Cựu Phó Tổng Thống Mỹ Dick Cheney Qua Đời Ở Tuổi 84

Ba’o Dat Viet

November 4, 2025

Cựu Phó Tổng thống Mỹ Dick Cheney – nhân vật từng giữ vai trò trung tâm trong chính sách đối ngoại và quân sự của Hoa Kỳ suốt gần nửa thế kỷ – đã qua đời vào tối 4 Tháng Mười Một, hưởng thọ 84 tuổi. Gia đình cho biết nguyên nhân là các biến chứng liên quan đến bệnh viêm phổi và tim mạch.

Thông báo từ gia đình nhấn mạnh, người vợ Lynne Cheney – người bạn đời 61 năm – cùng hai con gái Liz và Mary đã ở bên ông trong những giờ phút cuối. Bản tin còn nói rõ: “Dick Cheney là một người đàn ông đáng kính. Ông dạy con cháu mình sống yêu nước, quả cảm, tử tế và đầy yêu thương… Chúng tôi vô cùng biết ơn những đóng góp của ông đối với đất nước.”

Dick Cheney là một chính trị gia tiêu biểu của Đảng Cộng hòa, bắt đầu sự nghiệp trong những năm 1970, đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng trong chính quyền liên bang, bao gồm Chánh Văn phòng Nhà Trắng dưới thời Tổng thống Gerald Ford, nghị sĩ Hạ viện đại diện bang Wyoming, rồi Bộ trưởng Quốc phòng dưới thời Tổng thống George H.W. Bush. Tuy nhiên, sự nghiệp của ông bước sang trang mới khi trở thành Phó Tổng thống thứ 46 của Hoa Kỳ từ 2001 đến 2009 dưới quyền Tổng thống George W. Bush.

Trong giai đoạn này, Cheney được coi là một trong những phó tổng thống quyền lực nhất lịch sử nước Mỹ. Sau vụ khủng bố 11 Tháng Chín 2001, ông trở thành kiến trúc sư chính trong chiến lược “chống khủng bố toàn cầu”, thúc đẩy việc Mỹ phát động chiến tranh tại Afghanistan và sau đó là Iraq. Quyết định đưa quân vào Iraq năm 2003 đến nay vẫn gây nhiều tranh cãi, nhưng Cheney chưa từng công khai tỏ ra hối tiếc. Năm 2015, trong buổi phỏng vấn với CNN, ông nhấn mạnh: “Tôi không ân hận về quyết định đó. Lịch sử sẽ đứng về phía chúng ta.”

Trái Tim Bằng Sắt – Theo Nghĩa Đen

Sức khỏe của Dick Cheney từ lâu không còn là điều bí mật. Ông từng bị nhiều cơn đau tim, phải sống chung với bệnh tim mạch gần như suốt cuộc đời chính trị. Đến năm 2012, Cheney trải qua ca ghép tim thành công – sau đó ông gọi đó là “món quà của sự sống”. Điều này cho phép ông tiếp tục viết hồi ký, tham gia thảo luận chính trị, và ít nhiều giữ ảnh hưởng trong giới an ninh quốc phòng cho đến khi tuổi già.

Một Di Sản Gây Tranh Cãi Trong Đảng Cộng Hòa

Là người theo đường lối bảo thủ cứng rắn, Cheney nhiều năm liền được xem là gương mặt tiêu biểu của “diều hâu” chính trị Mỹ. Tuy nhiên, những năm cuối đời, ông gần như bị cô lập trong chính nội bộ Đảng Cộng hòa. Nguyên do: Cheney thẳng thừng chỉ trích cựu Tổng thống Donald Trump, người mà ông cho là “mối đe dọa lớn nhất từng có đối với nền cộng hòa”.

Quan điểm thẳng thắn ấy càng khiến ông tách xa dòng chảy chính trị bảo thủ đương đại. Trong kỳ bầu cử tổng thống gần nhất, năm 2024, Cheney tuyên bố bỏ phiếu cho ứng viên đảng Dân chủ Kamala Harris – một động thái gần như chưa từng có với một đảng viên Cộng hòa thâm niên.

Dick Cheney qua đời để lại một di sản chính trị phức tạp – được nhiều người ca ngợi vì lòng yêu nước và sự kiên định, nhưng cũng không thiếu những chỉ trích về vai trò trong các cuộc chiến kéo dài ở Trung Đông. Với nhiều thế hệ, ông vẫn là biểu tượng của nước Mỹ thời kỳ hậu 11/9, khi quốc gia này bước vào một thời đại mới với những quyết sách vừa mang tính quyết đoán, vừa chất chứa nhiều tranh luận kéo dài đến tận hôm nay.


 

Tâm hồn Nga – Tâm hồn đế quốc – Cơ chế của những đau thương

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Trần Gia Huấn

02/11/2025

Trước giữa thế kỷ XIX, không ai nói tới “Tâm hồn Nga”cả. Khoảng 1842, văn hào Gogol, người Ukraine viết cuốn tiểu thuyết lừng danh “Những Linh Hồn Chết” (Dead Souls) bằng tiếng Nga trong đó ông dùng “Linh hồn” ám chỉ số nông nô đã chết, nhưng các chủ nô dùng danh sách ma để mua bán, trao đổi, thế chấp, trốn thuế kiếm lời. Dần dần, Nga tìm kiếm mọi cách định nghĩa “Tâm hồn Nga” như một bằng chứng khẳng định Nga khác phần còn lại của Âu châu: Nga có linh hồn; Âu châu vô hồn. Nga tự hào; Âu châu tự ty. Nga văn minh; Âu châu man rợ. Nga kiêm tốn; Âu châu hãnh tiến. Nga thánh thiện; Âu châu tội lỗi. Nga cao thượng; Âu châu nhỏ nhen. Nga nhân hậu; Âu châu tàn nhẫn… Trong đó, văn hào Fyodor Mikhailovich Dostoyevsky, và thi hào Alexander Pushkin là những môn đệ toàn tòng cho “Tâm hồn Nga” một cách cuồng nhiệt nhất.

Khoảng 13 tuổi, trên đường tới St Peterburg, Dostoyevsky chứng kiến tại một trạm bưu điện. Một gã đưa thư, mặc đồng phục, nhảy vào cỗ xe ngựa đậu gần đó, không nói không rằng, tung những quả đấm như trời giáng vào mặt vào cổ người đánh xe. Ngay lập tức, người đánh xe, điên cuồng vung roi quất vào mông ngựa. Cỗ xe lao đi trong khói bụi mịt mờ. Dostoyevsky, ngất ngây, tưởng tượng ra cảnh, người đánh xe ngựa trở về làng đêm đó, trong cơn say túy lúy, cũng thụi túi bụi vào mặt vào cổ vợ, như người ta đã thụi mình.

Không ngạc nhiên, Dostoyevsky đã kết hợp những ký ức vào nghệ thuật lãng mạn, với tâm linh, cảm xúc tuyệt vời nuôi dưỡng những hoang tưởng bạo lực và tàn ác của con người trong từng trang viết. Trong tiểu thuyết “Tội ác và Trừng phạt” nhân vật Raskolnikov nằm mơ thấy một nông dân đập chết một con ngựa. Khi tỉnh dậy, gã kết nối giấc mơ với một kế hoạch đập chết người bằng rìu. Gã nhảy ra khỏi giường, thực hiện giấc mơ giết người. Những chuỗi dài bạo lực tiếp nối bạo lực, mà không ai thoát ra khỏi.

Raskolnikov là sinh viên nghèo, giết chủ tiệm cầm đồ, để lấy tiền đi học. Gã bảo Napoleon đã giết hàng ngàn người Ai Cập, cướp kho báu khảo cổ, để thiết lập lên bộ môn Ai Cập học cho nhân loại. Vậy, gã giết người để hoàn thành một lý tưởng, giết người để hiện thực một giấc mơ, giết người để học tập, giết người để tiến bộ, là phi thường, là anh hùng. Lập luận của Raskolnikov là một dạng của “Tâm hồn Nga” tâm hồn đế quốc. Đó là cơn thịnh nộ của độc ác được chắt lọc từ lòng căm thù, đố kị, ganh tị đã dồn nén từ lâu.

Dostoyevsky bị đi đầy ở Siberia chỉ vì đọc cuốn sách cấm. Một người bạn tù gốc Ba Lan đã viết trong hồi ký: Dostoyevsky nguyền rủa đám Estonia, Litvia, Lithuania, và Ba Lan rằng đất đai của chúng mày mãi mãi là đất đai, tài sản của Nga. Nếu không nhờ Nga khai sáng thì bọn mày chỉ biết vùng vẫy trong tối tăm, đói nghèo, cơ cực, mù chữ, và man rợ.

Pushkin, được mệnh danh là “Mặt trời của thi ca Nga” là người đóng góp quan trọng vào ngôi đền thiêng “Tâm hồn Nga”. Khoảng 1820 Pushkin bị đày đi Kavkaz như một kẻ lưu vong chính trị. Ông đã viết bản trường ca “Người tù Kavkaz, trong đó kể lại câu chuyện người con gái miền sơn cước, ở tuổi dậy thì, duyên dáng nồng nàn, ngây thơ đắm đuối, phải lòng một tù nhân chiến tranh Nga. Nàng liều mình giải thoát cho chàng. Rồi, chàng rủ nàng trốn đến nước Nga. Nàng từ chối, giận hờn bảo anh đi đi, đừng bận tâm đến số phận tàn khốc u sầu của em. Lòng nàng vò xé, nước mắt lưng tròng, nàng đưa chàng tới bờ sông, để chàng xuôi dòng về lại quê hương. Rồi, nàng tự tử.

Nhưng khổ cuối của bản trường ca, Pushkin viết “Hỡi Kaskaz, hãy đầu hàng đi. Ermolov đang tới.” Alexei Ermolov là tướng Nga, tư lệnh cuộc chiến giữa Nga và Thượng Kaskaz ở thế kỷ XIX. Ermolov cực kỳ tàn nhẫn, giết 9/10 dân số Thượng Kaskaz. Ermolov tuyên bố: “Ta khao khát những nỗi kinh hoàng mang tên ta.” Chính Pushkin đã ủng hộ những tư tưởng đế quộc tàn bạo này. Những gì xảy ra ở Bucha, Ukraine, 2022, cho ta thấy “Tâm hồn Nga” man rợ tới cỡ nào.

Năm 1837, Pushkin công bố bài thơ “The Bronze Horseman” – Kỵ sỹ Đồng, hết lòng ca ngợi Peter Đại đế, cưỡi ngựa đi thị sát đầm lầy, những túp lều khốn khổ và hèn mọn của lũ Phần Lan lúp xúp dưới vó ngựa của Ngài. Peter Đại đế xây thành St. Petersburg hướng về Tây âu, lối ra biển Baltic. Ngài tuyên bố: Từ nơi này, ta sẽ uy hiếp Thụy Điển và nuốt cả Âu châu. Những ý tưởng này không thể nào không gợi nhớ tới Putin đang đe dọa Âu châu, và tàn phá phương Tây.

Pushkin đã viết những lời hoa mỹ, vô cảm trong cuộc chiến Nga -Thổ: “Người Circassia căm ghét chúng tôi (lính Nga) vì chúng tôi đã buộc họ phải phải rời khỏi những đồng cỏ mênh mông. Nhiều làng mạc bị tàn phá. Cả bộ lạc bị xóa sổ. Người làng phải từ bỏ tất cả để gia nhập Đế chế Nga.”

Ở tuổi 20, Pushkin bị lưu đày khắp nơi từ Kaskaz, tới Crimea, từ Kamianka tới Bessarabia chỉ vì những bài thơ viết ở tuổi 15. Sau năm tháng sống kiếp lưu vong, Pushkin trở về St. Petersburg, không bao giờ dám chỉ trích Sa hoàng nữa. Ngược lại, Pushkin làm thơ ca ngợi, tôn vinh những hành động đế quốc của Nga với các dân tộc láng giềng. Đó là vì sao Đế chế Nga và sau này là Liên Xô cùng cho dựng tượng Pushkin, công viên Pushkin, đường phố Pushkin, quảng trường Pushkin khắp nơi nơi.

Phong trào “Pushkinopad – Пушкинопад”– nghĩa đen là hạ bệ Pushkin tại Ukraine, sau cuộc xâm lược do Putin phát động. Người Ukraine xác định Pushkin và Dostoyevsky là những kẻ cổ xúy cho chủ nghĩa sô vanh (chauvinism) Nga, không xứng đáng được đặt tượng, đặt tên trên quê hương của họ.

Pushkin qua đời năm 37 tuổi sau cuộc đấu súng do ghen tuông ái tình. Dostoyevsky chết năm 59 tuổi, do nhồi máu phổi, động kinh kinh niên không thuốc chữa, đói nghèo, nghiện ngập, cờ bạc, nợ nần chồng chất.
Ukraine không muốn đọc Dostoyevsky nữa, không muốn ngắm tượng Pushkin nữa vì trong từng trang viết chan chứa tư tưởng bành trướng, đế quốc, bạo lực, man rợ, được Putin tuyên truyền biện minh cho hành vi xâm lược hôm nay.

Nỗi mặc cảm tự ti chỉ là một đế chế thứ cấp, bên rìa Âu châu, Putin nhìn phương Tây là lũ suy đồi, trụy lạc, không thể nào đè bẹp được lòng kiêu hãnh Nga – Tâm hồn Nga đã dẫn dắt nước Nga lao vào những cuộc chiến tranh liên miên, không hồi kết, và luôn gây sự với người khác.

Tiến sỹ Henry Kissinger nhấn mạnh: Để hiểu Putin, phải đọc Dostoyevsky. Putin bước ra từ tiểu thuyết viết cách nay đã hai thế kỷ. Tiến sỹ Timothy Snyder nói: Để hiểu được Putin phải đọc 1984: “Chiến tranh là hòa bình. Tự do là nô lệ. Ngu dốt là sức mạnh.” Cựu tổng thống Mỹ George W. Bush bảo nhìn vào mắt Vladimir Putin và “hiểu được tâm hồn Putin”.

Tâm hồn Putin – tâm hồn điệp viên, tâm hồn sát thủ.
Tâm hồn Nga – tâm hồn đế quốc – cơ chế của những đau thương.

Canada

November 2, 2025


 

GIẤC MƠ MỸ

Xuyên Sơn

Đứa bạn vừa chạy xong suất kết hôn giả để đi Mỹ với giá 50.000 đô,

hoàn thành giấc mơ trở thành công dân của đất nước cờ hoa mà nó ấp ủ bấy lâu nay.

Nó phân bua với tôi, với ngần ấy tiền, ở Việt Nam tao được gọi là tỷ phú, có thể sống phè phởn khi nhà cửa có sẵn, công việc ổn định nhưng tau vẫn phải đi. Mày biết vì sao không?

Đơn giản là qua Mỹ với giá đó, tao có thể chỉ là một thợ nail bình thường nhưng con cái tao sau này sẽ được thụ hưởng nền giáo dục Mỹ miễn phí, thứ mà mày phải mất gần 20 nghìn đô mỗi năm nếu như muốn con mày có nó ở Việt Nam.

Tao cũng sẽ chỉ mua một chiếc Lexus RX 350 có hơn 50 nghìn đô, thứ mà mày cũng phải mất gấp 3 để nó lăn bánh ở Việt Nam trong khi đường sá thì như shit, xăng, dầu, thuế, phí lại ở trên trời.

Ngoài ra tao và gia đình tao sau này sẽ được hưởng một môi trường trong lành, một bãi biển sạch để tắm, một chế độ an sinh hợp lý, một nguồn thực phẩm sạch đã qua kiểm nghiệm kỹ càng, và quan trọng là tao có thể nói bất cứ gì tau muốn mà không sợ ngồi tù…

Những thứ này thì dù mày có là đại gia ở Việt Nam, mày và gia đình cũng không bao giờ được thụ hưởng.

Bỏ ra 50.000 đô, hơn một tỷ ông cụ để làm được điều đó, tính ra tao lãi lớn chứ có lỗ đâu mày.

Cái đất nước này giờ đã tan hoang, biển thì chết, môi trường lại ô nhiễm nghiêm trọng, ăn uống thì toàn hoá chất độc hại, thuế, phí thì hơn cả thời Pháp thuộc, chất lượng cuộc sống thì ngày càng đi xuống… quy’ báu gì nữa mà lưu luyến mày ơi.

Nghe nó nói xong tôi chỉ biết lặng im cúi đầu.

Cái thằng, nói đúng thế thì lấy gì để bắt bẽ nó đây.

Trước khi đi nó còn bồi thêm câu, mày ở lại xây dựng xã hội chủ nghĩa cho tốt nhé, tao qua xứ giãy chết cho bọn nó bóc lột đây.

Kiếm ra ai đểu hơn thằng này cũng khó.

Thôi mày đi vui vẻ, tao cũng đang gắng để được như mày đây!

Nguồn: Ba Công

Chân Trời Mới Media

 

 


 

Tại sao những người tàn tật xứ người ta luôn cảm thấy hạnh phúc…

Tại sao những người tàn tật xứ người ta luôn cảm thấy hạnh phúc, sung sướng và truyền cảm hứng cho cuộc sống thay vì những con người lành lặn sức khỏe nhưng tìm đến cái chết thương tâm như ở cầu TPHCM hôm qua.

“Có vụ kia ở xứ sở ấy còn sát hại cả nhà, gồm mẹ. Vợ và các con là do vì nhà quá nghèo”  

Là tại vì đất nước của người ta nhà nước luôn chăm lo cho người dân sống hạnh phúc, lãnh đạo của họ biết tôn thờ Thượng Đế, có tâm và biết lo lắng cho dân. Còn xứ sở vô thần này, họ khong tin có trời có đất, có Thượng Đế. Họ chỉ làm vì bản thân nên người dân luôn sống trong bất hạnh. Nghèo đói và túng quẫn. Có nhiều người họ giải thoát bằng cái tìm cái chết. Nên đừng biện hộ bằng bất cứ giá nào.

TB Anh ấy mất hết cả tay và chân nhưng luôn là người rao giảng tin mừng, truyền cảm hứng cho tất cả mọi người. Có vợ đẹp và đàn con khôn.

Hình. Từ Nick Vujicic. American 


 

Elon Musk đánh mất nửa nước Mỹ, bài học nhãn tiền-Trúc Phương/Người Việt

Ba’o Nguoi-Viet

November 2, 2025

Trúc Phương/Người Việt

Nửa năm sau khi chiếc cưa máy của Elon Musk được xếp xó, hậu quả màn phá phách của đương sự đã được phân tích kỹ lưỡng với công trình dài đến 27 trang của nhóm nghiên cứu Đại Học Yale (“The Musk Partisan Effect on Tesla Sales”) vừa công bố vào Tháng Mười.

Hình ảnh Elon Musk với cái cưa máy hồi Tháng Hai làm rúng động dư luận. (Hình minh họa: Saul Loeb/AFP via Getty Images)

Câu chuyện Elon Musk, dù cá biệt, nhưng rõ ràng là một tiền lệ mà bất kỳ người “siêu thông minh” và “siêu láu cá” nào cũng có thể gặp phải nếu dính vào một cú “dại một giờ” dù trước đó từng “khôn ba năm.”

Cú rơi lịch sử của Tesla

Năm 2020, Tesla là hiện thân của tương lai.

Một hãng xe điện phá vỡ mọi quy tắc, thách thức các tập đoàn xe hơi trăm năm tuổi và biến Elon Musk thành biểu tượng toàn cầu của công nghệ xanh. Với giới trung lưu đô thị Mỹ, đặc biệt là tầng lớp có khuynh hướng chính trị theo đảng Dân Chủ, lái một chiếc Tesla đồng nghĩa với việc tham gia vào một sứ mệnh “cứu lấy hành tinh.”

Chỉ sau vài năm, hình ảnh đó sụp đổ. Đến giữa năm 2025, Tesla đã trải qua hai năm liên tiếp sụt giảm doanh số, ngay cả khi tổng thị trường xe điện Mỹ vẫn tăng trưởng. Nguyên nhân, theo nghiên cứu mới của bốn giáo sư Đại Học Yale (“The Musk Partisan Effect on Tesla Sales”) đề cập ở trên, không nằm ở giá pin, nguồn cung hay cạnh tranh. Thủ phạm là chính Elon Musk chứ chẳng ai khác.

Công trình mang tên The Musk Partisan Effect on Tesla Sales – do Kenneth Gillingham, Matthew Kotchen, James Levinsohn và Barry Nalebuff thực hiện – cho thấy những phát ngôn, hành động và lập trường chính trị của Musk đã khiến Tesla mất từ một đến 1.26 triệu xe bán ra trong vòng 30 tháng, tương đương 67-83% doanh số thực tế. Nếu không có “hiệu ứng đảng phái của Musk,” Tesla sẽ bán được cao hơn 67-83% trong giai đoạn từ Tháng Mười, 2022 đến Tháng Tư, 2025.

Từ giữa năm 2022, sau thương vụ mua lại Twitter (nay là X), Elon Musk bắt đầu thay đổi, không chỉ về phong cách điều hành, mà cả lập trường chính trị. Với phong cách ngổ ngáo lấc cấc, Elon Musk sa thải hàng loạt nhân viên, nới lỏng kiểm duyệt cho các tài khoản cực hữu, quyên góp $300 triệu cho ứng viên Cộng Hòa Donald Trump trong mùa bầu cử 2024, và sau khi Trump tái đắc cử, Musk đảm nhiệm vai trò người lãnh đạo “Bộ Hiệu Quả Chính Phủ” (Department of Government Efficiency – DOGE).

Từ một biểu tượng công nghệ mang tính toàn cầu, Musk trở thành nhân vật chính trị phân cực nhất nước Mỹ. Và thương hiệu Tesla, vốn gắn liền với hình ảnh cá nhân ông, phải chịu đòn phản ứng dây chuyền. Nghiên cứu của nhóm Yale sử dụng dữ liệu đăng bộ xe mới trên toàn nước Mỹ (từ Tháng Ba, 2020 đến Tháng Tư, 2025), kết hợp với tỷ lệ cử tri Dân Chủ-Cộng Hòa trong hai kỳ bầu cử 2020 và 2024.

Các nhà nghiên cứu nhận thấy trước Tháng Mười, 2022 – thời điểm Musk hoàn tất thương vụ Twitter – các khu vực “xanh” (Dân Chủ) mua Tesla nhiều hơn rõ rệt, và xu hướng đó tăng dần. Nhưng sau mốc đó, đồ thị đảo chiều: doanh số Tesla sụt mạnh ở các khu vực Dân Chủ, trong khi các khu vực “đỏ” (Cộng Hòa) chỉ tăng nhẹ, không đủ bù đắp.

Để tách riêng ảnh hưởng của Musk khỏi các yếu tố khác như cạnh tranh, mẫu xe hay chính sách ưu đãi, nhóm nghiên cứu sử dụng các mô hình Difference-in-Differences (DiD) và Triple Difference (DiDiD) – công cụ kinh tế thường dùng để đánh giá tác động chính sách. Kết quả như sau.

-Không có Musk, doanh số Tesla mỗi tháng cao hơn khoảng 150%.

-Có Musk, Tesla mất trung bình 0.2 xe trên mỗi 10,000 xe đăng bộ  ở các khu vực Dân Chủ mỗi tháng – một con số nhỏ nhưng lũy tiến theo thời gian thành hàng triệu xe.

Hiệu ứng thay thế gần như hoàn toàn: Cứ mỗi chiếc Tesla không bán được, có một chiếc xe điện hoặc hybrid của hãng khác được mua thay thế. Nói cách khác, người Mỹ không rời bỏ xe điện. Họ chỉ rời bỏ Elon Musk.

Các khảo sát song hành với dữ liệu bán hàng minh họa rõ rệt mức độ phản ứng của công chúng. Loạt thăm dò NBC News (2021-2025) cho thấy, tỷ lệ người Dân Chủ có cái nhìn tiêu cực về Musk tăng từ 28% lên 92%. Trong khi đó, tỷ lệ người Cộng Hòa có cái nhìn tích cực về ông tăng từ 30% lên 75%. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh, dân Cộng Hòa lâu nay không khoái xe điện. Tin rằng chẳng có chuyện hiệu ứng nhà kính hay trái đất nóng dần gì cả, dân Cộng Hòa chỉ thích dùng xe xăng và còn miệt thị xe điện.

Một khảo sát YouGov (Tháng Ba, 2025) cho thấy: 71% cử tri Dân Chủ nói rằng Musk là lý do khiến họ không muốn mua Tesla. Chỉ 3% cử tri Cộng Hòa nói rằng Musk khiến họ muốn mua Tesla. Vì thế, tổng hiệu ứng là tiêu cực tuyệt đối. Musk mất đi nhiều khách hàng Dân Chủ hơn gấp hàng chục lần số ông có thể thu hút từ phe Cộng Hòa. Kết luận của nhóm nghiên cứu: “Elon Musk là minh chứng sống động cho việc một CEO có thể tự làm giảm doanh số công ty chỉ bằng hành động và phát ngôn chính trị cá nhân.”

Khi thương hiệu bị định danh bằng tên tuổi một người

Trong suốt hơn một thập niên, hình ảnh Tesla gắn chặt với Elon Musk. Ông là “nhà sáng lập thiên tài,” “người của những giấc mơ điên rồ nhưng vĩ đại”…; tuy nhiên, chính sự đồng nhất đó khiến công ty dễ tổn thương. Chỉ cần một cú trượt trong hình ảnh cá nhân, thương hiệu sụp đổ cùng ông. Giáo Sư James Levinsohn, đồng tác giả nghiên cứu, nhận xét: “Thương hiệu của Musk từng là ‘người dẫn đường cho tương lai.’ Giờ nó là ‘biểu tượng của một phe.’ Và thị trường ghét điều đó.”

Ở cấp độ xã hội học, nghiên cứu cho thấy Tesla không còn là sản phẩm tiêu dùng thuần túy mà trở thành biểu tượng chính trị: lái Tesla bây giờ đồng nghĩa với việc thể hiện lập trường; và điều từng là lợi thế, nay trở thành gánh nặng. Hệ quả của “hiệu ứng Musk” không chỉ dừng lại ở Tesla. Nó ảnh hưởng đến thị trường xe điện nói chung và chính sách khí hậu của Mỹ.

Nghiên cứu cho thấy: doanh số các hãng khác (Ford, Hyundai, Toyota, Rivian, Kia,…) tăng 17-22% kể từ khi Musk mua Twitter – nhờ làn sóng khách hàng rời bỏ Tesla. Riêng tại California, nếu không có “hiệu ứng tiêu cực Elon Musk,” tiểu bang này đã đạt được mục tiêu 35% xe không phát thải vào năm 2026. Thực tế, doanh số xe điện giảm khiến California hụt 139,700 xe trong quý I/2025, kéo lùi tiến trình chuyển đổi xanh.

Tác giả Matthew Kotchen nhận định: “Một cá nhân có thể vô tình làm chệch hướng chính sách công bằng hành vi ngôn ngữ và chính trị – điều mà trước đây chúng ta chưa từng chứng kiến trong quy mô thị trường lớn như vậy.”

Khái niệm “CEO activism” – khi lãnh đạo doanh nghiệp công khai lập trường chính trị – thật ra không mới. Nhiều người từng thể hiện tương tự, từ Tim Cook (Apple) đến Howard Schultz (Starbucks). Nhưng họ thường chọn các vấn đề mang tính giá trị phổ quát: quyền con người, môi trường sống, bình đẳng xã hội. Elon Musk đi theo hướng ngược lại: biến chính trị thành sân chơi cá nhân, gắn thương hiệu với một phe, một chiến tuyến. Trong lĩnh vực marketing, đây là điều tối kỵ. Michael Jordan từng nói: “Người Cộng Hòa cũng mua giày thể thao.” Câu nói ấy giờ được trích ngay trong nghiên cứu Yale như một lời cảnh tỉnh: khi thương hiệu chọn phe, nó đánh mất nửa thị trường.

Các nhà nghiên cứu ước tính rằng đến quý I/2025, nếu không có “hiệu ứng tiêu cực Musk,” doanh số Tesla hàng tháng sẽ cao hơn 150%. Ngược lại, doanh số xe điện và hybrid khác sẽ thấp hơn khoảng 25%. Tính tổng cộng, Tesla mất 1.26 triệu xe, trong khi các đối thủ thu về gần tương đương – một “hiệu ứng chuyển dịch hoàn hảo.”

Dù vậy, nhóm tác giả cho rằng đây mới chỉ là khởi đầu. Khi hình ảnh của Musk ngày càng gắn với chính quyền Trump, xu hướng sụt giảm ở các khu vực Dân Chủ tiếp tục tăng tốc – và có thể lan sang các thị trường ngoài Mỹ, nơi “phong cách chính trị” của ông không được ưa chuộng, thậm chí bị khinh ghét.

Bài học lớn cho thời đại thương hiệu cá nhân

Trong nền kinh tế truyền thông xã hội, ranh giới giữa con người và thương hiệu ngày càng mong manh. Elon Musk là hình mẫu thành công nhờ thương hiệu cá nhân nhưng cũng là minh chứng cho nguy cơ khi cá nhân đó bị chính trị hóa.

Tesla trở thành nạn nhân của chính chiến lược mà nó từng hưởng lợi: xây dựng “thần thoại” quanh người sáng lập. Như nhóm tác giả kết luận: “Khi hình ảnh cá nhân trở thành thương hiệu, rủi ro của con người trở thành rủi ro của công ty. Và khi con người sa vào chính trị, công ty sẽ phải trả giá.”

Câu chuyện “hiệu ứng đảng phái” của Musk vượt ra ngoài khuôn khổ kinh tế học. Nó phơi bày cách tiêu dùng và chính trị đang hòa làm một trong xã hội Mỹ phân cực: chọn một sản phẩm cũng là chọn một bản sắc. Elon Musk, trong nỗ lực khẳng định bản ngã, đã chia đôi chính khách hàng của mình. Từ một biểu tượng đổi mới, ông trở thành phép thử trung thành chính trị.

Và Tesla – thương hiệu từng đại diện cho tương lai – giờ bị kẹt trong hiện tại đầy chia rẽ. Trong một thế giới mà niềm tin quan trọng không kém công nghệ, câu chuyện của Musk là lời nhắc lạnh lùng: thương hiệu không thể là chiến tuyến.

Elon Musk ít nhiều đã “né” chính trị từ sau cú ngã đau thấu trời khi lăng xăng “tham chính” nhưng đến nay, những hoen ố gây ra vẫn còn in đậm trên thương hiệu Tesla. Uy tín cá nhân Elon Musk vẫn chưa được khôi phục. Và một thực tế phũ phàng nữa là dân Cộng Hòa nói chung và MAGA nói riêng vẫn chưa bao giờ là nhóm khách hàng ưa thích Tesla, cho dù họ từng khoái chiếc cưa máy của Elon Musk. [kn]


 

SAU TINH GỌN: CẤP PHÓ MỌC NHƯ NẤM SAU MƯA

Người ta nói sáp nhập để tinh gọn bộ máy, giảm biên chế, tiết kiệm ngân sách và tăng hiệu quả quản lý. Nhưng ở Việt Nam, cái gọi là “tinh gọn” lại đang phình ra. Càng sáp nhập, bộ máy càng đồ sộ, số cấp phó càng sinh sôi như nấm sau mưa.

Chỉ riêng con số 9 Phó Thủ tướng đã đủ

khiến người ta choáng váng. Một quốc gia không quá lớn về diện tích, dân số, cũng chẳng phải nền kinh tế đầu tàu thế giới, lại có số Phó Thủ tướng nhiều gấp ba, gấp bốn so với các nước phát triển.

Thế nhưng, nghịch lý ấy không dừng ở cấp trung ương. TP.HCM, Sở Tài chính có đến 18 phó giám đốc, một “đội hình” mà nếu xếp ghế họp thôi cũng phải mất nửa ngày.

Một đất nước với ngân sách còn phải chắt chiu từng đồng cho giáo dục, y tế, an sinh, lại chi hàng nghìn tỷ mỗi năm để trả lương cho các “ông phó”. Những con người mà đôi khi, chức danh nhiều hơn cả công việc thực tế.

Sáp nhập mà không giảm ai, chỉ đổi tên ghế, thì đó không phải là tinh giản, mà là tái sinh bộ máy cồng kềnh trong hình hài mới. Một bộ máy mà số phó ngang ngửa số dân thế này thì dân trả lương sao cho nổi?

Hiểu Lam


 

Nguyễn Ánh hay Hồ Chí Minh: Ai là người “bán nước”, ai là người “cõng rắn cắn gà nhà”?

Ba’o Tieng Dan

31/10/2025

Trương Nhân Tuấn

31-10-2025

Sử gia CSVN lên án Nguyễn Ánh “bán nước”, bằng chứng là Hiệp ước Versailles 1787 và vụ cắt đất Trấn Ninh. Hiệp ước Versailles Nguyễn Ánh hứa nhượng Đà Nẵng và đảo Côn sơn cho Pháp. Đất Trấn Ninh, sau khi lên ngôi Nguyễn Ánh cắt Trấn Ninh để ban thưởng cho vua Ai Lao đã có công giúp Nguyễn Ánh trong chuyện dẹp Tây Sơn.

Thực tế là gì?

Hiệp ước Versailles 1787 không được thi hành. Quan chức Pháp thấy là “không có lợi Pháp”, do đó khước từ. Tức là hiệp ước đơn thuần “vô giá trị”. Nguyễn Ánh không có nhượng “cục đất” nào cho Pháp cả.

Còn đất Trấn Ninh bị Pháp sáp nhập vào Ai Lao để dựng lên nước Lào. Điều không thấy ai nói là sau đó Pháp tách ra từ Lào (và Cambodge) vùng đất rộng lớn, gồm cao nguyên trung phần (bao gồm Darlac, Đà Lạt, Kon Tum v.v..) để sáp nhập vô Việt Nam, để “đền bù” cho Việt Nam vụ Trấn Ninh. Vụ này tôi có viết hôm trước.

Sử gia CSVN phê phán Nguyễn Ánh dựa trên “ý định nhượng đất cho Pháp”.

Vấn đề là việc phê phán của họ không dựa trên tinh thần khách quan, khoa học, mà lại dựa theo ý kiến của ông Hồ Chí Minh trong một “bài vè”, tựa đề “Lịch sử nước ta”. Trong bài có các câu:

“Gia Long lại dấy can qua,

Bị Tây Sơn đuổi, chạy ra nước ngoài.

Tự mình đã chẳng có tài,

Nhờ Tây qua cứu, tính bài giải vây.

Nay ta mất nước thế này,

Cũng vì vua Nguyễn rước Tây vào nhà,

Khác gì cõng rắn cắn gà,

Rước voi giầy mả, thiệt là ngu si…”

Đâu phải cái gì ông Hồ nói, hay làm cái gì thì những cái đó đều đúng hết đâu!

Ông Hồ bị sử gia Tây phương xếp chung “một giỏ” với những “đồ tể cộng sản” như Mao Trạch Đông, Pol Pot… Họ Mao trách nhiệm về cái chết của hàng trăm triệu người Hoa. Pol Pot trách nhiệm “diệt chủng” 1/4 dân Cambodge. Ông Hồ chỉ giết sơ sơ có 4 triệu người Việt mà thôi.

Thực tế cho thấy những gì mà ông Hồ nói về Gia Long đều là “vu khống”, vì không có bằng chứng.

Nguyễn Ánh có “rước Tây vào nhà không?”

Pháp chiếm 6 tỉnh Nam kỳ, sau đó chiếm Bắc kỳ, vì nhiều lý do mà không có lý do nào cho thấy có yếu tố “Nhà Nguyễn rước Tây vô nhà” hết cả.

Pháp chiếm Việt Nam “bằng vũ lực”. Pháp chiếm 6 tỉnh Nam kỳ bằng vũ lực. Pháp chiếm Hà nội bằng vũ lực. Pháp đánh quân Thanh để “bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của nước An Nam” bằng vũ lực. Cuộc chiến tranh với nhà Thanh khiến Pháp thiệt hại nặng nề. Chuyện này tôi cũng nói rồi.

Tôi có thể kết luận rằng ông tổ ngành “sử phịa” của Việt Nam là ông Hồ!

Giả sử rằng nhà Tây Sơn không bị Nguyễn Ánh tiêu diệt. Liệu nhà Tây Sơn có giúp Việt Nam giữ được “độc lập” hay không?

Theo tôi là không! Càng “cương” thì càng chết nhiều.

Cùng thời kỳ, những đế quốc sừng sỏ nhứt, từ Ấn Độ cho tới Trung Hoa, tất cả đều bị thực dân chiếm đóng làm thuộc địa. Trung Hoa bị các đại cường “phân liệt” thê thảm hơn hết. Vì đế quốc này giàu quá. Đây là thời kỳ “trăm năm nhục nhã” của đất nước Trung Hoa. Tất cả các nước trong khu vực, không ngoại lệ, từ Ấn Độ trải dài qua tới Trung Hoa, đều trở thành thuộc địa của nước ngoài.

Ngoại trừ Nhật, nước này thấy coi bộ “chống không lại” nên “thua trước cho cao cờ”. Bèn mở cửa cho nước ngoài (Mỹ) vào buôn bán. Mục đích của Mỹ, cũng như các đế quốc khác, là tìm một chỗ trú chân, trước để buôn bán, sau là nơi dưỡng quân. Mục đích của các đế quốc là “xẻ thịt” con heo mâp ú là Trung Hoa.

Việt Nam đã có thể trở thành một nước Nhật, nếu Hiệp ước Versailles 1787 được Pháp thi hành. Việt Nam được một đại cường hải quân bảo vệ, qua một hiệp ước “an ninh hỗ tương”, không khác gì các hiệp ước an ninh giữa Mỹ và các đồng minh NATO hay Nhật, Hàn, Phi… Nước nào lại không cắt đất cho Mỹ đóng quân? Nước nào không trả tiền để được Mỹ bảo vệ? Vụ này tôi cũng đã nói rồi.

***

Không có một bằng chứng nào cho thấy nhà Nguyễn “cõng rắn cắn gà nhà”. Nhưng có rất nhiều bằng chứng cho thấy ông Hồ và các hậu duệ cộng sản của ông đích thị là những kẻ “cõng rắn cắn gà nhà”. Ngoài ra còn có bằng chứng cho thấy ông Hồ và hậu duệ đã “bán nước có văn bản”.

Biết bao nhiêu tài liệu từ nguồn Trung quốc, từ Mỹ, trong các thư viện các nước Tây phương… từ nhiều thập niên trước, đã cho ta thấy vai trò của Trung quốc trong cuộc kháng chiến gọi là “đánh Pháp giành độc lập”.

Khởi đầu phải tính từ cột mốc tháng 8 năm 1945: Thời điểm Nhật đầu hàng Đồng minh. Sử sách CSVN khoe khoang là “Việt Minh đã thành công đánh pháp, đuổi Nhật, chạy đua với Đồng minh để cướp chính quyền“.

Sự thật là sau khi quân Đồng minh vào Việt Nam để giải giới quân Nhật, miền Bắc được ủy nhiệm cho quân Trung Hoa Dân quốc và miền Nam cho quân Anh. Quân Trung Hoa vô tới đâu là tước vũ khí của Việt Minh tới đó, rồi giao chính quyền địa phương cho quân Việt Quốc. Miền Nam thì Anh “trả chủ quyền của An Nam” lại cho Pháp. Tức là không có vụ “đánh Pháp, đuổi Nhật, chạy đua với Đồng minh” mà chỉ có vụ Việt Minh “chạy có cờ”.

Nhờ thuật “bôi trơn” (truyền lại cho tới ngày nay) ông Hồ được Trung Hoa ủng hộ, ép Pháp ký Hiệp ước sơ bộ. Vấn đề là khi ký nhận, ông Hồ nhìn nhận “nước của ông Hồ” thực tế chỉ là một “tiểu bang tự do” trong “liên bang Đông dương thuộc Pháp”. Tức là cái “chính danh” của ngày 2-9-1945 rốt cục chỉ là “làm tay sai” lại cho Pháp mà thôi!!! Vụ này ông Bảo Đại có phê bình như vầy: “Để sửa sai ông Hồ đã đưa đất nước vào biển máu“.

Rõ ràng y chang như vậy: Ông Hồ đã đưa đất nước vào biển máu.

Sau năm 1949, nhờ sự trợ giúp về quân sự lẫn nhân sự từ cộng sản Tàu, lực lượng ông Hồ ngày càng mạnh, trên vùng biên giới. Trận Điện Biên Phủ năm 1954, quân ông Hồ thắng quân Pháp hay là quân Tàu thắng quân Pháp?

Bàn cãi vụ này tới chiều chưa hết. Để biết ai thắng, ta nên quy chiếu về Hiệp định Genève 1954. Bên nào chủ động trong bàn Hội nghị Genève? Xin thưa một bên là Pháp (dĩ nhiên), bên kia là Trung Cộng. Châu Ân Lai đóng vai chánh, Phạm Văn Đồng ngồi cho có. Kết quả phân chia Việt Nam ở vĩ tuyến 17, là quyết định của họ Châu.

Tới đây tạm đặt một dấu chấm để nói về “quyền dân tộc tự quyết”, là nền tảng của tính “chính danh” trong cuộc “đánh Pháp giành độc lập” của phe Cộng sản Việt Nam.

Làm gì có chuyện “tự quyết”, bởi vì sau lưng ông Hồ có Trung Cộng ủng hộ, từ cây súng, viên đạn, hột gạo… Trên mặt trận thì cố vấn Tàu Cộng chỉ vẽ đánh thế nào, đánh ở đâu v.v… Trên bàn hội nghị thì có Châu Ân Lai thương nghị với Pháp. Tức là Trung Cộng thủ vai chánh, “quyết” mọi thứ với địch thủ là Pháp.

Trong khi Việt Nam đã được Pháp trả độc lập trước đó 5 năm rồi, qua Hiệp ước Elysée 1949.

Việt Nam đã độc lập rồi, năm 1951 nước Việt Nam này tham dự Hội nghị San Francisco 1951, với tư cách là “quốc gia độc lập có chủ quyền, có tuyên bố chiến tranh với Nhật“. Việt Nam là khách mời của Mỹ.

Chuyện “đánh Pháp giành độc lập” của ông Hồ thực tế chỉ là chuyện “thọc gậy bánh xe” của Trung Cộng. Mao Trạch Đông không muốn có một Việt Nam thân tư bản ở sát nách nước mình.

Cho đến năm 1958, ông Hồ và chính phủ ký công hàm 1958, trong đó tôn trọng và thực thi mọi yêu sách về lãnh hải 12 hải lý, trên những vùng lãnh thổ của Trung quốc. Vấn đề là yêu sách của Trung Quốc bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

Công hàm Phạm Văn Đồng ký năm 1958. Ảnh trên mạng

Quan điểm của nhà nước CSVN đối với công hàm này là gì?

Đó là nhà nước CSVN chỉ nhìn nhận lãnh hai 12 hải lý mà thôi. Không có chuyện gì khác nữa.

Theo tôi đây là lập luận ngu xuẩn nhứt trong những lập luận ngu xuẩn khác của CSVN về chủ quyền biển đảo.

Khi công nhận hiệu lực 12 hải lý thì nhà nước CSVN đã mặc nhiên nhìn nhận hiệu lực của công hàm 1958.

Mọi bàn luận khác của học giả CSVN chung quanh chuyện này để phủ nhận công hàm 1958 trở thành chuyện hài.

Vấn đề là khi nhìn nhận hiệu lực công hàm 1958 rồi, thì công hàm này phải được rọi dưới luật pháp quốc tế.

Chiếu luật quốc tế về “hiệu lực các tuyên bố đơn phương”. Không cần giải thích dông dài. Khi Việt Nam đã nhìn nhận hiệu lực công hàm 1958. Việt Nam đã mặc nhiên nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa.

Chiếu Luật quốc tế về Biển 1982, Việt Nam nhìn nhận hiệu lực công hàm thì Trung Quốc có quyền yêu sách hải phận các đảo Hoàng Sa và Trường Sa lên tới 200 hải lý.

Ngưng chuyện Hoàng Sa và Trường Sa ở đây.

Là gì? Là đích thị ông Hồ và hậu duệ ông Hồ đã chủ trương “bán nước”. Bán nước có văn tự hẳn hoi.

Học giả CSVN nghe ông Hồ dựng chuyện về Nguyễn Ánh rồi cả đàn hùa nhau “lật sử”, buộc Nguyễn Ánh về tội “bán nước”.

Ai bán nước có văn tự, Gia Long hay ông Hồ?

Cho tới cuộc chiến 54-75, có tới trên 300 ngàn quân Trung Cộng có mặt tại Việt Nam, giúp CSVN trong suốt cuộc chiến tranh “đánh Mỹ cứu nước”.

Theo luật quốc tế về việc thực thi quyền “dân tộc tự quyết”, khi một dân tộc gọi là “bị áp bức” nhờ tay một thế lực ngoại bang giúp đỡ để chống lại thế lực áp bức, quyền tự quyết của dân tộc này đã tiêu vong. Ta thấy quân Palestine khi chống Do thái, với danh nghĩa là sử dụng “quyền dân tộc tự quyết”, ta thấy có người ngoài nào trong hàng ngũ của họ hay không?

Tức là khi CSVN vịn vào quyền “dân tộc tự quyết” để “đánh Mỹ, giải phóng miền nam” mà trong hàng ngũ của họ lại có mặt 30 sư đoàn quân Tàu Cộng, thì CSVN không còn chánh nghĩa nào nữa cả.

Ngay cả khi quân Tàu chỉ đóng ở ngoài Bắc, thì theo luật và tập quán quốc tế, Trung Cộng vẫn là “một bên” can dự vào chiến tranh Việt Nam. Đây là lý do mà các nước EU không gởi quân giúp Ukraine tự vệ đánh lại Nga, ngay cả khi đạo quân này chỉ ở hậu phương không chạm súng với Nga.

Tức là gì?

Là không có chuyện “giải phóng miền Nam” mà chỉ có chuyện “xâm lược miền Nam”. Khi quyền tự quyết đã tiêu vong thì danh nghĩa “giải phóng” cũng thành mây khói.

Rốt cục lại, Gia Long hay Hồ Chí Minh, ai là kẻ “cõng rắn cắn gà nhà”?

Rắn Trung Cộng, rắn Liên Xô, rắn Bắc Hàn… có mặt cả đàn theo lời kêu gọi của ông Hồ và đảng CSVN.

Phê phán Gia Long thì phải lập luận theo “hệ quy chiếu thiên mạng”.

Phê phán ông Hồ thì phải quy chiếu theo luật lệ và tập quán quốc tế hiện hành.

Không phải ông Hồ Chí Minh và đảng CSVN “cõng rắn cắn gà nhà” thì còn ai vô đây?

Có người dân miền Nam nào muốn được mấy ông cộng sản giải phóng? Không có ai hết. Việt Cộng vô tới đâu dân chạy “chết mẹ” tới đó, biết chết trong bụng cá họ vẫn chạy. Ngay cả bây giờ, thà chết trong thùng đông lạnh người Việt Nam vẫn bỏ nước ra đi. Không có bấy nhiêu người muốn ở lại Việt Nam để “xây dựng đất nước” với đảng CSVN hết cả.

Không ai tin vào cộng sản bất cứ một chuyện gì hết cả, huống chi là chuyện lịch sử.


 

Đảo chính 1-11-1963: Đại sự bất thành của bốn đại tá dân ông Tạ

Ba’o Tieng Dan

01/11/2025

Cù Mai Công

1-11-2025

(Ba cái chết thảm, một án tử hình và năm mộ phần ở khu ngoại vi/ phụ cận/environ vùng Ông Tạ. Xin nói rõ: Tôi không phải là người viết sử mà chỉ ghi nhận thông tin từ góc người Ông Tạ. Nhưng lịch sử VNCH chắc chắn sẽ phải viết lại hoàn toàn nếu mưu sự ấy thành công).

Trong một con hẻm trên đường Thánh Mẫu (nay là Bành Văn Trân, Tân Bình cũ, TP.HCM) có một ngôi nhà khá lặng lẽ. Dân trong xóm này gọi bà chủ nhà lịch thiệp, lộ rõ nét sang trọng này là o Khôi. Ít ai biết đó là vợ đại tá VNCH Lê Quang Tung – tư lệnh Lực lượng Đặc biệt VNCH, phụ trách Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Tổng thống phủ.

O Khôi hay đi bộ đến thăm gia đình đại tá Bùi Dzinh cách nhà o hơn trăm thước, đối diện hồ tắm Cộng Hòa. Phó của ông Tung là đại tá Trần Khắc Kính, nhà khu Bắc Hải – Ông Tạ, con rể cụ lý Sóc trong ngõ Con Mắt – Ông Tạ; cách nhà cũ của nhà thơ Đỗ Trung Quân chừng vài chục mét.

ĐẠI SỰ BẤT THÀNH

Ông Dzinh, ông Tung cùng Công giáo nhiều đời như gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm, thậm chí đồng hương Lệ Thủy (Quảng Bình), Huế với ông Diệm nên không khó để biết hai vị này rất ủng hộ ông Diệm. Riêng ông Tung, người tuyệt đối trung thành với ông Diệm; từng được ông Ngô Đình Nhu giao nhiệm vụ thành lập Quân ủy Trung ương đảng Cần Lao. CIA lúc đó xếp ông là người có quyền lực nhất ở Nam Việt Nam, sau anh em ông Diệm và ông Nhu.

Ngày 15.3.1963, Tổng thống Diệm đổi Sở Liên lạc thành Lực lượng Đặc biệt, thăng ông Tung lên đại tá, tư lệnh Lực lượng Đặc biệt, ông Kính làm phó.

Lực lượng Đặc biệt và Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Tổng thống phủ là nỗi ám ảnh thất bại của nhóm tướng lĩnh đảo chính với hậu thuẫn của Mỹ – như đã từng thất bại trong cuộc đảo chính năm 1960. Ngày 19.10.1963, tướng Paul D. Harkins, chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ ở Việt Nam Cộng hòa thông báo cho Tổng thống Diệm biết ngân khoản Hoa Kỳ dành cho Lực lượng Đặc biệt bị cắt giảm.

Rõ ràng phía Mỹ đã “ngửi mùi” một âm mưu đáng sợ từ Lực lượng Đặc biệt mà hai vị tư lệnh và phó tư lệnh là Lê Quang Tung và Trần Khắc Kính – đều là dân Ông Tạ – đã lên kế hoạch: Một nhóm lính thuộc Lực lượng Đặc biệt mặc đồ thường dân sẽ phóng hỏa đốt Tòa đại sứ Mỹ, ám sát đại sứ Mỹ Henry Cabot Lodge, Jr. và một số quan chức chủ chốt của tòa đại sứ.

Và nhóm tướng lĩnh âm mưu đảo chính, với hậu thuẫn của Mỹ và đại sứ Mỹ Henry Cabot Lodge, Jr., ra tay trước.

NGÀY LỄ CÁC THÁNH, CÁC LINH HỒN 1 VÀ 2-11-1963 ĐẪM MÁU

Cả Tổng thống Diệm và ba vị đại tá kia đều là người Công giáo nhiệt thành chắc chắn không bỏ qua việc dự thánh lễ những ngày này. Thực tế sáng 2-11, ngay trong cơn dầu sôi lửa bỏng, thập tử nhất sinh, trước khi quyết định gọi điện thoại cho phe đảo chính báo nơi ẩn náu của mình, ông Diệm và em trai là ông Nhu vẫn bí mật dự lễ Các linh hồn ở nhà thờ Cha Tam.

Cuộc đảo chính của nhóm các tướng lĩnh, do tướng Dương Văn Minh làm chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng, có lẽ đã tính toán cả những chuyện này khi quyết định chọn ngày D cho cuộc đảo chính: 1-11-1963.

Tuy nhiên, ngày 1-11, trong khi đại tá Kính cùng gia đình chuẩn bị bước vào nhà thờ An Lạc, nơi mà “thằng bé” sau này là nhà thơ Đỗ Trung Quân từng giúp lễ để dự lễ Các thánh thì đại tá Lê Quang Tung lại phải chuẩn bị đến Bộ Tổng tham mưu (nay là Bộ Tư lệnh Quân khu 7) cách khu An Lạc khoảng cây số – theo yêu cầu của nhóm tướng lĩnh tổ chức cuộc đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm.

Trong cuộc gặp này, ông Tung đứng lên phản đối cuộc đảo chính, bị lôi ra ngoài giết chết. Sau đó, em trai ông Tung là thiếu tá Lê Quang Triệu, tham mưu trưởng Lực lượng Đặc biệt vào Bộ Tổng tham mưu tìm anh cũng bị giết.

Thân xác của hai anh em ông Tung và ông Triệu bị vùi ở đâu đó ở khu vực nghĩa trang Bắc Việt (nay là khu vực chùa Phổ Quang, Tân Bình cũ), bên hông Bộ Tổng tham mưu mà tới giờ vẫn chưa tìm thấy.

Một ngày sau khi hai anh em ông Tung – ông Triệu bị thảm sát, ngày 2-11-1963, hai anh em ông Diệm và ông Nhu cũng bị thảm sát đẫm máu.

Điều trùng hợp là thoạt đầu, trước khi dời mộ về nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi (nay là công viên Lê Văn Tám), hai ông Diệm – Nhu cũng được chôn cất gần nơi hai anh em ông Tung – Triệu bị giết (nghĩa trang Bắc Việt). Cụ thể hai ông Diệm, Nhu ban đầu đã được an táng trong một nghĩa trang trong khuôn viên Bộ Tổng Tham mưu, cạnh mộ Lê Văn Phong, em ruột Tổng trấn thành Gia Định Lê Văn Duyệt…

Sáu tháng sau, ngày 22-4-1964, em trai Tổng thống Diệm là ông cố vấn miền Trung Ngô Đình Cẩn bị Tòa án Cách mạng tuyên án tử hình. Ngày 9-5-1964, ông Cẩn bị hành quyết bằng xử bắn và chôn cất ở nghĩa trang Bắc Việt – xã Tân Sơn Hòa, ngoại vi Ông Tạ, cách mộ hai anh mình vài trăm thước.

Như vậy, ban đầu cả ba anh em ông Diệm – Nhu – Cẩn đều được chôn cất trên phần đất xã Tân Sơn Hòa, sát bên vùng Ông Tạ (trung tâm xã Tân Sơn Hòa).

MỘT ĐẠI TÁ BỊ TUYÊN TỬ HÌNH, MỘT ĐẠI TÁ BỊ SÁT HẠI

Ngày 1-11-1963, hay tin cuộc đảo chính nổ ra ở Sài Gòn, đại tá Bùi Dzinh đã lập tức điều động Trung đoàn 15 thuộc Sư đoàn 9 bộ binh và một pháo đội của Tiểu đoàn 9 pháo binh về phản đảo chính.

Nhưng đại tá Nguyễn Hữu Có, thuộc phe đảo chính, đã dàn lính Sư đoàn 7 bộ binh chặn ở ngã ba Trung Lương sau khi ra lệnh cho tỉnh trưởng Định Tường – trung tá Nguyễn Khắc Bình rút hết phà tại bến bắc Rạch Miễu và Mỹ Thuận về bờ phía Mỹ Tho để ngăn Sư đoàn 9 vượt sông Tiền.

Đây không phải là lần đầu tiên ông Dzinh phản đảo chính cứu Tổng thống Ngô Đình Diệm, người đồng hương huyện Lệ Thủy, Quảng Bình của mình. Ba năm trước, ngày 11-11-1960, ông Dzinh, lúc ấy là trung tá, tư lệnh phó kiêm tham mưu trưởng của Sư đoàn 21 bộ binh, cũng từ miền Tây mang một pháo đội 105 cùng đại úy Lưu Yểm, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/33 của của Sư đoàn 21 bộ binh kéo về Sài Gòn nhổ chốt Phú Lâm, do Tiểu đoàn 8 Nhảy dù trấn giữ; thẳng đường về Dinh Độc Lập dẹp tan cuộc đảo chính do đại tá Nguyễn Chánh Thi cầm đầu.

Ông Dzinh không ngồi yên. Ngày 19-2-1965, ông cũng ra tay: Tham gia cuộc đảo chính nhằm lật đổ tướng Nguyễn Khánh, do thiếu tướng Lâm Văn Phát chỉ huy cùng đại tá Phạm Ngọc Thảo.

Cuộc đảo chính thất bại. Ông Dzinh chạy về vùng Ông Tạ, ẩn náu ở lò bánh mì nhà ông bà Dần trên đường Thánh Mẫu, sau đó sang Nhà hưu dưỡng các linh mục trong khuôn viên nhà thờ Chí Hòa cách đó vài chục mét. Đại tá Thảo vốn nhà ở khu Bắc Hải – Ông Tạ nên thoạt đầu cũng chạy về vùng Ông Tạ, được nhà báo Thiên Hổ – linh mục Nguyễn Quang Lãm, xứ Nghĩa Hòa che giấu.

Bị lùng sục ráo riết, hai ông chạy sang nơi khác. Ông Dzinh bị tòa án quân sự kết án tử hình khiếm diện với tội danh “chuyên viên đảo chính và sử dụng quân đội bất hợp pháp” (sau hạ xuống chung thân rồi tha bổng).

Ông Dzinh chạy về nhà một ông trùm giáo xứ Lạng Sơn ở Xóm Mới (Gò Vấp) và bị bắt ở đây. Ông Thảo chạy về Biên Hòa, bị bắt và sát hại ở đây.

… Những ngày đại lễ tam nhật Các thánh ấy đầy oan khiên, máu và nước mắt.


 

Obamacare vì đâu nên nỗi! – Hiếu Chân/Người Việt

Ba’o Nguoi-Viet

October 31, 2025

Hiếu Chân/Người Việt

Chính phủ liên bang Hoa Kỳ đóng cửa đã tròn một tháng, gây nhiều khó khăn cho cuộc sống người dân Mỹ và chưa biết bao giờ mới mở cửa hoạt động trở lại.

Ai cũng biết điểm vướng mắc chủ chốt dẫn tới vụ đóng cửa là bất đồng quan điểm giữa hai đảng Cộng Hoà cầm quyền và Dân Chủ đối lập chung quanh một chương trình chăm sóc sức khỏe, thường gọi là Obamacare. Chừng nào điểm nghẽn này chưa thông thì chính phủ liên bang chưa có tiền để hoạt động.

Người biểu tình trước trụ sở của Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ hồi năm 2020, bảo vệ ACA, hay còn gọi là Obamacare. (Hình minh họa: NICHOLAS KAMM/AFP via Getty Images)

Tin mới nhất là chiều tối Thứ Năm 30 Tháng Mười, Tổng Thống Donald Trump đã viết trên trang Truth Social của ông một thông điệp ngắn gọn: “Như tôi đã nói nhiều năm, OBAMACARE LÀ MỘT THẢM HOẠ! Chi phí tăng vượt trần cho sự chăm sóc y tế thực sự tồi tệ!!! Các đảng viên Dân Chủ làm gì đi chứ!!!”

Ông đá trái banh về chân đảng Dân Chủ nhưng vấn đề không đơn giản như thế.

Obamacare có phải là thảm hoạ không, tại sao nó trở thành điểm bất đồng gay gắt giữa hai đảng và nó ảnh hưởng thế nào đến túi tiền của người Mỹ?

Obamacare có phải là thảm hoạ?

Obamacare – ở California có tên là Covered California – tên đầy đủ là đạo luật Bảo Vệ Bệnh Nhân Và Chăm Sóc Y Tế Vừa Túi Tiền (The Patient Protection and Affordable Care Act – ACA) được Quốc Hội thông qua và Tổng Thống Barack Obama ký ban hành ngày 23 Tháng Ba năm 2010 và có hiệu lực đầy đủ vào năm 2014.

Mục đích chính của luật ACA là cải cách toàn diện hệ thống y tế Mỹ, giúp nhiều người Mỹ, nhất là các gia đình có thu nhập thấp và trung bình, có thể mua bảo hiểm y tế.

Những điều khoản chính của Obamacare là khuyến khích các tiểu bang mở rộng phạm vi bảo hiểm y tế miễn phí cho người thu nhập thấp (Medicaid); thiết lập các thị trường bảo hiểm trực tuyến (health insurance marketplace) nơi cá nhân và gia đình có thể so sánh và mua các chương trình bảo hiểm tư nhân; cung cấp các khoản trợ cấp tài chính dưới dạng tín dụng thuế phí bảo hiểm (premium tax credit) và các hình thức hỗ trợ khác để giảm gánh nặng chi phí bảo hiểm y tế cho người nghèo; cấm các công ty bảo hiểm từ chối bảo hiểm hoặc tăng phí bảo hiểm dựa trên tình trạng sức khoẻ hoặc bệnh lý có sẵn của người mua bảo hiểm; cho phép người dưới 26 tuổi được tiếp tục ở trong chương trình bảo hiểm của cha mẹ…

Đáng chú ý nhất là chính phủ liên bang sẽ trả trực tiếp cho công ty bảo hiểm một phần phí bảo hiểm hằng tháng, giúp giảm ngay số tiền bảo hiểm phải trả mỗi tháng cho những cá nhân và gia đình có thu nhập trong phạm vi từ 100% đến 400% mức nghèo liên bang (federal poverty level – FPL) và mua bảo hiểm qua thị trường bảo hiểm y tế (health insurance marketplace). Ngoài ra, Obamacare còn giúp giảm chi phí đồng chi trả (co-pay), mức khấu trừ (deductible) và giới hạn số tiền khách hàng phải trả trong một năm (out of pocket maximum)… Nhờ chính phủ, người nghèo và trung lưu đã có thể mua bảo hiểm sức khỏe “vừa túi tiền” như tên gọi của đạo luật.

Cũng nhờ sự trợ giúp tài chính của chính phủ, số người Mỹ mua được bảo hiểm y tế đã tăng rất nhanh. Thống kê cho biết, trước khi Obamacare có hiệu lực hoàn toàn năm 2014, tỷ lệ người Mỹ dưới 65 tuổi không có bảo hiểm y tế là 18.2% dân số, tương đương 48 triệu người. Những người này không dám đi khám bệnh, không phát hiện sớm được bệnh tật để chạy chữa; khi đau ốm họ vẫn được điều trị nhưng phải tự trang trải chi phí, nhiều người lâm vào cảnh nợ nần, tán gia bại sản, nhiều bệnh viện phải gánh núi nợ khổng lồ do bệnh nhân không có bảo hiểm để lại…

Chỉ trong vài năm sau Obamacare, số người không có bảo hiểm y tế đã giảm gần một nửa, xuống còn 10.4% năm 2016, tức thêm 20 triệu – 24 triệu người có bảo hiểm y tế. Số liệu mới nhất năm 2023 ghi nhận tỷ lệ người Mỹ dưới 65 tuổi không có bảo hiểm y tế chỉ còn 9.5%, thấp nhất từ trước đến lúc đó.

Obamacare là động lực chính dẫn tới sự gia tăng số người Mỹ được bảo hiểm sức khỏe; đẩy lùi mối lo nợ nần, phá sản khi chẳng may lâm trọng bệnh; và đó là thành quả không thể phủ nhận.

Trợ cấp tăng cường – mấu chốt gây tranh cãi

Đại dịch COVID-19 bùng phát năm 2020 gây ra một tác động kép: người dân dễ bị nhiễm bệnh hơn nhưng cũng khó khăn hơn về kinh tế do cơ sở kinh doanh đóng cửa, mất việc làm, mất thu nhập. Trong đạo luật Cứu Nước Mỹ (American Rescue Plan Act – ARPA) ban hành Tháng Ba 2021, chính phủ Mỹ thời Joe Biden đã giảm thiểu tác động tai hại này bằng cách mở rộng và tăng trợ cấp Obamacare để giúp người dân bị ảnh hưởng của đại dịch có thể mua bảo hiểm y tế với giá phải chăng. Khoản mở rộng này được gọi là trợ cấp tăng cường (enhanced subsidies) hoặc trợ cấp thêm (extra subsidies) bổ sung vào Obamacare.

Đạo luật ARPA loại bỏ giới hạn trợ cấp. Nếu trước đó người có thu nhập trên 400% mức nghèo liên bang FPL (tức khoảng $65,000 mỗi năm) thì không được trợ cấp để mua Obamacare thì nay giới hạn thu nhập đó bị bãi bỏ. Bất cứ ai mua bảo hiểm qua thị trường bảo hiểm y tế đều được trợ cấp nếu chi phí bảo hiểm cao hơn 8.5% thu nhập hằng tháng của họ; 8.5% thu nhập cũng là mức tối đa mà người dân có thể trả cho bảo hiểm y tế; người có thu nhập dưới 150% mức nghèo liên bang (tức khoảng $22,000 mỗi năm) thì tỷ lệ thu nhập phải trả cho bảo hiểm y tế là 0%.

Ban đầu các khoản trợ cấp tăng cường như vậy chỉ được áp dụng cho năm 2021 và 2022, sẽ chấm dứt khi đại dịch COVID được đẩy lùi. Nhưng sau đó Tổng Thống Biden ban hành Đạo luật Giảm Lạm Phát (Inflation Reduction Act – IRA) năm 2022, kéo dài các khoản trợ cấp Obamacare tăng cường đến ngày 31 Tháng Mười Hai 2025; nghĩa là hàng triệu người Mỹ tiếp tục được mua bảo hiểm y tế chi phí thấp đến hết năm nay.

Bất đồng giữa hai đảng trong Quốc Hội Mỹ hiện nay là nên chấm dứt hay kéo dài khoản trợ cấp tăng cường theo hai đạo luật ARPA và IRA nói trên. Đảng Cộng Hòa muốn chấm dứt trợ cấp tăng cường, muốn Quốc Hội thông qua ngân sách tạm thời để chính phủ hoạt động trở lại, sau đó sẽ bàn chuyện Obamacare, còn đảng Dân Chủ muốn mọi kế hoạch ngân sách đều phải bao hàm khoản trợ cấp Obamacare để bảo đảm người Mỹ tiếp tục được mua bảo hiểm y tế hợp túi tiền.

Theo tính toán của Văn Phòng Ngân Sách Quốc Hội (CBO), nếu duy trì khoản trợ cấp tăng cường thêm một năm 2026 thì ngân sách liên bang tốn khoảng $23 tỷ, nếu kéo dài thêm 10 năm (2025-2034) thì ngân sách có thể tốn $350 tỷ. (Thiệt hại cho nền kinh tế Mỹ trong một tháng chính phủ đóng cửa đã vượt quá con số $23 tỷ mà chính phủ có thể tiêu tốn nếu gia hạn trợ cấp Obamacare thêm một năm!)

Đảng Dân Chủ không tin rằng, sau khi chính phủ hoạt động trở lại, đảng Cộng Hòa sẽ nghiêm túc thảo luận và giải quyết vấn đề trợ cấp Obamacare nên họ cương quyết không bỏ phiếu thông qua kế hoạch ngân sách tạm thời chừng nào kế hoạch đó chưa bảo đảm duy trì Obamacare như trình bày trên.

Hai đảng bất hòa người dân chịu thiệt!

Nỗi nghi ngờ của đảng Dân Chủ có cơ sở là đảng Cộng Hòa ngay từ đầu đã phản đối Obamacare và đã nhiều lần tìm cách xoá bỏ nó dù không đưa ra được một chương trình thay thế tốt hơn. Từ một chương trình chăm sóc sức khỏe giá phải chăng cho người Mỹ, Obamacare bị biến thành một vấn đề chính trị, thành “chiến trường” cho cuộc tranh chấp ý thức hệ giữa hai đảng.

Đảng Cộng Hòa cho rằng Obamacare là sự can thiệp quá mức của chính phủ vào thị trường tự do, là một hình thức “xã hội chủ nghĩa”, trong đó người có thu nhập cao phải đóng góp nhiều để tài trợ cho người có thu nhập thấp hơn mà cả hai điểm này đều trái ngược với đường lối của đảng Cộng Hòa. Tổng Thống Trump gọi Obamacare là thảm họa xuất phát từ quan niệm đó.

Đảng Dân Chủ thì quan niệm chính phủ phải bảo đảm “quyền sống” của người dân, trong đó quyền được chăm sóc y tế là nhân quyền căn bản của con người, không thể phó mặc cho thị trường tự do vốn đặt ưu tiên cho lợi nhuận của nhà kinh doanh. Đảng Dân Chủ không chấp nhận tình trạng nước Mỹ hùng mạnh nhất thế giới, có thể giảm thuế hàng ngàn tỷ đô la cho giới nhà giàu, lại là nơi nhiều người dân đau bệnh không dám đến bệnh viện chạy chữa chỉ vì không đủ tiền mua bảo hiểm y tế.

Cuộc tranh chấp chưa biết lúc nào sẽ kết thúc. Chỉ biết rằng, từ ngày 1 Tháng Mười Một 2025, những người đang có bảo hiểm Obamacare sẽ phải ghi danh lại cho năm 2026 và do các khoản trợ cấp tăng cường sắp hết hạn nên phí bảo hiểm mà mỗi người phải trả sẽ tăng lên đáng kể, mức tăng nhiều hay ít còn tùy thuộc vào nơi sinh sống, tuổi tác và thu nhập.

Báo The New York Times dẫn dữ liệu của Kaiser Family Foundation cho ví dụ về mức tăng phí bảo hiểm Obamacare 2026 cho người trong độ tuổi 40 và 60 với các mức thu nhập khác nhau như sau: Người có thu nhập hằng năm $22,000 sẽ phải đóng $66 mỗi tháng (hiện là 0%), người có thu nhập $35,000 đóng $132 mỗi tháng, người có thu nhập $65,000 đóng mỗi tháng $196 nếu ở tuổi 40 nhưng phải đóng mỗi tháng $920 nếu ở tuổi 60. Đây chỉ là số liệu tham khảo, để biết chi tiết mức phí bảo hiểm Obamacare mà mình phải đóng quý vị nên liên lạc với nhân viên Covered California nơi mình sinh sống. [kn]


 

Khổ cho dân ta

Lê Vi

 Năm 2010 tui sang Cali chơi. Thông qua người bạn thân, tui quen biết với một người trong giới xã hội liên quan đến cờ bạc, cá độ.

Anh chàng xã hội đó đưa tui và bạn tui từ Cali qua Las Vegas chơi. Bọn tui được ngủ lại trong phòng president của ks 5 sao mấy đêm liền mà không tốn tiền.

Tôi tìm hiểu thì trên đường lái xe về lại Cali, anh chàng xã hội kể: Em là khách VIP của sòng bạc nên được ưu đãi, mỗi năm em mang lợi đến cho họ vài chục triệu đô là bình thường.

Tui hỏi làm sao? Anh ta kể, đại gia, quan chức VN qua Cali chơi đều nhờ em đưa đi Las Vegas, ai đến chơi cũng đều thua sạch, có người mỗi lần chơi thua vài triệu đô là bình thường.

Lúc đó tui không tin lắm.

Nhưng về sau này thì tui rất tin vì biết quan chức và đại gia ở VN kiếm được tiền rất nhiều và rất dễ.

Khổ cho dân ta

– Huỳnh Ngọc Chênh


 

Ở đất nước này, công lý chỉ dành cho kẻ biết nộp tiền!

Tri Nguyen Ông Tám 

Trịnh Văn Quyết, kẻ thao túng thị trường chứng khoán, rút ruột hàng nghìn tỷ của dân, được ân xá chỉ sau vài năm “ngồi chơi xơi nước” trong trại giam sang trọng. Đỗ Hữu Ca, tướng công an tham nhũng cả trăm tỷ, cũng được “khoan hồng” thả ra như chưa từng có chuyện. Trong khi đó, Nguyễn Văn Chưởng và Hồ Duy Hải – hai án oan ngút trời, bằng chứng ngoại phạm rõ ràng, nhân chứng sống còn – vẫn bị giam cầm, bị treo lơ lửng án tử như con rối trong tay công lý méo mó. Công lý Việt Nam không bằng một ký lông, đúng hơn là không bằng một đồng xu lẻ! Thả kẻ có tiền, giữ kẻ không tiền – đó là luật rừng, là đạo đức chợ búa, chứ không phải pháp luật!

Công lý ở Việt Nam giờ là vở hài kịch do Đảng Cộng sản đạo diễn, kịch bản đã viết sẵn: ai nộp được mớ tiền “khắc phục hậu quả” thì được tự do, ai không có thì chết trong tù. Thả Quyết ra để lấy lại tiền, thả Ca ra để giữ thể diện nội bộ, nhưng thả Hải ra thì phải đền bù oan sai, phải thừa nhận sai lầm, phải đối diện tai tiếng quốc tế. Thế nên công lý bị liệt, nằm im thin thít, để mặc oan hồn kêu khóc. Xã hội này, kẻ có ngân hàng và bạch kim đầy túi mới là “thằng thắng” – còn dân đen, dù đúng dù sai, chỉ đáng làm nền cho trò hề pháp đình. Công lý đã chết, chỉ còn cái xác được trang điểm bằng khẩu hiệu!

Án oan sai chồng chất trong dân, từ Cà Mau đến Hà Giang, ai cũng biết, ai cũng thấy, nhưng pháp luật thì cố che đậy bằng những phiên tòa dàn dựng, những bản án cắt sẵn. Họ lừa dân, lừa tiền, rồi bắt dân nộp tiền để “khắc phục” – như thể tội lỗi chỉ là món nợ có thể trả bằng tiền mặt. Dân biết hết, dân thấy hết, nhưng tiếng nói bị bóp nghẹt, bằng chứng bị tiêu hủy, nhân chứng bị đe dọa. Công lý không còn là công lý, chỉ là công cụ để bảo vệ kẻ mạnh, trừng phạt kẻ yếu. Đảng Cộng sản đạo diễn, tòa án diễn viên, công an bảo kê – còn dân thì ngồi xem, cười ra nước mắt, vì biết rằng: ở đất nước này, công lý chỉ dành cho kẻ biết nộp tiền!


 

Tịch thu hộ chiếu, ngăn nhà báo BBC xuất cảnh: Công an đã phơi bày bộ mặt sợ hãi và tàn nhẫn của chế độ Việt Nam

Ba’o Tieng Dan

Asia Times

Nguyễn Ngọc Như Quỳnh

30-10-2025

Tóm tắt: Việc Việt Nam sách nhiễu và ngăn cản phóng viên BBC rời khỏi đất nước là lý do để cô lập – chứ không phải tiếp tục “đối tác hóa” – với chế độ cộng sản.

Ngày 29/10/2025, BBC ra tuyên bố bày tỏ “quan ngại sâu sắc” về trường hợp một phóng viên người Việt làm việc cho BBC bị cấm rời khỏi Việt Nam trong nhiều tháng sau khi công an tịch thu hộ chiếu và căn cước công dân của người này trong chuyến về nước để gia hạn giấy tờ.

Theo The New York Times, nhà chức trách Việt Nam đã giữ hộ chiếu của phóng viên này từ tháng 8 và thẩm vấn lặp đi lặp lại trong nhiều ngày.

Tờ báo nhận định, vụ việc này “phơi bày những rủi ro mà công dân Việt Nam làm việc cho các hãng truyền thông quốc tế phải đối mặt” trong một đất nước luôn nằm trong nhóm tồi tệ nhất thế giới về tự do báo chí.

Tên của phóng viên được giấu để tránh nguy cơ bị bắt giữ trả đũa trong nước.

Tuyên bố của BBC được công bố chỉ một ngày sau khi Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm đến London trong chuyến thăm cấp cao được truyền thông nhà nước ca ngợi là “cột mốc ngoại giao nhằm nâng cao hình ảnh và uy tín Việt Nam”.

Thế nhưng, vụ việc BBC đã phủ bóng đen lên toàn bộ hình ảnh đó, phơi bày một mô hình đàn áp báo chí có hệ thống, trong đó có cả người Việt làm việc cho truyền thông nước ngoài – những người từng bị bắt cóc, cưỡng bức hồi hương, bỏ tù và tra tấn.

Việc BBC quyết định công khai vụ việc cho thấy ngoại giao im lặng đã thất bại.

Trong khi đó, Bộ Ngoại giao Anh ra một tuyên bố ngắn gọn nhưng mang tính cảnh báo: “Cam kết của Vương quốc Anh đối với tự do báo chí là rõ ràng”.

Đằng sau câu chữ ngoại giao đó là lời cảnh báo ngầm: Nếu Hà Nội tiếp tục đàn áp truyền thông, hình ảnh “đối tác đáng tin cậy” mà Tô Lâm đang cố xây dựng với phương Tây sẽ nhanh chóng sụp đổ.

Mạng lưới kiểm soát

Theo BBC, phóng viên này về Việt Nam chỉ để thăm gia đình và gia hạn giấy tờ, không thực hiện công việc báo chí, nhưng cuối cùng bị giữ lại, bị thẩm vấn và bị tước giấy tờ tùy thân.

Hành động này là vi phạm rõ ràng quyền tự do đi lại, được Hiến pháp Việt Nam và các công ước quốc tế về nhân quyền bảo đảm.

Vụ việc phản ánh nỗi ám ảnh cố hữu của nhà nước Việt Nam đối với công dân làm việc cho truyền thông quốc tế, những người bị nhìn nhận không phải là nhà báo, mà là “mối rò rỉ thông tin” tiềm tàng với thế giới bên ngoài.

Vài tuần trước, Tô Lâm từng tuyên bố rằng “nguồn tài nguyên quý giá nhất của Việt Nam là 106 triệu người dân”. Thoạt nghe qua, những lời này như một kiểu tán dương sức mạnh con người. Nhưng hành vi của chính quyền lại cho thấy điều ngược lại: Người dân bị đối xử như tài sản để quản lý, giám sát và kiểm soát. Ngăn một nhà báo rời khỏi đất nước chính là biểu hiện rõ nhất của việc biến con người thành “tài nguyên có thể bị tịch thu”.

Trong nhiều năm, tịch thu hộ chiếu đã là công cụ hiệu quả nhất của Bộ Công an nhằm hạn chế di chuyển và bịt miệng giới bất đồng chính kiến.

Các nhà hoạt động, tù nhân lương tâm và blogger thường xuyên bị tước hộ chiếu mà không có cáo buộc, không xét xử và không một quy trình pháp lý rõ ràng.

Những “biện pháp tạm thời” này vận hành trong vùng xám pháp lý – vô hình, tùy tiện nhưng cực kỳ hiệu quả trong việc tước đoạt quyền cơ bản được rời khỏi đất nước.

Bất chấp nhiều phản đối quốc tế, các chính phủ nước ngoài hầu như bất lực trước biện pháp này của Việt Nam.

Giờ đây, khi nhắm vào phóng viên thuộc BBC Vietnamese – người hiện làm việc tại Bangkok, Thái Lan – nhà cầm quyền đã nâng cấp chiến thuật cũ, mở rộng đối tượng từ nhà hoạt động nhân quyền sang nhà báo làm việc cho truyền thông quốc tế.

Đây là chiến thuật đàn áp tinh vi hơn nhưng không kém phần cưỡng bức: Không bắt công khai, nhưng gửi đi thông điệp rõ ràng cho những ai dám mang câu chuyện Việt Nam ra thế giới.

Chuyến đi London và tín hiệu ngược chiều

Chuyến thăm London – chuyến công du đầu tiên của Tô Lâm kể từ khi trở thành Tổng Bí thư – được kỳ vọng sẽ giới thiệu Việt Nam như một điểm đến ổn định và giàu tiềm năng cho nhà đầu tư phương Tây.

Thế nhưng, vụ BBC – và hành vi đàn áp mà nó tượng trưng – đã phủ bóng lên toàn bộ chuyến đi được dàn dựng cẩn thận đó.

Giới truyền thông Anh đã đặt câu hỏi về việc London có nên tăng cường hợp tác kinh tế với một chính phủ giam giữ nhà báo.

Các nhà quan sát lưu ý rằng Việt Nam thường thả tù nhân lương tâm hoặc giảm đàn áp trước những chuyến thăm cấp cao tới Washington hoặc Brussels – nhưng lần này lại ngược lại.

Bằng việc giam giữ một phóng viên làm việc cho chính đài truyền hình công cộng của Anh, Hà Nội đã gửi đi thông điệp tồi tệ nhất, vào đúng thời điểm tồi tệ nhất.

Khi ngoại giao im lặng thất bại

Thời điểm BBC công bố vụ việc cho thấy các nỗ lực ngoại giao thầm lặng đã không mang lại kết quả.

Trong nhiều tháng, vụ việc không được giải quyết dù có các kênh trao đổi kín.

Cuối cùng, BBC buộc phải công khai bằng tiếng Anh, ngay trước chuyến thăm London, để thu hút sự chú ý quốc tế.

Đây không còn là vụ việc riêng lẻ, mà là phần trong chiến lược kiểm soát xuyên biên giới của Việt Nam.

Những năm gần đây, chính quyền đã gây áp lực lên các nền tảng mạng xã hội, quấy rối YouTuber và bình luận viên trong cộng đồng người Việt hải ngoại, và theo dõi sát sao các nhà báo làm việc cho cơ quan truyền thông nước ngoài.

Mục tiêu không chỉ là kiểm duyệt trong nước, mà là mở rộng tầm kiểm soát ra ngoài biên giới – để cả những người Việt sống ở nước ngoài cũng phải tự kiểm duyệt.

Khi việc gia hạn hộ chiếu bị biến thành thẩm vấn, nhà nước đang gửi đi thông điệp rằng nghề báo đã trở thành mối đe dọa an ninh quốc gia.

Luật hóa đàn áp 

Vụ BBC cũng phơi bày một vấn đề cấu trúc sâu hơn: Bộ Công an không chỉ thi hành luật – họ còn tự viết luật.

Như đã được phân tích trên Asia Times, Tô Lâm đang tập trung quyền lập pháp chưa từng có vào chính bộ máy an ninh mà ông xuất thân.

Những dự thảo luật gần đây do Bộ Công an chủ trì – về thi hành án hình sự, lý lịch tư pháp, tạm giam và hạn chế di chuyển – đều mở rộng thẩm quyền cho lực lượng công an dưới danh nghĩa “bảo vệ an ninh quốc gia”.

Thậm chí, dự thảo sửa đổi Luật Báo chí còn yêu cầu phóng viên phải tiết lộ nguồn tin, xóa bỏ lá chắn bảo vệ cuối cùng của nghề báo.

Lý do “an ninh quốc gia” giờ đây được sử dụng để hợp pháp hóa việc tịch thu hộ chiếu của một nhà báo chuyên nghiệp, cho thấy sự dễ dàng mà nhà nước có thể bóp méo pháp luật nhằm bịt miệng tiếng nói độc lập.

Dưới thời Tô Lâm, thông điệp từ Hà Nội rất rõ: Tự do ngôn luận là đặc quyền, không phải quyền con người.

Và bất kỳ ai đều có thể bị bắt giữ theo những điều luật mơ hồ như Điều 331 (“lợi dụng quyền tự do dân chủ”) hoặc Điều 117 (“tuyên truyền chống nhà nước”).

Nghịch lý của một chính phủ “có trách nhiệm”

Dù vậy, Việt Nam vẫn giữ ghế trong Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc, và liên tục dùng vị thế đó để tô vẽ hình ảnh “chính phủ có trách nhiệm”.

Thế nhưng vụ BBC lần này đã phơi bày sự mâu thuẫn trắng trợn giữa lời nói và hành động.

Hà Nội ký kết các tuyên bố quốc tế về tự do biểu đạt – nhưng trong thực tế lại trấn áp cả những người làm việc cho BBC, The Economist hay Reuters.

Đây không chỉ là một vụ vi phạm quyền con người đơn lẻ, mà là bản thu nhỏ của mô hình cai trị hiện nay ở Việt Nam:

Một bên là lời hứa cải cách, hiện đại hóa và hội nhập toàn cầu. Bên kia là việc đàn áp ngay cả những người làm việc cho các định chế truyền thông danh tiếng quốc tế.

Nếu 106 triệu công dân thực sự là “tài nguyên quý nhất của Việt Nam” như lời Tô Lâm nói, thì chính quyền của ông đang chứng minh cách mà họ khai thác “tài nguyên” đó:

Bằng sợ hãi, giam hãm và tước đoạt quyền cơ bản nhất của con người – quyền được nói và quyền được rời khỏi đất nước của chính mình.

______

Tác giả: Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (Mẹ Nấm) là người viết bình luận nhân quyền và cựu tù nhân lương tâm Việt Nam, hiện sống tại Texas, Hoa Kỳ. Cô là người sáng lập WEHEAR, một sáng kiến độc lập, tập trung vào chính trị, nhân quyền và minh bạch kinh tế ở Đông Nam Á.