CHUYỆN CẢM ĐỘNG !- Truyện ngắn HAY

Lê Diệu 

Nhà Tuấn thuộc hàng đại gia giàu có, biệt thự có đến gần chục căn. Người như anh thì chỉ nhắm mắt cũng lấy được vợ đẹp vợ giàu nhưng người anh phải lòng lại là 1 cô gái rất bình thường tên là Uyên.

Uyên xinh đẹp, giỏi giang trong công việc lại có tấm lòng lương thiện, hay đi làm từ thiện nhưng khổ nỗi nhà cô lại vô cùng nghèo khó. Mẹ cô bị bệnh xương khớp, đi lại khó khăn, còn bố thì bị tàn tật cụt chân do 1 lần bị điện giật khiến chân hoại tử, buộc ông phải cưa bỏ đôi chân vốn dĩ khỏe mạnh của mình. Nhà Uyên là nghèo nhất xóm nhưng may mắn cô học giỏi nên mọi người đều nghĩ rằng cuộc đời của Uyên rồi sẽ tươi sáng hơn.

Nhớ lại ngày đó bố Uyên đi đâu cũng phải đưa 2 ghế nhựa theo để di chuyển từng bước. Ông khéo tay giỏi đan lát và lấy nghề đó để nuôi chị em Uyên khôn lớn. Cứ nghĩ đến cảnh bố tàn tật vẫn vất vả nuôi mình từng bữa là Uyên lại thấy thắt lòng. Uyên luôn cố gắng thật nhiều để bù đắp cho bố mẹ và nuôi em ăn học.

Thế rồi duyên phận khiến Tuấn dành tình cảm cho Uyên. Mặc cảm mình là cô gái nghèo khổ, Uyên không dám đáp lại tình cảm với anh. Nhưng sự kiên trì bền bỉ suốt 2 năm của Tuấn khiến cô động lòng. Ngày Tuấn đưa bạn gái về nhà ra mắt, bố mẹ anh kinh ngạc vì không nghĩ con mình lại yêu 1 cô gái như

Uyên cũng kể với bố mẹ về Tuấn, thay vì vui mừng bố cô lại thở dài:

– Bố không mơ mộng con lấy chồng giàu vì sợ người ta khinh thường nhà mình rồi làm khổ con. Điều bố mong ước chỉ là con tìm được 1 nửa yêu thương và khiến con hạnh phúc. Nhưng nếu đây là lựa chọn của con thì bố cũng ủng hộ, bố mẹ chỉ hối tiếc vì đã không cho con được 1 mái ấm đầy đủ, bố xin lỗi.

Câu nói của ông nghẹn lại khiến Uyên và cả nhà đều khóc:

– Không, với con bố mẹ là người tuyệt vời nhất. Nhờ bố mẹ con mới được ăn học đàng hoàng như thế này. Con tự hào về bố mẹ nhiều lắm.

Sau đó nửa năm thì đám cưới của Uyên và Tuấn diễn ra, mọi chi phí đều là nhà trai lo. Đám cưới được tổ chức tại một khách sạn sang trọng ở Hà Nội, nhưng bố mẹ cô dâu xin phép không đến vì ông bà xấu hổ, sợ con gái mất mặt vì mình. Nhưng suy đi tính lại cuối cùng bố Uyên vẫn lên Hà Nội, ngồi sau lưng do người cháu cõng, đứng bên kia đường nhìn mà không hiểu sao nước mắt ông cứ lặng lẽ rơi. Đúng khoảnh khắc ấy, một người họ hàng nhận ra bố Uyên vội thông báo lại với bố mẹ chú rể, hai ông bà liền âm thầm đi ra ngoài.

Khi cô dâu chú rể bắt đầu tiến lên phía sân khấu, cả hội trường đang vui vẻ vỗ tay chúc mừng thì chợt lặng đi. Họ thấy bố chú rể cõng 1 người đàn ông tàn tật cụt 2 chân tiến vào theo phía sau.

Đám đông bắt đầu xôn xao, bình luận về người đàn ông tật nguyền:

– Bố cô dâu đấy, khổ lấy ai không lấy lại đi lấy 1 gia đình hoàn cảnh như thế thật chẳng biết chọn lựa gì.

– Ôi vậy à, nhà ông Danh này giàu nổi tiếng như thế mà lại chấp nhận chuyện này sao, thật khó tin. Hay cô dâu có bầu rồi.

– Có khi vậy thật.

Bố Uyên mặt đỏ tía tai vì quá xấu hổ. Ông nhìn Uyên rồi nhìn con rể đầy ái ngại còn Uyên òa khóc nức nở vì thấy bố đến chúc mừng mình. Khi đặt ông thông gia xuống ghế rồi, bố Tuấn bất ngờ lên tiếng:

– Xin giới thiệu với mọi người có mặt tại đây hôm nay, người đàn ông này là 1 nhận vật rất quan trọng. Ông ấy chính là bố của cô dâu.

Cả hôn trường xì xào, bố Uyên đỏ mặt tía tai nhìn con gái lí nhí:

– Bố xin lỗi, đáng lẽ bố không nên đến đây.

– Không sao mà bố, con vui khi bố đã đến dự.

Bố Tuấn nói tiếp:

– Ông ấy bị tai nạn phải cưa đi 2 đôi chân quý giá của mình, , dù vậy ông thông gia của tôi đây đã cố gắng hết sức để nuôi Uyên – con dâu tôi khôn lớn thành người. Tôi nghĩ có khi chúng ta rơi vào hoàn cảnh éo le ấy sẽ không đủ ý chí để làm trụ cột của gia đình như người đàn ông này, vậy mà ông ấy đã làm được 1 cách xuất sắc. Tôi và gia đình thực sự khâm phục nghị lực của ông ấy. Nhân lễ thành hôn của 2 con, tôi thay mặt con trai tôi cũng như đại gia đình xin cảm ơn ông vì đã sinh ra và nuôi dạy cho chúng tôi 1 cô con dâu tuyệt vời thế này. Tôi xin cảm ơn.

Cả hội trường vỗ tay, có người còn khóc, cả Uyên, Tuấn cùng ông bà thông gia đều khóc. Bố Uyên cũng khóc nghẹn không nói được câu gì, nhìn con gái hạnh phúc và được gia đình chồng nể trọng, người làm bố như ông vui sướng vô cùng. Thật may vì bố mẹ Tuấn không phải là người trọng phú khinh bần dù gia đình họ rất giàu có.

Theo Webtretho


 

Ông Khai Trí 

Thầy Lê Văn Thông

 Thời chúng tôi còn học trung học, khoảng năm 195…

Sách tiếng Việt ít nên muốn thi đậu bắt buộc phải dùng sách tiếng Pháp, như Toán hình học, Toán đại số, Toán vật lý… Học lớp Đệ tứ (lớp 9 bây giờ) mà làm hết cuốn Toán Hình học và Đại số của Réunion de Professeurs gồm 1.144 bài thì nhất, đi thi trung học chắc ăn

Thời ấy các tiệm sách lớn như Khai Trí chẳng hạn không có nhân viên bảo vệ mặc đồng phục ngồi gác ở cửa như bây giờ, mà có các nhân viên giả làm khách hàng, trông nom, ngăn chặn những người muốn ăn cắp sách.

Buổi sáng hôm ấy, cậu học sinh này cứ lang thang mở coi hết cuốn này đến cuốn khác ở chỗ các giá sách tiếng Pháp. Việc lấm lét nhìn tới nhìn lui của cậu bé khiến nhân viên trông coi khu sách tiếng Pháp nghi ngờ. Lúc cậu đi ra, họ giữ lại, sờ ngực áo cậu và lôi ra một cuốn Toán Hình học và Đại số của Réunion de Professeurs quý giá đã nói ở trên.

– Tại sao cậu ăn cắp sách?

Cậu bé tái mặt không nói nên lời. Chiếc phù hiệu trên ngực áo cậu cho biết cậu học trường Pétrus Ký, một trong bốn trường trung học công lập lớn nhất rất nổi tiếng tại Sài Gòn lúc bấy giờ: Gia Long, Trưng Vương, Pétrus Ký, Chu Văn An.

– Hừ, học sinh trường Pétrus Ký mà ăn cắp sách! Tôi gọi cảnh sát đến bắt để cậu chừa cái thói đó đi!

Họ lôi cậu bé tới chỗ quầy thâu tiền của cô thâu ngân viên, nhờ cô giữ cậu giùm rồi đi gọi cảnh sát. Cậu bé sợ hãi khóc như mưa như gió:

– Lạy chị, nhà em nghèo không có tiền mua sách, chị nói với chú ấy tha cho em đừng gọi cảnh sát…

Cậu bé khóc quá khiến cô thâu ngân viên cũng thấy mủi lòng:

– Ba má em làm gì mà nghèo?

– Ba em chết, má em quét chợ An Đông…

– Mẹ quét chợ An Đông mà con học Pétrus Ký? Em học đến đâu rồi?

– Dạ thưa quatrième année. Chị tha cho em, nếu cảnh sát bắt, đưa giấy về trường em bị đuổi học tội nghiệp má em…

– Các em quen với tiếng Pháp lắm phải không?

– Dạ.

– Bởi vậy nên mới lấy trộm sách Pháp. Bằng bấy nhiêu mà đã học lớp Đệ tứ, sắp thi Trung học là giỏi lằm. Nhưng chú ấy đã đi gọi cảnh sát thì biết làm sao…

Cậu bé sợ quá lại khóc…

Từ đầu đến giờ có một ông đã lớn tuổi, ăn mặc lịch sự vẫn đứng theo dõi câu chuyện. Thấy cô thâu ngân nói thế, ông bảo cô ta:

– Thôi được, cuốn sách giá bao nhiêu để tôi trả tiền. Học trò nghèo mà, lấy một cuốn sách, lỡ bị đuổi học tội nghiệp…

Cô thâu ngân viên chưa biết giải quyết thế nào thì đúng lúc đó ông Nguyễn Hùng Trương, chủ nhà sách mà mọi người vẫn gọi là ông Khai Trí, từ ngoài đi vô.

Thấy chuyện lạ, ông dừng lại hỏi chuyện gì. Cô thâu ngân viên thuật lại sự việc và ông khách cũng đề nghị trả tiền như ông đã nói với cô thâu ngân. Ông Khai Trí cầm cuốn sách lên coi sơ qua rồi nói:

– Phải học trò giỏi mới dùng tới cuốn sách này chứ kém không dùng tới. Cám ơn lòng tốt của ông nhưng để tôi tặng cậu ta, không lấy tiền và sẽ còn giúp cậu ta thêm nữa…

Ông trao cuốn sách cho cậu bé, thân mật vỗ vai khuyên cậu cố gắng học hành rồi móc bóp lấy tấm danh thiếp, viết vài chữ, ký tên và đưa cho cậu:

– Từ nay hễ cần sách gì cháu cứ đem danh thiếp này đến đưa cho ông quản lý hay cô thâu ngân, cô ấy sẽ lấy cho cháu. Ngày trước bác cũng là học sinh trường Pétrus Ký mà…

Ông bắt tay, cám ơn ông khách lần nữa rồi đi vào trong.

Ba năm sau, nghe nói cậu bé đậu xong Tú tài phần II, được học bổng du học nước ngoài, hình như sang Canada.

Thời gian qua đi. Một năm sau biến cố lịch sử 1975, nhà sách Khai Trí bị tịch thu, mới đầu  đặt tên là nhà sách “Ngoại văn”, sau đó đổi thành nhà sách “Fahasa” (viết tắt của 3 chữ “Phát hành sách”), hiện nay lại đổi lần nữa thành nhà sách “Sài Gòn”. Hồi ấy nhà sách Khai Trí là nạn nhân của nạn hôi của, đốt phá, sách vở tung toé khắp nơi từ trong nhà sách ra ngoài đường, nhiều người đã chính mắt chứng kiến cảnh ấy trong nỗi bất lực…

Ông Khai Trí  sang định cư bên Hoa Kỳ. 10 năm sau, ông ở Mỹ về Việt Nam một lần nữa, mang theo hy vọng làm được một chút gì cho đất nước. Ông đã mang về 2.000 đầu sách để tiếp tục làm văn hoá. Sách bị tịch thâu với lý do: in trước 75. Phần lớn sách bị tịch thâu là các loại sách Học Làm Người, báo chí quý hiếm trước 1954, như bộ Loa rất nổi tiếng. Sách ông mang về ai cũng biết là sách về giáo dục, sách hiền

Ông Khai Trí những năm cuối đời.

Ông đau lòng vì sách, ôm đơn đi kiện. Kết cục chẳng đi đến đâu. Ông buồn bã nói:

– Chắc… năm 3.000 thì họ trả…

Ông mất năm 2005 tại Sài Gòn. Trước khi ông mất, người ta đã đặt tên ông cho một con phố nhỏ (!?!).

Một buổi chiều, người ta thấy một “ông già” khoảng ngoài 70 tuổi, ăn mặc theo lối Việt kiều, đứng ngắm trước cửa nhà sách Sài Gòn với nét mặt buồn buồn rồi bước vào hỏi thăm các cô bán sách về ông Khai Trí, các cô nói hình như ông đã mất cách đây đến hàng chục năm. “Ông già Việt kiều” lại ra đứng ngắm trước cửa tiệm sách hồi lâu, lấy khăn giấy lau nước mắt, chắp tay hướng lên trên trời khẽ vái ba vái rồi đi. Không ai biết ông ta là ai cả…

Tác giả bài viết: vanthanhng1180@yahoo.com


 

CHỊ NGUYỆT – Truyện ngắn HAY

Chuyện thường ngày

Chị tên Nguyệt, lúc đó chị khoảng 13 tuổi, còn tôi khoảng 11. Theo lời người ta kể thì chị mồ côi cha mẹ được vợ chồng người hàng xóm đem về nuôi. Ông Bà Chín không có con nên họ xem chị như con cái trong nhà, cho chị đi học. Đổi lại, chị phải dọn dẹp nhà cửa và chăm sóc Ông Bà Chín. Chị học trên tôi hai lớp, tôi đệ thất, còn chị lớp đệ ngủ. Theo như chị kể lại, quê chị ở vùng xôi đậu bị cộng quân về chiếm làng, ba má chị mất tích chỉ hai ngày sau đó. Người cậu của chị phải dẫn cả gia đình chạy di tản ra Quận lỵ nơi tôi ở. Họ dẫn chị theo nhưng không đủ điều kiện nuôi cả gia đình gần 10 người nên cho Ông Bà Chín làm con nuôi.

Nhà chị đối diện nhà tôi trên đường dẫn ra bờ sông Tiền Giang. Buổi sáng đầu tiên tôi gặp chị trong bộ bà ba đen củ đã ngả màu phèn vàng úa và đôi dép đứt quay phải nối lại bằng dây kẽm. Chị đang quét nhà từ trong ra ngoài thì bị bà Chín rầy, bảo phải quét từ ngoài vào trong. Bà giải thích quét ra là đẩy hết cái phước ra ngoài, phải quét vô để nhận được phước. Tôi thấy hai mắt chị long lanh nước mắt như muốn khóc nên vội chạy tới hỏi:

– Bộ mầy mới tới đây làm cho bà Chín hả?

Chị trả lời:

– Hông phải, tao là con nuôi của ba má Chín.

Tôi nói với chị:

– Tui tên Bình, nhà tui bên đó.

– Tao tên Nguyệt, mầy mấy tuổi?

– 11

– Tao 13, mầy phải gọi tao bằng chị.

– Ừ, chị Nguyệt hé.

Vậy là tôi làm quen được với chị từ đó. Năm chị học hết đệ tứ thì phải thôi học do Ông Chín bịnh nặng rồi qua đời, Bà Chín một mình không đủ điều kiên cho chị tiếp tục đi học. Mỗi ngày chị ra sạp vải ngoài chợ tiếp Bà Chín buôn bán. Năm tôi 15 tuổi phải xa nhà lên Tỉnh tiếp tục học thi Tú Tài một, rồi Tú Tài hai nên ít khi được gặp lại chị. Sau khi đậu Tú Tài hai chuẩn bị vào đại học thì nghe tin Bà Chín cũng vừa qua đời, bỏ lại ngôi nhà củ nát vì không có người đàn ông chăm sóc. Lúc này tôi đang rảnh rang nên tình nguyện giúp chị sửa sang lại căn nhà của chị được thừa hưỡng. Mỗi ngày, trước khi chị ra sạp vải, chị hay hỏi tôi cần mua vật dụng gì để chị gọi người đem tới, tôi khỏi phải mua. Sau ba tháng hè, tôi cũng tạm sửa lại căn nhà của chị, tuy không khéo nhưng cũng không dột trước hỏng sau.

Khi cuộc chiến càng ngày càng khốc liệt, tôi bị động viên, vào trường Bộ Binh Thủ Đức. Ngày ra trường về thăm ba má thì gặp lại chị Nguyệt. Lúc nầy chị đã là gái đôi mươi, có rất nhiều chàng trai đang theo đuổi nhưng chị vẫn phòng không gối chiếc. Nhiều lần chị tâm sự với má tôi:

– Con trai cái Quận nầy sao mà như công tử bột, tối ngày chỉ biết lo tán gái, nhậu nhẹt, nhìn như cọng bún thiu cô nào vô phước mới rước họ về làm chồng.

Hai tuần phép qua rất nhanh. Ngày tôi chuẩn bị trình diện Sư Đoàn, chị đem tượng Phật nhỏ qua đưa cho tôi, bảo giữ trong người làm vật hộ thân. Hai mắt chị long lanh nước mắt như muốn khóc. Tôi vội nói:

– Vài bửa có phép thường niên tôi về thăm chị. Chị ráng giữ gìn sức khoẻ.

– Bình đi mạnh giỏi, Nguyệt mỗi đêm sẽ đọc kinh cầu xin Trời Phật che chở cho Bình.

Tôi hơi giật mình khi chị xưng Nguyệt chứ không còn mầy tao như ngày xưa. Thật sự mà nói, lúc nào tôi cũng vẫn xem chị như người thân trong gia đình, không có một chút tình cảm trai gái giửa tôi và chị.

– Cảm ơn chị lo lắng cho tôi.

Tôi ra đi biền biệt. Hơn mười tháng sau tôi trở về thăm nhà sau khi xuất viện do bị thương chân phải. Đêm đầu tiên vừa về tới nhà là chị qua thăm, hỏi như muốn khóc:

– Sao Bình bị thương mà không cho Nguyệt hay để đi thăm?

– Vết thương không có gì trầm trọng lắm đâu chị, vả lại tôi không muốn chị lo lắng, lặn lội đường xá xa xôi nguy hiểm cho chị.

– Bình nói vậy coi Nguyệt như người dưng sao?

– Đâu phải vậy chị, tôi thương chị như người thân trong nhà mà.

– Ừ nhớ đó nhe, thương như người thân trong nhà.

Trong những ngày phép dưỡng thương đó nhiều khi chị làm bộ gọi tôi qua sửa dùm cây đèn dầu hay đóng lại chân bàn bị lung lay. Chị nấu đủ món cho tôi ăn, bảo là tẩm bổ để khi trở lại đơn vị có đũ sức đi hành quân. Có ngày chị đóng cửa sạp vải, lấy cớ mệt về nhà nghỉ. Chị bảo muốn về để gần gủi, tâm sự với tôi trước khi về đơn vị. Không biết ba má tôi nghỉ gì mà cứ thỉnh thoảng hỏi khi nào tôi lập gia đình. Tôi viện cớ đang thời chiến tranh chưa muốn lập gia đình.

Lần lượt hai đứa em gái tôi lấy chồng phương xa, bỏ lại ba má tôi già yếu. Tôi thì ra đi biền biệt, cả năm mới về thăm nhà. Mỗi lần về chỉ năm ba hôm rồi lại ra đi. Chị Nguyệt thường xuyên qua chăm sóc ba má tôi va chị vẫn phòng không đơn chiếc!. Có lần tôi hỏi:

– Sao chị chưa chịu lấy chồng để có người lo lắng trước sau cho chị?

– Bình nhìn chung quanh đây xem ai là người xứng đáng cho Nguyệt nâng khăn sửa túi? Nguyệt thà ở giá suốt đời chứ không muốn chung chăn với những người hèn nhát, chạy chọt giấy tờ trốn quân dịch.

– Vậy thì người đàn ông như thế nào chị mới chịu?

– Người ấy phải giống như Bình, sống đời trai hiên ngang lo giúp nước, diệt giặc, bảo vệ quê hương.

– Vậy để tôi tìm ông nào trong đơn vị giới thiệu cho chị nhe.

– Đồ quỉ, đùng có chọc Nguyệt như vậy nữa, Nguyệt nói thiệt mà.

Cuộc đời cứ thế trôi đi. Ngày 30 tháng 4/1975. Tôi bị bắt rồi đi tù trại cải tạo Vườn Đào. Năm sau chị đến thăm tôi. Chị cho biết hai đứa em gái theo chồng vượt biên không tin tức gì cho đến nay. Ba má tôi quá đau buồn bịnh nặng không đi thăm tôi được nên nhờ chị đi dùm. Chị còn kể là sạp vải của chị đã bị xung vào hợp tác xã. Bây giờ chỉ sống nhờ chăm sóc khu vườn nhỏ của ba má tôi, kiếm huê lợi nuôi sống ba má tôi và chị. Nhìn chị già đi khá nhiều so với ngày xưa. Mắt chị quầng đen, hốc hác, tiều tụy. Tôi cũng không hơn gì chị sau một năm tù đày, lao động, thiếu ăn.

Ba má tôi lần lượt qua đời không có một đứa con về để tang. Chị phải bán ngôi nhà của chị để có tiền chôn cất ba má tôi. Đều dặn mỗi ba tháng là chị đến thăm một lần, tiếp tế cho tôi thêm chút thức ăn phụ vào phần ăn ít ỏi của người lính tù thất trận. Bốn năm sau thì họ thả tôi. Ngày ra trại với vài chục đồng chi phí xe cộ và mảnh giấy ra trại. Tôi với năm người bạn tù đi bộ ra đến chợ Mỹ Phước Tây đón xe ra Cai Lậy. Mấy bà bán hàng trong chợ nhìn chúng tôi trong bộ quần áo rách bươm liền gọi:

– Mấy cậu vô đây ăn sáng rồi hãy đi, 2 tiếng nữa xe mới chạy.

Họ đem cho chúng tôi 6 dỉa cơm sườn bì và sáu ly cà phê đen đá. Đó là bửa cơm ngon nhất trong bốn năm đời tù cãi tạo của tôi. Mọi người chung quanh bu nhau kẻ cho trái bắp, người cho gói xôi bảo là để dành đi đường ăn đở đói. Chúng tôi nhìn họ mà nước mắt cứ tuôn tràn không nói nên lời, dù chỉ một tiếng cám ơn. Khi đến giờ xe chạy, người tài xế xe nhất định không lấy tiền cho dù chúng tôi cố dúi tiền vào tay anh. Tôi nhớ lại tên quản giáo Ba Phần lên lớp chúng tôi:

– Các anh có tội rất lớn với nhân dân. Chúng tôi giữ các anh trong vòng rào kẻm gai là để bảo vệ các anh vì nhân dân sẽ trả thù cho những tội ác các anh đã gây ra.

Nhân dân chợ Mỹ Phước Tây đã trả thù chúng tôi với những lời thăm hỏi ân cần, dĩa cơm sườn, ly cà phê đá, những gói xôi, những trái bắp mà họ có thể để dành cho người thân của họ trong lúc cả nước phải thắt lưng buột bụng trong thời kỳ bao cấp, củi quế gạo châu này.

Khi xe đến Cai Lậy thì khoảng 2 giờ chiều. Năm người bạn tù chờ xe về Sài Gòn, còn tôi về miền Tây. Anh lơ xe chạy ra ngã ba Cai Lậy ngoắc xe lại gởi tôi lên chuyến xe cuối cùng. Trước khi lên xe, anh đưa cho tôi một ổ bánh mì thịt rồi chào tay kiểu quân đội. Như cái máy, tôi chào lại vì theo phản ứng tự nhiên của một người lính Việt Nam Cộng Hoà dù đã thất trận. Anh nói vội rồi chạy vào trong chợ Cai Lậy:

– Ông thầy đi đường bình an.

Tôi nhìn theo anh lơ xe, cố nhớ gương mặt anh để khi nào có dịp tôi sẽ trả lại ơn nghĩa anh đã dành cho chúng tôi. Một lần nữa, anh tài xế nhất định không chịu lấy tiền xe. Mấy người đàn bà trên xe nhìn tôi với ánh mắt thông cảm. Họ nhường cho tôi một chổ ngồi hàng ghế cuối xe.Tôi về đến nhà khoảng 8 giờ tối. Ngôi nhà cũ kỷ cửa đóng im lìm. Tôi gõ cửa.

– Ai mà gõ cửa đêm hôm tối tăm vậy?

Tiếng chị Nguyệt đang ngáy ngủ từ bên trong.

– Bình đây chị.

Tôi nghe tiếng chân trần chạy hấp tấp ra cửa. Chị Nguyệt mở cửa rồi ôm lấy tôi khóc:

– Nguyệt không biết Bình về hôm nay. Có đói không để Nguyệt hâm cơm lại cho Bình ăn?

– Trên đường về tôi được người ta cho ăn nhiều lắm, đến giờ còn no.

Tôi đến trước bàn thờ ba má, quì lạy xin lỗi tội bất hiếu không về chịu tang ngày hai người mất. Tôi nhìn khói nhang quyện vòng theo cây đèn dầu le lói như ba má về thăm thằng con xấu số mới ra tù. Tôi quì trước bàn thờ mà nước mắt cứ tuôn tràn.

– Ba má tha tội cho con, vì hoàn cảnh tù đày mà con không về để tang cho ba má.

Chị đặt tay lên vai tôi:

– Hai bác rất hiểu cho Bình, đừng quá đau buồn, hãy ráng lên để đối đầu với những ngày sắp tới.

Và những ngày sắp tới đến với tôi trong khổ cực của “thằng sĩ quan Ngụy”. Họ bắt tôi trình diện hàng tuần, không được đi xa khỏi Xã. Tất cả những hành vi của tôi đều bị theo dõi. Đôi khi bọn công an xã đến gõ cửa ban đêm để kiểm tra, xét nhà và muốn biết chắc chắn là có tôi trong nhà. Tôi sống như người bị giam lỏng trong nhà tù lớn.

Tôi nhìn chị chăm sóc cho tôi từng miếng ăn, giấc ngủ như một người vợ lo cho chồng mà nghĩ đến cái vô tình của tôi.

– Chị Nguyệt.

– Gì đó Bình?

– Tôi muốn hỏi chị chuyện nầy.

– Ừ, Bình nói đi.

Ngập ngừng một hồi tôi nói:

– Chị nhớ lúc mới quen, chị bảo tôi phải gọi chị hay không?

– Nhớ chớ sao không. Những ngày vui đó qua mau quá.

– Chị còn muốn tôi gọi chị nữa hay không?

– Vậy Bình muốn gọi tôi gì đây?

– Tôi gọi chị là vợ tôi được không?

Chị Nguyệt nhìn tôi với ánh mắt rất ngạc nhiên rồi đổi sang mừng rỡ:

– Em chờ câu nói đó của anh lâu lắm rồi.

Hai tháng sau chúng tôi làm đám cưới. Tiệc cưới rất đơn giản, chỉ mời bà con lối xóm. Hai năm sau Nguyệt cho tôi đứa con trai đầu lòng. Tôi đặt tên Nhẩn để nói lên cái nhẩn nại của chị dành cho tôi. Năm sau nữa thì chị cho tôi thêm đứa con gái, chị đặt tên nó là Cam để nói đến cái cam khổ của vợ chồng chúng tôi.

Một hôm đầu năm 1990, chị chạy hớt hãi về nhà:

– Anh ơi! Họ muốn cho mình đi định cư bên Mỹ.

– Em lại mơ tưởng viễn vong. Ai lại cho thằng sĩ quan Ngụy như anh đi khỏi Việt Nam.

– Đây nè, coi đi.

Chị đưa cho tôi xem tờ báo cho biết Bộ Ngoại Giao và Quốc Hội Mỹ chấp thuận cho tù nhân chính trị được đi định cư tại Mỹ ký ngày 30/7/1989. Lòng vòng lo nạp đơn, lót tiền cho phía VN ký giấy cũng hơn hai năm. Tôi bốc mộ đem xương cốt ba má thiêu rồi đem gởi vô chùa vì tôi biết là sẽ lâu lắm mới trở lại quê hương nầy. Tuy đã nuôi tôi lớn lên, tuy nhiều người vẫn còn tình người sẳn sàng đùm bọc che chở người thất trận. Nhưng tôi phải ra đi để con tôi có tương lai hơn, có nhiều cơ hội để vươn lên với đời hơn, để khỏi sống kiếp sống tật nguyền! nơi quê cha đất tổ.

Bao nhiêu tiền chúng tôi dành dụm đều cạn sạch. Ngày gia đình tôi lên máy bay đi Mỹ, trong túi còn đủ 200 đô la sau khi bán nhà, bán đất của cha mẹ để lại. Đáp xuống phi trường JFK thành phố New York. Cả gia đình hai đứa em gái tôi có mặt đầy đủ đón gia đình tôi. Ba anh em chúng tôi ôm nhau khóc sau hơn 17 năm xa cách. Mấy đêm đầu tiên tôi không ngủ được, vừa lạ chổ, vừa lo lắng cho tương lai sắp đến. Mình phải làm gì lo cho gia đình, cho con cái đi học, và đủ mọi chuyện cứ liên tục hiện lên trong đầu. Từ quê hương bỏ lại sau lưng, từ quê hương thứ hai sẳn sàng bao dung cho người lính thất trận.

26 năm sau, nhìn lại từ ngày đến đất nước Mỹ giàu lòng nhân đạo nầy, hai đứa con tôi đã ra trường đi làm xa. Vợ chồng tôi nghĩ hưu dời về vùng đất ấm Florida. Chị Nguyệt nay đã gần 70 nhưng vẫn còn nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam luôn lo cho chồng, cho con. Sáng nào tôi cũng có ly cả phê sữa nóng ít sữa, còn chị thì vẫn một ly trà cúc đường phèn. Nhiều lần tôi nói lời cảm ơn chị đã cưu mang ba má tôi khi tôi còn trong tù cải tạo. Chị chỉ cười đưa hàm răng khểnh rồi nói:

– Em kết anh từ lúc mình mới gặp nhau lần đầu.

– Vậy tại sao bắt người ta kêu bằng chị?

– Làm chị cho nó oai chút chơi mà…

– Lúc nào em cũng là CHỊ NgUYỆT của anh.

Ghi lại

Trần Khắc Tường


 

QUÝ NHÂN CỦA BẠN…Truyện ngắn HAY

 Công Tú Nguyễn –  Chuyện tuổi Xế Chiều

Tôi là một cô gái nhà nghèo ngoài 20 tuổi. Cha tôi mất từ khi tôi còn rất nhỏ. Vì để có tiền nuôi mẹ bị bệnh nặng và nuôi em trai đang học đại học, mỗi ngày tôi đều kéo chiếc xe ba gác ra đường lớn để bày quầy hàng ăn.

Những ngày làm ăn tốt, tôi cũng kiếm được đủ số tiền cho cả gia đình sinh sống trong một tuần. Nhưng vào những ngày mưa gió hay những ngày có nhân viên trật tự đô thị đi tuần tra thì hàng của tôi đều bị ế rất nhiều.

Thế rồi, có một người con trai hơn tôi độ mấy tuổi thường xuyên tới quán của tôi ăn mì. Anh ta luôn là gọi bát mì thịt băm có giá rẻ nhất. Trong lúc ăn, cũng là ngẫu nhiên trò chuyện bâng quơ cùng với tôi đôi ba câu. Nhưng phần lớn những câu anh ta hỏi tôi đều là:

“Em làm ăn có tốt không? Thu nhập có đủ sinh sống không?”

Anh ta ăn mặc rất bình thường, đi bộ nên tôi đã mặc định trong đầu mình rằng: “Đây chắc hẳn là một anh chàng rất nghèo, thậm chí lười biếng, không muốn động tay nấu cơm nên thường ra quán vỉa hè của mình ăn!”

Mối quan hệ giữa tôi và anh ta cứ trôi qua bình thường như vậy trong một khoảng thời gian khá dài. Mãi cho đến một hôm, bất chợt anh ta hỏi tôi với một giọng ngập ngừng và bối rối: “Em đã …có bạn trai …hay chưa?”

Tôi trả lời rất thật: “Em nghèo như thế này, trong nhà lại còn có mẹ già bị bệnh nặng, em trai đang đi học thì ai mà dám kết bạn ạ?”

Tôi vừa dứt lời thì anh ta thuận miệng nói: “Anh dám…”

Hai chúng tôi đều sửng sốt và ngượng ngùng một lát. Tôi không dám đồng ý làm bạn gái của anh ta nhưng kể từ sau hôm đó, cứ đúng 6 giờ là anh ta xuất hiện ở quán của tôi, giúp đỡ tôi các việc.

Đến ngày 7/7/2013, mãi không thấy anh ta tới, trong lòng tôi có chút hoang mang và buồn buồn nghĩ ngợi:“Anh ấy chắc là đã quên lời ước hẹn kia rồi!”

Nhưng không ngờ, đến 8 giờ tối hôm đó, anh lại xuất hiện trước mặt tôi cùng với một bó hoa tươi rất đẹp rồi nói lời tỏ tình. Cứ đơn giản như vậy, hai chúng tôi mỗi ngày đều gặp mặt và ở bên nhau.

Cũng nhiều lần, anh ấy muốn dẫn tôi về nhà gặp cha mẹ nhưng tôi luôn thấy rất áp lực nên một mực nghĩ ra lý do để từ chối. Mãi đến tháng 4/2014, lúc ấy sức khỏe của mẹ tôi đã khá hơn rất nhiều, tôi mới đồng ý đến thăm gia đình anh ấy.

Vừa đến cổng nhà anh, tôi thực sự bị kinh ngạc, không ngờ, ngôi nhà mà anh ấy ở là một căn biệt thự rộng lớn cùng một khu vườn xanh mát…

Ngay lúc này, một ý nghĩ lại nảy sinh trong đầu tôi: “Mình phải về ngay, mình đâu có xứng đáng còn bố mẹ anh ấy biết nhà mình nghèo thì sao…?”

Mọi ý nghĩ cứ đột nhiên xuất hiện trong đầu tôi, ý nghĩ này đan xen ý nghĩ kia khiến tôi rất khó khăn và không biết phải quyết định ra sao.

Dường như anh ấy đoán được những điều này qua nét mặt lo lắng của tôi, nên anh cầm tay tôi và nói: “Hãy tin tưởng anh!”

Điều khiến tôi không ngờ là ngay từ lúc tôi bước chân vào cửa gặp cha mẹ anh, họ rất nhiệt tình đón tiếp tôi, quan tâm đến tôi khiến tôi mất hết cảm giác mặc cảm tự ti ban đầu.

Lúc này anh mới kể: “Cách đây gần hai năm, cha anh bị bệnh lẫn tuổi già, có lúc tỉnh táo, có lúc lại rất lú lẫn. Một lần, ông đi ra ngoài dạo rồi không nhớ được đường về. Trời cũng đã muộn, ông lại đói bụng nên đã vào quán của em rồi giành ngay một bát mì của một người khách đang ăn để ăn.

Cha anh kể rằng, lúc ấy em đã không những không mắng đuổi ông đi mà còn bê một bát mì khác đưa cho ông ăn. Cho đến lúc em dọn quán, cha anh vẫn chưa rời đi, lúc ấy em đã biết cha của anh bị lạc đường và em đã đưa ông đến đồn công an nhờ họ tìm nhà giúp.”

Nghe xong những lời anh ấy kể, mọi chuyện của ngày hôm đó cũng như hiện ra trước mắt tôi, một ông lão đáng thương, vừa đói vừa ngơ ngác…

Tôi không ngờ, một việc làm rất bình thường này lại trở thành một bước ngoặt trong cuộc đời chúng tôi.

Sau này, khi chúng tôi đã trở thành vợ chồng rồi, anh ấy mới tiết lộ thêm rằng: “Ban đầu anh đến quán của em chỉ là muốn cho em một chút tiền và nói lời cảm ơn. Nhưng sau này lại thấy em nấu mì càng ngày càng ngon nên …”

Một năm sau, nhờ sự giúp đỡ của chồng, tôi đã có một nhà hàng nho nhỏ. Sau tất cả những gì đã trải qua và nhận được tôi đã hiểu ra rằng: Cho dù khó khăn thế nào, hãy cố gắng sống, chắc chắn Thượng đế sẽ không bỏ rơi những người cố gắng. Đừng vì khó khăn trước mắt mà buông bỏ chính mình, vứt bỏ tương lai, chỉ cần cố gắng thì ánh sáng mặt trời sẽ chiếu rọi.

Tình yêu chân thật có thể gặp nhưng không thể cầu, hãy quý trọng người hiện tại ở bên bạn. Cho dù bạn đã từng bị cuộc sống làm tổn thương bao nhiêu đi nữa, chắc chắn sẽ có một người xuất hiện và xóa đi mọi đau đớn trong lòng bạn.

Người phụ nữ lương thiện nhất định sẽ có số mệnh tốt. Nếu như bạn đưa tay ra giúp đỡ người khác, thời khắc ấy bạn đã là quý nhân của họ. Rồi một ngày nào đó, cũng sẽ có người đưa tay ra giúp đỡ và làm quý nhân của bạn. Hãy biết cho đi thì cuộc đời của bạn mới có những điều tốt đẹp được người khác trả lại!


 

Ai thắng, ai thua? – Ngân Bình- Truyện ngắn HAY

Ngân Bình

Nàng mở cửa bước ra vườn, mắt lướt nhẹ trên từng vạt nắng đang trải dài trên tàn lá sum suê, trên những cánh hoa sắc màu óng ả giữa âm thanh leng keng, rộn rã từ chiếc phong linh đang treo trên chiếc thang cong cong dựa lưng vào hàng rào cho các dây hoa leo vươn mình tìm sự sống. Tất cả những thứ ấy là niềm vui, là sự bình an mà Nàng vẫn hằng thưởng thức mỗi khi được đặt chân đến ngôi nhà tráng lệ của chị Ngân. Thế nhưng sáng hôm nay, với tâm trạng hoang mang, buồn bã Nàng thả người xuống chiếc ghế đá lạnh lẽo khi bật điện thoại lên để tìm một tin nhắn mà Nàng đang trông ngóng nhưng không có. Nỗi buồn đang nặng trĩu trong lòng như chợt bừng lên. Nàng tự trấn tĩnh bằng cách lang thang trên trang mạng và rồi một hàng chữ đập vào mắt.

“Sau cuộc cãi vã, vợ bỏ nhà đi hơn một tháng. Tôi quyết định Ly hôn.

Việc này đã xảy ra rất nhiều lần, nhưng thật sự lần này quá sức chịu đựng của tôi. Cô ấy là vợ nhưng muốn nắm hết mọi chuyện trong gia đình, muốn tôi lúc nào cũng phải phục tùng và khi không đạt được mục đích thì đùng đùng nổi giận, bỏ nhà đi. Sau hàng chục lần chịu đựng, năn nỉ, ỉ ôi lần này tôi cảm thấy chán nản, bực bội và tự nhủ mình không cần đón cô ấy về nhà nữa mà sẽ làm đơn ly hôn.

Với quyết định mới này tôi cảm thấy tâm hồn vô cùng thoải mái với ý nghĩ mình sẽ lập ra một kế hoạch mới để cuộc sống được tự do, vui vẻ và có ý nghĩa hơn. Tôi sẽ không mất nhiều thời gian, tâm trí vì những lục đục không đáng có trong gia đình mà sẽ siêng năng rèn luyện sức khỏe, trau dồi thêm kiến thức để tiến bộ và có cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp.

Tôi đúng hay tôi sai? Khó có thể có câu trả lời ngay lúc này nhưng điều tôi cảm nhận được là sự nhẹ nhõm, thư thái. Cái cảm giác mà rất lâu rồi tôi chưa bao giờ có được. Chỉ vài tháng đầu của cuộc hôn nhân là tôi cảm nhận được niềm hạnh phúc qua không khí đầm ấm, vui vẻ trong gia đình nhưng sau đó thì hầu như lúc nào cũng phải đối đầu với những mâu thuẫn, những bất đồng khiến tôi cảm thấy ngột ngạt…”.

Những dòng tâm sự của người đàn ông này khiến Nàng cảm thấy lòng mình như có chút rúng động nhưng những lời bình luận của cộng đồng mạng làm Nàng cảm thấy lo lắng hơn.

Anh Bá Xóm Đạo: Hễ cãi nhau là bỏ đi vài tháng, rồi lại trở về. Vợ anh coi cái nhà là quán trọ chắc. Vợ chồng nào cũng vậy, dù hạnh phúc thế mấy cũng không tránh được có lúc mâu thuẫn, có lúc cãi nhau. Nhưng tốt nhất là nên ngồi lại tìm cách giải quyết chứ bỏ nhà đi không phải cách. Tôi ủng hộ quyết định của anh. Hãy mạnh mẽ, dũng cảm để tiễn “người ấy” lên đường. Chúc anh luôn an bình, vui vẻ.

T.N.N: Vợ chồng tôi cưới nhau hơn 10 năm. Có một lần cãi nhau, vợ lớn tiếng mắng mỏ tôi. Không dằn được tức giận, tôi tát vợ. Ngay tức thì vợ tôi ra ngoài, định lấy xe nhưng tôi khóa cổng rào không cho cô ấy đi. Đêm đó, tôi trăn trở với bao suy nghĩ trong đầu. Sáng sớm hôm sau, tôi mở cửa sẵn và nói, nếu em đi thì hãy tự trở về, anh sẽ không tìm và đón em. Tôi ngồi chờ suốt ngày nhưng chờ mãi vợ tôi vẫn không ra khỏi phòng. Từ đó, vợ tôi không lặp lại hành động đó và tôi cũng không bao giờ dùng vũ lực với vợ. Sau sự xung đột này vợ chồng tôi hiểu nhau và hòa thuận với nhau hơn. Tôi nghĩ, nếu ngày ấy vợ tôi quyết định bỏ đi thì chắc gì chúng tôi được vui vẻ, hạnh phúc bên nhau như bây giờ. Tôi xin có lời khuyên, bà nào cô nào có ý định bỏ đi khi vợ chồng cãi nhau hãy nghĩ đến hậu quả trước khi rời khỏi nhà. Bởi vì không phải ông chồng nào cũng hiền lành và có đủ kiên nhẫn để chịu “lép vế” mãi đâu.

Cúc Đỗ: Là phụ nữ nhưng tôi cũng phải nhìn nhận một người vợ cứ cãi nhau là bỏ đi là không đúng. Cãi nhau là để hiểu nhau hơn và xây dựng gia đình tốt hơn chứ không phải để thắng, để thua…

Có tiếng gõ cửa dồn dập, Nàng xỏ chân vào dép, chưa kịp đứng lên thì cánh cửa đã bật mở, chị Ngân bước vào nhăn mặt hỏi:

– Em viết cái gì trên “facebook” đây. Em bao nhiêu tuổi rồi mà hành xử như một đứa con nít lên 3 vậy?

Nàng còn đang lúng túng thì chị thảy chiếc điện thoại lên bàn:

– Thiệt tình… chuyện vợ chồng bất hòa mà đem ra kể lể cho bàn dân thiên hạ biết hết. Đã vậy, nhỏ bạn nào của em còn xúi giục “buông tay đi rồi thưởng thức cuộc sống độc thân cho thoải mái, có chồng như đeo gông vào cổ, chồng của tao mà như thế thì tao cho lên đường lâu rồi”. Hãy nghĩ xem, nếu Thắng đọc những dòng chữ này thì hậu quả sẽ ra sao? Em có biết, chuyện em giãi bày tâm sự một cách chủ quan và công khai như thế có khác nào đổ dầu vào lửa, chẳng những không thể hàn gắn mà tệ hại hơn là sẽ đưa đến chuyện ly hôn. Em có muốn điều đó xảy ra không?

Hai bàn tay xoắn vào nhau, Nàng nói như muốn khóc:

– Không, chưa bao giờ em có ý định đó. Chỉ là…

– Chỉ là em muốn làm mình, làm mẩy với Thắng à? rồi kết quả thế nào? Thắng đã gọi, năn nỉ em mấy lần rồi?

Nàng lắc đầu, giọng ngập ngừng:

– Mấy ngày trước anh ấy gọi mà em không bắt máy. Nhưng cả tuần nay anh ấy không ….

– Vậy nếu Thắng không năn nỉ, không đến đây chầu chực để đón em về thì em tính sao?

Chị Ngân lắc đầu trong tiếng thở:

– Từ lúc chị em mình chưa lập gia đình, mẹ vẫn luôn dạy bảo, sau này có chồng dù giận hờn cách mấy cũng đừng nên bỏ nhà đi, mà nếu đã đi rồi cũng đừng bao giờ tự vác mặt trở về nhà để tự đánh mất giá trị của mình và bị chồng coi thường.

Nước mắt Nàng bắt đầu tuôn khi câu nói của chị Ngân vừa chạm vào nỗi lo âu đang chất chứa trong lòng. Nàng đã bắt đầu nhớ Thắng. Nhớ những giờ phút êm đềm, nhớ những bữa cơm vui vẻ, nhớ những buổi tối đắm mình trong tiếng đàn guitar réo rắt và giọng hát trầm ấm của chồng. Nàng nôn nóng, mong chờ tiếng chuông điện thoại, và câu nói dịu dàng “Em hết giận anh chưa?” để được trở về nhà, nằm trên chiếc giường quen thuộc với chăn gối ấm áp và vòng tay yêu thương của chồng. Thật sự Nàng chỉ muốn hù dọa, muốn thử thách tình yêu của Thắng, muốn chồng xuống nước để thỏa giận, chứ trong thâm tâm Nàng nào dám nghĩ đến việc ly hôn.

– Chuyện em bỏ đi mỗi khi giận chồng làm chị ớn tận cổ huống chi là Thắng. Em quá trớn rồi thì không ai cứu nổi em đâu. Thắng tuy hiền lành nhưng không phải là người nhu nhược, em đừng tưởng…

Ngay lúc ấy anh Hưng xô cửa bước vào:

– Thôi đi Ngân. Oanh đã buồn em không an ủi thì thôi lại còn la rày, tội nó.

– Em nói sai à?

Anh Hưng chưa kịp lên tiếng chị đã tiếp lời:

– Là một người đàn ông, một người đang làm chồng anh thử nói một lời công đạo xem.

– Ừ thì… khi bị vợ “bêu xấu” người chồng sẽ giận, sẽ buồn vì cảm thấy xấu hổ và mất mặt.

– Bởi thế, em muốn Oanh sáng mắt ra. Có chồng tốt mà không biết giữ, mai mốt mất đừng tiếc. Anh thấy không, mấy lần trước chỉ một ngày sau là Thắng đã sang đây năn nỉ, ỉ ôi để con bé này mặc sức vặn mình, vặn mẩy làm cao. Còn kỳ này thì sao? Một tuần rồi… Thắng chẳng thèm gọi hỏi thăm chứ đừng nói là sang đây đón về.

– Thì từ từ… biết đâu vài hôm nữa.

Liếc sang Nàng, chị Ngân cao giọng:

– Đừng mơ, thái độ của Thắng cho thấy nó đã chán ngấy cái cảnh này rồi.

Em liệu mà tự xách gói về nhà đi nếu không muốn dẫn nhau ra tòa ly hôn.

Anh Hưng nạt ngang:

– Đừng có nói bậy.

– Bậy mà có khi xảy ra thật đó.

Tiếng khóc của Nàng bật ra làm chị thấy nao lòng nhưng lại nghĩ “phải có thuốc đắng thì mới đã tật” nên giữ nguyên vẻ hậm hực. Anh Hưng lắc đầu, khoát tay ra dấu chị hãy ra ngoài.

Chị Ngân xuống phòng ăn, bấm điện thoại. Bên kia đầu dây Thắng nôn nóng:

– Vợ em đã chịu về nhà chưa chị?

– Muốn lắm rồi nhưng còn tự ái, sợ quê. Cô nàng đang khóc hu hu trong phòng kìa.

– Thôi để em qua đón…

Chị Ngân vội vàng ngăn lại:

– Không, phải làm đúng những gì chị em mình đã bàn tính với nhau. Chị cám ơn em đã rất thương Oanh và rất bao dung, nhưng em cần phải phải cứng rắn, quyết liệt để Oanh tự trở về thì lần sau nó không dám bỏ đi nữa.

– Nhưng lỡ… vợ em không về thì sao?

Chị Ngân suýt bật cười. Thương người em rể hiền lành, nhẫn nhịn nhưng chị quyết phải làm cho cô em gái nhận ra cách xử sự của mình là sai và sẽ đem đến hậu quả nghiêm trọng nếu không sửa đổi.

o O o

Chị Ngân đạp thắng xe rồi quay sang Nàng:

– Em tự vào nhà đi.

Bằng ánh mắt van lơn Nàng nói như muốn khóc:

– Chị vào với em nha.

– Ủa! lúc bỏ đi hùng hổ lắm sao bây giờ lại ỉu xìu thế kia.

Nhìn những giọt nước mắt rơm rớm trên đôi mắt buồn xo chị Ngân thấy nao lòng nên đưa tay vuốt tóc Nàng, cười hiền lành rồi kéo chiếc vali bước lên thềm nhà, đưa tay bấm chuông. Cánh cửa bật mở, Thắng hiện ra với nụ cười hớn hở. Chị lùi lại nhìn Thắng với cái nhíu mày, Thắng cười bẽn lẽn khi chợt nhớ mình đã quên mất lời căn dặn của chị Ngân “phải xuất hiện trước mặt Oanh với khuôn mặt lạnh lùng, càng ngầu càng tốt”. Thắng mím môi, gãi đầu cười bẽn lẽn. Chị nhìn Nàng rồi nói như ra lệnh:

– Em nghĩ… mình nên nói gì với Thắng không?

Nàng cúi đầu, ngượng ngùng trong câu xin lỗi vừa thoát ra cửa miệng một cách khó khăn. Thắng đón chiếc vali từ tay chị Ngân, vui vẻ:

– Không sao, em về là anh mừng rồi.

Chị Ngân lắc đầu chịu thua cậu em rể quá tử tế, quá dễ thương. Trước khi trở ra xe, chị nắm tay Thắng và Nàng nhẹ nhàng nhắc nhở:

– Chị nhớ, một nhà văn đã viết rằng “Mọi sự hơn thua trong tình yêu đều không mang lại bền vững nào hết. Chúng ta hơn nhau cái này hay cái kia sao bằng chúng ta để tình yêu của mình hôm nay hơn tình yêu của mình hôm qua (*). Cám ơn Thắng đã mở rộng vòng tay và chị tin rằng Oanh sẽ chín chắn hơn trong suy nghĩ và cách hành xử để gia đình luôn vui vẻ, hạnh phúc.

Ngân Bình

(*) Hoàng Anh Tú

From: Tu-Phung

 CHỒNG ĐIÊN – Truyện ngắn HAY

Kimtrong Lam

Đó là đêm mưa bão , chị bị sốt , anh chạy ngược chạy xuôi lo cho chị . Nửa đêm, nhắm tình hình không ổn, mặc trời mưa gió, anh bế chị vào viện. Vừa chạy vừa kêu tên chị mãi , không có tiền , vay mượn mãi chỉ đủ cho chỉ nằm trong một ngày . Sáng hôm sau anh phải đi bán máu để có tiền mua thuốc cho chị. Những ngày chị bệnh , anh phải một tay kiếm tiền , một tay nấu cháo , thuốc thang cho chị. Để có tiền anh phải làm việc nhiều hơn trong tình trạng mệt mỏi vì thức khuya dậy sớm và cũng vì bán máu. Ngày chị lành bệnh , cũng là ngày anh ngục ngã.

Anh bị ngã xe trên đường về vì hoa mắt…………..

Tai nạn đó không lấy đi sinh mệnh của anh nhưng lấy đi của chị rất nhiều nước mắt khi anh trở thành một đứa trẻ lên ba.

Tức là không biết gì cả , thích cười thích khóc, không hiểu mình đang nghĩ gì . Nghe tin anh bệnh như thế , cả nhà chị tìm mọi cách tác động tới chị để chị bỏ anh mà về sống với gia đình . Không nhẫn tâm bỏ anh lại một mình , chị bị gia đình từ bỏ . Không còn cách nào khác , chị đành cùng anh sống trong căn nhà lạnh lẽo.

Thương anh quá chị đành bán đi miếng đất sinh nhai của hai vợ chồng để lấy tiền chữa trị cho anh . Chạy hết bệnh viện này tới bệnh viện khác , bệnh anh vẫn không khỏi. Không còn cách nào khác , chị đành gửi anh vào bệnh viện tâm thần . Một tuần sau, nước mắt chị lại trào ra khi nhìn thấy anh đứng trước nhà gọi chị . Dù anh đang là đứa trẻ lên ba nhưng anh vẫn nhớ đường về nhà tìm chị.

Chị rụng rời chân tay ôm anh khóc không thôi…..

Chị thề với lòng sẽ không đưa anh đi đâu cả……

Chị siết lấy anh cứ như sợ anh lại biến mất……..

Vậy là từ đó, chị đi đâu anh ở đó. Anh ăn rất khỏe dáng người cao to. Nhìn đằng sau cứ như tràn trề sinh lực , nhưng chỉ khi nói chuyện với anh , mọi người mới vỡ lẽ. . Mỗi ngày sáng sáng anh lại gánh giỏ cá ra chợ cho chị bán, xong rồi lại đi lang thang. Đúng 11h anh lại đến gánh về cho chị . Anh hiền lành , thấy ai làm gì nặng cũng nhào vào giúp nên mọi người ở chợ rất thương . Họ vẫn thường cho anh bánh trái , ai khá hơn thì dúi cho chút tiền . Anh đều bỏ vào bọc, dành cho chị tất.

Mọi người đùa với anh gì anh cũng chỉ cười dạ dạ . Nhưng ai đó không biết lỡ lời gì tới chị là anh sẵn sàng cho người đó một cú đấm . Có lần, anh nổi cơn đánh một người bán sống bán chết chỉ vì người ấy khen chị xinh. Chỉ đến khi chị đến ôm anh anh mới thôi.

Ở cái chợ này , chả ai dám tranh chỗ bán với chị cả, vì mỗi lần có cãi nhau với chị hay là giành khách , anh cũng đều có mặt , đứng che chị lại, tay lăm lăm thanh gỗ sẵn sàng ăn thua với họ.

Ai cũng ngán ngại, họ bảo chấp chi thằng điên nên họ bỏ qua điều đó .

Từ ngày từ mặt chị, ba chị sinh tật uống rượu . Ngày càng nghiện , rồi ông mất. Được tin chị khóc ngất, thấy chị khóc anh cũng ôm chị vào lòng và khóc theo . Khóc song chị dẫn anh ra tiệm vàng bán sợi dây chuyền mà anh tặng khi quen cưới nhau. Thấy chị tháo sợi dây, anh giật lại . Anh biết chị rất thích nó nên không muốn cho chị bán.

Chị cười

Bán để cho má làm đám ma ba , sau này anh đi làm mua cho em cái khác lớn hơn , đẹp hơn. Anh mới chịu buông tay cười cười . Từ đó về sau anh chỉ đem cái bánh chai nước về cho chị chứ không thấy đưa chị tiền

Không biết tại vì không uống thuốc hay lý do gì mà dạo này anh lại có thêm bệnh động kinh . Mỗi lần lên cơn co giật lại sùi bọt mép . Hết cơn anh lại đập phá những ai đứng gần đó nhưng khi chi ôm anh vào lòng anh đều trở lại bình thường . Người ta khuyên chị cho anh vào viện. Bác sĩ bảo anh đã chuyển sang tâm thần nặng. Đưa vào khu cách ly . Chị lừa anh, bảo dẫn anh đi chơi. Đưa vào đó anh cứ khóc , ôm chần lấy chị mãi chị mới buông anh ra được.

Nước mắt chảy dòng , chị phải cố chạy thật nhanh để không nghe tiếng anh gọi.

Tháng nào chị cũng xuống thăm anh . Chẳng làm gì cả cứ nhìn anh , khóc đã đời rồi về . Anh cũng vậy gặp chị là đòi về . Nhiều lúc chị cũng muốn đưa anh về lắm nhưng không thể . Rồi một hôm , bệnh viện thông báo là anh mất , trong một lần lên cơn anh đã đập đầu vào tường mà chết.

Họ bảo trước lúc mất anh luôn miệng gọi tên chị.

Chị ngất lên ngất xuống .

Hôm làm thủ tục chôn cất anh . Chị được bệnh viện đưa túi đồ của anh, bên trong toàn là hình của chị . Dưới những bộ đồ có một cái hộp , trong đó có một sợi dây chuyền bạc, cùng tờ giấy ghi nguệch ngoạc tên chị.

Nước mắt chị chảy ròng.

Minh Thúy.


 

NẾU BẠN MẤT LÒNG TIN VÀO SỰ TỬ TẾ, HÃY ĐỌC HẾT BÀI NÀY

Maria Mai Tâm

Nhà tỷ phú Mỹ John Jacob Astor IV có mặt trên tàu “Titanic”, khi nó sắp chìm.

Tiền trong tài khoản ngân hàng của ông đủ để chế tạo 30 con tàu như “Titanic”. Tuy nhiên, đối mặt với cái chết, ông đã chọn điều mà ông cho là đúng đắn về mặt đạo đức, và nhường chỗ của mình trên chiếc thuyền cứu hộ cho hai đứa trẻ đang hoảng hốt.

Isidor Strauss, đồng sở hữu chuỗi cửa hàng bách hóa lớn nhất nước Mỹ Macy’s, người cũng có mặt trên tàu “Titanic”, nói:

“Tôi không bao giờ lên thuyền cứu hộ trước những người đàn ông khác”.

Vợ ông cũng từ chối lên thuyền, nhường chỗ cho cô giúp việc mới thuê. Bà quyết định sống những giây phút cuối đời bên chồng.

Những người giàu này thà mất đi tài sản, thậm chí mạng sống của mình, hơn là từ bỏ các nguyên tắc đạo đức.

Sự lựa chọn các giá trị đạo đức của họ đã thể hiện vẻ đẹp huy hoàng của nền văn minh nhân loại và bản chất con người.

Cho nên, dù cho có đến hàng tỉ kẻ bỉ ổi trên thế gian này, mình cũng vẫn phải tin rằng luôn tồn tại phép màu của sự tử tế. Hãy cứ bao dung và kiên nhẫn…

Từ Fb : Color Man


 

CHA TÔI – Truyện ngắn HAY

Xuyên Sơn

Năm ấy tôi lên mười thì mẹ tôi bỏ nhà theo người đàn ông khác.

Bà chê cha tôi nghèo và hèn làm mãi không khấm khá lên được.

Mẹ tôi te tái gói ghém rồi quảy quả xách túi quần áo ra đi.

Bước qua bậu cửa, đi qua cha tôi đang gục đầu xuống hai lòng bàn tay, 

mắt mẹ tôi cũng chẳng nỡ nhìn.

Bà đi những bước đi róng riết tức tối và cứ như là mỗi bước đi trút bớt một gánh nặng.

Mẹ tôi chỉ dừng lại cuối sân khi nghe tiếng tôi thét lên: “mẹ! Mẹ ơi!”

Bà dừng lại mươi giây, hình như lỡ một nhịp chân.

Bà không ngoảnh lại rồi săn sẻ bước tiếp.

Cha tôi thinh lặng, ông ôm chặt lấy tôi khi tôi nhào xuống sân định đuổi theo mẹ ra ngõ.

Cả người cha tôi rung lên bần bật theo từng tiếng nức nở của tôi.

Tết năm ấy mẹ tôi không về.

Chiều hăm chín Tết tôi chạy ngược triền đê, vừa chạy tôi vừa nức nở trong lòng hai tiếng:

“Mẹ, Mẹ ơi..”

gió bấc cắt vào má, vào tay tôi những làn sắc lạnh giá buốt.

Tôi cứ thế lớn lên trong sự thiếu vắng hơi mẹ.

Cha tôi là tất cả đối với tôi, tôi cũng là tất cả với ông ấy.

Người ta buồn thì hay uống rượu, chỉ cha tôi là không.

Ông nuốt những nỗi buồn đau tình phụ vào lòng bằng sự im lặng đến buốt giá.

Các bà hàng xóm hay thì thèo hỏi vào tai tôi:

“Mẹ có về không?

Cha buồn có uống rượu không?”

Lắm đêm tôi học bài chán chê, chui vào mùng ngủ đã đời tỉnh dậy vẫn thấy cửa hé mở, sân vắng đầy ánh trăng suông, cha tôi ngồi chết lặng như thế mặc cho sương rơi ướt bực thềm, trăng rơi đầy vai đầy tóc ông.

Tôi bật dậy nhào đến ôm chặt lấy thân hình gầy gò  lạnh cóng của cha tôi.

– Sao cha không uống rượu cho bớt buồn?

Sao cha buồn mà không chịu khóc?

Tôi vừa thổn thức, vừa đập tay như điên dại vào khuôn ngực của cha tôi.

Ông cứ vậy, chết lặng, im lìm tiếp tục để nuôi tôi sống.

* Cha tôi bảo con đừng trách mẹ.

Đàn bà khi khổ cực quá, khi đa đoan quá hoặc xinh đẹp quá trong lòng thường hay dậy sóng.

Có những con sóng mà chỉ trong những khoảnh khắc rất ngắn thôi nếu không đủ bản lĩnh và lý trí để trụ vững thì sẽ bị sóng vô hình đó cuốn đi xa bờ bến.

Nó đẩy cuộc đời sang những ngã rẽ bất ngờ đầy đau khổ.

Sau này tĩnh tâm hoặc đằm người đàn bà có hối tiếc nhưng muộn mất rồi.

Người làng bảo mẹ tôi lấy chồng ở Bến Bính, mẹ tôi rất đẹp nên lấy chồng giàu có lắm,  bà thường ngược xuôi trên những con đò nan khi thì bám mích tàu Tây buôn đồ ngoại, khi thì bán dầu bán nhu yếu phẩm cho các thuỷ thủ tàu Việt nam.

Cha làm mọi việc, làm quần quật để thoát nghèo và như để trút nỗi hận vào kiếp nghèo nàn do đó mà mẹ tôi phải bỏ cha con tôi.

Ông làm phu cát ở bến đò Vạn hoá, bốc gạch, đi đáy, phụ hồ làm tất tật những gì có thể để nuôi tôi.

Ngày ấy Thuỷ nguyên nối với nội thành Hải phòng bằng những chuyến phà chạy qua sông Cấm.

Tôi không nhớ mẹ, tôi ghét mẹ.

Ba bốn cái Tết bà bỏ đi mà chưa một lần từng trở lại thăm tôi.

Làng Lâm với bến Bính đâu xa.

Bác hàng xóm bảo chỉ cần tôi đi qua Hoa động, qua cầu Đen cứ đi thẳng tay phải là tới bến Bính.

Nơi ấy tôi có thể gặp mẹ!

Một buổi cha tôi đi làm cát rất sớm, tôi trở dậy cho lợn gà chó má ăn xong, bỗng tự nhiên tôi bần thần nhớ mẹ.

Trời mới vừa tang tảng sáng, lối đi còn ướt đẫm sương rơi, tôi chạy một mạch qua cổng làng chạy miết chạy miết theo lời bác hàng xóm…

Tôi ngơ ngác sợ hãi giữa dòng người và xe thồ hàng.

Chiếc phà cập bến, người xuống kẻ lên ngược ngược xuôi xuôi, bơ vơ và không định hướng, tôi đứng chết trân nép vào một mái quán bên đường.

Bến Bính với những mái nhà tạm lợp bằng giấy dầu và những khúc cây đè lên mái vì sợ gió bão thổi bay.

Những khuôn mặt người lạnh lùng vội vã.

Tôi thấy sợ hãi, tôi nhớ cha và nước mắt chảy dài, lòng cứ thì thầm gọi hai tiếng mẹ, mẹ ơi…  tôi đứng mãi đứng mãi chẳng thể nào biết đi về hướng nào để tìm thấy mẹ của mình.

Bóng nắng đã xế dưới chân tôi.

Một mình tôi lại lầm lũi trở về làng.

Sau lần ấy tôi không bao giờ đi tìm mẹ nữa.

Năm tôi học hết cấp ba, cây cầu Bính được khánh thành.

Một buổi trưa tháng năm tôi đạp xe về nhà sau buổi liên hoan.

Trên giỏ xe vẫn còn chùm phượng vĩ, vừa bước vào nhà thì tôi nhìn thấy cha tôi ngồi trên cánh phản giữa nhà, dưới sàn là bà mẹ của tôi, hơn mười năm tôi mới lại gặp lại, nhưng thoạt nhìn tôi nhận ra ngay.

Bà ấy khuỵ xuống giữa nhà nức nở khóc gọi tên cha, xin lỗi cha để bà gặp tôi lần cuối. ..

Rất nhiều năm sau cái chết của người đàn bà mà tôi gọi bằng mẹ, tôi vẫn nhớ như in lời bà ấy nói với cha tôi.

Bà ấy đã từng rất yêu cha, yêu tôi, nhưng Phía sau tình yêu còn có những cám dỗ, những thấp hèn, toan tính và cả rất nhiều thứ vụn vặt rất người.

Bà ấy đã không vượt qua được nên để đánh mất tình yêu và gia đình.

Mẹ tôi chết rất trẻ, năm ấy bà mới có bốn mấy tuổi vì căn bệnh ung thư.

Những tháng ngày cuối cùng của cuộc đời bà bỗng thấy nhớ tôi, nhớ những ngày tháng cũ, bà ân hận nhưng tất cả đều là quá muộn.

Tôi lớn lên với một bên lòng mang nỗi hận mẹ mình.

Cha tôi cả cuộc đời cô độc bởi tình yêu duy nhất ông chỉ dành cho một người đàn bà. 

Sau này cha tôi trở nên khá giả và giàu có nhờ mở bãi buôn gạch cát.

Cũng rất nhiều người đàn bà đến gần, người ve vãn gia tài, người thật dạ thương yêu

nhưng cha vẫn chẳng lấy một ai.

Cuộc đời công bằng đối với tôi, đời lấy đi của tôi tình yêu của người mẹ từ khi tôi còn quá bé, nhưng bù lại tôi được cả tình thương của cha thời ấu thơ.

Khi lớn lên tôi gặp được một người đàn ông nữa cũng yêu tôi không kém gì cha.

Nhưng anh ấy yêu tôi bằng tình yêu lứa đôi và chồng vợ.

Cả cuộc đời này tôi hàm ơn họ.

Và với tôi, tình yêu là tất cả, phía sau tình yêu cám dỗ và mọi thứ chẳng là gì bởi với tôi.

Cha và chồng, hai người đàn ông trong cuộc đời tôi, họ vừa là bầu trời vừa là mặt đất này…

Nguồn fb Loan Ngẫn


 

 BỮA ĂN CUỐI CÙNG – Truyện ngắn HAY

Chuyện tuổi Xế Chiều – Công Tú Nguyễn

Một sinh viên ra trường thất nghiệp đã lâu, không tìm được việc làm.

Sáng hôm đó, anh uể oải thức dậy, lục mãi trong ví chỉ còn 10 dollars cuối cùng. Anh rửa mặt thay đồ rồi lang thang trên phố, hy vọng tìm được bất cứ công việc gì có thể.

Nhưng đến đâu cũng chỉ nhận được những cái lắc đầu từ chối. Đến khi thấy đói, anh ghé vào một quán ăn nhanh để mua một phần ăn cuối cùng và ly soda.

Anh vừa lấy được phần ăn nóng hổi ngồi xuống bàn, chưa kịp cắn một miếng thì trước mặt anh bỗng xuất hiện một ông lão ăn xin dẫn theo 2 đứa cháu. Trông họ thật tồi tàn dơ bẩn và đói lả. Ông lão van xin anh vì ông cháu họ đã nhịn ăn gần cả tuần rồi. Những đứa trẻ thèm thuồng nhìn cái bánh hamburger anh đang cầm trong tay .

Chàng thanh niên nhìn lại mẫu bánh, anh cũng đói nhưng anh biết họ còn đói hơn anh. Anh cầm cả khay thức ăn đưa hết cho ông lão. Ông lão ăn xin cảm ơn rối rít, rồi lục trong túi xách rách nát đưa cho anh một đồng xu cổ và nói:

“Cảm ơn lòng tốt của anh, xin hãy nhận cho lòng biết ơn của chúng tôi”.

Anh chẳng biết làm được cái gì với đồng tiền cổ này, nhưng cũng nhận lấy nhét vào túi cho ông lão yên tâm.

Chàng thanh niên thất thểu bước ra khỏi quán. Giờ thì anh thật sự đã chẳng còn gì nữa. Không tiền, không việc, không hy vọng cùng cái đói đang gậm nhấm bao tử .. Anh đi xuống bờ sông, tìm một chỗ mát dưới gầm cầu, và định nằm đó cho đến khi được lên thiên đàng.

Khi loay hoay dọn dẹp xong chỗ nằm, chợt thấy một mẫu báo rách, anh cầm nó lên đọc. Trên báo có mẩu tin: một trung tâm mua bán đồ cổ rao thu mua tất cả những đồng tiền cổ với giá cao.

Anh moi trong túi ra đồng tiền khi nãy ông lão ăn xin đưa cho anh, ngắm nghía một hồi hy vọng biết đâu nó cũng giúp anh mua được vài thứ để nhét vào bụng. Nghĩ vậy nên anh bò dậy và cầm mẩu báo đi tìm địa chỉ.

Khi anh đến nơi và chìa tay đưa ra đồng tiền, một chuyên viên trong cửa hàng xem xong gọi ông chủ đến. Ông chủ đem ra một cuốn sách cũ to tướng, rồi cùng anh và người chuyên viên lục tìm mẫu đồng tiền anh đang có. Sau khi tra cứu niên giám kiểm tra mẫu đồng tiền đó, cả 3 người té ngửa khi biết nó có giá .. 3 triệu dollars.

Anh mất cả ngày hôm đó để hoàn tất thủ tục mua bán, và sáng hôm sau anh bước ra khỏi nhà với tư cách là người chủ tài khoản ngân hàng với 3 triệu đồng. Anh vui mừng chạy ngay đến quán ăn mà anh đã gặp 3 ông cháu ăn xin lần cuối.

Nhưng khi hỏi  toàn bộ nhân viên và ông chủ cửa tiệm,  không ai biết tung tích của ông lão ăn xin. Chỉ có một nhân viên đưa ra một mảnh giấy, nói là ông lão có viết để lại cho anh.

Anh mừng rỡ mở ra xem, hy vọng đây là tin nhắn giúp anh tìm được họ. Nhưng trên mảnh giấy chỉ vỏn vẹn có vài hàng:

“Cảm ơn lòng tốt của anh bạn trẻ. Anh đã cho chúng tôi tất cả những gì anh có khi anh đã không còn gì nữa. Vậy nên anh xứng đáng để nhận lại phần thưởng từ  Chủ Nhân Của Thiên Đường” …

Từ fb Chau Nguyen Thi  (st)


 

FATHER’S DAY:MÂM CƠM TRƯA NGÀY THƯỜNG-Câu chuyện cảm động

 Câu chuyện cảm động

Từ ngày về hưu, ông Sáu ít ra khỏi nhà. Căn nhà nhỏ trong con hẻm yên tĩnh, mỗi trưa chỉ nghe tiếng quạt quay đều đều và tiếng chim đâu đó kêu giữa cái nắng hanh. Mỗi sáng ông dậy sớm, quét sân, pha trà, rồi lặng lẽ chuẩn bị cơm trưa. Một mình. Nhưng đầy đủ như xưa.

 Bà Sáu mất đã bốn năm. Ban đầu, ông ăn qua loa, cơm nguội chan nước mắm. Nhưng dần dà, ông trở lại nếp cũ: cơm mới, canh rau ngót nấu thịt bằm, món mặn, thêm dưa cải hoặc cà pháo. Gọn gàng. Nề nếp. Như lúc bà còn sống. Dù không còn ai ngồi đối diện, ông vẫn dọn đủ hai cái chén, hai đôi đũa. Có lần người hàng xóm thắc mắc, ông chỉ cười:

– Ờ, quen tay. Bỏ bớt thấy trống.

Ông không nói ra, nhưng cái ghế đối diện chưa bao giờ là chỗ trống. Nó là khoảng nhớ. Là nơi ông hình dung vợ mình vẫn đang múc canh, gắp miếng thịt, mắng yêu “Tui nói bao nhiêu lần rồi, chan nước mắm hoài nó mặn đó, coi chừng cao huyết áp chết nghe ông!”

Bà mất rồi, nhưng thói quen của ông thì không.

 Đứa con trai duy nhất – Thắng – đi làm trên Sài Gòn. Hồi mới cưới vợ còn về đôi ba tháng một lần. Sau có con, bận bịu, rồi thành năm một bận, thậm chí có năm chỉ gọi điện.

Mỗi lần Thắng gọi, ông Sáu đều trả lời một câu giống nhau:

– Ờ, khỏe. Ở đây đầy đủ hết. Bữa nào về, còn cái ghế trống đó.

Giọng Thắng qua máy lúc nào cũng vội:

– Dạ ba, bữa nào con sắp xếp…

“Bữa nào” nghe mãi rồi cũng thành quen, như cái cách ông gỡ từng gói mì bỏ vào tủ khi Thắng về rồi lại không kịp ăn. Như nồi cá kho ông làm dư ra, rồi hôm sau phải mang qua cho bà Tư hàng xóm vì “thằng nhỏ kẹt công chuyện gấp”.

 Hồi xưa, Thắng mê nhất cá kho của má. Có hôm vừa về tới nhà đã gõ nắp nồi:

– Má, nay có cá hả? Con ngửi thấy từ đầu hẻm luôn!

Ông Sáu ngồi nhâm nhi ly trà, nghe vậy bật cười:

– Mũi thằng này y chang ba nó, đánh hơi đồ ăn lẹ lắm.

Cái nồi đất kho cá thuở đó ông còn giữ, bọc kỹ trong giấy báo cũ, đặt ở góc tủ. Không nấu nữa, nhưng không nỡ bỏ.

 Hôm đó là một ngày thứ Tư. Trưa oi, nắng vàng như mật đổ xuống mặt sân gạch. Ông Sáu kho cá lóc, luộc đậu bắp, nấu canh rau dền – toàn món ngày xưa bà Sáu hay nấu.

Ông vừa múc canh thì nghe tiếng xe dừng ngoài hẻm. Lúc đầu tưởng người giao gas, nhưng rồi…

– Ba ơi!

Tiếng gọi khản khản. Quen thuộc đến nỗi ông tưởng mình nghe lầm.

Thắng. Đang đứng giữa nắng trưa. Áo sơ mi xốc xếch, túi xách trễ vai, tóc rối, mồ hôi chảy thành vệt sau gáy. Nhìn y như hồi mười mấy năm trước, lần đầu nó đạp xe từ trường về, vội vàng khoe điểm 10.

Ông Sáu đứng khựng lại mấy giây. Bàn tay đang cầm vá múc canh run nhẹ.

– Vô… vô nhà. Ăn cơm. Ba nấu rồi.

 Thắng bước vô, kéo ghế ngồi xuống chiếu. Căn nhà nhỏ bỗng chật hơn vì sự hiện diện ấy. Ông đặt mâm cơm xuống, mắt không dám nhìn con trai lâu, sợ lộ ra chút gì đó mềm yếu.

Hai cha con ăn trong im lặng. Chén canh được múc thêm lần nữa. Cá kho được gắp nhường nhau. Cũng những món ngày xưa, mà sao hôm nay thấy khác.

Giữa bữa, Thắng buông đũa:

– Con xin lỗi. Mấy năm nay, con…

Giọng nghẹn lại. Mắt cay. Ông Sáu vẫn nhìn vào tô canh. Giọng chậm rãi:

– Ờ… cũng mấy năm rồi không nghe tiếng gọi “ba ơi” ngoài cửa.

Thắng cúi đầu. Bất chợt, nước mắt rơi xuống chén cơm trắng.

– Con… bữa nay họp xong, con chạy thẳng xe về. Tới trước cửa rồi mà không dám gõ. Tự nhiên thấy… sợ. Sợ ba giận, sợ không còn kịp.

Ông Sáu ngẩng lên, nhìn con trai. Ánh mắt già nua ấy không có giận hờn, chỉ có một thứ gì đó sâu hoắm, mỏi mòn và đợi chờ.

Ông gắp miếng cá cuối cùng đặt vào chén con:

 Miễn còn ngồi ăn với nhau, là còn kịp.

Buổi trưa đó, không có gì đặc biệt. Không tiếng nhạc, không mùi hương hoa, không khách khứa. Chỉ có mâm cơm đơn sơ – canh rau dền, cá lóc kho và đậu bắp luộc.

Nhưng là mâm cơm làm người ta muốn rơi nước mắt.

 Vì có người về.

Vì có tiếng gọi “Ba ơi” giữa ban trưa.

Và vì có một người cha, suốt bao năm qua, vẫn lặng lẽ dọn sẵn cái ghế trống bên mâm cơm – chỉ để chờ đúng giây phút ấy.

From: Tu-Phung