Thành thật khen ngợi và biết ơn người khác.

Đắc Nhân Tâm – Phần I – Chương 2

Chương 2 : Bí Mật Lớn Nhất Trong Phép Ứng Xử :

Thành thật khen ngợi và biết ơn người khác.

Chỉ có một cách hiệu quả nhất để khiến một người thực hiện đều ta mong muốn. Và hãy luôn nhớ rằng không có cách nào khác, nếu chúng ta : 

* Một tay giật tóc, một tay gí súng vào đầu một người nào đó và thét lớn : “Có bao nhiêu tài sản, hãy đưa hết cho ta!“; 

* Vênh mặt cau có và thách thức nhân viên của mình : “Nếu không làm việc chăm chỉ, tôi sẽ đuổi việc anh/chị ngay lập tức. Nhìn ra ngoài kia mà xem, biết bao nhiêu người muốn được làm nhân viên của tôi đấy!“; 

 * Cầm một cây roi mây to và quát con trai : “Đồ ngu ! Nếu mày còn ham chơi làm dơ bẩn áo quần, tao sẽ cho mày 100 roi“;  

Chúng ta cùng thử hình dung chuyện gì sẽ xảy ra trong ba trường hợp trên ? 

Mẫu số chung của cả ba trường hợp là những người bị chúng ta đe doạ sẽ làm theo những gì được yêu cầu. 

Nhưng, quan trọng hơn cả là họ sẽ làm với sự chịu đựng, khó chịu, cau có và phẫn uất.Trường hợp xấu hơn nữa là họ sẽ làm ngược lại.

Người bị gí súng có thể quật lại người có súng, nhân viên sẽ siêng năng trước mặt và dối trá sau lưng hoặc đi tìm một chỗ làm khác có ông chủ cư xử tốt hơn, còn đứa bé thì sẽ vẫn trốn đi chơi và sau đó lẻn về nhà tắm rửa tươm tất trước khi bạn kịp phát hiện ra nó đã không nghe lời. Thay vì cưỡng bức người khác phải làm theo ý mình, cách đơn giản hơn có thể khiến người khác làm bất cứ điều gì chính là: Hãy để họ làm điều họ muốn. 

Nhà phân tâm học lừng danh Sigmund Freud nói rằng: “Mọi hành động của con người đều xuất phát từ hai động cơ: niềm kiêu hãnh của giới tính và sự khao khát được là người quan trọng”. John Dewey, một trong những nhà triết học sâu sắc nhất của nước Mỹ lại có cách nhìn hơi khác một chút: “Động cơ thúc đẩy sâu sắc nhất trong bản chất con người là sự khao khát được thể hiện mình”.

Vậy bạn khao khát điều gì cho mình? Những đòi hỏi mãnh liệt nào đang bùng cháy trong bạn?

Hầu hết mọi người chúng ta đều mong muốn những điều sau đây:

 1.Có được sức khoẻ tốt và một cuộc sống bình an

2.Có những món ăn mình thích

3. Có giấc ngủ ngon

4. Có đầy đủ tiền bạc và tiện nghi vật chất

5. Có cuộc sống tốt đẹp ở kiếp sau

6. Được thoả mãn trong cuộc sống tình dục 

7. Con cái khoẻ mạnh, học giỏi 

8. Có cảm giác mình là người quan trọng

Hầu hết mọi ước muốn này thường được thoả mãn, chỉ trừ một điều, mà điều ấy cũng sâu sắc, cấp bách như thức ăn hay giấc ngủ nhưng lại ít khi được thoả mãn. Đó là điều mà Freud gọi là “sự khao khát được là người quan trọng” hay là “sự khao khát được thể hiện mình” mà Dewey có nhắc tới. Tổng thống Lincoln viết: “Mọi người đều thích được khen ngợi còn William James thì tin rằng:

Nguyên tắc sâu sắc nhất trong bản tính con người đó là sự thèm khát được tán thưởng”. Không phải chỉ là “mong muốn”, hay “khao khát” mà là “sự thèm khát” được tán thưởng. “Sự thèm khát” diễn tả một nỗi khao khát dai dẳng mà không được thoả mãn. Và những ai có khả năng thoả mãn được sự thèm khát này một cách chân thành thì người đó sẽ “kiểm soát” được những hành vi của người khác. Sự  khao khát được cảm thấy mình quan trọng là một trong những khác biệt chủ yếu nhất giữa con người và những sinh vật khác.

*Khi tôi còn là một cậu bé ở vùng quê Missouri, cha tôi có nuôi những con heo giống Duoroe Jersey ngộ nghĩnh thuộc nòi mặt trắng. Chúng tôi thường mang những chú heo này và những gia súc khác đến triển lãm ở hội chợ đồng quê cũng như các cuộc triển lãm gia súc khắp vùng Trung Tây. Chúng tôi luôn đứng đầu các cuộc thi với giải thưởng là những dải băng màu lam. Cha tôi thường gắn những dải băng này trên một tấm vải mỏng màu trắng. Khi bạn bè hay khách khứa đến thăm nhà, cha tôi thường mở miếng vải ra khoe. Ông cầm một đầu và tôi cầm đầu kia, rồi ông kể chi tiết với mọi người về từng giải thưởng với niềm tự hào ánh lên trong mắt. Những chú heo chẳng hề quan tâm đến các giải thưởng mà chúng đã giành được. Nhưng cha tôi thì có. Những phần thưởng này khiến ông cảm thấy mình quan trọng.

Nếu như tổ tiên chúng ta không có sự khao khát cháy bỏng là cảm thấy mình quan trọng thì sẽ không bao giờ có những nền văn minh độc đáo và loài người chúng ta ngày nay chẳng hơn gì những loài động vật khác. Chính sự khao khát được thấy mình quan trọng đã khiến một nhân viên bán tạp hoá ít học, nghèo khổ chịu khó nghiên cứu những quyển sách luật cũ kỹ mà cậu tình cờ tìm thấy dưới đáy một cái thùng đựng đồ lặt vặt được cậu mua lại với giá 50 xu. Có lẽ các bạn đã nghe nói đến tên anh chàng bán tạp hoá này rồi. Tên anh ta là Lincoln.

Và cũng chính sự khao khát cảm thấy mình quan trọng đã thúc đẩy Charles Dickens viết nên những tiểu thuyết bất hủ. Sự khao khát này cũng là động lực để Christopher Wren viết những bản giao hưởng của mình lên đá. Và chính sự khao khát ấy cũng đã giúp Rockefeller kiếm được hàng triệu đô-la mà hầu như ông chẳng cần dùng đến một đồng trong số đó!

Khi chúng ta mặc quần áo thời trang, dùng hàng hiệu, đi những chiếc xe thời thượng, dùng điện thoại di động sành điệu, kể về những đứa con thông minh, chính là lúc chúng ta thể hiện sự khao khát được tỏ ra quan trọng trước mọi người.

Tuy nhiên, nỗi khao khát này cũng có mặt trái của nó. Không ít thanh niên gia nhập các băng nhóm, tham gia những hoạt động tội phạm, sử dụng heroin vào thuốc lắc như để khẳng định mình, để được xã hội nhìn họ như những “Siêu nhân”. E. P. Mulrooney, Uỷ viên Cảnh sát New York, cho biết: Hầu hết những tội phạm trẻ tuổi đều thể hiện cái tôi rất lớn. Yêu cầu đầu tiên của chúng sau khi bị bắt giam là đòi xem những tờ báo tường thuật về chuyện của chúng như thế nào.

Chính cách mỗi người thể hiện sự quan trọng của mình nói lên rất rõ tính cách thật của họ. John D. Rockefeller tìm được cảm giác về tầm quan trọng của mình bằng cách đóng góp tiền để dựng nên một bệnh viện hiện đại ở Bắc Kinh để chữa cho hàng triệu người nghèo mà ông chưa bao giờ gặp và cũng chưa hề có ý định gặp. Dillinger thích có được cảm giác về tầm quan trọng của mình bằng cách giết người cướp của. Khi bị FBI (Cục Điều tra Liên bang Mỹ) săn đuổi, hắn ta đã lao vào một trang trại ở Minnesota và dõng dạc tuyên bố: “Ta chính là Dillinger!” với niềm tự hào không cần giấu giếm.

Thực ra, đây là một yếu tố rất “người”. Gần như ai cũng thế. Nếu không xem sự khát khao được là người quan trọng là một thuộc tính của con người thì có lẽ nhiều người sẽ kinh ngạc khi biết rằng, ngay cả những nhân vật nổi tiếng nhất, những con người được tôn vinh nhất trong lịch sử loài người cũng thế. Người ta có thể ngạc nhiên tự hỏi vì sao người vĩ đại như George Washington cũng muốn được gọi là “Đức Ngài Tổng thống Hợp Chủng quốc Hoa Kỳ”. Người ta lại thắc mắc tại sao một con người tài trí như Christopher Columbus cũng muốn có được danh hiệu “Thuỷ sư Đô đốc Đại dương và Phó vương Ấn Độ“. Và, người ta sẽ càng ngạc nhiên hơn nữa nếu biết rằng nữ hoàng Catherine vĩ đại không chịu mở bất kỳ bức thư nào nếu không có lời đề bên ngoài: “Kính gửi Nữ Hoàng Quyền uy”. …

Các nhà tỷ phú chỉ đồng ý tài trợ cho cuộc viễn chinh của thuỷ sư đô đốc Byrd đến Nam Cực năm 1928 với yêu cầu duy nhất là tên của họ phải đượcc đặt cho những dãy núi bằng ở đó. Victor Hugo không khao khát gì hơn là thành phố Paris được đổi thành tên ông. Ngay cả Shakespeare, người được mệnh danh là người vĩ đại nhất trong số những người vĩ đại, cũng muốn làm vẻ vang thêm tên tuổi của mình bằng cách xin hoàng gia ban cho một tước hiệu quý tộc.

*Đôi khi, có người tự biến mình thành tàn tật để có được sự thương hại, sự quan tâm của người khác, để cảm thấy mình quan trọng. Đệ nhất phu nhân McKinley tìm cảm giác quan trọng bằng cách bắt chồng bà, Tổng thống William McKinley của Mỹ, mỗi ngày phải tạm gác việc quốc chính một vài giờ để ở bên giường bà và ru bà ngủ. Bà nuôi dưỡng khao khát cháy bỏng được mọi người chú ý bằng cách yêu cầu ông phải ở bên bà ngay cả khi bà đi khám răng. Có lần, bà đã làm ầm ỉ khi ông “dám” để bà một mình với nha sỉ vì phải tham dự một cuộc họp quan trọng với Bộ trưởng Ngoại giao.

*Nhà văn Mary Roberts Rinehart có lần kể tôi nghe về một cô gái thông minh và mạnh khoẻ đã trở nên bệnh tật chỉ vì muốn có được cảm giác mình quan trọng. Bà Rinehart kể: “Cô ta nằm lỳ trên giường suốt 10 năm ròng để người mẹ già phải vất vả lên xuống ba tầng lầu phục dịch cô mỗi ngày. Một hôm, người mẹ già mệt mõi đổ bệnh và sau đó qua đời. Trong vài tuần kế đó, cô ta mới ốm liệt giường thực sự. Nhưng rồi cô ta nhanh chóng hồi phục và bắt đầu cuộc sống khoẻ mạnh bình thường như chưa bao giờ ngã bệnh”.

Thậm chí, người ta có thể hoá điên để tìm trong cơn điên cái cảm giác là người quan trọng, điều mà họ không thể có được trong thế giới trần trụi này. Không ít người mải mê “chiến đấu” trong các trò chơi vi tính để biến mình thành anh hùng hảo hán. Trong khi ngoài đời thực họ chỉ là những con người bình thường, không vai vế, không địa vị xã hội.

*Một vị bác sĩ trưởng khoa thần kinh của một bệnh viên tâm thần uy tín nhất nước Mỹ quả quyết rằng nhiều bệnh nhân đã tìm thấy trong thế giới điên rồ cái cảm giác trở thành một nhân vật quan trọng mà họ không thể có được trong đời thực. Ông kể cho tôi nghe câu chuyện sau: “Gần đây, tôi có một nữ bệnh nhân gặp bi kịch gia đình. Cô ấy muốn được quan tâm, muốn được an ủi, yêu thương. Cô muốn có con cái và có uy tín xã hội, nhưng cuộc sống thực tế đã chà đạp lên tất cả những ước muốn của cô. Chồng cô không yêu cô. Anh ta thậm chí không chịu ngồi ăn cùng cô mà bắt cô phải phục vụ bữa ăn cho anh ta trong một căn phòng trên gác. Cô không có con, cũng không có địa vị xã hội gì cả. Kết quả là cô bị bệnh tâm thần. Trong tưởng tượng của cô, cô thấy mình đã ly dị chồng, trở lại là một con người tự do. Rồi sau đó, cô lại nghĩ rằng mình đã lấy được một người thuộc dòng dõi quý tộc Anh và nhấn mạnh việc mình được gọi là “Phu nhân Smith”. Hơn thế nữa, cô còn hình dung mỗi tối cô có thêm một đứa con. Mỗi lần tôi đến thăm, cô đều nói: “Thưa bác sĩ, tối qua tôi vừa sinh con”.

Cuộc sống đã đẩy mọi con tàu mơ ước của cô va vào những tảng đá sắc cạnh của thực tế. Nhưng tại những hòn đảo tràn ngập ánh nắng của trí tưởng tượng điên rồ, con tàu mơ ước ấy đã cập bến với cánh buồm phấp phới hoan ca trong gió. Vị bác sĩ khẳng định với tôi: “Nếu như chỉ cần giơ tay ra là có thể chữa lành căn bệnh cho cô ấy, tôi cũng sẽ không làm. Sống như thế này cô ấy hạnh phúc hơn nhiều”.

Nếu một vài người khao khát cảm giác được trở nên quan trọng đến đỗi hoá điên để có được cảm giác ấy thì bạn hãy hình dung xem, bạn và tôi sẽ đạt được phép mầu gì nếu ta có được điều đó mà không cần phải đến miền điên rồ của trí tưởng tượng?

*Một trong những người đầu tiên ở Mỹ được trả lương trên một triệu đô-la mỗi năm là Charles Schwab (thời mà nước Mỹ chưa có thuế thu nhập cá nhân và một người được xem là giàu có khi mỗi tuần kiếm được 50 đô-la). Ông đã được Andrew Carnegie bổ nhiệm vào chức chủ tịch đầu tiên của Tập đoàn Thép Hoa Kỳ vào năm 1921 khi chỉ mới ba mươi tám tuổi. Vì sao Andrew Carnegie đồng ý trả một triệu đô-la mỗi năm, tức gần 30 ngàn đô-la mỗi ngày cho Charles Schwab? Phải chăng vì Charles Schwab là một thiên tài? Hay vì ông có kiến thức về thép hơn những người khác?

Hoàn toàn không. Chính Charles Schwab bảo tôi rằng, nhiều người làm việc cho ông có kiến thức về chế biến thép hơn hẳn ông. Lý do Schwab được trả lương cao như thế là vì ông có khả năng thu phục lòng người. Ông chia sẻ, bí quyết của ông chính là “khả năng tạo niềm hưng phấn ở những người cùng làm việc, phát huy những ưu điểm mạnh nhất ở một con người bằng cách nhìn nhận, tán thưởng và khuyến khích họ”.

Không có cách nào giết chết ước mơ và nỗ lực phấn đấu của con người bằng thái độ và những lời chỉ trích của cấp trên. Tôi không bao giờ chỉ trích một ai. Tôi tin tưởng vào việc tạo ra động lực cho mọi người làm việc. Điều này làm cho tôi luôn mong muốn khen ngợi người khác và không thích làm tổn thương thêm những lỗi lầm của họ. Nếu tôi thích thú một điều gì đó, tôi sẽ luôn động viên, khuyến khích bằng tất cả sự chân thành và họ hưởng ứng nhiệt tình nhất của mình.

Đó là những gì Schwab đã làm. Vậy những người tầm thường ứng xử ra sao? Họ làm ngược lại hoàn toàn. Nếu họ  không thích điều gì, họ sẽ quát mắng nhân viên; còn nếu họ thích, họ sẽ chẳng nói gì. Như một câu nói xưa: “Làm tốt đến đâu, không một lời khen; sai lầm một lần, nhắc nhở suốt đời.”

Schwab chia sẻ: “Trong suốt cuộc đời mình, tôi chưa từng gặp người nào làm tốt công việc của mình nếu không có sự ủng hộ của người khác”.

Andrew Carnegie cũng vậy. Và đó là một trong những lý do làm nên thành công phi thường của “ông vua” thép. Andrew Carnegie khen ngợi những người hợp tác với mình lúc công khai, lúc kín đáo. Thậm chí, ngay cả trên tấm bia mộ của mình, ông còn khen tặng tất cả những người đã từng làm việc cho ông: “Đây là nơi yên nghỉ của một người biết cách tập hợp những người tài giỏi hơn mình”.

Sự khen ngợi, cảm kích thành thực là một trong những bí quyết thành công đầu tiên của John D. Rockefeller trong ứng xử với mọi người. Khi nhân viên của ông là Edward Bedford gây thiệt hại một triệu đô-la trong một vụ mua bán ở Nam Mỹ, thay vì chỉ trích, John D. Rockefeller lại tán thưởng Bedford vì đã cứu được 60% số tiền Rockefeller đã đầu tư. Rockerfeller làm như vậy vì biết rằng Edward đã cố gắng hết sức. Ông nói: “Điều đó thật tuyệt. Chúng ta không phải lúc nào cũng làm tốt được như vậy.”

Trong số các mẫu báo tôi cắt để lại, có một câu chuyện vui mà tôi biết là không có thực nhưng nó lại minh hoạ cho một sự thật. Tôi sẽ kể lại cho các bạn nghe: Lần nọ, sau một ngày làm việc cực nhọc, vợ một người nông dân đã quẳng trước mặt những người đàn ông trong gia đình bà một đống cỏ khô thay vì dọn bữa ăn tối như mọi khi. Khi họ tức tối hỏi bà có điên hay không, bà đáp: “Tôi đã nấu ăn cho các người suốt 20 năm nay và trong suốt thời gian đó tôi chưa hề nghe ai cám ơn một câu hay nói với tôi rằng các người không biết ăn cỏ khô”. Một công trình nghiên cứu cách đây vài năm về việc những người vợ bỏ nhà ra đi cho thấy nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này chính là do “thiếu sự nhìn nhận và trân trọng”. Và tôi chắc chắn rằng nếu có một công trình nghiên cứu về lý do những người chồng bỏ nhà đi thì cũng thu được một kết quả tương tự. Chúng ta thường cho rằng việc vợ hay chồng mình ở bên cạnh là lẽ đương nhiên nên rất hiếm khi dành cho họ một lời cám ơn hay sự trân trọng.

*Một học viên trong lớp của chúng tôi kể rằng vợ anh và một nhóm phụ nữ khác trong nhà thờ cùng tham gia vào một chương trình tự hoàn thiện bản thân. Chị đề nghị anh giúp bằng cách liệt kê sáu điều mà anh cho là chị có thể thay đổi để trở thành một người vợ tốt hơn. Anh ấy kể lại với lớp học như sau: “Tôi ngạc nhiên trước một yêu cầu như vậy. Thú thực, tôi có thể dễ dàng liệt kê sáu điều tôi muốn cô ấy thay đổi. Và, tất nhiên là cô ấy cũng có thể liệt kê một ngàn chuyện cô ấy muốn tôi thay đổi nhưng tôi đã không làm thế. Tôi bảo: “Cho anh suy nghĩ và sáng mai anh sẽ trả lời”. Sáng hôm sau, tôi dậy rất sớm, tìm mua tặng vợ sáu bông hồng với một tấm thiệp ghi: “Anh không thể nghĩ ra sáu điều mà anh muốn em thay đổi. Anh yêu em như chính em bây giờ!”. Chiều hôm đó, khi về nhà, tôi được vợ chào đón bằng những giọt nước mắt đầy xúc động. Không cần phải nói, tôi vô cùng vui sướng vì đã không phê phán cô ấy như yêu cầu. Chủ nhật sau đó ở nhà thờ, sau khi vợ tôi báo cáo lại kết quả của công việc được giao, nhiều phụ nữ cùng học với cô ấy đã đến gặp tôi và nói: “Từ trước đến nay chúng tôi chưa bao giờ nghe thấy một cử chỉ nào lịch thiệp, chu đáo và ngọt ngào đến như vậy”. Lúc đó tôi mới thật sự hiểu được sức mạnh của sự trân trọng và lòng biết ơn”.

*Tôi đã có lần tập theo phong trào nhịn ăn và đã thử sống sáu ngày sáu đêm mà không ăn gì. Thực ra cũng không khó lắm. Cuối ngày thứ sáu, tôi cũng không đói hơn cuối ngày thứ hai. Tuy nhiên, nếu chúng ta để gia đình hay nhân viên của mình nhịn đói sáu ngày thì lại là một lỗi lầm lớn. Thế mà chúng ta lại để gia đình thân yêu của mình, những nhân viên cần mẫn và tận tuỵ của mình phải nhịn đến sáu tuần hay thậm chí đến sáu mươi năm mà không có đến một lời tán thưởng thật lòng. Chúng ta không chịu nhớ rằng họ đang khao khát đến cháy lòng một lời khen ngợi của chúng ta, chẳng kém gì một người mong có được một bữa ăn ngon lành khi đang đói cồn cào.

Alfred Lunt, một trong những diễn viên xuất sắc nhất mọi thời đại, người đóng vai chính trong vở kịch Reunion in Vienna, đã nói: “Điều tôi cần hơn cả cho cuộc sống của mình là nuôi dưỡng sự trân trọng đối với bản thân mình”.

Chúng ta nuôi dưỡng phần thể chất của con cái, quan tâm đến cuộc sống vật chất của nhân viên mình nhưng lại rất ít khi nuôi dưỡng hay truyền cho họ sự tự trân trọng những giá trị bản thân. Chúng ta có thể cung cấp cho họ những thức ăn ngon nhưng lại thường quên tặng họ những lời khen ngợi thật lòng mà họ sẽ nhớ mãi như nhớ những giai điệu êm ái tuyệt vời nhất.

*Paul Harvey, trong một buổi phát thanh của mình, đã kể một câu chuyện minh chứng rằng việc khen ngợi, cảm kích thành thật có thể thay đổi cuộc đời một con người như thế nào: “Cách đây nhiều năm có một cô giáo ở Detroit nhờ Stevie Morris giúp cô tìm một con chuột trong lớp học. Cô đánh giá rất cao tài năng của Stevie và khen Stevie rằng Thượng Đế đã tặng cho Stevie một đôi tai thính để bù lại sự khiếm thị.Cô không ngờ rằng đây thực sự là lần đầu tiên Stevie được người khác trân trọng, đánh giá cao về khả năng của đôi tai mình và quên đi sự khiếm khuyết trước giờ. Cho đến bây giờ, Stevie thừa nhận rằng sự trân trọng ngày ấy đã tạo ra một bước ngoặt trong cuộc đời ông. Từ khi được đề cao và phát hiện ra năng khiếu nghe của mình, ông đã nỗ lực phát huy khả năng cho đến khi trở thành một trong những ca sĩ nhạc pop tuyệt vời nhất đồng thời là nhạc sĩ sáng tác những ca khúc hay nhất trong thập niên 70, dưới cái tên huyền thoại Stevie Wonder”.

Khi đọc những câu chuyện này, có thể bạn sẽ nói: “Trời! Toàn là những lời xu nịnh vô nghĩa! Tôi cũng đã từng thử như vậy. Nhưng cách này thực sự không ổn, đặc biệt với những người nhạy cảm và căm ghét thói giả dối, xu nịnh!

Dĩ nhiên, xu nịnh ít khi thành công với những người hiểu biết và có khả năng phân biệt sâu sắc giữa nịnh hót với lời khen ngợi và cám ơn chân thành. Bởi vì tâng bóc chỉ là lời lẽ hời hợt, ích kỷ, hoàn toàn không trung thực, và chắc chắn thất bại. Tuy vậy, cũng có một số người khao khát được tán thưởng đến mức họ nuốt bất kỳ lời khen nào như một người đói ăn cả rau lẫn con sâu bám trong đó. Tâng bóc giả tạo cũng như tiền giả, nó sẽ gây khó khăn khi chúng ta chuyển nó cho một người nào khác.

Sự khác nhau giữa cảm kích và tâng bóc nằm ở đâu? Rất đơn giản! Điều này là thành thực còn điều kia là không thành thực. Một điều xuất phát từ tấm lòng, một điều chỉ từ cửa miệng. Một điều là vô tư, chân thành, một điều là ích kỹ, có mục đích. Một điều được mọi người cảm nhận, xúc động, một điều thì bị mọi người lên án.

Gần đây tôi được nhìn thấy bức tượng bán thân của một anh hùng Mexico là Tướng Alvaro Obregon tại lâu đài hapultepec ở Mexico. Dưới tượng khắc những lời lẽ đầy triết lý của Obregon: “Đừng sợ những kẻ thù tấn công anh mà hãy sợ những người bạn nịnh hót anh”.

Đúng! Tôi hoàn toàn không khuyến khích sự xu nịnh! Tôi đang nói đến một cách sống mới. Cho phép tôi nhắc lại: Một cách sống mới.

*Vua George V có một loạt sáu câu châm ngôn được viết trên những bức tường trong phòng học của ông tại cung điện Buckingham. Một trong những châm ngôn này viết: “Hãy ngăn tôi đừng trao và nhận những lời khen ngợi rẻ tiền”. Mọi lời nịnh hót đều là lời khen ngợi rẻ tiền. Tôi rất tâm đắc với một định nghĩa cho rằng: “Nịnh hót là nói với một người khác chính điều mà anh ta thích nghĩ về mình”.

Khi đầu óc không vướng bận, chúng ta thường dành gần 95% thời gian để nghĩ về mình. Hãy ngưng việc nghĩ về bản thân trong chóc lát và bắt đầu nghĩ về điều tốt của những người xung quanh. Khi ấy, tôi và bạn sẽ thấy mình không cần dùng đến những lời nịnh hót nữa. Đó chỉ là một thứ rẻ tiền và giả dối.

Một trong những giá trị bị chúng ta lãng quên nhiều nhất trong cuộc sống hàng ngày chính là sự cảm kích, trân trọng. Chẳng biết vì sao chúng ta cứ hay quên khen ngợi con cái mình khi nó đem về nhà tờ giấy khen hay quyển sổ liên lạc ghi thành tích học tập tốt trong tháng qua. Chúng ta quên khuyến khích con cái khi lần đầu tiên tự chúng làm được một cái bánh hay tự giác dọn dẹp gọn gàng góc học tập của mình… Không có điều gì làm con trẻ vui sướng hơn là sự quan tâm và khen ngợi của bố mẹ. Mỗi khi thưởng thức một món ngon ở nhà hàng, tôi luôn tự dặn mình nhớ nói với người đầu bếp rằng món ăn ấy rất tuyệt. 

Khi gặp một người bán hàng mệt mỏi mà vẫn biểu lộ sự ân cần với khách thì tôi cũng luôn nhắc nhở mình hãy nhớ cám ơn anh ta vì sự phục vụ tận tâm, nhiệt tình.

Tất cả diễn viên, ca sĩ và diễn giả trên thế giới đều nản lòng nếu không nhận được những tràng vỗ tay khen ngợi nào từ khán thính giả. Nếu điều này đúng đối với những người biểu diễn chuyên nghiệp thì nó còn đúng gắp nhiều lần đối với những người làm việc trong các cơ quan, cửa hàng, nhà máy, trong gia đình và bạn bè chúng ta.

Trong tất cả quan hệ giữa người với người, chúng ta hãy luôn nhớ rằng mọi người hợp tác với mình cũng đều là những con người và họ đều khao khát nhận được sự công nhận, đánh giá cao và trân trọng vì những gì họ đã làm

Hãy thắp lên ngọn lửa của sự biết ơn chân thành đối với mọi người trong cuộc sống. 

Sự lan toả của ngọn lửa này sẽ mang lại cho bạn những giá  trị vượt thời gian. Chỉ trích hay xúc phạm người khác không bao giờ làm thức tỉnh thay đổi được họ trở nên tốt hơn, vậy nên bạn đừng bao giờ làm thế! Có một câu châm ngôn cổ rất hay mà tôi đã dán lên tấm gương soi để ngày nào cũng có thể nhìn thấy: “Tôi chỉ sống trên thế gian này có một lần, vì vậy nếu có thể làm bất cứ điều tốt đẹp nào hay thể hiện lòng nhân ái, tri ân của mình với bất kỳ ai, tôi sẽ thực hiện ngay không chậm trễ, bởi tôi biết mình sẽ không sống đến lần thứ hai, hoặc sợ mình không còn cơ hội”.

Triết gia Emerson nói: “Mọi người tôi gặp đều có những điểm hay hơn tôi và tôi luôn học được điều gì đó từ họ”. Mong rằng điều này cũng đúng với bạn và tôi. Chúng ta hãy ngừng nghĩ đến những thành tích, mong muốn của mình và thử tìm hiểu những điểm tốt của người khác. 

Mọi người sẽ hết sức ghi nhận những lời khen ngợi của bạn và luôn có động lực để thực hiện những điều tốt đẹp tương tự trong suốt cuộc đời họ.

Biết khen ngợi và cám ơn những người xung quanh một cách chân thành chính là chiếc đũa thần tạo nên tình thân ái và nguồn động viên tinh thần to lớn. Đó là niềm vui rằng mỗi người đang được quan tâm, công nhận và yêu thương. Mỗi người được khen ngợi chân thành sẽ tự nhiên sửa đổi những tính xấu để trở nên hoàn thiện hơn.

“Động cơ thúc đẩy sâu sắc nhất trong bản chất con người là sự khao khát được thể hiện mình.” – Nhà triết học Mỹ – John Dewey

Ở cũng bâng khuâng, đi chẳng đành,

Suy Tư Tin Mừng trong tuần thứ 26 thường niên năm A 01/10/2017

(Mt 21: 28-32)

            Khi ấy Đức Giêsu nói với các thương tế và kỳ mục trong dân rằng:

“Các ông nghĩ sao: Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho.” Nó đáp: “Con không muốn đâu!” Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: “Thưa ngài, con đây!” nhưng rồi lại không đi. Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?” Họ trả lời: “Người thứ nhất.” Đức Giêsu nói với họ: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.”

& & &

 “Ở cũng bâng khuâng, đi chẳng đành,”

“đêm trời, sao cũ sáng long lanh.”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

  Mai Tá lược dịch. 

 Bâng khuâng đi chẳng đành, nên người đời có ra đi nhưng miệng mồm nào đã nói. Đêm trời sáng long lanh, nên đời người dù có hứa, nhưng chân mình rày chẳng buớc. Chẳng bước đi, dù miệng mình vẫn cứ nói. Nói và làm, trình thuật thánh sử viết hôm nay.

Trình thuật thánh Mát-thêu nay kể về dụ ngôn hai người con có những lời lẽ và lập trường thực hiện rất khác biệt. Cả hai hành xử kiểu đối nghịch. Người con đầu nói mình sẽ không làm điều cha muốn, nhưng cuối cùng vẫn thực hiện. Còn người kia, tuy nói làm nhưng lại không thực hiện lời mình nói. Tức, một người những nói và nói, nhưng không làm. Còn người kia, vẫn làm mà không cần nói. Dụ ngôn đây cho thấy: chính hành động nói nhiều hơn lời nói, ngoài cửa miệng.

Thời của Chúa, dụ ngôn được dùng như huấn dụ để khen ngợi những người hành động thiết thực hơn là nói. Bằng dụ ngôn này, Chúa bênh vực đám người bị khích bác, chê bai như đám đĩ điếm, dân thu thuế bệ rạc hơn giới thượng lưu, Pharisêu, ký lục chỉ nói và nói chứ chẳng làm gì để đổi thay con người mình. Thời của thánh Mát-thêu sau đó, dụ ngôn còn được dùng để đề cao người ngoại đạo hơn một số người Do thái cứ tự hào mình chuyên chăm đạo hạnh. Thế kỷ 20 lại dùng dụ ngôn hôm nay nhằm nâng đỡ đám người nghiện ngập dám làm sửa đổi chính mình hơn những người chỉ những nói và nói, khiến người khác bị khùng điên.

Áp dụng vào nhà Đạo, thấy dân con Đạo mình nhiều lúc có cả hai. Tức, nhiều khi ta những nói và nói, mà không làm. Có những lúc, ta vẫn làm mà chẳng nói, lấy một lời. Điều này làm ta nhớ về nhân vật trong phim dài nhiều tập có đầu đề “Cha Phó Xứ Đạo Dibley” luôn bắt đầu câu nói của ngài bằng những tiếng “Không! không! và không!” để rồi sau đó kết thúc bằng chữ “Có”. Có làm thực. Có hợp tác. Và đôi lúc nghĩ lại thấy mình từng nói “Có! có! Nhất định sẽ làm”, nhưng cuối cùng vẫn thành: Không! Không làm. Và cũng chẳng làm điều mình từng nói từng hứa, giống nhiều người trong ta.

Đi vào thực tế, giống truyện kể về cuối buổi lễ, các vị chủ tế có thói quen đứng ở cuối nhà thờ nói năng chào hỏi hết mọi người. Có lần, vị linh mục hỏi một giáo dân: tuần sau có đi lễ không đó? Rất nhiều người cứ trơn tru trả lời: “Dạ thưa cha, có chứ!” Thưa thì thưa “có”, nhưng các tuần sau đó lại khó mà thấy mặt vì nhiều lý do. Chính đó, là hiện trạng của người đi Đạo ở trời Tây, hôm nay. Hôm nay đây, có thể cũng có người lúc đầu tình thật không dám nói, nhưng sau đó suy đi nghĩ lại, vẫn cứ đến. Có người coi đây là chuyện linh mục không nên hỏi, vì ai nào dám thưa.

Nghiên cứu khảo sát hôm nay nhiều khi cho thấy: thế hệ trẻ hôm nay, và cả người cao niên cũng thế, lại cứ tính chuyện lời lãi mỗi khi được hỏi, ở nhà thờ hay ngoài ngõ, về bất cứ chuyện gì cần lấy ý kiến. Nói chung, nhiều người chỉ muốn dính dự vào các cuộc khảo sát với phỏng vấn khi biết mình chắc chắn có được lợi lộc, nếu trả lời. Tức là, họ chỉ muốn làm người dưng, trên trời rơi xuống. Chẳng muốn dính vào chuyện gì, dù thuộc vấn đề trong Đạo. Quần chúng hôm nay ra như lạc lõng ở đâu đó. Chẳng muốn ai ngó ngàng hỏi han mình điều gì, dù là ý kiến riêng tư. Kín đáo. Hoặc ép buộc. Khi xưa, ở phương Tây, các linh mục còn có thói quen đến từng nhà thăm viếng, hỏi han về cuộc sống của mỗi người. Ngày nay, làm thế tức vi phạm đời tư, rất nguy hiểm và dễ bị ra toà.

Nhiều năm về trước, mỗi khi có đề tài cần hỏi han góp ý hay tranh luận ở giáo xứ, còn có người chủ trương phóng khoáng. Bảo thủ. Hoặc trung lập. Ngày hôm nay, lại đã thấy những người như thế đi đâu mất. Hoặc, họ còn đó nhưng chẳng thiết tha gì chuyện bàn luận hay tranh đấu cho sự sống còn của Hội thánh. Nói chung, người đạo hạnh hôm nay không còn muốn dính dự vào chuyện chung của Hội thánh. Nhiều vị vẫn lành thánh, chuyên chăm chuyện lễ lạy, đạo hạnh. Nhưng không còn thiết tha chuyện tham gia nhóm hội đoàn thể có sinh hoạt tập thể, năng nổ tích cực. Mà chỉ muốn rút vào vỏ sò, sống riêng rẽ, cho khoẻ.

Nhiều người nhận ra rằng: thế giới nhà đạo họ đang sống nay khác trước rất nhiều. Khác nhiều thế giới của người phàm thực tế luôn trong sáng. Đầy dẫy thông tin. Đủ mọi chọn lựa. Nên, họ vẫn hết mình với mọi người. Nơi sở làm, ngừời người đều hăng say trách nhiệm. Vẫn cứ làm, vì chuyện chung. Nhưng trong Hội thánh, nhiều người đã bắt đầu ít nói. Không cà kê như trước. Dù, chuyện hội đoàn.

Thế nên, khi hỏi: “Anh/chị tính sao? Có định tham dự chầu Thánh Thể thứ sáu này chứ?” Câu trả lời thường là: “Không dám đâu! Tụi này bận lắm. Chẳng kiếm đâu ra giờ, để đi chầu!” Nếu hỏi: “Anh/chị tính sao? Có định tham gia biểu tình phản đối đôi ba chuyện chính phủ làm không?” Câu trả lời, chắc cũng thế. Giống như người hành tinh vừa chợt ghé bến. Không chuyện trò, cũng không trao đổi. Chẳng bước đi về nhiều phía.

Dụ ngôn hôm nay, câu Chúa hỏi cũng tựa như thế: “Các ông nghĩ sao?” Hỏi như thế, không có nghĩa Chúa yêu cầu ta bắt chước những người chỉ biết nói chứ không làm, hoặc chỉ làm chứ không nói. Chúa không có ý khen ngợi hai lớp người nói ở trên. Ngài cũng chẳng giải thích sao Ngài lại không làm thế. Hoặc, vẫn làm như thế. Ngài chẳng nói hoặc có nói, bất cứ thứ gì. Ngài cũng không đi vào chi tiết để cho biết tại sao Ngài có lập trường như vậy. Dù, lập trường đó có là bê trễ, biếng nhác. Dù, đó có là kế hoạch, hoặc cảnh tình nào đó khó đoán. Dù, đó là chuyện đáng quên đi. Hoặc, chẳng lý gì về công kia việc nọ, cần công chúng tôn trọng. Điều Ngài hỏi chỉ là: “Các ông nghĩ sao?”

Liên tưởng chuyện này, có thể ta sẽ nghĩ mình đang đi vào loại hình nào đó của Hội thánh, vào thời buổi rất khác trong lịch sử. Một Hội thánh từng đòi rất ít ở dân con trong Đạo. Đòi và hỏi, về thời gian và thiện chí. Một Hội thánh không đòi những gì là ngoại lệ, nơi con người. Một thánh hội từng học hỏi cung cách biết tôn kính hết mọi người. Tôn và kính, chuyện riêng tư của dân con nhà Đạo. Học hỏi và trân trọng, việc phục vụ họ hơn việc sắp xếp để họ phục vụ Hội thánh, mà thôi.

Phục vụ dân con, còn có nghĩa: không dùng bạo động để dính dự cuộc sống đích thực của dân con. Phục vụ dân con, còn có nghĩa: tôn trọng phẩm cách tư riêng của mỗi người. Chính đó là nền tảng của việc yêu thương lẫn nhau. Nền và tảng, của việc trở nên cộng đoàn dân con sống thân thương như thế. Nền và tảng, để dân con sống, với lập trường hăng say đi đến mà nhận lãnh Thánh Thể Tình Yêu đích thật, ngày Chúa Nhật. Đó là những người con đang sống rất khác biệt. Sống rất đẹp, ở thế giới cuộc đời, cũng rất thực. Một đời người, luôn tham gia giùm giúp rất đắc lực.

Bởi thế nên, lời Chúa ở dụ ngôn hôm nay với câu hỏi: “Các ông nghĩ sao?” sẽ là lời nhắc nhở về động thái ta phải có trong đời, với người đời. Dù, người đó có là bạn đạo hay bạn đời, cũng như thế.

Trong cảm nhận tình Ngài thương ta qua câu hỏi ấy, cũng nên ngâm lại lời thơ trên, để còn nhớ:

“Tôi cũng chưa đi hết dặm đường,

Đời dài, mới đến nửa sầu thương.

Một đêm trở bước cho lòng nghĩ,

Sao biếc rơi tàn mộng phấn hương.”

(Đinh Hùng – Đêm Khuya Trờ Bước)

Trở bước hay cất bước, để rồi đi. Đi rồi, sẽ nhớ lời Thầy dặn. Dù đời mình ra sao đi nữa, vẫn cứ bước. Cứ ra đi rao truyền lời Thầy vẫn hỏi và vẫn răn dạy. Để rồi, mọi người tin vào Thầy. Ở đây. Bây giờ.

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn – 

 Mai Tá lược dịch. 

Yêu em, vì ta ghét buồn

Chuyện Phiếm đọc trong tuần 26 thường niên năm A 01/10/2017

 “Yêu em, vì ta ghét buồn “
Yêu em, vì ta ghét hờn
Yêu em, vì ta khinh khi dối gian
Yêu em, vì ta chán người
Yêu em, vì ta chán đời
Yêu em, vì ta không tin ở trời.”

(Lê Hựu Hà – Yêu Em)

(Rôma 1: 25-27)

 Trần Ngọc Mười Hai

Bạn à. Nếu bảo rằng: “Yêu em, vì ta khinh khi dối gian” thì bọn mình đây nghe còn được. Chứ, bạn lại hát những câu như: “Yêu Em, vì ta chán đời.” hoặc:“Yêu Em, vì ta không tin ở trời!”, thì chuyện này cũng nên bàn lại, dù bạn và tôi đôi lúc hiểu chữ “trời” theo nhiều nghĩa.

Ý-nghĩa yêu đương ở nhạc-bản “Yêu Em” nếu dẫn bạn và tôi đi vào vấn-đề niềm tin, thì hết biết! Tin gì đây? Tin vào những ca-từ được bạn hát tiếp không?  Có hay không, thì bạn và tôi hãy cứ nghe tiếp, rồi mình tính:  

 “Ta không thèm mái tóc huyền.
Ta không thèm đôi mắt đẹp.
Ta không màng lời khen chê thế gian.
Ta không cần ai hiểu mình.
Khi ta ngợi ca ái tình.
Khi ta dìu em đi trong ý thơ.

Em ơi, anh muốn nói rằng.
Sao em còn mãi hững hờ.
Khi anh trọn lòng yêu em thiết tha.
Xin em đừng luôn dối lòng.
Khi tim làm đôi má hồng.
Cho ta được gần nhau trong giấc mộng… “

(Lê Hựu Hà – Yêu Em)

 À thì ra, bạn có nói chán ghét đủ mọi thứ, cuối cùng rồi cũng lại nói lên điều mà ca sĩ cứ muốn hát, đó là: “Anh trọn lòng yêu em thiết tha”, “Cho ta được gần nhau trong giấc mộng”, vân vân và vân vân.

À thì ra, “Không màng lời khen chê thế gian” và “Gần nhau trong giấc mộng”,lại là lời nói chân-phương/thành-thật vào đôi lúc? Điều này, lại khiến tôi hỏi rằng: phải chăng đó là ý thơ và điệu nhạc, chỉ mỗi thế?

Thế nghĩa là, cuộc đời con người, có nhiều thứ khiến bạn và tôi nên đặt lại vấn đề, rồi hãy phán hoặc bảo. Có lẽ, cách hay nhất trong mọi sự, là: đừng nên tin thứ gì mà chữ nghĩa cứ mù mờ, hoặc chỉ là những tư-duy trừu-tượng, chẳng đi vào lòng người được bao lăm.

Thế có nghĩa, là: mọi sự trong đời, đều có cái giá của nó. Có cái rẻ mạt, cái khác lại có giá trên trời/dưới biển thì sao đây? Chuyện đời, nhiều thứ cũng “có giá” lắm chứ chẳng chơi? Tuy nhiên, đôi lúc ta không thể dùng tiền/bạc, châu báu để mua chuộc được. Ấy, thứ gì mà ghê thế?

Trước khi trả lời câu này, để nghị bạn và tôi, ta nghe thử “câu chuyện làm quà” ở dưới, hạ hồi sẽ rõ.

Truyện kể hôm nay, có đầu đề là: “Chuộc lại lương-tâm”, đơn giản chỉ như sau:

 Cách đây hơn hai chục năm, hồi tôi học phổ thông cấp III, đồng hồ đeo tay còn là thứ xa xỉ phẩm khan hiếm. Một hôm, thằng bạn cùng bàn sắm được một chiếc đồng hồ mới toanh; nó đeo đồng hồ rồi xắn tay áo lên trông thật oách làm sao, khiến cả lớp phục lăn. Chỉ vài hôm sau đã thấy mấy thằng khác cùng lớp đua nhau sắm đồng hồ đeo tay. Ngay cả trong giấc mơ tôi cũng ao ước được như chúng nó: sắm một chiếc đồng hồ để mọi người trông thấy mà thèm.

 Hôm chủ nhật, tôi về nhà chơi. Lấy hết lòng can đảm, tôi nói với mẹ: 

-Mẹ ơi, con muốn mua một cái đồng hồ đeo tay, mẹ ạ! 

 Mẹ tôi trả lời: 

-Con này, nhà mình đến cháo cũng sắp sửa chẳng có mà ăn nữa, lấy đâu ra tiền để sắm đồng hồ cho con? Nghe mẹ nói thế, tôi rất thất vọng, vội quáng quàng húp hai bát cháo, rồi chuẩn bị về trường. Bỗng dưng bố tôi hỏi: 

-Con cần đồng hồ làm gì thế hả?

 Câu hỏi của bố nhen lên một tia hy-vọng trong lòng tôi. Rất nhanh trí, tôi bịa ra một câu chuyện: 

-Hồi này, lớp con đang học ngày học đêm, để chuẩn bị thi đại học, vì là lớp cuối nên bây giờ chúng con lên lớp không theo thời khoá biểu của trường nữa, cho nên ai cũng phải có đồng hồ để biết giờ lên lớp. 

 Nói xong, tôi nôn nóng chờ bố trả lời đồng ý; thế nhưng bố tôi chỉ ngồi xổm ngoài cửa chẳng nói câu nào. Trở về ký túc xá nhà trường, tôi chẳng còn dám nằm mơ đến chuyện sắm đồng hồ nữa.

 Thế nhưng, chỉ mấy hôm sau, bất chợt mẹ tôi đến trường, rút từ túi áo ra một túi vải hoa con tý rồi mở túi lấy ra một chiếc đồng hồ mác Thượng Hải mới toanh sáng loáng. Tôi đón lấy nó, đeo ngay vào cổ tay, trong lòng trào lên một cảm giác lâng lâng như bay lên trời. Rồi tôi xắn tay áo lên với ý định để mọi người trông thấy chiếc đồng hồ của mình.

 Thấy thế, mẹ tôi liền kéo tay áo tôi xuống rồi bảo: 

-Con này, đồng hồ là thứ quý giá, phải lấy tay áo che đi để giữ cho nó khỏi bị sây xướt chứ! Con nhớ là tuyệt đối không được làm hỏng, lại càng không được đánh mất nó đấy! Thôi, mẹ về đây.”

 Tôi tiễn mẹ ra cổng trường rồi hỏi: 

-Sao nhà mình bỗng dưng lại có tiền thế hở mẹ?” 

Mẹ tôi trả lời: 

-Bố mày bán máu lấy tiền đấy!”

 Bố đi bán máu để kiếm tiền mua đồng hồ cho tôi? Trời ơi ! Đầu óc tôi quay cuồng, ngực đau nhói. Tiễn mẹ về xong, tôi tháo chiếc đồng hồ ra, bọc kỹ mấy lớp vải như cũ cất vào cái túi con tý mẹ đưa.

 Ngay hôm ấy, tôi hỏi thăm các bạn xem có ai cần mua đồng hồ mới không. Các bạn hỏi tôi tại sao có đồng hồ mà lại không đeo, tôi bảo tôi không thích. Họ chẳng tin, cho rằng chắc hẳn đồng hồ của tôi có trục trặc gì đấy, vì thế chẳng ai muốn mua nó.

 Cuối cùng, tôi đành phải nhờ thầy chủ-nhiệm lớp giúp tôi tìm người mua đồng hồ và thành thật kể lại đầu đuôi câu chuyện cho thầy nghe, vừa kể vừa nước mắt lưng tròng. Thầy chủ nhiệm nghe xong bèn vỗ vai tôi và nói: 

-Đừng buồn, em ạ. May quá, thầy đang cần mua một chiếc đồng hồ đây, em để lại nó cho thầy nhé! 

 Thầy trả tôi nguyên giá, còn tôi thì dùng số tiền đó nộp hai tháng tiền ăn ở nhà ăn tập thể. Có điều khó hiểu là sau đó chưa bao giờ tôi thấy thầy chủ-nhiệm đeo đồng hồ cả. Mỗi lần tôi hỏi tại sao thì thầy chỉ cười không nói gì.

 Về sau tôi thi đỗ đại học rồi ra trường và làm việc ở một tỉnh lỵ xa quê. Câu chuyện chiếc đồng hồ kia cứ mãi mãi đeo bám ám ảnh tôi.

 Trong dịp về quê thăm gia đình, tôi tìm đến nhà thầy chủ-nhiệm cũ và hỏi chuyện về chiếc đồng hồ ấy. Thầy tôi bây giờ đã già, tóc bạc hết cả.

Thầy bảo: 

-Chiếc đồng hồ vẫn còn đây. 

 Nói rồi, thầy mở tủ lấy ra chiếc túi vải hoa nhỏ xíu năm nào mẹ tôi đưa cho tôi. Thầy mở túi, giở từng lớp vải bọc, cuối cùng chiếc đồng hồ hiện ra, còn mới nguyên!

Tôi kinh ngạc hỏi: 

-Thưa thầy, tại sao thầy không đeo nó thế ạ? 

Thầy chủ-nhiệm từ-tốn trả lời: 

-Thầy đợi em đến chuộc lại nó đấy! 

Tôi hỏi tiếp: 

-Thưa thầy, vì sao thầy biết em sẽ trở lại xin chuộc chiếc đồng hồ ạ? 

Thầy bảo: 

-Bởi vì nó không đơn-giản chỉ là chiếc đồng hồ, mà điều quan-trọng hơn, nó là lương tâm của con người.” (Nguyên Hải dịch từ “Kim Nhật Nữ báo” 24.2.2004)

 “Điều quan-trọng hơn, nó là lương-tâm con người!”, lời thầy chủ-nhiệm nói như đinh đóng cột vào đầu học trò xưa. Thì ra, là như thế! Như thế, tức như thể bảo: đời người không có thứ gì quí giá hơn lương-tâm!

Tuy nhiên, đó là chuyện xưa, cũ rích cũ rang, không còn bắt mắt người đọc để họ đầm mình trong tư-duy nữa. Ngày nay, chừng như mọi người lại đã quên món hàng độc chiêu/hiếm quí của ai đó rồi sao? 

Thế có nghĩa, là: con người ngày nay mải lo-toan nhiều thứ, không còn để ý đến chuyện lương-tâm/chức-năng hoặc chuyện hư hư/thực thực, đáng tin cậy nữa. Cũng thế, ngày hôm nay, lại thấy xảy ra quá nhiều “tin vịt cồ” khiến người đọc và người nghe không còn biết tin thứ nào thực, cái  nào hư, nữa rồi.

Và ngày hôm nay, chừng như mọi người chỉ để ý đến những gì vui nhộn, nổi cộm độ dăm phút để cười rộ, rồi thôi. Chẳng còn ai thiết tha nghiên-cứu xem chuyện thực-hư thế nào? Có đáng tin không? Ngày nay, nhiều chuyện có thực lại trở-thành hư ảo, và chuyện hư-ảo lại đã trở-thành sự thực, khiến người nghe đã thấy buồn.

Chuyện thực/hư hoặc giả-mạo tin-tức thứ thiệt, lại đã tạo nhiều vấn đề rất ư là hư và không thực tí nào. Hệt như biện-luận của tác-giả nọ khi ông đặt bút viết lên giấy, những điều như sau:

“Vừa qua, các trang Facebook tiếp tục phá vỡ thành-tích của “Tin vịt”. Truyền-thông xã hội nọ mang tên “Hà Mã” có lời bình ngắn gọn rằng: Tin vịt hay tin lệch lạc, lâu nay gây hại cho cộng đồng chúng ta cũng rất nhiều. Nó làm cho thế- giới trong đó ta sống mất đi nhiều thông-tin và hao mòn tình-trạng tin-tưởng lẫn nhau.

 Ít tháng gần đây, người sáng lập ra Facebook là Mark Zuckerberg đã tỏ ra khá lạc-quan về tình-trạng thế-giới nay có thể đối đầu với các tin lệch lạc, được rồi. Ít lâu sau kỳ bầu tổng thống Mỹ hồi cuối năm 2016 đã đưa ông Donald Trump lên làm tổng thống Mỹ, Zuckerberg có nói: “Về nội-dung tin/bài xuất-hiện trên Facebook, hơn 99% những gì dân chúng thấy được, đều có thật. Chỉ một số rất ít là “tin vịt hoặc lệch-lạc” hoặc chơi khăm người đọc, thôi…

 Nói chung thì, dường như các trò chơi khăm đã thay đổi kết-quả của cuộc bầu bán nói trên, theo chiều-hướng này/khác thế thôi. Nhưng, phần đông dân-chúng vẫn cho rằng “tin lệch lạc” đã tạo ảnh-hưởng rất nhiều lên cuộc bầu cử tổng thống ấy. Vậy thì, đâu là bằng cớ của sự việc như thế?

 Theo ông, có cả tảng chứng cớ cho rằng “tin lệch  lạc” đã xuất-hiện trong cuộc vận-động tranh-cử tổng thống Mỹ, điều này mọi người đều thấy rõ…

 Với báo chí, đây chính là cơn ác-mộng cho mọi người. Điều sai chậy/lệch lạc, một khi đã xuất-hiện trên facebook là nó xoáy tít vào tận trang mạng và từ đó cả trăm ngàn người lại cứ vào đó để đọc tin. Thế nhưng, vấn-đề đích-thực là hỏi rằng: tin lệch lạc, có thể thay đổi đầu óc và phiếu bầu của ai không? Và, lạ thay, nó bị đủ loại quảng-cáo ở truyền-thông khuynh-loát, nên ít khi ta có đủ chứng cớ biện minh cho các sự-kiện này…

 Điều rõ nhất, là: ngày nay các vị ưu-tú trong xã-hội đều khổ sở vì thấy mình đánh mất đi thứ đòn bẩy quyền-lực. Với họ, sự ngu-dốt và tình-trạng láo-khoét đã bị tin lệch tràn lan đe-doạ đặc-trưng dân-chủ và uy-lực truyền-thông cách hợp-pháp. Với họ, sự việc này trông giống như Cách-mạng Pháp khi xưa lấn tràn mọi địa hạt: bọn dân-ngu-khu-đen trên mạng đang làm mưa làm gió mọi cửa ải bằng giáo mác/gậy gộc, cùng biện-chứng-pháp khó hiểu và áo quần thốc thếch, bẩn thỉu.

 Đây không là vấn-đề tài-chánh hoặc kỹ-thuật gì cho cam, nhưng đúng ra, báo/đài và các loa phát thanh như: các tờ New York Times, Washington Post và CNN là thủ phạm cho mọi người lên án. Nay, ta sống trong xã-hội hậu-chân-lý ở đó các tin lệch-lạc đang nở rộ; và truyền-thông đại chúng lại đã soi mòn/huỷ-hoại ý-niệm “chân-lý”, cũng rất nhiều.

 Điều này có gốc gác rất dài về tính-cách trí-thức của chúng, nhưng hồi thập niên 1980s chủ-thuyết hậu-hiện-đại lại đã trồi lên tại một số đại-học ở Anh, Hoa Kỳ và Úc. Ý-tưởng chủ-lực về cái-gọi-là “PoMo” cho thấy chẳng bao giờ ta có được sự thật nhất-định và không thay-đổi, bao giờ hết. Tất cả chỉ là quan-điểm và/hoặc tầm nhìn khác nhau đứng trước hàng loạt các gương soi, mà thôi.

 Tính yếm-thế của ngành truyền-thông đại-chúng đã nhiễm độc giới trí-thức và đề-suất thái-độ hoài-nghi cả các nền khoa học khác nhau, ngờ-vực mọi quyền-bính và bày tỏ tính thù-địch chống lại truyền-thống vững chắc như Giáo-hội và gia đình, nữa.          

 Tất cả sự việc này được giới truyền-thông cổ-vũ như thứ tự-do cơ-bản. Nếu trên đời này không còn sự thật, thì mọi người buộc phải phải tái-tạo lại xã-hội và có khi cấu tạo nên cơ-thể của ta nữa, cũng không chừng. Cấu-tạo lại theo lý-thuyết theo khả-năng tưởng-tượng của mọi người. (X. Michael Cook, Is fake news a fake problem? MercatorNet 29/8/2017)

Nói cho cùng, thời nay mọi người lại thấy xảy đến những tin lệch-lạc đầy tính giả mạo. Người giả mạo đã nhân-danh thứ gì đó để trốn chạy lương-tâm. Bởi, chỉ có lương-tâm mới là thứ/là sự mà con người không thể giả mạo, được.

Không tin ư? Vậy thì, mời bạn và mời tôi, ta nghe thêm lời vàng ngọc của đấng thánh hiền từng khuyên bảo rằng:

“Thiên Chúa đã để mặc họ buông theo dục vọng

mà làm những điều ô uế,

khiến thân thể họ ra hư hèn.

Thay vì Thiên Chúa thật,

họ đã theo những thần giả;

họ đã tôn thờ những loài thọ tạo,

thay vì chính Đấng Tạo Hoá.” 

Bởi thế nên, Thiên Chúa đã để mặc họ

buông theo dục tình đồi bại…

Như vậy là họ chuốc vào thân

các hình phạt xứng với sự lầm lạc của mình.

(Rôma 1: 25-27)

Về sử-dụng tin lệch-lạc này/khác, có lần Đức Giáo Hoàng Phanxicô từng bộc-bạch như sau:

“Theo tôi, truyền-thông đại-chúng phải có động-thái đúng-đắn, trong sáng chứ đừng rơi –dù không có ý xúc-phạm một ai- vào bệnh ám-ảnh cốt để bao che tai tiếng, phủ lấp những sự/việc xấu xa/tồi-tệ dù đôi lúc chúng có thực. Và một khi con người có khuynh-hướng mắc phải tâm-trạng bị ám-ảnh như thế rồi, đều có thể gây rất nhiều tai-hại.

 Sử-dụng phương-tiện trao-đổi có mục đích dễ bị cám dỗ vu khống hoặc phỉ báng người khác, rồi từ đó vấy bẩn họ thường xảy ra rất nhiều ở chính-trường. Họ sử-dụng cung-cách ấy là để bôi nhọ phe đối lập…

 Không ai có quyền được làm thế. Làm thế tức có tội. Làm thế rất dễ gây tổn-hại đến người khác. Thông tin lệch-lạc là cung-cách được giới truyền-thông đại-chúng sử-dụng đại trà là bởi nó điều-khiển dư-luận theo một chiều, một ý-hướng và bỏ quên phần khác của sự thật…” (X. Nhật báo Sydney Morning Herald ngày 8/12/2016 qua bản tin Pope Francis compares consuming fake news to eating excrement”)

Để giải quyết vấn đề sử-dụng phương-tiện sai trái, lệch lạc trong thông-tin đây đó, có lẽ cũng không nên đưa ra nguyên tắc hoặc trường phái này/khác làm chỉ-tiêu cho mọi người noi theo. Hay nhất, chi bằng ta đưa ra những bài học bằng truyện kể vừa gần gũi lại dễ cảm nhận. Kể truyện là kể những chuyện đại loại như sau:

“Trên chuyến xe khách đường dài, một hành khách nữ vì không tìm được chỗ ngồi nên phải đứng ở giữa xe. Đến đoạn quành gấp khúc trên đường núi, cả xe nghiêng ngả, cô cũng mất đà loạng choạng.

 Đúng lúc ấy, cô cảm thấy như có người đụng phải người mình một cái, rồi sau đó phát hiện ví tiền không còn nữa, liền lớn tiếng hô mất trộm.

 Tuy nhiên nhân viên bán vé trên xe khi ấy không giục tài xế lái xe đến đồn công an gần đó mà nói với tất cả hành khách rằng:

-Mọi người ra khỏi nhà vốn không dễ dàng gì, tiền bạc cũng chẳng có dư. Mong người nhanh tay này rộng lòng phối hợp, hãy để túi tiền xuống sàn. Trước mặt sắp phải đi qua một đường hầm, sẽ không ai nhìn thấy bạn cả. Nếu như chỉ vì chuyện này mà bị tuyên phán hai năm tù, thì quả thật là không đáng.

 Thế là, sau khi chiếc xe chạy qua đường hầm tối đen, ví tiền đã trở về tay của nữ hành khách nọ.

 Trong cuộc đời, không có đường rẽ nào là không thể quay đầu lại, không có sai lầm nào là không thể cải chính. Đối diện với sai lầm của người khác, có khi khoan dung lại có sức mạnh cải biến hơn cả trừng phạt.

 Khiến cho tình huống ngày càng đen tối hơn thường thường không phải là sai lầm, mà chính bởi trái tim lạnh lùng không chịu bỏ qua, không chịu tha thứ cho người khác.

 Nếu như người bán vé đó bảo tài xế lái xe đến sở cảnh sát thì “người nhanh tay” móc ví kia chắc chắn sẽ phải nhận sự trừng phạt của pháp luật. Tuy hành động là giương cao chính nghĩa, trừng trị tội phạm nhưng nó lại khiến một người mãi mất đi cơ hội sửa sai, chuộc lại lỗi lầm, làm lại từ đầu.

 Người bán vé thông minh nọ không chỉ đã bảo vệ được tài sản của nữ hành khách mà còn cho kẻ trộm ví một cơ hội hoàn lương. Nhận được sự tha thứ, khoan dung, kẻ trộm kia có lẽ từ đây cũng sẽ hồi tâm chuyển ý, sống cuộc đời mới. Nếu điều đó thực sự xảy ra, người nhân viên bán vé há chẳng phải đã cứu vớt được một linh hồn sa ngã đó sao? (Truyện kể do St sưu tầm)

Nói cho cùng, đời người cũng lắm công-phu. Cũng đủ mọi thứ chuyện thực-hư/hư-thực khiến người đời thấy vui rồi tin hết mình. Chuyện thực-hư/hư-thực trên đời, cũng giống như truyện kể rất ngắn có dính đến thiên-đường của ông Phêrô nào đó không là “thánh cả” sau đây là kết luận:

“Có 3 cô gái nọ bị tai nạn chết người, tức thì lên tới thiên đường gặp thánh cả Phêrô. Thánh-nhân bèn dẫn cả 3 vào bên trong thiên đường cực đẹp có đầy vịt con lép chép đi lại kín cả khu vườn.

Thánh-nhân lại đã phán:

-Ai mà dẫm phải mấy chú vịt con này, sẽ bị phạt rất nặng.

 Nói xong ngài bỏ đi nơi khác. Được một lúc, cô gái thứ nhất dẫm bẹp một cái, chết một chú vịt con. Lập tức thánh “cả” Phêrô hiện ra tức thì, trên tay ngài dắt theo một người đàn ông cực-kỳ xấu rồi nói với cô gái:

-Đây là hình phạt dành cho con, con phải sống với hắn ta”.

Hai cô còn lại sợ khiếp vía nên đã biết cẩn thận hơn cô kia. Nhưng cũng chẳng ăn thua gì. Bởi, một lúc sau, cô gái thứ hai lại cũng làm bẹp một chú nữa, thế là thánh cả nhà ta lại hiện ra cùng với một người còn xấu hơn lúc nãy, trao tặng cô gái thứ hai.

 Đến lượt cô gái thứ ba run rẩy như “cầy sấy”, cứ là dò dẫm từng bước và từng bước một, cho chắc ăn. Bước đi mãi, mà chẳng dẫm chết chú vịt con nào hết. Cô bèn dừng chân ngơi nghỉ, thở phào nhẹ nhõm.

 Thánh cả Phêrô hiện ra dắt theo một chàng trai tuyệt đẹp và trao anh chàng này cho cô ta. Cô gái này cảm thấy rất ư là hạnh phúc. Còn chàng trai kia, mặt mày cứ cau có, bực bội nói đi nói lại có mỗi câu, rằng: “Thực tức chết đi được. Mình đã cẩn thận như thế rồi, mà sao cứ dẫm phải chú vịt con cho nó chết, vậy cơ chứ?” (Truyện kể, rút từ mạng vi-tính rất ư “vịt cồ”)

 Những mong rằng, các chú “vịt con” trong truyện kể ở trên không là truyện kể rất “vịt cồ” để ta tin và sống trong đời, cho thoải mái rồi kết thúc chuyện phiếm rất “đạo/đời” hôm nay.

Và, cũng để kết-thúc chuyện phiếm hôm nay cho thoải mái, lại mời bạn và tôi, ta hát lại nhạc bản ở trên có những lời rằng:

“Em ơi, anh muốn nói rằng.
Sao em còn mãi hững hờ.
Khi anh trọn lòng yêu em thiết tha.
Xin em đừng luôn dối lòng.
Khi tim làm đôi má hồng.
Cho ta được gần nhau trong giấc mộng… “

(Lê Hựu Hà – Yêu Em) 

 Trần Ngọc Mười Hai

Nhiều lúc những muốn thoải mái

để kể rất nhiều và hát cũng không thiếu

những tin/chuyện

không mang tính cách

rất “vịt cồ”,

thời hôm nay. 

6 giá trị Mỹ không mua được bằng tiền

6 giá trị Mỹ không mua được bằng tiền

  1. 1. Ca sĩ Madonna từng nhổ nước bọt vào mặt một bà cụ, lập tức tòa án Liên bang phán quyết cô phải bồi thường 5 triệu đô-la Mỹ cho bà lão.

Quan tòa nói, sở dĩ mức phạt nặng như vậy không phải bởi miếng nước bọt đó đã mang đến tổn thương lớn ngần nào cho bà cụ. Lý do là với những người có tiền như Madonna nếu chỉ phạt bồi thường 50 nghìn đô-la, lần sau cô ấy chắc chắn sẽ tái phạm. Có thể cô ấy cũng sẽ gây tổn thương cho hơn 10 người khác nữa.

  1. 2. Ở Mỹ, không có một hãng truyền thông nào thuộc về chính phủ. Bởi vì pháp luật nước Mỹ quy định, không thể lấy tiền của dân chúng để dát vàng cho mình mà lừa mị, mê hoặc dân chúng.

Kênh truyền thông duy nhất mà chính phủ Mỹ bỏ vốn làm chủ là đài phát thanh VOA của Mỹ, nhưng nó không được phép phát sóng trên đất Mỹ. Trong con mắt của người Mỹ, dư luận nên phải là tự do, nhiều nguồn, muôn hình muôn vẻ, thậm chí là mâu thuẫn lẫn nhau.

  1. 3. Nước Mỹ coi trẻ em là tài sản quý báu của quốc gia, trẻ em được pháp luật che chở cẩn thận. Nếu bạn không có tiền gửi con ở nhà trẻ, chính phủ sẽ chi trả, hoặc không có tiền mua sữa bột, chính phủ cũng sẽ chu cấp. Ngoài ra còn có nhiều chính sách đặc biệt trợ cấp cho phụ nữ mang thai, sản phụ thu nhập thấp và trẻ em chưa đến 5 tuổi.

Các gia đình thu nhập thấp có thể nhận được bữa cơm dinh dưỡng sáng và trưa miễn phí. Nếu bạn không có tiền thuê nhà, chính phủ sẽ chi trả, hơn nữa quy định trẻ nhỏ cần phải có phòng ngủ riêng. Ở nước Mỹ, bạn sẽ không bao giờ bắt gặp hình ảnh trẻ em đi xin ăn.
Có một bà mẹ mải mê bận rộn việc nhà, nhất thời không để ý trông con. Đứa con chẳng may ngã xuống bể bơi chết đuối. Trong lúc người mẹ đang đau khổ không thôi thì bất ngờ nhận được giấy triệu tập của tòa án.

Lý do mà tòa án đưa ra vô cùng đơn giản, bà đã không làm hết trách nhiệm của một người giám hộ nên sẽ phải đối mặt với việc bị tuyên án. Điều đó cũng giúp cảnh tỉnh ý thức chăm sóc con trẻ cho hàng triệu người mẹ khác.

Người Mỹ quan niệm, một đứa trẻ trước hết thuộc về bản thân nó. Đứa trẻ đó mang theo vô số quyền lợi sống vốn có trong xã hội này. Không kể là bản thân nó có ý thức được hay không, không kể là nó có thể lớn lên thành người hay không, xã hội này có tầng tầng pháp luật để bảo vệ nó.

4. Ở nước Mỹ, người dân có bệnh thì bệnh viện cần phải điều trị trước, sau đó mới gửi hóa đơn viện phí đến nhà bệnh nhân. Nếu bạn không gánh nổi khoản tiền trị liệu thì các tổ chức từ thiện hoặc chính phủ sẽ ‘ra mặt’ giải quyết. Trong trường hợp người nghèo khó chỉ vì không có tiền chi trả viện phí mà bệnh viện ngưng điều trị thì những người có liên quan sẽ bị chất vấn và nhận chế tài của pháp luật.

5-Trong chiến tranh vùng Vịnh lần thứ hai (nổ ra vào tháng 3/2003), quân Mỹ huy động lực lượng quân sự lớn mạnh tấn công tầm xa trong sa mạc. Quân đội của nhà độc tài Saddam Hussein binh bại như núi đổ, nhếch nhác bỏ chạy. Lúc này, trong cát bụi mịt trời, một chiếc xe vận tải của quân Mỹ mất phương hướng, lạc vào trận địa của quân địch.

Người lái xe là một nữ quân nhân tên Lira, bị thương và bị địch bắt giữ làm con tin để uy hiếp quân Mỹ. Cô bị nhốt ở một nơi hẻo lánh bí mật và bị canh giữ sát sao. Vì để cứu Lira, quân Mỹ đã huy động đội đột kích Hải Báo tấn công mãnh liệt khiến quân địch mất phương hướng, hoảng loạn tan vỡ.

Chỉ trong thời gian mấy phút, quân Mỹ đã giải cứu thành công Lira. Cô nhanh chóng được đưa về hậu phương điều trị. Chiến tranh kết thúc, Lira cùng với hai binh sĩ Mỹ từng bị bắt giữ khác trở về quê nhà và được chào đón như những người anh hùng.

  1. Điều được giảng trong “Tuyên ngôn độc lập” của Mỹ không phải là quần thể, quốc gia, thậm chí không hề giảng đến dân chủ. Điều được giảng là 3 quyền lợi lớn: quyền sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc. Ba quyền lợi này đều là quyền lợi của cá nhân, không phải là quyền lợi của quần thể hay quốc gia.

P/s...: Những quyền lợi này có được ngay từ khi công dân Mỹ vừa mới sinh ra, chứ không phải do ai ban tặng. Mặt khác, những quyền lợi này có thể bảo vệ cá nhân, khiến họ không phải chịu đựng sự xâm hại của bất cứ ai. Chỉ có kiến lập trên cơ sở quyền lợi cá nhân, mọi người mới có thể có được một xã hội tự do chính nghĩa, tôn nghiêm và bình đẳng

From: Do Tan Hung & Nguyen Kim Bang

THỰC THI Ý CHÚA

THỰC THI Ý CHÚA

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: “Các ông nghĩ sao? Người kia có hai người con.  Ông đến với đứa con thứ nhất và bảo: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho cho cha!”  Nó thưa lại rằng: “Con không đi.”  Nhưng sau nó hối hận và đi làm.  Ông đến gặp đứa con thứ hai và cũng nói như vậy.  Nó thưa lại rằng: “Thưa cha, vâng, con đi.  Nhưng nó lại không đi. Ai trong hai người con đã làm theo ý cha mình?”  Họ đáp: “Người con thứ nhất.”  Chúa Giêsu bảo họ: “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông.  Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài.  Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài” (Mt 21:28-32)

****************************** **

Qua đoạn Tin Mừng trên chúng ta thấy Thiên Chúa đã trao ban cho con người sự tự do.  Và với sự tự do này, con người có thể bước theo Chúa nhưng cũng có thể quay lưng chống lại Ngài.  Con người có thể vâng theo thánh ý Chúa nhưng cũng có thể từ khước đường nẻo của Ngài.  Thế nhưng điều quan trọng hơn đó là Thiên Chúa sẽ xử sự với chúng ta tuỳ theo việc chúng ta có hay không thực thi thánh ý Ngài, chứ không tuỳ thuộc vào lời nói của chúng ta.

Trong hai người con, người được coi là đã thực thi ý định của cha không phải là người đã mau mắn trả lời vâng trước lệnh truyền của cha, nhưng trong hành động thì lại không làm.  Mà chính là người tuy đã trả lời không, nhưng trong thực tế lại đi làm điều người cha truyền dạy.

Trong xã hội thời Chúa Giêsu cũng như thời nay, vẫn có những hạng người tỏ ra ngoan đạo, công chính, siêng năng với các việc đạo đức, kinh hạt, nhà thờ nhà thánh.  Lời nói thì đầy vẻ thuần phục đối với các giáo huấn của Chúa, nhưng trong hành động lại chẳng có chút vẻ gì là ưng thuận đối với điều Chúa truyền dạy. Những người bề ngoài xem ra dễ bảo, nhưng thực chất lại là người khó dạy.  Họ đã có thể đánh lừa được dư luận vì cái mau mắn bên ngoài của họ.

Trong xã hội thời Chúa Giêsu, những người này tượng trưng nơi hàng tư tế, đầu mục, nhóm biệt phái và thông luật.  Tuy đánh lừa được dư luận, nhưng thực ra, họ đã đánh mất chỗ của họ trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa.  Thế vào chỗ của họ lại là những người thu thuế, những gái điếm, những người mà ai cũng biết là đang vi phạm ý Chúa, được bày tỏ trong lề luật và trong giới răn của Ngài.  Họ là những người qua lối sống của mình, đã nói không trước lệnh truyền của Chúa.  Nhưng một lúc nào đó, những người này đã nhận ra sự sai trái của mình, đã biết hối cải và đi làm điều Chúa truyền dạy.  Họ là những người được giáo huấn và những việc làm của Ngài lay động, làm thức tỉnh, thay đổi hẳn cuộc sống của họ.  Họ là người đàn bà xứ Samaria gặp Chúa bên giếng nước; là ông Giakêu được Chúa viếng thăm; là bà Maria xức dầu cho Chúa; là tên trộm cướp bị đóng đinh bên cạnh Chúa; là tất cả những kẻ tội lỗi biết hối cải.  Vấn đề chính yếu là làm theo ý Chúa.

Thế nhưng, người ta lại thường hay tự mãn với một nhãn hiệu, một dấu chỉ bên ngoài nào đó.  Chẳng hạn tự hào là người công giáo ngoan đạo, chúng ta khó mà nghĩ đến việc trở lại, mở rộng cửa tâm hồn đón nhận cái mới, cái bất ngờ, cái chưa được nghe biết bao giờ.

Dụ ngôn cho chúng ta thấy trở ngại lớn nhất trên đường vào Nước Trời không phải là tội lỗi mà là sự ngủ mê giữa những tiêu chuẩn đạo đức được chúng ta dựng nên, sự sợ hãi phải đặt lại vấn đề những cái mà chúng ta đã xác tín.  Tuy nhiên, có đặt lại vấn đề như thế, chúng ta mới nhận biết được thánh ý Chúa và mới đi đúng con đường Chúa muốn chúng ta đi.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết can đảm đặt lại vấn đề với chính mình, nhìn lại cách mình đang sống đạo để xem Chúa đang ở đâu trong đời sống chúng con.  Xin mở mắt tâm hồn để chúng con nhìn ra thánh ý Chúa và giúp chúng con hiểu rằng lắng nghe lời Chúa không chưa đủ, mà còn phải sống theo thánh ý Chúa muốn.  Amen.

 Sưu tầm

From langthangchieutim

10 triết lý nhân sinh nhất định phải đọc một lần để thay đổi vận mệnh bản thân

10 triết lý nhân sinh nhất định phải đọc một lần để thay đổi vận mệnh bản thân

Đời người ngắn ngủi, nào ai biết được ngày mai. Mọi chuyện trong cõi nhân sinh thoảng qua như gió thổi, mây bay, như đá mòn nước chảy.

Làm sao giữ được yên bình của tâm hồn để vươn tới sự tự do vĩnh hằng của sinh mệnh?

Xử thế ở đời chính là biết tiến biết lùi, biết trước biết sau, không làm tổn hại người, mà lại giữ được khí tiết của mình. Nếu không ngại, bạn hãy thử đọc những điều dưới đây, có lẽ sẽ có ích cho mình.

  1. Nói chuyện phải dùng đầu óc, cẩn trọng từng lời nói, nói ít quá thì không ai hiểu, nhiều quá thì gây khó chịu. Đừng nên nghĩ gì nói nấy, thấy gì bàn nấy, phiền toái là từ miệng mà vào, từ lời vô ý mà đến. Không nói lời thị phi, lời gây chia rẽ, cũng đừng quá suồng sã, kể lể hết sự tình. Người thông minh thì lời nói ít mà hàm chứa, kẻ quân tử cũng lại nói ít làm nhiều, dùng hành động mà chứng tỏ bản lĩnh.
  1. Gặp chuyện chớ nên vội vàng động thủ, dù có đáp án rồi cũng phải bình tâm chờ đợi, chớ kết luận ngay. Một người, một việc là không thể đánh giá từ một góc nhìn. Phán xét vội vàng có thể sẽ dẫn đến thảm họa.
  2. Ở đời, hãy biết hóa giải chuyện lớn thành chuyện nhỏ, chuyện nhỏ xem như không có gì. Hãy cố gắng xử lý mọi chuyện một cách đơn giản nhất, tuyệt đối đừng chuyện bé xé ra to, vẽ rắn thêm chân, nghi hoặc, nổi nóng, không giữ bình tĩnh mà hại người, hại cả chính mình.
  3. Người quân tử thì luôn độ lượng, khoan dung, không để trong lòng những chuyện tầm thường. Kẻ tiểu nhân lòng dạ hẹp hòi, chọc giận kẻ tiểu nhân cũng chính là chuốc lấy phiền phức. Cho nên ở đời, gần gũi người quân tử, xa lánh kẻ tiểu nhân chính là đạo lý làm người tối thượng vậy.
  4. Hãy trân quý những người yêu thương mình. Họ trao gửi tình cảm cho bạn là có nguyên do, bởi vậy đừng hỏi tại sao. Hãy mở lòng đón nhận, lấy yêu thương gấp đôi để đáp lại họ. Cũng đừng bao giờ lừa gạt tình cảm người khác bởi phụ tình thì tình phụ, phúc đức rồi cũng tiêu tan. Ở đời, tìm được tri kỷ là không dễ. Tìm được rồi nhưng biết trân quý ra sao lại càng khó nữa.
  5. Cẩn thận với những lời khen, dù là sau lưng hay trước mặt. Người khen bạn sau lưng chính là thật lòng, hãy trân trọng nhưng đừng vì thế mà trở nên tự mãn. Người khen bạn trước mặt rất có thể là xu nịnh, bợ đỡ, nói lời chót lưỡi đầu môi, vốn không đáng coi trọng. Hãy bỏ ngoài tai những lời khen và lắng nghe, cân nhắc những lời chê bai, chỉ trích. Có khi một lời chê bai còn khiến bạn tiến bộ, đề cao hơn cả trăm lời khen thừa.
  6. Ân huệ nhỏ tích góp nhiều sẽ thành món nợ lớn. Nhận ân thì phải báo ân. Người xưa nói, chịu ơn một giọt, báo ơn một dòng là bởi thế. Kẻ vô ơn thì cũng chẳng lương thiện, chẳng thể thành người. Người biết đền ơn mới chính là quân tử, là kẻ trượng nghĩa.
  7. Người ta mải mê truy cầu hạnh phúc mà không biết hạnh phúc thực ra chính ở trong tâm. Hòa ái thì có được yên bình, độ lượng thì được nhiều người yêu mến, lương thiện đến đâu cũng có được phúc báo nhãn tiền. Đạo lý đơn giản chỉ là như vậy. Nơi quán trọ trần gian, trăm năm là hữu hạn, một sớm mai ngó ra ngoài cửa đã thấy bốn mùa trôi ngang tầm mắt, xuân qua hè tới, thu tàn đông về, ngày tháng chẳng còn lại bao nhiêu. Vậy thì cớ gì không sống cho ra sống, làm người cho ra người?
  8. Duyên phận không phải là ngẫu nhiên. Bạn gieo nhân nào thì gặt quả ấy. Trao gửi thiện lương thì gặp người lương thiện. Chuyên hành ác nghiệp thì phải chịu ác duyên. Kỳ thực duyên phận chính là một loại lựa chọn. Người đi ngang nhau, chỉ khẽ chạm vai cũng là cái duyên được tích tồn từ bao đời kiếp. Nếu đã là duyên thì phải biết tùy theo duyên mà sống, chớ cưỡng cầu những thứ vốn không thuộc về mình.
  9. Đừng bao giờ nghĩ rằng mình là người quan trọng. Ai cũng có điểm mạnh, điểm yếu, “người ta là hoa đất”, ai cũng đều quan trọng như nhau. Đừng ỷ tài, cậy vào một vài hiểu biết nhỏ bé nơi tri thức nhân loại. Cuộc đời này rộng lắm, vũ trụ này lại càng to lớn lắm, có nhiều điều ngay cả tri thức tối tân nhất của con người cũng chẳng thể chạm tới, chẳng thể giải khai.                                                                           From anh chi Thu & Mai

SAU 42 NĂM ..CHÚNG VẪN MÙ..??

SAU 42 NĂM ..CHÚNG VẪN MÙ..??

Lời phản biện tại buổi trình chiếu sơ lược phim The Vietnam War.

TS.Nguyễn Ngọc Sẵng
Tôi may mắn được đại diện đài truyền hình PBS và Thư Viện địa phương mời vào Ban Điều Hành Thảo Luận (discussing panel) về phim The Vietnam War do hai nhà làm phim Ken Burns và Lynn Novick bỏ ra mười năm thu thập tài liệu để làm ra cuốn phim 18 tập nầy. Phim sẽ được trình chiếu vào ngày 17 tháng 9 năm 2017 trên Đài Truyền Hình PBS của Mỹ.

Trước lượng khán giả khoảng hơn 200 người, toàn là người Mỹ (trừ cô phụ tá tôi là một bác sĩ trẻ, Quyên Huỳnh). Tôi rất áy náy, nhưng quyết định nhận lời vì nghĩ rằng đây là cơ hội để nói lên quan điểm của Người Lính Việt Nam Cộng Hoà về Chiến Tranh Việt Nam. Tôi lên đường vì ý niệm đó dù biết sẽ không dễ dàng, nhất là ngôn ngữ.

Sau phần trình chiếu, họ hỏi mỗi người trong Ban Điều Hành Thảo Luận một câu. Trong phim có một cựu chiến binh Bắc Việt, tên Bảo Ninh được phỏng vấn, và ông nói rằng trong cuộc chiến tranh Việt Nam KHÔNG có người thắng (no vinners). Người điều khiển chương trình hỏi tôi nghĩ gì về ý kiến nầy?

Trước khi trả lời, tôi trình bày nhận định rằng muốn biết ai thắng, ai thua phải biết ít nhất ba (3) điều căn bản:

(1) mục tiêu tham chiến của các bên,
(2) Sự tổn thất mà họ trả giá.
(3) và đánh giá trên tổng thể do cuộc chiến gây ra.

A)  Mục Tiêu Tham Chiến

  1. Mỹ tham gia cuộc chiến vì muốn KỀM CHẾ Trung Cộng, theo tài liệu Pantagon Papers, một nghiên cứu chính thức của Bộ Quốc Phòng Mỹ về sự tham dự của Mỹ tại Việt Nam từ 1945 đến 1967 do ông Daniel Ellsberg thực hiện và được công khai trên tờ The New York Times năm 1971, chủ yếu không nhằm bảo vệ sự độc lập của Miền Nam. Bảo vệ Miền Nam là chiến thuật trong chiến lược ngăn chận Tàu. Tài liệu nầy dài khoảng 4000 trang và được liệt kê là Tối Mật và được giải mã ngày 4 tháng 5 năm 2011 tại thư viện của Tổng Thống Richard Nixon tại California.
  2. Mục tiêu của Bắc Việt là Giải Phóng Miền Nam bằng vũ lực để Làm Bàn Đạp cho cuộc bành trướng của cộng sản quốc tế xuống vùng Đông Nam Á. Việc nầy do Hồ Chí Minh thực hiện với sứ mạng là người lãnh đạo cộng sản Đông Dương từ năm 1932. Và điều nầy hoàn toàn phù hợp với lời tuyên bố của Tổng Bí Thư Lê Duẩn “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Sô, Trung Quốc”, nếu câu nói nầy đúng sự thật. Đây là sứ mạng của những người lãnh đạo cộng sản Việt Nam.
  3. Mục tiêu của những nhà lãnh đạo Miền Nam là bảo vệ độc lập, chủ quyền Miền Nam chống lại sự xâm lăng của cộng sản Miền Bắc với sự viện trợ tối đa của Nga, Tàu và khối cộng sản Đông Âu, kể cả Cuba. Nhưng vì thế yếu họ chấp nhận và yêu cầu Mỹ và khối tư bản viện trợ để họ bảo vệ lãnh thổ, và dân chúng theo họ.                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                 
  4.  B)  Những Tổn Thất Của Các Bên                                                                             1) Phía Mỹ có 58.307 binh sĩ tử trận, chi tiêu 168 tỷ Mỹ kim (có tài liệu nói 1020 tỷ), 303.604 binh sĩ bị thương, 1948 binh sĩ mất tích và lúc cao điểm của chiến tranh có 543.000 binh sĩ tham chiến. Khi chiến binh Mỹ từ chiến trường Việt Nam về bị dân chúng khinh thị, không đón tiếp trọng thể như những binh sĩ tham gia trong những cuộc chiến ngoại biên khác. Và vết thương chiến tranh chưa hoàn toàn hàn gắn được.                                                                                                                                                             2 ) Phía Bắc Việt có 950.765 binh sĩ tử trận, gần 600.000 bị thương, số mất tích không có con số rõ ràng, ước tính khoảng 300 ngàn người… Trong chiến cuộc, Miền Bắc được xếp vào hạng 1 trong 5 quốc gia nghèo nhất thế giới. Và cuộc chiến do Miền Bắc gây ra làm thiệt mạng 2 triệu thường dân.                                                                   3) Phía Việt Nam Cộng Hoà có 275 ngàn chiến sĩ thiệt mạng, khoảng 1.170.000 người bị thương, không có con số mất tích được liệt kê và ngày 30 tháng 4 năm 1975 họ đầu hàng vô điều kiện.                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                     
  5.  C)   Ai Thắng? Ai Thua?                                                                                                                    1) Từ những phân tích trên, tôi trình bày quan điểm riêng rằng Mỹ đã đạt được mục tiêu Kềm Chế Trung Cộng, vậy Mỹ là người THẮNG.                                                          2 )  Cũng từ phân tách nầy, tôi trình bày cho thính giả rằng Bắc Việt hy sinh gần 1 triệu binh sĩ, gần 6 trăm ngàn người thương tật, 300 ngàn người mất tích, làm 2 triệu thường dân bị chết oan và biến đất nước thành 1 trong 5 nước nghèo nhất thế giới, vậy Bắc Việt là người THUA vì phải trả giá quá đắt mà Trung Cộng vẫn không nhuộm đỏ được vùng Đông Nam Á. Họ THUA vì không đạt được mục tiêu.                        3)Việt Nam Cộng Hoà đầu hàng vô điều kiện ngày 30 tháng 4 năm 1975 là người THUA. Theo bài phỏng vấn của Tướng Frederick C. Weyand ngày 12 tháng 6 năm 2006 thì cuộc chiến bị thua không phải do quân đội kém cỏi mà do những người lãnh đạo chính trị ở Washington. Họ thắng trên chiến trường, nhưng thua vì sự bội ước của đồng minh. Nhưng theo thiển nghĩ thì sau khi Hoa Kỳ đã hoàn thành mục tiêu kiềm chế Trung Cộng, họ rút lui bằng sự trả giá của nhiều bên, trong đó có cả binh sĩ của họ.

                                                              Kết luận sau cùng của tôi với cử toạ là cả hai phía người Việt đều là kẻ thua, nhất là dân tộc Việt Nam là người thua trong cuộc chiến tranh ủy nhiệm của người cộng sản do Hồ Chí Minh, người cộng sản quốc tế, thực hiện sứ mạng trên sự đau xót vô vàn của dân tộc, làm kiệt quệ đất nước và tạo vết thương lịch sử dù 42 năm rồi vẫn chưa lành và không biết có cơ hội nào để lành vết thương dân tộc nầy.

Một cử toạ hỏi tôi về hậu quả tâm lý hiện tại của cuộc chiến, tôi chỉ đơn giản trả lời “bên thắng cuộc vẫn coi bên thua cuộc là kẻ thù cho dù chiến tranh đã chấn dứt 42 năm rồi”.

Cuốn phim vẫn trình bày những sự kiện mang tính cách tuyên truyền cũ rích dù họ bỏ ra 10 năm sưu tập tài liệu, phỏng vấn một số người trong và ngoài nước. Vẫn trưng tấm hình Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn tên Việt Cộng Bảy Lốp trên đường phố Sài Gòn, vẫn bản cũ kết tội tên Trung úy William Calley sát hại 128 thường dân, vẫn chuyện thả bom napalm vào một số làng mạc gây thương tích cho thường dân v.v…, nhưng tôi nói thẳng với họ rằng Việt Cộng pháo kích vào trường tiểu học Cai Lậy ngày 9 tháng 3 năm 1974 làm thiệt mạng gần 200 em học sinh tiểu học sao đoàn làm phim không biết? Trong trận Tết Mậu Thân, người cộng sản sát hại gần 6 ngàn đồng bào vô tội tại Huế, sự kiện chấn động cả thế giới mà đài truyền hình PBS không hay? Phim vẫn cho rằng công ty hoá chất Dow Chemical sản xuất bom Napalm để dội vào làng giết hại dân lành, tôi thẳng thắn nói với họ rằng bom Napalm không chế tạo để giết dân lành và vụ cô Kim Phúc là một trong những nhầm lẫn trong chiến trường như Mỹ đã từng nhầm lẫn ném bom trúng tòa đại sứ Trung Cộng tại Kosovo 1999, thỉnh thoảng ném bom nhầm tại Iraq, Afghanistan, Syria v.v…, Thậm chí họ còn ném bom nhầm vào những đơn vị quân đội của Hoa Kỳ, bắn nhầm binh sĩ Hoa Kỳ v.v…, trong chiến tranh không thế nào tránh nhầm lẫn được. Thế mà bọn truyền thông dòng chính vẫn cố tình vu khống một cách lố bịch, không chút liêm sỉ những sai lầm mà ai cũng có thể nhận thấy. Thảo nào Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump miệt thị họ không oan chút nào.

Sau buổi hội thảo, một sử gia Mỹ tên Bill Laurie gặp tôi và ông nói Bảy Lốp là tên khủng bố đã sát hại 6 người thân của viên chức VNCH, nên bắn Lốp là không vi phạm công ước Geneve.

Có thể đáng lẽ người Mỹ đã rút quân trước 1969, nếu người tư lệnh chiến trường Việt Nam của họ có chiến thuật đúng đắn, khác với chiến thuật “Truy tầm, tiêu diệt” mà Tướng Westmoreland, người được báo chí gọi là vị Tướng bại trận tại Việt Nam (The General Who Lost Vietnam) áp dụng trong nhiều năm. Những nhà bình luận quân sự chỉ trích chiến thuật dùng lực lượng hùng hậu để truy lùng giặc của Westmoreland là không đúng. Chiến thuật nầy chỉ có kết quả khi đối phương chấp nhận đương đầu, nhưng quân Bắc Việt vào thời điểm đó, họ tránh né trong những cuộc hành quân lớn, họ rút sâu vào rừng hoặc vượt qua biên giới Cao Miên, Lào để bảo toàn lực lượng.

Nếu họ sử dụng những vị Tướng tài như Tướng Harold K. Johnson, Frederick C. Weyand, v,v,. thì có lẽ người lính Mỹ đã hồi hương sớm, ít thiệt hại sau khi đã hoàn thành mục đích Kềm Chế Trung Cộng. Và mức độ thiệt hại mà quân đội hai phía Việt Nam sẽ ít hơn, nhất là con số thiệt hại nhân mạng dân lành sẽ thấp hơn, mức độ nghèo nàn, đói rách, lạc hậu của người dân Việt Nam sẽ ít hơn, và trên hết, hận thù không dai dẳng như ngày hôm nay.

Vấn đề viện trợ quân sự cho Miền Nam cũng góp phần trong chánh sách “phủi tay” của Hoa Kỳ. Từ con số 2.8 tỉ năm 1973, còn 1 tỉ năm 1974 và 300 Triệu cho năm 1975. Và cuối cùng, tháng 12 năm 1974 quốc hội Hoa Kỳ quyết định cắt hết viện trợ quân sự, chỉ 55 ngày sau là Việt Nam Cộng Hoà sụp đổ. Không có quân đội nào đánh giặc mà không có vũ khí, hoặc viện trợ vũ khí, chỉ trừ “truyền thuyết” Quân Giải Phóng với tay không bắt được máy bay Mỹ.

Không ai kéo lịch sử lùi lại được. Người gây ra cuộc chiến vì nhiệm vụ quốc tế cộng sản phải thành khẩn thú nhận trách nhiệm lịch sử. Không chấp nhận hôm nay, trong tương lai lịch sử cũng sẽ ghi lại bởi chính con cháu chúng ta, họ đọc lịch sử từ hai phía, họ đọc lịch sử thế giới, họ sẽ viết lại sự thật mà thế hệ cha ông họ đã trải qua. Đó là chính sử chứ không phải tài liệu tuyên truyền, xuyên tạc, bóp méo sự thật mà người cộng sản dùng bạo lực để bóp méo và gọi là lịch sử.

Họ phải thành tâm Hoà Giải Hoà Hợp với những nạn nhân của họ, với đồng bào trong nước để xây dựng lại sức mạnh dân tộc để chống lại giặc Tàu. Làm chậm trễ sẽ mất nước và tội của họ sẽ chồng chất thêm với đất nước và dân tộc.

Đây là bộ phim phản ảnh một phía, trình bày phân nửa sự thật, không xứng đáng bỏ thời giờ xem. Điều nầy tôi đã viết trên Yahoo, nhưng 15 phút sau bị gỡ xuống. Hy vọng Burns và Novick sẽ đọc và nhìn lại vấn đề, nếu họ muốn trình bày một số khía cạnh thật về chiến tranh Việt Nam./.

TS.Nguyễn Ngọc Sẵng

From : Viet Nu Dinh 

Nguyên Tác Giao Tiếp Tốt

Muốn ăn nói cư xử khéo léo, hãy thuộc nằm lòng những nguyên tắc sau!

Nhớ ngay những quy tắc cần thiết này để trở thành một người giao tiếp tốt trong cuộc sống!

 

  1.  Sửa tật nói năng bạt mạng. Nên ăn nói từ tốn, nhã nhặn.
2. Người ta nhắn tin nhất định phải trả lời, dù không muốn nói chuyện hay không biết nói gì cũng nên dùng biểu tượng hay dấu câu để diễn đạt khéo léo. Không trả lời tin nhắn không phải là cao giá lạnh lùng, mà là thiếu văn hóa.
3. Đừng vội vàng “trông mặt mà bắt hình dong”             

  4.  Dùng ‘cảm ơn bạn’ thay cho ‘cảm ơn’. Chỉ khác 1 chữ nhưng thành khẩn hơn rất rất nhiều.                 

5. Đừng nói bí mậtcho gió, gió sẽ thổi nó đi khắp cánh rừng.                   

6. Những lời không nói được trước mặt người ta, thì cũng đừng nói sau lưng họ.

  1. Một cô gái luôn cười tươi vui vẻ lúc nào cũng đáng yêuhơn một cô gái mặt như đưa đám cả ngày.
    8. Chưa được họ cho phép thì đừng tự ý xem điện thoại của họ.
    9. Một cô gái được các chàng trai yêu thích cũng chẳng nói lên được điều gì, nhưng một cô gái được rất nhiều bạn gái khen ngợi thì thật sự lợi hại.
    10. Khi người khác ngủ thì biết im lặng.                                                                                   11.  Có chuyện gì thì phải nói ra, đừng chờ người ta tự hiểu,vì người ta không phải là bạn, không biết bạn nghĩ gì. Càng chờ sẽ càng thất vọng, đau lòng mà thôi, nhất là trong chuyện tình cảm.
    12. Quan hệ giữa người với người làquan hệ bình đẳng, đừng nghĩ đến chuyện dựa dẫm hay lợi dụng bất cứ kẻ nào.
    13. Khi người ta hỏi bạn “làm sao thế” thì đại đa số chỉ vì thỏa mãn sự hiếu kỳ, không phải muốn giúp đỡ bạn đâu.
    14. Khi người khác nói họ thích gì đó, hy vọng bạn đừng phản bác, vì chúng tôi đều thật lòng thích điều chúng tôi nói đến, nhưng bạn lại nói điều đó không tốtthế nào, xấu xí thế nào… sự thẳng thắn đó của bạn, là sự ích kỷ.                                                                 15.  Đừng nói đùa quá đàvới người không quen, mà kể cả quen thân cũng không nên.
    16. Trước mặt người bạn ghét, đừng tỏ ra mình ghét họ, cũng đừng nói xấu họ với những người quen của họ.
    17. Nói thế nào nhỉ, phá vỡ sự hào hứng, vui vẻ của người khác là hành động rất mất lịch sự.
    18. Không phải ai cũng thích đùa.                                                                                               19 .Có nhiều người thích giả ngu, nhưng đừng vì thế mà nghĩ họ ngu thật.
    20.Từ chối cũng phải kiên quyết. Chuyện gì cũng cần bày tỏ rõ ràng quan điểm.
    21. Hãy cư xử lịch sự với các nhân viên ngành dịch vụ.
    22. Người ta có thể tự giễu bản thânnhưng bạn tuyệt đối đừng phụ họa.                        23.  Nghe nhiều nói ít.
    24. Dù là bạn bè thân thiết, cũng đừng luôn trêu chọc sự béo phì hay xấu xí của người khác.
    25. Đừng có gặp ai cũng kể khổ,trên đời này có rất ít người biết thông cảm cho người khác, đa phần chỉ nghe như chuyện cười rồi lan truyền khắp nơi, đa phần chỉ nghe một chút là chán ốm rồi.

Sưu tầm

From: hnkimnga & Thu Mai

Người sống lâu bị nhục nhiều!!!

From facebook:  Honolulu Nguyen‘s post.
 

Honolulu Nguyen

 

Bài cũ nhưng đọc đi đọc lại vẫn thấy hay.

Một bài viết hay dành cho tuổi già của Hoàng Hải Thuỷ. Đọc xong thấy buồn man mác…….!

Người sống lâu bị nhục nhiều. Ông cha tôi – các ông Việt ngày xưa – hay dùng thành ngữ “Ða thọ đa nhục.”

Tôi không cho là người già bị nhục. Tôi thấy người ta càng nhiều tuổi càng khổ. Khổ vì không còn hưởng thụ gì được sự đời mà phải chịu những bệnh tật do già yêú sinh ra: 
Người già không tự lo được cho thân mình, mắt mờ, tai điếc, trí nhớ mất, sống nhờ người khác. Người già vua chúa hay cùng đinh, tỷ phú hay anh nghèo rớt một xu dính túi không có, kẻ quyền uy chấn động thế giới một thời hiển hách hay anh phó thường dân cả đời cơm nhà, quà vợ, khi tuổi già đến đều có những nỗi khổ như nhau.

Người ta qua 60 tuổi được kể là già….?

Ở Việt Nam những năm 1940-1950 người 50 tuổi được gọi là cụ. Khổng Tử chỉ nói về Người đến tuổi 70: “Thất thập nhi tùy tâm sở dục.” Tôi nghĩ ông muốn nói : “Người bẩy mươi tuổi muốn làm gì thì làm.” Nhưng người bẩy mươi tuổi còn làm gì được nữa. Người bẩy mươi cả Bốn Tứ Khoái đều không hưởng được, không làm được.

Năm nay – 2013 – tôi tám mươi tuổi. Một ngày đầu Xuân Kỳ Hoa Ðất Trích 2013, tôi viết bài này.

Năm 2000, khi chia tay nhau lúc nửa đêm ở trước một Nhà Dành cho Người Già Thu Nhập Thấp – Housing for Old Seniors Low Income – ở San Jose, ông bạn già của tôi nói:
“Ðọc những bài viết của toa để nhớ, để thương Sài Gòn của chúng ta.”
Ông cầm tay tôi:
“Viết. Viết nữa. Viết đến năm toa tám mươi. Viết cho bọn moa đọc.”
Ðêm mùa đông San Jose lạnh giá bao quanh chúng tôi khi chúng tôi từ biệt nhau, chúng tôi bắt tay nhau lần cuối.
image
Năm 2000 tôi 68 tuổi. Ông bạn HO già hơn tôi năm, sáu tuổi, tôi không biết hôm nay ông còn ở cõi đời này hay không. Thời gian và không gian làm chúng tôi không biết nhau sống chết ra sao. Tám mươi tuổi tôi vẫn viết. Tôi không còn viết phóng tác truyện dài. Tôi viết những bài như bài này.

Thời gian Sống, Yêu và Viết của tôi không còn bao lâu nữa, nên với nỗi Buồn vì phải xa mãi những người tôi yêu thương, hôm nay tôi viết những dòng chữ này.

o O o

Tôi bị ám ảnh bởi cái Chết, tôi ghét Chết, tôi sợ Chết, tôi không muốn Chết. Không phải bây giờ trong tuổi già, tuổi gần đất, xa trời, tôi mới sợ Chết, tôi sợ Chết từ những năm tôi năm, sáu tuổi, khi tôi bắt đầu biết suy nghĩ.
Nhà tôi ở cuối thị xã Hà Ðông, nhà có lầu, tiếng Bắc là nhà gác, nhà hai tầng. Trên gác nhìn ra tôi thấy cánh đồng với những nấm mồ rải rác trong những ô ruộng, ở gác sau nhìn ra tôi thấy Nhà Thương Hà Ðông và bãi tha ma ở cuối Nhà Thương. Những đêm mưa tôi thấy những chấm lửa lập lòe trong bãi tha ma. Về sau tôi biết đó là những ánh đèn của những người đi soi bắt ếch. Những năm xưa ấy tôi tưởng đó là những đốm lửa ma trơi.

Năm tôi năm, sáu tuổi, mẹ tôi 27, 28 tuổi. Tôi sợ mẹ tôi chết, người ta đem mẹ tôi ra chôn ở ngoài đồng. Mẹ tôi phải nằm một mình giữa cánh đồng vắng, lạnh, cô đơn, nơi mẹ tôi nằm ngập nước, đêm đông, mưa phùn, gió bấc, mẹ tôi khổ biết chừng nào. Ðó là nguyên nhân thứ nhất làm tôi ghét Chết, tôi sợ Chết.

Mời bạn đọc một chuyện Sống, Yêu và Chết tôi thấy trên Internet.
Trong phiên xử ở Tòa Án Phoenix, Arizona, bị cáo là Ông George Sanders, 86 tuổi, bị xử vì tội giết vợ. Tất cả mọi người có mặt tại toà, từ công tố viên đến chánh án, kể cả con cháu của kẻ bị cáo, đều thấy bị cáo phạm tội giết người, nhưng tất cả đều cho rằng đây là trường hợp pháp luật nên thông cảm, thương hại, tha thứ hơn là trừng phạt kẻ có tội.

Anh cháu của bị cáo George Sanderss nói trước tòa:
“Ông tôi sống để thương yêu bà tôi. Suối đời ông tôi làm mọi việc để bà tôi có hạnh phúc. Mối tình của ông bà tôi là mối tình lớn. Tôi tin ông tôi bị bắt buộc phải làm việc ấy vì yêu thương bà tôi, bà tôi chịu đau quá nhiều rồi, ông tôi không thể để bà tôi chịu đau nhiều hơn nữa.”

Ông Sanders bị bắt Tháng Bẩy năm 2012 sau khi ông nói với cảnh sát bà Virginia, vợ ông, 81 tuổi, xin ông làm bà chết. Vì ông Sanders nhận tội nên toà án không dùng đến bồi thẩm đoàn, nhưng ông vẫn có thể bị kết án đến 12 năm tù.

Bà Virginia bị bệnh nan y năm 1969, bà liệt bại, bà phải ngồi xe lăn. Năm 1970, ông bà sang sống ở Arizona vì khí hậu ở đây ấm nóng. Ông Sanders là Cựu Chiến Binh Thế Chiến II. Ông là người nuôi và săn sóc bà vợ. Ông nấu ăn cho bà, làm mọi việc trong nhà. Mỗi sáng ông giúp bà trang điểm, mỗi tháng ông đưa bà tới Nhà Thẩm Mỹ để bà làm tóc, làm móng tay.
Năm tháng qua, sức khoẻ của ông Sanders suy mòn. Ông phải đặt máy trợ tim, ông không còn săn sóc chu đáo được bà. Rồi bà Virginia bị ung thư phá ra ở chân, bà phải vào một Nursing home để người ta lo cho bà sống qua những ngày tàn cuối đời.

Ông Sanders nói với những viên chức điều tra:
“Ðây là giọt nước làm tràn ly nước. Virginia nhất quyết không chịu vào Nursing home. Vợ tôi tự cắt những ngón chân bị ung thối.”
Ông nói: – “Vợ tôi xin tôi cho bà ấy chết. Tôi nói tôi không thể..”
Vợ tôi nói: “Anh làm được mà. Em biết anh làm được.”
Sanders cầm khẩu súng lục, ông lấy khăn bông quấn ngoài khẩu súng, nhưng ông không sao bóp cò súng được.
Ông kể: – “Vợ tôi nói: “Bắn đi anh. Cho em đươc chết.”
Tôi nói lời cuối với vợ tôi:
“Em sẽ không cảm thấy đau.”
Và:
“Anh yêu em. Vĩnh biệt em”
Tôi nổ súng.”

Trước toà, người con trai của ông Sandsers nói: – “Tôi muốn quí toà biết rằng tôi yêu thương mẹ tôi, tôi cũng yêu thương bố tôi như thế.”

Steve Sandes, anh con, nghẹn ngào kể: – “Bố tôi yêu thương mẹ tôi trong 62 năm. Những đau đớn thể xác và việc chịu đau vô ích đã làm bố mẹ tôi đi đến quyết định ấy… Tôi không kết tội bố tôi. Với tôi, bố tôi là người tôi cảm phục nhất.”

Ông già George Sanders chỉ nói trong khoảng một phút, giọng ông run run:
“Tôi gặp Viginia năm nàng 15 tuổi, tôi yêu nàng từ năm nàng 15 tuổi.. Tôi yêu nàng khi nàng 81 tuổi. Có nàng làm vợ là một ân phúc Thiên Chuá ban cho tôi. Tôi sung sướng được chăm sóc nàng. Tôi làm theo ý muốn của nàng. Tôi xin lỗi các vị vì vợ chồng tôi mà các vị phải bận lòng.”

Ông Công tố đề nghị ông Chánh án không phạt tù giam George Sanders, ông nói toà nên xử án treo.

Ông Chánh án John Disworth nói ông đặt nặng tình nhân đạo trong vụ án này. Ông nói: – “Bị cáo phạm tội giết người, nhưng được toà giảm nhẹ mức án.”

Ông tuyên phạt ông già George Sanders 2 năm tù treo. Tù treo không bị cảnh sát kiểm soát.

o O o

Chuyện ông bà Sanders làm tôi suy nghĩ lan man. Tôi nhớ chuyện Cái Bát Gỗ tôi đọc những năm tôi 10 tuổi. Anh con thấy ông bố già run tay, khi ăn hay đánh rơi bát cơm, bát vỡ. Anh làm cái bát bằng gỗ cho ông già ăn cơm. Ông có làm rơi bát, bát gỗ không bị vỡ.

Một hôm anh thấy thằng con nhỏ của anh hí hoáy đục đẽo một cục gỗ, anh hỏi nó đục gỗ làm gì, con anh nói: – “Con làm cái bát gỗ, để khi bố già, con cho bố ăn cơm.”

Chuyện – dường như – ở trong sách Quốc Văn Ðộc Bản – đã 70 năm tôi không quên nó – nó đây là chuyện cái Bát Gỗ – nhưng chẳng có dịp nào tôi nhớ nó. Hôm nay tôi nhớ nó.

Từ sau năm 1975 ở Hoa Kỳ, Nhà Xuất Bản Xuân Thu in lại tất cả những sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư, Luân Lý Giáo Khoa Thư. Nhưng sách Quốc Văn Ðộc Bản – sách có nhiều bài thật hay – thì không thấy in lại. Tôi không biết tại sao Quốc Văn Ðộc Bản không được in lại ở Hoa Kỳ. Tôi đã đọc lại tất cả những sách Giáo Khoa Thư được in lại ở Hoa Kỳ, tôi muốn đọc lại những bài trong Quốc Văn Ðộc Bản.

Tôi nhớ lâu rồi, từ những năm 1950 khi tôi chưa gặp Tình Yêu Vợ Chồng, tôi đọc trên trang sách nào đó lời một ông Tầu viết: – “Vợ chồng như hai con chim tình cờ cùng đậu trên một cành cây. Ðến lúc phải bay đi, mỗi con bay đi một phiá.”

Năm xưa còn trẻ, tôi muốn phản đối lời diễn tả trên. Ông Tầu muốn nói vợ chồng là chuyện ngẫu nhiên, chẳng có tình nghĩa gì giữa vợ và chồng. Hôm nay tôi mới dịp viết ra lời phản đối.
Ông bác sĩ điều trị cho vợ chồng tôi mỗi tuần một ngày vào chẩn bệnh cho những ông bà già trong một Housing for Old Seniors – Housing này có nhiều ông bà già Mỹ trắng – ông nói: – “Có những cặp vợ chồng về già không nhìn được mặt nhau.”
Lời kể của ông làm tôi buồn. Vợ chồng sống với nhau đến già, ở chung một nhà già – mỗi người một phòng – sắp ra nghĩa địa, sắp vào hũ sành mà thù hận nhau đến không nhìn mặt nhau?? Thù hận gì dữ dội đến thế? Những người ấy thật khổ.
Bát đại khổ não ghi “8 Nỗi Khổ Lớn” của con người:

Sinh, Lão, Bệnh, Tử: 4 Khổ ai cũng phải chịu.
Muốn có mà không có: Khổ 5
Có mà không giữ được: Khổ 6..
Yêu nhau mà không được cùng sống: Khổ 7.
Ghét nhau mà phải sống gần nhau: Khổ 8.
Có người chỉ phải chịu có 7 Khổ. Ðó là những người không yêu ai cả.
Nhiều người Việt phải chịu cả 8 Khổ; đó những người thù ghét bọn Việt Cộng mà cứ phải sống với bọn Việt Cộng.

o O o
Mùa thu mây trắng xây thành.

Tình Em mây ấy có xanh da trời.
Hoa lòng Em có về tươi?
Môi Em có thắm nửa đời vì Anh?

Tôi làm bài thơ trên Tháng Bẩy năm 1954 ở Vũng Tầu, ngày chúng tôi yêu nhau. Cuộc Tình của chúng tôi đã dài trong 60 năm. Cuộc Tình Vợ Chồng, trong cuộc đời Tám Khổ này, nàng và tôi chỉ phải chịu có Bẩy Khổ.

Năm 1979 nằm phơi rốn trong Nhà Tù Số 4 Phan Ðăng Lưu, nhớ Nàng, tôi làm bài thơ:
Yêu nhau ngày tháng qua nhanh,
Hai mươi năm lẻ chúng mình yêu nhau.
Từ xanh đến bạc mái đầu
Tình ta nước biển một mầu như xưa.
Yêu bao giờ, đến bao giờ?
Thời gian nào rộng cho vừa Tình ta.
Hoa lòng Em vẫn tươi hoa,
Môi Em thắm đến Em già chưa phai.
Yêu kiếp này, hẹn kiếp mai.
Ngàn năm yêu mãi, yêu hoài nghe Em
Mặt trời có lặn về đêm,
Sớm mai Em dậy bên thềm lại soi.
Cuộc đời có khóc, có cười,
Có cay đắng, có ngọt bùi mới hay.
Thu về trời lại xanh mây.
Ðầy trời ta thấy những ngày ta yêu.
Càng yêu, yêu lại càng nhiều.
Nhớ Em, Anh nhắn một điều: “Yêu Em.”

Năm 2013 tôi đổi hai tiếng trong bài thơ:

“Yêu nhau ngày tháng qua nhanh,

Sáu mươi năm lẻ chúng mình yêu nhau.”

o O o

12 giờ buổi trưa tháng Sáu, 2012, Nàng bước hụt, ngã nhào qua bốn bực thềm cửa, nàng ngất đi. Ngồi bên nàng trong nắng trưa mùa hạ Virginia, chờ Ambulance đến, nước mắt tôi ưá ra.

Trong ICU – Ai Si Yu – Intensive Care Unit – tỉnh lại, nàng nói: – “Xin Thiên Chúa tha tội cho em.”

Tôi nói: – “Em có tội gì. Mà Em có tội gì, thì Thiên Chúa cũng tha cho Em rồi.”

Nàng chỉ bị dập xương nên không bị mổ, không bị ghép xương, không phải bó bột. Về nhà nằm, uống Vitamin D, chờ vết xương nứt lành lại.
Tình trạng bi đát. Nhiều người nói người trẻ khi bị nứt xương mới mong vết xương nứt liền lại, người già 70 thì vô phương. Nếu vết xương nứt không lành, nàng sẽ phải nằm mãi trên giường.

Tôi hầu nàng ngày đêm. Gần như suốt ngày đêm, tôi xin Ðức Mẹ Maria cho nàng đi lại được. Tôi chỉ xin Ðức Mẹ cho nàng đi được từ giuờng ngủ vào nhà bếp, vào toilet, ra ngồi bàn ăn cơm, nàng tự tắm được.

Bộ Xã Hội cấp cho nàng đủ thứ nàng cần dùng: Xe đẩy, gậy chống, ghế để ngồi tắm.. Chuyên viên y tế – therapist – đến nhà mỗi tuần ba lần, giúp nàng ngồi lên, tập đi.
Một tháng sau nàng đi được.
o O o

Ba năm nay Nàng có tới ba, bốn lần đau nặng, hai ba lần nàng tự nhiên ngã. Một lần nàng hôn mê. Ðêm khuya trong bệnh viện, nằm trên cái canapé nghe tiếng nàng thở khò khè, tôi nghĩ: – “Tiếng thở này tắt là…”

Tôi cầu xin: – “Xin Đức Mẹ cho vợ chồng con được sống với nhau 5 năm nữa.”
Tôi không muốn tôi chết trước nàng, tôi không muốn nàng chết trước tôi.
Nàng chết trước tôi không biết tôi sống ra sao. Tám mươi tuổi, tôi sống với nàng 60 năm, tôi sống dựa vào nàng. Tôi sống bằng Tình Yêu của nàng.

Năm 1976 gặp lại nhau, Lê Trọng Nguyễn nói: – “Tao không biết mày có đi được không. Tao cứ tưởng mày làm USIS là mày đi được. Hôm tao gặp thằng S. ở trong khu nhà mày, tao hỏi nó mày có đi được không? Nó nói mày không đi được. Tao kêu lên: “Làm sao nó sống? Nó sống bằng gì? ” S. nó nói: – “Nó sống bằng Tình Yêu của vợ nó.”

Người bạn cùng tuổi tôi – 80 – lấy vợ cùng năm với tôi – năm 1954 – vợ chồng anh cũng sống với nhau 60 năm, một sáng từ Cali anh gọi phone cho tôi báo tin vợ anh qua đời, tôi hỏi: – “Ðau lắm không?”
Ðau thì tôi biết bạn tôi đau, nhưng tôi muốn biết anh đau đến ngần nào. Hỏi dễ, trả lời khó. Bạn tôi nói: – “Ðứt ruột, nát gan.”

Lần cuối tôi gặp ông Lê Văn Ba, ông hơn tôi 10 tuổi, ông nói với tôi: – “Tôi nói với bà nhà tôi: Bà nên đi trước tôi là hơn, tôi đi trước bà, bà sẽ khổ lắm.”

Năm sau ông đi trước bà. Ðứng bên quan tài ông, tôi nhớ lời ông nói.

Ông bạn HO có bà vợ bại liệt, ông phải đưa bà vào Nursing Home. Ðể bà ở lại ông một mình lái xe về. Dọc đường ông run tay lái, mắt ông mờ. Ông đậu xe bên đường, xuống đi bộ vài vòng lấy lại tinh thần. Khi trở lại tìm xe, ông quên không nhớ ông đậu xe ở đâu. Ông mở cellphone gọi ông bạn đến giúp.

o O o

Người đời chỉ nói “Good bye.”
“See You next week, next time” là cùng.
Ðôi ta ngọc nữ, tiên đồng,
Ðôi ta Từ Thức vợ chồng Giáng Hương.
Ngàn đời vẫn nhớ, còn thương:
Em yêu, đã đến cuối đường: “Good bye.
See You next Life./.

Hoàng Hải Thủy             

HẾT CỬA TỒN TẠI CHO MỘT DÂN TỘC CÓ TÊN VIỆT NAM.

From facebook:   Phan Thị Hồng‘s post.
 
Image may contain: one or more people, people standing, outdoor and nature
Image may contain: 1 person, child, outdoor and closeup
Phan Thị Hồng added 2 new photos.

 

HẾT CỬA TỒN TẠI CHO MỘT DÂN TỘC CÓ TÊN VIỆT NAM.

( Nhóm Bà Đầm Xoè)

Ai cũng biết muốn sống được thì phải ăn uống hàng ngày. Và để có cái ăn, Việt Nam đã đu dây vác giá đi vay, đi xin ăn khắp cả thế giới. Vay cốt chỉ để ăn và cướp để nên nợ nần chồng chất.
Hiện đã lên đến 410 tỷ USD, cao gấp 2 lần giá trị làm ra của cả đất nước trong một năm.

Như vậy, về bản chất người Việt Nam, không những đã ăn hết của cải của đời mình mà còn ăn lạm vào của cải của đời con đời cháu. Tuy đã ăn lạm, nhưng không ăn thì chết, nên Việt Nam vẫn phải tiếp tục hăng hái làm kẻ ăn mày, ăn xin trên khắp thế giới.

Thực tế, từ đầu năm đến nay, chính phủ của ông Phúc đã chạy đôn chạy đáo khắp thế giới để vay, xin.

Nhưng xem ra việc vay, xin ngày một khó khăn và như cánh cửa cho vay, xin từ các nước đang từ từ khép lại khi cuối tháng 7/2017

Việt Nam tổ chức bắt cóc Trịnh Xuân Thanh ngay tại nước Đức. Sự kiện hiện đang ồn ào dự luận và người Đức, một cường quốc thế giới, đứng đầu châu Âu đã nổi giận, ra lệnh trục xuất và áp tải Bí thư thứ nhất đại sứ quán Việt Nam tại Đức phải về nước, đồng thời nhắc nhở Việt Nam sẽ gặp khó trong quan hệ đối tác, làm ăn. Sau khi TPP sụp đổ, châu Âu là niềm hy vọng vay, xin cuối cùng của Việt Nam.

Với sự kiện bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, niềm hy vọng này cũng đang trên đà sụp đổ. Cơm ăn, áo mặc của dân sẽ trông cậy vào đâu?

Đặc biệt, lũ cướp có tên cộng sản Việt Nam cầm quyền sẽ bám víu vào đâu để làm ăn và trộm cướp?

Trước tình cảnh quá khó này, trong tương lại gần, người Việt Nam sẽ phải “ăn thịt” lẫn nhau để tồn tại là điều khó tránh khỏi. Nhóm lợi ích tăng cường trấn cướp của nhau dưới cái vỏ bọc chống tham nhũng sẽ còn được tiếp tục đẩy lên cao.

Đất nước tiếp tục bị xẻ thịt bán cho ngoại bang để có miếng ăn cũng là cách khó tránh khỏi. 
Đầu tháng 8/2017, thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc dỏng dạc phát đi lời mời gọi cho thế giới thuê đất tới 99 năm, là tín hiệu quá rõ ràng cho chủ trương bán đất nước để có cái ăn và có cái để cho bọn lãnh đạo trộm cướp.

Tại sao nước Việt Nam có 4 ngàn năm văn hiến, có lịch sử dựng nước oai hùng vào loại nhất thế giới lại rơi vào thảm cảnh này?

Bởi vì người Việt Nam không còn có người tử tế.

Người tử tế, người tài, người có đạo đức, người có phẩm chất anh hùng, nói chung là tinh hoa của giống nòi Đại Việt hầu như đã không còn một ai.

Họ cơ bản đã chết hết. Họ đã chết trong các cuộc khởi nghĩa chống Pháp, trong chiến trận Điện Biên Phủ, trong Cải cách ruộng đất, trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn 20 năm chống Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa.

Những tinh hoa còn rơi rớt lại lại bị tiêu diệt nốt trong xây dựng chính quyền nhân dân với đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản.

Những tinh hoa mới nhú của thế hệ tiếp theo phần lớn cũng đã bị tiêu diệt hoặc bị ung thối ngay từ cấp Nhà nước cơ sở, ngay từ dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, ngay từ hàng triệu hàng triệu những con người mới xã hội chủ nghĩa kết thành những vòng vây kín đặc nhào nặn, vo viên cho mỗi người Việt Nam thành những hòn bi tròn trịa, bóng loáng của chế độ cả rồi.

Cũng có một số rất ít tinh hoa còn lại leo cao chui sâu lên tới cấp thượng tầng. Nhưng họ cũng không trách khỏi bị tiêu diệt.

Họ là những người trong nhóm “Nhân văn Giai phẩm”, những người trong nhóm được chính kẻ giết người đặt cho cái tên “Xét lại chống đảng” với những Trần Hữu Đang, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Hoàng Minh Chính, Đặng Kim Giang, Dương Bạch Mai, Ung Văn Khiêm, Nguyễn Mạnh Cầm, Lê Minh Quốc, Vũ Thư Hiên, vân vân…

Sau hai vụ này, kể như những tinh hoa của dân tộc đã bị tận diệt đến mức sạch như lau tường, vét máng.

Tuy nhiên, như một sự gượng dậy cuối cùng, vài chục năm sau, hồn thiêng sông núi lại cố cho ngoi lên một vài tinh hoa của dân tộc nữa như Trần Độ, Trần Xuân Bách. Những người này dù giữ chức vụ lớn tới mức là thường trực Ban bí thư, là Phó chủ tịch quốc hội. Nhưng rút cuộc tất cả cũng không thoát khỏi bị tận diệt bởi lưỡi hái tử thần của một bầy đàn cộng sản cầm quyền vừa ngu vừa hèn vừa bất nhân vừa phản động.

Thời hiện tại đây, trong đám vừa ngu vừa tham vừa phản động đó, cũng có lóe sáng một vài người tử tế muốn vì nước vì dân, muôn thân phương Tây, muốn thoát Tầu Cộng. Đó là Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Bá Thanh.

Nhưng, những cá thể này, hoặc là bị đầu độc cho chết hoặc là đành phải ngậm ngùi bỏ lại chính trường cho kẻ vừa già nua vừa tối tăm vừa phản động chỉ một lòng một dạ bán nước cho Tầu Cộng có tên là Nguyễn Phú Trọng và phe nhóm.

Hiện tại, trong 19 cái tên thuộc nhóm chóp bu cộng sản có ông Đinh Thế Huynh, xem ra là người tử tế hơn cả. Nhưng, lại cũng như Nguyễn Bá Thanh, ông Huynh cũng đã bị ngã bệnh hiểm nghèo và sắp quy tiên.

Người tốt hay những tinh hoa rơi rớt còn lại hiếm hoi của đất nước như không có đất để sống ở đất nước này.

Những Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Công Định, Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Vũ Bình, Phạm Văn Trội, Lê Quốc Quân, Vũ Quang Thuận, vân vân… ở thì hiện tại, cũng có ai thoát được cảnh bị dập vùi, tù đầy, tiêu diệt? Không có ai cả.

Đến nhân tài trẻ người Việt Nam đạt mức tinh hoa của thế giới như Giáo sư, Viện sĩ Ngô Bảo Châu, tuy không sống ở trong nước nhưng cũng vẫn bị lũ bầy đàn chó cộng sản hăng hái lùng sục tìm diệt. Có ai thoát được đâu?

Nguyên nhân thì có nhiều. Nhưng nguyên nhân thường xuyên và trực tiếp là từ đám lãnh đạo cai quản đất nước hiện nay mang tên cộng sản chỉ toàn một lũ sâu mọt, ngu dốt, tham lam mà ra.

Quan hệ với ai chúng cũng chỉ cốt lấy chữ lừa để kiếm ăn cho nặng túi của riêng mình. Quan hệ như vậy ai còn muốn làm bạn với đất nước anh nữa?

Chẳng ai muốn làm bạn với anh nữa.

Kiếp phận ăn mày ăn xin cốt phải để cho thiên hạ thương, chứ mà để cho thiên hạ ghét thì hết cửa làm ăn rồi.

Tôi cho rằng, sau vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh tại nước Đức, nước Việt Nam kể như không còn ai thật sự muốn làm bạn với Việt Nam nữa, ngoại trừ anh Ba Tầu. Chính anh Ba Tầu và đám cầm quyền Trọng lú lại thích thú điều này nhất.

Bởi vì, một Việt Nam không còn ai là bạn, các cửa làm ăn đóng lại, ắt hẳn muốn tồn tại Việt Nam chỉ còn cách duy nhất phải chui vào cái ống cống của Ba Tầu đã mở nắp sẵn từ cả ngàn năm nay.

Và Ba Tầu chỉ đợi có thế để nuốt gọn Việt Nam vào bụng trong năm 2020.

Kết cục này có thể được xem là kết quả đã đạt được trong chiến thuật cô lập, trói chặt dân tộc Việt Nam vào trong một cái rọ của Tầu Cộng và bọn cộng sản cầm quyền Việt Nam. Để Việt Nam chỉ còn có một cửa sống duy nhất, đó là phải sát nhập vào Tầu Cộng.

Có thể phải khen bọn cộng sản cầm quyền Việt Nam cùng đám đệ tử tay sai hơn 4 triệu đảng viên đảng cộng sản Việt Nam đã rất thành công trong chiến lược chiến thuật từng bước xóa sổ một dân tộc có ngàn năm văn hiến, có lịch sử dựng nước oai hùng mang tên Việt Nam.
Copy bên nhà Pham Xen 

NGU DỐT MỚI TIN VÀO ĐẠO THIÊN CHÚA ???

 
 
 
From facebook:  Buoc Theo Chua Kito shared Hung Tran‘s post.
 
 
 
Image may contain: 1 person, beard and text
Hung Tran

NGU DỐT MỚI TIN VÀO ĐẠO THIÊN CHÚA ???
——————————–

“Chỉ những người ít học, mê muội, dốt nát mới tin vào đạo”. Giáo sư đại học kết luận bài học.

Nghe xong câu kết luận đó, cả lớp học im phăng phắc, còn lòng tôi thì bực tức mà không nói nên lời.

Sự bực tức này có lẽ một phần vì nội dung mà vị giáo sư giảng dạy không chỉ đang đụng đến đức tin của người Công giáo như tôi mà còn xúc phạm đến người có đạo.

Phần nữa, tôi đau vì không đủ khả năng để đứng lên bảo vệ Đạo của mình.

Sau khi nghe xong phần trình bày của vị giáo sư đại học mà tôi nghĩ là ông không có thiện cảm gì với người Công giáo, tôi về nhà cố đi tìm câu trả lời cho riêng mình.

Và khi đã tìm hiểu xong, tôi quyết định tìm gặp và đối thoại với vị giáo sư này.

Câu hỏi đầu tiên mà tôi đặt ra cho ông đó là

“Thưa Thầy, thầy có thể cho biết, đất nước nào hiện nay văn minh nhất, giàu có nhất, hùng mạnh nhất, tiến bộ nhất thế giới”.

Vị giáo sư trả lời ngay “ Nước Mỹ”.

Tôi nói liền “ Vậy, thầy có thể cho em biết hiện nay nước Mỹ có bao nhiều người tin vào Thiên Chúa?”

Vị Giáo sư nhìn tôi và hỏi “Em hỏi vậy là có mục đích gì?”.

Tôi đáp “Vì Thầy nói “Chỉ những ai ít học, mê muội, dốt nát mới tin vào Thiên Chúa” nên em mới hỏi thầy câu này.

Ông chần chừ một lúc rồi nói “ Nước Mỹ là nước có số người tin vào Thiên Chúa khá đông”.

“ Đúng vậy. Em được biết tại nước Mỹ có tới 86% tin vào Thiên Chúa, còn 14% nhận mình là vô thần mà. Chẳng lẽ 86% này cũng là những người mê muội, ít học phải không thầy?”

Hơn nữa, em còn thấy những bác học lừng danh như Bacon, Isaac Newton, Albert Einstein, Louis Pasteur, 31-Georges Lemaître (1894-1966) Linh mục Công Giáo, người khai phá ra thuyết Big Bang.

Max Planck (1858-1947) Đoạt giải Nobel về vật lý và là cha đẻ của thuyết Quantum mechanics. Blaise Pascal (1623–1662) Thần đồng toán học, vật lý, và Lý Thuyết.

René Descartes (1596–1650) Nhà bác học về Hình học và Những con số bất biến. Người hướng dẫn cuộc Cách Mạng Khoa học của phương Tây.

Roger Bacon (c.1214–1294), người áp dụng phương pháp thực nghiệm và các phương pháp khoa học tân tiến. Viết về Luật Thiên Nhiên, cơ khí, địa lý và quang học. Johannes Kepler (1571–1630) Nhà vũ trụ học, tính toán sự di chuyển của các thiên hà. –

Isaac Newton (1643–1727) Nhà khoa học và toán học vĩ đại nhất của mọi thời đại và biết bao nhiêu nhà bác học khác đều là những ki tô hữu tốt lành.

Rồi Louis Pasteur- nhà y khoa nổi tiếng nữa

Chẳng nhẽ, những nhà bác học này cũng là những người dốt nát và mê tín sao thầy? Em thấy tiền đề thầy đưa ra xem ra không ổn tí nào.

Vị giáo sư như chùng xuống một lúc rồi nói “ Tôi cũng chỉ nói những gì mà sách vở và bổn phận tôi phải nói. Vì đó là nghề của tôi”.

Tôi đáp lại “ Vâng nếu thầy nói vậy thì em hiểu rồi. Có điều em cảm thấy thầy không có tự do khi truyền giảng cho sinh viên những kiến thức thực sự của thầy.

Nhưng còn một điều nữa khiến em cũng đang thắc mắc”. Ông nhìn tôi và hỏi “ Em còn muốn hỏi điều gì”.

“ Vâng, cũng chỉ liên quan đến điều thầy nói ở lớp thôi. Em muốn hỏi thầy có cái gì giả dối, mê muội nó tồn tại được lâu không thầy”. Tôi đáp lại.

Người thầy của tôi lúc này thong thả nói “ Người ta vẫn nói sự thật trước sau gì cũng là sự thật, sự giả dối có lừa được một số người, một số lần rồi sẽ có ngày lộ diện em ạ”.

“Cám ơn thầy. Thầy nói chí phải. Sự thật ma vật không đổ thầy nhỉ. Nếu Đạo Công Giáo mà giả dối sao nó lại tồn tại lâu quá vậy.

Nó không chỉ tồn tại mà còn phát triển khắp cả thế giới và đứng vững một cách chắc chắn phải không thầy!”.

Người thầy gật đầu và nói với tôi “ Thầy cảm phục tinh thần của em. Em là người có chính kiến và dám sống cho chính kiến của mình.

Thầy tin rằng em sẽ làm được những điều tốt lành cho đất nước cho xã hội.

Chỉ tiếc những người có chính kiến và bản lãnh như em nơi sinh viên không có nhiều lắm. Chúc em thành công”.

Tạm biệt người thầy mà tôi đã làm phiền quấy rầy.

Tuy thời gian gặp gỡ không dài những tôi hiểu được phần nào nỗi đau của nhiều người, nhất là những giáo sư, thầy giáo, dẫu biết được sự thật mà không dám nói sự thật .

Ước mong sao nơi giảng đường trường đại học sẽ có những cánh cửa của tự do để tri thức thật được lên tiếng.

Mùa Xuân Hà Nội 2017
Sv Hoa Anh Đào
Nguồn:Facebook Lm Nguyễn Ngọc Nam Phong

CÒN CHẦN CHỜ GÌ NỮA MÀ KHÔNG TIN VÀO CHÚA & THÀNH TÂM CHẠY ĐẾN VỚI NGÀI ?

TÔI TỰ HÀO LÀ NGƯỜI CÔNG GIÁO
TÔI HÃNH DIỆN CÓ CHÚA LÀ CHA

Đòi chế độ cộng sản bồi thường tài sản: Con đường thứ ba là con đường rộng nhất

Đòi chế độ cộng sản bồi thường tài sản: Con đường thứ ba là con đường rộng nhất

  • Điều đình ngoài luật: Bài học từ cộng đồng tị nạn Nicaragua
  • Cơ hội để giúp “dân oan” ở Việt Nam

  • Công thức áp dụng cho người Việt ở các quốc gia khác

Ts. Nguyễn Đình Thắng

Ngày 25 tháng 9, 2017

http://machsongmedia.com

Ngoài con đường kiện ra toà và con đường giải quyết hành chính của Uỷ Hội FCSC, chúng tôi còn thực hiện con đường thứ ba: điều đình trực tiếp giữa nạn nhân và chế độ đã cưỡng đoạt tài sản, với sự theo dõi và hỗ trợ của chính quyền Hoa Kỳ.  Con đường này có những lợi điểm sau đây:

(1)    Các hồ sơ không hội đủ tiêu chuẩn cho 2 con đường đầu tiên có thể được giải quyết qua điều đình;

(2)    Chúng tôi có thể đưa vào cuộc điều đình một số điều kiện liên quan đến người dân ở Việt Nam;

(3)    Con đường này có thể làm khuôn mẫu cho các người Việt có quốc tịch Canada, Đức, Pháp, Úc… muốn đòi bồi thường tài sản.

Muốn chính quyền Việt Nam ngồi vào bàn điều đình, chúng tôi sẽ phải chứng minh rằng đấy là con đường ít tại hại và ít rủi ro nhất họ.  BPSOS đã bắt đầu công cuộc này vào cuối tháng 7 vừa qua, qua việc đánh chặn thoả thuận giữa tiểu bang Virginia và 6 tỉnh thành Việt Nam. Tuần này, chúng tôi nới rộng nó ra toàn quốc và leo thang lên cấp liên bang.

Phương thức điều đình để đòi bồi thường tài sản không là điều mới lạ. Cách đây 20 năm, cộng đồng tị nạn Nicaragua ở Hoa Kỳ đã thành công trong việc ép chính quyền Nicaragua phải bồi thường trên 1 tỉ Mỹ kim tại bàn điều đình. Họ đã chọn con đường điều đình vì có đến 2/3 số tài sản thuộc các người tị nạn Nicaragua chưa là công dân khi bị tịch thu.

 

Nhiều công ty doanh nghiệp Việt Nam và hợp doanh với ngoại quốc đang sử dụng tài sản do chính quyền cưỡng đoạt của công dân Hoa Kỳ gốc Việt (ảnh BPSOS)

Tấm gương Nicaragua

Năm 1979 nhóm kháng chiến quân Sandinista cướp chính quyền ở Nicaragua và lập tức quốc hữu hoá tài sản của các người có “máu mặt”. Trong đó có gần 5 nghìn tài sản của công dân Hoa Kỳ, và 23,000 của người Nicaragua. Ngay sau khi nhóm Sandinista lên nắm chính quyền, khoảng 20 nghìn người Nicaragua bỏ nước đến Hoa Kỳ tị nạn. Trong 10 năm sau đó, có thêm khoảng 100 nghìn người Nicaragua định cư Hoa Kỳ. Theo cuộc kiểm tra dân số gần đây nhất, năm 2010 dân số người Nicaragua ở Hoa Kỳ là 348 nghìn, bằng ¼ dân số người Việt ở Hoa Kỳ. Trong số người tị nạn Nicaragua, có khoảng 10 nghìn trường hợp bị chính quyền Sandinista tịch thu tài sản.

Tuy với dân số ít và hãy còn chân ướt chân ráo ở Hoa Kỳ, cộng đồng tị nạn Nicaragua đã vận động mạnh mẽ và hiệu quả. Trong những năm 1990, Hành Pháp Bill Clinton thương thảo với Việt Nam về thiết lập bang giao và lờ đi việc bồi thường tài sản cho người Mỹ gốc Việt, nhưng lại áp lực chính quyền Nicaragua bồi thường tài sản đã tịch thu của các người Nicaragua đang ti nạn ở Hoa Kỳ. Điểm cần lưu ý là, không như trường hợp ở Việt Nam, chính quyền Sandinista quốc hữu hoá ngay tất cả các tài sản mà họ tịch thu. Do đó, hầu như không người tị nạn Nicaragua nào có quốc tịch Hoa Kỳ khi bị mất tài sản. Thành ra, Uỷ Hội FCSC không thể can thiệp.

Cộng đồng Nicaragua tị nạn đã chọn giải pháp là vận động cả Hành Pháp và Quốc Hội Hoa Kỳ  đe doạ trừng phạt nặng nề, bao gồm cúp viện trợ, ngưng phát triển mậu dịch và chặn mọi khoản vay của Ngân Hàng Thế Giới … nếu chính quyền Nicaragua không chịu giải quyết các đòi hỏi bồi thường tài sản của người tị nạn gốc Nicaragua. Để tăng áp lực, năm 1995 Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua luật cho phép Hành Pháp trừng phạt Nicaragua nếu chậm trễ trong việc bồi thường.

Dưới áp lực ngày càng leo thang, chính quyền Nicaragua đồng ý ngồi vào bàn điều đình với toán đại diện cho các người tị nạn Nicaragua có hồ sơ đòi bồi thường. Cuộc điều đình diễn ra dưới sự quan sát chặt chẽ của Hành Pháp và Quốc Hội Hoa Kỳ. Tiến trình điều đình đến đâu bồi thường đến đó kéo dài 20 năm. Tháng 8 năm 2015, chính quyền Nicaragua giải quyết việc bồi thường cho hồ sơ cuối cùng của người tị nạn Nicaragua. Tổng cộng số tiền bồi thường vượt trên 1 tỉ Mỹ kim. Xem tường trình của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ về việc này: https://www.state.gov/e/eb/rls/othr/ics/2016/wha/254545.htm

Người tị nạn Nicaragua đã thành công vì họ không chỉ dốc sức vận động mà còn khôn khéo nhờ cộng đồng bạn là người Mỹ gốc Cuba, vốn có kinh nghiệm về đòi bồi thường tài sản, yểm trợ. Đó là bài học cho chúng ta. Cộng đồng tị nạn Nicaragua ít ỏi hơn chúng ta, mới mẻ hơn chúng ta nhưng đã gặt hái kết quả nhờ làm đúng cách.

Con đường thứ ba cho công dân Hoa Kỳ gốc Việt

Cộng đồng người Việt tị nạn có nhiều lợi thế hơn cộng đồng tị nạn Nicaragua. Thứ nhất, dân số người  Việt đông gấp hơn 4 lần dân số người Nicaragua ở Hoa Kỳ; trên nguyên tắc cộng đồng Mỹ gốc Việt phải có nhiều ảnh hưởng đối với chính giới Hoa Kỳ hơn hẳng cộng đồng Nicaragua tị nạn. Thứ hai, tuyệt đại đa số tài sản của người  Mỹ gốc Việt hội đủ tiêu chuẩn để được phán quyết bởi Uỷ Hội FCSC. Không như Nicaragua, chính quyền Việt Nam đã không quốc hữu hoá ngay các tài sản của người bỏ nước ra đi mà chỉ quản lý tạm thời; mãi sau này họ mới có chính sách quốc hữu hoá. Lúc ấy thì tuyệt đại đa số người Việt tị nạn và di dân đã trở thành công dân Hoa Kỳ.

Theo ước lượng của chúng tôi, khoảng 50% tổng số hồ sơ của người Mỹ gốc Việt có thể giải quyết qua con đường phán quyết của Uỷ Hội FCSC và 20% có thể điều kiện để kiện ra toà. Nghĩa là 30% tổng số hồ sơ chỉ có thể giải quyết bằng con đường thứ ba.

Ngoài ra, thể thức điều đình tạo cơ hội để hai bên thương lượng. Chẳng hạn, chúng tôi có thể đặt điều kiện là chính quyền Việt Nam phải đình chỉ các lệnh cưỡng chế đất đai ở Việt Nam cho đến khi hai bên cùng thoả mãn rằng tài sản của công dân Hoa Kỳ sẽ không bị xâm phạm. Nhắc lại, mọi vùng đất ở Việt Nam, kể cả ở trong Nam lẫn ngoài Bắc, đều có thể có tài sản của công dân Hoa Kỳ lẫn trong đó, tương tự trường hợp của Giáo Xứ Cồn Dầu, Đà Nẵng.  Bởi vậy, mỗi lệnh cưỡng chế đều phải đi kèm với thủ tục loan báo ở Hoa Kỳ, và cho đủ thời gian để mọi công dân Hoa Kỳ có thể lên tiếng nếu bị ảnh hưởng. Khi ấy, chính quyền Việt Nam phải bảo đảm mức bồi thường cho công dân Hoa Kỳ sẽ tuân theo công thức của Hoa Kỳ hay quốc tế chứ không tuỳ tiện như hiện nay. Nếu vậy, chính quyền cũng sẽ phải áp dụng cùng mức bồi thường cho mọi người dân trong khu đất bị cưỡng chế. Trên đây một ví dụ về các điều kiện có thể đưa ra tại bàn điều đình và chỉ tại bàn điều đình chứ không thể tại toà án hay với Uỷ Hội FCSC.

Các giai đoạn của cuộc vận động

Cuộc vận động cho giải pháp điều đình sẽ được tiến hành song song với các vụ kiện ra toà và cuộc vận động Uỷ Hội FCSC mở chương trình cho người Mỹ gốc Việt. Cuộc vận động này gồm có:

(1)    Vận động cắt viện trợ, chặn chương trình vay vốn quốc tế cho Việt Nam:

Luật pháp Hoa Kỳ có những biện pháp trừng phạt mạnh mẽ đối với quốc gia nào cưỡng đoạt tài sản của công dân Hoa Kỳ. Một trong những luật này là Tu Chính Án Helms (Helms Amendment) được Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua ngày 30 tháng 4, 1994. Tu Chính Án này do Thượng Nghị Sĩ Jesse Helms (Cộng Hoà, North Carolina) đề xướng. Ngôn ngữ của Tu Chính Án Helms:  http://uscode.house.gov/view.xhtml?req=(title:22%20section:2370a%20edition:prelim

Theo đó, Bộ Ngoại Giao phải phúc trình hàng năm cho Quốc Hội danh sách các trường hợp tài sản của công dân Hoa Kỳ bị cưỡng đoạt ở từng quốc gia và nỗ lực phối hợp giữa Hoa Kỳ và quốc gia ấy để giải quyết các đòi hỏi bồi thường của công dân Hoa Kỳ.

Luật này đòi hỏi Tổng Thống Hoa Kỳ ngưng viện trợ cho quốc gia nào không bồi thường công dân Hoa Kỳ cho các tài sản bị họ tịch thu mà được nêu lên trong bản phúc trình của Bộ Ngoại Giao. Không những vậy, Tổng Thống còn phải chỉ định đại diện của Hoa Kỳ tại các định chế tài chính và ngân hàng quốc tế ngăn chặn không cho quốc gia ấy vay vốn.

Cuộc vận động này bắt đầu trong tuần này. Chúng tôi sẽ phối hợp các “khổ chủ” mà chúng tôi đang có hồ sơ để liên lạc và yêu cầu các dân biểu và thượng nghị sĩ của họ đòi hỏi Hành Pháp Trump thực thi Tu Chính Án Helms.

(2)    Đẩy lùi nỗ lực của Việt Nam để xin đặc quyền mậu dịch:

Luật Mâu Dịch (Trade Act of 1974) của Hoa Kỳ ngăn cản Tổng Thống không được cấp những đặc quyền thuế quan cho các quốc gia nào cưỡng đoạt tài sản của công dân Hoa Kỳ. Xem:  https://fas.org/sgp/crs/misc/RL33663.pdf

Trước khi tham gia cuộc thương thảo Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership, hay TPP), Việt Nam ráo riết vận động Hoa Kỳ cho hưởng Hệ Thống Ưu Đãi Thuế Quan Tổng Quát Hoá (Generalized System of Preferences, hay GSP) để được giảm thuế đánh lên các mặt hàng xuất cảng vào Hoa Kỳ. Nay Tổng Thống Trump đã rút Hoa Kỳ khỏi TPP, Việt Nam đang quay trở lại vận động các đặc quyền mậu dịch song phương với Hoa Kỳ.

Nếu Việt Nam không chứng tỏ là họ chấp nhận bồi thường hoặc điều đình việc bồi thường, họ sẽ không thể xin xỏ các đặc quyền về thuế quan. Chúng tôi bắt đầu xúc tiến nỗ lực này vào cuối tháng 6 vừa qua.

(3)    Đánh chặn mọi nỗ lực đi cửa sau của Việt Nam để thu hút mậu dịch và đầu tư:

Bị sa lầy về cả GSP lẫn TPP, chế độ ở Việt Nam đã mở đường đối tác theo công thức kết nghĩa chị em giữa các thành phố Hoa Kỳ và Việt Nam. Gần đây, Bộ Ngoại Giao Việt Nam đạt được thoả thuận thư giữa 6 tỉnh thành Việt Nam với chính quyền Virginia về đầu tư và mậu dịch. Đây có thể xem như bước đột phá để mở đường cho các thoả thuận tương tự với nhiều tiểu bang khác của Hoa Kỳ.

Cuối tháng 7, chúng tôi đã thực hiện cuộc đánh chặn thoả thuận này bằng cách yêu cầu Thống Đốc và Quốc Hội Virginia đòi hỏi Việt Nam phải tôn trọng tài sản của người Mỹ gốc Việt sinh sống tại Virginia trước đã. Cuộc đánh chặn này được một số dân biểu và thượng nghị sĩ tiểu bang hậu thuẫn. Mục đích của chúng tôi là cho chế độ ở Việt Nam thấy mọi nỗ lực đi cửa sau của họ sẽ vấp phải chướng ngại là số tài sản của công dân Hoa Kỳ mà họ đã cưỡng đoạt không bồi thường.

Chúng tôi đang theo dõi những nỗ lực đi cửa sau tương tự ở các thành phố và tiểu bang Hoa Kỳ để sẵn sàng đánh chặn.

(4)    Lôi cuốn sự quan tâm của những doanh nhân và nhà đầu tư Hoa Kỳ:

Cuối tháng 7 BPSOS đã gửi đến tất cả các phòng thương mại trong tiểu bang Virginia thông tin về tình trạng cưỡng đoạt không bồi thường tài sản của công dân Hoa Kỳ. Trong những tháng tới đây, chúng tôi sẽ tuần tự gửi thông tin đến các phòng thương mại ở từng tiểu bang Hoa Kỳ, cho đủ 50 tiểu bang.

Chúng tôi cũng khai thác mọi cơ hội để nêu lên tình trạng chính quyền Việt Nam cưỡng đoạt tài sản của công dân Hoa Kỳ. Chẳng hạn, trong số 8 danh sách mà chúng tôi đề nghị trừng phạt theo Luật Magnitsky Toàn Cầu, có trường hợp thành phố Đà Nẵng đã xâm phạm tài sản của 12 công dân Hoa Kỳ.

Tại sao chế độ ở trong nước chấp nhận điều đình?

Chính quyền Việt Nam sẽ chỉ chấp nhận ngồi vào bàn điều đình khi hiểu ra rằng nếu không điều đình thì sẽ bị thiệt hại nhiều hơn.

Trước hết, họ sẽ không muốn ra hầu toà vì sợ bị đối chất về yếu tố bạo tàn lồng trong chính sách cưỡng đoạt tài sản: bắt người đi tập trung cải tạo, đuổi người đi kinh tế mới, xoá trắng cả một cộng đồng bản địa hay tôn giáo, tra tấn, đánh đập, bỏ tù, sát hại… Khi yếu tố bạo tàn này bị phanh phui trước toà, nó không những trở thành một vế nhơ lớn cho chế độ về mặt dư luận, mà còn tăng rủi ro bị toà áp đặt mức phạt gấp 3 lần trị giá của tài sản phải bồi thường. Điều này đã xảy ra cho chính quyền Cuba trong vụ kiện của Ông Gustavo Villoldo, người Mỹ gốc Cuba, năm 2008 toà tiểu bang Florida phán quyết Cuba phải trả gấp 3 lần trị giá tài sản mà họ đã tịch thu, tổng cộng lên đến 1.2 tỉ Mỹ kim.

Chế độ ở Việt Nam cũng không muốn bị rơi vào thế bó tay trước các phán quyết của Uỷ Hội FCSC. Họ đã có kinh nghiệm không vui ấy khi năm 1986 Uỷ Hội FCSC đơn phương phán quyết Việt Nam phải bồi thường cho 192 hồ sơ người Mỹ bị cưỡng đoạt tài sản năm 1975. Năm 1995 Việt Nam đã phải chấp nhận bồi thường số tiền trên 208 triệu Mỹ kim mà không được phép phản bác, phân trần, giải thích hay kháng cáo. Thiếu hợp tác thì sẽ bị trừng phạt về mậu dịch, viện trợ và vay vốn các ngân hàng quốc tế.

Cộng vào đó là cuộc vận động đánh chặn mọi toan tính đi cửa sau, có thể ảnh hưởng đến nỗ lực của chính quyền Việt Nam nhằm đạt mức 6.7% về tăng trưởng kinh tế. Nay TPP không còn và thương ước mậu dịch tự do Liên Âu – Việt Nam bị đẩy lùi, chế độ ở Việt Nam sẽ cân nhắc việc ngồi vào bàn điều đình để giảm tổn hại. Điều kiện tiên quyết của họ, nếu có điều đình, chắc chắn sẽ là đình chỉ các vụ kiện và con đường giải quyết theo Uỷ Hội FCSC. Đấy sẽ là điều mà chúng tôi cùng với toán luật sư tư vấn sẽ phải cân nhắc.

Người Việt ở các quốc gia khác có thể đòi bồi thường?

Trong thời gian qua, chúng tôi đã nhận được email của nhiều đồng hương ở Canada, Pháp, Đức và Úc hỏi về cách thức để đòi bồi thường tài sản đã bị chính quyền Việt Nam cưỡng đoạt. Dĩ nhiên, luật pháp Hoa Kỳ chỉ binh vực và can thiệp cho lợi ích của công dân Hoa Kỳ. Và có lẽ Hoa Kỳ có luật mạnh mẽ nhất để bảo vệ tài sản của công dân.

Chúng tôi không rõ luật pháp của các quốc gia khác về bảo vệ tài sản của công dân. Ngay dù một quốc gia không có luật bảo vệ tài sản công dân, nạn nhân bị cưỡng đoạt tài sản vẫn có thể đòi hỏi chính quyền của mình can thiệp và ép chế độ ở Việt Nam phải điều đình việc bồi thường. Bảo vệ tài sản của công dân là trách nhiệm đương nhiên của một chính quyền dân chủ, và được ghi đúc trong Điều 17 của Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền viết:

(1)    Mọi người đều có quyền sở hữu tài sản cá nhân cũng như tập thể.

(2)    Không ai có thể bị tước đoạt tài sản của mình một cách tuỳ tiện.

Chính quyền của quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc không những phải tôn trọng mà còn phải bảo vệ quyền này của công dân. Do đó, khi công dân bị một quốc gia khác xâm phạm tài sản, chính quyền có nghĩa vụ phải can thiệp. Hơn nữa, cưỡng đoạt tài sản của công dân một quốc gia khác là vi phạm những cam kết quốc tế giữa các quốc gia thành viên của LHQ với nhau. Công pháp quốc tế đã đề ra một số nguyên tắc để ngăn chặn sự vi phạm ấy: nguyên tắc không kỳ thị, nguyên tắc “vì công ích”, nguyên tắc bồi thường đầy đủ… Tuy nhiên, chính quyền sẽ không tự động can thiệp nếu họ không được thuyết phục rằng một số đông công dân đã bị xâm phạm tài sản khi đã là công dân.

Trước khi vận động chính quyền sở tại, bước chuẩn bị là thu gom hồ sơ. Lý tưởng là có khoảng 100 trở lên và “khổ chủ” đã là công dân của quốc gia sở tại khi tài sản bị quốc hữu hoá. Trong một bài trước tôi đã giải thích là nhà, đất của những người bỏ nước ra chỉ bị quản lý tạm thời bởi nhà nước. Đến cuối năm 1991 mới có quyết định của chính phủ là nhà, đất đang được quản lý đều trở thành tài sản của nhà nước; tuy nhiên việc thực hiện quyết định này rất tuỳ tiện và qua loa. Mãi đến năm 2003, Quốc Hội Việt Nam mới ra nghị quyết yêu cầu Uỷ Ban Nhân Dân các cấp tỉnh, thành phải hoàn tất việc quốc hữu hoá các tài sản do nhà nước quan lý tạm thời. Thời hạn thự thi là từ tháng 10, 2005 đến cuối tháng 6, 2009. Năm 1991, nhiều người Việt đã trở thành công dân của các quốc gia định cư. Trong khoảng thời gian 2005 – 2009, phần lớn người tị nạn và di dân Việt Nam đều đã là công dân của các quốc gia định cư.

Đối với các đồng hương ở Pháp, Canada, Đức, Úc và những quốc gia khác nữa, tôi đề nghị những người có hồ sơ đòi bồi thường tài sản phối hợp với nhau theo quốc gia.  Mỗi nhóm phối hợp cần bắt tay ngay vào việc phổ biến thông tin và thu thập hồ sơ, đồng thời nghiên cứu luật pháp và chính sách ở quốc gia mình về bảo vệ tài sản của công dân. BPSOS sẽ làm việc trực tiếp với các nhóm này để cập nhật thông tin và phối hợp hành động. Trong trường hợp chưa có nhóm phối hợp, đồng hương vẫn có thể gửi hồ sơ đến cho BPSOS qua email: taisan@bpsos.org. Chúng tôi sẽ lưu giữ hồ sơ và chuyển cho nhóm phối hợp khi được hình thành và nếu có sự đồng ý của chủ nhân của hồ sơ.

Con đường vận động sẽ không đơn giản. Tuy nhiên, nếu đi sau cuộc vận động ở Hoa Kỳ một bước thì có thể sẽ nhẹ đi gánh nặng nghiên cứu hồ sơ và nghiên cứu luật và thể thức quốc tế. Việc vận động cũng có thể sẽ nhẹ đi sau khi cuộc vận động của chúng tôi ở Hoa Kỳ tạo ra tiền lệ.

Lời kêu gọi

Cuộc vận động chính giới Hoa Kỳ cho giải pháp điều đình sẽ đòi hỏi một lượng lớn hồ sơ rải ra ở nhiều tiểu bang, thành phố, và địa hạt cử tri. Chúng tôi do đó rất cần sự hợp tác của đồng hương ở trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ. Quý vị nào có hồ sơ đòi tài sản, xin liên lác với chúng tôi qua email: taisan@bpsos.orghay qua số điện thoại: 703-538-2190. Dù không có hồ sơ, xin quý vị giúp chúng tôi chuyển thông tin này đến những người quen có hồ sơ.     Xin cảm ơn.

Các thông tin về Chương Trình Đòi Tài Sản của BPSOS được lưu trữ tại: http://www.doitaisan.org

Bài liên quan:

Đòi bồi thường tài sản: Khi nào chính quyền Hoa Kỳ can thiệp?
http://machsongmedia.com/vietnam/50-doi-tai-san/1254-2017-09-19-16-01-56.html

Công dân Mỹ gốc Việt đòi tài sản: thể thức phán quyết hành chính
http://machsongmedia.com/vietnam/50-doi-tai-san/1250-2017-09-11-01-10-19.html

BPSOS công bố chương trình công dân Mỹ gốc Việt đòi tài sản
http://machsongmedia.com/vietnam/50-doi-tai-san/1245-2017-08-30-22-18-18.html

Đòi bồi thường tài sản bị cưỡng đoạt: Khai thác luật Hoa Kỳ
http://machsongmedia.com/vietnam/50-doi-tai-san/1246-2017-08-31-04-16-57.html

Đòi bồi thường tài sản bị cưỡng đoạt: Thế kẹt của chính quyền khi bị kiện
http://machsongmedia.com/vietnam/50-doi-tai-san/1247-2017-09-01-17-16-30.html

Đòi bồi thường tài sản bị cưỡng đoạt: Người ở trong nước có thể tiếp tay
http://machsongmedia.com/vietnam/50-doi-tai-san/1248-2017-09-05-01-10-13.html