Nếu như Lenin bị xét xử…

Nếu như Lenin bị xét xử…

Vladimir Lavrov là Tiến sĩ Khoa học Lịch sử và là nhà nghiên cứu chính của Viện Lịch sử Nga thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Nga

Vladimir Lavrov * Trần Quốc Việt (Danlambao) dịch – Lãnh tụ phải bị kết án vì những tội không lệ thuộc vào thời hiệu như tội ác chống lại nhân loại, phản quốc, chủ nghĩa cực đoan và chính sách khủng bố.

Chủ nghĩa Lenin là ý thức hệ tán thành việc sử dụng những biện pháp quá khích để đạt đến kết quả mong muốn (nguyên tắc trái với đạo đức là cứu cánh biện minh phương tiện).

Tác phẩm của Lenin đã áp đặt lên nước Nga chủ nghĩa phân biệt chủng tộc xã hội và diệt chủng xã hội, nghĩa là tiêu diệt, không hạn chế, giai cấp trung lưu, quý tộc, giới tu sĩ, trí thức Nga cũ, phú nông (kulak) và người Cossack. Nếu Đảng Công nhân Quốc Xã Đức của Hitler chủ trương chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và diệt chủng mang tính dân tộc, thì Lenin chủ trương chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và diệt chủng mang tính xã hội; nhưng do hoạt động chính trị của những nhà lãnh đạo ấy, cả hai- chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và diệt chủng – đều gây ra cái chết cho hàng triệu người, và gây ra tội ác chống lại nhân loại mà không lệ thuộc vào thời hiệu.

Lenin thường xuyên kêu gọi dùng bạo lực để lật đổ thể chế chính thống, và cầm đầu cuộc đảo chính tháng Mười 1917 và giải tán quốc hội Nga hợp pháp- Quốc hội Lập hiến. Cuộc đảo chính tháng Mười và việc giải tán Quốc hội đã gây ra cuộc nội chiến- cuộc chiến tranh trái với đạo đức nhất trong tất cả các cuộc chiến tranh, qua đó người Nga chống lại người Nga, em chống anh, con chống cha… Lenin công khai hô hào khai màn cuộc nội chiến (xem tư liệu 3).

Lenin lập ra những trại tập trung khùng khiếp và thực hiện chính sách Khủng bố Đỏ, tức chủ nghĩa khủng bố được Nhà nước bảo trợ.

Lenin vi phạm dân quyền, các quyền tự do và quyền lợi chính đáng của cá nhân và công dân dựa trên khuynh hướng tôn giáo của họ, và khích động sự không khoan dung về tôn giáo qua việc ông chế giễu tín ngưỡng tôn giáo, phân biệt chống lại những tín đồ trong các lĩnh vực xã hội chính trị và các lĩnh vực khác của cuộc sống công cộng dưới chế độ vô thần đấu tranh của ông. Và những chỉ thị ra lệnh giết càng nhiều giới tu sĩ càng tốt của Lenin là sự căm ghét con người, là phạm tội và quá khích (xem các tư liệu).

Tất cả những điều trên đã phản ánh và thể hiện qua bộ sách đồ sộ của Lenin, hơn năm mươi tập trong Toàn Tập của ông, nhưng thực ra chúng vẫn chưa đầy đủ vì những người theo Lenin sợ công bố một số tài liệu mà rõ ràng là mang tính khủng bố.

Tác phẩm của Lenin ngày nay vẫn nhồi sọ những thế hệ thiên tả và những kẻ cực đoan mới mà sẵn sàng và rất mong muốn gây ra cuộc tắm máu. Và lạy Chúa đừng có chuyện họ lại lên nắm quyền lực: nào ai biết chuyện gì xảy ra sau đó? Điều được đưa ra và được biện minh trong tác phẩm của Lenin là tàn sát tất cả những người bất đồng chính kiến, những dòng sông máu.

Vào ngày 1 tháng Hai, 1918, đức giám mục Tikhon kêu gọi những người Bolshevik dưới sự lãnh đạo của Lenin: “Hỡi những kẻ điên, hãy tỉnh ngộ để chấm dứt ngay các cuộc thảm sát của các người. Vì những gì các người đang gây ra không chỉ là tội ác: đây thực sự còn chính là việc làm của Satan, vì thế các người sẽ bị thiêu đốt đời đời trong lửa địa ngục, còn con cháu các người trong đời này trên thế gian sẽ nguyền rủa các người khủng khiếp. Bằng quyền lực Chúa đã ban cho Chúng Tôi, chúng tôi cấm các người phạm đến sự Mầu nhiệm của Đức Ki-tô, chúng tôi rút phép thông công các người…”

Những người điên đã không tỉnh ngộ.

Chúng tôi đưa ra những tư liệu sau đây như là những trường hợp về chủ nghĩa cực đoan của Lenin mà vi phạm luật hình sự.

Tôn giáo là thuốc phiện và là rượu rẻ tiền

(Tư liệu 1)

“Tôn giáo là một trong những hình thức áp bức về tinh thần… Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân. Tôn giáo là thứ rượu tinh thần rẻ tiền, làm cho những người nô lệ của tư bản mất nhân phẩm…”

Lenin

Ngày 3 tháng mười hai, 1905

(Lenin Toàn Tập, tập 12, các trang 142, 143 )

Thần thánh là chứng ái tử thi

(Tư liệu 2)

“…bất kỳ vị thần nào cũng đều là chứng ái tử thi cả… mọi ý niệm tôn giáo, mọi niềm tin về bất cứ vị thần nào, mọi sự ve vãn với thần thánh cũng đều là sự ti tiện khôn tả nhất… sự ti tiện nguy hiểm nhất, bệnh truyền nhiễm thối tha nhất. “

Lenin

Ngày 13 hay 14 tháng mười một, 1913

(Lenin Toàn Tập, tập 48, các trang 226, 227, 228 – Từ thư của Lenin gởi M. Gorky. Sau khi đọc về hành động dấy loạn của nhà văn nổi tiếng về việc tạo thần, Lenin kết thúc thư như sau: “Tại sao anh làm như thế? Thật quá bực mình.”)

Hãy để Đức đánh bại Nga! Hoan hô Nội chiến!

(Tư liệu 3)

“…Những người Đại Nga không thể có cách nào ‘bảo vệ tổ quôc’ khác hơn là mong cho chế độ Nga hoàng thua trong mọi cuộc chiến tranh”; “kêu gọi ‘hoà bình là sai lầm’, chúng ta phải kêu gọi cuộc chiến tranh dân tộc biến thành cuộc nội chiến”; “điều ít tai hại nhất là sự thất bại của chế độ quân chủ Nga hoàng và quân đội của nó”.

Lenin

Tháng chín-tháng mười hai 1914

(Lenin Toàn Tập, tập 26, các trang 108-109, 6; tập văn của Lenin, tập 2, trang 195. Phản quốc rõ ràng: những gì Lenin viết là có hại cho Nhà nước Nga. Hãy nhớ Đệ Nhất Thế chiến giết khoảng 1 triệu người Nga; Nội chiến Nga, 12 triệu đến 14 triệu người; và số người chết đói vì Nội chiến, 3-5 triệu (những con số khác công bố vào thời Stalin đưa ra số người chết là 15 triệu); tóm lại, hoạt động chính trị của Lenin gây ra cái chết của từ 15 đến 19 triệu công dân Nga.)

Chặt đầu Nikolai II ngu đần!

(Tư liệu 4)

“…chúng ta phải chặt đầu ít nhất một trăm tên Romanov” (ngày 8 tháng mười hai, 1911); “ở các nước khác… không có những kẻ đần độn như Nikolai” (ngày 15 tháng năm, 1917); “Nikolai Romanov ngu ngốc” (ngày 22 tháng năm, 1917); “Romanov ngu ngốc” (ngày 12 tháng ba, ngày 13 và 29 tháng tư, 1918); “quái vật Romanov ngu ngốc” (ngày 22 tháng năm, 1918) vân vân và vân vân.

Lenin

(Lenin Toàn Tập tập 21, trang 17; tập 32, các trang 97, 186; tập 36, các trang 85, 215, 269, 362. Các thành viên của Đảng của Lenin bắn chết một người Romanov đầu tiên vào đêm 12 tháng sáu 1918; vào đêm 17 tháng bảy 1918, họ bắn chết rồi phanh thây bảy người Romanov; vào đêm 18 tháng bảy cùng năm họ đẩy sáu người Romanov vào mỏ than rồi bắn chết họ; vào đêm 24 tháng một 1919, họ bắn chết năm người Romanov.)

Bắn Trí thức!

(Tư liệu 5)

“Quyết tử chiến một mất một còn chống lại bọn nhà giàu và bọn ăn bám chúng là bọn trí thức tư sản… phải thẳng tay trừng trị chúng vì bất kỳ lỗi lầm nhỏ nhặt nhất nào chúng phạm phải… Chỗ này thì ta bắt chúng bỏ tù… Chỗ kia thì ta bắt chúng dọn nhà xí. Chỗ nọ thì sau khi chúng ra tù ta sẽ cấp thẻ vàng cho chúng… Chỗ khác thì ta sẽ bắn chúng ngay tại chỗ…  Kinh nghiệm công xã là càng đa dạng thì càng phong phú hơn và càng tốt hơn…”

Lenin

Ngày 24-27 tháng mười hai, 1917

(Lenin Toàn Tập, tập 35, các trang 200, 201, 204. Từ bài viết “Tổ chức thi đua như thế nào”)

Hãy đốt Baku thành bình địa!

(Tư liệu 6)

“… Đồng chí cũng nói lại với Ter là hãy chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ để đốt Baku thành bình địa trong trường hợp bị xâm chiếm, và cho đăng thông báo trên báo chí ở Baku.”

Lenin

Ngày 3 tháng sáu, 1918

(Từ tác phẩm ‘Lenin. Chân dung Chính trị’ của D.A.Volkogonov, Bk. I.M., 1994, trang 357; PGAGPI [Cơ quan lưu trữ quốc gia Nga về lịch sử xã hội và chính trị (RNAPSH)] F. 2. Op. 2. D. 109. Chỉ thị viết tay của Lenin gởi chủ tịch cơ quan an ninh Baku là S.Ter-Gabrielyan; không biết người đưa chỉ thị là ai.)

Tiêu diệt phú nông!

(Tư liệu 7)

“… Bọn hút máu này đã và đang nắm được đất đai của đại địa chủ; chúng mãi mãi nô dịch nông dân nghèo. Phải thẳng tay đánh bọn phú nông ấy! Phải tiêu diệt chúng!”

Lenin

Nửa đầu tháng tám (sau ngày 6), 1918

(Lenin Toàn Tập, tập 37, trang 41)

Khủng bố thẳng tay với linh mục

(Tư liệu 8)

“Penza

Ban chấp hành Xô-viết tỉnh

tiến hành cuộc khủng bố thẳng tay đại quy mô chống lại bọn phú nông, cha cố và bạch vệ; nhốt những kẻ khả nghi vào trại tập trung ở ngoài thành phố.”

Lenin

Ngày 9 tháng tám, 1918

(Lenin Toàn Tập, tập 50, các trang 143-144)

Treo cổ và tịch thu tất cả thóc lúa để làm gương

(Tư liệu 9)

“Gởi Penza. Ngày 11 tháng tám, 1918

Gởi: Các đồng chí Kurayev, Bosh, Minkin và những người cộng sản khác ở Penza

Các đồng chí phải đàn áp thẳng tay cuộc bạo loạn của bọn phú nông ở trong năm huyện. Quyền lợi của toàn bộ cuộc cách mạng đòi hỏi điều này, vì trước mắt chúng ta hiện nay là “trận chiến quyết định cuối cùng” chống bọn phú nông. Chúng ta phải xử họ để răn đe kẻ khác.

1) Các đồng chí phải treo cổ (lặp lại, phải treo cổ để quần chúng thấy) ít nhất 100 tên phú nông, bọn nhà giàu, bọn hút máu khét tiếng.

2) Công bố tên của tất cả bọn chúng.

3) Tịch thu toàn bộ thóc lúa của bọn chúng.

4) Bắt giữ các con tin- theo đúng nội dung điện tín ngày hôm qua.

Việc này cần được thực hiện để làm sao nhân dân dù ở xa đến mấy cũng đều sẽ nghe thấy, rùng mình, biết đến, và thét to: chúng ta đang bóp cổ và sẽ bóp cổ những tên phú nông hút máu đó.

Nhớ điện cho chúng tôi biết các đồng chí đã nhận và đã thực hiện xong việc này.

Lenin

(A.G. Latyshev, Giải mật Lenin, 1996, trang 57. Điện tín về việc treo cổ này được tiết lộ lần đầu vào tháng mười một, 1991. RNAPSH. F.2. Op. I. D. 6898)

Tử hình khỏi cần hỏi ý kiến ai!

(Tư liệu 10)

“Saratov, gởi Paikes (nhân viên Bộ Dân ủy Nông nghiệp)

…Tôi đề nghị đồng chí chỉ định các chỉ huy của mình để xử bắn những kẻ âm mưu và dao động mà khỏi cần hỏi ý kiến ai và cũng khỏi cần thông qua tệ quan liêu giấy tờ ngu ngốc.”

Lenin

Ngày 22 tháng tám, 1918

(Lenin Toàn Tập, tập 50, trang 165. Chú thích: Khủng bố Đỏ được công bố vào ngày 2 tháng chín 1918, mà thực ra đã được phát động từ trước ngày công bố đó, trước vụ mưu sát Lenin vào ngày 30 tháng tám 1918, chứ không phải là đáp lại cuộc mưu sát ấy.)

Tiêu diệt Kazan thẳng tay không thương xót!

(Tư liệu 11 )

“Sviyazhsk, gởi Trotsky

Tôi ngạc nhiên và lo ngại vì chiến dịch chống Kazan bị trì hoãn, đặc biệt là nếu đúng như tôi được báo cáo thì các đồng chí hoàn toàn có khả năng tiêu diệt đối phương bằng hỏa lực pháo binh. Tôi tin chúng ta không được cảm thấy tiếc cho thành phố và không được trì hoãn nữa, vì phải tiêu diệt thẳng tay…”

Lenin

Ngày 10 tháng chín, 1918

(Lenin Toàn Tập, tập 50, trang 178. Lenin nhận thức tính chất trọng tội trong các yêu cầu của ông, cho nên ông che giấu dấu vết phạm tội bằng cách viết như sau trên điện tín: “Mật, bằng mật mã (gởi lại bản gốc cho tôi). (Gởi tôi bản sao mật mã.)”)

Tiêu diệt nốt người Cossack!

(Tư liệu 12)

“Kiev

Gởi: Rakovsky, Antonov, Podvoisky, Kamenev

Bằng mọi giá, bằng mọi cách phải tiêu diệt nốt bọn Cossack càng sớm càng tốt…”

Lenin

Ngày 24 tháng tư, 1919

(Lenin Toàn Tập, tập 50, trang 290 )

Người nước ngoài vào trại tập trung!

(Tư liệu 13 )

“Về những người nước ngoài, tôi khuyên không nên vội vàng trục xuất họ. Đưa vào trại tập trung có lẽ tốt hơn…”

Lenin

Ngày 3 tháng sáu, 1919

(Lenin Toàn Tập, tập 50, trang 335. Điện tín của Lenin gởi Stalin ở Petrograd. Lenin cũng ký một sắc lệnh của chính phủ do ông lãnh đạo, trong đó ghi: “Tất cả những ngoại kiều đang thường trú trong lãnh thổ RSFSR, mà thuộc về giai cấp trung lưu của những nước mà đang có những hoạt động thù địch và quân sự chống lại chúng tôi, và tuổi từ 17 đến 55 đều phải bị đưa vào các trại tập trung…”Xem: (A.G. Latyshev, sách đã dẫn, trang 56).

Nông dân là tội phạm chung

(Tư liệu 14)

“…không phải nhiều nông dân đều hiểu rằng tự do mua bán lúa mì là phạm tội chống lại nhà nước.” Tôi sản xuất ra lúa mì; đây là sản phẩm của tôi, cho nên tôi có quyền đem bán, “nông dân thường quen nghĩ như vậy, như thời trước họ vẫn hay nghĩ như thế. Nhưng chúng ta nói rằng làm như thế là phạm tội chống lại nhà nước.”

Lenin

Ngày 19 tháng mười một, 1919

(Lenin Toàn Tập, tập 39, trang 315)

Bắn những người tôn thờ Thánh Nicholas

(Tư liệu 15)

“…chịu đựng với ‘Nikola’ là ngu ngốc; chúng ta phải huy động toàn bộ Cheka để bắn ‘ những kẻ vắng mặt của ‘Nikola’.”

Lenin

Tháng mười hai (không sớm hơn ngày 23 ) 1919

(A.G. Latyshev, sách đã dẫn, trang 156; RNAPSH. F.2. Op.1. D.12176.- chỉ thị viết tay của Lenin gởi A.V. Eiduk, nhân viên đặc biệt của Ủy ban Quốc phòng, về việc những tín hữu vắng mặt vào ngày lễ Chính thống giáo Phương Đông- Ngày lễ Thánh Nicholas Người tạo các phép lạ, vào ngày 19 tháng mười hai 1919)

Trừng phạt Latvia và Estonia!

(Tư liệu 16)

“…Phải có hành động quân sự, nghĩa là dùng lực lượng vũ trang trừng phạt nặng Latvia và Estonia (chẳng hạn, “theo sát gót” Balakhovich vượt qua biên giới chừng 1 dặm và treo cổ tại chỗ từ 100 đến 1000 bọn công chức và nhà giàu của chúng).”

Lenin

Tháng tám 1920

(A.G. Latyshev, sách đã dẫn, trang 31; RNAPSH. F.2. Op.2 D. 447; D.A. Volkogonov, sách đã dẫn, trang 457. Chỉ thị viết tay của Lenin.)

Chúng ta bác bỏ nhân phẩm phổ quát

(Tư liệu 17)

“Theo ý nghĩa nào thì chúng ta bác bỏ luân thường đạo lý? Theo ý nghĩa nào mà được giai cấp tư sản tán thành, chúng cho rằng đạo đức là do giới luật của Chúa mà ra…

Chúng ta bác bỏ bất kỳ đạo đức nào mà xuất phát từ những quan điểm ở trên con người, ở trên giai cấp. Chúng ta nói rằng đạo đức như thế chỉ là lừa bịp, chỉ là gian dối và tẩy não…”

Lenin

Ngày 2 tháng mười, 1920

(Lenin Toàn Tập, tập 41, các trang 309, 311, 313.- “Những nhiệm vụ của Đoàn Thanh niên” (Diễn văn của Lenin ở đại hội Komsomol lần thứ ba). Hitler nói: “Tôi giải phóng con người ra khỏi ảo tưởng tên là lương tâm.”)

100,000 rúp tiền thưởng cho mỗi người bị treo cổ

(Tư liệu 18)

(…Kế hoạch tuyệt vời. Hãy hoàn tất kế hoạch cùng với Dzerzhinsky. Chúng ta giả làm Quân Xanh (sau này chúng ta sẽ tố cáo chính bọn chúng làm chuyện đó), chúng ta sẽ thâm nhập từ 10 đến 20 dặm để treo cổ tất cả bọn phú nông và cha cố. 100,000 rúp tiền thưởng cho mỗi tên bị treo cổ. “)

Lenin

Cuối tháng mười- tháng mười một 1920

(A.G. Latyshev, sách đã dẫn, trang 31; RNAPSH. F.2. Op. 2. D.380. Chỉ thị viết tay của Lenin.)

Nguồn: Dịch từ báo Nga Novaya Gazeta, bản tiếng Anh, ra ngày 24 tháng 9, 2012. Tựa đề tiếng Anh “If Lenin were to stand trial…”.

Trần Quốc Việt

danlambaovn.blogspot.com   

Sự tan rã của Liên Xô

Sự tan rã của Liên Xô

Bởi  AdminTD

Dương Quốc Chính

26-12-2021

Lâu nay sách báo chính thống của Việt Nam vẫn cho rằng Gorbachev và sau đó là Yeltsin là những kẻ tội đồ đã phá hủy Liên bang Soviet. Có lẽ đa số đảng viên cũng nghĩ vậy.

Thực ra, Gorbachev không hề muốn nhà nước Liên bang biến mất, ông ta không muốn phá hủy Liên Xô mà muốn cải cách nó theo hướng dân chủ hóa, mở cửa và đổi mới kinh tế. Gorbachev muốn biến Liên Xô thành Liên bang các quốc gia có chủ quyền, có lẽ theo kiểu Liên bang Đức hay Mỹ hoặc lỏng lẻo hơn như Khối thịnh vượng chung của Anh hay Liên hiệp Pháp trước kia.

Tuy nhiên, nhà nước Liên bang đó mới đang ở giai đoạn thai nghén thì đã bị sẩy thai, chết non. Chuyện này có lẽ không nhiều người để ý, cứ ngỡ là Gorbachev muốn giải tán Liên Xô mà thôi. Đó là điều phi logic, ông ta đang là tổng thống một nhà nước khổng lồ thì ngu gì tự giải tán nó để thành thất nghiệp?

Việc cải tổ và đổi mới do Gorbachev khởi xướng là quá trình dân chủ hóa chính trịđổi mới kinh tế diễn ra song hành dưới sức ép của sự kiệt quệ bởi kinh tế kế hoạch và nhà nước CS toàn trị. Nhưng Liên Xô lúc đó giống như một bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối, đã quá mục nát, nên việc này giống như một đợt xạ trị cường độ cao khiến cho các điểm yếu của cơ thể càng lộ rõ và trở nên không thể chống cự nổi.

Sau năm 1987 thì các mâu thuẫn về sắc tộc bị bộc lộ rõ nét, do những năm trước nó không thể bộc lộ do bộ máy chuyên chế của Liên Xô kìm hãm. Điển hình là tộc người Tatar biểu tình đòi quay về Crimea là đất cũ của họ. Hay người Gruzia biểu tình công khai để thoát khỏi sự áp bức của dân Nga… Các cuộc biểu tình lúc đó trở nên hợp pháp và không bị đàn áp do quá trình dân chủ hóa. Từ đó nhen nhóm tinh thần dân tộc và mong muốn độc lập của các nước Cộng hòa Baltic (nhập vào Liên Xô sau cùng, giai đoạn trước thế chiến), trong đó quan điểm mong muốn độc lập của Nga, Ukraine và Belarus có sức ảnh hưởng lớn nhất.

Tổng thống nước CHXHCN liên bang Nga là Yeltsin công khai bộc lộ quan điểm chống đối lại TT Liên Xô Gorbachev mà không hề bị đàn áp.

Gorbachev là người khơi mào và mong muốn Liên Xô trở thành một Liên bang các nước Cộng hòa có chủ quyền bình đẳng với nhau (khác với Liên Xô), đi theo hướng dân chủ xã hội (mô hình Bắc Âu), không theo con đường toàn trị nữa.

Ông đã vận động để có cuộc trưng cầu dân ý toàn Liên Xô vào ngày 17/3/1991 với kết quả là đa số dân ủng hộ ý tưởng có một nhà nước Liên bang như trên. Tuy nhiên, phe bảo thủ đã không chấp nhận điều đó nên đã đảo chính vào ngày 19/8/1991 (cũng 19/8!), đứng đầu bởi Chủ tịch Soviet tối cao Liên Xô (quốc hội) Lukyanov và phó tổng thống Yanaev, nhân dịp Gorbachev đi nghỉ mát. Phe đảo chính thành lập một ủy ban nhà nước về tình trạng khẩn cấp.

Cuộc đảo chính chấp dứt sau 3 ngày bởi phe do Yeltsin đứng đầu, quân đảo chính quay súng và ủng hộ phe cải cách. Gorbachev quay trở lại nắm quyền.

Nhưng cuộc đảo chính đã để lại di chứng nặng nề. Nó thúc đẩy cho quá trình tan ra Liên Xô diễn ra nhanh hơn, do nó cho thấy sự yếu đuối của nhà nước Liên Xô (không tự bảo vệ được mình mà phải nhờ tới TT Nga). Dựa trên lý do “bất ổn” đó, ngày 22/8, Yeltsin tuyên bố các doanh nghiệp thuộc Liên Xô trở thành thuộc Nga, trừ bộ máy hành chính. Ngày 24/8, Ukraine tuyên bố độc lập 1 cách đơn phương bởi Soviet tối cao Ukraine. Ngày 25/8, Belarus tuyên bố độc lập, tiếp theo là Moldova, Azerbaijan, Kyrgyzstan, Uzbekistan. Ngày 28/8, Nga giành quyền sở hữu ngân hàng nhà nước và ngân hàng ngoại thương Liên Xô.

Như vậy là Liên Xô đã bị “rút ruột” nhưng vẫn chưa sụp đổ, do vẫn còn các nước Cộng hòa còn lại lừng chừng chưa tuyên bố độc lập. Dưới tình hình quá nguy hiểm cho sự tồn tại của Liên Xô, Gorbachev thúc đẩy thêm quá trình hoàn thiện Hiệp ước Liên bang. Các nước Cộng hòa tranh cãi về hình thức liên bang sẽ như thế nào? Các nước có bình đẳng tuyệt đối? Nhà nước LB sẽ có quyền lực gì?

Ngày 2/9, đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô được họp để giải quyết khủng hoảng chính trị và công nhận độc lập của ba nước Cộng hòa Baltic, dự thảo hiệp ước Liên bang mới.

Đương nhiên Nga và Ukraine, là hai nước Cộng hòa mạnh nhất sẽ không thể chấp nhận sự bình đẳng với các nước khác và các nước còn lại đều muốn độc lập hoàn toàn khỏi Liên Xô. Tổng thống Nga và Ukraine (Kravchuk) không muốn nằm dưới TT Liên Xô. Ngày 1/12, Ukraine độc lập hoàn toàn khỏi Liên Xô qua cuộc trưng cầu dân ý. Ngày 2/12, Nga công nhận Ukraine độc lập. Ngày 3/12, Soviet tối cao Liên Xô thông qua dự thảo Hiệp ước Liên bang.

Ngày 8/12, lãnh đạo 3 nước Nga, Ukraine và Belarus gặp nhau tại Brest và tuyên bố Liên Xô không còn tồn tại như một thực thể chính trị và thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập (hiệp định Belovezh).

Ngày 9/12, Gorbachev tuyên bố tôn trọng sự lựa chọn của 3 nước Cộng hòa nhưng cho rằng sự tồn tại của Liên Xô không thể do 3 nước đó quyết định, cần có giải pháp hợp hiến.

Ngày 21/12, các nước Cộng hòa còn lại ủng hộ hiệp định Belovezh và cùng tuyên bố Liên Xô ngừng tồn tại để thay thế bằng Cộng đồng các quốc gia độc lập.

Ngày 25/12, Gorbachev tuyên bố từ chức TT Liên Xô, vào lúc 7h tối, đại ý là ông ủng hộ sự độc lập và bình đẳng của các quốc gia nhưng vẫn muốn duy trì nhà nước LB. Tuy nhiên, các nước vẫn mong muốn chia tách nên ông đã làm tất cả để các nước có sự hòa hợp, tiếp tục cải cách và thoát khỏi khủng hoảng.

Liên Xô sụp đổ và biến thành một cộng đồng khá lỏng lẻo mang tính hình thức. Hầu hết các nước Cộng hòa rơi vào khủng hoảng kinh tế, chính trị sau đó.

Như vậy là Gorbachev thực sự mong muốn Liên Xô được cải cách theo hướng dân chủ để khôi phục kinh tế, nhưng ông ta vô tình làm cho Liên Xô trở nên suy thoái hơn. Còn Yeltsin mới thực sự mong muốn giải tán Liên Xô để không phải đứng dưới ai. Yeltsin cũng là người đưa đảng CS ra ngoài vòng pháp luật, trước đó ông tuyên bố từ bỏ đảng CS Liên Xô.

Sau này nhiều người Nga vẫn tiếc nuối Liên Xôvà hiện tại Putin cũng có tham vọng tái lập một nhà nước Liên bang hoặc một cộng đồng kinh tế kiểu EU, có lẽ gần như mong muốn của Gorbachev nhưng không dân chủ bằng.

Nhưng điều đó rất khó thành hiện thực khi Nga và Ukraine đang đứng trên bờ vực chiến tranh, trước đó thì Nga đã sáp nhập Crimea và bảo kê cho phe ly khai ở Đông Ukraine.

Ngày làm đẹp các ngôi mộ để tưởng nhớ và ghi ơn

Le Tu Ngoc

Ai đã đọc “CUỐN THEO CHIỀU GIÓ” của bà Margaret Mitchell hẳn sẽ biết cuộc Nội Chiến của Mỹ đã diễn ra khốc liệt thể nào, khi nó kết thúc vào mùa xuân năm 1865 thì đã có hơn sáu trăm ngàn chiến sĩ của cả hai phe không thể trở về gặp mặt bạn bè lẫn người thân.

Những năm sau cuộc chiến, cứ đến độ hoa nở rộ trong vườn thì người Mỹ ở khắp nơi lại mang hoa ra cắm và cầu nguyện nơi mộ chí của những người lính đã ngã xuống trong cuộc chiến này bất kể là lính Nam hay lính Bắc. Người dân thành phố Waterloo của tiểu bang New York vào ngày 5 tháng 5 năm 1866 đã đóng cửa các tiệm bán buôn trong thành phố để mọi người có thể mang hoa và cờ đến cắm lên các ngôi mộ của những người lính tử trận, sự kiện này sau đó được tổ chức hàng năm ở nơi đây.

Ngày 5 tháng 5 năm 1868, Tướng John A. Logan, người đứng đầu một tổ chức cựu chiến binh miền Bắc đã kêu gọi một ngày tưởng nhớ trên toàn quốc để mọi người có thể mang hoa và cờ đi trang điểm những ngôi mộ chiến sĩ, ông chọn ngày 30 tháng 5 và gọi nó là “Ngày làm đẹp các ngôi mộ để tưởng nhớ và ghi ơn” (Decoration Day).

Trong Ngày Decoration Day được tổ chức lần đầu tiên ở nghĩa trang quốc gia Arlington, hơn 5 ngàn người gồm những goá phụ, cựu chiến binh cùng bạn bè lẫn người thân đã đến để đặt hoa và các dải ruy băng lên 20 ngàn ngôi mộ của những người chiến sĩ của cả hai phe.

Sau Thế Chiến thứ I thì ngày 30 tháng 5 dần được biết đến với cái tên Memorial Day (Ngày Tưởng Niệm) và là dịp để người Mỹ tưởng nhớ đến tất cả các chiến sĩ đã ngã xuống trong các cuộc chiến chứ không riêng gì cuộc Nội Chiến. Năm 1968 Quốc Hội thông qua đạo luật Uniform Monday Holiday Act, đạo luật này quy định lấy ngày thứ hai làm ngày nghỉ mỗi khi có dịp lễ lộc với mục đích giúp dân chúng được nghỉ liên tục 3 ngày cuối tuần đặng ăn chơi cho nó đã. Kể từ đó thì Ngày Tưởng Niệm (Memorial Day) hàng năm ở Mỹ sẽ rơi vào ngày thứ hai cuối cùng của tháng năm.

Kể sơ sơ chuyện xứ Mỹ để nói đến cái ngày 30 tháng 4 của xứ mình. Nếu tôi mà là ông tổng Trọng thì tôi sẽ gọi tên cái ngày cuối cùng của tháng tư này là ” Ngày Tiếc Thương”. Tôi sẽ khuyến khích người dân cả nước trong ngày đó đi đến tất cả các nghĩa trang lớn nhỏ mà cắm những bông hoa lên trên mộ của bất cứ ai đã bỏ mình vì những cuộc chiến tương tàn trên xứ Việt mà chẳng cần phân biệt phe nào.

Nếu tôi mà là ông tổng Trọng, tôi sẽ cách chức bất cứ quan chức nào cho phép đốt pháo hoa hay treo cờ phướng loè loẹt khắp phố phường vào cái ngày này, tôi sẽ cho người vả vào miệng bất cứ quan chức nào vẫn còn bô bô những từ “Giải Phóng, Chiến Thắng, Bản Anh Hùng Ca, Vô địch với Vĩ Đại”.

Bởi cho dù đối với người dưng kẻ lạ thì cũng chẳng có một sự phỉ báng nào vô liêm sĩ cho bằng chính vào cái ngày mà người ta tiếc thương cho thân bằng quyến thuộc đã ngã xuống của người ta còn mình lại cứ bắn pháo hoa ăn mừng, cứ lên gân hò hét lải nhải những từ ngữ mất dạy như thể cố khoét cho sâu thêm nỗi đau của những người có thân nhân chết trận, cũng như khoét cho sâu thêm những mối thù mà bất cứ một chính quyền tử tế nào cũng phải quan tâm xoa dịu.

Kiểu cách đó đối với người dưng kẻ lạ đã là hạ tiện, huống hồ gì giữa người mình mang ra để đối với người mình.

Fb Thuc Tran

Luôn muốn trừng trị kẻ khác mình? Bạn có thể có tính cách độc đoán

Luôn muốn trừng trị kẻ khác mình? Bạn có thể có tính cách độc đoán

Ai cũng có thể bị tiêm nhiễm tính cách độc đoán. Đó là nền tảng của chế độ độc tài.

 16/11/2021

By  VINCENTE NGUYEN

Minh họa: Luật Khoa. Ảnh: Nikkei, NatGeo, Karen Stenner.

Độc tài (authoritarian) thường được xem là đặc tính của một chính quyền hay một chính đảng. Ít ra là trong phạm vi chính trường Việt Nam, chúng ta thường nhắc đến độc tài như là một tính từ đương nhiên để nói về một thứ rất to tát, rất trừu tượng.

Nhưng nếu dùng một từ khác tương đương để diễn tả – độc đoán – đặc tính này lại trở nên cụ thể và gần gũi hơn nhiều. Với cách hiểu đó, các nhà khoa học xã hội không xem khái niệm độc tài/ độc đoán chỉ là để nói về cấu trúc nhà nước hay phương thức phân bổ quyền lực. Độc đoán có thể là một tính cách, bản chất, lối tư duy của một người (thường gọi chung là “authoritarian personality”). Chính tính cách này tạo không gian và nền tảng cho các nhà nước độc tài phát triển. [1]

Trong cuộc bầu cử vô tiền khoáng hậu vào năm 2016 khi ông Donald Trump giành chiến thắng trước bà Hillary Clinton, nhiều nhà khoa học đã cố gắng chứng minh tính cách độc đoán của một bộ phận dân cư Hoa Kỳ là lý do dẫn đến việc Trump thắng cử. [2]

Số khác lại cáo buộc những nhóm dân cư ủng hộ các giá trị truyền thống, ủng hộ “kỷ cương, phép nước” là những người có sẵn tính cách độc đoán và dễ bị tác động nhất. [3]

Một số cây bút phản biện, nhắc nhở rằng sẽ thật sai lầm khi cho rằng chỉ có các nhóm dân cư thủ cựu thì mới có tính độc đoán. [4]

Bỏ qua sự phức tạp, lộn xộn và dễ gây tranh cãi của chính trị Hoa Kỳ, “tính cách độc đoán” đã là một chủ đề nghiên cứu từ trước đó khá lâu của các nhà xã hội học. Quyển sách “The Authoritarian Dynamic” của giáo sư tâm lý chính trị học Karen Stenner (từng giảng dạy tại Đại học Princeton) là một điểm bắt đầu khá tốt để hiểu về tính cách độc đoán. [5]

*** 

“The Authoritarian Dynamic” được xuất bản vào năm 2005 với 10 chương sách. Thông qua các chương này, độc giả được giới thiệu khá đầy đủ về những đặc tính cơ bản của tính cách độc đoán: từ vấn đề về tư duy như “chỉ có một con đường đúng”, “chỉ có một tập thể đúng”, cho đến các kỹ thuật và số liệu liên quan, rồi vai trò của sự sợ hãi trong việc hình thành tính cách độc đoán cũng như mối tương quan giữa chủ nghĩa độc đoán (authoritarianism) và chủ nghĩa thủ cựu (conservatism).

Bìa sách “The Authoritarian Dynamic” và tác giả Karen Stenner. Ảnh: Amazon, The Larger Us Podcast.

Phần giới thiệu của quyển sách đặc biệt ấn tượng. Nó chuẩn bị đầy đủ tâm thế cho bạn đọc trước khi tiếp thu nội dung sách.

Karen Stenner nhắc người đọc rằng sẽ có những người không bao giờ sống thoải mái trong một nền dân chủ cấp tiến hiện đại (modern liberal democracy).

Đó là những người không thể đối xử một cách tử tế với bất kỳ ai mà họ cho rằng không phải “phe của họ”; những người cho rằng chỉ có những ai “nghĩ đúng” mới được quyền nêu ý kiến của mình trong môi trường chính trị; những người cho rằng bất kỳ lựa chọn đạo đức nào của một cá nhân cũng là vấn đề chung của toàn thể xã hội – và hiển nhiên là phải có sự can thiệp của nhà nước, v.v.

Đó là những cá nhân mà quyển sách muốn tìm hiểu. Vì sao họ lại như thế? Và hệ quả dành cho tất cả chúng ta là gì?

***

Theo Stenner, tính cách độc đoán là khuynh hướng tâm tính cơ bản liên quan đến cách nhìn của một người về điểm cân bằng phù hợp giữa uy quyền (authority), sự đồng nhất (uniformity) của một xã hội với các yếu tố đối nghịch như tự chủ cá nhân (individual autonomy) và đa dạng xã hội (diversity). Theo đó, những người có tính cách độc đoán sẽ thường xem trọng uy quyền và sự đồng nhất xã hội hơn là sự tự chủ hay đa dạng.

Khung phân tích của Karen Stenner để phân định giữa độc đoán (authoritarianism) và thủ cựu (conservatism).

Stenner cũng nhấn mạnh rằng tính cách độc đoán không nhất thiết chỉ áp dụng cho “lề phải” hay “lề trái”. Một người được cho là có tính cách này khi họ có xu hướng tư duy chính trị cương quyết, cho rằng họ cần bảo vệ hay thiết lập một trật tự chung, thống nhất và tương đồng (oneness and sameness) để có thể định danh, vinh danh và dành đặc quyền cho những người giống như họ – bất kể họ nhận mình thuộc “lề” nào.

Thú vị hơn, độc đoán theo Stenner không phải là hệ quả từ trên xuống của xung đột tư tưởng chính trị (politics of ideas). Nó là một biểu hiện cảm tính của những cảm xúc nguyên sơ (primitive passions), được xây dựng dựa trên biến tấu chính trị của nỗi sợ hãi (politics of fear).

***

Đáng tiếc là những thông tin tổng hợp trên (chủ yếu nằm ở chương I và chương II) là những phần dễ đọc nhất của quyển sách. Các chương sau đó khá nặng về số liệu và kỹ thuật.

Stenner áp dụng một số kỹ thuật nghiên cứu dữ liệu như Cultural Revolution Experiment (CRE), Multi-Investigator Study (MIS), Durham Community Study (DCS) cùng với một loạt các nguồn dữ liệu sẵn có như National Election Studies (NES), World Values Surveys (WVS), hay General Social Surveys (GSS). Nhìn chung, đây không phải là một quyển sách mà bất cứ độc giả nào cũng có thể cầm lên đọc từ đầu đến cuối mà không cần bỏ sách xuống mỗi mười trang để… chửi vài câu.

Tuy nhiên, giá trị nội dung mà cuốn sách mang lại là không nhỏ.

Ví dụ, ngay từ năm 2005, Stenner đã tìm ra cách lý giải vì sao một lượng lớn những người ủng hộ Trump đột nhiên xuất hiện nhiều vô kể vào năm 2016 – những người mà trước đó các chính trị gia nghĩ rằng không tồn tại.

Theo bà, có sự khác biệt giữa khuynh hướng độc đoán (authoritarian predisposition) và tính cách độc đoán (authoritarian personality). Số lượng người có khuynh hướng độc đoán thường không có sẵn các biểu hiện của tính cách độc đoán hay các kỳ vọng độc đoán ở chính quyền. Tuy nhiên, khi bị đặt vào các môi trường nhất định, với những chất xúc tác nhất định, tính cách độc đoán sẽ hình thành.

Tính cách độc đoán hình thành trong môi trường phù hợp. Ảnh minh họa: Các thành viên của tổ chức phát-xít Balilla dành cho trẻ em từ 8-15 tuổi tại Ý. Nguồn: Getty Images.

Ví dụ, trong một nghiên cứu, bà đặt ra hai lựa chọn về mục tiêu nuôi dạy con cho phụ huynh: “một đứa trẻ cần biết vâng lời cha mẹ” hay “một đứa trẻ cần nhận thức trách nhiệm cho các hành vi của mình”. Stenner cho rằng những câu hỏi này sẽ chỉ xác định được khuynh hướng độc đoán và giá trị nào là quan trọng đối với một cá nhân, chứ chưa xác định được họ sẽ có những hành vi hay thái độ ủng hộ hoạt động chính trị độc đoán.

Vì vậy, theo Stenner, cần cẩn trọng và đánh giá tính cách độc đoán ở nhiều tầng giai đoạn, nhiều hình thức và nhiều trạng thái khác nhau. Tính cách độc đoán không chỉ giới hạn ở một trạng thái, một hệ quy chiếu hay một xã hội nhất định.

Ngoài ra, vị giáo sư cũng cảnh báo tính cách độc đoán hoàn toàn có thể được xây dựng và củng cố bên trong cá nhân một cách hệ thống.

Theo đó, tính cách độc đoán, ngoài tiền tố là khuynh hướng độc đoán, sẽ chịu ảnh hưởng từ các vấn đề khác như hạn chế về nhận thức (cognitive limitations), môi trường và trình độ học vấn (environment and net of education), kinh nghiệm (experience) và sự tận tâm (conscientiousness). Từ cơ sở này, Stenner dẫn đến kết luận rằng ai cũng có thể bị tiêm nhiễm tính cách độc đoán/ toàn trị.

Hệ tính cách này, dù không biểu hiện trong đời sống thường nhật, hoàn toàn có thể bộc lộ trong những thời điểm xuất hiện các thảo luận chính trị cụ thể hay những phong trào chính trị mang đến nhiều thay đổi.

***

Dù đại đa số các nghiên cứu của Stenner là dựa trên hệ thống chính trị Hoa Kỳ hoặc châu Âu, kết quả nghiên cứu của bà cho phép chúng ta đối chiếu, so sánh và hiểu về nền tảng chính trị Việt Nam.

Chỉ cần lướt qua các trang mạng xã hội của các nhà hoạt động, những người có quan điểm khác, quan điểm trái chiều, bạn sẽ thấy vô vàn những bình luận yêu cầu công an vào cuộc, yêu cầu những người này bị bỏ tù, yêu cầu họ phải bị trừng trị. Đó là biểu hiện cơ bản của những cá nhân thiếu khả năng khoan dung và chấp nhận sự khác biệt – những dấu hiệu của tính cách độc đoán.

Đáng lo ngại hơn, như Stenner mô tả, tính cách độc đoán này hoàn toàn có thể được truyền dạy và thấm nhuần qua môi trường xã hội. Nếu tính cách này trở nên phổ biến trong cộng đồng, tương lai của các cải tổ chính trị tại Việt Nam là không hề đơn giản.

Bức tường Berlin (Phần 4): Những đứa con của bức tường

Bức tường Berlin (Phần 4): Những đứa con của bức tường

Bởi  AdminTD

Nguyễn Thọ

29-8-2021

Tiếp theo Phần 1 − Phần 2 và Phần 3

Cảnh sát Tây Berlin nhặt xác của anh thanh niên Peter Fechter bị bắn chết bên hàng rào biên giới đông tây Berlin hôm 17.08.1962. Ảnh tư liệu

Những ngày sau khi bức tường thép gai tạm thời được dựng lên, hàng trăm người Đông Berlin vẫn tìm cách lọt qua các kẻ hở để chạy trốn. Có những nơi người ta nhảy qua cửa sổ sang bên kia. Dân Tây Berlin giăng vải bạt hứng được hàng chục người nhảy cửa sổ, không có tai nạn nào xảy ra. [1]

Dần dần chính quyền Đông Đức xây hoàn chỉnh thành những bức tường cao 3m, có một dải đất phân cách cho xe biên phòng đi tuần, có tháp canh, đèn pha chiếu sáng. Nhưng người dân vẫn tìm cách đào những con đường hầm từ những khu nhà gần đường biên để sang bên kia. Rồi dần dần những hộ ở gần đường biên cũng bị di dân đi nơi khác và các ngôi nhà đó bị san ủi thành bãi hoang.

Cấu trúc bức tường Berlin. Ảnh tư liệu

Ngày 13.8.1961 được coi là ngày chính thức hoàn thành việc chia cắt nước Đức. Một sự chia cắt không cân xứng. Người dân miền Tây vẫn sang Đông được. Nhà nước Tây Đức cho dân tự do đi lại. Phía Đông Đức thì coi người Tây là nguồn ngoại tệ quan trọng. Người Tây Đức vẫn đi xe ô tô qua 3 tuyến đường cao tốc để sang Tây Berlin. Họ chỉ được dừng lại ở những cây xăng dành cho họ, không được rẽ ngang tắt. Nếu có lý do chính đáng (thăm thân, định cư hay công tác), họ sẽ được vào lãnh thổ CHDC Đức.

Nhưng người dân Đông Đức thì không được đi sang phía Tây. Sau ngày 13.8.1961, họ chỉ còn cách liều chết vượt biên hoặc xếp hàng đặt đơn đi thăm thân, xin xuất ngoại. Đơn thăm thân rất ít khi được xét, và chỉ xét cho những cán bộ đáng tin cậy. Mà tin cậy đến đâu thì chỉ có vợ hoặc chồng được đi, phần kia của gia đình phải ở lại làm con tin.

Dân chúng Đông Berlin ở phố Bernauer nhảy qua cửa sổ để chạy sang Tây Berlin hôm 13.08.1961. Ảnh tư liệu

Những người xin xuất ngoại mới khốn khổ. Họ luôn bị coi là kẻ „có vấn đề“ trong suốt thời gian chờ đợi đơn được cứu xét. Nhiều người mất việc, bị bạc đãi, sống trong sự dè bỉu của hàng xóm, đồng nghiệp. Có những người như bà Ingrid Taegner được kể ở cuối bài trước, cam chịu cả đời không được sang bên kia.

Những người không cam chịu được thì tìm cách vượt biên. Để vượt qua 155km biên giới bao quanh Tây Berlin hay 1.400km biên giới Đức – Đức đầy mìn và thiết bị điện tử, được canh gác vô cùng chặt chẽ, người ta đã sáng tạo ra muôn vàn cách thoát thân. Ở Đức có rất nhiều “bảo tàng vượt biên”, trình bày từ những cách đào hầm, đóng xe tải thành xe tăng để phá hàng rào, làm xe ô tô nhiều lớp vỏ, bay bằng khinh khí cầu, vượt biển Baltic bằng ca nô v.v.

Vượt biên trong những ngày đầu khi mới chỉ có dây thép gai. Ảnh tư liệu

Bà Liane Weinstein sinh ở Tây Berlin mới được 2 tháng. Dịp cuối tuần bố mẹ bà bận sửa nhà nên gửi cháu bé cho ông bà ngoại ở Đông Berlin. Bức tường dựng lên sáng chủ nhật 13.08 đã khiến bé phải ở lại với ông bà bên phía Đông. Bố mẹ bé ở bên kia gần như phát điên vì mất con. Họ nhờ người đào một đường hầm để đưa bé về phía tây. Kế hoạch bại lộ, những người đào hầm và ông bà ngoại bị bắt giam. Cô bé bị đưa vào trại mồ côi. 11 năm sau, nhờ sự can thiệp của chính quyền Tây Đức, cô được trả về phía Tây với bố mẹ, những người đối với cô rất xa lạ.

Gia đình bà Liane Weinstein (giữa) tan vỡ sau 11 năm bà bị giữ làm con tin ở Đông Berlin. Bố mẹ mà đã li dị nhau trước ngày bà được trả về Tây Berlin cho họ. Ba số phận có thật của những người con của bức tường Đức. Ảnh tư liệu

Trong 11 năm qua cô luôn được nghe kể rằng: bố mẹ đã nhẫn tâm bỏ con lại để hưởng lạc ở miền Tây, mặc dù chính quyền luôn mời họ về miền Đông với con gái. [2]

Thế hệ người Đức như bà Weinstein được gọi là những đứa con của bức tường. Dù gia đình họ có bị xé nát hay không, dù ở Đông hay ở Tây thì ai cũng bị ảnh hưởng bởi sự chia cắt đất nước.

Chính phủ CHDC Đức luôn tuyên bố: “Bức tường là sự lựa chọn của nhân dân”. Đầu tháng 10.1989, hàng trăm ngàn người Đông Đức biểu tình với khẩu hiệu: “Chúng tôi là nhân dân”, “Hãy mở cổng thành”. Sau hơn một tháng liên tục đấu tranh bất bạo động, đêm 9.11.1989, bức thành bị dỡ bỏ.

Người ra lệnh mở cổng thành lại chính là Trung tá an ninh STASI Harald Jäger [3]. Ngày nay người ta đặt câu hỏi. Nếu vào giờ phút lịch sử đó Jäger ra lệnh nổ súng vào đám đông quần chúng đang đòi mở cổng thành thì sẽ ra sao? Lịch sử cuối cùng cũng vẫn sang trang, vì lòng dân đã rõ, nhưng sẽ tốn máu. Viên sỹ quan STASI Jäger biết tiếc máu của dân mình vì anh cũng là nhân dân, cũng là người con đau khổ của bức tường.

Một trong những cách tuyệt vọng để vượt biên. Ảnh tư liệu

Tôi có thể viết hàng trăm bài về nước Đức chia cắt, vì tôi là đứa con miền Nam tập kết ra Bắc, chơi thân với nhiều bạn bè Đông và Tây Đức, chứng kiến nhiều số phận của họ. Tôi xin tạm dừng ở đây với các tóm tắt như sau:

– Tháng 5.1945. nước Đức thua trận bị phân chia thành 4 vùng chiếm đóng của Mỹ, Anh, Pháp và Liên Xô. Thủ đô Berlin nằm lọt thỏm trong vùng Liên Xô ở miền Đông nước Đức cũng bị chia 4. Chia nhưng chưa bị cắt, vì giữa các vùng vẫn đi lại được.

– Tháng 5.1949, ba vùng tư bản ở Tây Đức tập hợp thành nước CHLB Đức, kinh tế tư bản, dân chủ đại nghị.

– Tháng 10.1949, nước CHDC Đức ra đời ở miền Đông lấy Đông Berlin làm thủ đô. Biên giới Đức-Đức dài 1400km hình thành, chia cắt nước Đức thành 2 miền XHCN và TBCN.

– Trong khi đó Tây Berlin vẫn là thành phố tư bản, tự do. Đi lại giữa đông-tây thành phố vẫn “bình thường”. Tây Đức và Tây Berlin liên hệ với nhau qua các đường sắt, đường cao tốc và hàng không xuyên qua lãnh thổ CHDC Đức (theo thỏa thuận của đồng minh).

– Lỗ hổng này giúp cho 3 triệu người bỏ Đông Đức đi sang Tây Đức qua đường Tây-Berlin. Những người này được gọi là dân tỵ nạn. Lý do ra đi có thể là kinh tế, là chính trị (đòi tự do dân chủ) hoặc đoàn tụ gia đình.

– Để tránh việc chảy máu chất xám, ngày 13.9.1961, CHDC Đức bất ngờ xây bức tường Berlin, chính thức chia cắt hoàn toàn nước Đức.

– Từ sau 13.8.1961, dòng người tỵ nạn giảm hẳn. Vượt biên trở nên nguy hiểm chết người. Từ tháng 8.1961 đến ngày 11.1989, chỉ còn khoảng 500.000 công dân CHDC Đức sang được CHLB Đức. Trong đó hơn 300.000 người được cấp phép xuất cảnh định cư, đoàn tụ gia đình.

– Chính phủ CHLB Đức đã chi 5 tỷ DM để “mua giấy phép xuất ngoại” cho 250.000 đồng bào trong số 300.000 nói trên. Ngoài ra CHLB Đức chi 3,5 tỷ DM để “mua tự do” cho 33.700 tù chính trị từ các nhà tù CHDC Đức. [4]

– Số người bị bắn chết trong khi vượt bức tường trốn từ Đông sang Tây Berlin là 140 người.

– Số người chết vì bị bắn, vì vấp mìn khi vượt qua biên giới Đức – Đức là 327.

– Nếu kể cả hơn 200 người bị chết khi vượt biển Baltic để sang Bắc Âu hoặc Tây Đức và khoảng 300 người bị chết khi vượt qua biên giới các nước XHCN khác thì có khoảng 1000 người Đức đã chết chỉ vì muốn đi từ vùng đất này đến vùng đất khác của tổ quốc mình.

PS: Ai cần có thể đọc một số tư liệu khác về “Chia cắt nước Đức”:

Bài viết khác về bức tường Berlin và số phận những con người: https://www.facebook.com/tho.nguyen.9231/posts/3195284190489632

Bài viết về những ngày phong tỏa Berlin: “Máy bay ném bom nho”: https://www.facebook.com/tho.nguyen.9231/posts/3184493994901985

Bài viết về vụ vượt biên bằng khinh khí cầu “Gió bay về miền tây”: https://www.facebook.com/tho.nguyen.9231/posts/3340344989316884

Bài viết về những cầu thủ bóng đá CHDC Đức: https://www.facebook.com/tho.nguyen.9231/posts/4734892423195460

Viết về những gì xảy ra sau ngày thống nhất đất nước: Về những bức tường trong đầu (3 bài) https://www.facebook.com/tho.nguyen.9231/posts/2549301718421219

_____

*Chú thích:

[1] https://www.zdf.de/dokumentation/zdfzeit/zdfzeit-ein-tag-im-august–mauerbau-61-100.html, (Bắt đầu từ phút thứ 01:12:30)

[2] https://17juni1953.wordpress.com/2020/04/13/gerhard-weinstein-einstiger-staatsfeind-der-ddr-tot/

[3] https://www.facebook.com/tho.nguyen.9231/posts/1414934981857904 (bài viết về trung tá Harald Jäger)

[4] https://en.wikipedia.org/wiki/Trading_of_East_German_political_prisoners

T R Ả L Ờ I B Ạ N N G U Y Ễ N V Ă N TUỆ

Vũ Thư Hiên is with Bùi Quang Minh

T R Ả L Ờ I B Ạ N N G U Y Ễ N V Ă N TUỆ

Tuệ Nguyễn Văn: “Có một câu hỏi vẫn luôn ám ảnh trong đầu cháu, rất mong bác Vũ Thư Hiên có thể trả lời giúp cháu đó là: “Sau tất cả những điều kinh khủng mà bác phải qua trong suốt 9 năm trời như vậy, mà sao bác không có chút hận thù, căm ghét gì với những kẻ đã hành hạ bác trong suốt những ngày tháng tù đày dã man đến vậy ạ? Đọc “Đêm giữa ban ngày” cháu có cảm tưởng như bác đang nói về chuyện của ai đó chứ không phải của mình vậy. Rất mong bác có thể trả lời giúp cháu ạ”.

Gửi bạn Nguyễn Văn Tuệ, và các bạn: Chau Nhi, Kiều Mỵ, Phan Thuý Hà, Hong Ngoc Trinh, Vương Quốc Toàn, Tran Thang, Hoài Thu Nguyễn…

Nhân bạn Nguyễn Văn Tuệ nêu câu hỏi, lần này tôi sẽ kể dài dòng một chút để bạn và các bạn khác cũng từng đặt câu hỏi tương tự biết thêm về chuyện cuốn Đêm Giữa Ban Ngày đã hình thành như thế nào. Trong câu chuyện kể này, biết đâu đấy, các bạn sẽ tìm thấy câu trả lời cho câu hỏi trên.

1

Năm 1994, tôi ở Moskva (Liên Xô cũ).

Việc khởi đầu cuốn Đêm Giữa Ban Ngày liên quan tới một hiện tượng mà tôi không thể giải thích.

Một buổi sáng, vừa mắt nhắm mắt mở bước vào phòng tắm, tôi đứng sững – trước mặt tôi, trong tấm gương lớn tôi thấy không phải tôi mà cha tôi. Ông bất động, nhìn tôi bằng cặp mắt nghiêm khắc, có phần giận dữ. Hình ảnh ấy chỉ xuất hiện trong một thoáng, rất nhanh, rồi tôi lại nhìn thấy tôi trong gương như bình thường. Cảnh tượng cha tôi thoáng hiện ấy đưa tôi về một thời gian đã xa.

– Bố thấy trong người yếu lắm rồi – cha tôi thở dài – Chà, nếu bố còn khỏe! Có nhiều điều bố thấy cần phải viết ra cho đồng bào biết. Nhưng không còn sức nữa. Bố kỳ vọng ở con. Con phải viết. Đó là trách nhiệm, con ạ, là trách nhiệm.

Ông gắng gượng ngồi dậy, đặt tay lên vai tôi, nhìn vào mắt tôi:

– Không phải vì mục đích vạch tội ai mà con làm việc này, không phải vì mục đích ấy. Mục đích lớn hơn: qua vụ án này con phải để nói lên điều khác, điều rất quan trọng đối với dân tộc ta. Nhân dân ta cần phải hiểu để tránh xa vết xe đổ. Nước mà không có dân chủ, không có luật pháp, hoặc luật pháp chỉ là xảo ngôn, là mảnh đất màu mỡ cho thể chế độc tài, cho sự lộng hành tùy tiện của những tên độc tài…

Tôi hiểu tâm trạng cha tôi.

Ông khoan thứ cho kẻ thù.

Nhưng ông không ngơi lo lắng cho đất nước trước viễn cảnh xám xịt của nền chuyên chế.

Tôi quyết định bỏ mọi việc để thực hiện lời cha tôi dặn trước khi qua đời.

Ngay hôm ấy tôi đến công ty, nói lời từ biệt.

Mọi người bàng hoàng vì sự bỏ đi đột ngột của tôi. Trong công ty thuần Nga tôi là người Việt duy nhất, nhưng lại là bộ óc điều khiển hoạt động của nó. Cả chục năm ở Sài Gòn để kiếm sống tôi đã học được ít nhiều cách điều hành một xí nghiệp tư nhân, trong khi đó thì những người bạn Nga vừa thoát ra khỏi nền kinh tế kế hoạch hoá lại rất bỡ ngỡ. Chẳng cứ dân thường, ngay chính quyền mới cũng rất vụng về trong việc chuyển sang kinh tế thị trường. Một thí dụ: công ty chúng tôi gửi ngân hàng tiền dollar Mỹ và Deutch Mark thì lập tức được ngân hàng tính thành rúp, coi như gửi rúp chứ không phải ngoại tệ. Ít lâu sau chúng tôi đến lấy ra thì tỷ suất hối đoái đã khác do lạm phát phi mã. Số tiền tính bằng rúp tăng lên chóng mặt, khoản chênh lệch giữa hai thời điểm bị ngân hàng coi như lãi và công ty phải nộp thuế cho số tiền mà người ta gọi là “lãi bất ngờ”. Kỳ quặc thế đấy, vừa buồn cười vừa xót ruột, nhưng là sự thật. Những chuyện tương tự thời chuyển đổi chế độ ở Liên Xô kể không hết.

2

Những trang đầu tiên của Đêm Giữa Ban Ngày được bắt đầu như thế nào?.

Cái sườn đầu tiên cho cuốn sách chỉ là mấy trang phác thảo nằm lại ở Sài Gòn, được cất giấu ở nhà bè bạn. Tôi không cần đến chúng nữa vì đã thuộc nằm lòng. Tôi gặp may -vào thời gian đó tôi có nhu liệu Vietbit viết tiếng Việt rất tiện lợi của tác giả Bùi Quang Minh hồi ấy cũng ở Moskva. Cái Amstrad cổ lỗ không có ổ cứng, cứ viết thẳng vào đĩa mềm, không có cách trình bày như mình muốn. Tôi mổ cò từng chữ, ngày nối ngày, miễn sao nói được điều cần nói.

Như tôi viết trong phần Tự Bạch “Văn học không có chỗ nơi đây”, tôi tránh hết sức thói quen viết văn để cuốn sách chỉ chứa đụng những gì cần phải nói. Chậm chạp, từng dòng một, ngày lại ngày kỳ cạch nối tiếp, những trang bản thảo theo nhau làm đầy dần từng đĩa. Những cái đĩa mềm ngày ấy đúng như tên gọi – chúng mềm thật và to thật, đựng trong những bao giấy có thể chứa cả kí lô usb ngày nay.

Tai họa đến bất ngờ.

Nghĩ mình giờ đã ở Moskva, một nơi an toàn cách xa Việt Nam nhiều ngàn cây số, tôi hoàn toàn yên tâm, không chút cảnh giác. Một người nào đó trong số khách đến thăm tôi tình cờ đọc được vài dòng trên màn hình Amstrad đã biết tôi đang viết gì.

Tin bay về Hà Nội. Một toán đặc nhiệm được cử sang. Lợi dụng một hôm tôi về nhà một mình, những tên đột nhập tấn công tôi ngay khi tôi vừa bước vào thang máy. Một tên trẻ măng theo chân tôi xông vào lấy tay bịt miệng tôi, đâm tôi một nhát, rồi khi thang máy lên đến tầng, những tên khác chờ sẵn xô tới, nhanh nhẹn lục túi tôi lấy chìa khoá, đưa tôi vào phòng. Ở đó chúng không nói một lời vật tôi xuống sàn, trói nghiến, bịt mắt bịt miệng tôi bằng băng dính. Sau đó, không vội vã chúng lục lọi cả giờ mọi xó xỉnh, lấy đi tất cả những gì tôi có – tiền nong, vật dụng, không từ thứ gì, kể cả quần áo. Nằm trên sàn, tôi bất lực, chú ý nghe từng câu cụt lủn chúng trao đổi với nhau, tôi hiểu – mục đích của cuộc đột nhập được tạo ra theo cách của kẻ cướp là lấy bản thảo cuốn sách

Tin nội bộ từ Hà Nội cho tôi biết không đầy nửa tháng sau vụ đột nhập, việc tôi viết Đêm Giữa Ban Ngày đã được thông báo ngắn gọn với những trích dẫn trong một cuộc họp trung ương đảng (cộng sản). Điều này cho tôi thêm chứng cớ để khẳng định kẻ nào là tác giả vụ tấn công. Tôi cũng hiểu thêm vì sao những tên đột nhập chỉ đâm tôi một nhát cảnh cáo vào đùi chứ không định đâm chết. Có thể hiểu được: chúng chỉ làm tđến hế do có chỉ đạo. Ở Moskva tôi có quan hệ rộng với nhiều nhà văn nhà báo Liên Xô, kể cả với giới quan chức, tất yếu sẽ gây ra một sự ồn ào không cần thiết và không có lợi nếu bị phanh phui. Vết đâm vào phần mềm không nặng, máu chảy ra nhiều làm ướt sũng quần và lõng bõng trong giày. Điện thoại bị chúng lấy mất, tôi phải nhờ điện thoại của hàng xóm gọi cho bạn bè và họ lập tức phóng tới để đưa tôi đi bệnh viện.

Mấy hôm sau, một trong những tên đột nhập gọi điện cho tôi vào nửa đêm, thì thào bằng giọng hấp tấp: “Hay, chú ạ, cháu đọc rồi, chú cứ viết tiếp đi nhé!”. Rồi không thì thào nữa mà cho tôi biết tôi có thể nhận lại những vật bị mất ở đâu – số điện thoại mà tên cướp cung cấp không khó khăn để tra ra là số nhà riêng của một nhân viên lãnh sự quán Việt Nam. Câu sau là quan trọng, rõ ràng được mớm lời. Chúng mới ngây thơ làm sao – đời nào tôi dại dột đâm đầu vào rọ.

Về chuyện này tôi đã kể lại với đầy đủ chi tiết trong một bài báo “Những tên cướp dễ mến” được đăng trên tờ Việt Nam Dân chủ ở Paris. Nhiều bạn đã đọc hỏi tôi có giữ lại được bài báo đó không, nhưng mặc dầu cố gắng nhờ vả nhiều người tôi không sao tìm được. Tôi không có thói quen cất giữ những gì mình viết, cho rằng nếu chúng có giá trị thì chúng sẽ tồn tại không cần đến mình.

Một tuần sau, tôi được mời tới ngôi nhà rất lớn chạy dài cả một phố Lubianka nổi tiếng mà người dân Liên Xô nào cũng biết – trụ sở của KGB (Komitet Gosudarstvennoy Bezopasnosti – Bộ An ninh). Lúc ấy cơ quan quyền lực khủng khiếp một thời đã đổi tên là FSK (Federalnaya Sluzhba Kontrrazvedki – Cục Phản gián Liên bang) . Viên đại tá tầm thước, với gương mặt thật thà của người nông dân vùng Trung Nga, tiếp tôi trong một căn phòng hẹp dưới tầng hầm. Lấy ra chai vodka và con cá khô vobla đặt lên bàn, ông ta bắt đầu câu chuyện không vui. Chúng tôi vừa trò chuyện vừa uống rượu và nhai cá khô. Cuối cùng, trước khi chia tay, viên đại tá buồn rầu bảo tôi: “Chẳng cần nói ông cũng thừa biết ai làm vụ này. Tôi xấu hổ phải nói với ông rằng FSK không thể bảo vệ ông khi người ta chỉ cần bỏ ra vài ngàn dollars là đã thuê được lũ mafia đang đói rạc giết ông ngay trên đường phố Moskva. Tôi khuyên ông hãy chạy

sang phương Tây, ở đó ông mới có thể giữ được tính mạng”.

Tôi không chạy sang phương Tây mà bỏ sang Warszawa, thủ đô Ba Lan. Ở đó tôi cặm cụi viết lại những chương bị lấy mất (khoảng một phần ba cuốn sách) và vài chương tiếp theo. Công việc rồi cũng lại bị bỏ dở vì tôi được những người tốt báo cho biết công an từ Hà Nội đã sang Warszawa để lùng tôi, không thể biết lần này họ sẽ làm gì.

Tôi lập tức lấy chuyến bay đi Paris, ở đó tôi xin tị nạn. Tôi viết nốt những chương cuối cùng ở một căn phòng hẹp, lầu áp mái. Mùa hẻ căn phòng nóng như lò than. Mùa Đông thì lạnh cóng.

Nói tóm lại, cuốn sách được viết ra với rất nhiều cực nhọc. Nếu có nói nó được viết cả bằng máu cũng không ngoa.

3

Tính từ khởi đầu cuộc trấn áp cái gọi là “nhóm xét lại chống Đảng” (1967) cho tới khi tôi đặt bút viết Đêm Giữa Ban Ngày thì đã qua gần 30 năm. Khoảng cách về thời gian ấy là một độ lùi cần thiết cho người viết hồi ký. Những trang viết sẽ tách khỏi những cảm xúc tại chỗ, nóng hổi, nhất thời, gắn với những sự việc đang hoặc vừa xảy ra. Độ lùi này làm cho sự nhìn lại và miêu tả những sự kiện xảy ra trong quá khứ khách quan hơn.

Đêm Giữa Ban Ngày đã được thực hiện đúng như ý cha tôi muốn. Nó không phải là cuốn sách về một vụ án. Tôi không có định viết về vụ “nhóm xét lại chống Đảng” như một bản buộc tội những kẻ gây ra nó, cũng là thủ phạm của vô vàn oan trái khác tràn lan trong xã hội thời ấy, hay như sự chiêu tuyết cho những nạn nhân.

Vụ án chỉ là cái nền cho sự miêu tả một xã hội, trong đó tôi đã sống, với trải nghiệm của một thành viên bất đắc dĩ. Tôi vui khi thấy nhiều bạn đọc hiểu đúng mục đích của cuốn sách. Không có gì vô duyên hơn những hồi ký kể lể danh vị của cha ông hoặc sự khoe khoang những thành đạt trong cuộc đời tác giả. Người ta đọc hồi ký là để biết một cái gì lớn hơn cuộc đời của một cá nhân – ấy là diện mạo của một xã hội trong đó tác giả nằm khuất dưới những hàng chữ với tư cách nhân chứng.

Khi viết Đêm Giữa Ban Ngày tôi không hề muốn nói về “cái tôi” trong sự kiện, mà dùng sự kiện (vụ án) như cái nền trên đó hình ảnh của một xã hội mà tôi coi là không xứng đáng với con người được lộ ra nhiều nhất có thể. Chính vì thế mà bạn đọc mới được biết về những số phận người như ông già ba chục năm tù “Jean Valjean gọi bằng Cụ”, thằng bé Hán Còi, ông nông dân hiền lành Nguyễn Thái Bút hoặc tên “gián điệp quốc tế” Dịp Pún Mằn… Nếu tôi có đưa vào cuốn sách những văn nghệ sĩ như nhà văn Nguyễn Tuân, hoạ sĩ Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái… thì đó là để nói về cách đối xử của chính quyền cộng sản với lớp công dân ưu tú mà chính quyền ở các quốc gia bình thường coi trọng.

Chính vì để miêu tả những số phận bị chà đạp, bị dày xéo ấy mà bạn thấy tôi không nói gì nhiều về thân phận của tôi trong chín năm qua nhiều trại giam và những gì tôi đã nếm trải, như thể tôi “đang nói về chuyện của ai đó chứ không phải của mình vậy”. Những nhà tù (được gọi là “trại cải tạo”) có rất nhiều chuyện đáng được nói đến, được kể ra, nhưng những cái đó nằm ngoài mục đích của cuốn Đêm Giữa Ban Ngày. Chỉ tính những gì được nói đến đã làm cho nó dày cộp rồi. Hơn nữa, tôi không có ý định viết một cuốn sách thuộc dòng văn học “tố khổ”. Những tác phẩm loại này đã có nhiều đến nỗi sự thêm vào một cuốn nữa là thừa.

Jean Fréville (Eugène Schklaff (1895-1971) có một lời khuyên đáng giá cho người cầm bút bất kể anh ta dùng thể loại văn học nào: “Hãy để sự vật nói lên”. Sức mạnh của sự vật, cũng là sức mạnh của sự thật, lớn hơn mọi thủ pháp văn chương. Tôi đã cố gắng theo đúng lời khuyên này, nhưng không chắc mình đã làm được.

Bạn hỏi: “Sau tất cả những điều kinh khủng mà bác phải qua trong suốt 9 năm trời như vậy, mà sao bác không có chút hận thù, căm ghét gì với những kẻ đã hành hạ bác trong suốt những ngày tháng tù đày dã man đến vậy ạ?”. Bảo rằng tôi không có chút hận thù hay căm ghét nào với những kẻ hành hạ tôi thì tôi nghĩ không được đúng lắm đâu. Có đấy, nó nằm trong sự thật mà bạn thấy qua những dữ kiện được trình bày bằng cái nhìn lạnh lùng. Sự thật đã được phơi bày thì mọi bình luận về nó là thừa, làm hỏng điều mình muốn nói.

Khi nhìn lại sự việc trong quá khứ cái nhìn nào cũng chứa đựng sự bao dung trong vô thức, không nhiều thì ít, với người nào cũng vậy. Không ai có thể mãi mãi khư khư ôm thù hận trong lòng trong suốt cuộc đời. Tôi nhớ có đọc đâu đó một nghiên cứu khoa học về một đặc tính của não bộ con người – nó bao giờ cũng giữ lại những kỷ niệm tốt đẹp và quên đi những việc xấu.

Tôi hiển nhiên là nạn nhân của hai tên độc tài Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, như nhiều bạn cùng thời tôi biết rõ, hay ít ra thì cũng biết nhiều hơn những người chỉ đọc những bài tụng ca các lãnh tụ anh minh. Nhưng khi đã lùi xa khỏi sự kiện, tôi mới thấy cả hai người (hay quỷ) này xét cho cùng cũng là một thứ nạn nhân – nạn nhân của sự ham hố quyền lực và danh vọng. Chúng hoàn toàn không hiểu được rằng chúng là nô lệ của sự ham hố ấy. Vô vàn tội ác của chúng cũng từ sự ham hố ấy mà ra. Chửi bới chúng là tự hạ mình xuống chỗ của chúng.

Khi “quân dữ” (tôi mượn từ Thiên Chúa giáo) hùng hổ xông vào tôi khi tôi đang đi giữa đường, quẳng tôi lên xe, đưa tôi vào thẳng Hoả Lò, nhà tù nằm giữa lòng thành phố, rồi tiếp tục cuộc hành hạ tôi chín năm, tôi thấy lòng mình hoàn toàn yên tĩnh nhờ sự biết trước rằng chúng không thể hành xử theo cách nào khác với bản chất của chúng.

Khi ấy, tôi chợt nhớ tới mấy vần thơ của Puskhin:

Đừng cười nhé nỗi buồn anh thấy trước

Anh biết đòn số mệnh chẳng buông tha

Mái đầu xanh em vẫn hằng ve vuốt

Từ ngực em sẽ tới pháp trường xa…

Tôi không biết làm thơ, nhưng trong những ngày tù đằng đẵng của mình, tức cảnh sinh tình, tôi cũng ghi lại mấy dòng giống như thơ:

Kiệt lực qua thập điện khổ đau

Tôi lử lả tiến công vào cái Ác

Trong đêm giữa ban ngày

Với vũ khí trong tay

Chỉ một ngọn bút cùn thay lưỡi mác

Tôi ngã xuống trong lốc bụi chiến trường,

Phút hấp hối còn mang mang nghe tiếng nhạc.

Thì ra máu của tim mình

nhỏ xuống

đất cằn

Và đất lên giọng hát

Bài hát của niềm tin

Từ trái tim tôi rách nát.

Các nền dân chủ dễ bị hủy hoại trong thế kỷ 21 nếu chúng ta không lên tiếng

Các nền dân chủ dễ bị hủy hoại trong thế kỷ 21 nếu chúng ta không lên tiếng

Bởi  AdminTD

Việt Linh

20-6-2021

Chỉ trong vòng 4 năm trở lại đây, các nhà lãnh đạo độc tài đua nhau sửa đổi Hiến Pháp để được nắm quyền lâu hơn như Vladimir Putin ở Nga, Tập Cận Bình ở Trung Quốc…

Các chính trị gia trên khắp thế giới đang vay mượn chiến thuật của tay đại gian thương số 1 của nước Mỹ có tên Donald Trump, chiến thuật này có một slogan: “Tôi đã chiến thắng áp đảo, nhưng họ đã ăn cướp chiến thắng của tôi“.

Những cáo buộc gian lận sai trái này của một người thua cử thật vô cùng nguy hiểm.

Xin đưa ra 5 dẫn chứng thật nhất, là 5 lời phát biểu của 5 nhà lãnh đạo quốc gia đã làm xáo trộn chính trường của quốc gia họ, đã tạo sự chia rẽ, nghi ngờ giữa các đảng phái, gây hoang mang trong xã hội, người dân:

– Câu nói đầu tiên: “Tôi chỉ thua cử nếu có gian lận …“. Đây là lời phát biểu của Jair Bolsonaro, Tổng Thống đương nhiệm của nước Brazil ngay trước cuộc bầu cử Tổng Thống năm 2018, đã đem đến chia rẽ chính trường Brazil và người dân của đất nước này. Và Donald Trump đã học thuộc bài từ nhà độc tài của Brazil, đem ra áp dụng ngay trong cuộc bầu cử Tổng Thống năm 2020.

– Câu nói thứ hai: “Chúng tôi đang chứng kiến vụ gian lận bầu cử lớn nhất trong lịch sử đất nước”. Đây là lời phát biểu của Benjamin Netanyahu, cựu Thủ Tướng nước Do Thái, là người vừa bị lật đổ trong tuần rồi, ngay sau khi những đối thủ của ông đã thành lập một liên minh quốc hội để lật đổ ông ta.

Kể từ đó, ông ta đã miễn cưỡng nhường chỗ cho Thủ Tướng mới, Naftali Bennett, nhưng ông vẫn không thừa nhận rằng sự mất mát của mình là công bằng, miệng vẫn rêu rao rằng có gian lận, nhưng ít ra, Netanyahu vẫn còn một chút sĩ diện, muối mặt ra đi và thề sẽ quay trở lại trong vinh quang trong cuộc bầu cử tới, lúc đó ông ta sẽ 75 tuổi, hy vọng sức khỏe còn để tiếp tục ra tranh cử là Thủ Tướng lần chót trước khi làm một chuyến đi xa.

– Câu nói thứ ba: “Đây có thể là bài phát biểu quan trọng nhất mà tôi từng thực hiện. Tôi muốn cung cấp thông tin cập nhật về những nỗ lực không ngừng của chúng tôi nhằm vạch trần những hành vi gian lận cử tri lớn và những bất thường. Tôi đã thắng cử với con số áp đảo, nhưng chiến thắng đã bị họ cướp mất”.

Câu nói trên là lời phát biểu của Donald Trump, cựu Tổng Thống thứ 45 của Hoa Kỳ, là người đã thua cử trong cuộc bầu cử Tổng Thống năm 2020, không có được sĩ diện và lòng tự trọng như Benjamin Netanyahu, vẫn luôn miệng kêu gào, có gian lận, tôi đã thắng lớn, tôi sẽ quay lại Tòa Bạch Ốc, thưa kiện và thua kiện, đếm phiếu lại ở nhiều tiểu bang và chẳng tìm được gì, mãi đến 7 tháng sau, ông ta mới mở miệng chấp nhận thua cuộc. Với tên gian thương, chuyên gia nói dối này, tôi tạm gọi là, “Donald trump, sĩ diện đã bán rẻ và lòng tự trọng đến trong muộn màng“.

– Câu nói thứ tư: “Cuộc bầu cử có gian lận phiếu, chúng tôi phải ngăn chặn kết quả cuộc bầu cử bất hợp pháp này, và chúng tôi đã chặn đứng họ …” Đó là câu nói của Tổng tư lệnh quân đội Min Aung Hlain, người cầm đầu quân đội Miến Điện, đã đưa ra tuyên bố cuộc bầu cử có gian lận, làm lý do chánh cho cuộc đảo chánh quân sự, bắt nhốt lãnh đạo dân cử là bà Aung San Suu Ky, giải tán Quốc Hội, và hiện đang nắm toàn quyền sinh sát tại đất nước có thể chế dân chủ yếu kém này, đưa đất nước Miến Điện quay trở lại thời kỳ độc tài quân phiệt.

Đây cũng chính là nguồn cảm hứng cho Michael Flynn, một cựu tướng quân đội Mỹ, đã ấp ủ giấc mơ dùng quân đội để đảo chánh, giúp Trump nắm quyền và đưa nước Mỹ đến chế độ chuyên quyền độc tài.

– Và, câu nói thứ năm: “Cuộc bầu cử có gian lận sẽ bị lật tẩy, tôi sẽ chiến thắng, hỡi các bạn thân mến“. Đây là lời phát biểu của Keiko Fujimori, là cô con gái của Alberto Fujimori, cựu lãnh đạo độc tài của nước Peru. Cô này chỉ mới 46 tuổi, là lãnh đạo đảng chính trị cánh hữu, cũng vừa thua một cuộc bầu cử, nhưng lại không công nhận kết quả.

Cô Keiko Fujimori đã diễn lại y chang màn kịch kêu gào có gian lận, kêu gọi sự ủng hộ của những kẻ cực hữu, những người ủng hộ Keiko Fujimori cũng xử dụng phục trang, đội nón sừng trâu kiểu Jacob Anthony Chansley làm biểu tượng cho sự phản kháng và bạo loạn.

Sau những lời nói dối từ Benjamin Netanyahu, Donald Trump đến Keiko Fujimori… báo hiệu một xu hướng độc hại trên nhiều chính trường của các thể chế dân chủ trên toàn thế giới. Freedom House, một tổ chức tư vấn và giám sát ủng hộ dân chủ, đã cảnh báo rằng, thế giới đang trải qua “sự suy giảm dân chủ có tính lập lại trong lâu dài”.

Và nguy hiểm nhất, độc hại nhất, vẫn là những hành vi của Donald Trump sau cuộc bầu cử năm 2020, sẽ tiếp tục khuyến khích những kẻ chuyên quyền khắp thế giới thao túng các quy trình bầu cử để nắm giữ quyền lực.

Trong tất cả những trường hợp này, chẳng có nhà lãnh đạo nào thuộc diện trong sạch, liêm chính, được người dân yêu mến, ủng hộ cả. Donald Trump đang phải đối diện với nhiều vụ thưa kiện, các cáo buộc lạm dụng quyền lực, tham nhũng của công, cấu kết với nước ngoài và thất bại trong kinh doanh. Benjamin Netanyahu đã và đang bị truy tố về tội tham nhũng và gian lận. Keiko Fujimori trước đó đã phải ngồi tù một năm, trong khi chờ xét xử vì bị cáo buộc thu các khoản đóng góp chiến dịch bất hợp pháp, muốn hô hào có gian lận để lật ngước kết quả bầu cử, và tin tưởng vào chức vụ Tổng Thống để bảo vệ cô ta khỏi bị truy tố về tội rửa tiền và cản trở công lý.

Tất cả các nhà lãnh đạo tham quyền cố vị này đều có chung một lối tuyên bố giống hệt nhau, rằng bởi có gian lận trong bầu cử, họ đã không thắng cử, bị cướp mất chiến thắng, rằng ngoài những gì cá nhân họ có thể phải gánh chịu, thì quốc gia của họ cũng sẽ phải trả một cái giá rất lớn cho sự mất mát khi không có họ, rằng chỉ có họ mới đưa được đất nước giàu mạnh, phát triển.

Benjamin Netanyahu, sau khi thua cuộc bỏ phiếu, gọi chính phủ mới là một “liên minh nguy hiểm của gian lận và đầu hàng“, và đã thề sẽ “lật đổ nó rất nhanh chóng“.

Keiko Fujimori đã mô tả chiến thắng của đối thủ cánh tả của mình là một mối đe dọa sinh tử đối với đất nước Peru và cho rằng, đất nước Peru sẽ tiếp bước đất nước Venezuela trong sự đàn áp tự do và nghèo đói.

Donald Trump cho rằng nước Mỹ dưới thời một Tổng Thống thuộc đảng Dân Chủ cấp tiến sẽ đưa đất nước đổi sang một nước xã hội chủ nghĩa cộng sản, rằng ngoại trừ ông ta chiến thắng thì đó là cuộc bầu cử chính đáng, công bằng, nếu ông ta không chiến thắng, tức là có gian lận.

Những hậu quả bây giờ và tương lai đối với các thể chế dân chủ trên toàn thế giới, không chỉ ở Brazil, Hoa Kỳ, Do Thái, Miến Điện hay Peru, mà còn có thể xảy ra tại nhiều nước khác nữa. Những kẻ chuyên quyền, độc tài mới sẽ dựa vào những hình mẫu, cách thức mà những kẻ bại hoại, tham quyền cố vị đã làm, để áp dụng ngay trên chính đất nước của họ, tìm cách khiến những người ủng hộ họ chống lại chính hệ thống bỏ phiếu công bằng đã hoạt động hiệu quả từ bao lâu nay, làm mất uy tín của các cuộc bầu cử, phá hoại ý tưởng chính trị cạnh tranh.

Với nước Mỹ, không có một vị Tổng Thống Mỹ nào, từ thời lập quốc đến thời cận đại đã có những ý tưởng điên rồ, những phương kế bẩn thỉu, những mưu mô thâm độc, tàn phá thể chế dân chủ của đất nước mình, chỉ để được nắm quyền lực trong tay lâu hơn. Chỉ có Donald Trump, một tên gian thương xảo trá mới có đủ mưu ma chước quỷ làm nên những điều tồi bại đó. Và các phương tiện truyền thông xã hội trong thời đại công nghệ phát triển đã đóng một vai trò quan trọng trong việc khuếch đại chúng.

Không có nhà lãnh đạo dân chủ châu Âu thời hậu chiến nào đã thử nó. Các nước thuộc khối Liên Hiệp Châu Âu đã rất may mắn, không như nước Mỹ.

Nếu nói theo định nghĩa công bằng của bất kỳ cuộc bầu cử nào trên thế giới, chiến thắng của đối thủ một ứng cử viên chỉ có thể đạt được thông qua gian lận, thì làm thế nào mà cuộc bầu cử có thể được xem là hợp pháp?

Nhưng, những người dân sống tại các nước dân chủ, tự do đã rất may mắn, rằng xu hướng tệ hại này đã không xảy ra thường xuyên, ý thức của người dân, tính nghiêm minh của luật pháp và ảnh hưởng bởi sự quan sát của thế giới đã làm chùn chân các nhà lãnh đạo độc tài.

Với Benjamin Franklin, một nhân vật quan trọng trong thời kỳ khai sáng Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, khi được hỏi: “Nước Mỹ sẽ tốt hơn khi là một nền Cộng Hòa hay một chế độ quân chủ?” Ông đã trả lời: “Dĩ nhiên, đó phải là một nền Cộng Hòa, nếu bạn có thể giữ vững được nó“.

Với Richard Nixon, một Tổng Thống đảng Cộng Hòa, khi các cố vấn gợi ý rằng, ông nên tranh chấp kết quả của cuộc bầu cử Tổng Thống năm 1960, ông đã từ chối và nói rằng: “Đất nước của chúng ta không thể chịu đựng được sự đau đớn của một cuộc khủng hoảng Hiến Pháp, tôi sẽ không vì quyền lực hay vì cái ghế Tổng Thống mà tạo ra cái điều chết tiệt đó“.

Một nền Dân Chủ không thể hoạt động tốt và ổn định, nếu người dân không có đức tính tôn trọng luật pháp và yêu đất nước, nếu không, sẽ rất dễ xảy ra các cuộc bầu cử với tranh chấp, bạo lực, thậm chí nội chiến đều có thể dẫn đến.

Trong nhiều thập niên qua, người Mỹ, cũng như người Do Thái và những đất nước Dân Chủ ở Châu Âu đã không bị những dịch bệnh tham quyền cố vị, nói láo và bạo lực chính trị xảy ra. Chúng ta đã không nghĩ đến những tình huống xấu xảy ra, hay chuẩn bị tinh thần cho việc các cơ quan cao nhất của chính quyền bị tấn công, huỷ hoại bởi những người không chơi theo luật, không đủ đức tính công dân và không ngại đạp đổ nền dân chủ lâu đời nếu đó là điều cần thiết để giành chiến thắng.

Chính xác rằng, Donald Trump đã đưa đường dẫn lối cho các nhà lãnh đạo có tư tưởng chuyên quyền, độc tài khác trên thế giới, với chứng minh rõ nét nhất, rằng Donald Trump có thể biến một đảng chính trị lớn và những người ủng hộ, thành một đội quân hung hãn để tấn công và phá hoại nền dân chủ.

Và, không ai có thể chối cãi, những diễn biến xấu tại các quốc gia Do Thái, Miến Điện, Peru… chính là những tác động toàn cầu từ cuộc lật đổ tiến trình Dân Chủ tại Hoa Kỳ của Donald Trump, sát thủ của nền Dân Chủ Mỹ.

______

Tham khảo:

https://www.theatlantic.com/ideas/archive/2021/06/trump-fraud-stop-steal-copycats/619226/

https://edition.cnn.com/2021/06/18/politics/republicans-trump-january-6-whitewashing/index.html

LẠI NHỚ NGUYỄN CHÍ THIỆN

LẠI NHỚ NGUYỄN CHÍ THIỆN

Nguyễn Chí Thiện ở tù cùng với tôi tại trại Phong Quang, Lào Cai.

Tính về mức độ tàn bạo, theo sự đánh giá của những người tù thâm niên, nó chỉ đứng sau trại Quyết Tiến, hoặc còn gọi nôm na là trại Cổng Trời, ở Hà Giang.

Tôi ra tù trước Nguyễn Chí Thiện vài tháng, hoặc nửa năm chi đó. Người ta thả tôi với điều kiện ngặt nghèo – phải được một cơ quan, xí nghiệp nhận vào làm việc. Người nhà, bè bạn chạy xất bất xang bang, cuối cùng rồi cũng gặp được một ông giám đốc dám làm cái việc không ai muốn làm.

Tôi được ký hợp đồng tạm tuyển, tạm tuyển thôi, làm công nhân bốc vác ở Công ty cung ứng vật liệu xây dựng Hà Sơn Bình. Nó là cái tỉnh mới, gồm Hà Đông, Sơn Tây và Hoà Bình, theo sáng kiến của ông tổng bí thư anh minh được ca ngợi là ngọn đèn 200 bougies soi đường cách mạng. Thời ông này người vào tù đông nhất. Các trại mới mọc nhanh như nấm.

Ông giám đốc tốt bụng chẳng những không bắt tôi làm công việc bốc vác, giữ tôi ở văn phòng, mà còn cho phép tôi không phải ở nhà tập thể của công ty ở thị xã Hà Đông, hết ngày thì về nhà mình ở Hà Nội.

Nguyễn Chí Thiện được thả về nguyên quán Hải Phòng, ở đấy anh còn bà chị.

Chẳng khác gì tôi, anh không thể kiếm được việc làm. Trước khi đi tù lần thứ nhất, anh làm nghề dạy học. Sau lần đi tù thứ hai vì tội làm thơ phản động, anh thất nghiệp trăm phần trăm. Trở về nghề cũ, nghề duy nhất anh biết thì chắc chắn không được rồi. Làm thầy giáo trong nhà trường xã hội chủ nghĩa nếu lý lịch không sáng như gương thì cũng phải là người không một lần vướng vòng lao lý, thậm chí không bị cái gọi là “cơ quan chức năng” cho vào sổ đen. Các cơ quan, xí nghiệp nhà nước chỉ cần lướt qua lý lịch hai lần tù của anh là xua anh như xua tà. Anh sống vắt mũi bỏ miệng, lúc đói lúc no.

Thỉnh thoảng, chẳng có việc gì để làm, anh lên Hà Nội thăm tôi và bạn tù cũ: Trình Hàng Vải, Vĩnh Đại Uý, Văn Thợ Mộc, Dũng Con…, hi vọng anh em mách bảo cách nào kiếm sống.

Trình Hàng Vải hiến kế đi buôn – cất đũa xe đạp ở Hà Nội về bán ở Hải Phòng. Thiện đi được vài chuyến trót lọt, cũng kiếm được chút đỉnh. Cái may khốn thay lại không dài – vào một ngày đông rét cắt ruột anh đụng thuế vụ. ThấyThiện mặt gày quắt, áo bông lại to xù, người nhà nước đè ra khám. Tất tật các bó đũa xe đạp quấn quanh người bị tịch thu. Thế là mất cả chì lẫn chài.

Tôi may mắn hơn Thiện.

Đang lúc không biết cách nào kiếm sống thì rất bất ngờ, tôi gặp lại ông bạn cũ, trước kia là giảng viên khóa 6 trường sĩ quan lục quân Trần Quốc Tuấn. Tình đồng ngũ khiến anh tự tìm tôi để giúp đỡ. Lê Sĩ Thiện là con dao pha, việc gì đến tay anh cũng tìm ra cách làm bằng được. Trước khi về hưu, anh là phó giám đốc nhà máy điện Lào Cai. Mặt hàng đầu tiên chúng tôi sản xuất là bột nở thực phẩm. Chúng tôi gặp thời – trước kia bột nở phải nhập của Tàu, nay hai nước lủng củng, không có hàng về, cái quẩy giờ chỉ to bằng ngón tay. Các bà bán cháo quẩy ào ào mua hàng của chúng tôi. Nhờ có bột nở nội hoá này cái quẩy lại phồng to như cán búa.

Thấy bột nở chạy, Nguyễn Chí Thiện muốn lấy một ít về Phòng bán thử. Nhưng ngay cả tiền trả hàng mẫu anh cũng không có.

Với bạn tù, tôi không tiếc. Nhưng việc này phải được Lê Sĩ Thiện bằng lòng.

Chúng tôi khởi đầu bằng hai bàn tay trắng. Gõ mọi cửa có thể gõ mới vay được năm chục bạc, bằng lương kỹ sư một tháng. Được cái việc sản xuất không cần nhiều thiết bị lôi thôi, làm ra nhanh, chẳng mấy chốc chúng tôi đã có những đồng lãi đầu tiên. Tuy vậy, mới bắt tay vào sản xuất, tiền thu chưa được bao nhiêu. Bán chịu trong những ngày ấy không khó, nhưng nó mang lại sự xúi quẩy, người ta tin như thế.

Lê Sĩ Thiện không quen Nguyễn Chí Thiện, hai người mới chỉ gặp nhau vài lần ở nhà tôi. Tôi e anh không bằng lòng. Nhưng tôi lầm. Lê Sĩ Thiện biết chúng tôi thân nhau, rất có thể trong thâm tâm anh có cảm tình với những người bị bỏ tù vì tội chống chế độ.

Anh gãi đầu, rồi quyết:

– Để cậu ấy lấy. Bán được rồi, trả sau có sao.

Vào thời gian ấy chẳng ai trong chúng tôi, những bạn tù của Nguyễn Chí Thiện coi anh là nhà thơ, mặc dầu không ít thì nhiều chúng tôi đều được anh thì thầm đọc cho nghe thơ anh trong những buổi tối của đời tù đằng đẵng. Anh cũng thật thà thú nhận:

Thơ của tôi không phải là thơ.

Mà là tiếng cuộc đời nức nở.

Tiếng cửa nhà giam ngòm đen khép mở.

Tiếng khò khè hai lá phổi hang sơ.

Tiếng đất vùi đổ xuống lấp niềm mơ.

Tiếng khai quật cuốc đào lên nỗi nhớ.

Nhưng cũng có những vần thơ của anh tôi nghe một lần mà nhớ mãi:

Người xưa ngẩng đầu nhìn trăng sáng,

Rồi cúi đầu thương nhớ cố hương.

Còn tôi – ngẩng đầu nhìn nhện chăng tơ vướng,

Rồi cúi đầu nhặt hạt cơm vương.

Từ hai câu: Cử đầu vọng minh nguyệt, Đê đầu tư cố hương của thi hào Lý Bạch mà bật ra sự liên tưởng so sánh vừa hồn nhiên vừa đau đớn ấy, hồn thơ trong Nguyễn Chí Thiện đã thức giấc. Nó đặc biệt gợi nhớ cái xà lim cấm cố ai từng qua thì không thể nào quên.

Nhưng khi nghe những vần thơ khác:

Đảng như hòn đá tảng

Đè lên vận mạng quê hương.

Muốn sống trong hòa hợp yêu thương,

Việc trước nhất phải tìm phương hất xuống.

Thì Lê Sĩ Thiện hết hồn: “Bị bỏ tù còn là nhẹ. Còn sống là may.

Lê Sĩ Thiện chưa từng ở tù, anh chỉ có thể đoán, chứ không thể biết tâm trạng người tù. Con người sống trong cái xã hội được gọi là xã hội chủ nghĩa, với cái sợ được chương trình hoá, được định hình trong vô thức, anh chăm chú nghe, giật mình khi nghe, rồi ngẩn người, không thốt được lời nào.

– Tâm hồn người này thật trong sáng – Lê Sĩ Thiện nói riêng với tôi – Rất thật thà. Anh ta rồi còn gặp nhiều nguy hiểm.

Nhờ buôn bột nở, Nguyễn Chí Thiện nhanh chóng trang trải được nợ nần, thậm chí còn dư chút đỉnh giúp họ hàng ở quê, giúp các bạn tù còn loay hoay tìm kế sinh nhai. Ấy là sau này Thiện tâm sự tôi mới biết.

Thiện sòng phẳng. Bán được nhiều rồi, tích được lãi làm vốn rồi, anh lấy hàng lần nào thanh toán ngay lần ấy, không dây dưa.

Một lần, anh dồn tất cả tiền có được để mua một lượng hàng lớn theo yêu cầu của người đặt hàng.

Hoá ra ở miền Nam bấy giờ rất thiếu bột nở cho cao su để làm dép xốp Thái Lan. Lái buôn từ miền Nam ra, nghe nói Hải Phòng có thứ đó, mua về, thấy tuy chất còn kém, nhưng dùng được, liền đặt hàng, bảo Thiện có bao nhiêu lấy bấy nhiêu. Thiện tính sẽ lãi to, ai ngờ thất bại nặng. Tất cả số bột nở anh mang về đều bị thuế vụ tịch thu.

Vụ ấy tôi hoàn toàn không biết. Chỉ thấy Thiện vắng mặt lâu, không thấy lên lấy hàng.

Đùng một cái, Trình Hàng Vải hớt hải báo: “Thiện bị bắt lại rồi!”

Anh bàn với tôi và các bạn góp tiền đưa cho bà chị Thiện đi tiếp tế. Chúng tôi, tất nhiên không được thò mặt ra trong việc này. Thì ra thời gian Thiện vắng bóng là lúc anh âm thầm chép lại toàn bộ thơ làm trong tù để rồi đột nhập đại sứ quán Anh, nhờ họ chuyển ra nước ngoài. Tập thơ đầu tiên của Thiện có tựa đề “Hoa Địa Ngục”. Chi tiết vụ này thế nào mọi người đều đã biết.

Mãi sau tôi mới được nghe kể chuyện gì đã xảy ra trong chuyến lấy hàng lần chót của Thiện mang về Hải Phòng.

Một người bạn của Thiện, cựu đại uý Bảo chính đoàn, nay đạp xích-lô, một buổi tối vắng khách mới rẽ vào thăm Thiện. Đẩy cánh cửa không bao giờ khoá vào nhà, anh thấy nhà tối om. Bật lửa lên soi thì thấy Thiện nằm co trên giường. Sờ soạng tìm công tắc, bật điện Vẫn tối om.

– Điện đóm sao thế này? Đèn đâu? – anh hỏi.

Thiện ngỏng đầu lên:

– Bán rồi!

– Bán rồi là thế nào?

– Bán rồi là bán rồi, chứ còn là thế nào.

Thì ra sau vụ bị tịch thu tất cả số bột nở trên tàu, Thiện chẳng còn đồng nào trong túi. Về được đến nhà, bụng đói cật rét, trong nhà chẳng còn gì đáng giá ngoài cái bóng điện 15 watts. Bèn tháo ra mang đi đổi lấy một bơ gạo (bơ, tức là cái vỏ hộp sữa đặc, một thời được dân chúng coi là đơn vị đo lường) về nấu cháo.

Ăn cháo xong, đắp chăn ngủ.

Anh cựu đại uý đạp xích lô bảo Thiện:

– Cậu có khai với chúng nó là bột nở không đấy?

– Không.

– Cậu khai sao?

– Bảo: tôi không biết, người ta thuê tôi mang thì tôi mang.

Anh bạn thở phào:

– Thế thì có cơ cứu vãn. Chúng nó mà biết là bột nở thì xong phim. Chúng nó sẽ đem bán để chia nhau. Cậu nghe đây, tớ quen bọn ấy. Còn có cơ cứu vãn.

– Quen thế nào?

– Làm ăn ấy mà.

Thiện chồm dậy:

– Liệu lấy lại được không?

– Còn tùy tình hình. Mình sẽ hỏi chúng nó.

– Nhất rồi – Thiện reo lên – Có phải đấm mõm chúng nó không? Tớ không còn xu nào dính túi đâu đấy nhá.

Anh bạn gãi đầu:

– Không. Nhưng thế nào thì cũng phải đãi chúng nó một chầu.

– Tớ nói rồi – tớ không còn xu nào đâu.

– Để tớ lo. Sau, cậu trả lại tớ.

Anh cựu đại uý điều đình thế nào không biết. Một bữa thịt chó được anh tổ chức, không linh đình, nhưng thoả thuê. Đến lúc ấy Thiện mới biết bọn thuế vụ chẳng biết cái chúng thu là cái quái gì. Cứ thứ gì mà người mang không trình ra được hoá đơn là coi như hàng lậu, thu tất.

Thiện được trả lại tất cả số hàng bị thu.

Bữa ấy Thiện say khướt. Say đến nỗi không biết làm sao mình về được tới nhà. Anh không bao giờ uống rượu. Phần lớn thời gian đời anh trôi qua trong tù, nơi không thể có rượu, trừ những người trong toán tự giác. Những người này thỉnh thoảng cũng được một lần say sưa nhờ đổi những vật dụng tù mang theo người khi vào trại lấy rượu với dân bản lân cận.

Tôi hỏi Thiện chuyện này khi chúng tôi được sống cùng nhau trong một căn hộ tại Strasbourg, thành phố miền Bắc nước Pháp.

– Đó là lần đầu tiên tôi uống rượu, ông ạ – Thiện nói – Trước đó cũng có nhấp tí chút trong một đám giỗ, chẳng thấy ngon lành gì. Cay xè.

– Say thế làm sao về? – tôi hỏi.

– Ông này buồn cười, anh đại uý bạn tôi chở tôi về chứ. Anh ta có cả một cái xích lô cơ mà.

10.2016

TẠI SAO NÓI TẤT CẢ MỌI DÂN TỘC ĐỀU XỨNG ĐÁNG VỚI MỌI CHÍNH QUYỀN MÀ HỌ ĐANG CÓ TRONG HIỆN TẠI?

 

TẠI SAO NÓI TẤT CẢ MỌI DÂN TỘC ĐỀU XỨNG ĐÁNG VỚI MỌI CHÍNH QUYỀN MÀ HỌ ĐANG CÓ TRONG HIỆN TẠI?

Đây là nhận định sâu sắc nhất về nguồn gốc, bản chất của chính trị. Nó sẽ chỉ ra nguyên nhân gốc trong mọi nguyên nhân dẫn đến tai họa. Và cũng cho biết nên bắt đầu từ đâu.

Thông thường trước một thảm họa mất nước, bất công đa số người dân đều đổ lỗi cho chính quyền.

Nhưng các chính trị gia dân chủ thế giới trong “thế kỷ ánh sáng” đã đưa ra một nguyên lý là dân có quyền thay thế chính quyền.

Nói nôm na dễ hiểu là anh thấy kẻ ngồi trên đầu anh không tốt anh có thể kéo nó xuống và thay kẻ khác lên.

Nhưng có 2 trường hợp xảy ra:

– Kẻ ngồi trên đầu không chịu xuống.

– Kẻ ngồi trên đầu tuân lệnh lá phiếu của anh.

Trong 2 trường hợp này đẻ ra 2 thể chế chính trị khác nhau :

– Độc tài.

– Dân chủ.

Trong trường hợp đầu tiên sở dĩ một nước để cho chính quyền độc tài đè đầu mình là vì họ không thông minh và can đảm tạo ra đối lập. Họ bị chính quyền lừa bằng tuyên truyền dối trá, dùng công an, quân đội đè đầu và luật pháp do chúng đặt ra để trói buộc. Và chính trị thế giới chỉ ra rằng bằng mọi cách người dân phải thoát ra khỏi tình trạng này. Đừng bao giờ đổ thừa hoàn cảnh vì những kẻ ngồi trên đầu anh sẽ không bao giờ buông cái gọng kìm mà chúng đã siết vào đầu anh.

Trong trường hợp thứ hai khi đã có dân chủ bằng lá phiếu rồi anh cũng không được chủ quan buông xuôi mà phải luôn dùng biểu tình để dạy dỗ chính quyền, dùng báo chí, đối lập để hướng chính quyền tuân thủ hiến pháp. Sau đó hễ thấy chính quyền nào không tốt anh phải thay thế ngay sau mỗi nhiệm kỳ 4 năm.

Nhân dân Việt Nam quen nếp suy nghĩ nô lệ 4000 năm nên sẽ không bao giờ hiểu điều này. Họ luôn cho rằng ai ngồi trên đầu mình là do số phận an bài. Nó anh minh thì mình được nhờ, nó thối nát thì mình ráng chịu. Do đó họ chỉ tập trung vào chửi chính quyền để mong nó thay đổi chứ không hề nảy sinh tư duy làm cách mạng để thay thế chính quyền đưa mình lên ngai vàng.

Chính quyền tốt hay xấu đều do dân. Đó là nguyên lý.

Người được chọn kế nhiệm Thủ tướng Singapore tự rút để nhường cho lớp trẻ dù chỉ mới 60 tuổi

 

Người được chọn kế nhiệm Thủ tướng Singapore tự rút để nhường cho lớp trẻ dù chỉ mới 60 tuổi

Phó Thủ tướng Singapore Heng Swee Keat sẽ từ chức với tư cách là người kế nhiệm được chỉ định của Thủ tướng đương nhiệm Lý Hiển Long, để nhường cho lớp lãnh đạo trẻ hơn trong một quyết định bất ngờ hôm 8-4.

“Chúng tôi cần một nhà lãnh đạo không chỉ xây dựng lại Singapore sau COVID-19 mà còn dẫn dắt giai đoạn tiếp theo của nỗ lực xây dựng quốc gia của chúng ta”, ông Heng cho biết trong một bức thư được công bố hôm thứ Năm.

“Vì cuộc khủng hoảng sẽ còn kéo dài, tôi sẽ gần đến khoảng 60 tuổi rưỡi khi cuộc khủng hoảng kết thúc.

Nhưng tôi cũng xem xét độ tuổi mà ba Thủ tướng đầu tiên của chúng ta đảm nhận công việc, tôi sẽ có ‘đường băng’ quá ngắn nếu tôi trở thành thủ tướng tiếp theo”, hãng tin Reuters dẫn lời ông Heng cho hay.

Ông Heng sẽ bước sang tuổi 60 năm nay, sẽ từ bỏ tư cách bộ trưởng tài chính trong cuộc cải tổ nội các tiếp theo dự kiến ​​trong khoảng hai tuần.

Việc kế vị của thành phố giàu có ở Đông Nam Á – do Đảng Hành động Nhân dân (PAP) điều hành kể từ khi giành được độc lập vào năm 1965 – thường là một việc được lên kế hoạch cẩn thận.

Trong khi đó ở Việt Nam, ông Nguyễn Phú Trọng, 76 tuổi, tiếp tục nhiệm kỳ thứ ba trong 5 năm trên cương vị đảng trưởng đảng Cộng sản Việt Nam và chỉ vừa mới bị miễn nhiệm chức Chủ tịch nước.

#RFAVietnamese #Maidaubactranghienngang #GanhSonhanangtriuhaivai

May be an image of 1 person, standing and text that says 'AP ĐÀIÁCHÂUTỰ DO ĐÀI ÁCHÂUTU DO Người được chọn kế nhiệm Thủ tướng Singapore tự rút để nhường cho lớp trẻ dù chỉ mới 60 tuổi'

Trung Quốc lớn mạnh, nền dân chủ ở Đông Nam Á đang chết dần

 Trung Quốc lớn mạnh, nền dân chủ ở Đông Nam Á đang chết dần

Phan Trọng Hoà

Chỉ 5 năm trước, nhiều người lạc quan rằng Đông Nam Á cuối cùng đã đạt được bước ngoặt trên con đường đi tới dân chủ. Vào thời điểm đó, quân đội Myanmar cuối cùng đã nới lỏng quyền lực kéo dài hàng thập kỷ của mình khi đảng Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ (NLD) của bà Aung San Suu Kyi giành chiến thắng trong cuộc bầu cử năm 2015.

Ba năm sau, đảng đối lập của Malaysia đã loại bỏ quyền lực của đảng Mặt trận Dân tộc (BN), liên minh chính trị cầm quyền lâu năm, đánh dấu sự thay đổi chế độ đầu tiên ở Malaysia kể từ khi độc lập năm 1957. Đây là những thay đổi chính trị mang tính địa chấn. Quan trọng hơn, cả hai lần thay đổi quyền lực đều diễn ra sau các cuộc bầu cử tự do, mặc dù không hoàn toàn công bằng nhưng không có đổ máu.

Thụt lùi dân chủ từ Manila đến Naypyidaw

Ngày hôm nay, sự lạc quan đó đã không còn nữa. Thế giới đã đổ dồn chú ý vào sự sụp đổ của Myanmar sau cuộc đảo chính quân sự hồi đầu tháng 2/2021, dẫn đến các cuộc bạo loạn gây thương vong và mất tích. Tuy nhiên, không chỉ ở Myanmar, tiến trình dân chủ đã có những bước thụt lùi trên khắp khu vực.

Ở Thái Lan, chúng ta đang chứng kiến sự quay trở lại chế độ quân chủ-quân sự với vị vua mới, Maha Vajiralongkorn, người đã yêu cầu thay đổi hiến pháp để giành thêm quyền hành pháp cho chính nhà vua và kiểm soát trực tiếp Cục Quản lý Tài sản Hoàng gia. Hiện ông đã trở thành một trong những quốc vương giàu nhất thế giới với khối tài sản ước tính khoảng 60-70 tỷ USD.

Các vụ đàn áp theo luật “lese-majeste” khét tiếng của Thái Lan (còn được gọi là luật về tội khi quân) ngày càng gia tăng. Luật này thường nhắm tới những người viết bài đăng trên mạng xã hội có nội dung chống chế độ quân chủ. Năm 2020, chính phủ Thái Lan đã khởi kiện Facebook và Twitter vì phớt lờ yêu cầu xóa nội dung bị coi là vi phạm pháp luật. Đáng lo ngại hơn, một số nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng của Thái Lan cũng đã chết một cách bí ẩn ở các nước láng giềng.

Tại Philippines, ông Rodrigo Duterte lên nắm quyền Tổng thống vào tháng 6/2016 và phát động một chiến dịch trấn áp tội phạm ma túy khiến khoảng 12.000 người nước này thiệt mạng. Ông Duterte cũng đã chỉ trích các phương tiện truyền thông đưa tin về các vụ xét xử tội phạm ma túy này. Trong đó, một nhân vật “có tiếng” chỉ trích chính phủ Philippines đã bị kết tội phỉ báng vào năm 2020. Mạng truyền hình lớn nhất của đất nước, ABS-CBN, cũng đã bị đình chỉ hoạt động dưới áp lực của các đồng minh của ông Duterte trong quốc hội.

Sự lạc quan về “Mùa Xuân Malaysia” đã hoàn toàn biến mất. Hồi năm 2020, chính phủ Pakatan Harapan theo chủ nghĩa cải cách sụp đổ và một liên minh Hồi giáo-Mã Lai mới lên nắm quyền. Với xã hội đa sắc tộc và đa tôn giáo ở Malaysia, việc thành lập Đảng PN không phải là một dấu hiệu tích cực cho nền dân chủ.

Sau đó, hồi tháng 2 vừa qua, chính phủ Malaysia đã ban bố tình trạng khẩn cấp và ngừng họp quốc hội trong 6 tháng. Nhiều ý kiến cho rằng động thái này nhằm ngăn cản phe đối lập thách thức chính phủ mới.

Singapore, quốc gia giàu có nhất trong khu vực, vẫn nằm trong sự kìm kẹp của Đảng Hành động Nhân dân (PAP), đảng vừa chiến thắng trong cuộc bầu cử hồi năm 2020. PAP đã liên tục nắm quyền kể từ năm 1959.

Điểm sáng duy nhất trong khu vực xuất hiện là Indonesia. Thế nhưng, những đám mây đen đã xuất hiện ở phía chân trời. Tổng thống Joko Widodo (Jokowi) dường như đang quay lưng lại với các cải cách và “nương tay” với các phần tử Hồi giáo, những người đang muốn biến Indonesia thành một quốc gia Hồi giáo.

Kể từ sau năm 1975, khi Đảng cộng sản thành công trong việc nắm quyền cai trị đất nước, Việt Nam luôn là nước bị phương Tây đánh giá là đất nước thiếu dân chủ vì toàn bộ các thể chế Nhà nước đều do Đảng cộng sản kiểm soát và chi phối.

Đảng Cộng sản Việt Nam mới tổ chức đại hội lần thứ 13 vào hồi cuối tháng 1 và đầu tháng 2 năm nay. Phải hai tháng sau, nhân sự chủ chốt trong hệ thống chính trị Việt Nam hay còn gọi là “Tứ trụ” thì ngoại trừ chức vụ Tổng Bí thư đã công bố khi kết thúc đại hội, còn lại 3 chức vụ Chủ tịch nước, Thủ tướng và Chủ tịch Quốc hội vừa mới được công bố cách đây không lâu, với lý do để Quốc hội họp và bầu ra. Tuy nhiên, các thông tin rò rỉ từ hồi trước Tết Nguyên đán đã cho biết chính xác từng người sẽ giữ các vị trí còn lại. Điều đó cho thấy sự sắp xếp và dàn dựng các màn bỏ phiếu, như diễn một “vở kịch dân chủ” vậy.

Các nhiệm kỳ Tổng thống Mỹ trước Trump đều quan tâm đến vấn đề dân chủ ở Việt Nam, nên Chính phủ Việt Nam cũng e dè trong việc kết tội những người bất đồng chính kiến, tuy nhiên dưới thời Trump làm Tổng thống, Mỹ không đặt nặng vấn đề dân chủ, nên chính quyền Việt Nam đã mạnh tay bắt bớ và kết án tù nặng nề rất nhiều những người bất đồng chính kiến, cho dù họ chỉ nói lên tiếng nói của mình, không có một tấc sắt trong tay để chống lại chính quyền.

Cho dù nhà nước Việt Nam luôn tuyên bố Quốc hội là cơ quan dân cử và là cơ quan quyền lực cao nhất, đồng thời người dân được tự do ứng cử, nhưng trong thực tế thì tất cả đều ngược lại. Quốc hội Việt Nam chỉ được quyền phát biểu về những vấn đề Đảng cho phép, cũng không có cơ chế để Quốc hội có thể cách chức những người vi phạm, mà quyền đó sẽ do các cơ quan Đảng phụ trách. Những người dân nào tự ứng cử mà Đảng không cho phép thì sẽ bị bắt giữ, như trường hợp ông Trần Quốc Khánh, Lê Trọng Hùng mới đây.

Tại sao dân chủ lại mong manh ở Đông Nam Á?

Tất cả những động thái trên đang diễn ra trong bối cảnh Trung Quốc quyết tâm khẳng định vị thế cường quốc thống trị ở Đông Nam Á.

Bắc Kinh đã gửi một thông điệp rõ ràng rằng họ không thực sự quan tâm đến những chế độ hay hệ thống chính trị nào đang điều hành các nước Đông Nam Á, miễn là các nước này thừa nhận Trung Quốc là cường quốc khu vực không thể tranh cãi và không đặt câu hỏi về chủ quyền của nước này trên Biển Đông. Điều này đã gián tiếp củng cố bàn tay của các lực lượng phản dân chủ trong khu vực, với một số người công khai ngưỡng mộ hệ thống “nhà nước mạnh” của Trung Quốc.

2019-08-06T055224Z_1623793915_RC1BFB2540B0_RTRMADP_3_VIETNAM-CHINA-SOUTHCHINASEA.JPG

Biểu tình phản đối Trung Quốc trước đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội hôm 6/8/2019. Reuters

Trong khi đó, phe ủng hộ dân chủ phải đối mặt với một tình thế tiến thoái lưỡng nan khá nghiêm trọng. Một mặt, những người ủng hộ đã hy vọng có thêm sự giúp đỡ từ phương Tây, chủ yếu là Mỹ và Australia, để thúc đẩy nền dân chủ trong khu vực. Mặt khác, họ lo lắng họ có thể bị cáo buộc là điệp viên phương Tây, khiến người dân rơi vào tay những kẻ chuyên quyền ủng hộ chủ nghĩa dân tộc dân túy.

Một thách thức khác là sự đa dạng của Đông Nam Á. Không có một khuôn mẫu hay mô hình lịch sử duy nhất nào cho một hệ thống chính trị ổn định và dân chủ trong khu vực. Hầu hết các quốc gia Đông Nam Á là thuộc địa của các cường quốc châu Âu, những nước đã áp đặt các ý tưởng chính trị khác nhau của họ lên các xã hội mà họ kiểm soát. Một điều mà các nhà cai trị thuộc địa đã không làm là thúc đẩy dân chủ. Họ chỉ làm điều này sau khi các thuộc địa cũ của họ giành được độc lập.

Theo tiêu chuẩn toàn cầu, nhiều quốc gia ở Đông Nam Á còn tương đối trẻ. Hầu hết các nước hình thành sau Chiến tranh Thế giới thứ II. Ranh giới và hệ thống chính trị của các quốc gia này phần lớn được quyết định bởi những ông chủ thuộc địa. Điều này có nghĩa là quá trình xây dựng quốc gia vẫn đang diễn ra và phương Tây không nên giả định rằng các quốc gia này tự nhiên sẽ hướng tới xây dựng các nền dân chủ tự do.

Ở nhiều nước Đông Nam Á này, quyền lực truyền thống, thường là chuyên quyền, phong kiến và chuyên chế, vẫn rất mạnh. Trên thực tế, nhiều tầng lớp tinh hoa ở các nước này có thái độ khác nhau đối với nền dân chủ tự do. Mặc dù họ chấp nhận khái niệm bầu cử phổ thông để chọn các nhà lãnh đạo chính trị, song họ cũng tin vào khái niệm “lãnh đạo được định hướng” (guided leadership) để bầu ra nhà lãnh đạo “đúng đắn”.

Ví dụ, Sukarno, nhà lãnh đạo đầu tiên của Indonesia sau khi giành được độc lập, nổi tiếng vì thực hành một “nền dân chủ có định hướng”, trong đó, chính phủ cần phải có sự đồng thuận chính trị và đảm bảo tận dụng các cuộc bầu cử để hợp pháp hóa các nhà lãnh đạo do chế độ lựa chọn.

Đây là lý do tại sao gian lận, mua phiếu bầu và gian lận thùng phiếu là những đặc điểm phổ biến trong các cuộc bầu cử Đông Nam Á. Đây là những cuộc bầu cử mà đôi khi được biện minh là cách thức để có được nhà lãnh đạo “phù hợp”.

Không có câu trả lời dễ dàng nào cho việc thúc đẩy nền dân chủ thực sự ở Đông Nam Á. Đơn giản là chúng ta có thể phải đợi một sự thay đổi thế hệ trước khi điều này bén rễ trong khu vực. Những người trẻ tuổi khao khát dân chủ thực sự, nhưng hiện tại, họ không là lực lượng then chốt trong quân đội hoặc không có quyền hành trong quốc hội.

– Hình minh hoạ. Những người biểu tình phản đối đảo chính ở Myanmar cầm cờ Trung Quốc chuẩn bị đốt ở Yangon hôm 5/4/2021

Reuters

– Biểu tình phản đối Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte ở Manila hôm 4/4/2020. Reuters

– Biểu tình phản đối Trung Quốc trước đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội hôm 6/8/2019. Reuters