn thói quen tốt học được từ mẹ hiền, về chuyện đạo. Ở đây, ta vẫn thấy là: trong nhiều đạo-giáo, thần-linh hoặc Thiên-Chúa luôn mang hình-ảnh và cái đẹp từ người Cha Nhân Hiền. Con cái nào lại không gần gũi với người cha của mình, nếu không sẽ thấy thiếu sót khi muốn có quan-hệ tốt với Thần-linh Thánh Ái trong Đạo mình.

Một điều quan-trọng không kém nữa, là: Đừng bao giờ bó buộc hoặc thúc ép con cái mình về chuyện tin tưởng. Điều này ai cũng thấy rõ, là: cha mẹ nào càng bó buộc con em mình đi nhà thờ dự lễ lạy hoặc quá gắt gao với con cháu, chẳng chóng thì chày, đến tuổi trưởng-thành rồi, tự nhiên chúng sẽ tự mình bỏ bê nhà thờ cách dễ dàng và nhanh chóng. Với cha mẹ, cần nhất phải tạo bầu khí sao đó có thể khích-lệ con em mình sống niềm tin, nhưng đừng bao giờ ép buộc chúng.

Và cuối cùng, là: biết sống hạnh-phúc với niềm tin của chính mình. Bởi, không có động-lực nào có thể thuyết-phục con cái mình bằng việc: cứ để chúng thấy được rằng cha mẹ chúng thực sự sống niềm tin của các vị ấy. Và, có làm thế, cha mẹ cũng như con cái mới vui hưởng cuộc sống an vui, nhiều ý-nghĩa” (x. Tamara Rajakariar, Passing on your faith to your kids, MercatorNet 12/2/2014).

Thật ra, nói nguyên-tắc, cũng không khó. Nhưng, nói về cảm nghiệm mình từng sống niềm tin của riêng mình, mới thật không dễ. Dễ hay không, tưởng cũng nên lướt qua một đoạn đường để nhìn vào kinh-nghiệm từng trải của một số độc-giả vẫn không ngại lên tiếng.

Nhưng, trước khi làm thế, đề nghị bạn và tôi, ta lại nghe câu nghệ sĩ từng hát mãi:

“Tìm nhau từng đêm mông lung nên không cùng

Và đêm xanh xao nên đêm gầy

Đêm bơ vơ như cuộc đời chúng mình

Và em, và tôi, và đôi môi dậy tiếng hát là chứng tích một cuộc tình

Trên giòng sông vỗ cánh bay đi

Và em, và tôi, và đôi môi dậy tiếng hát là chứng tích một cuộc tình

Trên giòng sông vỗ cánh bay đi

(Từ Công Phụng – bđd)

Trong giòng đời rộn rã, lại cũng có rất nhiều người, nhiều vị cũng từng đặt vấn đề về niềm tin, thẳng như thế. Trong số những vị có ý-kiến phản-hồi với người viết bài này, lại đếm được vài ba vị, rất như sau:

Trước nhất, là ý-kiến của vị nữ-lưu không cho biết địa chỉ, nhưng vẫn đề tên như sau:

“Có thể nói rằng: cùng với 4 phần 5 những người từng chối bỏ niềm tin của mình, tôi mong rằng mọi sự diễn tiến, cũng khác biệt. Gia đình nào có con cái vẫn còn tiếp tục làm thế trong một hai thế hệ, đều nắm chắc rằng con cháu họ cũng từng tham-gia vào công-tác thiện-nguyện trên căn bản rất đều đặn. Những người này đều am tường rằng: hiểu/biết niềm tin thôi cũng chưa đủ, dù có đi nhà thờ dự lễ lạy, học giáo-lý như thời của thế hệ trước, cũng chưa ăn thua gì. Khi xưa, bọn tôi vẫn từng tập sống niềm tin, từng tham-gia ban hát này khác, nhưng chẳng bao giờ đặt nặng chuyện giúp người đói bụng có của ăn, xung-phong làm thiện-nguyện ở viện dưỡng-lão, hoặc bệnh-viện hoặc làm một vài việc gì đó tỏ bày tình-thương với người khác. Đó mới là chuyện quan-trọng và cần-thiết đối với người Công-giáo. Và tôi nhớ tôi vẫn là bà mẹ rất qui-củ và nguyên-tắc, vì là người Công-giáo, vào thời nào cũng thế thôi” (ý kiến của Anniem).

Và, ý-kiến của một người tên John:

“Tôi từng biết, là: bọn trẻ thời nay có còn tiếp tục đi nhà thờ nữa hay không khi chúng lớn khôn, điều này còn tùy thuộc nhiều vào việc cha của chúng có đi nhà thờ nhiều hơn mẹ của chúng không? Đối với tôi, xem như chuyện này nghe có vẻ hơi chõi một chút. Có vị nào chủ-trương như thế không, xin lên tiếng cho bà con biết”.

Và ý-kiến của một trai nam nhi tên là Shaun Braun như sau:

“Để có ý-kiến phản-hồi với bạn nào đó vừa mới hỏi, tôi không nghĩ là mình nên chất đầy nhà thờ bằng số người trẻ, nhiều tóc trên đầu, vẫn tham dự đủ mọi nghi-thức rất Đạo. Tôi vẫn ủng-hộ mạnh-mẽ việc hội-nhập niềm tin đi Đạo vào với nền văn-hoá nói chung, đặc biệt là văn-hoá phương Tây trong đó Kitô-giáo là cột-trụ trọng-yếu, rất vững chãi,. Cả đến chuyện hội-nhập niềm tin vào cuộc sống, cũng thế. Điều tôi muốn đề-nghị với các bạn là: văn-hoá có nền-tảng gia-đình vẫn được tôn-giáo nhẹ nhàng đưa niềm tin len lỏi vào cuộc sống để rồi tự nó lớn mạnh cách tự-nhiên. Thêm vào đó, là phần đóng góp của giáo-dục cách rõ rệt.

Nói cách khác, con trẻ phải lớn lên trong môi-trường qua đó, niềm tin là thành-phần tự-nhiên, chứ không phải là một bộ môn thêm vào. Văn-hoá gia-đình có niềm tin thẩm-nhập cũng giúp con trẻ thu thập được các giá-trị đạo-đức theo cách nào đó khiến chúng thấy được là các giá-trị này phải là thành-phần lý-lịch riêng của chúng, hơn những gì mà giới truyền-thông hoặc cộng-đồng nhóm-hội/đoàn-thể từng mong muốn.

Việc hội-nhập niềm tin vào với nền văn-hoá đương nhiên cần thiết để đặt con trẻ mình vào những gì tốt đẹp nhất từng được suy-nghĩ và nói đến, như tác giả Matthew Arnold có tỏ bày trong văn-chương và khoa-học, vv. Con trẻ phải được đặt mình đưa vào với mọi sự tốt lành/hạnh-đạo cùng các yếu tố như: Chân Thiện Mỹ dưới bất cứ hình-thức nào có thể được, dĩ nhiên, kể cả âm-nhạc và nghệ-thuật cổ-điển. Lý-tưởng ra, thì khi tăng-trưởng để trở-thành người lớn, chúng có thể đóng góp vào việc phong-phú-hoá nền văn-minh nhân-loại và giúp chữa lành những rạn-nứt giữa niềm-tin và văn-hoá từng dẫn đưa mọi người vào tính-chất nghèo-nàn của đời sống mang danh là hiện-đại” (ý-kiến của một người tên Shaun Braun).

Nối tiếp ý-kiến của độc-giả ở trên, chi bằng ta đi vào vườn hoa truyện kể để sẽ nói lên cùng một ý-tưởng về những gì được hiến tặng từ trên. Truyện kể rằng:

Cậu bé sinh ra không có vành tai như bao người khác. Nhìn vào gương, trông rất là kỳ dị.Trước khi đi học, cuộc sống của cậu bé trong gia đình vẫn rất ổn, vì cha mẹ yêu thương cậu hết mực và ai cũng muốn mọi việc sẽ bình thường xảy đến với cậu. Nhưng, từ khi bắt đầu biết đến bạn bè và trường lớp thì cậu bé đã biết thế nào là bị trêu chọc, cô lập, mặc cảm. Một hôm, cậu bé chạy từ trường về, úp mặt vào đùi mẹ mà khóc nức nở. Trông cậu thật thảm thương. Cậu tự nói cho mẹ biết tấn bị kich của cậu với chúng bạn:

– Chúng nó bảo con là…quái vật

Mẹ hiền xoa đầu an ủi cậu và bằng giọng ngẹn ngào, bà nói với cậu:

– Con à! Dù có thế nào, thì con vẫn là con ngoan của mẹ. Cứ mặc kệ bọn chúng nói gì thì con vẫn sống tốt đẹp mà. Hãy tìm những điều đặc biệt của bản thân mình để xoá đi mọi khiếm khuyết, nếu có.

Cậu bé ngước mặt lên nhìn vào đôi mắt ngân ngấn lệ của mẹ và dường như hiểu ra được điều gì đó. Từ đó cậu bỏ ngoài tai những trò đùa của đám bạn và tiếp tục hoà nhập với cuộc sống mới. Mẹ cậu bắt đầu dạy cậu cách chơi piano, học những nối nhạc cơ bản để giúp cậu quên đi những cay đắng vấp phải trong cuộc sống khi hoà mình vào âm nhạc.

Dù không có vành tai nhưng cậu vẫn được tạo hoá ưu ái cho một gương mặt hoàn mỹ, thân hình cao lớn cùng trí óc nhanh nhạy. Rồi trong những giờ học nhạc cụ, cậu nhận thấy mình cảm âm rất tốt và yêu thích chúng. Giáo viên và các bạn quý mến cậu hơn. Khi lên lớp, đáng lẽ ra cậu sẽ được bầu làm lớp trưởng nếu như cậu không kỳ dị về đôi vành tai.

Cậu sẽ được đại diện lớp tham gia vào buổi hoà nhạc của trường nếu cậu giống như bao người khác. Mọi người sợ cậu sẽ làm khán giả giật mình, hoảng hốt khi cậu xuất hiện, họ sẽ chẳng nghe nhạc được khi mắt họ thấy khó chịu.Điều đặc biệt mà cậu yêu thích là chơi nhạc và biểu diễn cho mọi người nghe, còn bây giờ chỉ có riêng cha mẹ cậu lắng nghe cậu chơi đàn. Mọi thứ bắt đầu làm cậu chán nản, cậu cứ lẩn quẩn ở nhà với niềm đam mê âm nhạc ấy.

– Con không thể hoà nhập với mọi người mẹ ạ, con vẫn luôn bị xem là một loài nào đó khác với họ.

Người mẹ trách nhẹ khi thấy cậu buồn, nhưng tim bà cũng đau xót chẳng khác cậu. Bà thương con biết bao! Bà sẽ tìm mọi cách để biến cậu thành một người có đôi tai bình thường như mọi người để cậu tiếp tục ước mơ của mình.

– Chẳng lẻ không còn cách nào khác để giúp con của chúng tôi sao? Người cha hỏi vị bác sĩ gia đình. Bác sĩ nói:

– Tôi tin rằng tôi có thể giải-phẫu ghép vành tai cho cháu nhưng phải có người hiến tai cho cậu ấy.

Họ tìm đủ khắp mọi nơi, đưa đủ mọi tin nhắn, nhưng không một ai chịu hiến tặng hay bán vành tai vào thời điểm đó, riêng cậu trong lòng khấp khỏi hy vọng. Hai năm trôi qua mà không có kết quả gì tốt đẹp. Cha cậu bèn gọi cậu ra khỏi phòng ngoài rồi bảo:

– Con chuẩn bị đến bệnh viện để giải-phẫu. Bố mẹ đã tìm được người hiến tặng tai cho con rồi. Nhưng người ta buộc mình phải giữ bí mật.

Sau ca phẫu thuật thành công tốt đẹp, cậu mừng rỡ nhìn mình trong gương rồi ôm chầm lấy ba mẹ và mừng vui, hạnh phúc. Cuộc sống mới của cậu đã chính thức bắt đầu. Mọi người đồng ý cho cậu tham-gia ban nhạc của thành phố rồi ít lâu sau, cậu lên được vị trí của nhạc trưởng. Niềm vui mà cậu bị cướp mất từ lúc sinh ra bỗng dưng xuất hiện, cậu muốn tìm đến người đã hiến tặng cậu đôi tai, để cảm ơn, báo đáp nhưng ba mẹ cậu không biết người đó là ai, cả đến bác sĩ cũng không biết.

– Con cần biết Con cần biết ai đã cho con quá nhiều như thế? Nếu không con sẽ không thể đền đáp đủ công ơn của người ấy.

– Cha không nghĩ con có thể đền đáp được công ơn của người ấy đâu…Nhưng chưa biết được đâu con ạ.

Bước tiến mạnh trong sự nghiệp của cậu được mọi người công nhận. Tài năng của cậu không bị lãng quên như khi trước. Rồi cậu cũng lấy vợ sinh con. Có điều may, là: con trai của cậu không bị khuyết vành tai như cậu. Nếu nó giống cậu trước đây thì cậu không biết phải làm sao nữa? Liệu có một người giống như thế xuất hiện lại ban tặng món quà quý đó cho con cậu không? Nhiều năm trôi qua, bí mật sau kín đó vẫn không hé mở.

Có điều thay đổi làm cậu buồn phiền một chút, đó là mẹ của cậu. Dường như bà ít khi nghe cậu chơi nhạc như trước, mỗi khi cậu vui vẻ mời bà nghe cậu chơi đàn thì dường như bà ít quan-tâm đến tiếng đàn của cậu! Cậu nói chuyện gì với mẹ thì cũng phải nhắc đi nhắc lại hai ba lần bà mới chú ý. Có một nhà báo hỏi cậu về năng khiếu âm nhạc của cậu được thừa hưởng từ ai, thì cậu không dám nói là từ mẹ dù trước kia, bà là người chỉ cho cậu những nốt nhạc đầu đời.

Rồi cái ngày cậu mong mỏi cũng đến, bí mật về người đã hiến tặng cậu đôi tai cuối cùng sẽ xuất đầu lộ diện. Buổi chiều hôm ấy, cậu cảm thấy nỗi buồn mất mát lớn nhất trong đời mình, khi cậu đứng cạnh người cha bên chiếc quan tài mẹ cậu. Cậu thấy ông nhẹ nhàng đưa tay từ từ khẽ nâng mái tóc nâu đỏ của mẹ cậu lên: Bà đã không có tai gì hết.

– Mẹ con nói rằng bà rất vui nếu để tóc dài. Mẹ con để tóc như vậy rất đẹp đúng không?  Người cha thì thầm:

-Mẹ biết con sẽ không bao giờ chấp nhận để bác sĩ giải-phẫu khi người hiến tặng đôi tai cho con lại là bà.

Cậu lặng nhìn gương mặt người mẹ đáng yêu của mình cho thật kỹ để khắc ghi vào tâm khảm hình ảnh của tình thương-yêu, khó kiếm được. Cha cậu nói đúng, nét đẹp thật sự của con người không nằm ở bề ngoài nhưng ngay trong trái tim họ. Điều đáng giá đích-thực không ở những gì ta có thể nhìn thấy mà là những điều vô hình. Tình yêu thật sự không nằm ở những gì được thể hiện mà ta đươc biết, nhưng ở những điều làm được mà không ai biết. Món quà mẹ tặng cho cậu có lẽ chỉ có tình yêu thương mới tạo được. Cậu đã viết riêng một bản nhạc dành cho mẹ để mỗi ngày lại đến đàn trước bài-vị của bà trên bàn thờ…”

Truyện kể hơi dài, nhưng vẫn thế. Không thêm thắt, lý-sự dông dài. Và, người kể hôm nay vẫn muốn có lời bàn bảo rằng: cũng như thế, rất nhiều điều tốt đẹp trong đời người là do mẹ hiền hiến tặng cho con. Mẹ ban cho con của mẹ không chỉ sự sống, nét đẹp riêng của mẹ thôi, nhưng cả đến niềm-tin vô bờ bến đến từ Trên. Niềm tin ấy, sẽ làm cho con của mẹ nhớ mãi rằng: mọi cái hay/đẹp của gia-đình đều đến từ Trên cho mẹ cho con, và mọi người. Là con cái trong gia-đình, mỗi khi con trân trọng tình thương của mẹ, là con công-nhận mình có được niềm-tin như một thừa-kế từ cả người cha lẫn mẹ vẫn ưu-ái tặng không cho con.

Nghe kể thế rồi, tưởng cũng nên về lại với lời vang đấng thánh-hiền thường vẫn bảo:

“Mỗi người được Thiên Chúa

ban cho đặc sủng riêng,

kẻ thế này,

người thế khác…”

(1Cor 7: 7)

Và sau đó, ở tình huống khác, câu chuyện cũng khác, nhưng thánh Phaolô lại cũng bảo:

“Ngoài ra,

như Chúa đã định cho mỗi người làm sao,

như Thiên Chúa đã kêu gọi mỗi người thế nào,

thì cứ sống như vậy:

đó là điều tôi truyền dạy

trong mỗi Hội Thánh.”

(1 Cor 7: 17)

Sống có niềm tin như đấng thánh-hiền từng bảo ban, thiết tưởng ta cứ hiên ngang vùng đứng mà hát những lời thơ mà người nghệ sĩ, còn muốn hát:

“Niềm vui như mây trời còn trôi, trôi miệt mài trên giòng sông trắng

Trên hai vai tuổi xuân đã vang

Còn đâu niềm vui, trên nụ cười ru người đã tắt

Xin một lần diễm huyền mái tóc, đi vào đời cho ấm đôi môi

Buồn rơi trong đêm dài lẻ loi, buồn rơi trên tâm hồn lẻ loi

Buồn rơi trên tâm hồn lẻ loi, trên tay người lẻ loi, trên tâm hồn lẻ loi.”

(Từ Công Phụng – bđd)

Hát như người nghệ sĩ ở đời, như thế tức vẫn còn niềm vui sống, vẫn cứ hát. Còn hát là còn vui và rất vui. Dù, cuộc đời có gặp nhiều nỗi truân chuyên, trái khoáy hay gì gì đi nữa, vẫn cứ hát và cứ vui, với mọi người, trong đời.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn muốn mình và bạn bè

Cứ vui mãi trong cuộc đời

Vẫn rất vui.

 

“Trầm lan nhẹ ngấm chốn không gian,”

“Trầm lan nhẹ ngấm chốn không gian,”

Giây phút buồn lây đền mộng vàng.

Xiêm áo hôm nay tề chỉnh quá,

Dám ôm hồn cúc ở trong sương.”

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mt 28: 16-20

Diễn tả chốn không gian an-bình, thi ca ngoài đời thường diễn tả, chỉ như thế. Trình-bày/thuật lại bình an ở nhà Đạo, thánh-sử Mát-thêu nay lại diễn bày một trình thuật nhiều ý-nghĩa hơn thế. Hơn thế, ra như thể một trình-thuật rất an bình đầy Lời Chúa ban cho ta hôm nay.

Trình-thuật Lời Chúa hôm nay, thánh Mátthêu diễn tả cho con người, vẫn đơn giản chỉ một câu: “Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em”. Đây là lời diễn-bày nghe quen, không hề thiếu trong buổi Tiệc Thánh Thể, an bình đầy tình thương rất thực tế. Nhưng, thực tế hôm nay, ta lại thấy lời chúc lành ở đây như vẫn xa vời tầm tay với, của mọi người.

Hôm nay đây, khi ta nghe ai đó những là chào/hỏi: “Anh/chị khỏe không?”, hẳn là câu trả lời nhiều lúc cũng không mấy thông suốt. Người thì bảo: “lu bu lắm!”, kẻ lại nói: “Có lúc nào rảnh đâu! Làm chết bỏ, không có giờ nghỉ!…. toàn những việc không tên, ở đâu ấy.”

Nhiều lần, tôi tự hỏi: có bao giờ ta trả lời bạn bè người thân bằng những câu: “Đang nghỉ xả hơi đây”! hoặc:“cũng chỉ mới ngơi tay một chút!” hoặc “Tôi đang đi đang thăm hoa, vãn cảnh đây! Có gì không thế?” Tôi nghĩ câu trả lời như thế cũng rất hiếm. Có người còn cứ bảo: “Có đẻ bọc điều mới được hưởng những giờ phút như thế, còn thì lúc nào tôi cũng như người không mở mắt lên nổi, đấy thôi!”

Là tín hữu Đức Kitô, có lẽ ta cũng nên cẩn thận về tình trạng mải miết thi nhau mà bận với rộn. Đành rằng, cứ phải sống và dấn thân với thế giới bên ngoài, cũng là quà tặng nhận được từ Trên. Nhưng, cũng nên xét lại tình trạng bận rộn của mỗi người. Bởi, có thứ bận mà không rộn cho lắm. Và, bận chưa hẳn là điều tốt. Có thể, nó mang ý nghĩa của một chối từ hoặc né tránh. Chí ít, là để tỉnh thức với bạn bè người thân, cùng một nhóm.

Tin Mừng hôm nay, thánh Yoan cho biết Thánh Thần Chúa hiện đến với môn đệ Đức Kitô, là quà tặng đầu Chúa ban cho con người. Quà tặng, là sự bình an. Thoạt nhìn, mọi chuyện xem ra không được ổn. Và cũng hơi lạ.  Thực tế ai cũng biết, và điều này dễ hiểu thôi. Nhưng, khi đã chấp nhận bận rộn làm ăn rồi, sao cứ than. Than và ước, đại để như: Tôi vẫn muốn bình an trong tâm hồn, muốn có đôi phút thinh lặng để nghỉ ngơi, nhưng khổ nỗi làm sao được cả hai. Họat động có hiệu-năng và công việc dồn dập là hai thứ đối nghịch với an bình.

Nhiều lúc ta cứ tưởng, an bình-lặng thinh luôn ở tư thế của bông sen trong căn buồng tăm tối. Không phải thế. Quà bình an Đức Kitô ban tặng còn hơn thế. Bình an là những gì tốt đẹp nhất trong cuộc sống đời thường. Nó là trạng huống tâm linh. Một thói quen tạo được sau biết bao chọn lựa nhất quán và liên lỉ. Quả thật, có người cùng lúc làm rất nhiều việc mà vẫn thản nhiên, an bình. Với họ, Bình an là vấn đề tâm linh, trí tuệ. Là, phương cách để sống. Sống cuộc đời người.

Ở thế kỷ thứ hai, triết gia Seneca đã thắc mắc sao bạn bè/người thân của ông vẫn để mất sự an bình họ cần đến. Chính vì thắc mắc này, mà ông đã ngồi xuống viết nguyên cuốn sách nói về sự nổi giận và phương cách đối phó. Ông nhấn mạnh sự kiện, là: bạn bè càng giàu sang càng dễ nổi nóng, tức giận.

Và từ đó, để luột mất đi sự an bình quý hiếm. Cuối cùng, ông dẫn chứng bằng niềm tin tưởng sắt đá rằng: lý do làm ta nổi nóng, là vì ta luôn nghĩ đến điều ta trông đợi và cầu mong, dù điều đó chẳng hợp tình hợp lý. Vẫn muốn làm sao cho tháng ngày đời mình, cứ êm đềm trôi chảy. Chảy chầm chậm. Trôi thanh thoát. Người giàu sang lại nghĩ rằng: họ có thể dùng tiền tài, của cải/vật chất mà mình có để mua cho mình cuộc sống sảng khoái, dễ chịu.

Ở đâu cũng thế. Lúc nào cũng vậy. Khi không đạt mộng ước thật bình thường, thì chuyện “nổi cơn thịnh nộ” là việc đương nhiên xảy ra. Thành thử, triết gia Seneca có lý khi ông nói: muốn an bình-lặng thinh, ta phải có đầu óc thực tế biết chấp nhận rằng: mọi sự trên đời đều có thể xảy đến, trái nghịch điều mình hằng mong ước.

Sự khôn ngoan mà hiền triết Seneca đề nghị, là: ta nên tỉnh táo biết rõ sự yếu mềm và mỏng dòn của mình. Và, của mọi người. Nếu biết rằng, cuộc sống cũng dòn mỏng như bản chất con người, ta sẽ đỡ vất vả hơn, khi chiến đấu với nó. Và như thế, ta mới đạt tình huống qua đó ta cần tha thứ cho người khác; cũng như, đón nhận sự thứ tha từ nơi họ.

Tha thứ là món quà thứ hai Đức Kitô tặng ban cho các môn đệ, trong ngày Thánh Thần Chúa hiện đến. Nếu quả tình, ta thực lòng muốn vun trồng sự an bình-lặng thinh để sống cuộc đời bình thường, bắt buộc ta phải chấp nhận đương đầu với những gì, ta không muốn thấy. Những gì ta mong né tránh, khước từ.

Nhưng oái oăm thay, những chuyện như thế thường hay đính kèm sự việc hằng xảy ra, trong quá khứ. Và, điều này gây tổn thương người khác, cách này hay cách khác. Đó, có thể là kinh nghiệm buồn đau mà người khác vẫn mang đến cho ta. Trừ phi ta biết tự tha thứ; hoặc thứ tha những người đã làm mình phiền. Bằng không, thì tình trạng bận và rộn có những xôn xao/ồn ào, hoặc bon chen sẽ để lại dấu ấn khó quên, nơi ký ức miên trường của mỗi người.

Điều không may, là: những xáo trộn như thế thường đi đôi với tình trạng rất bận và rất rộn. Chính vì thế, ta cứ phải đối đầu với những lầm lỗi mình từng mắc phải, trong thời gian qua. Đó còn là tình huống khiến cho sự an bình lặng-thinh cứ cao xa vời vợi, rời bỏ vòng tay mong chờ của chúng ta.

Tham dự Tiệc thánh hôm nay, dù ta ở vào tình huống có lầm lỡ/sơ xuất, hãy cứ cầu và mong Thánh Thần Chúa giúp ta nhận món quà đầu Chúa ban trong Lễ Ngũ Tuần có Thánh Thần Chúa hiện đến. Có như thế, ta mới mong rằng mình có thể tha thứ thật nhiều cho những ai đang tìm cách đóng đinh ta vào thập giá.

Và, tựa như Đức Chúa tỏ bày tình Ngài yêu thương cho mọi người, ta cũng hãy mừng vui hơn lên vì Thánh Thần Chúa đã thổi đến nơi ta, món quà cao quý ấy.  Quà là quà an bình-lặng thinh ta hằng mong ước.

Trong cảm-nghiệm một lời chúc bính-an đầy thương mến như thế, tưởng cũng nên trở về với thơ đời còn văng vẳng những lời rằng:

“Hãy tưới lên hoa giọt lệ nồng,

Đếm từng cánh một, mấy lần thương.

Hãy chôn những mảnh xuân tàn tạ,

Và hãy chôn sâu tận đáy lòng.”

(Hàn Mặc Tử – Mơ Hoa)

Giọt lệ nồng tưới lên hoa như thế, e rằng chẳng đếm được “mấy lần thương”. Lại cứ cho đi những mảnh xuân tàn-tạ”, tận đáy lòng, để rồi người người rồi sẽ nghe biết Thánh Thần Chúa vẫn cứ tặng bình an cho mọi loài, nên vẫn thương. Thương mãi thương hoài ngàn năm, rất vấn vương. Tận đáy lòng, của mọi người.

Lm Richard Leonard sj,

Mai Tá lược dịch

Lý Quang Diệu viết về Hoa Kỳ

Lý Quang Diệu viết về Hoa Kỳ

Biên dịch: Nguyễn Việt Vân Anh | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
HOA KỲ: Nhiều trở ngại nhưng vẫn giữ vị trí số 1

Cân bằng quyền lực đang chuyển đổi. Về phía châu Á của Thái Bình Dương, theo thời gian Hoa Kỳ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc gây ảnh hưởng. Mọi chuyện sẽ không còn như trước. Địa lí là điểm mấu chốt trong trường hợp này. Trung Quốc có lợi thế hơn vì nằm trong khu vực và có khả năng phô trương sức mạnh dễ dàng hơn ở châu Á. Đối với Hoa Kỳ, gây ảnh hưởng từ cách xa 8.000 dặm là một điều hoàn toàn khác. Sự bất bình đẳng về ý chí, hậu cần và chi phí là rất đáng kể. Chỉ riêng dân số của Trung Quốc, 1,3 tỉ người, so với 314 triệu người Mỹ, cũng góp phần vào khó khăn của Hoa Kỳ. Nhưng sự chuyển giao quyền lực sẽ không xảy ra một sớm một chiều do ưu thế vượt bậc của Hoa Kỳ về công nghệ. Người Trung Quốc dù có thể chế tạo tàu sân bay nhưng vẫn không thể đuổi kịp người Mỹ một cách nhanh chóng về công nghệ tàu sân bay với sức chứa 5.000 quân và đầu máy hạt nhân. Nhưng cuối cùng, những bất lợi của Hoa Kỳ do khoảng cách địa lý dần sẽ mang tính quyết định. Hoa Kỳ sẽ phải điều chỉnh thế đứng của mình và chính sách của họ trong khu vực này.

Chính quyền Obama tuyên bố vào năm 2011 rằng Hoa Kỳ dự định tiếp cận khu vực châu Á-Thái Bình Dương với một trọng tâm mới. Họ gọi đây là Sự Xoay Trục về Châu Á. Trên tờ Foreign Policy, ngoại trưởng Hillary Clinton giải thích tư duy đằng sau chính sách mới này như sau: “Các thị trường mở ở châu Á là những cơ hội chưa từng thấy đối với Hoa Kỳ về đầu tư, thương mại và tiếp cận với các công nghệ tiên tiến… Về mặt chiến lược, việc gìn giữ hoà bình và an ninh ở khắp khu vực Châu Á – Thái Bình Dương ngày càng trở nên thiết yếu đối với sự tiến bộ trên toàn cầu, dù là thông qua bảo vệ tự do hàng hải trên Biển Đông, chống lại việc phổ biến vũ khí hạt nhân ở Bắc Triều Tiên hay đảm bảo sự minh bạch trong các hoạt động quân sự của các nước lớn trong khu vực.” Vào tháng 4 năm 2012, 200 lính thuỷ đánh bộ Mỹ đầu tiên đã được triển khai tới Darwin, Úc trong một phần nỗ lực nhằm tăng cường hiện diện của Hoa Kỳ trong khu vực.
Nhiều quốc gia Châu Á chào đón cam kết mới này từ người Mỹ. Trong nhiều năm, sự hiện diện của Hoa Kỳ là một nhân tố quan trọng giúp ổn định khu vực. Kéo dài sự hiện diện này sẽ giúp duy trì ổn định và an ninh. Kích thước của Trung Quốc có nghĩa là cuối cùng chỉ có Hoa Kỳ – kết hợp với Nhật Bản và Hàn Quốc, đồng thời hợp tác với các quốc gia ASEAN – mới có thể đối trọng lại được nước này.

Tuy nhiên, chúng ta còn phải xem liệu người Mỹ có thể biến ý định thành cam kết trong lâu dài được hay không. Ý định là một mặt, tài trí và khả năng là một mặt khác. Hiện nay Hoa Kỳ có quân ở Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Guam. (Người Philippines đã không khôn ngoan khi mời người Mỹ rời khỏi vịnh Subic vào năm 1992. Họ quên mất hậu quả về lâu dài của hành động này và bây giờ họ bảo rằng “Hãy làm ơn quay lại.”) Người Mỹ tin rằng họ có sẵn một dàn xếp quân sự trong khu vực cho phép họ cân bằng lại được với hải quân Trung Quốc. Hơn nữa, vì các vùng nước trong khu vực tương đối nông, người Mỹ có thể theo dõi hoạt động của các tàu thuyền Trung Quốc, kể cả tàu ngầm. Nhưng liệu lợi thế này có thể kéo dài được bao lâu? Một trăm năm? Không thể nào. Năm mươi năm? Không chắc. Hai mươi năm? Có thể. Rốt cuộc, cân bằng quyền lực có thể thực hiện được hay không còn phải chờ vào nền kinh tế Hoa Kỳ trong một vài thập niên tới. Cần có một nền kinh tế vững mạnh thì mới có thể phô trương quyền lực – đầu tư xây dựng tàu chiến, tàu sân bay và các căn cứ quân sự.
Khi cuộc chiến tranh giành quyền bá chủ trên Thái Bình Dương giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc diễn ra, những quốc gia nhỏ hơn ở châu Á bắt buộc phải thích ứng với cục diện mới. Thucydides đã từng viết rằng “kẻ mạnh làm những gì mà họ có thể và kẻ yếu phải chịu đựng những gì họ phải chịu đựng”. Các quốc gia nhỏ hơn ở châu Á có thể không phải có một kết cục bi thảm như thế, nhưng bất cứ góc nhìn hiện thực chủ nghĩa nào về sự suy giảm ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại Châu Á Thái Bình Dương đều sẽ khiến các quốc gia phải điều chỉnh chiến lược đối ngoại của mình. Người ta sẽ phải quan tâm hơn đến những gì người Trung Quốc thích hoặc không thích khi Trung Quốc ngày càng lớn mạnh về kinh tế lẫn quân sự. Nhưng điều quan trọng không kém là không để cho Trung Quốc hoàn toàn thống trị. Cuối cùng, tôi không cho rằng viễn cảnh người Trung Quốc hất cẳng hoàn toàn người Mỹ ra khỏi Tây Thái Bình Dương có thể diễn ra.

Ví dụ như Việt Nam, là một trong những quốc gia không an tâm nhất về sự bành trướng sức mạnh của Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình ra lệnh tấn công miền Bắc Việt Nam vào năm 1979 để trả đũa việc Việt Nam can thiệp vào Campuchia. Đặng phá hủy một vài làng mạc và thị trấn rồi sau đó rút lui, chỉ nhằm đưa ra một lời cảnh cáo với người Việt: “Tôi có thể tiến thẳng vào và tiếp quản Hà Nội.” Đây không phải là bài học mà người Việt có thể quên được. Một chiến lược có lẽ đã được chính phủ Việt Nam bàn đến là làm thế nào để có thể bắt đầu thiết lập các mối quan hệ an ninh lâu dài với người Mỹ.
Tôi cũng cảm thấy rất tiếc rằng sự thay đổi cân bằng quyền lực đang diễn ra vì tôi cho rằng Hoa Kỳ là một cường quốc hoà bình. Họ chưa bao giờ tỏ ra hung hãn và họ không có ý đồ chiếm lãnh thổ mới. Họ đưa quân đến Việt Nam không phải vì họ muốn chiếm Việt Nam. Họ đưa quân đến bán đảo Triều Tiên không phải vì họ muốn chiếm bắc hay nam Triều Tiên. Mục tiêu của các cuộc chiến tranh đó là chống lại chủ nghĩa cộng sản. Họ đã muốn ngăn chủ nghĩa cộng sản lan tràn trên thế giới. Nếu như người Mỹ không can thiệp và tham chiến ở Việt Nam lâu dài như họ đã làm, ý chí chống cộng ở các nước Đông Nam Á khác chắc đã giảm sút, và Đông Nam Á có thể đã sụp đổ như một ván cờ domino dưới làn sóng đỏ. Nixon đã giúp cho miền Nam Việt Nam có thời gian để xây dựng lực lượng và tự chiến đấu. Nam Việt Nam đã không thành công, nhưng khoảng thời gian gia tăng đó giúp Đông Nam Á phối hợp hành động với nhau và tạo dựng nền tảng cho sự phát triển của ASEAN.
Singapore khá thoải mái với sự hiện diện của người Mỹ. Chúng ta không biết Trung Quốc sẽ quyết đoán hay hung hăng như thế nào. Vào năm 2009 khi tôi nói chúng ta phải cân bằng lực lượng với Trung Quốc, họ dịch từ đó sang tiếng Trung thành “kìm hãm”. Điều này làm nổi lên một làn sóng phẫn nộ trong cư dân mạng Trung Quốc. Họ cho rằng làm sao tôi lại dám nói như thế trong khi tôi là người Hoa. Họ quá là nhạy cảm. Thậm chí sau khi tôi giải thích rằng tôi không hề sử dụng từ “kìm hãm”, họ vẫn không hài lòng. Đấy là bề mặt của một thứ quyền lực thô và còn non trẻ.

Trong cục diện đang thay đổi này, chiến lược chung của Singapore là đảm bảo rằng mặc dù chúng ta lợi dụng bộ máy tăng trưởng thần kì của Trung Quốc, chúng ta sẽ không cắt đứt với phần còn lại của thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ. Singapore vẫn quan trọng với người Mỹ. Singapore nằm ở vị trí chiến lược ở trung tâm của một khu vực quần đảo, nơi mà người Mỹ không thể bỏ qua nếu muốn duy trì ảnh hưởng ở Châu Á – Thái Bình Dương. Và mặc dù chúng ta xúc tiến các mối quan hệ với người Trung Quốc, họ cũng không thể cản chúng ta có các mối quan hệ kinh tế, xã hội, văn hoá và an ninh bền chặt với Hoa Kỳ. Người Trung Quốc biết rằng họ càng gây áp lực với các quốc gia Đông Nam Á thì các quốc gia này càng thân Mỹ hơn. Nếu người Trung Quốc muốn đưa tàu chiến đến viếng thăm cảng của Singapore khi có nhu cầu, như là người Mỹ đang làm, chúng ta sẽ chào đón họ. Nhưng chúng ta sẽ không ngả về phía nào bằng cách chỉ cho phép một bên và cấm đoán bên kia. Đây là một lập trường mà chúng ta có thể tiếp tục duy trì trong một thời gian dài.
Chúng ta còn liên kết với phần còn lại của thế giới thông qua ngôn ngữ. Chúng ta may mắn được người Anh cai trị và họ để lại di sản là tiếng Anh. Nếu như chúng ta bị người Pháp cai trị, như người Việt, chúng ta phải quên đi tiếng Pháp trước khi học tiếng Anh để kết nối với thế giới. Đó chắc hẳn là một sự thay đổi đầy đau đớn và khó khăn. Khi Singapore giành được độc lập vào năm 1965, một nhóm trong Phòng Thương Mại người Hoa gặp tôi để vận động hành lang cho việc chọn tiếng Hoa làm quốc ngữ. Tôi nói với họ rằng: “Các ông phải bước qua tôi trước đã.” Gần 5 thập niên đã trôi qua và lịch sử đã cho thấy rằng khả năng nói tiếng Anh để giao tiếp với thế giới là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong câu chuyện tăng trưởng của Singapore. Tiếng Anh là ngôn ngữ của cộng đồng quốc tế. Đế quốc Anh đã truyền bá thứ ngôn ngữ này ra khắp thế giới, nên khi người Mỹ tiếp quản, đó là một sự chuyển đổi dễ dàng sang tiếng Anh kiểu Mỹ. Đây cũng là một lợi thế rất lớn đối với người Mỹ khi trên toàn thế giới đã có nhiều người nói và hiểu ngôn ngữ của họ.

Khi sự trỗi dậy của Trung Quốc tiếp diễn, Singapore có thể nâng cao chuẩn mực tiếng Hoa trong nhà trường để cho học sinh của chúng ta có một lợi thế, nếu họ chọn làm việc hoặc giao thương với Trung Quốc. Nhưng tiếng Hoa vẫn sẽ là ngôn ngữ thứ hai, vì thậm chí nếu GDP của Trung Quốc có vượt qua Hoa Kỳ, họ cũng không thể cho chúng ta được mức sống mà chúng ta đang hưởng thụ ngày nay. Đóng góp của Trung Quốc vào GDP của chúng ta ít hơn 20%. Phần còn lại của thế giới sẽ giúp Singapore duy trì phát triển và đạt được thịnh vượng – không chỉ là người Mỹ, mà còn là người Anh, người Đức, người Pháp, người Hà Lan, người Úc, vv…. Các nước này giao dịch kinh doanh bằng tiếng Anh, không phải tiếng Trung. Sẽ là rất ngu ngốc nếu chúng ta xem xét chọn tiếng Trung làm ngôn ngữ làm việc tại bất kì thời điểm nào trong tương lai, khi mà chính người Hoa cũng rất cố gắng học tiếng Anh từ khi mẫu giáo cho đến bậc đại học.
Cuộc cạnh tranh cuối cùng
Hoa Kỳ không phải đang trên đà suy thoái. Uy tín của Hoa Kỳ đã chịu nhiều tổn thất do việc đóng quân lâu dài và lộn xộn tại Iraq và Afghanistan cũng như do cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng. Nhưng những sử gia giỏi nhìn nhận sẽ chỉ ra rằng một Hoa Kỳ dường như yếu đi và trì trệ đã từng phục hồi ra khỏi những tình huống còn tệ hại hơn. Đất nước Hoa Kỳ đã đối mặt nhiều thử thách lớn trong những thời kỳ chưa xa: cuộc Đại Suy thoái, chiến tranh Việt nam, thời kì trỗi dậy của các cường quốc công nghiệp hậu chiến như Nhật Bản và Đức. Mỗi lần như vậy, Hoa Kỳ đã tìm thấy ý chí và sức mạnh để phục hồi vị trí dẫn đầu cùa mình. Hoa Kỳ đã áp đảo. Nó sẽ thực hiện được điều này một lần nữa.
Thành công của Hoa Kỳ nằm ở nền kinh tế năng động, được duy trì không chỉ bằng khả năng đặc biệt sản xuất ra cùng một thứ với chi phí ít hơn mà còn là liên tục đổi mới sáng tạo – tức là sáng chế ra một mặt hàng hay dịch vụ hoàn toàn mới mà thế giới sớm cảm thấy hữu dụng và đáng khát khao. Chiếc iPhone, iPad, Microsoft, Internet – tất cả đều được tạo ra ở Hoa Kỳ chứ không phải nơi nào khác. Người Trung Quốc có thể có nhiều nhân tài so với người Mỹ, nhưng sao họ không có những phát minh tương tự? Rõ ràng họ thiếu một sự sáng tạo mà người Mỹ sở hữu. Và tia sáng đó cho thấy người Mỹ thỉnh thoảng thể có sáng tạo đột phá thay đổi cục diện, điều cho họ vị trí dẫn đầu.
Thậm chí nếu những người theo thuyết suy thoái đúng, và thật là Hoa Kỳ đang trên đà xuống dốc, ta phải nhớ rằng đây là một nước lớn và cần có một thời gian dài thì mới suy thoái. Nếu Singapore là một nước lớn, tôi sẽ chẳng lo lắng lắm nếu chúng ta chọn chính sách sai lầm, vì hậu quả sẽ xuất hiện chậm. Nhưng chúng ta là một nước nhỏ và một quyết định sai lầm có thể gây hậu quả kinh khủng trong một thời gian ngắn. Mặt khác, Hoa Kỳ như là một con tàu chở dầu lớn. Họ sẽ không thể chuyển hướng nhanh như một chiếc thuyền. Nhưng tôi tin rằng các cá nhân tin vào thuyết suy thoái đã sai lầm. Hoa Kỳ sẽ không suy thoái. So sánh tương đối với Trung Quốc, Hoa Kỳ có thể ít uy lực hơn. Có thể khả năng phô diễn sức mạnh ở Tây Thái Bình Dương của Hoa Kỳ bị ảnh hưởng và có thể Hoa Kỳ không thể sánh với Trung Quốc về dân số và GDP, nhưng lợi thế chính yếu của Hoa Kỳ – sự năng động của họ – sẽ không biến mất. Hoa Kỳ, nếu đem ra so sánh đến giờ, là một xã hội sáng tạo hơn. Và khi mà trong lòng nội bộ nước Mỹ đang có một cuộc tranh luận về việc liệu họ có đang xuống dốc hay không thì đó là một dấu hiệu tốt. Điều đó có nghĩa rằng họ không ngủ quên trên đỉnh cao.
Tại sao tôi lại tin vào thành công về dài hạn của Hoa Kỳ?

Đầu tiên, Hoa Kỳ là một xã hội thu hút đến độ mà Trung Quốc khó lòng bì kịp. Mỗi năm, hàng nghìn người nhập cư đầy tham vọng và có trình độ được cho phép vào Hoa Kỳ, định cư và trở nên thành công trong nhiều lĩnh vực. Những người nhập cư này sáng tạo và thường mạo hiểm hơn, nếu không thì họ đã chẳng rời khỏi quê hương của mình làm gì. Họ cung cấp một nguồn ý tưởng dồi dào và tạo nên một chất men nào đó trong lòng xã hội Mỹ, một sức sống mà ta không thể tìm thấy ở Trung Quốc. Hoa Kỳ sẽ không thành công được đến như vậy nếu như không có người nhập cư. Trong hàng thế kỉ, Hoa Kỳ thu hút nhân tài từ châu Âu. Ngày hôm nay, họ thu hút nhân tài từ châu Á – người Ấn, người Hoa, người Hàn, người Nhật và thậm chí là người Đông Nam Á. Vì Hoa Kỳ có thể dung nạp người nhập cư, giúp họ hoà nhập và cho họ một cơ hội công bằng để đạt được giấc mơ Mỹ, luôn có một nguồn chảy tài năng hướng vào Hoa Kỳ và đổi lại Hoa Kỳ có được công nghệ mới, sản phẩm mới và cách làm ăn mới.
Trung Quốc và những quốc gia khác rồi sẽ phải tiếp thu vài phần của mô hình thu hút nhân tài của Hoa Kỳ phù hợp với hoàn cảnh của mình. Họ phải đi tìm người tài để xây dựng các doanh nghiệp. Đây là cuộc cạnh tranh tối hậu. Đây là thời đại mà chúng ta không còn có các cuộc đua quân sự giữa các cường quốc vì họ biết rằng họ sẽ huỷ hoại nhau bằng cách ấy. Đây sẽ là cuộc cạnh tranh về kinh tế và kĩ thuật và tài năng là nhân tố chính.
Hoa Kỳ là một xã hội thu hút và giữ chân được nhân tài. Họ chiêu dụ được những tài năng bậc nhất từ Châu Á. Hãy nhìn vào số lượng người Ấn trong các ngân hàng và trường đại học của họ — lấy ví dụ như Vikram Pandit, cựu CEO của Citibank. Nhiều người Singapore chọn lựa ở lại Hoa Kỳ sau khi du học. Đó là lí do mà tôi ủng hộ việc cho sinh viên học bổng đi du học Anh, vì tôi chắc rằng họ sẽ trở về Singapore. Ở Anh, bạn không ở lại vì bạn không được chào đón. Và vì nền kinh tế của Anh không năng động như Mỹ, ở đấy có ít công ăn việc làm hơn.
Một lí do tại sao Trung Quốc sẽ luôn kém hiệu quả hơn trong việc thu hút nhân tài chính là ngôn ngữ. Tiếng Hoa khó học hơn tiếng Anh nhiều. Nói tiếng Hoa rất khó nếu như không học từ nhỏ. Đây là ngôn ngữ đơn âm tiết và mỗi từ có tới 4 hay 5 thanh. Khi mà bạn không biết tiếng thì bạn không thể giao tiếp. Đây là một rào cản rất lớn. Đây là kinh nghiệm bản thân tôi. Tôi đã vật lộn trong suốt 50 năm và đến giờ mặc dù tôi có thể nói tiếng Hoa và viết theo kiểu bính âm (pinyin), nhưng tôi vẫn không thể hiểu được tiếng Hoa một cách thành thục như người bản ngữ. Đấy là tôi đã rất cố gắng. Trung Quốc trở nên hùng cường vào tương lai không thay đổi sự thật cơ bản là tiếng Hoa là một ngôn ngữ cực kì khó học. Có bao nhiêu người đến Trung Quốc, ở lại và làm việc ngoại trừ những người Hoa, người Châu Âu và người Mỹ trở thành những chuyên gia nghiên cứu Trung Quốc? Người Trung Quốc cố gắng truyền bá ngôn ngữ của mình ra nước ngoài bằng việc xây dựng các Viện Khổng Tử trên toàn thế giới, nhưng kết quả không được tốt lắm. Người ta vẫn đến Hội đồng Anh và những cơ sở của Hoa Kỳ. Chính phủ Hoa Kỳ thậm chí không cần phải cố gắng. Một thời họ có Trung tâm Dịch vụ Thông tin Hoa Kỳ, nhưng đã bị đóng cửa vì không cần thiết nữa. Đã có hàng loạt ấn phẩm, chương trình truyền hình và phim ảnh làm công việc đó. Nên về quyền lực mềm thì Trung Quốc không thể thắng.
Một nguồn lực khác mang lại sức cạnh tranh cho Hoa Kỳ là nhiều trung tâm xuất sắc cạnh tranh lẫn nhau khắp cả nước. Ở bờ Đông có Boston, New York, Washington, và ở bờ Tây có Berkeley, San Francisco, và ở miền Trung nước Mỹ thì có Chicago và Texas. Bạn sẽ thấy sự đa dạng và mỗi trung tâm lại cạnh tranh với nhau, không ai nhường ai. Khi người Texas thấy rằng mình có nhiều dầu mỏ, James Baker – cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ và là người Texas – đã cố gắng thành lập một trung tâm ở Houston để cạnh tranh với Boston hoặc New York. Jon Huntsman, cựu đại sứ Hoa Kỳ ở Singapore và Trung Quốc và là bạn của tôi, là một ví dụ khác. Gia đình ông có tiền sử bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Vì vậy khi ông thừa hưởng gia tài từ cha, ông mang những nhà khoa học giỏi nhất trong lĩnh vực ung thư tuyến tiền liệt về quê nhà ông là bang Utah để nghiên cứu vấn đề này.
Mỗi trung tâm tin rằng mình tốt như các trung tâm còn lại, chỉ cần tiền và nhân tài, điều có thể kiếm được. Không ai cảm thấy phải tuân theo Washington hay New York. Nếu bạn có tiền, bạn có thể xây dựng một trung tâm mới. Bởi vì khía cạnh này, có sự đa dạng trong xã hội và một tinh thần cạnh tranh cho phép sản sinh ra những ý tưởng và sản phẩm mới hữu ích dài lâu. Trung Quốc thì lại chọn một cách tiếp cận khác. Người Trung Quốc tin rằng khi trung ương mạnh thì Trung Quốc sẽ giàu mạnh. Đây là một thái độ cứng nhắc, yêu cầu mọi người phải tuân theo một trung tâm duy nhất. Mọi người phải hành quân theo cùng một điệu trống. Ngay cả Anh và Pháp đều không thể cạnh tranh với Hoa Kỳ về mặt này. Ở Pháp ai là nhân tài cuối cùng đều vào các viện đại học nghiên cứu lớn. Ở Anh thì đó là Oxbridge (Đại học Oxford và Đại học Cambridge). Những quốc gia này tương đối nhỏ, gọn vì vậy cũng đồng bộ hơn.
Kể từ cuối thập niên 1970 cho đến thập niên 1980, Hoa Kỳ mất vị trí dẫn đầu nền công nghiệp về tay những nền kinh tế mới phục hồi như Nhật Bản và Đức. Họ bị vượt mặt về đồ điện tử, thép, hoá , dầu và ngành công nghiệp xe hơi. Đây là những ngành công nghiệp sản xuất quan trọng huy động nhiều nhân công, kể cả những người lao động phổ thông được các công đoàn bảo vệ. Ở một số nước châu Âu, các công đoàn chống đối các cải cách lao động bằng việc đe dọa tiến hành các hành động công nghiệp có thể mang lại tổn thất nghiêm trọng trong ngắn hạn. Nhưng ở Mỹ điều ngược lại đã xảy ra. Các tập đoàn áp dụng những biện pháp thay đổi khó khăn nhưng cần thiết. Họ giảm qui mô, giảm biên chế và cải tiến năng suất qua việc sử dụng công nghệ, trong đó có công nghệ thông tin (IT). Nền kinh tế Hoa Kỳ trỗi dậy trở lại. Các doanh nghiệp mới được mở ra để giúp các công ty tối ưu hoá hệ thống IT của mình, như là Microsoft, Cisco và Oracle. Sau một khoảng thời gian điều chỉnh đầy đau đớn, các công ty có thể tạo ra nhiều việc làm mới trả lương tốt hơn. Họ không thích thú với nhưng công việc lỗi thời mà Trung Quốc, Ấn Độ hay Đông Âu có thể làm được. Họ thấy được một tương lai mà của cải không phải được tạo ra bởi việc chế tạo đồ dùng hay xe hơi, mà bằng sức mạnh trí óc, sức sáng tạo, tính nghệ thuật, kiến thức và bản quyền trí tuệ. Hoa Kỳ đã trở lại cuộc chơi. Họ giành lại được vị trí là nền kinh tế phát triển nhanh nhất trong các nước đã phát triển. Tôi thật sự khâm phục sự năng động và tin thần khởi nghiệp của người Mỹ.

Bạn tiếp tục chứng kiến điều đó ngay lúc này đây. Người Mỹ vận hành một hệ thống gọn gàng hơn và có sức cạnh tranh hơn. Họ có nhiều bằng sáng chế hơn. Họ luôn cố gắng tạo được thứ gì đó mới hoặc làm điều gì đó tốt hơn. Tất nhiên, điều này cũng có một cái giá của nó. Chỉ số thất nghiệp của Hoa Kỳ lên xuống như một cái yoyo. Ở thời kì suy thoái, chỉ số thất nghiệp từ 8 đến 10 phần trăm là chuyện hiển nhiên. Kết quả là một tầng lớp dưới hình thành. Giữa những xa hoa, lấp lánh, các cửa hàng đẹp đẽ ở New York, bạn cũng có thể dễ dàng thấy người Mỹ vô gia cư nằm trên vệ đường. Họ không có gì ngoài tấm áo khoác thân và miếng thùng carton để nằm ngủ. Một số người, kể cả nhà kinh tế học đoạt giải Nobel Paul Krugman, đã lên án khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn ở xã hội Mỹ.

Điều này có chấp nhận được không? Tôi không thể nói được. Có những tổ chức tôn giáo và từ thiện giúp đỡ. Một số thành lập những quán ăn tình thương cho người thất nghiệp, vv…. Nhưng mà bạn không thể vừa muốn có chiếc bánh trong tay, vừa muốn ăn nó. Nếu bạn muốn tạo nên sự cạnh tranh mà Hoa Kỳ đang có, bạn không thể tránh được việc tạo nên khoảng cách đáng kể giữa tầng đỉnh và tầng đáy, và không thể tránh khỏi việc tạo nên một tầng lớp dưới. Nếu như bạn chọn một nhà nước phúc lợi, như châu Âu sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, bạn tự nhiên sẽ không còn năng động.

Cuối cùng, Hoa Kỳ có một nền văn hoá tôn vinh những người dám tự làm tự chịu. Khi họ thành công, họ được ngưỡng mộ như là một nhà khởi nghiệp tài năng và có được sự công nhận và vị trí xã hội họ đáng được hưởng. Khi họ thất bại thì điều này được coi là một giai đoạn tạm thời, tự nhiên và cần thiết để rốt cuộc thành công. Vì vậy họ có thể đứng lên và bắt đầu lại. Nền văn hoá này khác với Anh, một xã hội tĩnh hơn – nơi mà mọi người biết vị trí phù hợp của mình. Nước Anh rất mang tính châu Âu về điểm này. Người Anh từng có nhiều khám phá vĩ đại – máy hơi nước, máy kéo sợi và động cơ điện. Họ cũng có nhiều giải Nobel khoa học. Nhưng rất ít khám phá trong số này của họ trở nên thành công về mặt thương mại. Tại sao lại như thế? Những năm dài của 2 thế kỉ đế chế đã hình thành một xã hội nơi mà giới thượng lưu cũ và những quý tộc có ruộng đất được kính trọng. Giới nhà giàu mới bị xem thường. Các sinh viên trẻ ưu tú mơ ước trở thành luật sư, bác sĩ và trí thức – những người được ngưỡng mộ vì trí tuệ và đầu óc của họ hơn là lao động cực nhọc hoặc lao động tay chân. Hoa Kỳ thì lại khác, là một xã hội mới không có khoảng cách tầng lớp. Mọi người đều ngưỡng mộ việc làm giàu – và muốn trở nên giàu có. Đây là một động lực rất lớn để tạo nên các công ty mới và của cải. Thậm chí ở các công ty của Mỹ, người trẻ có tiếng nói lớn hơn ở các cuộc họp, và sức trẻ của họ được định hướng để giúp công ty trở nên sáng tạo hơn.

Lam Kim Trong goi

KHOẢNG CÁCH

KHOẢNG CÁCH

Trên đời có nhiều loại khoảng cách: Khoảng cách địa lý, khoảng cách không gian, khoảng cách thời gian, khoảng cách xã hội, khoảng cách tình cảm, khoảng cách giai cấp, khoảng cách trình độ, khoảng cách thực tế, khoảng cách trừu tượng, khoảng cách địa vị, khoảng cách tình cảm, khoảng cách tôn giáo, khoảng cách tâm linh,… Nói chung, có rất nhiều loại khoảng cách, với mức độ cũng rất khác nhau.

Có khoảng cách rất… “tự nhiên” là một đứa bé nằm trên đống tiền và một đứa bé nằm trên đất cát. Đứa-bé-nằm-trên-đống-tiền là đứa bé con nhà giàu, ngậm vú giả, quần áo tươm tất, nhưng mắt mở to, không ngủ được. Đứa-bé-nằm-trên-đất-cát đen đủi, bẩn thỉu, quần áo rách bươm, nhơ nhớp, nhưng nằm ngủ ngon giấc. Hai hình ảnh trái ngược khiến chúng ta phải suy tư nhiều. Đứa-bé-nằm-trên-đất-cát thanh thản vì biết quẳng gánh lo đi, còn đứa-bé-nằm-trên-đống-tiền không thể ngủ được vì chờ đợi hoặc đòi hỏi cái gì đó ở người khác. Một triết-lý-sống thú vị mà nhức buốt lắm !

Có lần Chúa Giêsu bảo: “Ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó( Mt 6, 34 ). Khổ đâu mà lắm thế nhỉ ? Nghe đến “cái khổ” thì chắc là ai cũng buồn lắm, ngao ngán lắm ! Chẳng phải Chúa “triệt buộc” hoặc “chơi ép” chúng ta đâu, mà chắc chắn “cái khổ” phải có giá trị lắm !

Trong Tám Mối Phúc, Chúa Giêsu đưa ra hai mối phúc liên quan “cái khổ”. Mối thứ nhất: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” ( Mt 5, 3 ), và mối thứ hai: “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” ( Mt 5, 5 ). Hoàn cảnh NGHÈO nàn thì phải KHÓ khăn, thế nên luôn cảm thấy KHỔ và SẦU. Toàn là những chữ “hắc ám” hết sức !

Không ai muốn nghèo, nhưng có người đã cố gắng hết sức mà vẫn nghèo, lận đận cho tới chết. Người nghèo bao giờ cũng nhiều hơn người giàu: “Người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có” ( Ga 12, 8 ). Vì thế, Chúa Giêsu luôn chạnh lòng thương người nghèo và bảo chúng ta phải yêu thương người nghèo. Thế nhưng trong thực tế, người nghèo vẫn bị đối xử phân biệt, bị coi thường, không chỉ đối với xã hội đời thường mà với tôn giáo cũng chẳng hơn gì !

Ngay tại Hong Kong hoa lệ và sang trọng vẫn có những người nghèo rất khổ. Họ phải “sống chui” trong các “chuồng” ( chứ cũng chẳng được giống như căn phòng nhỏ ). Mỗi “chuồng” có chiều dài khoảng 180 – 200cm, chiều rộng từ 70 – 90cm. Các “chuồng” chồng lên nhau và nằm sát nhau ( hình bên ). Tương tự, ở Việt Nam cũng có rất nhiều khu ổ chuột, thậm chí ngay tại Sàigòn mà vẫn có người sống trên chiếc ghe nhỏ, nhìn thôi cũng đã thấy muốn ngộp thở !

Có hai dạng thực-tế-thật, theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Thực tế thứ nhất: Xe hơi “dễ chơi” hơn xe máy, xe máy “đáng ngại” hơn xe đạp, xe đạp “dễ hạp” hơn đi bộ, đi bộ nhìn “ngộ” lắm. Thực tế thứ nhì: Biệt thự “bự” hơn nhà lầu, nhà lầu “ngầu” hơn nhà xây, nhà xây “hay” hơn nhà lá, nhà lá nhìn “lạ” lắm. Người ta vẫn hô hào “xóa đói, giảm nghèo”, nhưng chẳng thấy “xóa” hoặc “giảm” được gì. Ngay cả trong tôn giáo cũng vẫn có tình trạng “chạy đua”, xây Nhà Thờ hàng chục tỷ, như Nhà Thờ Bác Trạch (*) được coi là Nhà Thờ đồ sộ nhất Việt Nam hiện nay. Ở đây không có ý dám phê phán nhưng thiết tưởng cũng nên cân nhắc lắm !

Gọi là san bằng “khoảng cách” nhưng đôi khi chúng ta bị ngộ nhận hoặc ảo tưởng, và rồi có thể chúng ta lại “vô tình” làm cho khoảng cách càng thêm xa và rộng hơn. Thức tế vẫn thấy có những “con chiên ghẻ” bị “lạc bầy”. Những con lợn béo luôn bán được giá cao. Và “chiên béo” cũng “được giá” hơn hẳn loại “chiên ghẻ” hoặc “chiên gầy mòn ốm o”. Thánh Gioan nói: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm( 1 Ga 3, 18 ). Thánh Giacôbê cũng xác định: “Đức Tin không có hành động là Đức Tin chết( Gc 2, 17 và 26 ). Giảng cho hay, viết cho tốt, nghe cho biết, đọc cho vui. Thế thôi ! Người nghèo ở rất gần nhưng Thiên Chúa xa lắc xa lơ, “khoảng cách” vẫn còn đó !

Trình thuật Lc 16, 19 – 31 cho thấy có một loại khoảng cách đặc biệt: KHOẢNG CÁCH ĐỜI ĐỜI. Khoảng cách này phát xuất từ một dụ ngôn do chính Chúa Giêsu kể, Tổ phụ Ápraham gọi là Vực Thẳm. Gọi là dụ ngôn nhưng vẫn rất thực tế ở đời thường, xưa cũng như nay. Chuyện kể và nghe “rất quen” rằng…

Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Ápraham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn.

Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Ápraham ở tận đàng xa, và thấy anh Ladarô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên: “Lạy tổ phụ Ápraham, xin thương xót con, và sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm !” Ông Ápraham đáp: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được”.

Ông nhà giàu nói: “Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Ladarô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này !” Ông Ápraham đáp: “Chúng đã có Môsê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó”. Ông nhà giàu nói: “Thưa tổ phụ Ápraham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối”. Ông Ápraham đáp: “Môsê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin”.

Chúng ta thấy trong dụ ngôn này có một “khoảng cách”. Đó là khoảng cách sang – hèn, khoảng cách giàu – nghèo. Vừa trừu tượng vừa cụ thể. Khoảng cách này chỉ có thể san bằng hoặc lấp đầy bằng “chất” yêu thương ( Đức Ái, Đức Mến, lòng trắc ẩn, lòng thương xót, sự chạnh lòng, thậm chí là… thương hại ).

Khoảng cách giữa người giàu và người nghèo Ladarô không còn là khoảng-cách-tạm-thời hoặc bình thường như trước, mà nay là khoảng-cách-đời-đời, hóa thành “vực thẳm” rồi. Không thể thay đổi được gì nữa. Thật là đáng sợ !

Về Đức Ái, không phải cứ CHO là bác ái. Đừng lầm lẫn hoặc cố ý không hiểu. Người đời nói: “Của cho không bằng cách cho”. Đúng vậy, “cách cho” thực sự quan trọng hơn “của cho”. Có những “kiểu cho” khác nhau thì cũng có những cấp độ bác ái – tạm chia ba cấp: Cấp thấp, cấp vừa, và cấp cao.

1. Yêu thương “cấp thấp” là BỐ THÍ. Đó là chuyện “Người Bạn Quấy Rầy” ( Lc 11, 5 – 8 ). Chủ nhà không hề cảm động trước hoàn cảnh của người hàng xóm kia, nhưng vì anh ta cứ quấy rầy mãi mà chủ nhà đành phải đưa đồ ăn cho anh ta để anh ta đi rồi. Hành động của chủ nhà hoàn toàn vì mình, mang tính ích kỷ. Rõ ràng chủ nhà vị kỷ chứ không vị tha.

2. Yêu thương “cấp vừa” là CÔNG BÌNH ( công bằng ). Kinh Thánh không có câu chuyện nào liên quan “cấp độ” này. Đây là dạng “chia sẻ”. Tôi có nhưng tôi chưa hoặc không dùng tới thì tôi chia sẻ cho bạn. Không vị kỷ cũng chẳng vị tha. Vô thưởng, vô phạt, giống như thuốc không bổ mà cũng không hại.

3. Yêu thương “cấp cao” là BÁC ÁI. Đó là chuyện “Bà Góa Và Hai Đồng Tiền” ( Lc 21, 1 – 4; Mc 12, 41 – 44 ). Những người bỏ tiền vô thùng đều là tiền dư ( bạc nén, bạc lượng, bạc trăm, bạc triệu, bạc tỷ… ), nghĩa là không “chạm” đến cuộc sống của họ. Có bà góa già chỉ bỏ 2 đồng tiền thôi, thế mà Chúa Giêsu khen nức nở. Tại sao ? Hai đồng tiền đó quá nhỏ bé, chưa bằng số lẻ của nhà giàu cho bọn trẻ ăn quà vặt, nhưng 2 đồng đó có “ảnh hưởng” miếng cơm hằng ngày của bà. Bà hy sinh để làm từ thiện, giúp người nghèo. Như vậy, 2 đồng tiền đó có “dính máu” của bà. Hoàn toàn vì thương cảm người khác. Vị tha chứ không vị kỷ. Do đó, 2 đồng tiền nhỏ lại hóa thành tài sản lớn. Còn khuya chúng ta mới làm được như bà góa này, nghĩa là chúng ta đừng vội nhận là mình làm việc bác ái !

Thú thật, cho đến nay tôi vẫn chưa làm được việc bác ái nào đúng nghĩa, vì tôi chưa dám “cắt máu thịt” mình hoặc “rút ruột” ra vì người khác. Tôi cũng chưa đủ mức công bình, vì tôi không có của dư để cho người khác. Tôi cũng chưa có dịp bố thí, vì chẳng ai quấy rầy tôi, họ cứ thấy tôi là họ “chạy mất dép” rồi. Tóm lại, cứ nói “toạc móng heo” là tôi KHÔNG HỀ BÁC ÁI. Vâng, đó là phần tồi tệ của tôi. Và tôi chỉ còn biết xin lỗi Chúa !

Khi làm từ thiện, giúp người nghèo, làm việc tông đồ,… người ta vẫn nói là “làm việc bác ái”. Nghe “kêu” dữ nghen ! Thật ra, người ta chỉ gom quần áo cũ, đồ dư, đồ mình không ăn được, …rồi đem cho người khác chứ có mấy ai mua đồ mới mà cho, hoặc mời ăn đồ ngon ? Và vẫn “vô tư” nói là “làm việc bác ái”. Dĩ nhiên người nghèo họ không dám đòi hỏi, có đồ là tốt lắm rồi. Thế nhưng có lẽ người cho cũng nên “vắt tay lên trán” một chút đấy !

Chữ “nghèo” liên quan chữ “hèn” và chữ “khổ”, “hèn” mà bị “nhục”, “khổ” mà bị “đau”. Việt ngữ vô cùng độc đáo. Quả thật, người nghèo khổ lắm. Khổ đủ thứ. Khổ về thể lý mà “bị dí” luôn tinh thần. Thậm chí họ khổ cả về phương diện tôn giáo. Họ cũng thương ông bà, cha mẹ,… lắm chứ, nhưng họ không có tiền mà xin Lễ. Nhiều người còn ra “giá Lễ” phải là “thế này, thế nọ” thì làm sao họ xin nổi chứ ? Họ cũng muốn mua ân nhân nhưng họ có đủ sức đâu mà mua ? Chiên ghẻ và chiên bệnh thì chẳng ai muốn lại gần, “hôi hám” thấy mồ !

Họ nghèo vật chất, nhưng có thể họ giàu tâm linh. Chắc họ cũng được an ủi khi nghe Chúa Giêsu nói: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa ! lạy Chúa !’ là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” ( Mt 7, 21 ). Mà thật, vào Nhà Thờ thấy ai cũng như chiên, ra khỏi Nhà Thờ thấy ai cũng hóa thành cọp, y như có phép “tàng hình” vậy !

Hằng ngày, người ta có nhiều cuộc “chạy đua” lắm, thậm chí còn so đo ngay trong những việc đạo đức. Trên trời không có chỗ cao hoặc chỗ thấp, cũng không có Thánh nhỏ hoặc Thánh lớn. Người ta còn “khoái” coi cái chính là cái phụ, còn cái phụ là cái chính. Thật là ngược đời quá ! Chẳng hạn, người ta thích “chuyền tay” nhau kinh này và sách nọ, sứ điệp nọ sự lạ kia,… Cũng tốt thôi. Nhưng nếu chỉ “chăm chú” cái hình thức đó, tạo “bề nổi” mà bỏ “chiều sâu” thì có ích gì ? Kinh Thánh có đầy đủ, nhất là Phúc Âm, vậy sao không tìm hiểu cho sâu, cho kỹ ?

Thánh Inhaxiô Loyola so sánh: Không có Đức Ái mà đi truyền giáo thì giống như mình hái quả trên cây rồi tự mình đốn ngã cây vậy”. Còn Thánh Phaolô căn dặn: Lòng bác ái không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình; nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa” ( Rm 12, 9 – 11 ). Thánh Phaolô nói chắc nịch: “Anh em phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau” ( Ep 4, 32 ).

Mùa Chay là dịp “xét mình” một cách rất nghiêm túc, để có thể thực sự “xé lòng”, quyết tâm “xé tâm hồn” để xứng đáng “gặp” Đức Giêsu Kitô qua Bí Tích Thánh Thể và qua tha nhân, đồng thời hãy cùng nhau tâm niệm hai điều:

– Ad Majorem Dei Gloriam – Để vinh danh Chúa hơn.

– Vivere Summe Deo in Christo Jesu – Sống tuyệt vời cho Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô.

Chúng ta cũng hãy cùng nhau cầu xin như Thánh Augustinô: “Domine, noverim Te, noverim me” ( Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con ). Và hãy mơ ước như Thánh Phanxicô Assisi: “Con chỉ mong yêu Ngài đến chết, bởi vì Ngài tự nguyện chết vì yêu con”. Nhờ đó, chúng ta có thể trưởng thành về Đức Ái để có thể san bằng mọi “khoảng cách” trong cả cuộc sống đời thường và tâm linh.

TRẦM THIÊN THU, Mùa Chay 2014

Ghi chú: (*) Nhà Thờ Bác Trạch, xã Vân Trường, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, thuộc Giáo Phận Thái Bình, được khánh thành ngày13.10.2013. Tổng kinh phí xây dựng là 58,6 tỷ VND. Tổng số vật liệu xây dựng: 46 vạn gạch, 351 tấn sắt, 527 tấn vôi, 2.859 tấn ximăng, 15m3 gỗ lim, 1.000m2 đá các loại, khoảng 1.000m2 sơn trong ngoài, 122 tấm kính tranh; gần 100 tượng tròn, phù điêu, tranh vẽ các loại (http://giaophanthaibinh.org/a4397/Hinh-anh-ve-tan-Thanh-duong-Giao-xu-Bac-Trach.aspx ).

From: ngocnga_12 & Anh chi Thu Mai goi

Lay Chúa, cứu vớt kẻ lạc đường …

Lay Chúa, cứu vớt kẻ lạc đường …

Chuacuuthe.com

VRNs (31.05.2014) – Sài Gòn – Tôi tin là trong đời Linh Mục, mình được Chúa ban cho có “cái duyên gặp gỡ” khá đặc biệt, đó là được gặp rất nhiều người Tân Tòng từ vô thần mà trở nên tín hữu, từ đảng viên mà thành con cái Thiên Chúa. Thoạt tiên không để ý, cứ nghĩ như chuyện tình cờ ngẫu nhiên, nhưng rồi khi mọi sự đã diễn ra, tạm gọi là xong xuôi đầu đuôi trọn vẹn, nhìn lại tất cả, tôi ngỡ ngàng buột miệng ồ lên một tiếng vui nhè nhẹ nhàng trong lòng: đúng là có cái duyên !

Bản thân tôi cuộc đời đến hôm nay vừa tròn 55 tuổi, sinh ra và lớn lên trong miền Nam trước biến cố 75, chẳng có dính líu gì đến Đảng CS, gọn một tiếng, tôi không thích, ghét nữa là khác, mà đúng hơn, phải nói là… sợ ! Ghét là ghét cái chủ thuyết CS ấy, và sợ là sợ cái lý lẽ “cứu cánh biện minh cho phương tiện” chắp vá vay mượn của Machiavelli, không từ một trò độc ác tàn bạo nào mà không làm để đạt cho bằng được mục đích của họ. Vậy chứ với con người đảng viên chung chung, tôi chỉ thấy ghê ghê, ngại ngại, cũng thấy tội tội họ nữa, vì hầu hết đã bị chiêu dụ cuốn hút vào với Đảng CS trong những cơn xoáy lịch sử kinh khủng của đất nước tôi trong hơn 80 năm vừa qua.

Ấy thế mà rồi, trong khoảng mấy mươi năm trở lại đây, khi tôi buộc phải sống chung với những người theo CS, phải chịu lấy cái ách của chế độ CS, tôi đã gặp gỡ được khá nhiều người CS trong những hoàn cảnh hết sức đặc biệt, đặc biệt đến nỗi tôi phải gọi đó là có “cái duyên” với họ.

Trong bài viết này, tôi chọn kể lại 3 trong số rất nhiều “cái duyên gặp gỡ” như thế…

Chuyện thứ nhất:

Tôi còn nhớ một kỷ niệm thật xúc động năm 2001. Dạo ấy, sau khi tôi chịu chức Linh Mục âm thầm từ năm 1998 ở trong Nam, gia đình anh chị ruột mãi sau mới biết, còn dòng họ nội ngoại tuyệt nhiên không có chuyện “vinh quy bái tổ” với lại tiệc tùng liên hoan chi cả, tôi xin Bề Trên cho về phục vụ Giáo Phận Bắc Ninh là quê nội tổ xa xưa của mình. Một lần có dịp xuôi từ Bắc Giang về Hà Nội, tôi cố gắng dò tìm cho ra những người họ hàng nội ngoại còn sót lại. Cuối cùng tôi gặp được anh Q. của tôi.

Anh Q. 72 tuổi, là con trai út của bác Cả, còn tôi lúc ấy 42 tuổi, là con trai út của ông Ba. Bước qua cổng ngôi biệt thự tương đối là “oách” giữa lòng thủ đô Hà Nội nhà dân san sát chen chúc, tôi ngờ ngợ anh Q. phải là một cán bộ “oách” tương xứng. Anh em gặp nhau lần đầu, chỉ mấy lời xác định tông chi trong họ là một già một trẻ cách nhau 30 năm, ôm chầm lấy nhau. Anh Q. tỏ ra ân hận, kể chuyện xưa, lúc anh mới 16 tuổi đã thoát ly gia đình năm 45 để theo Việt Minh, làm một chú vệ quốc quân. Ông nội chúng tôi biết được, vốn dĩ đã ghê sợ người CS với chủ trương Tam Vô ( vô tôn giáo, vô gia đình, vô tổ quốc ), đã bắt bác Cả phải đi lôi cổ anh con trai ham vui về, nện cho một trận gãy đôi cả cây phất trần. Vậy mà chứng nào tật nấy, anh Q. tôi lại bỏ nhà ra đi cho đến năm 54, nghe tin ông nội mất đã mấy năm, mới dám lò dò về thăm nhà dù lúc ấy đã là một anh… CA coi trời bằng vung !

Đến một lúc câu chuyện thân tình, anh Q. khóc nấc lên, nắm lấy bàn tay chú em họ nhỏ hơn đến 30 tuổi, nói một hơi trong nghẹn ngào:

“Giêsu Ma lạy Chúa tôi, đâu có bao giờ anh nghĩ trong họ tộc nhà mình lại có được một Linh Mục như em. Cuộc đời anh, anh thề với em, anh tuy là CA nhưng anh chưa hề làm chuyện gì sai với lương tâm. Em xem, anh bỏ Đạo theo Đảng, Đảng bố trí cho lấy vợ cũng đảng viên CA, nhưng lý lịch anh suốt đời vẫn cứ bị xếp hạng hai, họ không tin anh nên anh chỉ được làm chân CA bàn giấy… Giêsu Ma, lạy Chúa tôi, đấy, lâu lắm rồi bây giờ gặp em, anh mới dám gọi “Giêsu Ma”. Của đáng tội, biết đâu đấy em nhỉ, nhờ vậy mà anh không có dịp phạm tội ác chăng ? Anh hứa với em, em thông cảm cho anh, em là Linh Mục, em xin Chúa tha thứ cho anh. Bây giờ anh về hưu rồi, chỉ vài năm nữa thôi, sau khi mấy đứa con anh nó ổn định kinh tế chính trị cả rồi, không ngại trù giập gì nữa, anh xin trở lại với Chúa, em giúp anh nhé…”

Thật tiếc là tôi đã không còn có dịp gặp lại anh Q. Tối hôm ấy, bà chị dâu họ của tôi, vợ đảng viên CA của anh Q., khi biết tôi là “cố đạo” đã thay đổi hẳn thái độ, anh em tôi trò chuyện với nhau chỉ được khoảng nửa giờ mà bà ấy cứ đảo qua lượn lại, đuổi khéo tôi bằng cách thúc ông chồng uống thuốc rồi còn phải đi nghỉ.

Tôi ôm ông anh già khọm tội nghiệp lần cuối rồi ra về. Âu cũng là “cái duyên gặp gỡ”, vâng, một lần “gặp” duy nhất nhưng chắc là cũng “gỡ” được khá nhiều những nút rối dày vò ân hận trong tâm hồn một đảng viên CS trót lạc đường.

Chuyện thứ nhì:

Năm 2006, khi vừa phôi thai Mục Vụ Bảo Vệ Sự Sống của DCCT, Nhóm BVSS Sàigòn được thành lập với hơn mười chị em, trong số này có cô T. Cô T là người miền Nam, vì tế nhị tôi chưa bao giờ hỏi cô đầu đuôi chuyện vợ chồng cô đã theo Đảng như thế nào, chỉ biết cô tìm đến với Nhóm BVSS trong nước mắt của sám hối vì đã một lần phải theo chính sách Nhà Nước mà trót phá thai.

Gần như những chuyển biến trong tâm hồn cô T. xảy ra cùng một lúc và rất nhanh, rất mạnh. Cô T. được người quen rủ đi dự các buổi cầu nguyện với Thánh Kinh tại DCCT. Phần tôi thì lại thường được mấy anh chị đứng đầu nhóm này mời dâng Thánh Lễ cho họ vào buổi tối sau những buổi học hỏi và cầu nguyện. Nhiều lần trong các bài giảng, xoay đi xoay lại với nội dung bài Tin Mừng một hồi, thế nào tôi cũng đề cập đến thảm họa nạo phá thai tại Việt Nam, đặc biệt kinh khủng tại Hà Nội và Sàigòn.

Tôi tha thiết ngỏ lời xin anh chị em hiệp ý cầu nguyện, rồi cụ thể hơn, xin họ hãy là những “chiến sĩ BVSS” được Chúa Thánh Thần sử dụng trong một cuộc chiến không cân sức, giữa một bên là cả một lý thuyết sống vô thần, một chính sách kế hoạch hóa gia đình được hậu thuẫn bởi luật Nhà Nước cho tự do phá thai, và một bên là những người dân bình thường, với “vũ khí” trên tay chỉ là tràng chuỗi Mai Khôi, nỗ lực sống theo nền văn minh Tình Thương và văn hóa Sự Sống mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đã kêu gọi.

Cô T. và chắc nhiều người khác nữa, cuối cùng đã được Chúa Thánh Thần tác động. Họ trải qua một nỗi xót xa dữ dội khi nhận ra trong quá khứ họ đã bị Nhà Nước CS lừa dối tinh vi xảo quyệt suốt mấy chục năm liền. Chính cô T. và nhiều người phụ nữ khác đã kể tất cả cho anh em Linh Mục chúng tôi sự thật phũ phàng, họ đã ngu ngơ dại dột tin vào những lời tuyên truyền khéo léo, rằng phôi thai mới hình thành mấy tuần chỉ là… cục thịt, chỉ là giọt máu, loại bỏ đi thì chẳng có tội vạ gì mà sợ, ngược lại còn là có công với chính sách dân số, được thưởng, được khen vì biết “dừng lại ở hai con”. Hành vi giết người, giết chính con mình được che đậy dưới các mỹ từ “hút điều hòa kinh nguyệt”, “kế hoạch hóa dân số”… Mỉa mai là Trung Tâm Bảo Vệ Bà Mẹ và Trẻ Em lại là nơi phá thai đạt thành tích cao nhất !

Cuối cùng thì cô T. đến xin tôi cho cô được… xưng tội. Cô nói cô không phải là người Công Giáo nhưng thật sự sám hối vì đã trót phá thai. Tôi phải thuyết phục một hồi cô T. mới hiểu ra để bắt đầu xin học đạo để theo Chúa. Ngày cô được tôi đổ nước cũng là ngày cô chính thức trả thẻ Đảng.

Từ nay, trong việc BVSS, cô T. hăng hái và can đảm kỳ lạ. Luôn luôn cô tin là được chính Chúa Giêsu sai đi cứu một người sắp phá thai nào đó. Và thường thì cô chiến thắng vẻ vang. Dù vậy, cô vẫn khiêm tốn bảo đó là công của Mẹ Maria, Thánh Bổn Mạng kính yêu của cô, chứ đối với cô, chỉ là nỗ lực “đái công chuộc tội” mà thôi !

Khi đến chơi nhà dịp Tết, ông chồng của cô T. lúc ấy còn đang làm trong ngành du lịch, đã tự ý khất với tôi xin cho ông một thời gian nữa, ông cũng sẽ theo Chúa, ông bảo bây giờ bà xã cứ đi học Giáo Lý với cha thế nào thì về nhà thế nào cũng giảng lại cho ông, ông đã tin Chúa, nhưng xin chờ mấy năm nữa, về hưu, ông sẽ toàn tâm toàn ý theo đạo…

Chuyện thứ ba:

14053100

Một ngày đầu tháng 4 vừa qua, tôi được cha Thoại báo tin với một sự dè dặt chừng mực: nhạc sĩ Tô Hải muốn được rửa tội theo Chúa. Lễ An Táng thầy giáo Tân Tòng Phêrô Đinh Đăng Định vừa xong, dư âm về quang cảnh, bầu khí Thánh Lễ ở DCCT, và đặc biệt là bài giảng thấm thía của cha Nguyễn Thể Hiện, biết đâu tất cả những điều ấy làm cho cụ Tô Hải xúc động rồi nhất thời cụ nẩy ra ý xin theo đạo ?!? Anh em chúng tôi không dám võ đoán thêm, quyết định phải đến thăm tận nhà cụ, lắng nghe trực tiếp tâm sự và ước nguyện của cụ xem sao.

Thú thật là trước dịp này, tôi chỉ được nghe biết rất ít về cụ, một thoáng về cuốn “Hồi ký của một thằng hèn” gây chấn động dư luận trong và ngoài nước của cụ, thế thôi. Đi thang máy lên đến tầng 11, thoạt bước vào căn hộ chung cư của cụ, tự dưng tôi cảm thấy như bước vào nhà một người thân quen tin cậy nhau từ lâu. Cách tiếp đón của vợ chồng cụ thật niềm nở hồn hậu. Ngoài ra còn khá đông anh chị em thân hữu khác, đôi bên chào hỏi nhau ríu rít. Hóa ra được điện thoại của cha Thoại, gia đình cụ gọi người này người kia đến, cứ như là đón thượng khách !?!

Thế rồi ngay trong buổi sơ giao, tôi và cha Thoại đã thấy rõ Lòng Tin của cụ Tô Hải vào Chúa là chín chắn xác thực, không phải chuyện xúc động nhất thời, hời hợt bề ngoài. Chúng tôi có vội vàng lỡ hứa với cụ sẽ cử hành các Bí Tích gia nhập đạo cho cụ vào Thánh Lễ Xa Quê cầu nguyện cho Hòa Bình và Công Lý Chúa Nhật 27 tháng 4 tại DCCT. Cụ và mọi người mừng lắm… Đến khi về nhà bàn bạc với các Bề Trên mới thấy như vậy vội quá, cụ còn tương đối minh mẫn sáng suốt, sức có yếu, thở có khó, phải ngồi một chỗ, nhưng không phải là trường hợp nguy tử, rất cần có thêm thời gian giúp cụ những điểm căn bản của Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo.

Vậy là trong mấy tuần tiếp theo trong tháng 5, tôi tìm đến với cụ Tô Hải, lúc nào cũng rủ thêm mấy bạn trẻ Nhóm Fiat, có ý sẽ giúp cụ tiếp nhận những chân lý cốt yếu của Tin Mừng Chúa Giêsu. Tiếng là đến giúp Giáo Lý, nhưng của đáng tội, lần nào cũng vậy, tôi chỉ ngồi yên chăm chú lắng nghe, còn cụ thì thao thao bất tuyệt, lắm khi sặc nước bọt hoặc hụt hơi thở không kịp. Tôi thật sự tôn trọng với những giờ phút mở lòng bộc bạch chân thành của cụ, lịch sử đất nước như diễn lại với trận đánh Điện Biên Phủ tàn khốc năm 1954, với vụ án Nhân Văn Giai Phẩm bi thảm năm 1956, với bao nhiêu là máu và nước mắt, bất công và dối trá… Còn các bạn trẻ thì cứ tròn xoe mắt trước một chứng nhân lịch sử tự giới thiệu là quá… hèn vì “đã 62 năm sống trong lừa dối và đi lừa dối mọi người”, nhưng nay thì hết hèn, dứt khoát lột trần tất cả sự thật !

Thế rồi, như ơn Chúa soi sáng, đến đúng chỗ cần phải trình bày Giáo Lý Tin Mừng thì tôi tìm ngay được khoảng hở để nói chen vào. Một lần tôi nhẹ nhàng đề nghị cụ sáng tác một bài hát như ông đại úy Nguyễn Hữu Cầu đã sáng tác trong tù biệt giam bài “Khỏe re như con bò kéo xe”… Chỉ mới nghe có thế thôi mà cụ phản ứng nhanh và mạnh: “Nói thật với cha, điểm nào tôi cũng kính phục ông Cầu, chỉ có mỗi chuyện ông ấy bảo phải quên hết, tha thứ hết, không oán thù chi nữa, thì tôi dứt khoát không đồng ý ! Làm sao mà tha thứ được chứ, càng nghĩ càng giận, càng uất hận cái lũ tàn ác với nhân dân và phản bội tổ quốc chứ !”

Nói xong, cụ mệt vã ra, thở hổn hển và tay run lập cập. Tôi nhỏ nhẹ nói: “Cụ ơi, cụ theo Chúa Giêsu thì rồi cụ cũng sẽ sống, sẽ cư xử như Ngài đấy. Ngài bị kẻ dữ nó đánh, nó chửi, nó vu khống, nó kết án chết oan uổng, vậy mà cụ biết không, Ngài thưa với Cha của Ngài: “Xin Cha tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”. Thưa cụ, Chúa Giêsu kịch liệt lên án tội ác nhưng Ngài lại không bao giờ lên án tội nhân. Vậy mai này cụ theo Chúa Giêsu rồi, cụ vẫn là cụ lâu nay, can đảm, dõng dạc, mạnh mẽ lên án tội ác, nỗ lực sống điều thiện để cái ác dần dần bị đẩy lui và không thể làm hại con người nữa, nhưng chuyện hận thù thì cụ sẽ buông rơi tất cả, chỉ hát Kinh Hòa Bình của ông Thánh Phanxicô mà cụ yêu quý tự ý chọn làm Thánh Bổn Mạng, thậm chí cụ còn cầu nguyện cho chính những bọn ác biết cải tà quy chánh…”

Có lẽ cụ Tô Hải lần đầu tiên nghe được một luận chứng kỳ lạ như thế, cụ bâng khuâng thinh lặng một lúc, các nếp nhăn trên khuôn mặt vị lão trượng 88 tuổi đời như giãn ra, ánh mắt như rạng lên sau cặp kính dày cộm, rồi cụ sực tỉnh nhớ lại tinh thần của Nguyễn Trãi, cụ móm mém đọc chậm rãi: “Lấy chí nhân mà thay cường bạo, đem đại nghĩa để thắng hung tàn”. Mà đây, Tin Mừng của Chúa Giêsu còn cao trọng hơn đường lối của bậc anh hùng xưa trong việc trị quốc, bình thiên hạ. Nếu tôi không nhìn lầm, cụ đã khóc ! Và tôi tin đó là giọt nước mắt của Metanoia…

Chúa Nhật 25.5.2014 vừa qua, đúng giờ hẹn, cụ Tô Hải có mặt, ngồi trên xe lăn, quần áo màu nâu nhạt rất nhã, thắt cà vạt chỉnh tề, được người thân đẩy vào trước gian kính Mẹ Hằng Cứu Giúp trong Nhà Thờ. Tôi vắn tắt giới thiệu cụ trước cộng đoàn rồi đích thân chuẩn bị các nghi thức tiếp nhận cụ. Sau bài giảng, Bí Tích Thánh Tẩy và Bí Tích Thêm Sức được long trọng cử hành, cha Vũ Khởi Phụng là người đỡ đầu cho cụ. Có thể nhận thấy hai cụ già cách nhau gần một con giáp, một Linh Mục Mátthêu, một Tân Tòng Phanxicô, từ nay sẽ trở thành đôi bạn vong niên cùng giúp nhau “sinh hoa kết quả” trong Đức Tin như lời chia sẻ Tin Mừng của cha.

Cha Lê Quang Uy (bên trái) đang ử hành các Bí Tích gia nhập Kitô giáo cho ông Phanxicô Tô Đình Hải.

Cha Lê Quang Uy (bên trái) đang ử hành các Bí Tích gia nhập Kitô giáo cho ông Phanxicô Tô Đình Hải.

Thay lời kết

Ấy “cái duyên gặp gỡ” trong đời tôi là vậy. Với bài viết này, tôi chỉ kể được có ba, còn khá nhiều những anh chị em, những người đàn ông đàn bà, trẻ có già cũng có, từng là đảng viên lão thành hoặc cốt cán mà tôi đã được Chúa cho may mắn gặp gỡ, nghe họ tâm sự, rồi đóng góp phần nhỏ bé của mình để giúp họ “thoát thai vào đời”.

Vâng, bản thân họ đã được ơn thiêng lạ lùng để nhận ra họ đang “lạc đường” giữa bao cảnh huống nhiễu nhương của cuộc sống. Không ai khác, mà chính là Chúa Giêsu đã đến với họ bằng nhiều cách thế kỳ diệu và bất ngờ, giúp họ hạnh ngộ, khám phá một chân lý sâu xa: chính Ngài là Đường, rồi Ngài lại còn là Bạn Đường bước đi tay trong tay, ngay kề bên. Dù đang ở độ tuổi nào, không hề mất trí nhớ nhưng họ lại sẵn sàng quên hết quá khứ thương đau, lắm khi đầy tủi hận, để làm lại từ đầu, để chập chững đi lại từ đầu với niềm vui của một trẻ thơ an nhiên.

Đối với riêng cụ Phanxicô Tô Hải, cụ đã có đến hai lần đổi đời, lần đầu để không còn là “một thằng hèn”, và lần sau này để không còn là “một kẻ lạc đường”.

Cuối cùng, tôi xin chép lại lời bài ca cụ Tô Hải đã sáng tác dâng tặng Chúa Giêsu chỉ mấy ngày trước khi được Thánh Tầy…

LẠY CHÚA, CỨU VỚT KẺ LẠC ĐƯỜNG

Lạy Chúa Giêsu lòng lành bao la sáng mãi trên Trời,
Thương con, đây một kiếp người lạc lối giữa cõi thế mất hết niềm tin.
Giờ đây bên chân Chúa, con xin được nguyện cầu,
Quên đi hận thù, để cho bóng tối sẽ sớm được xua tan
Trên quê hương Việt Nam của chúng con…

Bài Thánh Ca vang vọng về nơi nơi có Chúa trên đời,
Mong sao qua một quãng đời tội lỗi, Chúa chứng giám tiếng hát niềm tin.
Lời ca dâng lên Chúa mang theo lời nguyện cầu,
Mong trong cuộc đời niềm tin nơi Chúa, cái ác phải tan đi
Trên quê hương Việt Nam của chúng con. Amen.

( Phanxicô Tô Hải, 20.5.2014 )

Lm. LÊ QUANG UY, DCCT
140531002

Shangri-La : Trung Quốc lên án Mỹ-Nhật khiêu khích (RFI)

Shangri-La : Trung Quốc lên án Mỹ-Nhật khiêu khích

Trưởng đoàn Trung Quốc tại Đối thoại Shangri-La, tướng Vương Quán Trung (Wang Guanzhong).

Trưởng đoàn Trung Quốc tại Đối thoại Shangri-La, tướng Vương Quán Trung (Wang Guanzhong).

AFP

Thanh Hà / Tú Anh

Phó tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc Vương Quán Trung (Wang Guanzhong) cực lực lên án bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ và thủ tướng Nhật Bản đã có lời lẽ « khiêu khích », khi hai nhân vật này tố cáo Bắc Kinh « gây bất ổn » trong vùng Biển Đông và Hoa Đông. Thực sự là Vương Quán Trung đã quên lời cam kết của Tập Cận Bình.

Tại Diễn đàn An ninh khu vực Đông Nam Á Shangri-La (Singapore), quy tụ hàng trăm nhân vật lãnh đạo chính trị, ngoại giao, quân sự và chuyên gia quốc tế, bộ trưởng quốc phòng Mỹ Chuck Hagel trong bài phát biểu ngày hôm qua 31/06 tuyên bố Hoa Kỳ không chấp nhận « thái độ gây bất ổn » của Trung Quốc và « sẽ không điềm nhiên tọa thị » nếu trật tự thế giới bị đe dọa. Hoa Kỳ « mạnh mẽ chống lại bất kỳ hành động đe dọa, cưỡng chế, uy hiếp bằng vũ lực để khẳng định yêu sách », bộ trưởng Quốc phòng Mỹ nhấn mạnh.

Trước đó, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe kêu gọi « mọi quốc gia phải tôn trọng luật pháp », khi nói về tình hình căng thẳng ở Biển Đông và Hoa Đông, một cách để gián tiếp để lên án Trung Quốc lấy sức mạnh đè người.

Hôm nay, trong phần phát biểu của phái đoàn Trung Quốc, trưởng đoàn Vương Quán Trung, Tham mưu phó quân đội Trung Quốc đáp trả một cách giận dữ :  « Hai ông Chuck Hagel và Shinzo Abe có những lời tuyên bố không thể chấp nhận được, là một hành động khiêu khích có phối hợp để thách thức Trung Quốc ».

CHA MẸ RẤT CẦN ĐƯỢC BIẾT CHỨNG BỆNH ADHD

CHA MẸ RẤT CẦN ĐƯỢC BIẾT CHỨNG BỆNH ADHD (Attention Deficit Hyperactive Disorder.)
Tuyết Mai

Tôi thiết nghĩ cái bệnh ADHD có rất nhiều người không ai được biết đến thế nên đã có rất nhiều người đã không được trị liệu và biết về căn bệnh này. Bệnh này được cho biết là có nhiều mức độ từ nhẹ cho đến nặng. Nhẹ nhất là không thể chú tâm trong việc học hành, không biết cách học, không kiên nhẫn, không ở yên được một chỗ và là những trẻ được liệt vào thành phần phá phách trong lớp học.

Còn nặng nữa là trong người luôn như có lửa đốt, như kim châm vào người, rất khó chịu khi phải ở trong lớp học lâu nên phải có thuốc uống để giúp cho cơ thể được bình tâm lại. Trong gia đình của chúng tôi Chúa ban cho có hai đứa con có chứng bệnh này mà đứa gái lớn nhất năm nay đã 25 tuổi rồi. Thời gian này là thời gian mà cháu nói là thời kỳ nặng nhất của cháu.

Cháu đang chờ cho bác sĩ gia đình xin phép vì thuốc rất mắc; một tháng thuốc mà giá có đến vài trăm đô-la. Cháu có người quen cho thuốc uống nhưng được khuyên là không nên uống vì liều lượng của mỗi người là mỗi khác. Phản ứng phụ của thuốc này có nguy cơ làm suy thận và hư thận nhưng người có bệnh thì cần phải uống thôi nếu không uống thì người bệnh sẽ không thể làm được việc gì theo ý muốn được.

Để có thể nhận diện được những người có chứng bệnh này thì họ rất thích chơi trò thể thao, bất cứ loại thể thao nào, ngay cả những trò chơi có tính cách rất mạo hiểm vì họ không thể ngồi yên trong nhà được. Sinh lực của họ dồi dào hơn người thường. Mong rằng sự chia sẻ của căn bệnh khó mà biết này có thể giúp cho cha mẹ, thầy cô nơi học đường thấy biết ngay rằng con trẻ cần có được sự để ý cách đặc biệt.

Thấy sao con cái hay học trò chúng thường phá phách, không chịu ngồi yên trong lớp học?. Ở bên Mỹ cho đến ngày hôm nay tại các trường học quý thầy quý cô mới bắt đầu học biết chứng bệnh ADHD này để biết cách dậy học trò nhỏ hay lớn của mình. Học để biết thông cảm cho chúng, giúp chúng học sao cho thích ứng với căn bệnh của chúng từ nhẹ cho đến nặng.

Như khi thi thì cho phép chúng được có nhiều thời giờ hơn, ngồi riêng rẽ một mình để không bị cảm thấy thúc hối. Nếu thấy chúng học trò khó ngồi yên trong lớp thì thầy cô hãy tìm cớ cho phép chúng ra khỏi lớp để sai chúng làm chuyện gì như lên văn phòng copy giấy, đến lớp nọ mượn đồ, v.v… thay vì để chúng ngồi trong lớp chúng sẽ quậy phá. Cho chúng thời gian nhiều hơn là học trò bình thường để nộp bài tập trong lớp cũng như đem về nhà làm. Sự thông cảm của cha mẹ và thầy cô sẽ giúp chúng học trò có bệnh sẽ có kết quả gần như sự mong muốn.

Thưa xin nhắc là những người có chứng bệnh này không phải là họ có bộ não học chậm đâu nhé mà Chúa lại ban cho họ có nhiều tài năng nổi trội hơn cả người bình thường nếu họ có được chữa trị đúng và thuốc men đầy đủ. Khi họ có được đúng thuốc uống thì họ là những học trò xuất sắc, luôn đứng hạng A, là những người rất thành công trong đời vì Thiên Chúa Người rất công bằng vô cùng.

Những người mang chứng bệnh ADHD này thường có tài hùng biện, rất giỏi nói và nhiều người chịu nghe. Xã giao rất là tự nhiên; có rất nhiều người yêu mến từ trẻ đến già. Phải nói những trẻ có bệnh này nếu không ai biết thì tất cả mọi người sẽ nghĩ rằng những trẻ này có đầu óc ngu xuẩn, sẽ không có cơ hội học tiếp và làm cho chúng càng tin rằng chúng ngu thật.

Con gái chúng tôi ở tuổi 25 mới xong được cái bằng Cử Nhân Luật nhưng cháu vẫn không chịu thua, cháu sẽ muốn học tiếp lên vì cháu biết có Chúa sẽ giúp cháu. Còn thằng con trai út của chúng tôi đang nghi rằng cháu cũng có cái bệnh ấy vì cháu học dở lắm suốt cả 4 năm trung học. Cháu nói lý do là vì cháu không chú tâm học, dễ buồn ngủ trong lớp, và chẳng cần học được hay không. Hầu hết tất cả thầy cô giáo phê trong học bạ là cháu không bao giờ nộp bài tập đầy đủ và đang có cơ hội bị điểm F.

Cái bệnh quái ác này chúng tôi cũng mới biết đây thôi, chính là nhờ do các cháu lớn chúng có học qua những khóa học trên đại học nên mới có cơ hội để tìm hiểu chứng bệnh này chứ bệnh này nó không thể hiện trên khuôn mặt hay trên thân thể để biết được. Nhìn các cháu thì rất bình thường không nói rằng xinh gái và điển trai; chúng tôi cứ nghĩ rằng sức học lực của các cháu quá yếu kém nhưng chúng tôi lại không có khả năng cho chúng đi học kèm thêm, đành chịu!.

Cả hai cháu chúng luôn nản học, chúng không có khả năng nghĩ sâu xa về tương lai chúng sẽ làm gì để nuôi miệng chúng nhưng làm cha mẹ già như chúng tôi thì chỉ biết ngày đêm chắp tay nguyện cầu. Luôn tin rằng Thiên Chúa Người đã thương yêu tác tạo ra chúng thì xin Chúa hãy ban cho chúng có được tương lai tốt đẹp. Trở thành người hữu ích, được hằng ngày dùng đủ và có Chúa ở cùng, trong trái tim to lớn luôn muốn giúp người giúp đời. Thiết nghĩ đó cũng là quá đủ vì ngoài Chúa ra đâu là hạnh phúc? Đâu là đường để chúng con bước đi?.

Y Tá của Chúa,
Tuyết Mai
05-27-14

Nước cờ hiểm của TQ với giàn khoan

Nước cờ hiểm của TQ với giàn khoan

Nguyễn Lễ

BBCVietnamese.com

Thứ năm, 29 tháng 5, 2014

Trung̣ Quốc định ngày rút giàn khoan là ngày 15/8

Các đợt xuống đường của người dân Việt Nam có thổi bay cái giàn khoan của Trung Quốc khỏi Biển Đông?

Câu trả lời, nhiều khả năng, là ‘Không’

Ít nhất những diễn biến trên thực địa cùng với những tuyên bố cứng rắn cho đến giờ cho thấy Trung Quốc quyết không lùi một bước.

Tôi không rành về khai thác dầu khí nhưng theo l‎ý mà suy thì chừng nào xong việc mới rút giàn khoan chứ làm sao biết được sẽ rút ngày nào?

Nhưng nếu Bắc Kinh không công bố trước thời hạn rút giàn khoan thì bất cứ lúc nào họ rút đi cũng sẽ bị cho là chịu thua sức ép của Việt Nam.

Đưa giàn khoan ra Biển Đông, Bắc Kinh muốn quyết tâm khẳng định với thế giới rằng vùng biển xung quanh đó thuộc chủ quyền của họ.

Nhưng tại sao họ lại ra tay vào lúc này? Giàn khoan Hải Dương 981 là cách mà họ thách thức cam kết ‘xoay trục’ mà Tổng thống Mỹ Barack Obama vừa khẳng định với các đồng minh.

Obama vừa mới lên tiếng Senkaku nằm trong phạm vi hiệp ước an ninh với Nhật và Manila cũng vừa k‎ý với Mỹ Hiệp ước tăng cường liên minh quân sự. Kiếm chuyện với Tokyo hay Manila khi Obama vừa rời đi thì quá ‘bựa’.

Để thách thức Mỹ nhưng vẫn tránh đối đầu trực diện, Bắc Kinh chọn mục tiêu mềm hơn là Hà Nội.

Nước cờ chắc ăn

Với lại khi có hành động mà Bắc Kinh biết rằng sẽ bị thách thức dữ dội thì họ phải chọn nước cờ chắc ăn nhất.

Họ không chọn vùng biển xung quanh các đảo mà họ đang nắm giữ ở Trường Sa hoặc một vị trí nào khác trong Biển Đông mà họ biết sẽ rủi ro hơn rất nhiều.

Quần đảo Hoàng Sa chỉ có tranh chấp với Việt Nam, trong khi Trung Quốc còn không thừa nhận là có tranh chấp và lâu nay vẫn cự tuyệt mọi đề xuất đàm phán của Hà Nội.

Về mặt thực tế, ‘Tây Sa’ đã nằm hoàn toàn trong tay Trung Quốc và cách nay không lâu họ còn gióng trống mở cờ thành lập thành phố ‘Tam Sa’ đóng trên quần đảo này.

Tổng thống Mỹ Obama vừa cam kết với các đồng minh châu Á về chính sách ‘xoay trục’

Về mặt pháp lý, họ có ‘bửu bối’ là công hàm Phạm Văn Đồng mà nếu Hà Nội có cãi lý thì họ sẽ dùng để đập lại.

Họ kiểm soát, họ không thừa nhận có tranh chấp, họ có bằng chứng Hà Nội ‘công nhận chủ quyền’, rõ ràng Bắc Kinh rất tự tin với ‘chủ quyền Tây Sa’ nên họ mới đưa giàn khoan ra đây.

Nếu Việt Nam có nói là giàn khoan nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của mình thì Trung Quốc sẽ cãi rằng giàn khoan này nằm cách ‘Tây Sa, lãnh thổ của họ’ chỉ 17 hải lý trong khi cách bờ biển Việt Nam đến 150 hải lý.

Trên thực tế đó là kịch bản mà báo chí và các quan chức Trung Quốc đã nói trong những ngày qua.

Một khi có bước đi liều lĩnh như thế chắc chắn Bắc Kinh đã tính toán hết mọi rủi ro mới dám thực hiện.

Nhìn vào động tĩnh của Trung Quốc trong những ngày qua thì sẽ thấy họ theo dõi chặt chẽ phản ứng của Việt Nam, của khối Asean và của Mỹ.

Ngay cả khi phản ứng chính thức của Mỹ chỉ dừng ở mức ‘quan ngại’ và chỉ trích Trung Quốc ‘gia tăng căng thẳng’ thì Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã phủ đầu với tuyên bố ở Thượng Hải rằng ‘các thế lực bên ngoài không được can thiệp’ và ‘chống lập liên minh quân sự nhằm vào bên thứ ba’.

Còn với Asean, mặc dù còn không nêu tên Trung Quốc mà chỉ bày tỏ ‘quan ngại’ nhưng Trung Quốc đã rất nhanh chóng lấy quan hệ chung để nhắc nhở Asean không được dính vào tranh chấp riêng và cảnh báo Hà Nội về việc ‘lôi kéo’ Asean.

Làm chủ tình hình

Phản ứng mạnh mẽ của Việt Nam chắc chắn cũng đã nằm trong dự liệu của Trung Quốc.

Các lãnh đạo Asean không muốn mất lòng Trung Quốc trên vấn đề Biển Đông

Mỹ can thiệp, Asean dính líu và Việt Nam ngả về phía Mỹ là ba nỗi sợ của Bắc Kinh khi đưa giàn khoan HD-981 ra Biển Đông.

Về phía Mỹ thì Bắc Kinh biết rõ vào lúc này Washington không thể làm được gì nhiều để giúp Hà Nội ngoài hỗ trợ tinh thần.

Về phía Asean thì Bắc Kinh biết rằng với tư cách là đối tác thương mại lớn nhất của khối, các nước Asean sẽ hết sức thận trọng để tránh làm tổn thương quan hệ với Trung Quốc.

Về phía Việt Nam, với quan hệ khắng khít giữa hai Đảng Cộng sản trong những năm qua, Bắc Kinh chắc hẳn nắm rõ suy nghĩ của Hà Nội.

Điều Bắc Kinh sợ nhất là Hà Nội ngả về phía Washington để họ thêm một mối họa ở phía Nam, nhưng một khi họ đã đưa giàn khoan ra thì có nghĩa họ tin rằng Hà Nội dù có bị o ép thế nào đi nữa thì cũng không tìm kiếm liên minh với Mỹ

Chỉ có điều với hành động này thì họ đã hủy hoại quan hệ với Việt Nam. Việt Nam sẽ không còn là ‘láng giềng thân thiện’ với Trung Quốc được nữa. Tuy nhiên, vì mục đích lớn ở Biển Đông, Bắc Kinh sẵn sàng hy sinh.

Trong cái mục đích lớn đó, đảo thì họ đã nắm được một phần nhưng đường lưỡi bò thì đây mới là bước đi quan trọng đầu tiên để hiện thực hóa.

Nếu như Trung Quốc lùi trước sức ép của Việt Nam thì trước mắt người dân trong nước chính quyền là hèn nhát không đủ sức bảo vệ chủ quyền, trước dư luận quốc tế lập luận chủ quyền của họ không vững và nhất là đường lưỡi bò mới tiến được một bước đã phải lùi thì sau này sẽ vô vàn khó khăn.

Biển Đông là cánh cửa để Trung Quốc bành trướng ra ngoài và là chìa khóa để làm bá chủ ở Đông Á nhất là khi họ đã bị chặn bởi các nước lớn khác ở các hướng bắc, đông và tây nam.

Trung Quốc đang muốn biến đường lưỡi bò trên bản đồ thành sự thật

Chậm mà chắc

Năm 1947, đường lưỡi bò lần đầu tiên xuất hiện trên bản đồ Trung Hoa.

Lúc đó, người Trung Quốc còn chưa có gì trên Biển Đông. Gần 70 năm sau, họ đã có ‘thành phố Tam Sa’ – tức là đã có chỗ đứng vững chắc để từ đó vươn ra Biển Đông.

Ai dám chắc sau 70 năm hoặc 100 năm nữa toàn bộ Biển Đông không trở thành ao nhà của Trung Quốc?

Từ chỗ không có gì đến có được như thế phải thấy tầm nhìn và sự khôn ngoan của Trung Quốc trên Biển Đông: họ xác định đó là công việc lâu dài, tiến dần từng bước một, tranh thủ thời cơ, sẵn sàng dùng vũ lực, sức mạnh đến đâu hiện thực chủ quyền đến đó.

Mặc dù có yêu sách đường chín đoạn từ rất lâu nhưng phải đến tận năm 2009 họ mới chính thức trình ra quốc tế. Chứng tỏ Bắc Kinh giỏi giấu mình chờ thời cơ đến mức nào.

Tuy nhiên điều này cũng cho thấy sự không trong sáng trong đòi hỏi chủ quyền của họ. Nếu có chủ quyền thật sự thì cần gì đợi thời cơ mới đưa ra?

Và cái cách mà họ vẽ đường chín đoạn trong tất cả các bản đồ của họ hiện nay, mặc dù chỉ là chủ quyền trên giấy, là nhằm in sâu vào tâm trí mọi người để rồi đến lúc ai cũng mặc nhiên thừa nhận ‘chủ quyền không thể chối cãi’ của Trung Quốc.

Họ cũng rất biết lợi dụng tình hình khi tranh thủ tối đa những lúc Việt Nam rối ren hay gặp tình hình quốc tế bất lợi để ra tay chiếm đảo.

Chính phủ Bắc Việt đã quá tin tưởng vào Trung Quốc?

Với một đất nước đã quen với ván cờ quyền lực và đấu tranh chính trị trong hàng ngàn năm thì Việt Nam không phải là đối thủ của họ trong cuộc đấu trí trên Biển Đông.

Họ có tầm nhìn cả trăm năm, có chiến lược thực hiện rõ ràng và nhất là luôn ở thế tấn công trong khi Việt Nam nằm ở thế bị động chống đỡ các bước đi của họ.

Trước phía nhiều mưu chước như Trung Quốc, Việt Nam chẳng khác nào một đứa trẻ ngây ngô liên tục bị gài bẫy.

Cái bẫy lớn nhất chính là công hàm năm 1958 công nhận Tuyên bố về lãnh hải của Trung Quốc mà trong Tuyên bố này có khẳng định chủ quyền đối với ‘Tây Sa’ và ‘Nam Sa’.

Bắc Việt lúc đó chỉ nghĩ đến cái lợi trước mắt là sự giúp đỡ của Trung Quốc chứ không lường được cái hại sau này trong khi Trung Quốc mưu tính chuyện lâu dài về sau.

Công luận quốc tế không cần biết ông Đồng suy nghĩ thế nào hay bối cảnh ra sao khi k‎y cái công hàm đó. Chỉ biết giấy trắng mực đen rành rành Việt Nam công nhận chủ quyền của Trung Quốc.

Việt Nam đang chứng kiến các cuộc biểu tình chống Trung Quốc lớn chưa từng thấy

Đành rằng ông Đồng không thể đem cho cái mà Chính phủ của ông không có, nhưng ông có thể thừa nhận quyền sở hữu của người khác đối với tài sản mà ông không có đó.

Và khi đã thừa nhận của người khác thì bây giờ sao lại nói ngược là của mình được?

Rõ ràng Việt Nam tin vào tình đồng chí còn Trung Quốc đã lợi dụng tình đồng chí đó.

Quan hệ quốc tế luôn dựa trên nền tảng lợi ích quốc gia – không có chỗ cho ‘tinh thần quốc tế vô sản trong sáng’. Bắc Kinh đã không đổ xương máu cho Hà Nội nếu không có lợi ích của mình trong đó.

Bắc Việt đã quá ngây thơ khi tin tưởng người đồng chí phương Bắc hơn đồng bào của mình ở miền Nam. Họ đã để ‎y thức hệ chi phối chính sách ngoại giao của mình.

Chính vì ý thức hệ mà khi Việt Nam hụt hẫng sau khi Liên Xô sụp đổ đã bất chấp những kinh nghiệm đau thương trong quá khứ lại tìm đến Trung Quốc làm chỗ dựa. Và đất nước lại bị đặt trước miệng cọp.

Cũng vì ý thức hệ mà Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng khi sang thăm Trung Quốc đã chấp nhận lời khuyên lấy ‘đại cục’ làm trọng, tức là đặt lên trên tranh chấp.

Khi đưa giàn khoan ra Biển Đông, Bắc Kinh có nghĩ đến ‘đại cục’ không?

Các lãnh đạo Trung Quốc tin rằng Việt Nam sẽ không thoát khỏi ‘đại cục’ với họ?

Rõ ràng ‘đại cục’ đó không phải để ràng buộc Bắc Kinh mà là để Bắc Kinh ràng buộc Hà Nội.

Thậm chí khi Bắc Kinh đã phá vỡ cam kết của lãnh đạo hai Đảng thì Thường Vạn Toàn vẫn tự tin nhắc nhở Phùng Quang Thanh về ‘đại cục’.

Và cho đến giờ cũng chính y thức hệ đã khiến Việt Nam mắc kẹt trong ‘đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, không liên minh với ai’

Mạnh như Nhật mà còn cần hiệp ước an ninh với Mỹ, có vũ khí hạt nhân như Anh, Pháp vẫn cần Mỹ đồng minh trong khối Nato.

Trong khi đó, Việt Nam hiện nay vừa nhỏ yếu vừa bị đe dọa nghiêm trọng thì cứ nói là ‘độc lập, tự chủ’ mà thực ra chỉ thiệt cho mình mà thôi.

Thử cho Mỹ vào Cam Ranh xem? Bắc Kinh không sợ mới lạ.

Mỹ rất muốn nhưng Việt Nam ‘độc lập, tự chủ’ không làm được.

Chính vì thế Việt Nam mất đi một lá bài lợi hại trong cuộc đối đầu vốn dĩ không cân sức.