Nhà thờ Mằng Lăng ở tỉnh Phú Yên…va` Cuốn sách Phép Giảng Tám Ngày…

My Lan Pham

Nhà thờ Mằng Lăng ở tỉnh Phú Yên, nơi lưu giữ cuốn sách đầu tiên bằng chữ Quốc ngữ (Phép Giảng Tám Ngày) đang bị nước lũ bao vây tứ phía. Cho đến giờ vẫn chưa biết được số phận cuốn sách có được đảm bảo hay không.

Cuốn sách Phép Giảng Tám Ngày được cha Alexandre de Rhodes biên soạn và in ấn tại Roma vào năm 1651. Đây được xem là quyển sách tiếng Việt đầu tiên được in bằng chữ Quốc ngữ.

Do cuốn sách nằm dưới hầm có nhà nguyện nhỏ của Chân Phước (Á Thánh) Andre Phú Yên, cho nên khả năng bị ngập chìm là rất cao. Tuy vậy cuốn sách được đặt trong một hộp kính và hy vọng Cha quản nhiệm hoặc các vị hữu trách đã bảo vệ cận thận.

Ngôi nhà thờ cổ này, bản thân đã là một di tích lịch sử vô cùng giá trị, đang chứa trong mình cuốn sách bằng chữ viết đầu tiên mà chính tôi đang dùng để gõ những dòng này.

Khi gõ những dòng này lòng tôi vô cùng biết ơn tiền nhân đã cho ra một phương tiện để biểu đạt được hầu hết những suy nghĩ của mình, và cũng không khỏi lo âu liệu những tài liệu quý giá như vậy có tiếp tục gìn giữ được cho thế hệ mai sau hay không?

Lũ, lũ, và bão lũ… mãi mãi trên quê hương tôi vậy sao?

Lê Quốc Quân


 

Triển lãm và hội thảo VHM: 50 năm căn cước người Mỹ gốc Việt

Ba’o Nguoi-Viet

November 22, 2025

Trà Nhiên/Người Việt 

SANTA ANA, California (NV) – Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt (VHM) tổ chức triển lãm và chuỗi hội thảo với chủ đề “Từ Cuộc Di Tản Đến Di Sản: 50 Năm Hành Trình Người Mỹ Gốc Việt,” trong ba ngày Thứ Sáu, Thứ Bảy, và Chủ Nhật, 21, 22, và 23 Tháng Mười Một, tại viện bảo tàng Bowers Museum, Santa Ana.

Đoàn múa Thiên Ân Performing Arts trình diễn trống khai mạc ngày thứ hai của buổi triển lãm và hội thảo của VHM. (Hình: Trà Nhiên/Người Việt)

Ngày thứ hai của buổi hội thảo hôm 22 Tháng Mười Một thu hút đông đảo khán giả tham dự các phiên hội thảo sống động để kỷ niệm 50 năm hành trình hình thành kiên cường của cộng đồng người Việt hải ngoại.

Sảnh trước của Bowers Museum được VHM trưng bày những hiện vật lịch sử quý hiếm, tư liệu cá nhân, và tư liệu cộng đồng, mời gọi khách tham quan cùng ngược dòng thời gian, từ những cuộc di tản hỗn loạn năm 1975 đến sự hình thành của một cộng đồng đa thế hệ, năng động và bền bỉ.

Chương trình bắt đầu với phần trình diễn trống đa thế hệ của đoàn múa Thiên Ân Performing Arts.

Tiến Sĩ Alex-Thái Đình Võ, trưởng ban tổ chức, cho biết các phiên hội thảo tập trung phân tích những thành tựu nổi bật của người Việt trong kinh doanh, y tế, giáo dục, truyền thông và chính trường Mỹ, với điểm nhấn của chương trình là cuộc thảo luận giữa các diễn giả từ 20 đến 50 tuổi – những người đang trực tiếp định hình sinh hoạt cộng đồng. 

“Ngoài việc ôn lại hành trình 50 năm, sự kiện còn đặt câu hỏi trọng tâm: Làm thế nào gìn giữ ký ức và di sản để con cháu mai sau hiểu mình là ai và vì sao cộng đồng hiện diện trên đất nước này? Đây cũng là thông điệp xuyên suốt mà VHM muốn gửi gắm qua dịp kỷ niệm quan trọng này,” Tiến Sĩ Alex-Thái nói.

Tiến Sĩ Alex-Thái cho biết mục tiêu của phiên thảo luận là tạo không gian để mọi người có thể nói và lắng nghe nhau, ngay cả khi không đồng quan điểm. 

“Có những điều chúng ta đồng ý, hoặc không, nhưng quan trọng là phải có diễn đàn để hiểu nhau trước khi quyết định có thể cộng tác hay không,” anh nói.

Các diễn giả phiên thảo luận 2 và ban tổ chức của chương trình “Từ Cuộc Di Tản Đến Di Sản: 50 Năm Hành Trình Người Mỹ Gốc Việt.” (Hình: Trà Nhiên/Người Việt)

Với 30 diễn giả trong ba ngày, chương trình không nhằm đại diện toàn bộ trải nghiệm của cộng đồng, mà phản ánh một phần sự đa chiều của người Việt hải ngoại. 

“Không ai có thể nói thay cho cả cộng đồng, nhưng từng câu chuyện cá nhân đều góp vào một bức tranh chung,” anh Alex-Thái nhấn mạnh.

“Cộng đồng chỉ có thể lớn mạnh khi chúng ta đủ can đảm để trưởng thành cùng nhau,” anh nói. “Điều quan trọng nhất là cho nhau cơ hội để cất tiếng nói, và cơ hội để lắng nghe.”

Thảo luận sống động về căn cước người Mỹ gốc Việt

Phiên thảo luận 2 với chủ đề “Vươn Lên và Đại Diện: Chính Trị, Kinh Doanh, và Giáo Dục,” cũng chính là hội thảo đầu tiên trong ngày quy tụ các diễn giả thuộc nhiều thế hệ – từ Gen Z đến thế hệ 1.5 và thế hệ tị nạn đầu tiên để chia sẻ căn cước “người Việt tị nạn.” 

Với phần điều hợp của anh Joseph Nguyễn, giáo viên Học Khu Westminster, hội thảo gồm các diễn giả như cô Cathy Beaupain (doanh nhân), Tiến Sĩ Annie Bích-Loan Dương (Sở Giáo Dục San Joaquin County), Tiến Sĩ Trí C. Trần (Liên Hiệp Các Trường Việt Ngữ Hải Ngoại), bà Frances Thế Thủy Nguyễn (ủy viên Học Khu Westminster), Bác Sĩ Nguyễn Thành Tâm (ủy viên Hội Đồng Giao Thông Orange County-OCTA), và Luật Sư Thái Việt Phan (nghị viên Santa Ana).

Các diễn giả nhấn mạnh rằng trải nghiệm tị nạn, ký ức về chiến tranh, việc học tiếng Anh, áp lực hòa nhập và niềm tự hào văn hóa là những yếu tố định hình bản sắc và động lực để vượt khó. 

Phần thảo luận tập trung vào câu hỏi: Làm thế nào các thế hệ người Việt tại Mỹ có thể dung hòa hai bản sắc, truyền thống Việt Nam và đời sống Mỹ, để xây dựng tương lai chung? 

Từ trái, nữ tài tử Quyên Ngô, Tiến Sĩ Thảo Hà, đạo diễn Đức Nguyễn, và Bác Sĩ Suzie Xuyến Đông. (Hình: Trà Nhiên/Người Việt)

Một số diễn giả khẳng định việc giữ ngôn ngữ và văn hóa Việt rất quan trọng, nhưng cũng cần mở lòng với sự thay đổi và hội nhập. 

Luật Sư Thái Việt Phan nói: “Tôi không phải chọn giữa Việt Nam hay Mỹ. Tôi là 100% người Việt Nam và 100% người Mỹ.” 

Các diễn giả cùng nhấn mạnh vai trò của giáo dục, văn hóa đại chúng, ẩm thực, và sự hợp tác liên cộng đồng để giúp thế hệ trẻ tự hào về gốc rễ, và kêu gọi các thế hệ cùng nhau gìn giữ di sản, thích ứng với thời đại mới, và tiếp tục xây dựng một cộng đồng người Việt vững mạnh, đa văn hóa và đoàn kết tại Hoa Kỳ.

Phiên thảo luận 3 có chủ đề “Những Cái Mất: Chấn Thương Tâm Lý, Im Lặng và Chữa Lành Trong Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại,” với sự điều hợp của nữ tài tử Quyên Ngô, đồng sáng lập VìTÂM.

Các diễn giả gồm Bác Sĩ Suzie Xuyến Đông (Southland Integrated Services), đạo diễn Đức Nguyễn, và Tiến Sĩ Thảo Hà (MiraCosta College).

Buổi hội thảo xoay quanh những câu chuyện ít khi được kể trong cộng đồng như những vết thương chiến tranh, chấn thương gia đình và hành trình đi tìm sự chữa lành. 

Các khán giả cũng được mời định nghĩa “chấn thương” và “chữa lành” bằng một câu ngắn, để thấy rằng mỗi người đều mang một câu chuyện riêng, và những câu chuyện đó đều đáng được lắng nghe và thấu hiểu.

Các chuyên gia trong buổi hội thảo phân tích chấn thương không chỉ nằm trong ký ức, mà in hằn vào cơ thể, cảm xúc, cả cách nuôi dạy con cái. 

Họ cũng nhấn mạnh vai trò của không gian an toàn để kể chuyện, của lắng nghe không phán xét, của nghệ thuật, phim ảnh, ca hát, thiền, sinh hoạt cộng đồng… như những hình thức chữa lành tập thể. 

Các diễn giả cũng thẳng thắn nhắc công việc kể chuyện, làm phim, hỗ trợ pháp lý hay công tác xã hội đều cần được cộng đồng ủng hộ cả tinh thần lẫn tài chính. 

Thông điệp của hội thảo rằng mỗi người xứng đáng có một mối quan hệ tử tế với chính mình, chấn thương có thể truyền qua nhiều thế hệ, nhưng sự cảm thông, lòng nhân ái và không gian cho sự thật được cất lên, là con đường để vá lại những gì chiến tranh và im lặng làm rạn vỡ.

Nhiều khán giả tham dự buổi hội thảo của VHM hôm 22 Tháng Mười Một. (Hình: Trà Nhiên/Người Việt)

Những ký ức quý giá

Tiến Sĩ Annie Bích-Loan Dương, ở miền Bắc California bay xuống để tham dự hội thảo, cho biết: “Tôi rất hân hạnh và rất vui khi được tham dự hội thảo và triển lãm của VHM với vai trò diễn giả.“

“Trong cộng đồng mình không thiếu doanh nhân, không thiếu chính trị gia, nhưng trong hệ thống trường công K-12 thì lại thiếu tiếng nói và sự hiện diện của người Việt. Chúng ta cần nhiều giáo viên, nhiều người làm trong ngành quản lý giáo dục hơn nữa,” bà nói.

Tiến Sĩ Annie kể rằng mình cứ bảo con mình là người gốc Việt, nhưng chưa bao giờ giải thích vì sao. Sau này, bà bắt đầu kể cho các con về hành trình vượt biên, về lịch sử gia đình và ý nghĩa thật sự của văn hóa Việt. 

“Tết không chỉ là áo mới hay lì xì. Mình phải dạy sâu hơn, vì sao đi chùa, vì sao cúng ông bà, vì sao gia đình sum họp,” bà chia sẻ. 

Bà cho rằng phụ huynh nên mạnh dạn kể lại ký ức, góc nhìn và trải nghiệm của chính mình, để con trẻ từ đó tự phát triển cách hiểu của riêng chúng.

“Cứ nói, cứ chia sẻ. Con cái rồi sẽ lớn và sẽ tự tìm hiểu thêm. Điều quan trọng là chúng biết gốc của mình bắt đầu từ đâu,” bà nói.

Đứng trầm ngâm một góc triển lãm nơi trưng bày bàn máy may là cô Nguyễn Liên Hương, cư dân Fountain Valley, qua Mỹ năm 1992.

“Lúc đầu tôi chỉ nghĩ đơn giản rằng đến triển lãm để xem trưng bày các hiện vật của người Việt mang theo khi đến Mỹ,” cô nói. “Nhưng khi bước chân vào đây và nhìn bàn máy may này tôi rất xúc động.”

Cô Nguyễn Liên Hương (trái) và cô Hoàng Kim Yến bên bàn máy may gợi lại nhiều ký ức quý giá thuở mới sang Mỹ. (Hình: Trà Nhiên/Người Việt)

Cô tiếp: “Bàn máy may cũng là một trong những cái phương tiện để cho gia đình tôi kiếm sống lúc mới qua Mỹ. Những ngày đầu tiên gia đình tôi đến đất Mỹ này là cả nhà ngồi may hì hục từ sáng tới tối và một giờ tính ra chỉ làm được một đồng, nhưng chúng tôi rất mừng.”

“Khi nhìn lại thời gian đó thì mình cảm thấy biết ơn. Mình rất biết ơn nước Mỹ này đã cho mình một cơ hội để là làm lại cuộc đời,” cô Hương xúc động nói.

Cùng chung tâm sự với cô Hương, là cô Hoàng Kim Yến, ở Westminster.

“Chỉ cần nhìn thấy chiếc máy may, bao nhiêu cảm xúc của thời đó ùa về. Lúc mới qua Mỹ, ban ngày tôi đi học trung học, ban đêm cả nhà ngồi may để kiếm sống. Nhìn cái máy may này, tôi như thấy lại chính mình ngày xưa,” cô Yến, sang Mỹ 1983, chia sẻ.

“Tôi rất cảm ơn những người đã gìn giữ và hiến tặng những hiện vật này. Nhà tôi giờ không còn giữ được gì nữa, chứ nếu còn, tôi cũng sẽ đem tặng cho bảo tàng để thế hệ sau hiểu được những năm tháng khó khăn mà thế hệ thứ nhất trải qua,” cô Yến nói. [dtr]

Liên lạc tác giả: nguyen.nhien@nguoi-viet.com


 

Công an triệu tập hơn 50 Facebooker loan tin về số người chết ở Phú Yên

Ba’o Nguoi-Viet

November 23, 2025

ĐẮK LẮK, Việt Nam (NV) – Công An Đắk Lắk loan báo triệu tập 52 Facebooker với cáo buộc đưa tin số người chết do thủy điện xả lũ tại xã Hòa Thịnh, trước đây thuộc tỉnh Phú Yên, nhiều hơn tuyên truyền trên báo nhà nước.

Nhà chức trách công bố chỉ có 23 người tại xã Hòa Thịnh thiệt mạng do mưa lũ, trong lúc các Facebooker đưa tin “hàng trăm người.”

Một phụ nữ bị Công An Đắk Lắk triệu tập vì bài đăng không theo tuyên truyền về số người chết do thủy điện xả lũ tại tỉnh Phú Yên trước đây. (Hình: Công An Đắk Lắk)

Theo tờ Người Lao Động hôm 23 Tháng Mười Một, Công An Đắk Lắk quy chụp rằng 52 danh khoản mạng xã hội “đăng tải nội dung chưa kiểm chứng, sai sự thật về tình hình mưa lũ.”

Có năm trong số 52 Facebooker bị xử phạt 37.5 triệu đồng ($1,422), 17 trường hợp bị triệu tập, răn đe và yêu cầu viết cam kết “không tái phạm,” những người còn lại bị ép buộc “gỡ bỏ bài viết vi phạm.”

Đáng nói, ngoài việc đe dọa các Facebooker, Công An Đắk Lắk còn triệu tập những “KOLs” (người có sức ảnh hưởng), quản trị viên các hội nhóm Facebook tại địa phương, ra lệnh cho họ “tăng cường kiểm duyệt, gỡ bỏ các bình luận, hình ảnh tiêu cực, sai lệch gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự và nỗ lực cứu trợ.”

Trong hai ngày qua, một số báo ở Việt Nam đưa tin úp mở về việc không đủ quan tài cho những người chết tại xã Hòa Thịnh.

Tờ Thanh Niên hôm 23 Tháng Mười Một kể về trường hợp bà Lê Thị Hằng, 50 tuổi, ở xã Hòa Thịnh, có người mẹ thiệt mạng, thi thể ngâm trong nước lũ bốn ngày, bắt đầu phân hủy, mùi tử khí nặng nề nhưng không có quan tài để lo hậu sự.

Bà Hằng kể rằng mình đã báo với chính quyền nhưng cán bộ thôn trả lời: “Giờ tiếp nhận thì tiếp nhận, nhưng để đó…”

Phóng viên báo Thanh Niên cám cảnh trước sự việc, liên hệ đội cứu hộ “Ghềnh Chè Thái Nguyên” để thu xếp một chiếc xe bán tải và ca nô chở quan tài đến tận nhà bà Hằng.

Trên mạng xã hội xuất hiện nhiều lời kêu gọi góp quan tài cho những người chết do thủy điện xả lũ tại xã Hòa Thịnh, trước đây thuộc tỉnh Phú Yên. (Hình: Công An Đắk Lắk)

Một ngày trước, tờ Tuổi Trẻ dẫn lời ông Lâm Sư Thắng, một người dân ở xã Hòa Thịnh có cha thiệt mạng nhưng chưa có quan tài để chôn.

Ông Thắng kể lũ rút, ông về nhà cha mẹ thì phát hiện ông Sanh bị tủ đè, chết chìm dưới nước.

“Tôi nghe mẹ nói ngày 20 Tháng Mười Một, nước rút tới bụng, cha bước xuống thì bị tủ ngã đè. Giờ chờ quan tài mà mãi chẳng thấy. Không biết có quan tài để chôn không, dịch vụ mai táng ở đây họ làm không xuể,” ông Thắng nói.

Cùng thời điểm, ông Nguyễn Văn Tiến, người làm dịch vụ mai táng ở xã Hòa Thịnh, được nhìn thấy liên tục nghe điện thoại nhờ lo hậu sự, trước quay qua nói với phóng viên: “Gia đình tôi làm dịch vụ mai táng mấy chục năm ở Hòa Thịnh, nhưng chưa khi nào thấy thảm kịch như lần này. Hôm qua làm 13 đám [ma], hôm nay đến giờ này chín đám. Chẳng biết còn nữa không, mong là dừng, quá khổ.”

Đang nói thì điện thoại đổ chuông, ông Tiến vừa thò tay vào túi quần, vừa nói: “Gì nữa đây, không lẽ còn nữa hả trời…” (N.H.K) [kn]


 

HOÀI NIỆM… MỘT THỜI: ÔI SÀI GÒN! NHỚ ÔI LÀ NHỚ…-LÊ MINH ĐỨC (YK 1967-1974)

LÊ MINH ĐỨC (YK 1967-1974)

Không biết các anh chị ghé duyên về sống ở vùng đất Saigon vào lúc nào? 

Để tôi kể lại: 

– Quê tôi ở Bến Tre từ trước năm 1954, Ba tôi làm sở Bưu Điện mà hồi xưa hay gọi là nhà dây thép. Ba tôi nhận nhiệm sở ở Vũng Tàu không có đem gia đình theo cùng. Má tôi và gia đình nhỏ tá túc ông nội tôi ở Bến Tre, cách nhà ông ngoại cô bạn cùng lớp Phương Khanh có vài ba căn phố trên đường từ sở thú ra đến bến sông Bến Tre. Muốn tới bến sông, phải băng qua ngã tư. Đến ngã tư, rẽ trái sang Cầu Cá Lóc về Giồng Trôm, rẻ phải ra chợ Bến Tre và Tòa Bố (tên gọi Văn Phòng tỉnh lỵ thời xưa). Từ đầu ngã tư này đến cổng vườn  thú (sau này xây trường trung học Bến Tre) là nhà ông nội tôi, đi xa hơn nữa là hồ Trúc Bạch, sau này có tên khác là hồ Chung Thủy. Ở châu thành Bến Tre, ai cũng đi qua nơi này. Sau khi Nhật đảo chánh Tây, ba tôi thất nghiệp cho tới Tây trở lại Đông Dương sau thế chiến. Lúc đó, nhà nước mới triệu hồi ra làm việc.

Lần này, Ba tôi lên Saigon nhận nhiệm sở ở Bưu Điện Trung Ương vào năm nào tôi không rõ và từ đó tôi trở thành dân Sài Gòn.  

Ba tôi làm công chức tuy là có đồng vào, đồng ra, nhưng chạy tiền mua nhà rất vất vả, đành ở thuê. 

Tôi theo gia đình di chuyển từ Nancy qua Khánh Hội (xưa có tên là Xóm Chiếu), nằm trong quận Tư, thành phố Saigon. 

Sau đó, từ Khánh Hội, đổi chỗ cư ngụ qua Lê Lai gần nhà thờ Huyện Sĩ, rồi quay trở lại Khánh Hội. 

Năm 1963, một lần nữa tôi  lại dời nhà về Gò Vấp, Gia Định, và ở tại đó cho đến  năm 1975.  

Cư ngụ từ nhà sàn, sang nhà gạch, đến nhà phố, đời tôi đã gởi gắm nhiều về Saigon. 

Khi trí nhớ tôi bắt đầu lúc tôi 8 tuổi, hình ảnh Saigon càng ngày càng ghi đậm trong lòng tôi. Theo thời gian, từ lúc đón nhận người Bắc di cư năm 1954, truất phế Vua Bảo Đại, đến giặc Bình Xuyên, rồi Đệ Nhất Cộng Hòa qua với 2 lần đảo chánh, một lần ném bom tại dinh Tổng Thống.

Từ sau năm 1963, tiếp theo nền đệ nhất Cộng Hòa sụp đổ. 

Từ đó, Saigon trầm luân trong cuộc chiến, thay đổi chính phủ, không lúc nào yên, nổi bật nhất vào những năm 1968, 1972. Saigon liên tục thay đổi theo sự nhọc nhằn với chiến tranh. 

Sài gòn trở mình vì biến đổi xã hội nhanh chóng. Người Mỹ mang một nền văn minh mới lạ đôi khi va chạm với nền đạo lý truyền thống của người Việt. Đời sống giao động theo chiến tranh và kinh tế lạm phát mãi tận đến ngày không bao giờ quên là ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Lúc đó, tôi mới đành từ giả Saigon lưu lạc xứ người. Nay đã hơn 40 năm trên xứ người, Saigon không phai mờ trong trí óc. Saigon một thời là nhịp thở của tôi.

Có lẽ thời gian sau năm 1954 là thời gian mà Sài gòn chuyển mình mạnh nhất về xã hội, kinh tế, giáo dục và văn hóa. Con người và nếp sống tự do ngắn ngủi trong chừng 20 năm, mang rất nhiều vương vấn, thương nhớ Sài gòn. 

Sài gòn có từ hơn 300 năm, Sài gòn trãi qua nhiều giai đoạn thăng trầm, trở mình lớn dậy từ buổi sơ khai do di dân từ đời chúa Nguyễn, tiếp nối Triều Nguyễn qua nhiều triều đại cho đến khi trở thành thuộc địa của Pháp. 

Dầu sống dưới hình thức thể chế nào đi nữa, người dân Saigon chưa bao giờ phủ nhận là mình không phải là người Việt Nam mặc dầu về kinh tế, giáo dục, văn hóa tiếp cận Âu Tây sớm hơn người dân ở ngoài Trung, ngoài Bắc. 

Trong lịch sử, có nhiều cơ hội để miền Nam tách ra thành một quốc gia độc lập, nhưng người Miền Nam và dân Saigon vẫn một lòng với chúa, với vua, giữ trọn đạo cương thường. 

Saigon từ xưa vốn không phải là nơi đặc biệt dành cho người Nam Kỳ mà là nơi có nhiều sắc dân từ lâu sinh sống chung đụng hài hòa: người miền Nam, miền Bắc, miền Trung, người Hoa, người Miên, Chàm, Ấn Độ, Pháp. 

Ai muốn giữ ngôn ngữ, tiếng nói của mình thì giữ, không có sự đồng hóa.  

Người Tàu, người Việt (Bắc, Trung), người Pháp ngay cả người Miên, Ấn Độ vẫn có trường học dạy tiếng của họ.

Tại Saigon có đủ chùa, đình, miếu, nhà thờ, mosque hồi giáo. Họ sống hòa đồng, quý mến nhau, không gây gắt kỳ thị.

Ai đã từng ở Saigon, thở không khí Saigon, sống giữa những trưa hè oi ả.  Nghe tiếng ve sầu kêu vang suốt mùa, hay lặng nhìn những cơn mưa rào nặng hạt trên mái hiên, những con đường lầy lội, phập phồng chiếc bong bóng nước. Những buổi tan trường khi cơn mưa ập đến, đành đội mưa mà đi, tuy quần áo ướt sũng mà lòng phơi phới hân hoan không cần ô dù, cứ để mặc nước tuông vào người. Nhớ hoài cái cảm giác lâng lâng, cái cảm nhận sâu sắc về cơn mưa rào trong lòng người Saigon.

Có những lúc, cả nhà ngồi quây quần bên chiếc Radio nghe tuồng cải lương với tình tiết ly kỳ, những màn thoại kịch bi hài: Vũ Đức Duy, Dân Nam, Kim Cương, Túy Hồng, tay phe phẩy quạt muỗi giữa khí trời nóng nực, tha hồ mà ngậm ngùi rơi lệ với tuồng Lá Sầu Riêng hay Đời Cô Lựu. 

Lại có bữa khác, hồi hộp nghe Huyền Vũ truyền thanh trận banh quốc tế, sao mà mê tơi , thấy mình như là cầu thủ đang vẻ vời những đường banh ngoạn mục trên sân cỏ. Trên những con đường phố xưa, sau buổi cơm chiều, bắt ghế bố, ngồi hóng mát trước sân, cùng hàng xóm chia sẻ nỗi buồn vui cuộc đời. Sống ở Saigon là thế.

Lòng rộn ràng được cô chú dẫn đi xem một tuồng cải lương, một buổi đại nhạc hội, say sưa thả hồn theo màn trình diễn nghe ca sĩ Anh Ngọc với bài ” Em đến thăm anh một chiều mưa” !!! 

Nghe Ban Thăng Long với” Ngựa Phi Đường Xa”, ngậm ngùi nghe Trần văn Trạch với “Chuyến xe lửa mùng Năm”, rơi lệ với Kim Cương trong thoại kịch Trà Hoa Nữ… 

Saigon ôi nhớ ơi là nhớ.

Có đôi khi trốn học ghé vào những rạp xi-nê tình tứ trong góc hẻm Lê thánh Tôn chéo chợ Bến Thành (rạp Lê Lợi thì phải – rạp Vĩnh Lợi) rạp Eden trong hẻm Eden, rạp hát Catinat trong ngõ hẻm vắt ngang đường Charner (Nguyễn Huệ) và đường Catinat (Tự Do). 

Lạ lùng, đó là những rạp ciné nhỏ trang trí khá sang trọng chứa ít người. Người xem ăn mặc chỉnh tề như vào những rạp có tiếng là sang: Rex, Majestic, Casino.

Tuy vậy, không có gì vui bằng vào rạp Cathay gần Ngân Hàng Quốc Gia, mặc quần tiều (xà lỏn) ướt sũng vì mưa, ngồi chồm hổm trên ghế cho khô quần, say mê xem phim “ Canon de Navarone” ” Gunfight at the O.K.Corral”. 

Thời đó thiếu gì rạp hát chiếu với giá 5 đồng 2 phim, đặt biệt là phim hay đứt nửa chừng. Mình ngồi ngáp dài chờ nối phim. Xem chớp bóng (Xi cờ la ma) với cung cách đó chỉ thấy ở những rạp bình dân ở Saigon.

Người Saigon tìm giải trí về những tuồng Cải Lương trên sân khấu, ngày càng nở rộ, những buổi Đại nhạc Hội đầy kịch tính và những bài hát đa dạng về đồng quê, tình yêu nước, tinh duyên ngang trái. Nghe Radio và sau này trên truyền Hình (TV) là lối giải trí rẻ tiền của người dân Saigon.

Tuổi thơ Saigon có gì vui? nhiều lối chơi lắm: trong nhà, nhất là khi trời mưa: Bắn thun, bắn bì, diễn tuồng. Ngoài sân: tụm ba tụ bảy với hàng xóm, trời không mưa: đá banh, táng trống, đánh đáo, chơi bông vụ, đá cầu lông, bắn bi chai, đá dế, đá cá lia thia, tạc hình, nút phén đập dẹp, bao thuốc lá, ném đá trên lưng người cổng. Trời mưa: tắm mưa ngoài phố, trượt xi măng láng, bắt cá bằng lồng bẫy chuột trong cống dẫn nước từ sông Saigon chảy ngược vào.v.v.

Còn nữa chưa hết: trèo lên nóc nhà thả diều, bẫy chim khoen, bắt dế cơm ở Ngân Hàng Quốc gia bên kia cầu Mống lúc trời tối. Đánh lộn với trẻ con của khu phố khác. Cờ bạc: Hốt lú, đánh bài, tạc hay khẻ tường, đổ xí ngầu ăn bò vò viên, ăn bò bía. Ban đêm: u mọi, bỏ khăn, chờ xe taxi qua cộng số xe theo bài cào để  định hơn thua  mà thay phiên nhau cổng. Tuổi thơ của tôi ở Khánh Hội, Saigon” là vậy đó.

Ăn hàng vặt ở Saigon thì muôn hình vạn trạng: Trẻ con được vài đồng mỗi buổi sáng cha mẹ cho là vui rồi, số tiền đó vừa ăn vừa dè sẻn mới có được những trò chơi ở trên (nhất là trò chơi cờ bạc). Vài đồng thì ăn được cái gì hở? một tô cháo huyết, cháo đậu xanh với đường thẻ, cháo lòng. Một gói xôi đậu xanh và dừa nạo, bọc bánh phồng, xôi bắp kiểu Nam, kiểu Bắc, cốm dẹp trộn dừa, bánh mì chang sốt cà, một đỉa cơm tấm bì nhỏ, bánh ướt với một nửa bánh đậu chan nước mắm cay vừa cay vừa hít hà, bánh cuốn thanh trì chờ lâu vì tráng bánh, một tô bánh hoành thánh nước lèo, một đĩa ốc gạo với nước mắm chanh, một đĩa ốc len xào dừa, một tô bánh canh nhỏ, một đĩa bánh tằm bì, bánh bèo bì.

Chắc tạm đủ, thêm những lặt vặt khác: như kẹo kéo, kẹo đậu phộng kẹp bánh tráng, một chiếc chuối nướng bọc nếp, một chiếc chuối nướng trên lò than, đập dẹp chan nước dừa. Một miếng khô mực nướng, khô cá đuối nướng, khô mực nướng tráng mỏng chấm tương ớt. Một trái cóc chẻ ngâm cam thảo, một trái ổi, một miếng xoài tượng ăn với mắm ruốc hay muối ớt, một miếng khóm ngọt.v.v. Còn chè thì đủ loại: táo soạn, chè thưng, chè trôi nước, chí mà phù, chè đậu xanh, chè đậu xanh bột bán, chè đậu đỏ, sương sa hạt lựu nước dừa, đá nhận chan nước siro, cà rem cây đậu xanh đậu đỏ…v.v.. anh chị nhớ mệt nghỉ.

Ở Saigon, hàng sách báo tự do mở khắp nơi, nhật báo, tuần báo, nguyệt san, báo Xuân. Nhà sách lớn nhỏ, cho đến những quán sách vỉa hè đông đúc người đọc. Chờ báo Hồng Kông với truyện kiếm hiệp của Kim Dung, tiểu thuyết mới xuất bản của Quỳnh Dao là một trong món ăn tinh thần  đầy lôi cuốn của người dân Saigon.Người Saigon có cách đọc báo thú vị : ăn sáng trong quán cà phê, tiệm nước, hay ngồi vắt vẻo trên xích lô khi không có khách, hay ngồi chồm hổm, hay trên chiếc ghế đẩu thấp tè tè, miệng phì phèo điếu thuốc, đọc ngấu nghiến từng trang báo. Hình ảnh này, có từ hồi nhà văn Phú Đức cho ra tiểu thuyết trinh thám từng kỳ: Châu Về Hiệp Phố . Món ăn tinh thần phong phú đến đổi sau này  mỗi một góc phố Saigon, đều có hiệu sách thuê. Cứ thuê mà đọc khỏi phải mua.

Sau năm 1954, phong trào văn nghệ phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết, từ báo chí, đến sách vở, tiểu thuyết, truyện dịch. Số nhà văn, nhà thơ tăng lên gấp bội. Nhạc sĩ, ca sĩ cũng vậy, ta có nhiều nhạc phẩm tuyệt vời còn lưu lại đến bây giờ. Phòng trà, quán cà phê ca nhạc bỏ túi, phong trào nhạc trẻ và những danh ca ngoại quốc len lỏi vào tâm hồn giới trẻ: Sylvie Vartan, Francoise Hardy, Christophe, the Beatle, the Animal, Elvis Presley, Pat Boone v.v.

Chỉ có Saigon mới có những ngày Giáng Sinh thật tưng bừng. Nó đến như ngày vui quốc lễ, không phân biệt tôn giáo, ai cũng vui vẻ đón mừng. Những hang đá làm bằng giấy bồi, những ngôi sao có ren tua thấp sáng báo tin Chúa ra đời, những chiếc thiệp với lời chúc nồng ấm. Phố xá đông nhiều hơn, mua bán nhiều hơn. nhộn nhịp hơn . Dân bát phố đổ ra đường nhiều hơn, chen chân mà đi. Hàng quán lung linh ánh đèn chớp, đóng cửa trễ. Đúng là rộn ràng một nỗi vui. Đêm Giáng Sinh, con đường dẫn đến nhà thờ Đức Bà đông hơn bao giờ hết. Tan lễ rồi, ai vội vã về nhà ăn reveillon thì về, ai muốn thưởng thức phố khuya thì lang thang trên những con đường đang vào cơn ngủ muộn.

Nhớ nhiều những rộn ràng cả tuần lễ trước Tết, khí hậu êm dịu, mát lạnh. Hàng hóa tuông về thành phố. Những quầy hàng dưa hấu lớn có, nhỏ có. Gian hàng treo những ngọn đèn khí đá. Cây cảnh, quất tắc, mai, đào đươm nụ chờ đến ngày tết. Hàng quán bánh mứt, pháo đỏ, rượu hồng chưng bày làm tăng nét yêu kiều chào đón mùa xuân mới. Những bài hát Xuân lập đi lập lại trên đài phát thanh không ngừng nghỉ, những phong pháo, hàng vải lụa là mới tinh. Những cánh thiệp xuân treo dài trong sạp báo nhỏ. 

Đi chợ hoa Nguyễn Huệ là một thú vị, xem người và hoa lấp lánh ánh xuân nồng. Mùa Xuân và Tết làm cho lòng người Saigon, háo hức, chộn rộn chờ đón Tết đến từ rằm tháng chạp, giao thừa, đến mùng 3, đi du xuân khoe áo mới khắp nẻo đường Saigon, đùa vui với tiếng pháo rộn rã liên tục, từ khu phố này đến khu phố khác. Đâu đâu cũng chan hòa niềm vui.. 

Sài gòn trong tâm tư của tôi không bao giờ xóa hết cho đến khi tôi rời xa Sài gòn năm 28 tuổi và lưu lạc đất khách hơn 40 năm. Tôi nghĩ, anh chị dầu là người Bắc , người Trung, người Hoa đã sống ở Saigon, tâm hồn anh chị thế nào cũng chất chứa nỗi nhớ nhung Saigon. 

Không phải chỉ tổng quát Saigon, mà từng con đường, từng khu phố, ngõ hẻm, từng công viên, từng chiếc lá me, lá chuồn chuồn tung bay trước gió, từng khu chợ, từng món ăn chơi trên vỉa hè, món chè món cháo không nơi nào mà không lưu dấu chân kỷ niệm của các anh chị về những địa danh quen thuộc : Đa Kao, Phú Nhuận, Tân Định, Chợ Cũ, Bàn Cờ, Xóm Chiếu, Khánh hội, Vĩnh Hội, Tân Thuận, Bình Tây, Chợ lớn, Phú Lâm, Cầu kho, Đồn Đất, Ba son, Bến Bạch Đằng, Bến đò Thủ Thiêm, Chợ Đũi, Chợ Quán, Ngã Sáu, Ngã bảy, Ngã tư Bảy Hiền, Phú Thọ, Phú Nhuận, Hàng Xanh, Ngã ba Chú Ía.v.v.

Làm sao quên được tiếng rao hàng lanh lảnh giữa đêm. Tiếng mì gõ ở cuối ngõ. 

Tiếng súc sắc tẩm quất. Tiếng gánh hàng kẽo kẹt giữa đêm về sáng. Tiếng chân ngựa thồ gõ từng nhịp bước trên đường phố. Rất thú vị bước lang thang độc hành dưới ánh đèn đường héo hắt khi thành phố Saigon đang yên giấc, ngủ vùi trong đêm. Nhớ câu hát: Nửa đêm lạnh qua tim, phố đã vắng thưa rồi, có người mãi đi tìm một người không hẹn đến, mà tiếng bước buồn thêm…thấm thía và nhớ nhiều về Saigon nếu ai đó đã từng lang thang giữa đêm khuya

Ngày xưa, anh chị còn nhớ, khi tan trường về, nhìn những tà áo dài trắng và chiếc nón lá của nữ sinh phất phơ trước gió. Từng nhóm nhỏ, họ đi bộ hay xe đạp về hướng trung tâm thành phố như những cánh bướm trắng yêu kiều bay từng đàn nhỏ trên cánh đồng xanh và chỉ một thoáng sau đó, có vài giờ, những tà áo trắng ấy tan biến đi trong ngày nắng vội.

Sài Gòn ôi đẹp làm sao những giờ phút ngắn ngủi đó. Lúc xưa nó ở quanh ta, mà giờ chỉ còn là hoài niệm. 

Sài gòn nay vắng bóng những tà áo dài trắng yêu kiều  phất phơ ngoài Phố. Saigon vĩnh viễn mất đi hình tượng ấy rồi .

Sài Gòn ngày ấy vẫn còn vương vấn mãi không biết cho đến bao giờ. 

Bây giờ đã ngoài 70, mà ký ức xa xưa vẫn còn lãng vãng đâu đây.

Tất cả tâm tình như đã gửi gắm ở phần trên kích động trong tâm tôi.

Tôi phải làm gì đây để khơi lại những gì liên hệ đến Thành Phố Saigon này?

Có những ngày trong căn phòng vắng, ngoài trời mưa lê thê không buồn trôi, ngồi thả hồn nhớ lại một Saigon xa xưa mà giờ đây chỉ còn là hồn thu thảo, bóng tịch dương và tôi viết bài này từ những gì tồn đọng trong ký ức của tôi với hy vọng gợi lại những lưu dấu về Saigon trong anh chị, cùng để lòng tràn dâng một niềm nhớ Sài Gòn dấu yêu.

Ôi Saigon của tôi ! 

Xin anh chị dành một phút suy tư về một nơi chốn đã chìm dần vào một bóng tối thăm thẳm của niềm nhớ. Phải chăng Saigon xưa chỉ còn hư ảo ? 

Mà thật, Saigon bây giờ khác, khác hơn Saigon xưa nhiều.. nhiều lắm.

Thân thương

Lê Minh Đức (YK67-74)

From: T. Nguyen


 

SIÊU SAO MAGA MARJORIE TAYLOR GREENE RỜI HẠ VIỆN SAU MÂU THUẪN VỚI ÔNG TRUMP-BBC

BBC News Tiếng Việt

SIÊU SAO MAGA MARJORIE TAYLOR GREENE RỜI HẠ VIỆN SAU MÂU THUẪN VỚI ÔNG TRUMP

Nữ dân biểu bang Georgia, Marjorie Taylor Greene, loan báo tin bà sẽ từ chức, một động thái gây bất ngờ chỉ vài ngày sau khi xảy ra mâu thuẫn công khai với Tổng thống Donald Trump.

Bà Greene – từng là một trong những ngôi sao thuộc phong trào MAGA của ông Trump trên chính trường Mỹ – đã đăng một video lên mạng xã hội thông báo bà sẽ rời quốc hội vào ngày 5/1/2026.

Dù là một chính trị gia nhiệt thành bảo vệ ông Trump nhất, nhưng việc nữ dân biểu Cộng hòa này liên tục yêu cầu công bố tài liệu về tỷ phú ấu dâm Jeffrey Epstein đã dẫn tới cuộc đối đầu gay gắt giữa bà và Tổng thống Mỹ.

Ông Trump thậm chí đã gọi bà Greene là “kẻ phản bội”, và đe dọa sẽ hậu thuẫn một ứng viên Cộng hòa khác thay thế bà Greene trong Hạ viện Mỹ.

Tổng thống Mỹ khi nghe tin bà Greene thông báo từ chức, đã gọi đó là “tin tuyệt vời cho đất nước”.

Bà Greene liệu có tiếp tục con đường chính trị sau khi bị ông Trump xa lánh?

AFP/Getty Images: Bà Greene và ông Trump trong một sự kiện vào năm 2024

#BBCNewsTiengViet

#DonaldTrump

#MAGA

#Epstein


 

 Bò viên và những kỷ niệm khó quên- Lê Văn Nghĩa

  Lê Văn Nghĩa

Nhắc đến bò viên là nhắc đến tuổi thơ của tôi, nên khiêm tốn một chút, chứ đáng lẽ phải nói là tuổi thơ của Sài Gòn ngày trước, và của bây giờ.

Một buổi sáng vui nhất khi còn đi học là có rủng rẻng một hai đồng dằn túi. Có tiền là tôi tìm đến chú bán xe bò viên có đổ xí ngầu lát (hột xúc xắc). Vì ít tiền nên cũng có máu “ăn thua” hòng kiếm chác thêm một chén nữa để bao mấy thằng bạn không may mắn trong ngày hôm nay, cũng như tôi đã từng có lúc không may mắn do không có tiền hoặc chơi thua chú bán bò viên.

Xí ngầu lát là ba cục xúc xắc đen thùi lùi và đôi khi đầy mỡ. Cách chơi rất công bằng, chú bán bò viên không lấy quyền làm nhà cái mà bắt chẹt mấy thằng nhỏ còn thò lò mũi. Hai bên cùng nhau bỏ ba cục xí ngầu lát vào cái tô cũ ba lần. Cục xí ngầu có sáu mặt: Hai mặt sơn đỏ là hai số một và bốn, những mặt còn lại là màu đen với các số còn lại.

Mỗi người được đi một lượt và chỉ lấy con số màu đỏ để tính điểm. Người nào thắng hai lần đổ thì là người thắng cuộc.

Mỗi khi có một thằng bạn chơi thì nhiều đứa xúm lại mong cho bạn mình thắng chú bò viên để được ăn ké, chí ít là cũng được một viên cho đỡ thèm. Còn bạn mình mà thua thì coi như cả đám trớt quớ.

Ôi, cái chén bò viên lúc đó sao mà ngon quá vậy! Còn những lúc không tự tin cho cái tay đổ bác (xui xẻo) của mình, tôi thường mua một chén để tận hưởng những viên bò viên dai dai, sựt sựt của gân, của mỡ. Trên mặt nước lèo là những mẩu hành lá nhỏ màu xanh, tô điểm cho mặt nước đầy mỡ, có thêm vài lát xá bấu (củ cải mặn) và rắc tiêu thơm lừng.

Ăn bò viên phải chấm với tương đen mới “phù hợp chủng loại” và đúng quy trình. Một cục bò viên chấm với tương đen, có thêm màu đỏ của tương ớt, hôm đó thua chú bò viên, khi nhìn tôi ăn phải chảy nước miếng.

Nhưng không, ngoài chuyện ăn ngon, chén bò viên cũng thắt chặt tình huynh đệ khi tôi cho tụi nó ăn khính (ké) một vài viên chấm tương đen. Trong đầu óc thơ dại của mình tôi nghĩ, biết đâu ngày mai nó thắng chú bò viên nó sẽ cho tôi ăn lại khi mình gặp xui. Ấy thế mà tình nghĩa bò viên cũng sống khá dai.

Lên trung học, mỗi thằng bạn chia tay vào đường đời vạn ngã. Thi thoảng tôi có quay lại trường xưa vẫn thấy chú bò viên muôn năm đứng đổ xí ngầu lát với tụi nhỏ. Có những thằng bạn, khi gặp nhau vẫn có dịp ăn bò viên ở những quán khác.

Những quán này, trong chén bò viên lại có thêm gân, thịt, gầu… hơi tả pí lù. Rồi sau này lớn lên thằng còn, thằng mất, thằng bệnh già, thằng giàu có, đại gia thì bò viên Sài Gòn vẫn còn đó, nhưng cảm giác ăn không ngon bằng xe bò viên thời tiểu học. Có lẽ, tâm hồn chúng tôi được in dấu thức ăn ngày xưa cũ, nó vẫn đi theo, theo mãi với kỷ niệm ăn uống từ tuổi thơ nghèo khổ.

From: Tu-Phung


 

Mẹ già ngồi khóc trên đống đổ nát.

Cao Thái Linh

 

Còn lại gì khi thủy điện Ba Hạ nhấn chìm khiến hàng trăm người dân thiệ.t mạ.n.g. Tài sản trắng tay. Rồi đây sẽ rõ. Chính người dân nơi đây sẽ cho quý vị biết thực tế. Không một ai có thể bịt miệng dân được mãi.

Mẹ già ngồi khóc trên đống đổ nát. Những tháng ngày tiếp theo họ sẽ sống bằng gì? Ai chịu trách nhiệm? Ai lo cho những người dân lầm than?

Không có gì diễn tả hết nổi đau đớn mất mát tại thời điểm này ở Phú Yên!

Đồng bào công giáo nơi đây thì sao? Xin mọi người quan tâm chung tay giúp đỡ họ. Đây mới là “hiệp hành” đúng ý nghĩa!


 

Nhà báo Nguyên Ngọc : Đất Chảy, 2020.

Võ Hồng Ly

21.11.2025

Nhà báo Nguyên Ngọc : Đất Chảy, 2020.

“Giáo sư Nguyên Ngọc Lung, chuyên gia số một về rừng vừa có bài viết nói rõ khi còn rừng tự nhiên thì mưa xuống chỉ có 5% nước chảy trên mặt đất, 95% sẽ ngấm xuống thành nước ngầm, cho nên ta đào giếng ở đâu cũng có nước. Khi mất rừng tự nhiên thì ngược lại, chỉ 5% ngấm xuống thành nước ngầm, hơn 90% sẽ chảy tràn trên mặt đất.

Nghĩa là còn rừng tự nhiên thì chỉ có lụt. Lụt hiền, lành, và thân thuộc như bạn chung tình mỗi năm một lần trở lại. Tôi ở Hội An, tôi biết, 3 năm qua không có lụt, người ta nhớ và chờ. Lụt rửa sạch ruộng đồng và mang về phù sa.

Lũ là khi đã mất rừng tự nhiên, chỉ còn lơ thơ mấy cây bụi lẹt đẹt, với cỏ, với cao su, keo, cà phê… tràn lan, là các loại cây không có bộ rễ giữ nước (mà các báo cáo với thống kê cứ gọi vống lên một cách gian dối là “độ che phủ”), 95% nước mưa chảy thành thác trên mặt đất quét hết mọi thứ, làng mạc và con người.

Nhưng năm nay khác: Năm nay không chỉ có nước xối xả thành lũ. Năm nay đã diễn ra một điều hoàn toàn khác, mới, và rất cơ bản: NĂM NAY ĐÃ ĐẾN LƯỢT ĐẤT CHẢY.”

“Ta gọi là lở núi. Thôi thì nói thẳng đi: Từng quả núi, từng ngọn núi lớn nổ tung rồi chảy ra thành nước, thành thác, vùi lấp xóm làng, ruộng đồng, con người, nuốt gọn từng gia đình, từng cộng đồng người, tất cả, tất cả…”

“Mối quan hệ sinh tử của sự sống là Đất và Nước được kết chặt vào nhau bằng Rừng. Năm mươi năm nay, với lòng tham vô độ, bất chấp mọi lời kêu cứu thất thanh, ta đã chặt đứt cái khâu sinh tử: RỪNG. Phá sạch sành sanh rừng rồi. Không còn rừng, rừng tự nhiên, thì NÚI CHẢY RA như nước. Năm nay không phải chủ yếu là lũ nước, mà là lũ đất. Đó là thay đổi cơ bản năm nay, và theo tôi, từ nay.

Không cần giàu tưởng tượng lắm đâu, để mà thử nghĩ: Chảy hết núi rồi, thì đến gì nữa?”


 

LŨ LỤT : DO ÔNG TRỜI HAY DO “ÔNG NGƯỜI” ?

Người Giồng Trôm

LŨ LỤT : DO ÔNG TRỜI HAY DO “ÔNG NGƯỜI” ?

Mẹ thiên nhiên yêu con người lắm ! Mẹ nhiên nhiên chính là Thiên Chúa !

Mẹ yêu con người và bảo bọc con người như gà mẹ ủ ấp gà con thế nhưng rồi gà con cứ ngỡ mình là “con gà”.

Cũng thế ! Những ngày này, người ta ai oán Ông Trời nhưng thật sự chính “Ông người” đã gây họa cho mình

Dĩ nhiên mưa lũ không ai tránh khỏi nhưng hậu quả do đâu ? Đâu phải do Ông Trời mà do “Ông người”.

Phá quá mà ! Chơi vậy ai chơi lại ?

Bao nhiêu rừng nguyên sinh, bao nhiêu cây lâu năm đầu còn để mà giữ nước ?

Đừng ngồi đó ai oán Ông Trời mà hãy ai oán “Ông người” – những cái ông gây thiệt hại cho bao nhiêu gia đình, bao nhiêu con người.

Mỗi lần về Sài Gòn khám chữa bệnh là thương lắm ! Bao nhiêu mặt bằng trương biển cho thuê, bao nhiêu phận người lao đao với cuộc sống

Bí lắm người ta mới chạy grab ! Chạy grab dãi nắng dầm mưa cũng chỉ là đắp đổi qua ngày mà thôi

Bưng cà phê hay phụ quán thì 23 – 25 ngàn đồng 1 giờ thôi !

Vậy đó, cái phận ngheo nó bị cái nghèo vây bủa còn thêm những “Ông người” vây bủa nữa.

Những ngày tháng tới đây thì cuộc sống của nhiều gia đình chẳng biết đi về đâu

Chỉ biết cầu nguyện cho dân mình bớt khổ bởi lẽ mình cũng là dân mà ! Làm sao có thể an yên khi bao nhiêu gia đình đang chìm trong biển nước

Lặng và tự hỏi những “Ông người” còn lương tâm hay không khi đẩy dân nghèo mình quá khổ

Lm. Anmai, CSsR


 

Chị an nghỉ nha chị

Chuyện tuổi Xế Chiều – Công Tú Nguyễn

 Chị gần 60 tuổi, bị υпg thư đã phẫu thuật, đang chạy thận định kỳ. Chị còn bị suy tiм nặng. Quê tận Sóc Trăng, chồng mất sớm, chị và đứa con trai lưu lạc đến tận Bình Dương để con đi làm thuê, mẹ đi chạy thận…

Cuộc sống của chị mong manh. Không biết chấm dứt khi nào. Chị chạy thận suốt 2 năm mà luôn đi về một mình, vì con trai phải lo bươn chải kiếm tiền lo cho mẹ…

Sáng nay, chị trở nặng và ra đi. May mà điện thoại của chị không cài mật khẩu, nên gọi ngay được đứa con trai vào.

Thằng nhỏ khoảng hai mươi tuổi, gầy gò, lam lũ, ánh mắt đau khổ, run run hỏi tôi:

– Giờ con làm sao hả bác sĩ ?

– Con đưa mẹ con về nhà lo hậu sự đi. Để cô làm giấy tờ và lo xe bệпh viện cho con.

– Con không còn nhà để về, bác sĩ à..

– Vậy còn ai bà con không?

Thằng bé gọi điện thoại cho bà dì ruột. Xong, nó lắp bắp nói với tôi:

– Bác sĩ nói chuyện với dì của con.

Sau khi nghe hết câu chuyện, cô em gái trả lời:

– Bác sĩ thông cảm, lâu nay chị tui không liên lạc…

Có nghĩa là khốn cùng, khốn khổ cho chị. Có nghĩa là không còn chỗ nào, dù ở quê nhà, để trở về…

May sao, bác sĩ H, trưởng khoa cấp cứu liên lạc được tổ chức mai táng thiện nguyện 0 đồng, lo hỏa táng miễn phí cho chị. Khoa thận và bệпh nhân gom góp một ít tiền cho thằng bé…

Sáng, chị còn bước vô khoa thận nhân tạo; chiều, chị đã hóa thành tro bụi. Chị an nghỉ nha chị. Chị phù hộ cho thằng con côi cút của chị nha chị…


 

Họ im lặng!- Jang Kều

Ba’o Tieng Dan

20/11/2025

Jang Kều

20-11-2025

Khi tôi lên tiếng về việc lấn biển Cần Giờ, họ im lặng, vì Cần Giờ không liên quan đến họ.

Khi tôi lên tiếng về việc phá 500ha rừng Đăk Đoa, họ im lặng, vì Đăk Đoa chẳng phải quê họ.

Khi tôi lên tiếng về việc chặt 2.000 cây ở Hà Nội, họ im lặng, vì cây không nằm trên đất của họ.

Khi tôi lên tiếng về những ngôi làng phải tái định cư mất hết bản sắc văn hoá do thuỷ điện, họ im lặng, vì làng đó chẳng phải làng họ.

Khi tôi lên tiếng về việc lấp hồ làm nhà hát, họ im lặng, vì hồ đó không liên quan gì đến nhà họ.

Khi tôi lên tiếng về việc thiếu minh bạch, ém nhẹm thông tin khi có tai nạn, cháy nổ, người mua nhà không được cấp giấy tờ, họ im lặng, vì không phải vấn đề của họ.

Khi tôi lên tiếng về việc phá hoại các công trình di sản, họ im lặng, vì công trình đó chẳng phải của gia đình họ.

Khi tôi lên tiếng về những ngọn núi bị phá nát để xây khu vui chơi – resort, họ im lặng, vì núi đó không gần nhà họ.

Khi tôi lên tiếng về những dự án ép dân bán đất giá rẻ mạt, họ im lặng, vì họ đâu phải những nạn nhân đó.

Không những thế:

Họ mua nhà ở những khu đô thị lấn biển.

Họ đi du lịch, nghỉ dưỡng ở những khu đất phá nát rừng – biển – núi.

Họ mua villa ở những khu đô thị siêu cao cấp chiếm đất từ di sản.

Họ mua hàng hoá của những tập đoàn ém nhẹm thông tin xấu, bịt mồm báo chí.

Họ đi thưởng thức nghệ thuật ở các nhà hát được xây dựng từ việc lấp hồ, cưỡng bức người dân di dời.

Họ đầu tư chứng khoán, cổ phần ở các công ty thuỷ điện, phá núi rừng, lấn biển.

Họ khen ngợi những hành động “từ thiện hào hiệp” của những công ty kiếm tiền từ việc tống cổ người dân ra khỏi nơi sinh sống để chiếm đất làm dự án.

***

Một số người có quyền lực quyết định, quyền lực thông tin, có ảnh hưởng đến công chúng im lặng hoặc giúp “thay đổi” thông tin, sự thật, bởi vì:

Họ được mua căn hộ, villa giá rẻ, thậm chí được tặng không.

Họ được mua điện thoại, mua xe, mua dịch vụ du lịch nghỉ dưỡng giá rẻ, thậm chí được tặng không.

Họ được cho con đi học, khám chữa bệnh cho gia đình giá rẻ, thậm chí được tặng không.

Họ được mời đi du lịch nước ngoài giá rẻ, thậm chí được tặng không.

Họ được mua thẻ câu lạc bộ, thẻ đặc quyền dịch vụ, vé máy bay giá rẻ, thậm chí được tặng không.

Họ được mua cổ phần, chứng khoán giá rẻ, thậm chí được tặng không.

Họ còn được hợp đồng quảng cáo, được mời đi dự event, hội nghị với phong bì với mức “catse” rất lớn.

Họ thậm chí còn được vinh danh, giải thưởng dù không xứng đáng.

***

Cho đến một ngày:

Chính gia đình họ, người thân của họ bị mất nhà, sản nghiệp, tính mạng do mưa lũ, sạt lờ, sụt lún.

Chính gia đình họ, người thân của họ bị tai nạn từ những sản phầm, phương tiện, hay công trình không đủ tiêu chuẩn, thiếu an toàn.

Chính gia đình họ, người thân của họ bị chèn ép, bất công.

Và lúc đó họ mới thấm thía câu nói của Elie Wiesel – người được trao Nobel Hòa bình năm 1986 với lời tôn vinh “Sứ giả của nhân loại – người khơi dậy lương tri cho thế giới”, rằng:

“We must always take sides. Neutrality helps the oppressor, never the victim. Silence encourages the tormentor, never the tormented. The opposite of love is not hate, it’s indifference.”

Dịch ra là:

“Chúng ta phải luôn chọn đứng về một phía. Sự trung lập giúp kẻ áp bức, không bao giờ giúp nạn nhân. Sự im lặng khích lệ kẻ hành hạ, không bao giờ khích lệ người bị hành hạ. Đối lập của yêu thương không phải là thù ghét, mà là sự thờ ơ”.

P/S: Một đêm không ngủ vì chỉ nghe thấy TIẾNG KÊU CỨU từ những vùng bão lũ…