MONG CHỜ – Lm. Mark Link, S.J.

Lm. Mark Link, S.J.

 Một vài năm trước đây tờ Chicago Tribune cho biết tia sáng laser có thể dùng để tẩy xoá các hình xăm dấu hiệu băng đảng trên thân thể của các phần tử.

 Một chỗ thi hành công việc này là Trung Tâm Y Tế Sinai ở phía tây thành phố Chicago.  Viên giám đốc điều hành trông coi chẩn y viện này nói rằng: Có một nhu cầu rất lớn cho chương trình này. Chúng tôi có trên 700 người đang chờ đợi để được hưởng dịch vụ này.

 Vào một ngày thứ Bẩy mới đây, 45 người đã đến chẩn y viện này.  Sử dụng một dụng cụ phát ra tia sáng laser, các bác sĩ tình nguyện đã hoàn toàn tẩy xoá được vết xăm chỉ trong vòng vài phút.

 Một phụ nữ 25 tuổi cho biết một sự kiện xảy ra vào chiều Chúa Nhật đã khiến cô quyết định tẩy xoá các hình xăm trên thân thể.  Khi cô đang đẩy đứa con gái nhỏ trên xích đu, một vài phần tử băng đảng nhìn thấy hình chĩa ba trên cánh tay và chân của cô, hình này là dấu hiệu của băng địch thủ, bọn chúng đã nổ súng.  Thật may mắn, khi vội vàng nổ súng chúng đã không bắn trúng cô và đứa con gái.

 Một người khác trước đây thuộc về băng đảng cũng đến chẩn y viện chiều hôm đó để tẩy xoá hình xăm ba giọt nước mắt bên mắt trái.  Mỗi giọt nước mắt tiêu biểu cho một người bạn đã bị băng thù nghịch bắn chết.  Anh ta nói: Bây giờ tôi đã có vợ và một đứa con nhỏ.  Tôi muốn từ giã tất cả những thứ này.  Nó là một điều ngu xuẩn mà tôi đã làm trước đây. 

Câu chuyện của tờ Chicago Tribune cho thấy một điểm quan trọng.  Trong cuộc đời, tất cả chúng ta đều đã thi hành những gì mà giờ đây chúng ta hối hận và muốn xoá bỏ chúng.

 Điều này không chỉ đúng với người trẻ, nhưng còn đúng với người già.  Thí dụ, nếu tôi ngưng nói ở đây khoảng nửa phút, tôi chắc rằng mọi người đều có thể nhớ lại một vài điều gì đó mà họ đã thi hành và giờ đây họ sẵn sàng đánh đổi lấy bất cứ gì để có thể đưa những điều ấy ra khỏi cuộc đời.

 Điều bi thảm là rất nhiều người trên thế giới hối hận về những gì họ đã thi hành nhưng không biết cách nào để tẩy xoá chúng.  Do đó họ phải chấp nhận sống với tình trạng như vậy.  Bất cứ khi nào họ cảm thấy hối hận hay bứt rứt, họ cố gắng quên đi.  Nhưng thường những tâm trạng ấy lại trở lại.

 Tiểu thuyết gia Somerset Maugham đã viết nhiều cuốn tiểu thuyết và được dựng thành phim — tỉ như The Razor’s Edge, The Moon and Six Pence, và Of Human Bondage.  Ông đã lên tiếng thay cho nhiều người khi nói rằng:

 Tôi có một lương tâm bén nhậy và tôi từng thi hành một vài điều trong đời sống mà tôi không thể nào thực sự quên được.

Nếu tôi may mắn là một người Công Giáo, tôi có thể tự giải thoát mình khỏi những điều ấy qua việc xưng tội… lãnh nhận sự tha tội và có thể mãi mãi quên đi những điều ấy. 

Lời phát biểu của ông giúp chúng ta thấy mình thật có phúc là chừng nào khi có được một phương cách để tẩy xoá tội lỗi khỏi cuộc đời.

 Cũng như người cựu băng đảng thấy vui khi có thể tẩy xoá vết xăm thì người Công Giáo chúng ta cũng hân hoan khi Chúa Giêsu giúp chúng ta một phương cách để mãi mãi xoá bỏ tội lỗi của chúng ta.

 Điều này đưa chúng ta đến mùa Vọng.  Hàng năm Mùa Vọng nhắc nhở chúng ta về món quà vĩ đại này mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta và thúc giục chúng ta hãy xử dụng nó để đưa tội lỗi ra khỏi cuộc đời.

 Nó không chỉ đem lại cho chúng ta sự bình an lớn lao, nhưng còn chuẩn bị cho chúng ta về ngày giờ khi chúng ta phải đứng trước mặt Thiên Chúa để trả lời về những gì chúng ta đã làm và những gì không làm trong đời sống chúng ta.

 Mùa Vọng nhắc nhở chúng ta rằng lời của Thánh Gioan Tẩy Giả trong bài phúc âm hôm nay không chỉ nói với người thời đó, nhưng còn cho con người thuộc mọi thời đại.  Những lời đó nói với tôi và anh chị em: Hãy thay đổi đời sống…  Hãy chuẩn bị con đường của Chúa.

 Một cách cụ thể, những lời này có ý nghĩa gì đối với chúng ta ngay bây giờ?  Chúng cũng có cùng một ý nghĩa đối với những người thời Chúa Giêsu.  Chúng có nghĩa hãy sám hối và tẩy xoá tội lỗi bằng bí tích hoà giải, là một trong những món quà vĩ đại của Thiên Chúa ban cho chúng ta.

 Chúng có nghĩa thi hành điều mà phần tử băng đảng trước đây đã thi hành.  Chúng có nghĩa hãy thi hành những gì mà người nghiện rượu thi hành trong bước đầu tiên của chương trình 12 bước chừa rượu.  Bước quan trọng này nói:

Chúng ta thú nhận với Thiên Chúa, với chính mình, và với người khác về bản chất sai lầm của những điều chúng ta làm.

 Về bước này, cuốn cẩm nang AA, “12 Steps and 12 Traditions”, viết:

Một vài bước thì khó hơn để thi hành và … không có bước nào cần thiết hơn.  Tuy sự sợ hãi của chúng ta thật lớn và chúng ta do dự thi hành, nhiều người AA bỏ qua Bước Năm…

Không biết tại sao, ở một mình với Thiên Chúa thì không có vẻ bối rối như khi đối diện với người khác…  Khi chúng ta thành thật với người khác, điều đó xác nhận rằng chúng ta đã từng thành thật với chính mình và với Thiên Chúa.

 Nhiều người AA, đã một lần vô thần hay bất khả tri, nói với chúng tôi rằng chính trong bước này mà lần đầu tiên họ cảm thấy được sự hiện diện của Thiên Chúa.  Và ngay cả những người đã có đức tin họ cũng thường ý thức hơn về Thiên Chúa như chưa bao giờ có.

 Và như vậy Mùa Vọng là một sự nhắc nhở rằng đó không chỉ là thời gian chuẩn bị mừng Chúa đến lần thứ nhất vào ngày Giáng Sinh đầu tiên. 

Nó còn nhắc nhở rằng đây là thời gian chuẩn bị cho Chúa đến lần sau cùng vào lúc tận thế. 

Chúng ta hãy vui mừng và cảm ơn Chúa Giêsu vì đã ban cho chúng ta một phương cách để tẩy xóa quá khứ và làm lại từ đầu.

 Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện của Origen, một tín hữu thời tiên khởi: 

Lạy Chúa Giêsu, chân của con thì đầy bụi và dơ bẩn.  Chúa hãy đổ nước vào bồn và đến rửa chân con như Chúa đã rửa chân các tông đồ trong bữa Tiệc Ly.

Con nhận ra rằng, con thật can đảm khi xin Chúa thi hành điều ấy.  Nhưng con sợ lời cảnh cáo mà Chúa đã nói với ông Phêrô, “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con không thể làm bạn với Thầy.”

Vậy, lạy Chúa Giêsu, xin hãy rửa chân con, bởi vì con muốn được làm bạn với Ngài – hơn bất cứ gì khác trong đời.

 Lm. Mark Link, S.J.

From: Langthangchieutim


 

ĐỜI ĐÁ, ĐỜI CÁT – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, mới được vào Nước Trời!”.

“Julius Caesar chinh phục 800 thành phố, nhuộm cẩm bào bằng máu của một triệu kẻ thù; thế mà ngay sau chiến thắng vĩ đại nhất, Caesar bị đâm chết bởi những người bạn chí thiết! Thành công tạm thời thường đội vương miện cho kẻ vô thần. Khi những thành tựu rực rỡ nhất không đặt nền trên Thiên Chúa, chúng chỉ kéo dài ‘lâu’ bọt nước!” – Anon.

Kính thưa Anh Chị em,

Cũng thế, một đức tin không đặt nền trên Chúa Kitô, nó chỉ bền như bọt nước. Lời Chúa hôm nay xác quyết, ai xây đời mình – ‘đời đá’ – trên Ngài, “Người ấy mới được vào Nước Trời!”.

Thế nhưng, đặt nền móng không bao giờ là một công việc hào nhoáng. Chẳng có gì đẹp đẽ ở một hố sâu nơi công trường bùn lầy! Đời sống đức tin cũng vậy, muốn đào móng sâu, phải khiêm tốn, ngay lành, kiên định cầu nguyện, bền bỉ tìm kiếm bác ái và miệt mài tự hiến. Đào móng là đi xuống, đối diện nết xấu, lột bỏ những tội lỗi tệ hại nhất, chấp nhận để Chúa “đục” vào những chỗ ngoài ý thích. Không có bước quyết liệt này, bạn và tôi chỉ xây những ‘đời cát’, tưởng vững mà không bền. “Khiêm tốn là nền móng của toàn bộ toà nhà đời sống thiêng liêng!” – Têrêxa Avila.

Một toà nhà có vẻ an toàn khi trời quang mây tạnh, chỉ khi cơn dông ập xuống mới phơi ra độ chắc của móng. Đời sống thiêng liêng cũng thế. Khi an bình bao phủ, đức tin dễ “nở hoa”; nhưng khi cám dỗ, thất bại, tổn thương hay một khủng hoảng lớn bất ngờ xảy ra, chúng ta mới nhận ra độ cứng thật sự của nó. “Thử thách cho ta thấy mình là ai; chúng xới tung mảnh đất tâm hồn và phơi ra chất liệu thật!” – Charles Spurgeon. Vậy làm sao đứng vững? Câu trả lời được tìm thấy trong bài đọc một, “Chúng ta có thành trì vững chắc: Chúa đã đặt tường trong luỹ ngoài để chở che”. Tường luỹ ấy chính là Chúa Kitô, Đá Tảng ngàn năm bền vững. “Chính nhờ Đức Kitô, với Đức Kitô và trong Đức Kitô”, toà nhà đức tin – và cả lời nói của chúng ta – mới có thể đứng vững.

Anh Chị em,

“Chúng ta có thành trì vững chắc!”. Thành trì ấy là Chúa Kitô. Chỉ khi lời của chúng ta bắt nguồn từ Ngài, nó mới có lửa và ban sự sống, mới chịu nổi thử thách, mới trở thành “lời đá”. “Một lời Kitô giáo mà gốc rễ không bắt nguồn từ Chúa Kitô là một lời Kitô giáo lừa dối; chúng chỉ gây hại!” – G.K. Chesterton. Mùa Vọng, mùa “khởi sự lại từ Chúa Kitô” – trở về với Đá Tảng – đặt móng trên Ngài, lời Ngài, để Lời và Thánh Thần hướng dẫn tất cả mọi hành vi sám hối, trỗi dậy, đi tới và yêu thương. Chỉ như thế, đời sống của bạn và tôi không còn là ‘đời cát’ vốn chỉ một cơn gió nhẹ cũng có thể sụp. “Khi lời Kitô giáo thiếu Chúa Kitô, chúng bắt đầu đi vào con đường điên rồ, dẫn đến phù phiếm, tự tôn, kiêu hãnh và tham nhũng quyền lực. Chúa sẽ hạ bệ những người này!” – Phanxicô.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con đội vương miện của kẻ vô thần vốn chỉ thoáng qua như bọt nước. Cho con biết xây đời mình – một ‘đời đá’ – trên chính Chúa, và nó sẽ luôn đầy lửa!”. Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 ****************************************************

Lời Chúa Thứ Năm Tuần I Mùa Vọng

Ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, mới được vào Nước Trời.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.    Mt 7,21.24-27

21 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : ‘Lạy Chúa ! lạy Chúa !’ là sẽ được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.

24 “Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. 25 Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá. 26 Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. 27 Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành”.


 

PHAOLÔ Á CHÂU – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

KÍNH THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ, Linh mục, 03/12,

PHAOLÔ Á CHÂU – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo!”.

Ngày 15/8/1534, trên đồi Montmartre nhìn xuống Paris, Phanxicô Xaviê quỳ bên Ignatiô và năm bạn trẻ khác; họ khấn trọn đời. Đó là ngày sinh của Dòng Tên! Từ khoảnh khắc lặng lẽ ấy, một hành trình đằng đẵng khởi đi; từ đó, Phanxicô Xaviê – hạt mầm của một ‘Phaolô Á châu’ mai ngày – được gieo.

Kính thưa Anh Chị em,

Mừng kính thánh Phanxicô Xaviê, chúng ta ngỡ ngàng trước một con người đầy lửa, một ‘Phaolô Á châu’ “đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo!”.

Sáu năm sau ngày khấn, vị linh mục trẻ xuống tàu đi Ấn Độ, một chuyến đi không bao giờ trở về. Hơn một năm lênh đênh trên tàu buôn, giữa những cơn bão, sốt và đói khát, Phanxicô vẫn đứng vững như thân gỗ dẻo dai và vẫn bừng cháy. Trước khi nói với dân ngoại, Phanxicô đã phải nói với những đồng hương, những thương nhân buôn bán nô lệ. Một tay cầm roi, họ quất trên những ‘con vật người’; tay kia lần chuỗi Mân Côi. Nghịch lý ấy đốt cháy trái tim vị linh mục trẻ. Bằng lòng tin và lòng bác ái, Phanxicô phải thắp lại ánh sáng trong lòng những thương nhân này, trước khi đưa nó đến những vùng xa xôi.

Đặt chân lên Goa, Phanxicô bắt đầu rao giảng, và ‘lửa’ lan xa – Malaysia, quần đảo Spice, những miền heo hút của Ấn Độ, rồi Sri Lanka – đâu đâu cũng ghi dấu bước chân và mồ hôi của vị thừa sai trẻ. Năm 1548, Phanxicô đến Nhật Bản, trở thành nhà truyền giáo đầu tiên mang Tin Mừng đến vùng đất mặt trời mọc. Hạt giống được gieo lớn lên thành một Giáo Hội mạnh mẽ, để dù trải qua nhiều thế kỷ bách hại khốc liệt, Giáo Hội Nhật Bản vẫn kiên trì sinh hoa trái, với những cộng đoàn âm thầm và vô số vị tử đạo.

Năm 1552, Phanxicô nhận lời mời đi Trung Hoa, một lục địa bao la còn lạ lẫm với Tin Mừng. Nhưng tại đảo Shangchuan – cửa ngõ – Phanxicô kiệt sức và qua đời ở tuổi bốn mươi sáu; tuổi mà nhiều người chỉ mới bắt đầu sự nghiệp, Phanxicô đã kết thúc một cuộc đời cháy đến tận cùng. Thi thể ngài được đưa về Goa; cánh tay phải – tay đã rửa tội cho bao linh hồn – được tôn kính tại Rôma. Trong vòng mười năm, người ta ước tính Phanxicô đã đi hàng chục ngàn cây số trên bộ và trên biển, đưa hàng chục ngàn người đến với Chúa. Nhưng những con số ấy không phải là di sản thật sự, di sản thật là một trái tim đã để Chúa Kitô chiếm ngự, bừng lên thành ánh sáng cho muôn dân; thổi nguồn cảm hứng cho bao hồn tông đồ.

Anh Chị em,

Nhìn lại Phanxicô – ‘Phaolô Á châu’ – mẫu gương mạnh mẽ cho thời đại hôm nay, chúng ta tự hỏi, ánh sáng của bạn và tôi thì sao? Trong mười năm tới – hay chỉ trong một thời gian rất ngắn còn lại – liệu có thể thắp lên một ngọn lửa nào đó khởi đi từ chính gia đình, cộng đoàn, môi trường của mình để sưởi ấm, để gieo một ánh lửa nào đó của Chúa Kitô? Một ánh lửa cũng đủ, nếu trung thành. Vì ánh sáng không cần lớn; nó chỉ cần được thắp lên! “Hãy lắc những chiếc chuông vẫn còn rung – mặc cho dâng vật của bạn không hoàn hảo!” – Leonard Cohen.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì hôm nay và trong những năm ‘có thể rất vắn’ còn lại của đời con?”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

**************************************************************

Lời Chúa KÍNH THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ, Linh mục, 03/12, Thứ Tư Tuần I Mùa Vọng

Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.    Mc 16,15-20

15 Khi ấy, Đức Giê-su hiện ra với Nhóm Mười Một và nói với các ông rằng : “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. 16 Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án. 17 Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin : nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. 18 Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ.”

19 Nói xong, Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. 20 Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.


 

MẮT THIÊN THU – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy!”.

“Tôi vào mùa xuân, khi mọi thứ dường như quá tươi mới. Tôi vào hạ, khi ngày ấm áp và dài hơn. Tôi qua thu, mọi thứ đổi thay, thời gian trôi nhanh và tình yêu không chỉ là cảm xúc. Rồi sang đông, ngày lạnh hơn, những lời tạm biệt khá nhạt nhẽo. Ước gì đôi mắt tôi – mắt thiên thu – có thể nhìn thấy một mùa xuân thiên đường không mất!” – Anon.

Kính thưa Anh Chị em,

Một khát vọng ‘rất người’ có cho mình một đôi ‘mắt thiên thu’ – có thể thấy điều vĩnh cửu – chính là âm hưởng của Lời Chúa hôm nay. Isaia thấy trước một mùa xuân thiên sai đang đến; các môn đệ thấy một Mùa Xuân Thiên Đường ở giữa họ!

Cảm nhận một triều đại thiên sai như xuân đang về, Isaia tuyên sấm, “Ngày ấy, từ gốc Giesê sẽ đâm ra một nhánh nhỏ; từ cội rễ ấy sẽ mọc lên một mầm non!”. Đó sẽ là một triều đại yêu thương, nơi “sói ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ”; “Triều đại Người đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị đến muôn đời!” – Thánh Vịnh đáp ca. Với bài Tin Mừng, “Mầm non” Isaia loan báo thuở nào đang sừng sững trước các mắt môn đệ. Ngài bảo, “Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy!”. Họ không chỉ thấy Ngài bằng mắt xác thịt, nhưng qua Ngài, nhìn thấy mầu nhiệm Nước Trời đang hé mở. Đó là cái nhìn của ‘mắt thiên thu’ – thấy điều vĩnh cửu trong điều thoáng qua. “Điều tệ nhất hơn cả mù – là có mắt mà không có tầm nhìn!” – Helen Keller.

Phần chúng ta, dẫu không thấy Chúa Giêsu hữu hình, nhưng mắt đức tin giúp chúng ta nhận ra Ngài theo nhiều cách: trong Lời Chúa, trong Thánh Thể, trong tha nhân và các biến cố. “Người cầu nguyện, xét cho cùng, là người có thể nhận ra nơi tha nhân gương mặt Đấng Thiên Sai – và làm cho những gì ẩn giấu trở nên rõ ràng!” – Henri Nouwen. Mỗi lần chúng ta nhận ra Ngài, là mỗi lần đôi mắt ‘ngắn tầm’ được phóng xa hơn về phía vĩnh cửu, trở thành những đôi ‘mắt thiên thu’ có khả năng cung chiêm các mầu nhiệm. Mùa Vọng, mùa của đôi mắt trẻ thơ biết ngạc nhiên trước những gì Thiên Chúa làm. Không có sự cởi mở đó, chúng ta sẽ mãi chỉ thấy bề mặt cuộc sống – vốn luôn biến thiên – mà không nhận ra món quà vô giá Thiên Chúa tặng trao trong đêm Giáng Sinh.

Anh Chị em,

“Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy!”. Lời Chúa mời chúng ta tự vấn, trái tim tôi có còn rộng mở? Tôi có nhìn cuộc đời với niềm xác tín rằng, Thiên Chúa đang âm thầm thực hiện những điều lớn lao trong những tình huống rất nhỏ, rất khiêm hạ – như “hang đá” chẳng hạn? Đức tin tôi có còn ‘trẻ thơ đủ’ để đón lấy mầu nhiệm, nhưng cũng ‘trưởng thành đủ’ để nhận ra Ngài trong các dịch chuyển mỗi ngày? Nếu có, đây sẽ là một Mùa Vọng mới mẻ. Vì mắt bạn và tôi đã nhận ra Giêsu – Mùa Xuân Thiên Thu của Nhập Thể – nơi hạ không tàn, nơi thu chẳng đổi và chốn đông không lạnh giá.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con một chỉ khát khao Chúa; để dù nắng hay mưa, bão dông hay quang tạnh, con luôn thấy Ngài – Mùa Xuân Còn Mãi – trong đời sống, trong tha nhân!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

*****************************************

Lời Chúa Thứ Ba Tuần I Mùa Vọng

Được Thánh Thần tác động, Đức Giê-su hớn hở vui mừng.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 10,21-24

21 Được Thánh Thần tác động, Đức Giê-su hớn hở vui mừng nói : “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.

22 “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết người Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.”

23 Rồi Đức Giê-su quay lại với các môn đệ và bảo riêng : “Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy ! 24 Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết : nhiều ngôn sứ và nhiều vua chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe.” 


 

Chặng thứ mười bốn: Táng xác Ðức Chúa Giêsu trong hang đá-Cha Vương

Mùa Vọng tràn đầy ân sủng của Chúa nhé.

Cha Vương

Thứ 2: 1/12/2025.  (CN-24)

Chặng thứ mười bốn: Táng xác Ðức Chúa Giêsu trong hang đá

* CĐTG do ĐGH Benedict XVI biên soạn, Lm. Gioan Trần Công Nghị dịch.

LỜI CHÚA: Các ông lãnh thi hài Ðức Giêsu, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà cuốn, theo tục lệ chôn cất của người Dothái. Nơi Ðức Giêsu bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất ai. Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Do thái, mà ngôi mộ lại gần bên, nên các ông mai táng Đức Giêsu ở đó (Ga 19,40-42).

SUY NGẮM: Một con người đã làm biết bao chuyện phi thường, nào là: dẹp yên bão tố; hóa bánh ra nhiều; chữa lành bệnh tật; cho kẻ chết sống lại… Hơn nữa, chính con người ấy đã hứa cho những ai tin mình thì sẽ được sống đời đời…, giờ đây, chỉ còn nằm bất động như khúc gỗ, chẳng còn cứu nổi chính mình, thì làm sao cứu được người khác! Với bản án và cái chết như một tử tội, bị mai táng trong ngôi mồ lạnh lẽo thê lương đã làm cho biết bao người thất vọng!

Ôi một không gian tang tóc phủ đầy màu tím bao trùm lên cả nhân loại!

Tuy nhiên, với những ai tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa, thì việc thân xác Chúa Giêsu bị an táng trong mồ cũng chính là dấu chỉ tội lỗi của nhân loại được Ngài vùi lấp vào quá khứ, để từ ngôi mộ ấy khơi lên một niềm tin mãnh liệt vào lời tiên báo của Chúa Giêsu: “Con Người phải chịu đau khổ, chịu chết, bị mai táng và ngày thứ ba sẽ sống lại”; đồng thời toát lên một sứ điệp: nếu “ai cùng chết với Chúa Kitô, cùng chịu mai táng với Ngài thì sẽ được sống lại với Ngài trong vinh quang”. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn biết chết đi cho con người cũ là những sự kiêu ngạo, hiềm khích, bảo thủ, ích kỷ, hẹp hòi, bất nhân, vô luân… và sống trong tinh thần mới theo chân lý Tin Mừng là: hiền lành, khiêm nhường, nhẫn nhịn, bao dung, tha thứ, liên đới và yêu thương… để nhờ lòng thương xót của Chúa, chúng con được hưởng ơn cứu độ mà Chúa đã hứa cho những ai tin vào Ngài. Amen.

LỜI NGUYỆN: Lạy Chúa từ nhân xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm; để con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng; để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu.

   Lạy Chúa xin hãy dạy con tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân; vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.

Ôi Thần Linh thánh ái xin mở rộng lòng con, xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí ơn an bình. (Kinh Hoà Bình)

Lạy Chúa, vì cuộc khổ nạn đau thương của Chúa,  xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời, và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy. Amen.

From: Do Dzung

************************

Tỉnh Thức Và Cầu Nguyện

Chặng Đàng Thứ Mười Ba- Chúa Giêsu được tháo đanh xuống mà phó cho Mẹ Người – Cha Vương

Một Ngày  ấm ám trong vòng tay yêu thương của Chúa. Mua sắm ít thôi nhé. Vật chất không sưởi ấm được lòng người chỉ có tình yêu thương đồng loại thôi.

Cha Vương

CN: 30/11/2025.  (t7-24)

Chặng Đàng Thứ Mười Ba- Chúa Giêsu được tháo đanh xuống mà phó cho Mẹ Người

* CĐTG do ĐGH Benedict XVI biên soạn, Lm. Gioan Trần Công Nghị dịch.

LỜI CHÚA: Trích Phúc Âm theo Thánh Matthêu (Mt 27: 54- 55)—Thấy động đất và các sự việc xảy ra, viên đại đội trưởng và những người cùng ông canh giữ Đức Giê-su đều rất đỗi sợ hãi và nói: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa.” Ở đó, cũng có nhiều người phụ nữ đứng nhìn từ đàng xa. Các bà này đã theo Đức Giê-su từ Ga-li-lê để giúp đỡ Người.

SUY NGẮM: Chúa Giêsu sinh thì. Từ con tim người bị mũi đòng của quân lính Roma đâm thâu qua, máu và nước chảy ra: một hình ảnh nhiệm mầu của dòng suối các bí tích, Bí Tích Rửa Tội và Bí Tích Thánh Thể, theo đó Giáo Hội không ngừng tái sinh từ tâm hồn cởi mở của Thiên Chúa. Đôi chân của người bị gãy, giống như hai người cũng chịu đóng đinh với người. Như thế người mặc khải người là con chiên Vượt Qua thật, không một ống xương nào bị dập (…) Và giờ đây, cuối cùng của sự đau khổ của người, đối với tất cả tâm can con người bị mất tinh thần và đối với tất cả quyền thế hận thù và hèn nhát, thật tỏ tường cho thấy người không cô đơn một mình. Ở đó có những người trung tín còn lại với người. Dưới chân Thập Giá còn đứng đó là Đức Maria Mẹ người, người chị họ của Mẹ bà Mary Mađalen và tông đồ người yêu mến. Một người phú hộ, ông Giôxếp tại Arimathea cũng xuất hiện tại hiện trường: một người giàu sang có khả năng chui qua lỗ kim, vì Thiên Chúa đã ban ân sủng cho ông. Ông táng xác Chúa Giêsu trong chính ngôi mộ dành sẵn cho ông tại khu vườn. Trong cuộc táng xác Chúa Giêsu, nghĩa địa trở thành một khu vườn, khu vườn nơi mà Adam đã bị trục xuất khi ông từ bỏ cuộc sống viên mãn, từ bỏ Đấng Tạo Hóa. Khu mộ nơi khu vườn biểu tượng lên giấc ngủ của cái chết sẽ kết liễu. Một thành viên trong Thượng Hội Đồng Roma cũng đi theo là ông Nicodêmô, người đã đước Chúa Giêsu loan báo mầu nhiệm tái sinh bằng nước và Thánh Thần. Ngay cả trong Thượng Hội Đồng Roma đã tuyên án tử cho người, ở đó còn có một người tin, còn có một ai đó biết và nhận ra Chuá Giêsu sau khi người sinh thì. Trong giờ phúc khóc thương thống thiết, đen tối và tuyệt vọng này, ánh sáng niềm hy vọng được hiện lên một cách huyền diệu. Thiên Chúa bị đánh đòn là Thiên Chúa của sự sống đang đến gần. Ngay cả trong đêm tối sự chết, Thiên Chúa vẫn còn là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ chúng ta. Giáo Hội của Chúa Giêsu Kitô, gia đình mới của người, bắt đầu tỏ hiện.

LỜI NGUYỆN: Lạy Chúa, Chúa đã đi vào bóng tối sự chết. Nhưng thân xác Chúa được trao về cho những bàn tay nhân từ và được liệm trong tấm vải gai trắng (x Mt 27:59). Đức tin không hoàn toàn mất biến, mặt trời không hoàn toàn đi vào buổi hoàng hôn. Đã bao lần Chúa xuất hiện như đang ngủ? Thật dễ để chúng con chồn bước và tự thầm rằng: “Thiên Chúa đã chết”. Trong giờ phút đen tối, xin giúp chúng con biết rằng Chúa vẫn còn ở đó. Xin đừng bỏ rơi khi chúng con bị cám dỗ mất tâm hồn. Xin giúp chúng con đừng để Chúa cô đơn một mình. Xin ban cho chúng con lòng trung tín để chịu đựng trong những lúc hoang mang và xin ban cho chúng con lòng trung tín để có một tình yêu sẵn sàng ôm ấp Chúa trong lúc Chúa hoàn toàn bất động, như Mẹ của Chúa là Đấng đã ôm Chúa vào lòng một lần nữa. Xin giúp chúng con, là người giàu có và kẻ cơ bần, là người ngu dốt và người có học, biết nhìn ra ngoài sự sợ hãi và thành kiến của chúng con, và biết cống hiến khả năng chúng con cho Chúa, biết cống hiến tâm hồn và thời gian của chúng con, để chuẩn bị khu vườn Phục Sinh.

Lạy Chúa, vì cuộc khổ nạn đau thương của Chúa,  xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời, và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy. Amen.

From: Do Dzung

******************************

Chỉ Một Tình Yêu – Giang Ân -Thanh Hoài 

CHIỀU KÍCH VÔ CÙNG – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi!”.

“Một nhân chứng không phải là người bán hàng, nhưng là một bảng chỉ đường – trẻ, già, nam, nữ gì cũng được – miễn là chỉ đúng hướng. Là chứng nhân của Chúa Kitô, bạn phải sống làm sao để chỉ được chiều kích vô cùng của ơn Ngài cứu độ!” – John White.

Kính thưa Anh Chị em,

Bàn tiệc Lời Chúa Mùa Vọng sẽ cống hiến cho chúng ta những ‘ngọc thực châu phàn’ từ các bài đọc Cựu Ước, đặc biệt với Isaia, vốn được gọi là “Phúc Âm thứ năm”. Chẳng hạn hôm nay, Isaia nói đến “Núi Nhà Đức Chúa”, nơi “Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi!”. Qua đó, vị ngôn sứ tiên báo một ‘chiều kích vô cùng’ của ơn cứu độ!

Isaia ngước nhìn Núi Nhà Đức Chúa và thấy trước những đoàn người hành hương của muôn dân mai ngày. Mùa Vọng, mùa bạn và tôi dâng lời tạ ơn Thiên Chúa khi ngước nhìn Đền Thờ Giêsu – Hội Thánh, Hiền Thê và là hiện thân của Ngài – nơi muôn dân đổ về. Từ ‘Giêrusalem mới’ ấy, với các môn đệ, với mỗi người chúng ta, Tin Mừng sẽ đi đến tận chân trời góc biển, vượt mọi biên giới, để đạt tới một ‘chiều kích vô cùng’ trong muôn triệu sinh linh. “Vinh quang của Sion toả sáng rực rỡ đến nỗi các dân tộc bị kéo ra khỏi bóng tối để bước vào ánh sáng của nàng!” – Andrew M. Davis.

Vậy mà, để có thể loan truyền sứ điệp đó, chúng ta trước hết phải được chính Chúa Giêsu “lấp đầy”; rồi cùng Ngài, đến với các tâm hồn và nói như Isaia, “Hãy đến, ta cùng đi!”; “Ta vui mừng trẩy lên đền thánh Chúa!” – Thánh Vịnh đáp ca. Thật trùng hợp, Tin Mừng hôm nay cũng nói đến sự “lấp đầy” đó. Chúa Giêsu không cần bước vào nhà viên đại đội trưởng ngoại giáo đầy niềm tin, nhưng Ngài đã đi vào trái tim ông và làm cho niềm tin ấy nên trọn. Nhờ đó, ông trở thành đại diện cho thế giới dân ngoại, những người sẽ mở lòng đón nhận Ngài. Và Chúa Giêsu quả quyết, “Tôi không thấy một người Israel nào có lòng tin như thế!”. “Bàn tiệc đức tin đã luôn bày sẵn, dù khách được mời có ngồi vào hay ở ngoài với muôn vàn lý do trì hoãn!” – Von Balthasar.

Anh Chị em,

“Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi!”. Có biết bao anh chị em lương dân chưa tìm ra đường? Mùa Vọng, mùa bạn và tôi nhìn lại mình – những bảng chỉ đường! Tôi có chỉ đúng hướng Đền Giêsu? Quan trọng hơn, tôi có ắp đầy Ngài? Vì thế, Mùa Vọng còn là mùa mời Giêsu vào nhà, nếu ở đó vắng bóng Ngài. Hãy nhìn viên đại đội trưởng! Tự coi mình ‘bất xứng’, ông tỏ ra ‘rất xứng’ để Chúa Giêsu không chỉ “vào nhà” mà còn “vào lòng” – vì vào nhà mà chẳng vào lòng cũng bằng không. Để một khi đầy Giêsu, bạn mới có thể là một bảng chỉ đường “đúng hướng, dễ hiểu” và chỉ được ‘chiều kích vô cùng’ ơn Ngài cứu độ! “Tôi chỉ có một ngọn nến của đời để đốt, và tôi thà đốt nó ở một nơi đầy bóng tối còn hơn ở nơi đã ngập tràn ánh sáng!” – John K. Falconer.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con ‘lỏng ốc!’. Thay vì chỉ Giêsu, con chỉ vào con; thay vì chỉ về ‘chiều kích vô cùng’, con chỉ về những ‘chiều kích có cùng!’”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

**************************************************

Lời Chúa Thứ Hai Tuần I Mùa Vọng

Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc trong Nước Trời.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.    Mt 8,5-11

5 Khi Đức Giê-su vào thành Ca-phác-na-um, có một viên đại đội trưởng đến gặp Người và nài xin : 6 “Thưa Ngài, tên đầy tớ của tôi bị tê bại nằm liệt ở nhà, đau đớn lắm.” 7 Người nói : “Chính tôi sẽ đến chữa nó.” Viên đại đội trưởng đáp : 8 “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh. 9 Vì tôi đây, tuy dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền tôi. Tôi bảo người này : ‘Đi !’, là nó đi, bảo người kia : ‘Đến !’, là nó đến, và bảo người nô lệ của tôi : ‘Làm cái này !’, là nó làm.” 10 Nghe vậy, Đức Giê-su ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người rằng : “Tôi bảo thật các ông : tôi không thấy một người Ít-ra-en nào có lòng tin như thế. 11 Tôi nói cho các ông hay : Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời.”


 

HIỂU VÀ SỐNG MÙA VỌNG – Lm. Nguyễn Hồng Giáo OFM  

Lm. Nguyễn Hồng Giáo OFM  

Năm Phụng vụ bắt đầu với Mùa Vọng, chuẩn bị chúng ta mừng đại lễ Giáng Sinh, một lễ tưng bừng nhất trong năm, xét về mặt xã hội, không những trong đạo mà cả “ngoài đời” nữa.  Tôi luôn luôn biết ơn và cảm phục Giáo Hội, người mẹ hiền của chúng ta.  Giáo Hội thật khôn ngoan, biết rõ lòng người.  Con người có nhu cầu vui chơi và mừng lễ.  Trong đời sống xã hội có biết bao nhiêu là ngày lễ, biết bao nhiêu mùa lễ và cao điểm. 

Và ai cũng biết: các ngày lễ, các mùa lễ như thế không chỉ có mục đích giải trí, vui chơi mà thôi.  Trong năm Phụng Vụ, Giáo Hội cũng cho ta sống nhiều mùa đại lễ, nhiều cao điểm Phụng vụ, để bồi dưỡng tinh thần chúng ta, giúp ta sống bởi sự sống của Thiên Chúa cách dồi dào, phong phú hơn.  Đức Kitô tự ví mình như cây nho và chúng ta là cành.  Cây nho này lại phải nẩy sinh thêm những cành mới, lại phải trở nên xanh tươi và sinh hoa kết quả qua các mùa Phụg vụ: Mùa Vọng và Giáng sinh, Mùa Chay và Phục sinh, rồi đến Mùa Thường niên. 

Năm Phụng Vụ nhắc lại lịch sử Dân Chúa trong Cựu ước hoặc làm sống lại những biến cố lớn trong cuộc đời Chúa Giêsu, hoặc gợi lại gương sáng của Đức Mẹ và các thánh, nhưng đó không phải là do lòng sùng bái quá khứ, thích thú những chuyện đã qua rồi.  Điều Phụng Vụ nhắm tới không phải là quá khứ nhưng là hiện tại, là đời sống ân sủng của chúng ta hôm nay.  Bốn mùa xuân, hạ, thu, đông nối tiếp nhau không phải chỉ là lặp lại y nguyên một vòng tròn, song là điều kiện cho con người trưởng thành và sung mãn.  Cũng vậy, người Kitô hữu phải chờ đợi nơi năm Phụng Vụ sự sống của Chúa ngày càng dồi dào hơn trong mình, sự sống mà họ đã nhận lãnh như một mầm mống trong Bí tích Thánh Tẩy.

 Các mùa Phụng Vụ đều nhắm cùng một mục đích như nhau nhưng theo những cách thức khác nhau, cũng như tứ thời bát tiết đều là những mùa của trời đất xoay vần song không giống nhau.  Vậy Mùa Vọng có gì đặc trưng?  Chúng ta cử hành gì trong mùa này?

 Một Chút Lịch Sử.

 Cho đến thế kỷ thứ IV, Giáo Hội Tây phương mừng một đại lễ duy nhất là lễ Phục Sinh.  Tất nhiên là có một số lễ khác song tất cả đều qui về Phục Sinh và không bao giờ long trọng bằng Phục Sinh.  Đến thế kỷ thứ IV, Tây phương mới bắt đầu mừng lễ Chúa Giáng sinh vào ngày 25 tháng 12.  Theo thời tiết, thì đó là kỳ đông chí, lúc mà đêm ngắn lại và ngày bắt đầu dài thêm.  Vào dịp này, người ngoại giáo cử hành lễ mừng Ánh sáng.  Giáo Hội đã đặt lễ Giáng sinh vào đúng ngày đó để công bố rằng chính Đức Giêsu Kitô mới thực là Ánh sáng, là Mặt trời soi sáng thế gian.

 Nhưng lúc đầu Giáng sinh cũng chỉ là lễ thường thôi.  Mãi đến thế kỷ thứ VI mới trở thành một đại lễ, và cũng kể từ đó, người ta mới tổ chức một thời gian chuẩn bị tương đương với Mùa Chay trước Phục sinh, và được gọi là mùa Adventô tức là Mùa Vọng như ta quen gọi ngày nay.  Năm Phụng Vụ được tổ chức thành 2 chu kỳ xoay quanh 2 trung tâm là Phục sinh và Giáng sinh.  Chu kỳ Giáng Sinh vươn lên từ đêm tối đến ánh sáng (như mùa đông qua mùa xuân) còn Phục Sinh thì đầm đìa trong ánh sáng chan hòa.

 Tinh thần và Ý Nghĩa của Mùa Vọng.

 Vọng là trông mong.  Trong thời gian Mùa Vọng, Giáo Hội muốn chúng ta sống mãnh liệt hơn tâm tình khát mong Chúa đến.  Nhưng Chúa đến lúc nào?  Ta biết Chúa đã đến cách nay 2000 năm, trong thận phận làm người.  Mùa Vọng có mục đích đầu tiên là chuẩn bị tâm hồn ta mừng lễ Giáng sinh, tức là kỷ niệm biến cố Ngôi Hai xuống thế làm người tại Bêlem xưa.  Nhưng ta cũng tuyên xưng Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét thế gian và hoàn thành công cuộc cứu độ không những đối với loài người mà còn đối vơi toàn thể vũ trụ nữa.

 Mùa Vọng mời gọi chúng ta sống tích cực hướng về ngày đó mà giáo lý quen gọi là ngày cánh chung.  Giữa hai lần Chúa đến ấy, còn có thể nói tới một lần nữa, đó là cuộc Chúa ngự đến cách nhiệm mầu trong tâm hồn chúng ta bằng ân sủng, như lới Kinh thánh: “Ai yêu mến Ta, thì Cha Ta sẽ yêu mến người ấy và chúng ta sẽ cư ngụ trong người ấy.”  Như vậy Mùa Vọng cử hành ba cuộc ngự đến.  Cần nhớ tới cả ba nếu chúng ta muốn hiểu rõ nội dung của các bản văn Kinh thánh và Phụng vụ của mùa này và có được những tâm tình thích hợp.  Hồng Y Newman đã viết: “Trong linh đạo Mùa Vọng, Đức Kitô xuất hiện như một người đã có mặt đó rồi, và đồng thời vẫn không ngừng được chờ mong.  Và Kitô hữu sống linh đạo này như một người chờ đợi Đức Kitô.”

 Có thể nói chúng ta càng sống càng tiến về phía trước.  Mùa Vọng đến nhắc nhở chúng ta rằng cuộc đời ta còn dang dở và quê hương thật của ta ở trên trời.  Mùa Vọng mời gọi ta nhổ trại lên đường tiến về Ngày của Chúa, ngày Chúa đến làm cho cuộc đời chúng ta cũng như toàn thể lịch sử nên sung mãn.  Chính ngày đó đem lại cho cuộc sống hiện tại một hướng đi và một ý nghĩa cao cả.  Vì thế nỗi chờ mong của ta cũng là một niềm hy vọng.  Chúng ta chờ đợi với sự tin tưởng và nôn nóng như người vợ hiền chờ đợi người chồng mà bà đã biết, mà bà yêu mến và được yêu mến.  “Đức Kitô về trời mang theo trái tim của Hội thánh.  Tất cả đời sống của Hội thánh chỉ là một hành vi khao khát, hy vọng, cầu nguyện và đợi chờ” (Jean Daniélou).  Lời cầu nguyện kết thúc toàn bộ Kinh thánh mà thánh Gioan Tông đồ đã đặt vào miệng Giáo Hội đang bị bách hại là: Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến !

 Ba Thái Độ Sống Cụ Thể.

 Theo tinh thần Mùa Vọng, sống hướng về ngày Chúa đến có thể được diễn tả trong ba thái độ cụ thể.  Trước tiên là tương đối hóa hiện tại.  Mọi giá trị ở đời này như của cải, danh vọng, tình yêu, gia đình, khoa học, kỹ thuật, văn hóa v.v… là những điều tốt lành mà chúng ta phải ra sức thực hiện theo thánh ý của Chúa trong hoàn cảnh sống cụ thể của mình, nhưng đó chưa phải là những cái tuyệt đối đáng cho ta coi là mục đích phải gắn bó và đeo đuổi với bất cứ giá nào.  Trái lại, chúng chỉ tìm được trọn vẹn giá trị khi đối chiếu với cùng đích tối hậu, đích thực của đời ta.

 Thái độ sống này làm cho ta nên khôn ngoan, sáng suốt, chừng mực và tự do.  Sống hướng về ngày Chúa đến còn đòi hỏi nơi ta một thái độ thứ hai là phải cương quyết chống lại tội lỗi và sự ác nơi mình và chung quanh mình, nơi gia đình và trong xã hội.  Đó là dọn đường cho Chúa ngự đến, như chúng ta thường hát trong Mùa Vọng theo lời Kinh Thánh: “Quanh co uốn cho ngay, Gồ ghề san cho phẳng, Hố sâu lấp cho đầy, Nơi cao phải bạt xuống.”

 Sau hết, sống hướng về ngày Chúa đến buộc ta phải tỉnh thức và luôn luôn sẵn sàng như người tôi trung: hết lòng với nhiệm vụ được trao phó, tận dụng mọi khả năng của mình để hoàn thành mọi việc theo ý chủ nhà hiện đang vắng mặt và mau mắn mở cửa đón chủ về bất cứ lúc nào.

 Lm. Nguyễn Hồng Giáo OFM

Viết theo J. Daniélou:Le Mystère de l’Avent, Paris 1948

From: Langthangchieutim


 

Nguồn gốc cốt lõi nhất của phụng vụ là gì? – Cha Vương

Mùa Vọng thánh thiện và tràn đầy ân sủng của Chúa nhé!

Cha Vương

Thư 7: 29/11/2025.   (t3-22)

GIÁO LÝ: Nguồn gốc cốt lõi nhất của phụng vụ là gì? Đó là chính Thiên Chúa. Trong Người diễn ra một lễ hội tình yêu đời đời trên Thiên đàng, có niềm vui của Cha – Con – Thánh Thần. Vì Thiên Chúa là Tình yêu, nên Người muốn chúng ta dự phần vào cuộc lễ vui vẻ của Người và ban cho chúng ta chúc lành của Người. (YouCat, số 170)

SUY NIỆM: Trên đời này, các cử hành phụng vụ phải là những cuộc lễ tràn ngập vẻ đẹp và sức sống: lễ của Cha đã tạo dựng chúng ta— trong đó vai trò quan trọng của các quà tặng của trái đất: bánh, rượu, dầu và ánh sáng, khói hương, thánh nhạc và các thứ màu sắc. Lễ của Con đã cứu chuộc chúng ta— chúng ta vui mừng vì chúng ta được giải thoát, chúng ta lấy lại hơi thở khi nghe Lời Chúa, chúng ta trở nên mạnh sức khi ăn các lễ vật Thánh Thể. Lễ của Thánh Thần đang sống trong ta— từ đó ta được tràn đầy an ủi, hiểu biết, can đảm, sức mạnh, và được chúc lành từ các cộng đồng Kitô hữu. (YouCat, số 170 t.t.)

❦ Chúc lành nghĩa là nói ra điều tốt lành, điều tốt lành này xuất phát từ Thiên Chúa. Đó là một hành vi của Chúa ban sự sống và gìn giữ sự sống. Thiên Chúa là Cha và là Đấng Sáng tạo mọi loài nói cho chúng ta rằng: bạn ở đây là tốt lành, bạn hiện hữu là tốt lành.

LẮNG NGHE: Các ngươi phải thờ phượng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa các ngươi; Người sẽ chúc phúc cho bánh ngươi ăn, cho nước ngươi uống. Ta sẽ đẩy bệnh tật xa ngươi. (Xh 23:25)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, Chúa luôn tìm kiếm con nhưng con cứ ngoảnh mặt làm ngơ. Mỗi ngày Chúa dọn cho con mâm cỗ, lễ vật Thánh Thể, nhưng con lại không đến. Mùa Vọng này, xin cho con biết tìm Chúa mỗi ngày để được vui hưởng trong tình yêu bất tật của Chúa.

THỰC HÀNH: Hãy cố gắng đi tham dự Thánh Lễ thường xuyên hơn.

From: Do Dzung

*************************

Hy Lễ Tình Yêu – Ca Đoàn Sao Mai 

THỨC NHAU DẬY – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Hãy canh thức!”.

“Ở châu Phi, mỗi buổi sáng, một con linh dương thức dậy biết rằng, nó phải chạy nhanh hơn một con sư tử nhanh nhất – bằng không, nó sẽ bị ăn thịt. Cũng thế, một con sư tử biết nó phải chạy nhanh hơn một con linh dương chậm nhất – bằng không, nó sẽ chết đói. Không quan trọng bạn là sư tử hay linh dương; khi mặt trời mọc, bạn cần ‘thức nhau dậy’ để chạy!” – Herb Caen.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng Chúa Nhật I Mùa Vọng mời gọi chúng ta tỉnh thức và ‘thức nhau dậy’ khi bắt đầu một năm phụng vụ mới. Tỉnh thức không chỉ là sinh tồn thiêng liêng, mà là thái độ của tâm hồn biết nhận ra những lần Chúa viếng thăm.

Những lần thăm của Chúa không báo trước, không được đánh dấu trên lịch, nhưng được chờ đợi bởi những trái tim yêu mến. Chúa Giêsu nói, “Hãy canh thức!”, vì nếu ngủ mê trong thói quen, trong thú vui chóng qua, bạn sẽ bỏ lỡ thời khắc Ngài đến. Tỉnh thức là nhận ra điều đang trói buộc mình và dám mở ra cánh cửa trái tim cho lòng thương xót Chúa bước vào. “Tình yêu luôn tỉnh thức trước bình minh!” – Von Balthasar.

Tỉnh thức cũng là không ngủ mê trước nỗi đau của mình và của tha nhân – bao gồm tội lỗi và những tổn thương. Hơn nữa, tỉnh thức mang chiều kích cộng đoàn và Giáo Hội. Không ai có thể ‘tự mình thức dậy’; chúng ta nâng đỡ nhau trong cầu nguyện, trong trách nhiệm chung, và trong việc đọc những dấu chỉ thời đại. Một cộng đoàn biết tỉnh thức sẽ lắng nghe tiếng kêu của người nghèo, những bất công đang lan rộng, những đổ vỡ của thế giới đang nấc lên vì chiến tranh; ở đó, Chúa đang đến – âm thầm nhưng khẩn thiết. “Trở ngại lớn nhất của ân sủng không phải là tội, nhưng là sự thờ ơ!” – Henri de Lubac.

‘Thức nhau dậy’ còn là biết từ bỏ những ‘ngã rẽ an thần’ mà ngỡ là bình an. Tự do không nằm ở việc tránh thử thách, nhưng ở chỗ để mọi sự được đặt dưới ánh sáng của Chúa và can đảm mở lòng đón lấy Ngài trong từng nhịp sống. Đó là thái độ chọn lựa mỗi ngày, giữa những ảo ảnh lấp lánh và Đấng là Sự Thật. “Đời sống thiêng liêng là một sự chọn lựa liên lỉ giữa những ảo ảnh và Thiên Chúa!” – Henri Nouwen.

Anh Chị em,

Như vậy, ‘thức nhau dậy’ là một cuộc chạy thiêng liêng: một hành trình nơi trái tim không còn bị mê hoặc bởi những điều vụt qua, nhưng hướng về Thiên Chúa – sự sống và tình yêu vĩnh cửu. Và chúng ta nhận ra Chúa không chỉ đến trong Bí tích, trong Lời, trong nội tâm mình, nhưng còn trên khuôn mặt người anh em đang cần được nâng dậy – thể chất lẫn linh hồn. Biết ‘thức nhau dậy’, gia đình, cộng đoàn trở thành nơi thắp lên hy vọng, nơi con người bước ra khỏi bóng tối của cam chịu, tìm lại hướng đi cho đời sống. “Trong bốn tuần lễ, chúng ta được mời gọi ra khỏi lối sống cam chịu, ra khỏi những nuông chiều thường ngày, bằng cách nuôi dưỡng hy vọng, nuôi dưỡng mơ ước một tương lai mới. Đừng để lối sống ích kỷ hoặc nhịp sống căng thẳng ồ ạt đè nén con!” – Phanxicô.

Chúng ta có thể cầu nguyện:

“Lạy Chúa, dạy con biết tỉnh thức để nhận ra những lần Chúa đến ‘xen kẽ’ giữa đời thường, hầu con và cộng đoàn con được đổi mới trong tình yêu Ngài!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

*********************************************************

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG, NĂM A

Anh em hãy canh thức để được sẵn sàng.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.    Mt 24,37-44

37 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Thời ông Nô-ê thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. 38 Vì trong những ngày trước nạn hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. 39 Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thuỷ ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. 40 Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại ; 41 hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại.

42 “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến. 43 Anh em hãy biết điều này : nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông phải canh thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. 44 Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.”


 

 PHÉP LẠ CỦA NIỀM HY VỌNG-câu chuyện của Đức cha Phanxico Xavie

Nguyen Van Agostino is with Can Le 

 PHÉP LẠ CỦA NIỀM HY VỌNG

Mời bạn đọc tiếp câu chuyện của Đức cha Phanxico Xavie:

XXVI. Người có nụ cười hiền từ

“Đừng sợ, vì Ta đã cứu chuộc ngươi, Ta đã gọi ngươi bằng tên, ngươi là của Ta.”

(Is 43,1)

“Nếu ngươi làm nên những công trình vĩ đại, nhưng không vâng phục, ngươi sẽ không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa. Đối với Ngài, điều có giá trị chỉ là trái tim của ngươi: Ngài không cần đến công việc của ngươi. Ngài đã tạo dựng cả vũ trụ mà không cần sự trợ giúp của ngươi.”

(Ph. X. Nguyễn Văn Thuận, Đường Hy vọng)

Đức cha Thuận sống trong một căn phòng nhỏ tại Foyer Phát Diệm (tên một giáo phận ở miền Bắc Việt Nam), ở số 45 đường Pineta Sacchetti, và tiếp tục đời sống tại Rôma như thể chưa bao giờ rời đi.

Khi đi dạo trên các con phố Rôma, ngài không còn ngoái lại phía sau để kiểm tra xem có ai theo dõi mình, như đã từng làm ở Hà Nội. Ngài thuộc về một thiểu số rất nhỏ những người, giống như ngài, đã trải qua nhiều năm tù đày và cảm nhận sâu sắc niềm vui của tự do đích thực, trong khi phần còn lại của dân chúng coi tự do là điều hiển nhiên.

Trong hai năm đầu lưu đày, đức cha Thuận tập trung vào việc chăm sóc mục vụ cho người Việt Nam rải rác khắp thế giới, và đôi khi, theo sự ủy nhiệm của Quốc vụ khanh Tòa Thánh và Bộ Truyền giáo, ngài đi đến các giáo phận và chủng viện ở châu Phi và châu Á như một vị khách thăm viếng tông tòa.

Thân sinh của ngài, ông Nguyễn Văn Ấm, qua đời vào tháng 6 năm 1993. Người con là tổng giám mục đã lập tức lên chuyến bay đầu tiên đến Sydney, nơi ngài gặp các em Hàm Tiếu, Ánh Tuyết, Thuỷ Tiên, Thu Hồng và người em trai tên Tuyên đang quây quần bên mẹ. Một lần nữa, bà Hiệp tỏ ra vô cùng can đảm. Trong thánh lễ an táng do ngài cùng hai giám mục khác đồng tế, bà đã đọc vài lời mà không rơi một giọt nước mắt. Theo truyền thống Á Đông, sau thánh lễ, đức cha Thuận phủ phục ba lần trước quan tài cha, cảm tạ ông vì đã ban cho mình sự sống và đã dẫn dắt bằng bàn tay mạnh mẽ.

Sau tang lễ, ngài ngồi hàng giờ hồi tưởng về cuộc đời hy sinh của cha và sự tha thứ chân thành của ông dành cho tất cả những ai đã cố tình làm hại ngài và gia đình. Việc gia đình bà Hiệp vươn lên danh vọng và quyền lực đã khiến ông Ấm sống trong cái bóng của vợ, nhưng điều đó không làm ông phiền lòng. Ông và bà Hiệp đã yêu thương nhau tha thiết. Khi bi kịch giáng xuống gia đình vợ, ông Ấm luôn ở bên cạnh để giúp bà gom góp những mảnh vỡ và xây dựng lại cuộc sống. Ông chưa bao giờ than phiền.

Đức cha Thuận nhớ lại sự lý lẽ chặt chẽ của người cha khi ông hoặc các em tìm cách biện hộ cho lỗi lầm của mình. Ông Ấm hiếm khi to tiếng, nhưng những lời quở trách của ông thì khó quên. Khi cha còn sống, đức cha Thuận chưa bao giờ nói với ông rằng con yêu cha. Ngài luôn mong muốn làm điều đó, nhưng phong tục Á Đông và sự rụt rè của bản thân đã khiến điều ấy không thể thực hiện. Giờ đây, ngài có thể cuối cùng thốt lên: “Hãy nghỉ yên trong vòng tay Thiên Chúa, nghỉ yên, cha ơi, con yêu cha.”

Sau tang lễ, đức cha Thuận ở lại Úc một thời gian. Một ngày nọ, khi đang ngồi viết bên bàn, cô Hàm Tiếu bất ngờ đề nghị: “Anh không nghĩ rằng mẹ có thể đi du lịch một chút bây giờ sao? Mẹ sẽ rất thích được thăm châu Âu và Bắc Mỹ.”

Đức cha Thuận buông cây bút xuống, quay lại và hỏi: “Em nghĩ mẹ thật sự có thể làm được sao? Mẹ đã 90 tuổi rồi, em quên sao?”

Nhưng cô Hàm Tiếu đã thuyết phục anh mình nói chuyện với mẹ về đề nghị ấy. Khi ngài hỏi, bà Hiệp đáp: “Còn quá sớm để nói về những chuyện này. Nhưng trong tương lai, mẹ muốn thăm Rôma và Lộ Đức, và mẹ muốn gặp các cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ để cảm ơn họ vì sự nâng đỡ.” Đức cha Thuận thử thách bà bằng câu hỏi: “Nâng đỡ nào cơ?”

Mẹ nhìn ngài và mỉm cười, bởi bà biết rằng ngài cũng đã tha thứ cho tất cả những người từng làm hại ông và gia đình: “Nhiều người đã chứng tỏ lòng trung thành với cậu Diệm của con – bà nhấn mạnh – và nhiều người khác thì tự hào về con.”

Ngài gật đầu. Làm sao mình có thể không biết ơn các cộng đồng người Việt, nơi ít nhất một số người đã trung thành với cậu Diệm cho đến cùng và đã bày tỏ tình bạn cũng như sự nâng đỡ dành cho ngài và gia đình? Ngài nhìn những chồng bưu thiếp, thư từ và các thông điệp email in ra đang nằm trên bàn, tất cả đều bày tỏ lời chia buồn về cái chết của người cha.

Đức cha Thuận đã cố gắng gửi thiệp cảm ơn đến tất cả những ai đã nghĩ đến ngài và gia đình trong suốt những năm qua. Ngài tự hỏi:

“Chừng đó chưa đủ để biện minh cho sự tha thứ của chúng ta đối với tất cả những xúc phạm trong quá khứ sao?” Và ngài cảm thấy bình an với chính mình hơn bao giờ hết.

Sau khi trở lại Rôma, một căn phòng nhỏ không còn đủ để chứa các ấn phẩm của ngài trong nhiều ngôn ngữ khác nhau, nên ngài được cấp thêm hai phòng nữa. Ngài dành nhiều giờ làm việc với các dịch giả và nhà xuất bản cho sách của mình. Đường Hy vọng đã được xuất bản bằng hơn mười hai ngôn ngữ, và các tập sách khác cũng đều thành công rực rỡ.

Nhưng đức cha Thuận không dành toàn bộ thời gian cho việc viết. Ngài bắt đầu thăm viếng các cộng đồng người Việt ở nhiều quốc gia. Giới trẻ trong các cộng đồng ấy tìm đến ngài để xin lời khuyên và sự hướng dẫn. Họ muốn ngài nói chuyện trong các kỳ tĩnh tâm và hội họp của họ. Những cuộc tập hợp lớn của người Công giáo Việt Nam ở khắp nơi trên thế giới đều phải có ngài làm diễn giả chính, nếu không thì sẽ không được coi là thành công.

Chẳng bao lâu sau, khi ngày càng nhiều người đọc sách của ngài, cả các cộng đồng Pháp, Đức, Ý và Tây Ban Nha cũng mời ngài đến nói chuyện trong các kỳ tĩnh tâm và đại hội của họ. Ngài đi đến nhiều nước để nói chuyện với các linh mục, tu sĩ và giáo dân, những người trân trọng quan điểm của ông về cuộc sống và đức tin. Họ kính trọng lời ngài nói như kết quả của một kinh nghiệm phong phú, và bởi vì ngài nói như một chứng nhân của niềm hy vọng. Kinh nghiệm cá nhân đã trao cho ngài thẩm quyền trong lời nói, và ngài thu hút những đám đông ngày càng đông đảo. Giới trẻ chen chúc trong các buổi gặp gỡ mỗi khi ngài nói chuyện.

Đức cha Thuận nhận thấy điều thiện có thể phát sinh từ những câu chuyện về cuộc khổ nạn dài của mình. Nhưng ngài tránh nói quá công khai, hoặc quá dài, về cách đối xử mà mình đã nhận từ những kẻ hành hạ và cai ngục. Ngài vẫn nuôi hy vọng rằng một ngày nào đó sẽ được phép trở lại làm việc tại Việt Nam, và ngài không muốn làm nguy hiểm đến khả năng ấy bởi những gì mình nói ra.

Thật không may, khả năng trở về quê hương của đức cha Thuận ngày càng trở nên mong manh theo thời gian. Sau khi những nỗ lực lặp đi lặp lại của Tòa Thánh nhằm thương lượng với Hà Nội để cho phép ngài trở lại Việt Nam đều thất bại, vào tháng 4 năm 1994, Đức Gioan Phaolô II quyết định bổ nhiệm ngài làm Phó Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình.

Hội đồng này được thành lập như một Ủy ban bởi Đức Phaolô VI vào ngày 6 tháng 1 năm 1967 với sắc lệnh Catholicam Christi Ecclesiam. Ban đầu, đây là một tổ chức thử nghiệm (ad experimentum), sau đó được tái cấu trúc và trở thành thường trực với sắc lệnh Justitiam et pacem ngày 10 tháng 12 năm 1976. Đức Gioan Phaolô II đã biến Ủy ban thành Hội đồng. Mục đích của Hội đồng là làm phong phú và phổ biến học thuyết xã hội của Giáo hội, đặc biệt liên quan đến công việc của con người. Hội đồng cũng hoạt động về các vấn đề công lý và hòa bình, sự tiến bộ của các quốc gia, những vi phạm nhân quyền và thúc đẩy các quyền này, đặc biệt là quyền tự do tôn giáo.

Chương trình của Hội đồng có thể được xem như một bản tóm lược những khát vọng và nỗ lực trước đây của đức cha Thuận. Ngài cảm thấy tràn ngập bởi một làn sóng khiêm nhường khi biết rằng mình sẽ phục vụ trong một cơ quan của Giáo hoàng. Ngài đã trở thành một thành phần quan trọng của Giáo triều Rôma.

Năm 1994, đức cha Thuận bay sang Paris để đón mẹ đến Pháp và đưa bà đi Lộ Đức. Bà Hiệp đi cùng con gái Hàm Tiếu và cháu gái Tania, 14 tuổi.

Tại thủ đô nước Pháp, ngài cử hành Thánh lễ tại trụ sở Hội Truyền giáo Hải ngoại Paris cùng với cha Etcharrel, bề trên của cộng đoàn. Sau đó, họ đến xem các hiện vật trưng bày trong phòng các vị tử đạo, nơi mọi người cúi đầu cầu nguyện cho sự trở lại của lòng khoan dung tôn giáo tại Việt Nam.

Bà Hiệp nóng lòng muốn đến Lộ Đức. Bà nói rằng bà muốn cảm tạ Đức Mẹ Vô Nhiễm vì tất cả những phúc lành mà gia đình đã nhận được, đặc biệt là nơi đức cha Thuận. Những lời này khiến người con hiểu rằng, trong khi ngài thường nghĩ đến những bi kịch lớn mà gia đình đã phải chịu đựng, thì mẹ ngài chỉ nhớ đến những phúc lành – và điều đó khiến ngài cảm thấy hổ thẹn.

Được hai người con, cháu gái và cha Văn – một linh mục Việt Nam – tháp tùng, bà Hiệp đi tàu đến Lộ Đức và ngắm nhìn phong cảnh dọc đường đi.

Sức chịu đựng thể chất của mẹ khiến đức cha Thuận ngạc nhiên. Bà đã 91 tuổi, nhưng vẫn quỳ gối hàng giờ trước hang đá Lộ Đức. Đức cha Thuận quỳ bên cạnh mẹ, nghĩ rằng với bao khoảnh khắc tuyệt vời trong đời, ngài phải tạ ơn cả người mẹ trần thế đang quỳ bên cạnh, lẫn Mẹ Thiên quốc mà cả hai đang hướng lời cầu nguyện.

Tại Lộ Đức, đức cha Thuận lại xúc động bởi ký ức về lần “gặp gỡ” đầu tiên với Đức Mẹ Vô Nhiễm. Ngài vẫn cảm thấy một niềm xúc động mạnh mẽ khi đọc lại dòng chữ đặt đúng nơi Đức Mẹ đã hiện ra với Bernadette: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội”. Ngài tự hỏi: “Có nhiều mầu nhiệm nào lớn hơn thế này không? Ngay trong giây phút được thụ thai, Maria đã bước vào kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.” Ngài lại nhớ đến lời Đức Mẹ nói với thánh Bernadette: “Ta không hứa sẽ làm cho con hạnh phúc ở thế gian này, nhưng ở thế giới khác.” Ngài nghĩ, không chút cay đắng: “Vâng, Mẹ, Mẹ đã giữ lời hứa.”

Ngài chỉ tự hỏi liệu mình có trung thành với lời hứa ấy như Bernadette hay không. Cô bé đã trở lại với Đức Bà bất kể người ta đối xử với cô thế nào. Đe dọa, nhục nhã và tù đày: cô đã chịu đựng tất cả những điều bất công ấy mà không hề than phiền. Khát vọng cháy bỏng của cô chỉ là được gặp Đức Mẹ Vô Nhiễm vào những ngày và giờ đã định.

“Cô ấy chỉ là một đứa trẻ – đức cha Thuận nghĩ với sự khâm phục – khi phải chịu đựng những điều ấy, trong khi tôi đã trải qua chúng khi đã là người trưởng thành.”

Bà Hiệp cùng hai người con và cháu gái Tania đến Rôma, và đức cha Thuận hạnh phúc khi thấy mẹ cảm nhận niềm vui trong việc thăm viếng Thành phố Vĩnh cửu. Bà Hiệp và cô Hàm Tiếu, được đức cha Thuận tháp tùng, đã được Đức Gioan Phaolô II tiếp kiến tại Castel Gandolfo, và khi Đức Giáo hoàng ban phép lành cho mẹ, người con đã thấy những giọt lệ trong mắt bà. Đức cha Thuận sống những ngày ấy trong trạng thái ngỡ ngàng. Ngài biết ơn vì mẹ cuối cùng đã chấp nhận một điều gì đó từ ngài để đổi lại tất cả những gì bà đã làm. Ngài thấy bà hạnh phúc khi được ở Rôma, chỉ đơn giản vì ngài đang ở bên cạnh bà.

Kết thúc chuyến thăm kéo dài một tháng của bà Hiệp, ngài buồn bã khi phải nói lời tạm biệt mẹ. Trước khi chia tay, bà Hiệp nhìn ngài một lúc rồi nói: “Rõ ràng là Thiên Chúa muốn con ở đây chứ không phải ở Việt Nam. Chính tại đây con sẽ sống và thực hiện các công việc của Ngài. Mẹ sẽ luôn ở cùng con.”

Do đó, ngày 24 tháng 11 năm 1994, đức cha Thuận đã xin từ chức khỏi chức vụ tổng giám mục phó của Thành phố Hồ Chí Minh. Đó là một khoảnh khắc quyết định đối với ngài: Ngài sẽ ở lại Rôma để phục vụ trong Giáo triều suốt phần đời còn lại.

Tuy nhiên, đôi khi, liên quan đến kế hoạch của Thiên ý, ngài tự hỏi: “Sau bao thử thách gian nan, giờ đây con ở Rôma, nhưng vì sao? Thiên Chúa đã nghĩ gì khi đưa con đến Vatican và thế giới tự do?”

Có vẻ như Đức Giáo hoàng không đặt ra những câu hỏi như vậy. Việc bổ nhiệm đức cha Thuận vào Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình dường như là một hệ quả hợp lý và thích hợp của cuộc khổ nạn dài ở Việt Nam. Như Đức Gioan Phaolô II đã nói với ngài: “Đức cha đến từ một đất nước đã từng trải qua chiến tranh và đã bị giam cầm mười ba năm. Giờ đây đức cha có thể chia sẻ kinh nghiệm của mình với những người ở nhiều quốc gia nơi có đau khổ và bất công, để chúng ta có thể thúc đẩy công lý và hòa bình và giúp mọi người nhận ra các quyền của họ.”

Đức cha Thuận đã nhận được câu trả lời mà mình tìm kiếm. Ngài sẽ quan tâm và dấn thân vào vấn đề chiến tranh và hòa bình, công lý và bất công trên thế giới. Ngài không vội vàng lao vào thế giới phức tạp của chính trị và công lý xã hội. Ngài còn nhiều điều phải học từ Quốc vụ khanh Tòa Thánh và từ Hồng y Roger Etchegaray, Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình.

Đức Hồng y Etchegaray, sinh ra tại vùng Basque của Pháp, là một nhà thơ và nhà ngoại giao lão luyện. Khi còn là tổng giám mục Marseille, ngài đã từng là mục tử của một cộng đồng người Việt đông đảo. Ngài dành một tình cảm lớn cho dân tộc Việt Nam và yêu thích văn hóa cũng như ẩm thực của đất nước này. Trong căn hộ của ngài tại San Callisto, ngay phía trên văn phòng, ngài thường khiến khách ngạc nhiên khi đãi họ những món ăn Việt Nam ngon miệng. Đức cha Thuận rất gắn bó với hồng y Etchegaray và mối quan hệ công việc giữa họ không thể tốt đẹp hơn.

Đức cha Thuận cũng có một mối quan hệ công việc tuyệt vời với Đức ông Diarmuid Martin, người Ireland, thư ký của Hội đồng Giáo hoàng, người đã bắt đầu làm việc tại Vatican từ năm 1977 và là chuyên gia trong việc đối phó với những tình huống khó khăn phát sinh tại Liên Hiệp Quốc hoặc trên thế giới.

Đức cha Thuận là một người điềm tĩnh. Ngài làm việc nghiêm túc, xem xét các hồ sơ một cách cẩn trọng và dành nhiều giờ bên bàn làm việc. Hồng y Etchegaray không phải là một nhà lãnh đạo có tư duy hạn hẹp, ngài giao phần lớn công việc cho các cộng sự tài giỏi và biết ơn vì có thể tin tưởng họ. Ngài cũng là Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng Cor Unum, mà đức cha Thuận đã từng biết rất rõ khi điều hành COREV tại Việt Nam.

Với tư cách là Phó Chủ tịch một Hội đồng Giáo hoàng, đức cha Thuận có đủ điều kiện để cư trú tại Vatican và ngài được cấp một căn hộ ở San Callisto. Ban đầu nơi ấy trông chẳng có gì đặc biệt, nhưng sau khi ngài xem lại các bản thiết kế cho những công việc tu sửa cần thiết và góp ý cho thợ xây, thợ mộc, nó đã trở thành một chỗ ở dễ chịu. Ngài dành thời gian trang trí nhà nguyện nhỏ với gu thẩm mỹ tinh tế, nhưng căn phòng ngủ nhỏ – theo thói quen khắc khổ của ngài – không khác gì những căn phòng ngài từng có ở Việt Nam. Nó trống trải và bất tiện như một xà lim, và ngài thích như thế, bởi ngài muốn tiếp tục sống như một người nghèo.

Đức cha Thuận tiếp khách gần như mỗi ngày sau giờ làm việc. Ngài thích gặp gỡ bạn bè cũ và những người quen mới, kể cả trò chuyện với các nhà báo, dù đôi khi một số người trong số họ đã trích dẫn sai lời ngài.

Ngài là một người học hỏi kiên nhẫn và nghiên cứu mọi thứ một cách cẩn trọng. Ngài đã nắm được cách cư xử trong Vatican và kết bạn với những người đến từ khắp nơi trên thế giới. Phần lớn các giám mục và giáo sĩ khi đến Vatican hoặc từ nhiều quốc gia khác nhau đều tìm đến thăm ngài và cảm thấy thoải mái trong sự đồng hành của ngài. Đức cha Thuận luôn trân trọng những cuộc viếng thăm này, bởi cơn khát muốn biết tình hình của Giáo hội trên thế giới nơi ngài gần như không bao giờ được thỏa mãn.

Gần như không thể tránh khỏi việc, sau một cuộc trò chuyện với đức cha Thuận, các vị khách kết thúc chuyến thăm bằng lời mời ngài đến đất nước hoặc giáo phận của họ, để nói chuyện trong một kỳ tĩnh tâm hoặc một sự kiện quan trọng nào đó. Những lời mời như thế trở nên quá nhiều đến mức ngài phải đưa ra những lựa chọn thận trọng về cách sử dụng thời gian tốt nhất.

Dần dần, ngài nắm bắt được những chi tiết liên quan đến các vấn đề nhân quyền, thương mại toàn cầu, toàn cầu hóa, các quốc gia đang phát triển và những hệ quả không ngừng của sự sụp đổ chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu cũng như sự tan rã của Liên Xô.

Đức cha Thuận cũng quan sát kỹ lưỡng tình hình tại quê hương, nơi mối quan hệ giữa chính phủ và Giáo hội vẫn không được cải thiện. Hết lần này đến lần khác, các sáng kiến do Quốc vụ khanh Vatican đề xuất đều thất bại.

Đức cha Thuận lấy làm tiếc rằng những cơ hội thực sự của giữa thập niên 1980 cho sự phục hồi kinh tế của Việt Nam đã biến mất vào cuối thập niên 1990, bởi sự quan liêu bất tài, sự thiếu chắc chắn của pháp luật và nạn tham nhũng ở mọi cấp độ trong đất nước.

Đời sống thiêng liêng vẫn tiếp tục hướng dẫn ngài, và ngài dành nhiều thời gian cầu nguyện cũng như chuẩn bị các bài diễn thuyết với sự chăm chút đầy yêu thương. Ngài hy vọng rằng bất cứ nơi nào mình được mời nói, đặc biệt là với giới trẻ, lời của ngài sẽ giúp thính giả tìm được con đường nhanh hơn để đến với tình yêu của Thiên Chúa và niềm hy vọng