Một linh mục bị Đức quốc xã giết sẽ được phong chân phước
Một linh mục ở Ý, bị Đức quốc xã sát hại vì cứu người Do thái, sẽ được phong chân phước như một vị tử đạo.
Đó là cha Giuseppe Beotti, cha sở giáo xứ Sidolo thuộc tỉnh Parma, bắc Ý. Cha sinh ngày 02 tháng Tư năm 1912 trong một gia đình nông dân, thụ phong linh mục năm 1938, nổi bật về lòng bác ái cứu giúp người nghèo và dấn thân huấn luyện giới trẻ, và chăm chỉ cầu nguyện. Cha giúp đỡ mọi người, từ quân kháng chiến chống Đức, cho đến người Do thái, các binh sĩ và những người bị thương.
Trong thời quân Đức quốc xã chiếm nước Ý, cha bênh vực các giáo dân và bị bị xét xử, nhưng được trắng án.
Cha Giuseppe Beotti cũng đón nhận và cứu giúp các binh sĩ Ý trốn chạy, các tù nhân chiến tranh, những người bị bách hại, trong đó có hàng trăm người Do thái mà cha để ẩn náu trong những nhà tranh ở đồng quê, nhờ sự hỗ trợ của giáo dân. Cha không chạy trốn trước những cuộc càn quét và trả thù của quân Đức. Cha bị bắt và xử bắn, ngày 20 tháng Bảy năm 1944, tại Sidolo, lúc mới 32 tuổi.
Sắc lệnh nhìn nhận cuộc tử đạo của cha Beotti được Đức Thánh cha Phanxicô chấp thuận cho Bộ Phong thánh, ngày 20 tháng Năm vừa qua, cùng với các sắc lệnh nhìn nhận các nhân đức anh hùng của tám vị tôi tớ Chúa, trong đó có một linh mục người Cameroon bên Phi châu, là cha Simon Mpeke, người đã thành lập Liên hiệp Linh mục Chúa Giêsu Caritas tại Cameroon, do thánh Charles de Foucauld sáng lập.
Cha Mpeke sinh trưởng trong một gia đình ngoại giáo, nhưng trở lại Công giáo và trở thành linh mục năm 1935, nổi bật về đời sống thánh thiện, thăng tiến con người.
(Vatican News 20-5-2023)
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Thánh Isidore. (St. Isidore of Madrid, 1070-1130)-Cha Vương
Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Isidore. (St. Isidore of Madrid, 1070-1130)
Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé. Xin thánh nhân chuyển cầu cho chúng con được sống thánh giữa đời.
Cha Vương
Thứ 2: 15/05/2023
Thánh Isidore là quan thầy của các nông dân và làng quê. Ðặc biệt, ngài là quan thầy của Madrid, Tây Ban Nha, và của Hội Nghị Ðời Sống Công Giáo Thôn Quê Hoa Kỳ.
Khi lớn tuổi, ngài làm công cho gia đình ông Gioan de Vergas, một địa chủ giầu có ở Madrid, và trung thành làm việc cho đến mãn đời. Isidore kết hôn với một thiếu nữ đạo đức và chính trực mà sau này bà được tuyên xưng là thánh Maria de la Cabeza. Hai người có được một con trai nhưng chẳng may cậu chết sớm. Cả hai ông bà tin rằng ý Chúa không muốn hai người có con, do đó họ quyết định sống khiết tịnh cho đến suốt đời.
Isidore là người đạo đức thâm trầm bẩm sinh. Ngài thức dậy từ sáng sớm để đi lễ và dành thời giờ trong những dịp lễ lớn để đi viếng các nhà thờ ở Madrid và vùng phụ cận. Trong khi làm việc, ngài luôn chuyện trò với Thiên Chúa. Khi bị các đồng nghiệp cho rằng ngài trốn tránh nhiệm vụ qua việc tham dự Thánh Lễ hằng ngày, lấy nhiều thời giờ để cầu nguyện, v.v…,
Isidore trả lời rằng ngài không còn lựa chọn nào khác hơn là tuân theo Ông Chủ tối cao. Truyền thuyết kể rằng, một sáng kia khi ông chủ đến cánh đồng để bắt quả tang Isidore trốn việc đi nhà thờ, ông thấy các thiên thần đang cầy cấy nơi khu ruộng của Isidore.
Isidore còn nổi tiếng là thương người nghèo và cũng thường để ý đến việc chăm sóc loài vật.
Isidore từ trần ngày 15 tháng Năm 1130, và được phong thánh năm 1622, cùng với các Thánh I-nhã, Phanxicô Xaviê, Têrêsa và Philip Nêri.
Lời Bàn: Chúng ta có thể tìm thấy nhiều sự ứng dụng nơi vị lao công thánh thiện này: Công việc lao động có phẩm giá; sự thánh thiện không bắt nguồn từ địa vị xã hội; sự chiêm niệm không lệ thuộc vào học thức; đời sống thanh bạch là con đường dẫn đến sự thánh thiện và hạnh phúc. (Nguồn: GP Vĩnh Long)
Nguồn: Đỗ Dzũng
Nên Thánh Giữa Đời (Sáng tác: Sr. Têrêsa)- Xara Trần
Thánh Pancratiô (289 – 304)-Cha Vương
Một ngày trung tín trong việc nhỏ nhé. Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Pancratiô (289 – 304), vị tử đạo tí hon. Xin thánh nhân chuyển cầu cho chúng ta.
Cha Vương
Thứ 6: 12/05/2023
Chúng ta cần biết về một vị thánh tử đạo còn rất trẻ: Thánh Pancratiô. Ngài chết vào lúc mới 14 tuổi trong năm 304. Pancratiô là một thiếu niên rất đẹp trai và khỏe mạnh, luôn thắng các thiếu niên khác trong những trận đô vật. Một hôm Pancras thắng một thiếu niên ngoại đạo, người này rất tự phụ tự đắc. Để trả thù, hắn đi tố với hoàng đế rằng Pancras là người Công giáo. Thời đó, đạo Công giáo bị luật Rôma cấm đoàn.
Hoàng đế là bạn thân của cha Pancratiô (người cha này đã qua đời), nên muốn tha cho Pancratiô. Ông cố gắng làm mọi cách cho Pancratiô thay đổi ý . Hoàng đế nói: Con chỉ cần dâng vài lời cầu nguyện với các thần của ta, và ta sẽ ban cho quyền bính trong đế quốc ta. Tuy Pancratiô sợ chết lắm, nhưng em không thể chối Chúa Giêsu. Pancratiô đáp lại: Nhờ phép rửa tội, tôi đã nên con Thiên Chúa. Tôi không bao giờ từ chối Chúa Giêsu, cho dù có được cả một đế quốc. Thế là Pancratiô đã bị xử tử hình.
Ngài đã tỏ ra can đảm biết bao khi bị điệu qua các đường phố như một một tên trọng tội. Ngài đã không hề kêu la khi quân lính đánh đòn, và không hề đổi ý khi nghe dân chúng chế nhạo. Trái lại, Pancratiô đã nghĩ đến Chúa Giêsu đang bị điệu qua các ngả đường Giêrusalem đến nơi Ngài bị đóng đinh. Trước khi Pancratiô bị một lưõi gươm chém đầu, Ngài đọc lời kinh này chứng tỏ sự bình an trong tâm hồn và sức mạnh Ngài có: “Lạy Chúa Giêsu, con cám ơn Chúa về đau khổ con sắp lãnh nhận. Con chấp nhận đau khổ này với lòng hân hoan, vì biết rằng cái chết của con sẽ đưa con về Thiên Đàng để ở với Chúa mãi mãi. Lạy Chúa Giêsu, xin cứu những kẻ sắp giết con!”
Ngài được chôn trong một nghĩa địa mà sau này mang tên của ngài. Thánh Pancratius được nước Anh đặc biệt sùng kính vì Thánh Augustine ở Canterbury đã dâng hiến một nhà thờ ở đây cho Thánh Pancratius, và thánh tích của ngài được tặng cho vua xứ Northumberland.
Lời Trích: “Chúng sẽ bắt bớ và ngược đãi anh em, nộp anh em cho các hội đường và nhà tù, và chúng sẽ điệu anh em đến trước mặt vua quan vì danh Thầy. Ðó là cơ hội để anh em làm chứng. Hãy nhớ rằng, đừng lo nghĩ cách bào chữa, vì chính Thầy sẽ cho anh em tài ăn nói khôn ngoan khiến tất cả các địch thủ không tài nào chống đối hay bắt bẻ được” (Lc 21,12-15). (Nguồn: HĐĐMVN)
Lạy Thánh Pancratiô, xin cầu bầu cho con biết luôn luôn kiên trì trong đức tin.
Nguồn: Đỗ Dzũng
Thánh Đamien (3 -1-1840 – 15 – 4 -1889)
Chúc bình an đến bạn và gia đình nhé. Hôm nay Giáo Hội Hoa Kỳ mừng kính Thánh Đamien, vị anh hùng của người Hawaii. Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy.
Cha Vương (cũng là Sinh Nhật của Cha)
Thứ 4: 10/05/2023
Cha Đamien của hòn đảo Molokai, Hawaii, tên là Joseph de Veuster sinh tại Tremelo, Bỉ vào ngày 3 tháng 1 năm 1840. Khi anh của ngài vào tu dòng Thánh Tâm, cha của Ngài chuẩn bị để Ngài nối nghiệp buôn bán của gia đình. Tuy nhiên, Ngài quyết định hiến thân mình cho Chúa. Năm 1859, Ngài vào tu tại một chủng viện ở Louvain và lấy tên là Đamien.
Năm 1863, anh của Ngài được sai đi truyền đạo ở quần đảo Hawaii nhưng không may bị bệnh rất nặng. Đamien xin bề trên và được phép đi thay cho anh của mình.
Ngài đến Honolulu vào ngày 19 tháng 3 năm 1864 và được phong chức linh mục vào ngày 21 tháng 5 năm 1864. Ngài được sai đến Big Island để bắt đầu công việc của một vị linh mục.
Vào thời gian đó, chính quyền Hawaii quyết định ngăn chặn sự lây lan của bịnh cùi bằng cách trục xuất những người bị nghi ngờ là mắc bệnh cùi tới Kalaupapa trên hòn đảo Molokai – một nơi rất xa xôi và hẻo lánh được bao quanh với núi và biển. Những người bị bỏ rơi này xin được có một bậc tu trì đến để giúp đỡ họ về những nhu cầu tinh thần. Đức Cha Louis Maigret nói cho các cha nghe về vấn đề này và có vài cha xung phong đi trong vòng vài tháng. Cha Đamien là người đầu tiên ra đi vào ngày 10 tháng 5 năm 1873. Với lời xin của Ngài và của những người cùi ở Kalaupapa, Ngài đã ở lại Molokai.
Ngài đã mang những tia hy vọng tới chốn địa ngục đầy thất vọng này. Ngài đã trở thành nguồn an ủi và sự khuyến khích cho đàn chiên của ngài bằng cách trở thành vị bác sĩ cho linh hồn và thể xác của họ không kể sắc tộc và màu da. Ngài đã trở thành tiếng nói của những người câm và xây dựng một cộng đoàn nơi những người cùi tìm ra những lý do mới để sống. Một nơi không luật pháp đã trở thành một nơi thống trị bởi luật yêu thương.
Sau khi Ngài bị nhiễm bệnh cùi vào năm 1885, cha Đamien đã có thể cảm thông hoàn toàn với những bệnh nhân cùi. Ngài thường nói, “Chúng ta, những người cùi”. Cha Đamien trở thành một chứng nhân tình yêu của Chúa cho mọi người. Sức mạnh của Ngài đến từ Thánh Thể như chính Ngài đã viết: “Chính nơi chân bàn thờ là nơi chúng ta có thể tìm thấy sức mạnh chúng ta cần khi bị bỏ rơi . . .” Chính nơi này Ngài đã tìm ra sức mạnh và sự khuyến khích để phục vụ anh chị em cùi. Vì những tia hy vọng và sự âm thầm phục vụ người là “vị truyền giáo hạnh phúc nhất trên thế gian”, và là một đầy tớ trung thành của Chúa và nhân loại.
Cha Đamien đã qua đời ngày 15 tháng 4 năm 1889 sau 16 năm sống và phục vụ giữa những bệnh nhân cùi. Xác Ngài đã được chuyển về Bỉ năm 1936 nơi người được chốn cất trong nhà dòng Thánh Tâm tại Louvain. Ngài đã được biết đến khắp thế giới. Năm 1938, quá trình xin phong cho Ngài làm Á Thánh được giới thiệu tại Malines, Bỉ. Đức Giáo Hoàng Phaolô thứ VI đã kí nghị định “anh hùng của sự trinh tiết và thương yêu” vào ngày 7 tháng 7 năm 1977.
Qua Cha Đamien, Giáo Hội có một tâm gương cho những người tìm được ý nghĩa trong Kinh Thánh và cho những người mong ước đem Tin Mừng của Chúa đến cho người nghèo. Năm 1955, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong Cha Đamien làm Á Thánh tại Burssels. Vào ngày 11 tháng 10 năm 2009, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI phong thánh cho Ngài. Ngày mừng kính thánh Đamien là ngày 10 tháng 5 hằng năm.
Hai Phép lạ đã được Tòa Thánh công nhận là do lời cầu xin của Chân Phước Damien:
(1) Ngày 13 tháng sáu, 1992, ĐGH Gioan Phaolô II công nhận Phép lạ xẩy ra năm 1895 cho một Nữ tu người Pháp, tên là Simplicia Hue, nằm chờ chết vì bịnh ruột. Nhờ làm tuần 9 ngày cầu xin Cha Damien cứu chữa, nên qua một đêm, liền hết bịnh.
(2) Phép lạ thứ hai xẩy đến cho một phụ nữ người Hawai’i bị ung thư, tên là Audrey Toguchi. Năm 1997, bà được Bác sĩ Walter Chang cho biết: chứng ung thư tế bào đã lan khắp chân, và phổi. Không thể chữa lành được. Và hồ sơ bệnh trạng được lưu trữ tại ”Hawaii’i medical Journal, October 2000”. Toà Thánh đã công nhận là hai phép lạ thật, và cần thiết để ĐGH Benêđitô XVI tuyên bố Chân Phươc Damien lên bậc Hiển Thánh.
Thánh Tông Đồ Philipphê và Giacôbê
Chúc bình an đến bạn và gia đình. Hôm nay 3/5 Giáo Hội mừng kính trong thể 2 thánh Tông Đồ Philipphê và Giacôbê. Mừng bổn mạng đến những ai chọn các ngài làm quan thầy nhé.
Cha Vương
Thứ 4: 03/05/2023
Thánh Philipphê là người xứ Bethsaida. Ông là một trong những người đầu tiên được Đức Giêsu kêu gọi. Chính ông đã mách cho Nathanael Tin mừng lớn lao này: “Đấng mà sách luật Môsê và các ngôn sứ nói tới, chúng ta đã gặp. Đó là ông Giêsu, người Nazareth”. Thấy bạn mình còn hoài nghi, ông đã giục: “Cứ đến mà xem”. Nathanael sau khi đã gặp Đức Giêsu và nghe Ngài nói thì đã tin. Philipphê đã xuất hiện nhiều lần trong Phúc âm: Lúc Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều; làm trung gian cho những người ngoại giáo muốn gặp Đức Giêsu. Philipphê cũng là người đã xin Đức Giêsu: “Lạy Ngài, xin chỉ cho chúng con thấy Cha, thế là đủ cho chúng con”. Người ta nghĩ rằng ông đã đem Tin mừng đến cho người Scythen sau ngày lễ Ngũ tuần và chết rất thọ ở Hiérapolis, tại Phrygie.
Còn thánh Giacôbê mà chúng ta mừng kính hôm nay là Giacôbê hậu, con ông Alphê. Gọi là Giacôbê hậu để phân biệt với Giacôbê tiền, là con của ông Dêbêđê. Phân biệt này không mang ý nghĩa gì khác ngoài việc tránh sự nhầm lẫn. Khoa Thánh Kinh còn nghi ngờ không biết có phải Giacôbê hậu này có phải là “anh em của Đức Giêsu” và là tác giả của lá thư Giacôbê hay không? Nhưng Phụng vụ Rôma lại có sự đồng hoá và xác nhận. Trước khi các Tông đồ tản mác mỗi người một nơi, thì họ chỉ định thánh Giacôbê làm Giám mục Giêrusalem. Ngài là linh hồn của cộng đoàn Giêrusalem. Vì ngài đã làm cho nhiều người trở lại với Đức Giêsu nên bị bản án ném đá. Ngài đã chịu tử đạo đang khi quỳ gối cầu nguyện cho tên lý hình đang kết thúc đời Ngài bằng một thanh sắt giáng xuống trên người, trong thời điểm mừng lễ Vượt Qua. (Theo “Tự điển các thánh”, trang 268-269 và trang 159).
Noi gương thánh Philipphê và thánh Giacôbê, bạn có thể trở thành tông đồ của Chúa qua lối sống hằng ngày của mình hôm nay bằng cách làm những việc nhỏ với một con tim chân thành, với một thái độ cởi mở. Đây là một minh chứng hùng hồn và cụ thể nhất cho đức tin của mình đó.
Xin thánh Philipphê và thánh Giacôbê, cầu cho chúng con.
From: Đỗ Dzũng
Mai Thảo, Thanh Sử – Hãy Theo Thầy
Thánh Giuse Thợ-Cha Vương
Tháng 5 rồi bạn ơi! Tháng 5 là tháng hoa dâng kính Đức Mẹ Maria. Giáo Hội dành riêng tháng này để đặc biệt kính mến Đức Maria. Những lúc gian nan nguy khốn cũng như khi được an bình hạnh phúc, bạn luôn biết chạy đến cùng Mẹ để được an ủi, vỗ về, che chở và dâng lời cảm tạ. Trong khi làm công việc hằng ngày, mời bạn dâng lên Mẹ hoa hồng của lòng yêu mến, xin Mẹ dạy cho bạn biết yêu Chúa hết lòng và yêu anh chị em mình như Chúa đã yêu họ vậy. Hôm nay cũng là ngày kính Thánh Giuse Thợ, xin Thánh Giuse cầu bầu cho chúng con.
Cha Vương
Thứ 2: 1/5/2023
Thánh Giuse Thợ: Hiển nhiên là để đối ứng với việc cử hành “Ngày Lao Ðộng” của Cộng Sản mà Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã thiết lập ngày lễ Thánh Giuse Thợ vào năm 1955. Nhưng sự liên hệ giữa Thánh Giuse và ý nghĩa lao động đã có từ lâu trong lịch sử.
Trong nỗ lực cần thiết để nói lên nhân tính của Ðức Giêsu trong đời sống thường nhật, ngay từ ban đầu Giáo Hội đã hãnh diện nhấn mạnh rằng Ðức Giêsu là một người thợ mộc, hiển nhiên là được cha nuôi của Ngài huấn luyện, một cách thành thạo và khó nhọc trong công việc ấy. Nhân loại giống Thiên Chúa không chỉ trong tư tưởng và lòng yêu thương, mà còn trong sự sáng tạo. Dù chúng ta chế tạo một cái bàn hay một vương cung thánh đường, chúng ta được mời gọi để phát sinh kết quả từ bàn tay và tâm trí chúng ta, nhất là trong việc xây đắp Nhiệm Thể Ðức Kitô.
LỜI BÀN: “Sau đó Thiên Chúa đưa người đàn ông vào sống trong vườn Eden, để cầy cấy và chăm sóc khu vườn” (Sáng Thế 2:15). Thiên Chúa Cha đã tạo dựng nên mọi sự và muốn con người tiếp tục công trình tạo dựng ấy. Con người có phẩm giá là qua công việc, qua sự nuôi nấng gia đình, qua sự tham dự vào đời sống sáng tạo của Thiên Chúa Cha. Thánh Giuse Thợ có thể giúp chúng ta tham dự một cách sâu xa vào mầu nhiệm tạo dựng ấy. Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã nhấn mạnh đến điều này khi nói, “Thần khí chan hòa trên bạn và mọi người phát xuất từ con tim của Ðấng vừa là Thiên Chúa vừa là con người, Ðấng Cứu Ðộ trần gian, nhưng chắc chắn rằng, không người lao động nào được thấm nhuần thần khí ấy một cách trọn vẹn và sâu đậm cho bằng cha nuôi của Ðức Giêsu, là người sống với Ngài một cách mật thiết trong đời sống gia đình cũng như làm việc. Do đó, nếu bạn ao ước muốn đến gần Ðức Kitô, một lần nữa chúng tôi lập lại rằng, ‘Hãy đến cùng Thánh Giuse'” (xem Sáng Thế 41:44). (Nguồn: Người Tín Hữu online)
CẦU NGUYỆN: Lạy Thiên Chúa tạo thành trời đất, Chúa đã muốn cho con người lao động để tiếp tục công trình của Chúa. Xin nhận lời thánh cả Giuse chuyển cầu, cho chúng con biết noi gương người để lại là chu toàn nhiệm vụ Chúa đã trao phó hầu được hưởng niềm vui Chúa đã hứa cho tôi tớ trung thành. Chúng con cầu xin… (Lời nguyện nhập lễ)
From: Đỗ Dzũng
THÁNH GIUSE GƯƠNG LAO ĐỘNG (Imprimatur). Quỳnh An – ST Phong Trần
Thánh Catarina ở Siena (1347 — 1380)- ngày 29/04
Trong cuộc đời ngắn ngủi, Thánh Catarina đặt trọng tâm vào việc hoàn toàn phó thác cho Ðức Kitô. Ðiều đáng khâm phục về thánh nữ là ngài coi việc phó thác cho Chúa như một mục đích phải đạt được qua thời gian.
Thánh Catarina, tên thật là Catarina Benincasa, sinh ở Siena và là người con út trong một gia đình có đến 23 người con. Ngay từ khi bảy tuổi, cô đã dâng hiến tâm hồn cho Ðức Kitô. Nơi cô sinh trưởng rất gần San Domenico, trung tâm truyền giáo của Dòng Ða Minh, và khi lớn lên cô bày tỏ ý muốn đi tu, nhưng gia đình lại muốn cô kết hôn. Ðể nói lên ý chí quyết liệt của mình, cô đã cắt tóc và sau cùng, với sự đồng ý của cha mẹ, Catarina gia nhập tổ chức Mantellate, là hội phụ nữ có liên hệ đến Dòng Ða Minh, họ mặc áo dòng nhưng sống ở nhà, phục vụ người nghèo và người đau yếu. Trong vòng hai năm liên tiếp cô không bao giờ rời phòng, trừ khi đi xem lễ và xưng tội, và cũng không nói chuyện với một ai ngoại trừ cha giải tội. Trong thời gian này, Catarina luyện tập tâm linh qua lối sống khắc khổ.
Sau đó, cô tự phá vỡ đời sống cô độc và bắt đầu hăng say chia sẻ công việc trong nhà, săn sóc người bệnh và giúp đỡ người nghèo. Tuy nhiên cô vẫn dành thời giờ trong thinh lặng và chiêm niệm.
Dần dà, người ta nhận thấy dường như Catarina đọc được tâm hồn của họ và dân chúng thuộc đủ mọi thành phần — giầu và nghèo, tu sĩ và giáo dân, thợ thuyền và lính tráng – bắt đầu tuốn đến với cô để được khuyên bảo. Từ đó một tổ chức tông đồ giáo dân được thành hình. Các lá thư của cô, hầu hết là các lời khuyên bảo tinh thần và khuyến khích các người mến mộ, ngày càng được công chúng đón nhận.
Vì sự hòa đồng với người đời một cách không sợ sệt cũng như lời nói bộc trực và uy quyền của một người hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa, Catarina đã bị dị nghị và dèm pha. Nhưng mọi điều cáo buộc cô đã bị bác bỏ trong Tổng Công Hội Dòng Ða Minh năm 1374.
Cô có ảnh hưởng rất lớn vì sự thánh thiện hiển nhiên, cũng như vì ảnh hưởng sâu đậm đối với đức giáo hoàng. Cô làm việc không biết mệt trong cuộc thập tự chinh chống với người Thổ Nhĩ Kỳ và trong việc hòa giải thành phố Florence với đức giáo hoàng.
Cô thành công trong việc thuyết phục Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô XI trở về Rôma, nhưng không bao lâu đức giáo hoàng từ trần và Ðức Urbanô VI lên ngôi. Khi cuộc Ðại Ly Giáo bùng nổ, Ðức Urbanô VI mời Catarina đến Rôma, vì đức giáo hoàng cần sự hỗ trợ của cô. Năm 1378, cô đến Rôma và thường xuyên viết thư gửi các nhà lãnh đạo quốc gia và Giáo Hội để bảo vệ cho quyền giáo hoàng của Ðức Urbanô. Hàng ngày, cô đi bộ đến Ðền Thánh Phêrô và cầu nguyện cho sự hiệp nhất.
Một vài tuần trước khi chết, cô đang cầu nguyện trước một bức khảm ở Ðền Thánh Phêrô, cô trông thấy con thuyền của Thánh Phêrô dường như rời khỏi bức khảm và đậu trên vai của cô. Con thuyền xô cô ngã quỵ và người ta phải khiêng cô về nhà. Catarina hầu như bất toại cho đến khi từ trần, ngày 24 tháng Tư 1380, lúc ấy mới ba mươi ba tuổi.
Cô được Ðức Giáo Hoàng Piô II phong thánh năm 1461, và được coi là một trong những vị thần nghiệm và văn sĩ linh đạo của Giáo Hội. Vào năm 1970, Ðức Phaolô VI tuyên xưng thánh nữ là Tiến Sĩ Hội Thánh. Thánh Catarina là người phụ nữ thứ hai (sau Thánh Têrêsa ở Avila) được vinh dự này.
Trong khi các thư của Thánh Catarina thường được coi là cửa ngõ để biết đến con người của ngài, nhưng người ta thường nhắc đến tác phẩm “Ðối Thoại” mà ngài chỉ coi đó là “cuốn sách của tôi,” gồm các lời giảng dạy của thánh nữ để lại cho các người mến mộ. Cha Raymond, vị linh hướng của thánh nữ cho biết tác phẩm này ghi lại những lời đối thoại với Thiên Chúa khi ngài ngất trí.
Trích từ NguoiTinHuu.com
Thánh Máccô -25 /4
Những gì chúng ta biết về Thánh Máccô thì trực tiếp từ Kinh Thánh Tân Ước. Ngài thường được coi là nhân vật Máccô trong Tông Ðồ Công Vụ 12:12 (Khi Phêrô thoát khỏi ngục và đến nhà mẹ của Máccô).
Phaolô và Barnabas muốn đem theo Máccô trong chuyến truyền giáo đầu tiên, nhưng vì một vài lý do nào đó, Máccô đã ở lại Giêrusalem một mình. Trong cuộc hành trình thứ hai, Phaolô lại từ chối không muốn đem theo Máccô, bất kể sự nài nỉ của Barnabas, điều đó chứng tỏ Máccô đã làm phật lòng Phaolô. Sau này, Phaolô yêu cầu Máccô đến thăm ngài khi ở trong ngục, điều đó cho thấy sự bất hòa giữa hai người không còn nữa.
Là phúc âm đầu tiên và ngắn nhất trong bốn Phúc Âm, Máccô nhấn mạnh đến việc Ðức Giêsu bị loài người tẩy chay trong khi chính Người là Thiên Chúa. Phúc Âm Thánh Máccô có lẽ được viết cho Dân Ngoại tòng giáo ở Rôma — sau cái chết của Thánh Phêrô và Phaolô khoảng giữa thập niên 60 và 70.
Cũng như các thánh sử khác, Máccô không phải là một trong 12 tông đồ. Chúng ta không rõ ngài có biết Ðức Kitô một cách cá biệt hay không. Một số sử gia cho rằng vị thánh sử này đã nói đến chính ngài trong đoạn Ðức Kitô bị bắt ở Giệtsimani: “Bấy giờ một người trẻ đi theo Người chỉ khoác vỏn vẹn một tấm vải gai. Họ túm lấy anh, nhưng anh tuột tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng” (Máccô 14:51-52).
Nhiều người khác cho rằng Máccô là giám mục đầu tiên của Alexandria, Ai Cập. Thành phố Venice, nổi tiếng với quảng trường San Marco, cho rằng Thánh Máccô là quan thầy của thành phố này; một vương cung thánh đường vĩ đại ở đây được coi là nơi chôn cất thánh nhân.
Dấu hiệu của Thánh Máccô là sư tử có cánh, do bởi đoạn Máccô diễn tả Gioan Tẩy Giả như một “tiếng kêu trong hoang địa” (Máccô 1:3), mà các nghệ nhân so sánh tiếng kêu ấy như tiếng sư tử gầm. Ðôi cánh của sư tử là vì người ta dùng thị kiến của Êgiêkien về bốn con vật có cánh mà áp dụng cho các thánh sử.
Lời Bàn
Cuộc đời Thánh Máccô đã hoàn tất những gì mà mọi Kitô Hữu được mời gọi để thi hành: rao truyền Tin Mừng cứu độ cho mọi người. Ðặc biệt, phương cách của Thánh Máccô là qua sự viết văn. Những người khác có thể loan truyền Tin Mừng qua âm nhạc, nghệ thuật sân khấu, thi văn hay giáo dục con em ngay trong gia đình.
Lời Trích
Hầu hết những gì Thánh Máccô viết đều có đề cập đến trong các Phúc Âm khác — chỉ trừ bốn đoạn. Sau đây là một đoạn: “… Chuyện nước trời cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Ðêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết. Ðất tự động sinh ra hoa màu: trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt. Lúa vừa chín, người ấy đem liềm hái ra gặt, vì đã đến mùa” (Máccô 4:26-29).
Trích từ NguoiTinHuu.com
CHA THÁNH MAXIMILIAN KOLBE & BẢN THIẾT KẾ CON TÀU VŨ TRỤ BAY LÊN MẶT TRĂNG
Thánh Maximilian Kolbe được biết đến là 1 vị linh mục thánh thiện với tấm gương hy sinh quên mình ở trại tử thần Auschwitz, nơi cha thuyết phục lính Đức Quốc xã giết cha thay vì một tù nhân khác đã có vợ con. Ngoài sự súng kính và tận tụy phi thường của mình đối với Chúa và Đức Mẹ Maria, cha thánh còn có niềm đam mê với khoa học vũ trụ.
Một trong những bạn học của Thánh Kolbe ở trường dòng sau này đã giải thích rằng Kolbe đã bị mê hoặc bởi phát minh của Anh em nhà Wright với nguyên lý khí động học của máy bay. Người ta thường thấy thánh nhân cùng các chủng sinh đang thiết kế các bản vẽ về tàu vũ trụ trên lý thuyết.
Trong cuốn tiểu sử “Maximilian Kolbe, Một con người dám chết vì người khác”, tác giả Bronislaus Strycznys cho biết, “Cha đã dự đoán trước được khả năng lên mặt trăng bằng tàu vũ trụ và ông ấy đã nghĩ ra nhiều phát minh phi thường.”
Niềm đam mê khoa học của Thánh Kolbe thể hiện qua những bản thiết kế nguệch ngoạc trông có vẻ đơn giản trong sổ tay của cha, nhưng thực tế hình dạng của chúng đã được cha tạo ra dựa trên các công thức tính toán và các thông số khoa học kỹ thuật !
Thánh Kolbe đã đi xa đến mức gửi bản thiết kế cho một tạp chí khoa học vào năm 1918. Lúc đó cha mới 24 tuổi nhưng lại có đầu óc sáng tạo, niềm đam mê khoa học cùng với một trí tuệ vượt trội. Một trong những giáo sư của cha ấy thậm chí còn gợi ý rằng cha nên đăng ký bằng sáng chế cho tàu vũ trụ của mình .
Các thông số kỹ thuật cũng như các bản vẽ gốc của cha được tìm thấy trong cuốn sách “Các tác phẩm của Thánh Maximilian Maria Kolbe, Tập II.”
Qua các bản phác thảo của Cha Kolbe, cha đã dự đoán khá chính xác một con tàu vũ trụ thực tế sẽ có cấu tạo như thế nào… qua 51 năm sau. Đó là tàu vũ trụ Apollo bay lên Mặt trăng
Bản phác thảo có thể được xem tại trang web :https://www.cadblog.pl/index…/2020/12/15/swiety-innowator/ ,
trang này cũng cho biết niềm đam mê khoa học của Thánh Maximilian Kolbe cũng lan sang lĩnh vực sóng vô tuyến. Đài Radio Niepokalanow do Thánh Kolbe xây dựng đã trở thành đài phát thanh Công giáo đầu tiên ở Ba Lan vào năm 1938.
Vị linh mục người Ba Lan này thậm chí đã có kế hoạch truyền giáo qua truyền hình và phim ảnh, nhưng thật không may, những kế hoạch này đã bị phá vỡ khi Đức và Liên Xô bắt tay nhau xâm lược Ba Lan mở màn cho Thế chiến thứ II và Cha Kolbe tử đạo trong trại tù của Đức quốc xã.
Ngày 5/4 lễ kính Thánh Vincentê-Cha Vương
Hôm nay 5/4 lễ kính Thánh Vincentê, nguyện chúc quả tim bạn tràn đầy đức mến, để yêu và được yêu. Chúc mừng bổn mạng đến những ai nhận Thánh Vincentê làm quan thầy nhé.
Cha Vương
Thứ 4: 05/04/2023
Thánh Vincentê, “Vị thánh tý hon”, Mười bốn tuổi Vincent học thần học, cậu năng nguyện gẫm, nhất là rất sùng kính cuộc khổ hình, thương khó của Chúa Giêsu và có lòng biệt kính Mẹ Maria cách riêng, và sống bác ái với mọi người.
Vincent được Thiên Chúa phú bẩm cho ơn làm phép lạ ngay từ khi chưa lọt lòng mẹ. Một buổi nọ, bà Cônstânce (Mẹ ngài) đi thăm một phụ nữ mù theo thói quen đi làm việc bác ái – bố thí hàng tháng, và bà nói với chị ấy, “Con ơi, hãy cầu xin Chúa cho thai nhi mà mẹ đang cưu mang đến ngày sinh được bằng an nhé.” Người phụ nữ mù liền cúi áp đầu vào bụng bà Cônstânce rồi nói với thai nhi, “Xin Thiên Chúa chúc ban phúc lành cho em.” Lập tức, chị được khỏi mù, và lòng trí trở nên minh mẫn sáng láng, liền thốt lời tiên tri rằng, “Thưa bà, quả là một thiên thần bà đang cưu mang, bởi chính em đã chữa lành nỗi khổ đau cho con.”
Bạn muốn sống thánh giữa đời ư? Hãy noi gương vị thánh tí hon, năng nguyện gẫm, nhất là rất sùng kính cuộc khổ hình, thương khó của Chúa Giêsu và có lòng sùng kính Mẹ Maria.
Thánh Vincentê nói, “Nếu bạn thực sự muốn giúp đỡ các linh hồn, bạn nên đến với Chúa trước với hết trái tim. Việc đơn giản là bạn hãy xin Chúa đong đầy quả tim bạn với đức bác ái, là tột bậc của tất cả các nhân đức; với lòng bác ái đó bạn có thể thực hiện những gì bạn mong muốn.”
NOI GƯƠNG THÁNH NHÂN:
Hôm nay hãy làm một việc bác ái với cả con tim nhất là làm cho những ai không đáng được bạn yêu thương. Xin Thánh Vincentê cầu bầu cho bạn và gia đình và cho cả thế giới được ơn hoán cải.
From: Đỗ Dzũng
https://www.youtube.com/watch?v=l1EDGm9He8Y
CHO CON BIẾT YÊU THƯƠNG – Lm Nguyễn Sang & Gia Ân
Thánh Gioan Ai Cập (304?-394)
Hôm nay Thứ 2, bạn cứ mơ ước thật nhiều đi nhé, nếu bạn cố gắng sống đạo đức Chúa không bỏ rơi bạn đâu. Hôm nay Giáo Hội mừng kính thánh Gioan Ai Cập (304?-394), ngoài lịch phụng vụ. Xin ngài cầu bầu cho chúng ta.
Cha Vương
Thứ 2: 27/03/2023
Con người mơ ước được sống kết hợp với Thiên Chúa đã trở nên một trong số các vị ẩn tu danh tiếng nhất trong thời đại của ngài. Thánh Gioan Ai Cập sinh vào khoảng năm 304. Người ta không được biết nhiều về thời niên thiếu của thánh Gioan ngoài công việc thợ mộc. Khi lên 25 tuổi, Gioan quyết định lìa bỏ thế gian vĩnh viễn để dùng đời sống mình hy sinh, cầu nguyện và tôn thờ Thiên Chúa. Thánh Gioan chính là một trong số những vị tu rừng nổi danh vào thời ấy.
Suốt 10 năm trời, Gioan là môn đệ của một ẩn sĩ cao niên đầy kinh nghiệm. Vị ẩn tu thánh thiện này chỉ dạy Gioan cách thức sống cuộc đời đạo đức. Thánh Gioan gọi ngài là “cha linh hồn.” Sau khi vị ẩn sĩ già này qua đời, thánh Gioan trải qua 4 hay 5 năm nữa sống trong các đan viện khác nhau. Thánh nhân muốn làm quen với lối sống và cách thức cầu nguyện của các đan sĩ. Sau cùng, Gioan tìm được một hang đá khá sâu. Khu vực ấy thật yên tĩnh và được bảo vệ thật an toàn khỏi những cơn gió và sức nóng của sa mạc. Gioan chia chiếc hang làm ba phần: một phòng khách, một phòng làm việc và một nhà nguyện nhỏ. Dân cư trong vùng mua thức ăn và những thứ cần dùng cho Gioan. Nhiều người cũng đến nhờ Gioan khuyên bảo về những vấn đề quan trọng. Ngay cả hoàng đế Thêôđôsiô I cũng hai lần đến xin Gioan lời khuyên, một lần vào năm 388 và lần khác năm 392.
Những vị thánh danh tiếng như Augustinô và Giêrônimô đã viết sách nói về tinh thần thánh thiện của thánh Gioan. Trong số những khách tới thăm Gioan, có vài người đã trở nên môn đệ của ngài. Họ đã lưu lại nơi ấy và xây cất một nhà nghỉ. Họ trông coi nhà nghỉ để nhiều người có thể đến học hỏi sự khôn ngoan nơi vị ẩn sĩ này. Thánh Gioan được ơn tiên đoán những sự việc tương lai. Ngài có thể đoán biết được tâm hồn của những người tìm đến với ngài. Gioan có thể đọc được tư tưởng của họ. Khi Gioan xức dầu thánh trên những người mắc bệnh thể xác, họ thường được chữa lành.
Ngay cả khi nổi danh, thánh Gioan vẫn một mực giữ thái độ khiêm tốn và không bao giờ để cho mình được sống thoải mái dễ chịu. Thánh nhân chẳng khi nào dùng bữa trước lúc mặt trời lặn. Thức ăn của Gioan thường là rau quả sấy khô. Ngài không bao giờ dùng thịt hay những thức đã được nấu chín hoặc hâm nóng. Thánh Gioan tin rằng cuộc sống hy sinh hãm mình của ngài sẽ giúp ngài sống kết hợp mật thiết hơn với Thiên Chúa. Năm 394, thánh Gioan qua đời trong an bình, hưởng thọ 90 tuổi.
Chúng ta hãy cầu xin thánh Gioan ẩn tu chỉ cho chúng ta cách sống thân mật với Thiên Chúa. Thánh nhân sẽ giúp chúng ta quyết tâm để Thiên Chúa hoạt động trong và qua chúng ta. (Nguồn: Tin Mừng)
From: Đỗ Dzũng
Giêsu Con Mãi Yêu Ngài || Sáng tác : MỹLệ La || Trình bày : Kim Tuyến
Cuộc Đời Cha Padre Pio
Cuộc Đời Cha Padre Pio
DÁM YÊU VỚI TẤT CẢ RỦI RO – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
“Giuse đã thực hiện như lời sứ thần truyền”.
Nghệ thuật Kitô giáo có khuynh hướng mô tả thánh Giuse như một cụ già. Tuy nhiên, một ngoại lệ rất nổi bật là bức “Giuse” của El Greco, một nghệ sĩ Tây Ban Nha, mô tả Giuse là một thanh niên cơ bắp, đáng tin cậy; trẻ Giêsu quấn lấy chân ngài. Điều này phù hợp với ngữ cảnh Tin Mừng và tính cách của Giuse; một người trẻ mạo hiểm, ‘dám yêu với tất cả rủi ro!’.
Kính thưa Anh Chị em,
‘Dám yêu với tất cả rủi ro’, đó cũng là những gì Tin Mừng ngày lễ thánh Giuse tiết lộ. Tình yêu luôn đòi hỏi mạo hiểm, và chuyện tình Giuse – Maria cũng không nằm ngoài quy luật đó!
“Maria đã thụ thai”. May thay, nhờ sự can thiệp của sứ thần, Giuse đã yêu với ‘đôi mắt mở to’, ‘đôi tai mở rộng’, để ‘dám yêu với tất cả rủi ro’ khi chàng “chỗi dậy, thực hiện như lời sứ thần truyền”.
Thông thường, cuộc sống không như chúng ta tưởng; đặc biệt trong yêu đương, thật khó để đi từ logic ‘phải lòng một ai’ sang logic một ‘tình yêu trưởng thành!’. Nhưng chính xác là, khi những hoài bão xem ra kết thúc, thì chính tại ngõ cụt ấy, tình yêu đích thực bắt đầu bước vào!
Thực tế, tình yêu không phải là những gì chúng ta kỳ vọng được người kia đáp ứng, phù hợp với trí tưởng tượng; thay vào đó, nó có nghĩa là tôi lựa chọn một cách hoàn toàn tự do để chịu trách nhiệm cho cuộc sống của người kia với bất cứ điều gì xảy ra. Đây là trải nghiệm cũng là bài học đắt giá của Giuse! Chàng đã đón nhận Maria với ‘đôi mắt mở to’, vì ‘dám yêu với tất cả rủi ro!’.
Trải nghiệm của Giuse cũng có thể là trải nghiệm của bạn và tôi; đó là một mối nguy có thể tồn tại trong hành trình tâm linh của bất cứ người nào! Khi mọi thứ yên ả, công việc xuôi may, cuộc sống tôi như đang thăng hoa; nhưng khi mọi thứ trở nên tồi tệ, đớn đau, nhục nhã… phủ lên tôi như quầng mây xám, liệu Chúa còn yêu tôi không? Và bấy giờ, Giuse, tấm gương cho chúng ta. Hãy vững tin vào Chúa! Giuse không dễ nản lòng, vì Giuse đã ‘dám yêu với tất cả rủi ro’.
Vậy nhờ đâu Giuse có thể tin? Một lương tâm trong sạch! Tin Mừng nói, “Giuse là người công chính”. Giuse yêu Maria, nhưng sự thật quá khắc nghiệt để có thể vượt qua; và dẫu quan tâm Maria, Giuse vẫn cảm thấy bị phản bội! Nhưng, với một lương tâm trong sạch, Giuse hy sinh ước mơ cưới lấy Maria làm vợ để ly hôn trong lặng lẽ. Và Thiên Chúa nhìn thấy sự trung thực này, Ngài thổ lộ cho Giuse sự thật về sự chính trực của người thiếu nữ. Một thông điệp ngắn trong mơ đủ để thuyết phục trái tim Giuse, và Giuse đã đón nhận tất cả với sự ngạc nhiên!
Thánh Bernard viết, “Hãy nhớ đến vị tộc trưởng vĩ đại ngày xưa bị bán sang Ai Cập, bạn sẽ nhận ra rằng, thánh Giuse không chỉ nhận được tên của ông mà còn nhận được sự trong trắng, vô tội và ân phúc của ông nữa! Giuse Cựu Ước ‘giỏi đọc’ giấc mơ; Giuse Tân Ước ‘giỏi tin’ giấc mơ. Giuse Cựu Ước đã ‘tích trữ ngũ cốc’ cho một dân; Giuse Tân Ước ‘trông coi cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con tìm cho mình bất kỳ một sự an thân nào. Cho con biết ‘mở to đôi mắt’, đầy ngạc nhiên thán phục đón nhận những gì Chúa muốn, để ‘dám yêu với tất cả rủi ro!’”, Amen.
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
Lễ trọng thể kính Thánh Giuse
Mến chúc bình an đến bạn và gia đình. Hôm qua 19/03, đáng lẽ ra Giáo hội mừng lễ trọng thể kính Thánh Giuse, bạn Đức Trinh Nữ Maria, nhưng bởi vì ngày 19 rơi vào ngày Chúa Nhật nên Giáo Hội dời qua ngày Thứ 2 để mừng kính Thánh Giuse quan thầy Giáo Hội hoàn vũ. Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.
Cha Vương
Thứ 2: 20/03/2023
Thánh Giuse Bạn Ðức Trinh Nữ Maria, Phúc Âm đã ca ngợi Thánh Giuse là người “công chính”. Ý nghĩa của chữ “công chính” rất sâu xa. Khi Phúc Âm nói Thiên Chúa “công chính hóa” người nào, điều đó có nghĩa Thiên Chúa, là Ðấng cực thánh và “chính trực”, biến đổi người đó bằng cách cho họ được chia sẻ sự thánh thiện của Thiên Chúa, và bởi đó họ đáng được Thiên Chúa yêu mến.
Khi nói Thánh Giuse “công chính”, Phúc Âm muốn nói rằng ngài hoàn toàn mở lòng cho tất cả những gì Thiên Chúa muốn làm cho ngài. Ngài trở nên thánh thiện vì tự mở lòng cho Thiên Chúa. Với những gì còn lại chúng ta dễ phỏng đoán. Hãy suy nghĩ về tình yêu mà ngài đã theo đuổi và dành được con tim của Ðức Maria, và sự sâu xa của tình yêu mà hai người đã chia sẻ cho nhau trong cuộc hôn nhân. Khi Thánh Giuse quyết định từ bỏ Ðức Maria khi thấy người có thai, điều này không trái với sự thánh thiện của Thánh Giuse.
Phúc Âm có ghi lại một chữ quan trọng là ngài dự định thi hành việc này “cách âm thầm” vì ngài là “một người chính trực, nhưng không muốn tố giác bà để bị xấu hổ” (Mátthêu 1:19).
Người công chính thì đơn sơ, vui vẻ, hết lòng vâng lời Thiên Chúa – khi kết hôn với Ðức Maria, khi đặt tên cho Hài Nhi Giêsu, khi săn sóc gia thất ở Ai Cập, khi đem gia thất về lại Nagiarét, khi sống âm thầm trong bao năm trường với đức tin và dũng cảm. Vì Thánh Giuse không xuất hiện trong cuộc đời rao giảng công khai của Ðức Giêsu, nhiều sử gia tin rằng có lẽ Thánh Giuse đã từ trần trước khi Ðức Giêsu khởi đầu sứ vụ rao giảng.
Thánh Giuse là quan thầy của những người hấp hối, vì người ta cho rằng khi ngài từ trần có Ðức Giêsu và Ðức Maria ở bên cạnh, đó là điều mà tất cả chúng ta đều mong ước khi từ giã cõi đời.
Thánh Giuse còn là quan thầy của Giáo Hội hoàn vũ, của các người làm cha, các thợ mộc, và vấn đề công bằng xã hội. (Nguồn: ns Người Tín Hữu online)
Hôm nay mời bạn cùng với mình dâng mình cho Thánh Giuse nhé:
Lạy Thánh Giuse yêu dấu, xin nhận con làm con của Cha. Xin Cha chăm lo phần rỗi con, xin trông chừng con ngày đêm, xin gìn giữ con khỏi các dịp tội, xin cho con được trong sạch hồn xác. Nhờ lời chuyển cầu của Cha với Chúa Giêsu, xin cho con được lòng khiêm nhượng, hy sinh và bỏ mình; một tình yêu nồng cháy dành cho Chúa Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể; một tình yêu dịu ngọt dành cho Đức Maria – Mẹ con; một tình yêu vâng phục dành cho Đức Thánh Cha và Hội Thánh. Lạy Thánh Giuse, xin ở với con khi sống và lúc chết. Xin cho con được sự phán xét may lành của Chúa Giêsu – Chúa Cứu Thế nhân hậu của con. Amen. (Kinh Dâng Mình Cho Thánh Giuse)
From: Đỗ Dzũng
Giuse Chuyện Về Người – Sáng tác: Thế Thông – Trình bày: Lm Nguyễn Minh Tâm- Thánh Cả Giuse
Thánh Patrick (Patricio), Giám mục—385?-461
Mừng Lễ Thánh Patrick đến bạn và gia đình nhé! Đây là ngày lễ hội truyền thống của nước Ái Nhĩ Lan. Màu y phục thích hợp cho ngày hôm nay là màu xanh lá cây. Tối thiểu bạn phải mang một tí màu xanh trên người, nếu không có thì bạn sẽ bị thiên hạ nhéo cho bầm người luôn đó. Lưu Ý: Những ai sống trong Tổng Địa Phận Galveston-Houston, TX được phép ăn thịt trong ngày thứ sáu Mùa Chay hôm nay. Thành thật cảm ơn Đức Hồng Y DiNardo. Ăn nhậu xả láng để mừng Thánh Patrick đi bà con ơi!
Cha Vương
Thứ 6: 17/03/2023
Thánh Patrick (Patricio), Giám mục—385?-461. Truyền thuyết về Thánh Patrick thì quá nhiều; nhưng điều có ích lợi cho chúng ta là khi nhìn đến hai đức tính chắc chắn của ngài: khiêm tốn và dũng cảm. Chính thái độ cương quyết khi chấp nhận đau khổ cũng như thành công đã hướng dẫn cuộc đời của Thánh Patrick, một khí cụ của Thiên Chúa, để chiến thắng cho Ðức Kitô hầu như tất cả tâm hồn người Ái Nhĩ Lan.
Chi tiết về đời ngài thì không chắc chắn. Về nơi sinh trưởng của Thánh Patrick, có người cho là ở Kilpatrick, Tô Cách Lan, có người nói ở Cumberland, Anh Quốc. Cha mẹ ngài là người Rôma sống ở Anh Quốc với nhiệm vụ cai quản các bán đảo.
Khoảng 14 tuổi, chính ngài và phần lớn các nô lệ cũng như các quần thần của cha ngài bị hải tặc Ái Nhĩ Lan bắt và bán làm nô lệ để chăn cừu. Trong thời gian này, Ái Nhĩ Lan là đất của người Druid và ngoại giáo. Ở đây, ngài học ngôn ngữ và phong tục của dân tộc đang bắt giữ ngài.
Sáu năm sau, Patrick vượt thoát, có lẽ đến nước Pháp, và sau đó trở về Anh đoàn tụ với gia đình. Trong thời gian bị bắt tinh thần ngài thay đổi hoàn toàn. Ngài bắt đầu học làm linh mục, và được chịu chức bởi Thánh Germanus, Ðức Giám Mục của Auxerre.
Sau đó, khi 43 tuổi ngài được tấn phong giám mục. Trong một thị kiến, dường như “mọi trẻ con ở Ái Nhĩ Lan từ trong lòng mẹ vươn cánh tay” đến ngài. Ngài hiểu thị kiến này là một lời mời gọi đi rao giảng Tin Mừng cho người ngoại giáo Ái Nhĩ Lan. Ngài đến phía tây và phía bắc, là nơi chưa bao giờ đức tin được rao giảng ở đây, và ngài đã được sự bảo vệ của các vua chúa trong vùng và đã hoán cải rất nhiều người.
Ngài tấn phong nhiều linh mục, chia quốc gia này thành các giáo phận, tổ chức các công đồng, thành lập vài đan viện và tiếp tục thúc giục dân chúng sống thánh thiện hơn. Ngài chịu đau khổ vì bị các tăng sĩ ngoại giáo chống đối, và bị chỉ trích cả ở Anh và Ái Nhĩ Lan vì đường lối truyền giáo của ngài.
Trong 40 năm rao giảng và hoán cải, ngài đã làm nhiều phép lạ và đã viết Confessio nói về tình yêu của ngài dành cho Thiên Chúa. Ngài từ trần năm 461 ở Saul, County Down, Ái Nhĩ Lan là nơi ngài xây dựng nhà thờ đầu tiên.
Ngày nay cả toàn dân Á Nhĩ Lan qua các thời đại, nhớ công ơn người, ngày 17 tháng 3 được coi là ngày quốc lễ. Ái Nhĩ Lan, qua các vị thừa sai, các dòng tu đã đem Tin Mừng cho nhiều nước khác. (Nguồn: Nhóm Tinh Thần)
Thánh Patrick viết: “Khao khát của tôi là: dù không có khả năng chu toàn một công trình tốt đẹp và xứng đáng, tôi ước ao giống như những người được Chúa sai đi loan báo Tin Mừng làm chứng cho Người trên khắp thế giới.” (Trích “Lời tuyên xưng đức tin của thánh Patriciô Giám mục,” Bài đọc 2 Kinh Sách, ngày 17/3)
Ước mong bạn hãy noi gương thánh nhân luôn nuôi dưỡng khát khao làm điều tốt đẹp, rao giảng Tin Mừng trong mọi hoàn cảnh, và đưa mọi người đến gần với Chúa hơn mỗi ngày.
From: Đỗ Dzũng
Thánh Phê-rô Đamianô (St. Peter Damian), giám mục, tiến sĩ hội thánh
Mến chào một ngày mới trong Chúa Ki-tô và Mẹ Maria. Hôm nay 21/2, Giáo Hội mừng kính Thánh Phê-rô Đamianô (St. Peter Damian), giám mục tiến sĩ Hội Thánh . Mừng quan thầy đến ai chọn ngài làm bổn mạng nhé.
Cha Vương
Thánh Phê-rô Đamianô sinh ra tại Ravenna nước Ý vào năm 988. Ngài mồ côi mẹ ngay khi mở mắt chào đời. Thánh nhân được người anh ruột yêu thương chăm sóc và nhờ sự nỗ lực, trí thông minh sắc bén, Ngài đã thu lượm được nhiều kết quả hết sức khả quan trên đường học vấn. Ngài trở thành giáo sư danh tiếng của nhiều đại học. Tuy nhiên, Ngài muốn tiến thân trong đường nhân đức và muốn tận hiến cuộc đời mình cho Chúa, nên Ngài đã xin vào tu viện Aven thuộc dòng Thánh Giá do chân phước Ludolphô sáng lập. Với tinh thần khiêm tốn, lòng đạo đức tuyệt vời, thánh nhân đã trở thành tu viện trưởng. Thánh nhân đã làm cho dòng phát triển rất mạnh nhờ vào tài ba, đức độ và lòng quảng đại của Ngài. Ngài đã giúp anh em trong dòng sùng kính Đức Mẹ vì nhờ Mẹ mà cuộc sống trọn lành của mọi người được bảo đảm.
Thánh Phêrô Đamianô cũng sống trong thời kỳ mà Giáo Hội gặp nhiều phong ba bão tố: cuộc sống sa đọa, tội lỗi len lỏi cả vào Giáo Triều. Trước thảm hoạ đó, thánh nhân chỉ biết cầu nguyện, sống thân mật với Chúa. Đời sống thánh thiện của Ngài luôn tỏa sáng và được nhiều người khâm phục, tin tưởng. Đức Thánh Cha Stêphanô IX đã phong ngài làm Hồng Y Giáo Hội và Giám mục thành Otti năm 1058.
Thánh nhân dù sống trong Giáo Triều Roma, nhưng lúc nào cũng hướng về nhà dòng ở Aven. Do đó, đến đời Đức Giáo Hoàng Alêxan II, Ngài được phép trở về Aven để sống đời tu sĩ nghiêm nhặt với kỷ luật hết sức khắt khe: đánh tội và hãm mình. Năm 1071 Đức Giám Mục Ravenna được Chúa gọi về, Ngài liền lên thay thế . Tuy tuổi già sức yếu, nhưng thánh nhân vẫn cố gắng nhiệt tình lèo lái Giáo Phận Ravenna cho tới ngày 22/2/1072, Ngài được Chúa rước về trong khi Ngài đang trên đường tới Roma yết kiến Đức Giáo Hoàng.
Với bao nhiêu công đức, với tâm hồn thánh thiện và các nhân đức đã tới chỗ anh hùng, Giáo Hội đã lấy lời sách huấn ca để ca tụng Ngài:” Chúa đã cho người lên tiếng giữa cộng đoàn, ban cho người đầy tinh thần khôn ngoan minh mẫn và mặc cho người áo vinh quang”( Hc 15, 5 ). Đức Thánh Cha Lêô XII đã tôn vinh Ngài lên bậc hiển thánh. (Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
❦ Ngài đã từng suy ngẫm: “vũ trụ này tựa như ‘một dụ ngôn không bao giờ ngừng’ và như một chuỗi các biểu tượng, mà từ đó, chúng ta có thể giải thích về đời sống nội tâm và các thực tại siêu nhiên.”
❦ “Những ai không yêu mến thánh giá Chúa Kitô là không yêu mến Chúa Kitô.” (Phê-rô Đamianô, Sermo XVIII, 11, p. 117.)
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin cho chúng con nghe theo lời giảng dậy và noi gương thánh giám mục Phêrô Đamianô để biết đặt Chúa Kitô trên hết mọi sự, và luôn dấn thân phục vụ Hội Thánh, nhờ đó chúng con sẽ được vui hưởng ánh sáng muôn đời (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Phêrô Đamianô, giám mục tiến sĩ Hội Thánh).
From: Đỗ Dzũng
Đền thờ trái tim – Hoàng Oanh
Kính Bảy Thánh Lập Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ (Thế kỷ XIII)-Cha Vương
Chúc bình an và mọi sự tốt đẹp đến bạn và gia đình nhé. Hôm nay Giáo Hội mừng kính Bảy Thánh Lập Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ (Thế kỷ XIII), xin các thánh chuyển cầu cho chúng con. Cuối tuần an lành nhé.
Cha Vương
Thứ 6: 17/02/2023
Bảy thánh này là những thương gia tên tuổi miền Frorence. Không muốn chỉ là những người thế giá, các Ngài hướng tới đời sống thánh thiện và họp lại thành một nhóm huynh đệ đặc biệt tôn sùng Đức Trinh Nữ. Các Ngài được cảm hứng bởi một thi kiến để giã từ thế gian và hiến thân phụng sự một lý tưởng cao cả hơn. Trước hết các Ngài cư ngụ trên triền núi Seraniô và xây một nhà thờ tại đó.
Sau khi viếng thăm Đức Giám mục, các Ngài được khuyên nhủ nên nhận một luật sống. Các Ngài lại được một thị kiến khác của Đức Mẹ, nhưng đó Đức Mẹ khuyên nên nhận luật dòng của thánh Augustinô. Mẹ cầm nơi tay một y phục đen và thiên thần bên cạnh mẹ cầm một cuộn giấy với danh hiệu “tôi tớ Đức Mẹ”. Điều này xảy ra ngày 13 tháng 4 năm 1240 và từ nhóm tu sĩ này được biết đến dưới danh hiệu “Tôi tớ Đức Mẹ”. Hội dòng lo rao giảng Phúc âm và phổ biến bảy sự thương khó Đức Mẹ khằp vùng Toscanne.
Ở đây cũng nên ghi nhớ giai thoại thi vị kể lại một phép lạ đánh dấu sự chúc lành của trời cao dành cho hội dòng. Các tôi tớ Đức Mẹ hiến cuộc đời cho cả đất đai lẫn cho các linh hồn. Các Ngài canh tác một miếng đất khô chồi quanh nhà, nhưng các Ngài đã thành công để làm cho mọc lên những thân nho tươi tốt. Một đêm mùa đông vườn nho bỗng chĩu nặng những chùm trái mọng mướt.
Đức giám mục thấy đây là dấu chứng tỏ những phục vụ của các Ngài được Thiên Chúa chúc lành. Thực vậy, các tập sinh tuốn đến đông đảo và nhà dòng được thiết lập trên khắp Âu Châu.
Năm 1304 nhà dòng được tòa thánh phê chuẩn. Đến thế kỷ XIV đã đảm nhận việc truyền giáo tại Ấn Độ. Nhiều cơ sở khác cũng được thành lập tại Anh quốc và Mỹ Châu.
Lễ kính nhớ bảy anh em lập dòng được định vào ngày hôm nay. Ngày mà thánh Alexia Falconieri, một trong bảy anh em qua đời vào năm 1310. Bảy Đấng sáng lập sao một cuộc sống hiệp nhất trong nỗ lực nên thánh, đã được an táng chung trong cùng một ngôi mộ và Giáo hội đã trình bày cho các tín hữu kính nhớ. Tên các Ngài là: Bonfilius Menaldi, Benedictô Antella, Giêradô Sestegui, Barthôlômêô Amidei, Gioan Manetti, Ricôver Lippi, Alexis Falconieri. (Nguồn: GP Vĩnh Long)
Bảy vị Tôi Tớ của Mẹ, suốt đời đã phụng sự Mẹ và tôn thờ Chúa vì thế các Ngài đã được Chúa ban ơn cho các Ngài được kết thúc cuộc đời của mình một cách cũng hết sức tốt đẹp: Một vị được chết ngay tại chân bàn thờ khi đang cầu nguyện. Vị Bề trên Cả đầu tiên, thánh Bonfilius Monaldi, khi đang ở nhà nguyện, được chết đang khi nghe thấy tiếng dịu ngọt của Mẹ: “Hỡi con yêu quí, vì con đã trung thành nghe và tuân giữ lời Con của Mẹ. Bây giờ, con hãy lãnh nhận sự sống đời đời và lãnh nhận gấp trăm lần những gì con đã từ bỏ”. Vị Tôi Tớ khác khi chết, mọi người thấy có một khối lửa bốc cao từ giường lên trời. Hai vị khác, sau cuộc hành trình được trao phó, khi trở về, vì tuổi già sức yếu, đã chết cùng một lúc khi gắng gượng trèo lên dốc Núi Sanario lần chót. Vị tu sĩ khiêm hạ sau chót, cũng là tu sĩ duy nhất trong 7 Tôi Tớ, thánh Alexis. Khi thầy Alexis trên 100 tuổi, biết mình gần chết, thầy muốn đọc 100 lần kinh Kính Mừng dâng kính Đức Mẹ. Khi vừa đọc xong kinh thứ 100, thầy liền thấy Chúa Giêsu Hài Đồng hiện ra tay cầm triều thiên hoa hồng đội trên đầu thầy. Thầy liền kêu to cho mọi người biết: “Anh em, hãy quì xuống! Anh em không thấy Chúa sao? Chúa cũng sẽ đội triều thiên hoa cho những ai thành thực sùng kính Đức Nữ Trinh, noi gương trinh trong và khiêm nhượng của Đức Mẹ…” và thầy lên trời hưởng phúc muôn đời.
Mời bạn hãy hết lòng noi gương các thánh tôi tớ của Đức Mẹ, chạy đến với Đức Mẹ để tỏ lòng tôn kính và mến yêu Người chắc chắn Người sẽ cứu giúp bạn bây giờ và trong giờ lâm tử nữa.
From: Đỗ Dzũng
Khi Thái Sơn ngả bóng cuối trời
Thánh Cô-lát-ti-ca (Scholastica), trinh nữ (480-543)
Cảm ơn bạn đã cầu nguyện cho mình được một chuyến đi nghỉ bình an tràn đầy niềm vui và hạnh phúc bên gia đình và những người thân yêu. Nguyện xin phúc lành của Chúa ở cùng bạn hôm nay và mãi mãi nhé.
Cha Vương
Thứ 6: 10/02/2023
Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Cô-lát-ti-ca (Scholastica), trinh nữ (480-543). Ngài là quan thầy của các nữ tu và là đấng cầu giúp cho những ai chống lại bão và sấm sét.
Anh em sinh đôi thường giống nhau về tính nết và tư tưởng cũng như nhiệt huyết. Do đó, người ta không ngạc nhiên khi Thánh Scholastica và người anh sinh đôi là Thánh Biển Ðức (Benedict), đều sáng lập các tu hội chỉ cách nhau có vài dặm.
Sinh năm 480 trong một gia đình giầu có ở Norcia, Perugia, nước Ý. Scholastica và Benedict cùng lớn lên cho đến khi Benedict xa nhà đi học ở Rôma. Chúng ta không biết nhiều về thời niên thiếu của Thánh Scholastica.
Sau này, ngài sáng lập dòng nữ tu ở Ý gần rặng Cassino, thuộc Plombariola, cách tu viện của anh ngài chỉ có năm dặm. Mỗi năm hai anh em chỉ gặp nhau có một lần, trong một nông trại, vì Scholastica không được phép vào tu viện. Cả hai dành thời giờ để thảo luận về các vấn đề tinh thần.
Theo cuốn Ðối Thoại của Thánh Grêgôriô Cả, trong lần sau cùng hai anh em gặp nhau để cầu nguyện và truyện trò, Thánh Scholastica cảm thấy cái chết của mình gần kề nên nài xin anh Benedict ở với ngài cho đến ngày hôm sau. Thánh Benedict từ chối lời yêu cầu ấy vì ngài không muốn ở đêm bên ngoài tu viện, vì như thế chính ngài sẽ phá vỡ quy luật do ngài đặt ra. Thánh Scholastica xin Thiên Chúa cho phép anh mình ở lại, và một trận mưa lớn đổ xuống như thác khiến Benedict và các tu sĩ đi theo ngài không thể trở về tu viện. Thánh Benedict kêu lên, “Xin Chúa tha tội cho em. Em làm cái gì vậy?” Thánh Scholastica trả lời, “Em xin anh một ơn huệ và anh từ chối. Em xin Chúa, và Chúa nhận lời.”
Ba ngày sau, ðang khi Thánh Benedict cầu nguyện trong tu viện thì ngài nhìn thấy linh hồn của em mình bay lên trời trong dạng chim bồ câu trắng. Thánh Benedict sai các tu sĩ đem xác của em mình về dòng và chôn trong chính ngôi mộ mà thánh nhân đã chuẩn bị cho mình. Thánh Scholastica từ trần vào khoảng năm 543, và sau đó không lâu Thánh Benedict cũng từ giã cõi đời. (Nguồn: Người Tín Hữu)
Thánh Scholastica và Thánh Benedict đã giúp nhau đến gần Chúa hơn bằng cách họ đối xử với nhau. Theo gương các Ngài, những người thân yêu bạn hữu, thầy cô, v.v… của bạn đều có thể giúp Bạn trở nên gần với Chúa hơn mỗi ngày.
From: Đỗ Dzũng
Nên Thánh Giữa Đời – Xara Trần – (St: Sr Têrêsa)
6 Tháng Hai -Thánh Phaolô Miki và Các Bạn (c. 1597)
Thành phố Nagasaki, Nhật Bản, rất quen thuộc với mọi người vì đó là nơi trái bom nguyên tử thứ hai đã được thả xuống và giết hại hàng trăm ngàn người. Trước đó ba thế kỷ rưỡi, 26 vị tử đạo Nhật Bản đã bị treo trên thập giá ở một ngọn đồi nhìn xuống Nagasaki, bây giờ thường được gọi là Núi Thánh.
Thánh Phaolô Miki là con của một sĩ quan chỉ huy thuộc quân đội Nhật. Ngài sinh ở Tounucumanda và theo học trường dòng Tên ở Anziquiama, gia nhập dòng năm 1580, và trở nên nổi tiếng vì tài rao giảng.
Trong thời kỳ bách hại đạo Công Giáo dưới thời Taiko, Toyotomi Hideyoshi, vào ngày 5 tháng Hai, ngài bị treo trên thập giá cùng với hai mươi lăm người Công Giáo khác, trong đó có nhiều giáo dân, như: Phanxicô, một thợ mộc bị bắt trong khi theo dõi cuộc hành quyết và sau đó bị treo trên thập giá; Gabrien, mười chín tuổi là con trai của người gác cổng dòng Phanxicô; Leo Kinuya, hai mươi tám tuổi làm thợ mộc ở Miyako; Diego Kisai, phụ tá của các cha Dòng Tên; Joachim Sakakibara, người làm bếp cho các cha Phanxicô ở Osaka; Peter Sukejiro, được một linh mục dòng Tên sai đến giúp đỡ các tù nhân thì bị bắt; Cosmas Takeya quê Owari nhưng đi truyền giáo ở Osaka; và Ventura ở Miyako, lúc đầu được các cha dòng Tên rửa tội, sau đó khi thân phụ từ trần, ông trở nên một nhà sư, và sau cùng được các cha Phanxicô đưa trở lại Công Giáo
Trong khi bị treo trên thập giá, Thầy Phaolô Miki đã nói với những người đến xem cuộc hành quyết: “Bản án nói rằng những người này đến Nhật Bản từ Phi Luật Tân, nhưng tôi đâu có đến từ quốc gia nào. Tôi đích thực là người Nhật. Lý do duy nhất tôi bị giết là vì tôi rao giảng giáo lý Ðức Kitô. Quả thật tôi đã rao giảng giáo lý Ðức Kitô. Tôi tạ ơn Thiên Chúa vì lý do này mà tôi chết. Tôi tin rằng những lời trăn trối của tôi là sự thật. Tôi biết quý vị tin tôi và một lần nữa tôi muốn nói với quý vị: Hãy xin Ðức Kitô giúp cho quý vị có được hạnh phúc. Tôi vâng lời Ðức Kitô. Theo gương Ðức Kitô, tôi tha cho những người đã hành quyết tôi. Tôi không ghét họ. Tôi xin Thiên Chúa thương xót tất cả chúng ta, và tôi hy vọng máu của tôi sẽ đổ trên dân tôi như một cơn mưa nhiều kết quả.”
Khi các nhà truyền giáo trở lại Nhật trong những năm 1860, lúc đầu họ không thấy một vết tích nào của Kitô Giáo. Nhưng sau một thời gian, họ tìm thấy hàng ngàn người Kitô đã sống chung quanh Nagasaki và họ sống đạo một cách lén lút.
Tất cả các vị tử đạo Nhật Bản được phong chân phước năm 1627, và phong thánh năm 1862.
Lời Bàn
Ngày nay, một thời đại mới đã đến với Giáo Hội Nhật. Mặc dù số người Công Giáo không nhiều, nhưng Giáo Hội được tôn trọng và được tự do tôn giáo. Việc phát triển Kitô Giáo ở Viễn Ðông thì chậm và khó khăn. Một đức tin như của 26 vị tử đạo thì rất cần thiết cho ngày nay cũng như trước đây, trong năm 1597.
Lời Trích
“Vì Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã thể hiện lòng bác ái của Người bằng cách hy sinh mạng sống cho chúng ta, không ai có tình yêu nào cao quý hơn người đã hy sinh mạng sống vì Ðức Kitô và anh chị em mình. Bởi đó, ngay từ thời sơ khai, một số Kitô Hữu đã được mời gọi — và chắc chắn sẽ được mời gọi luôn — để làm chứng cho tình yêu ấy cách hùng hồn trước muôn dân, nhất là những kẻ bách hại. Do đó, Giáo Hội coi sự tử đạo như một ơn huệ đặc biệt và là bằng chứng cao cả nhất của tình yêu.
“Mặc dù chỉ một ít người được ban cho cơ hội tử đạo, nhưng tất cả phải chuẩn bị để tuyên xưng Ðức Kitô trước mặt mọi người, và bước theo Người trên đường thập giá giữa những sự bách hại không bao giờ thiếu trong Giáo Hội” (Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, 42).
Trích từ NguoiTinHuu.com
Thánh Agata Sicilê (c. 235?-251)-Cha Vương
Chúc một ngày thật ấm áp bên Chúa và người thân yêu nhé! Hôm nay 5/2, Giáo Hội mừng kính Thánh Agata Sicilê (c. 235?-251), đồng trinh tử đạo. Đặc biệt là qua lời chuyển cầu của thánh nhân nhiều bệnh nhân bị ung thư vú đã được chữa lành. Vậy hôm nay mời bạn hãy dành thời gian để cầu nguyện cho những ai đang mắc bệnh liên quan đến vú.
Cha Vương
CN: 05/02/2022
Cũng như trường hợp của Thánh Agnes, vị đồng trinh tử đạo thời Giáo Hội tiên khởi, chúng ta không có dữ kiện lịch sử chắc chắn về Thánh Agata, ngoại trừ sự kiện ngài chịu tử đạo ở Catania trong thời kỳ cấm đạo của hoàng đế Rôma là Decius năm 251.
Theo truyền thuyết, ngài sinh trưởng năm 235 tại Catania, Sicily (nước Ý) trong một gia đình giầu có. Khi còn trẻ, ngài đã tận hiến cuộc đời cho Thiên Chúa, và từ chối bất cứ lời cầu hôn nào. Một trong những người say mê ngài là Quintian, là người có địa vị cao trong xã hội nên nghĩ rằng có thể ép buộc thánh nữ. Biết ngài là Kitô Hữu nên ông ra lệnh bắt giữ và đưa ra xét xử – bởi chính ông. Hy vọng rằng vì sợ hãi sự tra tấn và cái chết, thánh nữ sẽ đành phải trao thân cho ông, nhưng ngài nhất quyết tin tưởng vào Thiên Chúa, và cầu nguyện rằng: “Lạy Ðức Kitô Giêsu, là Chúa mọi sự! Ngài đã thấy lòng con, Ngài biết con muốn gì. Xin hãy làm chủ toàn thể con người của con – chỉ mình Chúa mà thôi. Con là chiên của Ngài; xin giúp con vượt qua sự dữ một cách xứng đáng.”
Sau đó, Quintian tống Agata vào nhà gái điếm lấy cớ ngài là người Công Giáo với hy vọng ngài sẽ thay đổi ý định. Sau một tháng bị đánh đập và xỉ nhục, Quintian lại đưa ngài ra xét xử, nhưng Agatha vẫn không lay chuyển, vẫn can đảm tuyên xưng rằng chỉ một mình Chúa Giêsu mới có thể ban cho ngài sự tự do. Quintian lại tống ngài vào ngục thay vì nhà gái điếm. Và khi ngài tiếp tục tuyên xưng đức tin nơi Chúa Giêsu, Quintian ra lệnh tra tấn. Ðể trả thù, bạo quan hạ lệnh nướng ngài trên giường sắt. Sau đó, người ta lại tống giam thánh nữ. Tương truyền thì trong đêm đó, thánh Phêrô đã hiện ra và chữa lành cho ngài. Dù bị quan trấn Quintian nhiều lần dụ dỗ, ngài vẫn một lòng trung kiên với đạo Chúa. Dù đau đớn lăn lộn trên than hồng và mảnh chai nhọn, ngài vẫn tin cậy vào Chúa, Ðấng sẽ cứu linh hồn ngài. Chính cử chỉ của thánh nữ khiến cả thành phố náo động, Quintian sợ dân nổi loạn nên truyền giam thánh nữ trong ngục.
Ngài đã chết rũ tù ngày 25 tháng 2 năm 251 tại Catania, Sicily. Trước khi chết, ngài cầu nguyện: “Lạy Chúa, là Ðấng dựng nên con, Ngài đã gìn giữ con từ khi còn trong nôi. Bởi tình yêu thế gian Ngài đã dẫn dắt con và ban cho con sự kiên nhẫn để chịu đựng đau khổ. Xin hãy nhận lấy hồn con.”
Thánh nữ đã làm nhiều phép lạ như che chở thành Catania khỏi hiểm họa núi lửa Etna. Ngay từ thời đó, người ta đã cầu khẩn và cậy trông vào sự cầu bầu của thánh nữ. Ngài được coi là quan thầy của xứ Palermo và Catania, và được chọn làm quan thầy các bà vú nuôi và cũng được cầu khẩn khi bị tai nạn vì lửa và vì bệnh nhủ bộ. (Trích Gương Thánh Nhân – ns Người Tín Hữu online & Nhóm Tinh Thần nhuận chính lại theo Patron Saints và Santi-Beati-Testimoni)
Lạy Chúa, thánh nữ A-ga-ta đã luôn luôn làm đẹp lòng Chúa, vì vừa sống cuộc đời kiên trinh, vừa can trường hy sinh tử đạo. Xin nhận lời thánh nữ chuyển cầu cho chúng con được ơn tha thứ. Chúng con cầu xin nhờ danh Chúa Ki-tô Chúa chúng con. A men. (Lời nguyện, Lễ nhớ)
From: Đỗ Dzũng
DI TÍCH TỬ ĐẠO GIỮA LÒNG SÀI GÒN
DI TÍCH TỬ ĐẠO GIỮA LÒNG SÀI GÒN
Thánh Tử đạo Việt Nam:
Thánh: MATTHÊU LÊ VĂN GẪM (1813 – 1847)
Tại : Giáo xứ Chợ Đũi , Giáo hạt Tân Định, Tổng Giáo phận Sài Gòn Chợ Quán
Địa chỉ : 47D, Nguyễn Trãi, Phường Bến Thành, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Ngày 11.05.1847, vào lúc 15:00 chiều, Thánh Matthêu Lê Văn Gẫm đã bị trảm quyết và chết tại nơi đây, vì Đức Tin vào Đức Kitô.
- Ngày 27.09.1857, Đức Giáo hoàng Piô XI tôn Ngài lên Bậc Đáng kính.
- Ngày 27.05.1900, Đức Giáo hoàng Lêô XIII tôn phong Ngài lên bậc Chân phước Á thánh.
- Ngày 19.06.1988, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II tôn phong Ngài lên bậc Hiển thánh cùng với 116 thánh Tử đạo tại Việt Nam
Thánh Blase (Biagio)-tử đạo năm 316 – Cha Vương
Trong tâm tình của những ngày đầu Xuân là ngày cầu xin Chúa thánh hoá công ăn việc làm. Mời bạn hãy dâng lên Chúa tất cả những công việc sẽ làm trong năm mới này, cùng với những lao nhọc cực khổ bạn sẽ gặp.
* Xin Chúa giúp bạn có việc làm để nuôi sống bản thân và gia đình.
* Xin Chúa giúp bạn cảm thấy hạnh phúc trong công việc của mình.
* Xin Chúa mở rộng con tim của bạn để bạn biết chia sẻ cho những người túng thiếu.
* Nhất là, xin Chúa giúp bạn được nên thánh trong công việc hằng ngày—bằng cách khi làm việc, bạn không quên Chúa, nhưng luôn nhớ đến Chúa và cậy nhờ vào Ngài.
Cha Vương
Thứ 6: 03/02/2023
Hôm nay cũng là ngày Giáo hội mừng kính Thánh Blase (Biagio), mời Bạn suy niệm về đời sống nhân đức của Ngài nhé.
Chúng ta biết nhiều về sự sùng kính của Kitô Hữu đối với Thánh Blase hơn là tiểu sử của ngài. Trong Giáo Hội Ðông Phương, ngày lễ kính ngài được coi là một ngày lễ lớn. Công Ðồng Oxford, vào năm 1222 đã cấm làm việc xác trong ngày lễ Thánh Blase (hay còn gọi là Thánh Biagio). Người Ðức và người Ðông Âu rất kính trọng thánh nhân, và trong nhiều thập niên, người Công Giáo Hoa Kỳ thường chạy đến với thánh nhân để xin chữa bệnh đau cổ họng.
Chúng ta được biết Ðức giám mục Blase chịu tử đạo năm 316 ngay trong giáo phận của ngài ở Sebaste, Armenia. Mãi cho đến 400 năm sau mới có huyền thoại viết về ngài. Theo đó, Thánh Blase là một giám mục tốt lành, làm việc vất vả để khuyến khích giáo dân sống lành mạnh về tinh thần cũng như thể xác.
Mặc dầu chỉ dụ Toleration, năm 311, đã cho phép tự do tôn giáo ở Ðế Quốc Rôma hơn năm năm, nhưng ở Armenia, việc bách hại vẫn còn dữ dội. Hiển nhiên là Thánh Blase buộc phải rời bỏ giáo phận và sống trong rừng núi. Ở đó ngài sống trong cô độc và cầu nguyện, làm bạn với thú rừng.
Một ngày kia, có nhóm thợ săn đi tìm thú dữ để dùng trong đấu trường và tình cờ họ đã thấy hang động của Thánh Blase. Từ kinh ngạc cho đến sợ hãi, họ thấy vị giám mục đi lại giữa đám thú dữ một cách điềm tĩnh để chữa bệnh cho chúng. Nhận ra ngài là giám mục, họ bắt ngài về để xét xử. Trên đường đi, ngài ra lệnh cho một con sói phải thả con heo nó đang cắn giữ vì đó là của người đàn bà nghèo. Khi Thánh Blase bị giam trong tù và bị bỏ đói, người đàn bà này đã đền ơn ngài bằng cách lẻn vào tù cung cấp thức ăn cho thánh nhân.
Ngoài ra, truyền thuyết còn kể rằng, một bà mẹ có đứa con trai bị hóc xương đã chạy đến ngài xin cứu giúp. Và sau lời truyền của Thánh Blase, đứa bé đã khạc được chiếc xương ra khỏi cổ.
Agricolaus, Thủ Hiến xứ Cappadocia, tìm mọi cách để dụ dỗ Thánh Blase bỏ đạo mà thờ tà thần. Lần đầu tiên từ chối, ngài bị đánh đập. Lần kế tiếp, ngài bị treo trên cây và bị tra tấn bằng chiếc lược sắt cào vào thân thể. Sau cùng ngài bị chém đầu năm 316. Người được tôn kính như quan thầy các thợ chải len, những người bị đau cuống họng. (Nguồn: Người Tín Hữu online)
Sau đây là Kinh cầu Thánh Blase được dùng để khẩn cầu cho những ai mang bệnh của cổ họng: “Qua lời cầu bầu của Thánh Blase, là giám mục và là vị tử đạo, xin Thiên Chúa chữa con khỏi bệnh tật của cổ họng và khỏi mọi sự dữ. Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần” (Kinh cầu Thánh Blase).
Xin Thánh Blase, cầu cho chúng con!
From: Đỗ Dzũng
SÁU TRỰC GIÁC CỦA THÁNH GIOAN BOSCO
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Thánh Gioan Bosco, linh mục người Ý xuất thân trong một gia đình khiêm tốn hai trăm năm trước và được phong thánh năm 1934, ngài là nhà giáo đầu tiên của trẻ em đường phố. Ngài đã biến giấc mơ tuổi trẻ của mình thành hiện thực để giúp các trẻ em kém may mắn. Ngày hôm nay chúng ta vẫn còn học hỏi ở ngài rất nhiều điều.
- Ngăn ngừa, không trấn áp
Ở giữa thế kỷ 19, thời của tác phẩm Những kẻ khốn cùng (Les Misérables) của văn hào Victor Hugo với nhân vật Jean Valjean, giáo dục dựa trên “cây roi” và các trẻ em không ‘thẳng thớm’ được sửa trị ngay.
Năm 1850, linh mục người Ý 35 tuổi đã can đảm lên án cách giáo dục trấn áp truyền thống đối với các em “bụi đời,” ngài chống lại lối giáo dục xưa cổ “vâng lời trước, thương yêu sau.”
Linh mục Jean-Marie Petitclerc dòng Salê giải thích: “Đây là sai lầm của lối giáo dục Pháp, đã đào tạo các cô thầy trấn áp thay vì yêu thương học sinh. Thánh Gioan Bosco đã tái lập thương yêu, ngài giải thích, đơn giản là phải học cách quản lý nó.”
Thánh Gioan Bosco chiến đấu để những người chung quanh mình tôn trọng trẻ em, lắng nghe trẻ em, làm cho các em tin tưởng và giao trách nhiệm cho các em.
Ngài nói, “vì sao chúng ta lại muốn thay thế bác ái bằng sự lạnh lùng của luật lệ.” Theo ngài, phải có tình thương thật sự với những người mà mình nhìn họ như đi ngược với mình. Ngài tin ở một “phương pháp phòng ngừa, linh động và được hỗ trợ bởi một tình yêu nhân từ.” Năm 1844 ngài nhanh chóng thành lập Nhà nguyện Valdocco, một khu phố nghèo ở thành phố Turin. Ngài có trực giác, các em bé nổi loạn này không nên ở với nhau mà nên hòa chung với các em bé khác.
Linh mục Petitclerc giải thích: “Thánh Gioan Bosco nuôi các học sinh miền quê đã nhận một giáo dục tốt trong môi trường gia đình của các em,” như thế ngài đã có sáng kiến một xã hội hòa trộn trước thời.
- Đội ngũ làm nên sức mạnh
Dựa trên sức mạnh của riêng mình để tạo đường hướng gần gũi và khuyến khích các em gặp khó khăn là chuyện không tưởng.
Sẽ là nguy hiểm!
Ở Valdocco, Thánh Gioan Bosco cho các em nhà ở, giải trí, đào tạo các em nổi loạn ở ngoại ô thành phố Turin, ngài nhanh chóng thành lập nhóm với các em trẻ ngài đã huấn luyện. Các em có trách nhiệm, đến lượt các em, các em đào tạo lại các em khác. Điều này làm chúng ta nhớ lời của Cha Phêrô: “Bạn không giúp tôi một tay để tôi giúp các người trẻ này sao?”
- Dịu dàng và kiên nghị
Thánh Gioan Bosco không tình cờ chọn dòng “Salê”: ngài vinh danh Thánh Phanxicô Salê, nổi tiếng về đức tính dịu dàng và bác ái. Nhưng vì sao ngài không gọi đó là những “người Bosco?”
Linh mục Petitclerc cho biết: “Đó là dấu hiệu khiêm tốn của ngài. Ngài giao công việc của mình cho Thánh Phanxicô Salê, để nhớ vị thánh lớn ở thời đối thoại khi có căng thẳng những người công giáo và tin lành năm 1595.”
Nhà dòng Ý nhanh chóng gọi đây là “bầu khí salê.” Một liên kết giữa tình yêu và lý trí, giữa dịu dàng và kiên nghị. Ở đây có tình gia đình thân yêu, các em có được “an toàn nhưng không khép kín,” các em cũng có các “hụt hẫng nhưng không bị bỏ rơi trước các lo âu của mình.”
“Bầu khí salê” là làm vui lòng nhau, chứng tỏ qua việc chia sẻ trong khi chơi cũng như khi gặp khó khăn. Như Thánh Gioan Bosco nói: “Đó là loại bỏ hàng rào nghi kỵ chết người.”
Chính trong bầu khí này, Thánh Gioan Bosco vun trồng bằng cách “nói nhỏ vào tai” mỗi em và “lời nói vào buổi tối” này giúp các em xem lại ngày sống của mình, khuyến khích các em, vừa từng em, vừa cả nhóm.
- Mọi người cùng hòa mình với nhau!
Khái niệm mới trong tương quan giữa nhà giáo và học sinh là không còn khoảng cách giữa thầy giáo “trên cao” và học sinh “không biết gì.”
Khái niệm này mở đầu cho một sư phạm liên minh, nơi mọi người có một khoảng cách phù hợp. Nhà giáo phải ở giữa học sinh của mình: Ai muốn được yêu thì phải chứng tỏ mình yêu thương.
“Phải yêu thương người trẻ trong những gì các em thích,” có nghĩa là phải quan tâm đến sở thích của các em. Phải nhất quán giữa lời nói và việc làm: “Chúng ta không thể cự lại sự hội tụ của đức tin và việc làm,” Linh mục nhà giáo cho các trẻ em đường phố Guy Gilbert cũng đã nói như vậy.
Nó áp đặt sự tôn trọng đi đôi với thẩm quyền trên các trẻ em đã mất phương hướng. Đối với Thánh Gioan Bosco, thẩm quyền cũng như tình yêu: một quan hệ không thể làm bằng chỉ huy.
5.Ước mơ điều tốt nhất
Điều Thánh Gioan Bosco dạy chúng ta còn tinh tế hơn, người có tầm nhìn không phải là người mơ mộng dịu dàng. Hơn mọi thánh khác, Thánh Gioan Bốt-cô “dựa trên các trực giác lớn của mình qua các giấc mộng ban đêm mà Đức Giáo hoàng Piô IX đã xin ngài ghi lại, các giấc mộng này là động lực hành động của ngài.
Như mục sư Martin Luther King đã tuyên bố: “Tôi có một giấc mơ…”, Linh mục Petitclerc giải thích, Thánh Gioan Bosco đã đi theo giấc mơ của mình và làm cho các giấc mơ thành công việc cụ thể.”
Thánh Gioan Bosco đã đi tới đàng trước qua các giấc mơ liên tiếp từ năm 9 tuổi, chúng ta tự hỏi ngài có tự cao hay hoang đường không. Nhưng nhìn kết quả thì chúng ta thấy giấc mơ đã được thực hiện.
Linh mục Petitclerc giải thích, khi Thánh Gioan Bosco nói: “Tôi mơ” thì điều này không thể bàn cãi. Chính Đức Giáo hoàng cũng đã chú tâm nghe ngài… Toàn bộ “hệ thống” giáo dục mà chúng ta mơ ước có được hiệu quả của nó là do ngài đã xem trọng các giấc mơ ban đêm của mình.
- Mở ra với thế giới
Sức mạnh – ngày nay vẫn còn – của Thánh Gioan Bosco là ngài mang lại sự đảo ngược này trong tâm trí của thời bài-giáo sĩ mà toàn bộ xã hội đã bị ngả ngiêng từ thôn quê đến đô thị kỹ nghệ hóa.
Giai đoạn đột biến mất phương hướng này nhắc lại thời buổi chúng ta, thời buổi người trẻ khó hướng về tương lai. Thánh Gioan Bosco đã xoay sở và làm được, ngài thoát ra khỏi khuôn khổ nghiêm ngặt của tôn giáo để làm cho các chính trị gia “thế tục” hiểu được.
Là linh mục, ngài đã in dấu ấn của mình trong việc phòng ngừa nạn phạm pháp nơi các em vị thành niên, và đã làm cho các chính trị gia rất bài tôn giáo thời đó ngạc nhiên.
Năm 1857, bộ trưởng Ý Urbano Rattazzi khuyên ngài thành lập một dòng của các “tu sĩ theo con mắt của Giáo hội và các công dân tự do theo con mắt của Quốc gia.”
Văn hào chống giáo sĩ Victor Hugo, chính ông cũng ngạc nhiên về Thánh Gioan Bốt-cô và ông đã gặp ngài nhiều lần.
Lời khuyên cuối cùng của Thánh Gioan Bosco: nhà giáo sẽ thành công khi đưa ra một nền giáo dục toàn bộ, giảng dạy mở ra với người khác và với thế giới.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
From: Langthangchieutim
Thánh Gioan Bosco (1815-1888)
31 Tháng Giêng
Chính nguyên tắc giáo dục của Thánh Gioan Bosco đã được sử dụng rộng rãi trong các trường học ngày nay. Ðó là một hệ thống ngăn ngừa, loại bỏ các hình phạt thể xác và đưa các học sinh vào một môi trường lành mạnh ít có cơ hội phạm tội. Ngài cổ võ việc thường xuyên lãnh nhận bí tích Hòa Giải và Thánh Thể. Ngài pha trộn phương cách dạy giáo lý và sự hướng dẫn của một người cha, nhằm kết hợp đời sống tâm linh và công việc, việc học và việc chơi đùa.
Ðược khuyến khích đi tu để có thể giúp cho các trẻ em, Gioan thụ phong linh mục năm 1841. Công việc phục vụ giới trẻ của ngài khởi sự khi ngài gặp một em mồ côi và giúp em chuẩn bị Rước Lễ lần đầu. Sau đó ngài quy tụ các người trẻ lại và chỉ dạy họ về giáo lý.
Sau thời gian làm tuyên uý cho một trại tế bần của các thiếu nữ, Cha Gioan mở nhà trường Thánh Phanxicô “de Sales” cho các em trai. Một vài người bảo trợ giầu có và quyền thế đã giúp đỡ tài chánh, nên ngài có thể mở hai trường dạy nghề cho các em trai, trường dạy đóng giầy và dạy may quần áo.
Vào năm 1856, số các em theo học tại hai trường đã lên đến 150 em, và có thêm một máy in để xuất bản các tài liệu giáo lý. Sự quan tâm của ngài đến việc giáo dục và xuất bản khiến ngài xứng đáng là quan thầy của các người tập sự trẻ tuổi và các nhà xuất bản Công Giáo.
Tiếng tăm của Cha Gioan ngày càng lan rộng và, vào năm 1850, ngài phải tự huấn luyện các người trẻ muốn theo đuổi con đường của ngài vì lúc ấy thật khó để duy trì ơn thiên triệu. Năm 1854, một cách bán chính thức, Cha Gioan và những người theo ngài đồng ý đứng dưới tên tổ chức Thánh Phanxicô “de Sales”.
Với sự hỗ trợ của Ðức Giáo Hoàng Piô IX, Cha Gioan quy tụ 17 người và thành lập dòng Salesian vào năm 1859. Hoạt động của dòng nhắm đến việc giáo dục và công cuộc truyền giáo. Sau này, ngài tổ chức dòng Salesian nữ để giúp đỡ các thiếu nữ.
Ngài từ trần năm 1888 lúc bảy mươi hai tuổi.
Lời Bàn
Thánh Gioan Bosco giáo dục toàn thể con người — thể xác và linh hồn. Ngài tin rằng tình yêu Ðức Kitô và sự tin tưởng của chúng ta vào tình yêu ấy phải thấm nhập vào tất cả sinh hoạt của chúng ta — học hành, chơi đùa, làm việc. Ðối với Thánh Gioan Bosco, là một Kitô Hữu có nghĩa phải luôn luôn nỗ lực, không chỉ một tuần một lần, xem lễ ngày Chúa Nhật là đủ. Chính khi tìm kiếm Thiên Chúa trong sinh hoạt hàng ngày, hãy để tình yêu ấy hướng dẫn chúng ta. Tuy nhiên, Thánh Gioan nhận ra được tầm quan trọng của sự huấn nghệ và giá trị con người cũng như sự tự trọng do bởi tài nghệ và khả năng làm việc, do đó ngài cũng huấn luyện các người trẻ trong các ngành nghề.
Lời Trích
“Mọi sự giáo dục đều dạy một triết lý sống; nếu không bởi lời nói thì bởi sự đề nghị, sự gợi ý, và bởi môi trường. Mỗi một phần của giáo dục đều có liên hệ với nhau. Nếu tất cả sự tổng hợp ấy không đem lại một cái nhìn tổng quát về đời sống, thì đó không phải là giáo dục” (G.K. Chesterton, The Common Man).
Trích từ NguoiTinHuu.com