Chặng Đàng Thứ Mười Ba- Chúa Giêsu được tháo đanh xuống mà phó cho Mẹ Người – Cha Vương
CHIỀU KÍCH VÔ CÙNG – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
“Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi!”.
“Một nhân chứng không phải là người bán hàng, nhưng là một bảng chỉ đường – trẻ, già, nam, nữ gì cũng được – miễn là chỉ đúng hướng. Là chứng nhân của Chúa Kitô, bạn phải sống làm sao để chỉ được chiều kích vô cùng của ơn Ngài cứu độ!” – John White.
Kính thưa Anh Chị em,
Bàn tiệc Lời Chúa Mùa Vọng sẽ cống hiến cho chúng ta những ‘ngọc thực châu phàn’ từ các bài đọc Cựu Ước, đặc biệt với Isaia, vốn được gọi là “Phúc Âm thứ năm”. Chẳng hạn hôm nay, Isaia nói đến “Núi Nhà Đức Chúa”, nơi “Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi!”. Qua đó, vị ngôn sứ tiên báo một ‘chiều kích vô cùng’ của ơn cứu độ!
Isaia ngước nhìn Núi Nhà Đức Chúa và thấy trước những đoàn người hành hương của muôn dân mai ngày. Mùa Vọng, mùa bạn và tôi dâng lời tạ ơn Thiên Chúa khi ngước nhìn Đền Thờ Giêsu – Hội Thánh, Hiền Thê và là hiện thân của Ngài – nơi muôn dân đổ về. Từ ‘Giêrusalem mới’ ấy, với các môn đệ, với mỗi người chúng ta, Tin Mừng sẽ đi đến tận chân trời góc biển, vượt mọi biên giới, để đạt tới một ‘chiều kích vô cùng’ trong muôn triệu sinh linh. “Vinh quang của Sion toả sáng rực rỡ đến nỗi các dân tộc bị kéo ra khỏi bóng tối để bước vào ánh sáng của nàng!” – Andrew M. Davis.
Vậy mà, để có thể loan truyền sứ điệp đó, chúng ta trước hết phải được chính Chúa Giêsu “lấp đầy”; rồi cùng Ngài, đến với các tâm hồn và nói như Isaia, “Hãy đến, ta cùng đi!”; “Ta vui mừng trẩy lên đền thánh Chúa!” – Thánh Vịnh đáp ca. Thật trùng hợp, Tin Mừng hôm nay cũng nói đến sự “lấp đầy” đó. Chúa Giêsu không cần bước vào nhà viên đại đội trưởng ngoại giáo đầy niềm tin, nhưng Ngài đã đi vào trái tim ông và làm cho niềm tin ấy nên trọn. Nhờ đó, ông trở thành đại diện cho thế giới dân ngoại, những người sẽ mở lòng đón nhận Ngài. Và Chúa Giêsu quả quyết, “Tôi không thấy một người Israel nào có lòng tin như thế!”. “Bàn tiệc đức tin đã luôn bày sẵn, dù khách được mời có ngồi vào hay ở ngoài với muôn vàn lý do trì hoãn!” – Von Balthasar.
Anh Chị em,
“Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi!”. Có biết bao anh chị em lương dân chưa tìm ra đường? Mùa Vọng, mùa bạn và tôi nhìn lại mình – những bảng chỉ đường! Tôi có chỉ đúng hướng Đền Giêsu? Quan trọng hơn, tôi có ắp đầy Ngài? Vì thế, Mùa Vọng còn là mùa mời Giêsu vào nhà, nếu ở đó vắng bóng Ngài. Hãy nhìn viên đại đội trưởng! Tự coi mình ‘bất xứng’, ông tỏ ra ‘rất xứng’ để Chúa Giêsu không chỉ “vào nhà” mà còn “vào lòng” – vì vào nhà mà chẳng vào lòng cũng bằng không. Để một khi đầy Giêsu, bạn mới có thể là một bảng chỉ đường “đúng hướng, dễ hiểu” và chỉ được ‘chiều kích vô cùng’ ơn Ngài cứu độ! “Tôi chỉ có một ngọn nến của đời để đốt, và tôi thà đốt nó ở một nơi đầy bóng tối còn hơn ở nơi đã ngập tràn ánh sáng!” – John K. Falconer.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con ‘lỏng ốc!’. Thay vì chỉ Giêsu, con chỉ vào con; thay vì chỉ về ‘chiều kích vô cùng’, con chỉ về những ‘chiều kích có cùng!’”, Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)
**************************************************
Lời Chúa Thứ Hai Tuần I Mùa Vọng
Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc trong Nước Trời.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu. Mt 8,5-11
5 Khi Đức Giê-su vào thành Ca-phác-na-um, có một viên đại đội trưởng đến gặp Người và nài xin : 6 “Thưa Ngài, tên đầy tớ của tôi bị tê bại nằm liệt ở nhà, đau đớn lắm.” 7 Người nói : “Chính tôi sẽ đến chữa nó.” Viên đại đội trưởng đáp : 8 “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh. 9 Vì tôi đây, tuy dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền tôi. Tôi bảo người này : ‘Đi !’, là nó đi, bảo người kia : ‘Đến !’, là nó đến, và bảo người nô lệ của tôi : ‘Làm cái này !’, là nó làm.” 10 Nghe vậy, Đức Giê-su ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người rằng : “Tôi bảo thật các ông : tôi không thấy một người Ít-ra-en nào có lòng tin như thế. 11 Tôi nói cho các ông hay : Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời.”
HIỂU VÀ SỐNG MÙA VỌNG – Lm. Nguyễn Hồng Giáo OFM
Lm. Nguyễn Hồng Giáo OFM
Năm Phụng vụ bắt đầu với Mùa Vọng, chuẩn bị chúng ta mừng đại lễ Giáng Sinh, một lễ tưng bừng nhất trong năm, xét về mặt xã hội, không những trong đạo mà cả “ngoài đời” nữa. Tôi luôn luôn biết ơn và cảm phục Giáo Hội, người mẹ hiền của chúng ta. Giáo Hội thật khôn ngoan, biết rõ lòng người. Con người có nhu cầu vui chơi và mừng lễ. Trong đời sống xã hội có biết bao nhiêu là ngày lễ, biết bao nhiêu mùa lễ và cao điểm.
Và ai cũng biết: các ngày lễ, các mùa lễ như thế không chỉ có mục đích giải trí, vui chơi mà thôi. Trong năm Phụng Vụ, Giáo Hội cũng cho ta sống nhiều mùa đại lễ, nhiều cao điểm Phụng vụ, để bồi dưỡng tinh thần chúng ta, giúp ta sống bởi sự sống của Thiên Chúa cách dồi dào, phong phú hơn. Đức Kitô tự ví mình như cây nho và chúng ta là cành. Cây nho này lại phải nẩy sinh thêm những cành mới, lại phải trở nên xanh tươi và sinh hoa kết quả qua các mùa Phụg vụ: Mùa Vọng và Giáng sinh, Mùa Chay và Phục sinh, rồi đến Mùa Thường niên.
Năm Phụng Vụ nhắc lại lịch sử Dân Chúa trong Cựu ước hoặc làm sống lại những biến cố lớn trong cuộc đời Chúa Giêsu, hoặc gợi lại gương sáng của Đức Mẹ và các thánh, nhưng đó không phải là do lòng sùng bái quá khứ, thích thú những chuyện đã qua rồi. Điều Phụng Vụ nhắm tới không phải là quá khứ nhưng là hiện tại, là đời sống ân sủng của chúng ta hôm nay. Bốn mùa xuân, hạ, thu, đông nối tiếp nhau không phải chỉ là lặp lại y nguyên một vòng tròn, song là điều kiện cho con người trưởng thành và sung mãn. Cũng vậy, người Kitô hữu phải chờ đợi nơi năm Phụng Vụ sự sống của Chúa ngày càng dồi dào hơn trong mình, sự sống mà họ đã nhận lãnh như một mầm mống trong Bí tích Thánh Tẩy.
Các mùa Phụng Vụ đều nhắm cùng một mục đích như nhau nhưng theo những cách thức khác nhau, cũng như tứ thời bát tiết đều là những mùa của trời đất xoay vần song không giống nhau. Vậy Mùa Vọng có gì đặc trưng? Chúng ta cử hành gì trong mùa này?
Một Chút Lịch Sử.
Cho đến thế kỷ thứ IV, Giáo Hội Tây phương mừng một đại lễ duy nhất là lễ Phục Sinh. Tất nhiên là có một số lễ khác song tất cả đều qui về Phục Sinh và không bao giờ long trọng bằng Phục Sinh. Đến thế kỷ thứ IV, Tây phương mới bắt đầu mừng lễ Chúa Giáng sinh vào ngày 25 tháng 12. Theo thời tiết, thì đó là kỳ đông chí, lúc mà đêm ngắn lại và ngày bắt đầu dài thêm. Vào dịp này, người ngoại giáo cử hành lễ mừng Ánh sáng. Giáo Hội đã đặt lễ Giáng sinh vào đúng ngày đó để công bố rằng chính Đức Giêsu Kitô mới thực là Ánh sáng, là Mặt trời soi sáng thế gian.
Nhưng lúc đầu Giáng sinh cũng chỉ là lễ thường thôi. Mãi đến thế kỷ thứ VI mới trở thành một đại lễ, và cũng kể từ đó, người ta mới tổ chức một thời gian chuẩn bị tương đương với Mùa Chay trước Phục sinh, và được gọi là mùa Adventô tức là Mùa Vọng như ta quen gọi ngày nay. Năm Phụng Vụ được tổ chức thành 2 chu kỳ xoay quanh 2 trung tâm là Phục sinh và Giáng sinh. Chu kỳ Giáng Sinh vươn lên từ đêm tối đến ánh sáng (như mùa đông qua mùa xuân) còn Phục Sinh thì đầm đìa trong ánh sáng chan hòa.
Tinh thần và Ý Nghĩa của Mùa Vọng.
Vọng là trông mong. Trong thời gian Mùa Vọng, Giáo Hội muốn chúng ta sống mãnh liệt hơn tâm tình khát mong Chúa đến. Nhưng Chúa đến lúc nào? Ta biết Chúa đã đến cách nay 2000 năm, trong thận phận làm người. Mùa Vọng có mục đích đầu tiên là chuẩn bị tâm hồn ta mừng lễ Giáng sinh, tức là kỷ niệm biến cố Ngôi Hai xuống thế làm người tại Bêlem xưa. Nhưng ta cũng tuyên xưng Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét thế gian và hoàn thành công cuộc cứu độ không những đối với loài người mà còn đối vơi toàn thể vũ trụ nữa.
Mùa Vọng mời gọi chúng ta sống tích cực hướng về ngày đó mà giáo lý quen gọi là ngày cánh chung. Giữa hai lần Chúa đến ấy, còn có thể nói tới một lần nữa, đó là cuộc Chúa ngự đến cách nhiệm mầu trong tâm hồn chúng ta bằng ân sủng, như lới Kinh thánh: “Ai yêu mến Ta, thì Cha Ta sẽ yêu mến người ấy và chúng ta sẽ cư ngụ trong người ấy.” Như vậy Mùa Vọng cử hành ba cuộc ngự đến. Cần nhớ tới cả ba nếu chúng ta muốn hiểu rõ nội dung của các bản văn Kinh thánh và Phụng vụ của mùa này và có được những tâm tình thích hợp. Hồng Y Newman đã viết: “Trong linh đạo Mùa Vọng, Đức Kitô xuất hiện như một người đã có mặt đó rồi, và đồng thời vẫn không ngừng được chờ mong. Và Kitô hữu sống linh đạo này như một người chờ đợi Đức Kitô.”
Có thể nói chúng ta càng sống càng tiến về phía trước. Mùa Vọng đến nhắc nhở chúng ta rằng cuộc đời ta còn dang dở và quê hương thật của ta ở trên trời. Mùa Vọng mời gọi ta nhổ trại lên đường tiến về Ngày của Chúa, ngày Chúa đến làm cho cuộc đời chúng ta cũng như toàn thể lịch sử nên sung mãn. Chính ngày đó đem lại cho cuộc sống hiện tại một hướng đi và một ý nghĩa cao cả. Vì thế nỗi chờ mong của ta cũng là một niềm hy vọng. Chúng ta chờ đợi với sự tin tưởng và nôn nóng như người vợ hiền chờ đợi người chồng mà bà đã biết, mà bà yêu mến và được yêu mến. “Đức Kitô về trời mang theo trái tim của Hội thánh. Tất cả đời sống của Hội thánh chỉ là một hành vi khao khát, hy vọng, cầu nguyện và đợi chờ” (Jean Daniélou). Lời cầu nguyện kết thúc toàn bộ Kinh thánh mà thánh Gioan Tông đồ đã đặt vào miệng Giáo Hội đang bị bách hại là: Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến !
Ba Thái Độ Sống Cụ Thể.
Theo tinh thần Mùa Vọng, sống hướng về ngày Chúa đến có thể được diễn tả trong ba thái độ cụ thể. Trước tiên là tương đối hóa hiện tại. Mọi giá trị ở đời này như của cải, danh vọng, tình yêu, gia đình, khoa học, kỹ thuật, văn hóa v.v… là những điều tốt lành mà chúng ta phải ra sức thực hiện theo thánh ý của Chúa trong hoàn cảnh sống cụ thể của mình, nhưng đó chưa phải là những cái tuyệt đối đáng cho ta coi là mục đích phải gắn bó và đeo đuổi với bất cứ giá nào. Trái lại, chúng chỉ tìm được trọn vẹn giá trị khi đối chiếu với cùng đích tối hậu, đích thực của đời ta.
Thái độ sống này làm cho ta nên khôn ngoan, sáng suốt, chừng mực và tự do. Sống hướng về ngày Chúa đến còn đòi hỏi nơi ta một thái độ thứ hai là phải cương quyết chống lại tội lỗi và sự ác nơi mình và chung quanh mình, nơi gia đình và trong xã hội. Đó là dọn đường cho Chúa ngự đến, như chúng ta thường hát trong Mùa Vọng theo lời Kinh Thánh: “Quanh co uốn cho ngay, Gồ ghề san cho phẳng, Hố sâu lấp cho đầy, Nơi cao phải bạt xuống.”
Sau hết, sống hướng về ngày Chúa đến buộc ta phải tỉnh thức và luôn luôn sẵn sàng như người tôi trung: hết lòng với nhiệm vụ được trao phó, tận dụng mọi khả năng của mình để hoàn thành mọi việc theo ý chủ nhà hiện đang vắng mặt và mau mắn mở cửa đón chủ về bất cứ lúc nào.
Lm. Nguyễn Hồng Giáo OFM –
Viết theo J. Daniélou:Le Mystère de l’Avent, Paris 1948
From: Langthangchieutim
Nguồn gốc cốt lõi nhất của phụng vụ là gì? – Cha Vương
THỨC NHAU DẬY – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
“Hãy canh thức!”.
“Ở châu Phi, mỗi buổi sáng, một con linh dương thức dậy biết rằng, nó phải chạy nhanh hơn một con sư tử nhanh nhất – bằng không, nó sẽ bị ăn thịt. Cũng thế, một con sư tử biết nó phải chạy nhanh hơn một con linh dương chậm nhất – bằng không, nó sẽ chết đói. Không quan trọng bạn là sư tử hay linh dương; khi mặt trời mọc, bạn cần ‘thức nhau dậy’ để chạy!” – Herb Caen.
Kính thưa Anh Chị em,
Tin Mừng Chúa Nhật I Mùa Vọng mời gọi chúng ta tỉnh thức và ‘thức nhau dậy’ khi bắt đầu một năm phụng vụ mới. Tỉnh thức không chỉ là sinh tồn thiêng liêng, mà là thái độ của tâm hồn biết nhận ra những lần Chúa viếng thăm.
Những lần thăm của Chúa không báo trước, không được đánh dấu trên lịch, nhưng được chờ đợi bởi những trái tim yêu mến. Chúa Giêsu nói, “Hãy canh thức!”, vì nếu ngủ mê trong thói quen, trong thú vui chóng qua, bạn sẽ bỏ lỡ thời khắc Ngài đến. Tỉnh thức là nhận ra điều đang trói buộc mình và dám mở ra cánh cửa trái tim cho lòng thương xót Chúa bước vào. “Tình yêu luôn tỉnh thức trước bình minh!” – Von Balthasar.
Tỉnh thức cũng là không ngủ mê trước nỗi đau của mình và của tha nhân – bao gồm tội lỗi và những tổn thương. Hơn nữa, tỉnh thức mang chiều kích cộng đoàn và Giáo Hội. Không ai có thể ‘tự mình thức dậy’; chúng ta nâng đỡ nhau trong cầu nguyện, trong trách nhiệm chung, và trong việc đọc những dấu chỉ thời đại. Một cộng đoàn biết tỉnh thức sẽ lắng nghe tiếng kêu của người nghèo, những bất công đang lan rộng, những đổ vỡ của thế giới đang nấc lên vì chiến tranh; ở đó, Chúa đang đến – âm thầm nhưng khẩn thiết. “Trở ngại lớn nhất của ân sủng không phải là tội, nhưng là sự thờ ơ!” – Henri de Lubac.
‘Thức nhau dậy’ còn là biết từ bỏ những ‘ngã rẽ an thần’ mà ngỡ là bình an. Tự do không nằm ở việc tránh thử thách, nhưng ở chỗ để mọi sự được đặt dưới ánh sáng của Chúa và can đảm mở lòng đón lấy Ngài trong từng nhịp sống. Đó là thái độ chọn lựa mỗi ngày, giữa những ảo ảnh lấp lánh và Đấng là Sự Thật. “Đời sống thiêng liêng là một sự chọn lựa liên lỉ giữa những ảo ảnh và Thiên Chúa!” – Henri Nouwen.
Anh Chị em,
Như vậy, ‘thức nhau dậy’ là một cuộc chạy thiêng liêng: một hành trình nơi trái tim không còn bị mê hoặc bởi những điều vụt qua, nhưng hướng về Thiên Chúa – sự sống và tình yêu vĩnh cửu. Và chúng ta nhận ra Chúa không chỉ đến trong Bí tích, trong Lời, trong nội tâm mình, nhưng còn trên khuôn mặt người anh em đang cần được nâng dậy – thể chất lẫn linh hồn. Biết ‘thức nhau dậy’, gia đình, cộng đoàn trở thành nơi thắp lên hy vọng, nơi con người bước ra khỏi bóng tối của cam chịu, tìm lại hướng đi cho đời sống. “Trong bốn tuần lễ, chúng ta được mời gọi ra khỏi lối sống cam chịu, ra khỏi những nuông chiều thường ngày, bằng cách nuôi dưỡng hy vọng, nuôi dưỡng mơ ước một tương lai mới. Đừng để lối sống ích kỷ hoặc nhịp sống căng thẳng ồ ạt đè nén con!” – Phanxicô.
Chúng ta có thể cầu nguyện:
“Lạy Chúa, dạy con biết tỉnh thức để nhận ra những lần Chúa đến ‘xen kẽ’ giữa đời thường, hầu con và cộng đoàn con được đổi mới trong tình yêu Ngài!”, Amen.
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
*********************************************************
LỜI CHÚA CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG, NĂM A
Anh em hãy canh thức để được sẵn sàng.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu. Mt 24,37-44
37 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Thời ông Nô-ê thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. 38 Vì trong những ngày trước nạn hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. 39 Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thuỷ ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. 40 Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại ; 41 hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại.
42 “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến. 43 Anh em hãy biết điều này : nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông phải canh thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. 44 Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.”
PHÉP LẠ CỦA NIỀM HY VỌNG-câu chuyện của Đức cha Phanxico Xavie
Nguyen Van Agostino is with Can Le
PHÉP LẠ CỦA NIỀM HY VỌNG
Mời bạn đọc tiếp câu chuyện của Đức cha Phanxico Xavie:
XXVI. Người có nụ cười hiền từ
“Đừng sợ, vì Ta đã cứu chuộc ngươi, Ta đã gọi ngươi bằng tên, ngươi là của Ta.”
(Is 43,1)
“Nếu ngươi làm nên những công trình vĩ đại, nhưng không vâng phục, ngươi sẽ không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa. Đối với Ngài, điều có giá trị chỉ là trái tim của ngươi: Ngài không cần đến công việc của ngươi. Ngài đã tạo dựng cả vũ trụ mà không cần sự trợ giúp của ngươi.”
(Ph. X. Nguyễn Văn Thuận, Đường Hy vọng)
Đức cha Thuận sống trong một căn phòng nhỏ tại Foyer Phát Diệm (tên một giáo phận ở miền Bắc Việt Nam), ở số 45 đường Pineta Sacchetti, và tiếp tục đời sống tại Rôma như thể chưa bao giờ rời đi.
Khi đi dạo trên các con phố Rôma, ngài không còn ngoái lại phía sau để kiểm tra xem có ai theo dõi mình, như đã từng làm ở Hà Nội. Ngài thuộc về một thiểu số rất nhỏ những người, giống như ngài, đã trải qua nhiều năm tù đày và cảm nhận sâu sắc niềm vui của tự do đích thực, trong khi phần còn lại của dân chúng coi tự do là điều hiển nhiên.
Trong hai năm đầu lưu đày, đức cha Thuận tập trung vào việc chăm sóc mục vụ cho người Việt Nam rải rác khắp thế giới, và đôi khi, theo sự ủy nhiệm của Quốc vụ khanh Tòa Thánh và Bộ Truyền giáo, ngài đi đến các giáo phận và chủng viện ở châu Phi và châu Á như một vị khách thăm viếng tông tòa.
Thân sinh của ngài, ông Nguyễn Văn Ấm, qua đời vào tháng 6 năm 1993. Người con là tổng giám mục đã lập tức lên chuyến bay đầu tiên đến Sydney, nơi ngài gặp các em Hàm Tiếu, Ánh Tuyết, Thuỷ Tiên, Thu Hồng và người em trai tên Tuyên đang quây quần bên mẹ. Một lần nữa, bà Hiệp tỏ ra vô cùng can đảm. Trong thánh lễ an táng do ngài cùng hai giám mục khác đồng tế, bà đã đọc vài lời mà không rơi một giọt nước mắt. Theo truyền thống Á Đông, sau thánh lễ, đức cha Thuận phủ phục ba lần trước quan tài cha, cảm tạ ông vì đã ban cho mình sự sống và đã dẫn dắt bằng bàn tay mạnh mẽ.
Sau tang lễ, ngài ngồi hàng giờ hồi tưởng về cuộc đời hy sinh của cha và sự tha thứ chân thành của ông dành cho tất cả những ai đã cố tình làm hại ngài và gia đình. Việc gia đình bà Hiệp vươn lên danh vọng và quyền lực đã khiến ông Ấm sống trong cái bóng của vợ, nhưng điều đó không làm ông phiền lòng. Ông và bà Hiệp đã yêu thương nhau tha thiết. Khi bi kịch giáng xuống gia đình vợ, ông Ấm luôn ở bên cạnh để giúp bà gom góp những mảnh vỡ và xây dựng lại cuộc sống. Ông chưa bao giờ than phiền.
Đức cha Thuận nhớ lại sự lý lẽ chặt chẽ của người cha khi ông hoặc các em tìm cách biện hộ cho lỗi lầm của mình. Ông Ấm hiếm khi to tiếng, nhưng những lời quở trách của ông thì khó quên. Khi cha còn sống, đức cha Thuận chưa bao giờ nói với ông rằng con yêu cha. Ngài luôn mong muốn làm điều đó, nhưng phong tục Á Đông và sự rụt rè của bản thân đã khiến điều ấy không thể thực hiện. Giờ đây, ngài có thể cuối cùng thốt lên: “Hãy nghỉ yên trong vòng tay Thiên Chúa, nghỉ yên, cha ơi, con yêu cha.”
Sau tang lễ, đức cha Thuận ở lại Úc một thời gian. Một ngày nọ, khi đang ngồi viết bên bàn, cô Hàm Tiếu bất ngờ đề nghị: “Anh không nghĩ rằng mẹ có thể đi du lịch một chút bây giờ sao? Mẹ sẽ rất thích được thăm châu Âu và Bắc Mỹ.”
Đức cha Thuận buông cây bút xuống, quay lại và hỏi: “Em nghĩ mẹ thật sự có thể làm được sao? Mẹ đã 90 tuổi rồi, em quên sao?”
Nhưng cô Hàm Tiếu đã thuyết phục anh mình nói chuyện với mẹ về đề nghị ấy. Khi ngài hỏi, bà Hiệp đáp: “Còn quá sớm để nói về những chuyện này. Nhưng trong tương lai, mẹ muốn thăm Rôma và Lộ Đức, và mẹ muốn gặp các cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ để cảm ơn họ vì sự nâng đỡ.” Đức cha Thuận thử thách bà bằng câu hỏi: “Nâng đỡ nào cơ?”
Mẹ nhìn ngài và mỉm cười, bởi bà biết rằng ngài cũng đã tha thứ cho tất cả những người từng làm hại ông và gia đình: “Nhiều người đã chứng tỏ lòng trung thành với cậu Diệm của con – bà nhấn mạnh – và nhiều người khác thì tự hào về con.”
Ngài gật đầu. Làm sao mình có thể không biết ơn các cộng đồng người Việt, nơi ít nhất một số người đã trung thành với cậu Diệm cho đến cùng và đã bày tỏ tình bạn cũng như sự nâng đỡ dành cho ngài và gia đình? Ngài nhìn những chồng bưu thiếp, thư từ và các thông điệp email in ra đang nằm trên bàn, tất cả đều bày tỏ lời chia buồn về cái chết của người cha.
Đức cha Thuận đã cố gắng gửi thiệp cảm ơn đến tất cả những ai đã nghĩ đến ngài và gia đình trong suốt những năm qua. Ngài tự hỏi:
“Chừng đó chưa đủ để biện minh cho sự tha thứ của chúng ta đối với tất cả những xúc phạm trong quá khứ sao?” Và ngài cảm thấy bình an với chính mình hơn bao giờ hết.
Sau khi trở lại Rôma, một căn phòng nhỏ không còn đủ để chứa các ấn phẩm của ngài trong nhiều ngôn ngữ khác nhau, nên ngài được cấp thêm hai phòng nữa. Ngài dành nhiều giờ làm việc với các dịch giả và nhà xuất bản cho sách của mình. Đường Hy vọng đã được xuất bản bằng hơn mười hai ngôn ngữ, và các tập sách khác cũng đều thành công rực rỡ.
Nhưng đức cha Thuận không dành toàn bộ thời gian cho việc viết. Ngài bắt đầu thăm viếng các cộng đồng người Việt ở nhiều quốc gia. Giới trẻ trong các cộng đồng ấy tìm đến ngài để xin lời khuyên và sự hướng dẫn. Họ muốn ngài nói chuyện trong các kỳ tĩnh tâm và hội họp của họ. Những cuộc tập hợp lớn của người Công giáo Việt Nam ở khắp nơi trên thế giới đều phải có ngài làm diễn giả chính, nếu không thì sẽ không được coi là thành công.
Chẳng bao lâu sau, khi ngày càng nhiều người đọc sách của ngài, cả các cộng đồng Pháp, Đức, Ý và Tây Ban Nha cũng mời ngài đến nói chuyện trong các kỳ tĩnh tâm và đại hội của họ. Ngài đi đến nhiều nước để nói chuyện với các linh mục, tu sĩ và giáo dân, những người trân trọng quan điểm của ông về cuộc sống và đức tin. Họ kính trọng lời ngài nói như kết quả của một kinh nghiệm phong phú, và bởi vì ngài nói như một chứng nhân của niềm hy vọng. Kinh nghiệm cá nhân đã trao cho ngài thẩm quyền trong lời nói, và ngài thu hút những đám đông ngày càng đông đảo. Giới trẻ chen chúc trong các buổi gặp gỡ mỗi khi ngài nói chuyện.
Đức cha Thuận nhận thấy điều thiện có thể phát sinh từ những câu chuyện về cuộc khổ nạn dài của mình. Nhưng ngài tránh nói quá công khai, hoặc quá dài, về cách đối xử mà mình đã nhận từ những kẻ hành hạ và cai ngục. Ngài vẫn nuôi hy vọng rằng một ngày nào đó sẽ được phép trở lại làm việc tại Việt Nam, và ngài không muốn làm nguy hiểm đến khả năng ấy bởi những gì mình nói ra.
Thật không may, khả năng trở về quê hương của đức cha Thuận ngày càng trở nên mong manh theo thời gian. Sau khi những nỗ lực lặp đi lặp lại của Tòa Thánh nhằm thương lượng với Hà Nội để cho phép ngài trở lại Việt Nam đều thất bại, vào tháng 4 năm 1994, Đức Gioan Phaolô II quyết định bổ nhiệm ngài làm Phó Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình.
Hội đồng này được thành lập như một Ủy ban bởi Đức Phaolô VI vào ngày 6 tháng 1 năm 1967 với sắc lệnh Catholicam Christi Ecclesiam. Ban đầu, đây là một tổ chức thử nghiệm (ad experimentum), sau đó được tái cấu trúc và trở thành thường trực với sắc lệnh Justitiam et pacem ngày 10 tháng 12 năm 1976. Đức Gioan Phaolô II đã biến Ủy ban thành Hội đồng. Mục đích của Hội đồng là làm phong phú và phổ biến học thuyết xã hội của Giáo hội, đặc biệt liên quan đến công việc của con người. Hội đồng cũng hoạt động về các vấn đề công lý và hòa bình, sự tiến bộ của các quốc gia, những vi phạm nhân quyền và thúc đẩy các quyền này, đặc biệt là quyền tự do tôn giáo.
Chương trình của Hội đồng có thể được xem như một bản tóm lược những khát vọng và nỗ lực trước đây của đức cha Thuận. Ngài cảm thấy tràn ngập bởi một làn sóng khiêm nhường khi biết rằng mình sẽ phục vụ trong một cơ quan của Giáo hoàng. Ngài đã trở thành một thành phần quan trọng của Giáo triều Rôma.
Năm 1994, đức cha Thuận bay sang Paris để đón mẹ đến Pháp và đưa bà đi Lộ Đức. Bà Hiệp đi cùng con gái Hàm Tiếu và cháu gái Tania, 14 tuổi.
Tại thủ đô nước Pháp, ngài cử hành Thánh lễ tại trụ sở Hội Truyền giáo Hải ngoại Paris cùng với cha Etcharrel, bề trên của cộng đoàn. Sau đó, họ đến xem các hiện vật trưng bày trong phòng các vị tử đạo, nơi mọi người cúi đầu cầu nguyện cho sự trở lại của lòng khoan dung tôn giáo tại Việt Nam.
Bà Hiệp nóng lòng muốn đến Lộ Đức. Bà nói rằng bà muốn cảm tạ Đức Mẹ Vô Nhiễm vì tất cả những phúc lành mà gia đình đã nhận được, đặc biệt là nơi đức cha Thuận. Những lời này khiến người con hiểu rằng, trong khi ngài thường nghĩ đến những bi kịch lớn mà gia đình đã phải chịu đựng, thì mẹ ngài chỉ nhớ đến những phúc lành – và điều đó khiến ngài cảm thấy hổ thẹn.
Được hai người con, cháu gái và cha Văn – một linh mục Việt Nam – tháp tùng, bà Hiệp đi tàu đến Lộ Đức và ngắm nhìn phong cảnh dọc đường đi.
Sức chịu đựng thể chất của mẹ khiến đức cha Thuận ngạc nhiên. Bà đã 91 tuổi, nhưng vẫn quỳ gối hàng giờ trước hang đá Lộ Đức. Đức cha Thuận quỳ bên cạnh mẹ, nghĩ rằng với bao khoảnh khắc tuyệt vời trong đời, ngài phải tạ ơn cả người mẹ trần thế đang quỳ bên cạnh, lẫn Mẹ Thiên quốc mà cả hai đang hướng lời cầu nguyện.
Tại Lộ Đức, đức cha Thuận lại xúc động bởi ký ức về lần “gặp gỡ” đầu tiên với Đức Mẹ Vô Nhiễm. Ngài vẫn cảm thấy một niềm xúc động mạnh mẽ khi đọc lại dòng chữ đặt đúng nơi Đức Mẹ đã hiện ra với Bernadette: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội”. Ngài tự hỏi: “Có nhiều mầu nhiệm nào lớn hơn thế này không? Ngay trong giây phút được thụ thai, Maria đã bước vào kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.” Ngài lại nhớ đến lời Đức Mẹ nói với thánh Bernadette: “Ta không hứa sẽ làm cho con hạnh phúc ở thế gian này, nhưng ở thế giới khác.” Ngài nghĩ, không chút cay đắng: “Vâng, Mẹ, Mẹ đã giữ lời hứa.”
Ngài chỉ tự hỏi liệu mình có trung thành với lời hứa ấy như Bernadette hay không. Cô bé đã trở lại với Đức Bà bất kể người ta đối xử với cô thế nào. Đe dọa, nhục nhã và tù đày: cô đã chịu đựng tất cả những điều bất công ấy mà không hề than phiền. Khát vọng cháy bỏng của cô chỉ là được gặp Đức Mẹ Vô Nhiễm vào những ngày và giờ đã định.
“Cô ấy chỉ là một đứa trẻ – đức cha Thuận nghĩ với sự khâm phục – khi phải chịu đựng những điều ấy, trong khi tôi đã trải qua chúng khi đã là người trưởng thành.”
Bà Hiệp cùng hai người con và cháu gái Tania đến Rôma, và đức cha Thuận hạnh phúc khi thấy mẹ cảm nhận niềm vui trong việc thăm viếng Thành phố Vĩnh cửu. Bà Hiệp và cô Hàm Tiếu, được đức cha Thuận tháp tùng, đã được Đức Gioan Phaolô II tiếp kiến tại Castel Gandolfo, và khi Đức Giáo hoàng ban phép lành cho mẹ, người con đã thấy những giọt lệ trong mắt bà. Đức cha Thuận sống những ngày ấy trong trạng thái ngỡ ngàng. Ngài biết ơn vì mẹ cuối cùng đã chấp nhận một điều gì đó từ ngài để đổi lại tất cả những gì bà đã làm. Ngài thấy bà hạnh phúc khi được ở Rôma, chỉ đơn giản vì ngài đang ở bên cạnh bà.
Kết thúc chuyến thăm kéo dài một tháng của bà Hiệp, ngài buồn bã khi phải nói lời tạm biệt mẹ. Trước khi chia tay, bà Hiệp nhìn ngài một lúc rồi nói: “Rõ ràng là Thiên Chúa muốn con ở đây chứ không phải ở Việt Nam. Chính tại đây con sẽ sống và thực hiện các công việc của Ngài. Mẹ sẽ luôn ở cùng con.”
Do đó, ngày 24 tháng 11 năm 1994, đức cha Thuận đã xin từ chức khỏi chức vụ tổng giám mục phó của Thành phố Hồ Chí Minh. Đó là một khoảnh khắc quyết định đối với ngài: Ngài sẽ ở lại Rôma để phục vụ trong Giáo triều suốt phần đời còn lại.
Tuy nhiên, đôi khi, liên quan đến kế hoạch của Thiên ý, ngài tự hỏi: “Sau bao thử thách gian nan, giờ đây con ở Rôma, nhưng vì sao? Thiên Chúa đã nghĩ gì khi đưa con đến Vatican và thế giới tự do?”
Có vẻ như Đức Giáo hoàng không đặt ra những câu hỏi như vậy. Việc bổ nhiệm đức cha Thuận vào Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình dường như là một hệ quả hợp lý và thích hợp của cuộc khổ nạn dài ở Việt Nam. Như Đức Gioan Phaolô II đã nói với ngài: “Đức cha đến từ một đất nước đã từng trải qua chiến tranh và đã bị giam cầm mười ba năm. Giờ đây đức cha có thể chia sẻ kinh nghiệm của mình với những người ở nhiều quốc gia nơi có đau khổ và bất công, để chúng ta có thể thúc đẩy công lý và hòa bình và giúp mọi người nhận ra các quyền của họ.”
Đức cha Thuận đã nhận được câu trả lời mà mình tìm kiếm. Ngài sẽ quan tâm và dấn thân vào vấn đề chiến tranh và hòa bình, công lý và bất công trên thế giới. Ngài không vội vàng lao vào thế giới phức tạp của chính trị và công lý xã hội. Ngài còn nhiều điều phải học từ Quốc vụ khanh Tòa Thánh và từ Hồng y Roger Etchegaray, Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình.
Đức Hồng y Etchegaray, sinh ra tại vùng Basque của Pháp, là một nhà thơ và nhà ngoại giao lão luyện. Khi còn là tổng giám mục Marseille, ngài đã từng là mục tử của một cộng đồng người Việt đông đảo. Ngài dành một tình cảm lớn cho dân tộc Việt Nam và yêu thích văn hóa cũng như ẩm thực của đất nước này. Trong căn hộ của ngài tại San Callisto, ngay phía trên văn phòng, ngài thường khiến khách ngạc nhiên khi đãi họ những món ăn Việt Nam ngon miệng. Đức cha Thuận rất gắn bó với hồng y Etchegaray và mối quan hệ công việc giữa họ không thể tốt đẹp hơn.
Đức cha Thuận cũng có một mối quan hệ công việc tuyệt vời với Đức ông Diarmuid Martin, người Ireland, thư ký của Hội đồng Giáo hoàng, người đã bắt đầu làm việc tại Vatican từ năm 1977 và là chuyên gia trong việc đối phó với những tình huống khó khăn phát sinh tại Liên Hiệp Quốc hoặc trên thế giới.
Đức cha Thuận là một người điềm tĩnh. Ngài làm việc nghiêm túc, xem xét các hồ sơ một cách cẩn trọng và dành nhiều giờ bên bàn làm việc. Hồng y Etchegaray không phải là một nhà lãnh đạo có tư duy hạn hẹp, ngài giao phần lớn công việc cho các cộng sự tài giỏi và biết ơn vì có thể tin tưởng họ. Ngài cũng là Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng Cor Unum, mà đức cha Thuận đã từng biết rất rõ khi điều hành COREV tại Việt Nam.
Với tư cách là Phó Chủ tịch một Hội đồng Giáo hoàng, đức cha Thuận có đủ điều kiện để cư trú tại Vatican và ngài được cấp một căn hộ ở San Callisto. Ban đầu nơi ấy trông chẳng có gì đặc biệt, nhưng sau khi ngài xem lại các bản thiết kế cho những công việc tu sửa cần thiết và góp ý cho thợ xây, thợ mộc, nó đã trở thành một chỗ ở dễ chịu. Ngài dành thời gian trang trí nhà nguyện nhỏ với gu thẩm mỹ tinh tế, nhưng căn phòng ngủ nhỏ – theo thói quen khắc khổ của ngài – không khác gì những căn phòng ngài từng có ở Việt Nam. Nó trống trải và bất tiện như một xà lim, và ngài thích như thế, bởi ngài muốn tiếp tục sống như một người nghèo.
Đức cha Thuận tiếp khách gần như mỗi ngày sau giờ làm việc. Ngài thích gặp gỡ bạn bè cũ và những người quen mới, kể cả trò chuyện với các nhà báo, dù đôi khi một số người trong số họ đã trích dẫn sai lời ngài.
Ngài là một người học hỏi kiên nhẫn và nghiên cứu mọi thứ một cách cẩn trọng. Ngài đã nắm được cách cư xử trong Vatican và kết bạn với những người đến từ khắp nơi trên thế giới. Phần lớn các giám mục và giáo sĩ khi đến Vatican hoặc từ nhiều quốc gia khác nhau đều tìm đến thăm ngài và cảm thấy thoải mái trong sự đồng hành của ngài. Đức cha Thuận luôn trân trọng những cuộc viếng thăm này, bởi cơn khát muốn biết tình hình của Giáo hội trên thế giới nơi ngài gần như không bao giờ được thỏa mãn.
Gần như không thể tránh khỏi việc, sau một cuộc trò chuyện với đức cha Thuận, các vị khách kết thúc chuyến thăm bằng lời mời ngài đến đất nước hoặc giáo phận của họ, để nói chuyện trong một kỳ tĩnh tâm hoặc một sự kiện quan trọng nào đó. Những lời mời như thế trở nên quá nhiều đến mức ngài phải đưa ra những lựa chọn thận trọng về cách sử dụng thời gian tốt nhất.
Dần dần, ngài nắm bắt được những chi tiết liên quan đến các vấn đề nhân quyền, thương mại toàn cầu, toàn cầu hóa, các quốc gia đang phát triển và những hệ quả không ngừng của sự sụp đổ chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu cũng như sự tan rã của Liên Xô.
Đức cha Thuận cũng quan sát kỹ lưỡng tình hình tại quê hương, nơi mối quan hệ giữa chính phủ và Giáo hội vẫn không được cải thiện. Hết lần này đến lần khác, các sáng kiến do Quốc vụ khanh Vatican đề xuất đều thất bại.
Đức cha Thuận lấy làm tiếc rằng những cơ hội thực sự của giữa thập niên 1980 cho sự phục hồi kinh tế của Việt Nam đã biến mất vào cuối thập niên 1990, bởi sự quan liêu bất tài, sự thiếu chắc chắn của pháp luật và nạn tham nhũng ở mọi cấp độ trong đất nước.
Đời sống thiêng liêng vẫn tiếp tục hướng dẫn ngài, và ngài dành nhiều thời gian cầu nguyện cũng như chuẩn bị các bài diễn thuyết với sự chăm chút đầy yêu thương. Ngài hy vọng rằng bất cứ nơi nào mình được mời nói, đặc biệt là với giới trẻ, lời của ngài sẽ giúp thính giả tìm được con đường nhanh hơn để đến với tình yêu của Thiên Chúa và niềm hy vọng
CẦU NGUYỆN NHIỀU VẬY ĐỂ ĐƯỢC GÌ ?
CẦU NGUYỆN NHIỀU VẬY ĐỂ ĐƯỢC GÌ ?
Một người ngoại giáo hỏi tôi :
– Bạn “được” gì khi ngày nào cũng kiên trì cầu nguyện với Chúa như thế?
Tôi thành thật trả lời:
– Thường thì tôi chẳng giành được gì cả, mà thực ra “mất” đi nhiều thứ:
Tôi mất đi lòng tự cao
Tôi mất đi tính kiêu căng
Tôi mất đi sự tham lam
Tôi mất đi thói gian dối
Tôi mất đi tính nóng giận
Tôi mất đi tật xét đoán
Tôi mất đi sự hấp tấp
Tôi mất đi mong muốn phạm tội
Tôi mất đi lòng ghen ghét, hờn giận
Tôi mất đi sự chán nản, thất vọng và hèn nhát…
Đôi khi chúng ta cầu nguyện không phải là để giành được một điều gì đó, nhưng là để mất đi những thứ cản trở chúng ta trên con đường theo Chúa.
Cầu nguyện rèn giũa, thêm sức mạnh và chữa lành tâm hồn mỗi người.
Cầu nguyện là kênh nối kết chúng ta trực tiếp với Chúa.
Thánh Pio
THANH THOÁT – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
“Phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời!”.
“Cuộc sống tôi chỉ là tấm lụa dệt ‘giữa Chúa và tôi’. Tôi không thể chọn màu, Ngài thường dệt những nỗi buồn! Ngài nhìn phía trên; tôi nhìn phía dưới. Mãi cho đến khi khung dệt lặng yên, Ngài mở khung, giải thích. Các sợi xám thật cần thiết giữa sợi bạc, sợi vàng trong bàn tay khéo léo của Ngài!” – Benjamin Malachi Franklin.
Kính thưa Anh Chị em,
Thế giới vật chất luôn kéo chúng ta xuống, nhìn ‘phía dưới’ tấm lụa đời mình. Lời Chúa hôm nay nhắc bạn và tôi nhìn lên, bước ra khỏi những ngổn ngang “say sưa, lo lắng sự đời”, hầu có thể ‘thanh thoát’.
“Nặng nề vì chè chén say sưa” trước hết được hiểu ở cấp độ nghĩa đen; nhưng “say sưa” cần hiểu ở cấp độ tâm linh, khi chúng ta tìm kiếm một cảm giác an toàn, một sự thoát ly nhất thời, một thứ ‘an thần’. “Thực tại không làm tôi ấn tượng; tôi chỉ tin vào đam mê và khoái lạc – và khi đời thường trói buộc, tôi thoát đi bằng bất cứ cách nào!” – Anaïs Nin. Vậy mà mỗi khi thoả hiệp, tôi trở nên “nặng nề” hơn. Thứ đến, chúng ta có thể quá bận tâm với vật chất và lo lắng sự đời, vốn là nguồn gốc của sự quá tải; và khi quá tải, chúng ta tìm lối thoát. Thông thường, những ‘lối thoát’ ấy lại khiến chúng ta rũ liệt, đẩy Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, mất hết niềm vui và nhuệ khí. “Sự mệt mỏi thường không xuất phát từ công việc, mà từ lo lắng, thất vọng và oán trách!” – Dale Carnegie.
Đang khi cuộc sống là thời gian chuẩn bị, không chỉ cho tình bạn với Thiên Chúa mà còn cho ‘tấn công’ của ba thù và những ‘gian khổ’ dai dẳng. Cuộc chiến tâm linh có thật, dù nhận thức hay không, muốn hay không muốn! Chúng ta phải chiến đấu mỗi ngày, và trận chiến quan trọng nhất vẫn là trận chiến sâu thẳm trong trái tim. Chúa Giêsu muốn chúng ta chiến thắng bằng cầu nguyện và tỉnh thức, hầu có thể ‘thanh thoát’ và không trở nên bải hoải, chìm vào u mê. “Chiến thắng chính mình là khởi đầu của mọi chiến thắng; hãy thức tỉnh và cầu nguyện, vì linh hồn không thể chiến đấu khi đang ngủ mê!” – Augustinô.
Anh Chị em,
“Chớ để lòng mình ra nặng nề!”. Hôm nay, thứ Bảy cuối năm phụng vụ, bạn và tôi ngước nhìn Mẹ Maria, một con người ‘tòng thuộc’ Thiên Chúa. Giữa bao sóng gió, thử thách – những ‘sợi chỉ xám’ màu tối – không gì làm Mẹ dao động; không gì ngăn cản Mẹ cất cao lời kinh “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa”. Trái lại, Mẹ ‘thanh thoát’ vì đã giao ‘khung lụa đời mình’ cho Chúa, để Ngài tự do chọn màu, vẽ và thêu. Mẹ dâng mọi sự cho Chúa, Đấng đầy ắp Mẹ; trái tim Mẹ – được dẫn dắt bởi tình yêu – cho phép Mẹ luôn chọn điều tốt nhất và từ chối bất cứ điều gì có thể phương hại ‘bức tranh’ đời Mẹ. Hãy cầu xin và bắt chước các nhân đức của Mẹ! “Chìa khóa cho mọi điều là sự buông bỏ – thực sự đứng trước Chúa và nói: ‘Con xin ở đây bao lâu Chúa muốn’ hoặc ‘Lạy Chúa, con sẵn sàng đi bất cứ nơi nào trên trái đất này!’” – Francis Chan.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, cho con thôi tìm kiếm những ảo giác, giao mọi sự cho Chúa, hầu có thể ‘bay bổng!’” Amen.
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
**************************************************
Lời Chúa Thứ Bảy Tuần XXXIV Thường Niên, Năm Lẻ
Anh em hãy tỉnh thức, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca. Lc 21,34-36
34 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, 35 vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. 36 Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.”
Chặng Đàng Thứ Mười Hai- Chúa Giêsu sinh thì trên Thập Giá – Cha Vương
Chặng Đàng Thứ Mười Một-Chúa Giêsu bị đóng đinh trên Thập Giá – Cha Vương
XA MÀ GẦN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
“Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần!”.
“Những ngọn đồi phía trước thường được nhìn với những tiếng thở dài! Chúng trông dốc, cao và xa; nhưng khi đến gần, chúng không thực sự quá dốc, đỉnh không quá cao, và đến đó cũng không quá xa. Những ngọn đồi phía trước thật không khó hơn chúng ta nghĩ. Chúng xa mà gần là thế!” – Douglas Malloch.
Kính thưa Anh Chị em,
Thật thú vị, những ngọn đồi không quá dốc, quá cao, quá xa của thi sĩ người Mỹ – cách nào đó – được Tin Mừng hôm nay sánh với Triều Đại Thiên Chúa. Nó không ở đâu xa, nó chính là Chúa Giêsu – ‘xa mà gần’ – Ngài nói, “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần!”.
Trước hết, cứ tạm cho là ‘xa’, vì một ngày kia, Chúa Kitô sẽ trở lại trong vinh quang; Vương Quốc vĩnh cửu của Ngài khi ấy sẽ được thiết lập trọn vẹn. Nhưng Triều Đại đó lại rất ‘gần’, chỉ cách chúng ta một lời cầu – khi bạn đọc Kinh Lạy Cha và xin “Nước Cha trị đến”. Nhưng nếu đọc những lời này cách hời hợt, lòng chúng ta hướng về đâu đâu, bận tâm các thứ không phải là Ngài; hoặc cùng lắm, để Ngài lảng vảng trong trí đang khi trái tim vẫn cửa đóng then cài, thì đừng ngạc nhiên, Ngài trở nên xa lắc! Phải chăng chúng ta sợ phải thay đổi một điều gì đó? Gần mà xa là thế! “Triều Đại Thiên Chúa không phải là một viễn cảnh hão huyền của tương lai tưởng tượng; nó hiện diện bất cứ nơi nào Ngài được yêu mến và bất cứ nơi nào tình yêu ấy chạm tới chúng ta!” – Bênêđictô XVI.
Giá mà chúng ta biết được nỗi khát khao của Chúa Giêsu đến mức nào khi Ngài muốn đi vào linh hồn mỗi người! Được Ngài chiếm ngự, có lẽ, mọi sự đã đổi thay, bạn và tôi nên thánh từ lâu. Hãy suy ngẫm về ước muốn của Thánh Tâm Chúa Giêsu – Đấng khao khát thiết lập Vương Quốc trong cuộc đời mỗi người; Ngài khao khát được làm Vua linh hồn, quản cai chúng ta trong sự hoà hợp với một tình yêu xót thương toàn hảo. Được như thế, Ngài không ở đâu xa, Ngài ở trong chính chúng ta, ‘xa mà gần’ là vậy! “Khi mở lòng với Chúa Kitô, chúng ta tham dự vào Vương Quốc Thiên Chúa ngay tại đây và bây giờ!” – Fulton Sheen.
Anh Chị em,
“Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần!”. Bạn và tôi chỉ cần nói, “Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến!”. Ngài đang chực sẵn ngoài cửa linh hồn mỗi người, “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ!”. “Chúa Giêsu đứng trước cửa lòng chúng ta, khao khát được mời vào!” – Henri Nouwen. Được vào, Ngài sẽ chiếm hữu cuộc sống chúng ta và vì là Vua toàn năng, Ngài sẽ biến đổi chúng ta nên tạo vật mới; mang lại bình an và hoà hợp toàn vẹn cho tâm hồn, Ngài sẽ làm những điều vĩ đại và đẹp đẽ cho dẫu – dưới cái nhìn thế gian – những đòi buộc của Tin Mừng thật vô lý. Bạn và tôi chỉ cần thốt lên một lời và ước ao thật lòng, Ngài nhất định sẽ đến. Không ở đâu xa, Ngài ở gần, rất gần! “Vương Quốc Ngài rao giảng và sống là về một lòng quảng đại huy hoàng, sôi nổi, dường như vô lý!” – N.T. Wright.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa Giêsu, đừng để con thở dài khi nhìn những ‘ngọn đồi nhân đức’ phía trước. Cho con biết, Chúa ở gần con, cũng có thể xa con. Điều này tuỳ con!”, Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)
**********************************************************
Lời Chúa Thứ Sáu Tuần XXXIV Thường Niên, Năm Lẻ
Khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca. Lc 21,29-33
29 Khi ấy, Đức Giê-su kể cho các môn đệ nghe một dụ ngôn. Người nói : “Anh em hãy xem cây vả cũng như tất cả những cây khác. 30 Khi nhìn cây đâm chồi, thì anh em biết là mùa hè đã gần đến. 31 Anh em cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, thì hãy biết là Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. 32 Thầy bảo thật anh em : thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. 33 Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu.”


