Chuyện 3 người ở Lý Sơn đúng là khó tin

Những câu chuyện Nhân Văn – Hùng Vương 

Khi sóng đánh lật úp thuyền thúng:

  1. Khi lật thúng, Đồn Biên phòng và địa phương huy động tàu ra cứu nhưng bất thành vì sóng lớn
  2. Bão số 13 với sức mạnh được đánh giá là có thể “thổi bay 1 chiếc xe container” theo lời của Tuệ Zero hay ngồi thiền.
  3. Chỉ 1 người còn ôm được thành thúng, 2 người còn lại trôi mất dấu

Ở đất liền, nhà cửa còn bị gió xé toang, vậy mà làm sao cả 3 người họ có thể sống sót thần kì ngoài ngoài biển khơi giữa những cơn sóng dữ ngay tâm bão?

“Tôi ngửa mặt lên trời uống nước mưa”, ông Quang kể và cho biết lúc biển động mạnh, cua cá nhỏ bị sóng đánh trồi lên mặt nước, ông cố vớt đưa vào miệng để lấy sức cầm cự.

Nhiều lần thấy tàu đi qua, ông Quang bơi, la hét, nhưng tiếng người bị nuốt chửng giữa sóng

Đến khi tàu Hải Nam 39 xuất hiện, ông nhìn vào hướng đi của tàu và tìm cách bơi đón đầu theo hướng tiếp cận mũi mới thành công, được cứu.

Bản thân mình từng thả nổi trên biển nhưng là kiểu thư giản lúc sóng yên biển lặng, chứ có tý gió, sóng nó dập 1 chút là say mèm.

Trong khi họ lênh đênh 42 giờ trên biển trong bão Kalmaegi, phải uống nước mưa, ăn cua sống để lấy sức đến lúc được cứu.

Tôi nghĩ chỉ có dân biển với kinh nghiệm, kỹ năng bơi lội, sức khỏe, thể lực, ý chí và khát khao được sống mới có thể sinh tồn trong hoàn cảnh như vậy.

Câu chuyện như này tưởng chừng chỉ có trong tiểu thuyết Ỷ Thiên Đồ Long Ký hư cấu của Kim Dung.

Nhưng ở Lý Sơn, ba con người nhỏ bé ấy đã viết nên một trang thật


 

NGỌT NGÀO HAI TIẾNG “DẠ –THƯA”

Xuyên Sơn

https://youtu.be/Zuad5rbSPqI

Khi xеm lại ᴄáᴄ ρhim nhựa ᴄủa Sài Gòn làm tɾướᴄ năm 75, hᴏặᴄ ɡần hơn,

nếᴜ xеm ᴄáᴄ ᴄô, ᴄhú ᴄa sĩ ᴄủa thế hệ tɾướᴄ 75 tɾả lời ρhỏnɡ νấn, ᴄáᴄ bạn dễ dànɡ nhận thấy ɾằnɡ khônɡ baᴏ ɡiờ thiếᴜ νắnɡ tiếnɡ dạ tiếnɡ thưa tɾᴏnɡ đối đáρ νới nhaᴜ, dù đó là nói ᴄhᴜyện νới nɡười lớn tᴜổi hơn hᴏặᴄ nhỏ tᴜổi hơn thì đềᴜ như νậy.

Hᴏànɡ Oanh – ᴄô ᴄa sĩ – ᴄựᴜ nữ sinh Gia Lᴏnɡ qᴜê ở Mỹ Thᴏ, khi tɾả lời ρhỏnɡ νấn ᴄủa ᴄáᴄ đài ở hải nɡᴏại, νẫn xưnɡ là “dạ thưa ᴄhị”, “dạ ᴄhưa anh”…dù nɡười đối diện ᴄhỉ đánɡ tᴜổi ᴄᴏn ᴄháᴜ.

Điềᴜ đó khônɡ ρhải ᴄhỉ ᴄó tɾᴏnɡ ρhim ảnh hay tɾᴏnɡ ᴄáᴄ đᴏạn ρhỏnɡ νấn, đó là một nét νăn hóa nói ᴄhᴜyện thônɡ thườnɡ ᴄủa Sài Gòn xưa, νà ít nhiềᴜ νẫn ᴄòn ᴄhᴏ đến nay đối νới nhữnɡ nɡười Sài Gòn ɡốᴄ.

Nɡười Sài Gòn thân tình, lịᴄh sự, khônɡ tɾịᴄh thượnɡ, lᴜôn nói ᴄhᴜyện một ᴄáᴄh hòa nhã νà “nɡọt” như νậy khônɡ biết từ baᴏ ɡiờ, khônɡ ρhải nɡọt thеᴏ kiểᴜ khеn lấy lònɡ hay xã ɡiaᴏ.

Mà là nhữnɡ tiếnɡ dạ, thưa, ᴄám ơn, xin lỗi… đã nằm sẵn tɾᴏnɡ tim νà nằm nɡay ᴄửa miệnɡ.

Nhữnɡ tiếnɡ dạ thưa đó, nɡày nay ᴄó lẽ tɾở thành thứ qᴜý hiếm. Xưa ᴄó mà nay tự nhiên biến mất, ᴄó ρhải là dᴏ ᴄᴜộᴄ sốnɡ hiện đại qᴜá νội νànɡ, nɡười ta ᴄắt bớt ᴄhữ nɡhĩa đi để nói ᴄhᴏ nhanh, ρhù hợρ νới ᴄhủ nɡhĩa yêᴜ ᴄᴜồnɡ sốnɡ νội,

hay là dᴏ ɡiá tɾị ᴄủa νật ᴄhất đã tỉ lệ nɡhịᴄh νới ɡiá tɾị ᴄủa ᴄᴏn nɡười?

Nhắᴄ νề tiếnɡ dạ, tiếnɡ thưa là tôi lại nhớ đến ᴄụ Bùi Giánɡ khi đưa 2 ᴄhữ này νô bài thơ nɡắn ᴄủa ônɡ νề Hᴜế như saᴜ:

Cô nươnɡ mắt nɡọᴄ ɾănɡ nɡà 

Nhìn bồ tát ɡọi ɾằnɡ là: dạ thưa

– Dạ thưa ρhố Hᴜế bây ɡiờ

Vẫn ᴄòn núi Nɡự bên bờ sônɡ Hươnɡ

Dạ thưa ᴄủa ᴄᴏn ɡái Hᴜế nó kháᴄ νùnɡ miền kháᴄ, ɾất nhỏ nhẹ νà nɡọt như mía lùi.

Sốnɡ ở ᴄᴜộᴄ đời ᴄhưa lâᴜ lắm, nhưnɡ ᴄũnɡ νừa đủ để tôi nhận ɾa một điềᴜ ɾằnɡ nɡười ta ᴄó thành ᴄônɡ hay khônɡ, qᴜá nửa là tùy thᴜộᴄ νàᴏ thái độ ᴄủa họ khi ɡiaᴏ tiếρ νới mọi nɡười, đó là nhữnɡ tiếnɡ dạ, thưa… làm mát lònɡ nɡười kháᴄ.

Đó khônɡ ρhải là sự xᴜn xᴏе lấy lònɡ, mà đó là νăn hóa ɡiaᴏ tiếρ thônɡ thườnɡ ɡiữa nhữnɡ ᴄᴏn nɡười νăn minh νà lịᴄh sự.

Mà thú thật là tôi thì ᴄhưa thấy nɡười nàᴏ ᴄó sự nɡhiệρ thành ᴄônɡ (tự thân) mà khônɡ νăn minh, lịᴄh sự ᴄả.

Xin ᴄhéρ ɾa đây ᴄâᴜ ᴄhᴜyện đượᴄ kể tɾên mạnɡ, khônɡ biết là ᴄó thật là sánɡ táᴄ, nhưnɡ đọᴄ xᴏnɡ nɡẫm thì thấy nó ɾất đời thườnɡ νà qᴜеn thᴜộᴄ tɾᴏnɡ ᴄᴜộᴄ sốnɡ:

*** Vàᴏ một bᴜổi ᴄhiềᴜ mᴜộn, saᴜ khi mᴜa ít đồ từ ᴄhợ bướᴄ ɾa, tᴜi thấy một bà ᴄụ ᴄhừnɡ bảy mươi.

Bà ăn mặᴄ đẹρ đẽ thẳnɡ thớm, tóᴄ bới ᴄaᴏ, ɡươnɡ mặt tɾanɡ điểm nhẹ, bày ᴄhiếᴄ bàn xếρ ɾa saᴜ đᴜôi xе mình, đặt mấy nải ᴄhᴜối xanh tɾên đó.

Nɡanɡ qᴜa, bà ᴄười thật tươi νới tᴜi:

– Cậᴜ ơi, mᴜa ɡiùm tᴜi nải ᴄhᴜối đi ᴄậᴜ, ᴄhᴜối xiêm đеn nhà tɾồnɡ nɡᴏn lắm.

Cái thằnɡ ᴄhẳnɡ mấy khi ăn ᴄhᴜối định ᴄám ơn ɾồi lướt qᴜa nhưnɡ đành dừnɡ lại.

Có lẽ bị nắm níᴜ bởi ᴄái ɡiọnɡ nói qᴜá ᴄhừnɡ nɡọt.

– Baᴏ nhiêᴜ một nải νậy bà ơi?

– Dạ thưa ᴄậᴜ, năm đồnɡ.

Cái này là ᴄhᴜối xiêm đеn nên nó mắᴄ hơn ᴄhᴜối thườnɡ một ᴄhút.

– Vậy bà ᴄhᴏ ᴄᴏn hai nải nhе.

– Cậᴜ ơi, sắρ tối ɾồi, hay là ᴄậᴜ lấy ɡiúρ bà ɡià bốn nải này lᴜôn đi.

Ăn hổnɡ hết mình bỏ tủ lạnh hᴏặᴄ nấᴜ ᴄhè hay làm ᴄhᴜối ᴄhiên ᴄũnɡ nɡᴏn. Chưn ᴄẳnɡ tᴜi bị khớρ, nɡồi từ ᴄhiềᴜ ɡiờ bán đượᴄ ᴄó một nải.

Tối ɾồi, ᴄậᴜ lấy hết, tᴜi tính 18 đồnɡ thôi.

– Dạ đượᴄ ɾồi, bà lấy hết ᴄhᴏ ᴄᴏn đi.

Bà ᴄẩn thận ɡói mỗi nải νô từnɡ bịᴄh ɾiênɡ, ᴄòn dặn dò thêm ᴄáᴄh ρhân biệt ᴄhᴜối xiêm đеn νà xiêm thườnɡ.

Thằnɡ tᴜi ᴄứ đứnɡ xớ ɾớ hᴏài, hỏi thăm đủ thứ.

Là để đượᴄ nɡhе ᴄái ɡiọnɡ nói nɡọt mềm, đượᴄ nɡhе ᴄái ᴄáᴄh nói ᴄủa một nɡười Sài Gòn, khi tɾướᴄ mỗi ᴄâᴜ tɾả lời, bà đềᴜ “dạ thưa ᴄậᴜ”.

Thấy đâᴜ đó bónɡ dánɡ bà nội bà Tư, thấy mình như đanɡ đứnɡ ɡiữa ᴄái νùnɡ đất đã từnɡ đượᴄ lớn lên, νới nhữnɡ ᴄᴏn nɡười hiền hᴏà, khiêm nhườnɡ νà qᴜá đỗi nɡọt nɡàᴏ tɾᴏnɡ ứnɡ xử.

Tự nhiên thấy qᴜê hươnɡ ở nɡay tɾân ᴄhỗ này, nɡọt nɡàᴏ νô ρhươnɡ.

Bà Tư, bà nội hay bà bán ᴄhᴜối ᴄủa tᴜi, ᴄhẳnɡ ai đượᴄ họᴄ ᴄaᴏ nhưnɡ ᴄái νăn hᴏá ứnɡ xử ᴄủa họ saᴏ mà νăn minh mà dễ thươnɡ qᴜá tɾời qᴜá đất. ***

nhacxua.vn4

https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=4441395305913788&id=100001300874988


 

 Án phong chân phước cho bé gái người Pháp 8 tuổi chính thức bước vào giai đoạn Rôma

Tin Mừng Cho Người Nghèo

 Án phong chân phước cho bé gái người Pháp 8 tuổi chính thức bước vào giai đoạn Rôma

Vị thỉnh nguyện viên mới của án phong chân phước cho Anne-Gabrielle Caron, Đức Ông Denis Dupont-Fauville, chia sẻ điều khiến ngài cảm phục nhất nơi cô bé.

Tiến trình này tuy dài, nhưng đang tiến triển!

Anne-Gabrielle Caron là một bé gái người Pháp qua đời vì ung thư năm 2010 khi mới 8 tuổi. Sau bốn năm trong giai đoạn cấp giáo phận – với khoảng 50 lời chứng được thu thập – án phong chân phước của cô nay chính thức bước vào giai đoạn Rôma.

Người được bổ nhiệm làm thỉnh nguyện viên Rôma là Đức Ông Denis Dupont-Fauville, kinh sĩ của Đền Thánh Phêrô tại Vatican và Nhà thờ Đức Bà Paris, đồng thời là giáo sư thần học tại Rôma. Trong cuộc phỏng vấn với Aleteia, ngài kể lại những hoàn cảnh đặc biệt dẫn đưa ngài đến sứ vụ này, và chia sẻ những nét đáng quý nơi nhân cách của Anne-Gabrielle.

Ngài hiện chịu trách nhiệm soạn Positio super Vita, Virtutibus et Fama Sanctitatis – hồ sơ chứng minh đời sống thánh thiện của cô bé, giúp Bộ Phong Thánh đạt được sự xác tín luân lý về mức độ thánh thiện của Anne-Gabrielle.

“Vai trò của ngài gồm những gì?”

Đức Ông Denis Dupont-Fauville:

Ngay sau khi được xác nhận là thỉnh nguyện viên Rôma, tôi đã gửi thư lên Bộ Phong Thánh xin mở án phong của Anne-Gabrielle. Sau khi hồ sơ được thẩm định hợp lệ, nhiệm vụ của tôi là đọc toàn bộ các tài liệu của cuộc điều tra cấp giáo phận – những tài liệu được niêm phong trong lễ bế mạc ngày 7 tháng 12 và đã được đưa đến Rôma.

Kế đó, tôi sẽ phải soạn Positio – một bản tóm lược khoảng 300 trang – để trình bày đời sống phi thường và tính anh hùng trong các nhân đức Kitô giáo của Anne-Gabrielle.

Tài liệu này sẽ được các thành viên Bộ Phong Thánh xem xét, và nếu được chấp thuận, họ sẽ trình lên Đức Giáo Hoàng để người được gọi là “Tôi tớ Chúa” có thể được tuyên phong là Đấng Đáng Kính (Venerable). Đây là một tiến trình dài và cẩn trọng.

“Quá trình này sẽ kéo dài bao lâu?”

Đức Ông Dupont-Fauville:

Đó là một tiến trình lâu dài và tỉ mỉ, thường kéo dài trong nhiều năm. Những trường hợp như Thánh Gioan Phaolô II hay Chân phước Carlo Acutis khiến người ta nghĩ phong thánh diễn ra nhanh, nhưng đó là những ngoại lệ hiếm hoi.

“Ngài có biết đến Anne-Gabrielle trước khi được bổ nhiệm không?”

Đức Ông Dupont-Fauville:

Thật ra, hoàn cảnh rất bất ngờ. Lần đầu tôi biết về Anne-Gabrielle là khi tình cờ đọc được một bài báo trên Famille Chrétienne ở nhà người quen. Tôi bị ấn tượng mạnh bởi cuộc đời và hình ảnh của em, đến mức đã làm điều tôi chưa từng làm bao giờ: chụp lại bài báo bằng điện thoại!

Sau đó, tôi đọc thêm vài bài viết về em trên Aleteia, và mỗi lần như thế, tôi đều xúc động trước nụ cười và sự trưởng thành thiêng liêng của cô bé. Đến tháng 10 năm 2024, khi tôi nói rằng mình sẽ có thêm thời gian rảnh, một người cho biết họ đang tìm thỉnh nguyện viên cho một án phong của một bé gái người Pháp. Khi nghe tên “Anne-Gabrielle Caron,” tôi liền nói ngay: “Con xin nhận!”

“Có điều kiện gì để trở thành thỉnh nguyện viên Rôma không?”

Đức Ông Dupont-Fauville:

Có chứ. Ứng viên phải là người chuyên về thần học, giáo luật hoặc lịch sử, tùy theo từng hồ sơ; cư trú thường xuyên tại Rôma; và phải hoàn thành khóa học đặc biệt để lấy văn bằng hành nghề thỉnh nguyện viên. Khóa học này chỉ mở hai năm một lần trong sáu tháng – và thật trùng hợp, khóa gần nhất bắt đầu vào đầu tháng Giêng, đúng lúc tôi vừa có thời gian rảnh! Tôi thi vào đầu tháng Bảy và nhận bằng vào tháng Chín.

“Điều gì khiến ngài ấn tượng nhất nơi Anne-Gabrielle?”

Đức Ông Dupont-Fauville:

Rất nhiều điều! Trước hết là ơn sủng đặc biệt nơi trẻ thơ – em không hề nghi ngờ sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa. Càng chịu đau đớn, em càng xác tín rằng chỉ có Chúa Giêsu mới có thể giúp mình.

Điều gây ấn tượng mạnh nữa là nụ cười trong các bức ảnh. Đó không phải là nụ cười tạo dáng, mà là nụ cười của một tâm hồn ý thức sâu xa rằng mình được Thiên Chúa yêu thương – thật đáng kinh ngạc nơi một đứa trẻ.

Và điều khiến tôi cảm phục nhất là tấm lòng chuyển cầu của em. Dù còn nhỏ, Anne-Gabrielle đã muốn gánh chịu đau khổ thay cho những bạn nhỏ cùng bệnh viện. Em thường xuyên đối diện với đau đớn, nhưng vẫn can đảm xin Chúa cho mình chịu thêm để những người xung quanh được nhẹ bớt.

Thật là một chứng tá đức tin mạnh mẽ và xúc động.

Nguồn: Aleteia


 

Báo động: Trump ra lệnh các tiểu bang phải ‘lấy lại’ tiền food stamp đã phát cho dân

Ba’o Nguoi-Viet

November 9, 2025

WASHINGTON, DC (NV) – Trong lúc chính phủ Mỹ bước sang ngày thứ 40 đóng cửa kỷ lục lịch sử, chính quyền Donald Trump ra lệnh cho các tiểu bang “lấy lại” mọi khoản chi tiền thực phẩm SNAP, quen gọi là food stamp, vốn được chuyển trễ cho người dân trong Tháng Mười Một, nhật báo New York Times loan tin hôm Chủ Nhật, 9 Tháng Mười Một.

Theo bản công văn ban hành hôm Thứ Bảy của Bộ Nông Nghiệp (USDA), các tiểu bang được yêu cầu “ngay lập tức rút lại mọi hành động đã thực hiện trong việc gửi đầy đủ trợ cấp SNAP Tháng Mười Một”. Văn bản cũng cảnh báo: nếu không tuân thủ, “USDA có thể hủy phần ngân sách liên bang cho chi phí hành chính của tiểu bang.”

Nhân viên tình nguyện để thực phẩm trên hè phố ở Washington DC giúp giới chức liên bang không được lãnh lương và người nhận food stamp không nhận phúc lợi Tháng Mười Một. (Hình: Oliver Contreras/AFP via Getty Images)

Quyết định này khiến hơn 40 triệu người Mỹ thu nhập thấp rơi vào cảnh đói giữa mùa lễ Tạ Ơn.

Tối Cao Pháp Viện tạm ngăn lệnh buộc chính phủ chi đầy đủ trợ cấp

Trước đó một ngày, Thẩm phán Ketanji Brown Jackson đã ban hành lệnh tạm thời chặn phán quyết buộc chính phủ Trump phải chi trả toàn bộ trợ cấp SNAP, sau khi Bộ Tư pháp đệ đơn kháng cáo khẩn cấp.

Lệnh này cho phép chính phủ tiếp tục kế hoạch chỉ chi trả khoảng 65% mức hỗ trợ thông thường, viện lý do “thiếu ngân sách.”

Thẩm phán Jackson nói rõ, phán quyết của bà chỉ mang tính tạm thời, không đánh giá giá trị pháp lý của vụ kiện, nhưng mở ra khoảng trống pháp lý để chính quyền Trump trì hoãn việc chi trả đầy đủ thực phẩm cho người dân.

Một số tiểu bang đã kịp “chạy nước rút” để cứu dân

Trước khi lệnh tạm dừng của Tối Cao Pháp Viện có hiệu lực, nhiều tiểu bang hành động cấp tốc để cấp tiền cho dân:

Wisconsin đã chuyển $104 triệu đô-la trợ cấp cho 337,000 gia đình ngay trong đêm.

Oregon cho biết nhân viên “làm việc suốt đêm” để cấp tiền cho toàn bộ hộ gia đình trước khi lệnh bị ngăn.

 Dân chúng ở Miami, Florida, xếp hàng lãnh thực phẩm cứu đói trước trung tâm cứu trợ Curley’s House Food Bank. (Hình: Joe Raedle/Getty Images)

Hawaii cũng “chạy đua với thời gian” để gửi hết tiền trong ngày Thứ Sáu.

California, New Jersey, Pennsylvania, Washington và nhiều tiểu bang khác cũng phát hành toàn bộ tiền SNAP cho Tháng Mười Một trước khi lệnh chặn được ban hành.

Trong lúc đó, nhiều tiểu bang khác phải dừng lại giữa chừng, khiến hàng triệu người chưa nhận được một đồng nào.

Trump: “Không phát SNAP cho tới khi Dân Chủ mở cửa chính phủ”

Tổng Thống Donald Trump tuyên bố trên mạng Truth Social hôm Thứ Ba rằng ông sẽ giữ lại toàn bộ trợ cấp SNAP cho đến khi “phe Cấp Tiến Dân Chủ chịu mở cửa chính phủ.”

“Trợ cấp SNAP, vốn tăng hàng tỷ đô-la trong nhiệm kỳ của kẻ gian xảo Joe Biden, sẽ chỉ được cấp khi phe Cấp Tiến mở cửa chính phủ — và không sớm hơn!”

Theo ước tính của Bộ Nông Nghiệp Mỹ, chương trình SNAP hỗ trợ khoảng 41,7 triệu người Mỹ, tức 1 trong 8 người dân, với chi phí $8,5–$9 tỷ mỗi tháng.

Câu chuyện đói gần Lễ Tạ Ơn: “Tài khoản trống trơn”

Tại Newark, tiểu bang New Jersey, Jasmen Youngbey, một bà mẹ đơn thân đang học đại học, cho biết tài khoản trợ cấp của cô bằng $0, buộc phải xếp hàng ở trung tâm phát thực phẩm cứu đói: “Không phải ai cũng có tiền mặt để mua đồ ăn, nhất là khi giá thực phẩm đang tăng như bây giờ,” cô nói.

Nhiều người khác nói họ chỉ biết “chờ may mắn,” không biết khi nào tiền sẽ về.

Một nữ công chức liên bang bế con xin thực phẩm ở trước trụ sở Bộ Nông Nghiệp hôm 30 Tháng Mười. (Hình: Oliver Contreras/AFP via Getty Images)

Khi “cái đói” trở thành công cụ cai trị — và nước Mỹ đang bước vào một thí nghiệm nguy hiểm

Trong lịch sử nhân loại, cái đói chưa bao giờ chỉ là một hiện tượng sinh học hoặc là kết quả thiên tai mà đây cũng là một công cụ chính trị, được những tầng lớp nắm quyền sử dụng để kiểm soát, trừng phạt và khuất phục người dân.

Ở Liên Xô thời Stalin, hàng triệu nông dân Ukraine bị bỏ đói trong Nạn Đói Holodomor (1932–1933) chỉ vì họ chống lại chính sách tập thể hóa. Nhà độc tài Stalin khóa kho thóc, cắt nguồn cung lương thực và buộc dân phải quỳ gối trước chính quyền để được ăn.

Ở Bắc Hàn, cái đói trở thành “vũ khí trung thành,” người dân phải chứng minh lòng trung thành tuyệt đối để nhận được khẩu phần gạo từ nhà nước.

Ở Campuchia thời Khmer Đỏ, bát cơm cũng là hình phạt: ai nghi ngờ chế độ, bị xem là “phản cách mạng”, sẽ bị bỏ đói đến chết trong các trại lao động.

Ngày nay, khi nhìn lại cuộc đối đầu chính trị trong vụ “shutdown năm 2025,” người ta thấy thấp thoáng hình bóng của những chế độ ấy, chỉ có điều khác là được “gói” trong hình thức dân chủ.

Tổng Thống Donald Trump ngon giấc trong phiên họp về giảm gía thuốc tại Tòa Bạch Ốc hôm 6 Tháng Mười Một. (Hình: Andrew Harnik/Getty Images)

Hành pháp ra lệnh chặn tiền thực phẩm của 42 triệu người nghèo, rồi tuyên bố công khai rằng “SNAP sẽ chỉ được cấp lại khi phe Dân Chủ mở cửa chính phủ.” Đó không còn là một tranh cãi ngân sách. Đó là một hành động trừng phạt dân chúng để đạt lợi ích chính trị.

Nước Mỹ lần đầu tiên trong lịch sử chứng kiến cảnh người nghèo trở thành con tin, còn bữa ăn trở thành công cụ thương lượng quyền lực.

Hình ảnh một người mẹ trẻ ở New Jersey, mở điện thoại thấy tài khoản trợ cấp thực phẩm bằng $0, phải xếp hàng ở nhà thờ để xin sữa cho con, là phiên bản hiện đại của những người nông dân Ukraine đứng trước kho thóc bị niêm phong năm 1933.

Không phải vì Mỹ thiếu tiền mà vì giới quyền lực chọn dùng “cái đói” như một thông điệp chính trị

Các chế độ độc tài xưa đói hóa dân chúng để dễ trị, thì hôm nay, một chính phủ trong nền dân chủ lớn nhất thế giới đang học cách dùng đói để ép Quốc Hội. 

Nếu một nền dân chủ chấp nhận để hàng chục triệu người đói khát chỉ vì một người muốn chứng minh sức mạnh chính trị, thì chúng ta đang chứng kiến sự trở lại của một thứ chuyên chế cũ — khoác chiếc áo mới của luật pháp.

Và nếu nước Mỹ hôm nay chấp nhận điều đó thì Holodomor của thế kỷ 21 có thể không diễn ra trên cánh đồng, mà trong những siêu thị đầy hàng hóa — nơi người nghèo chỉ có thể đứng nhìn, vì chính phủ khóa tài khoản thực phẩm của họ. (MPL)


 

Vài suy nghĩ về tuổi 80 – Tác giả: Phùng Văn Phụng

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Thứ bảy ngày 05 tháng 11 năm 2022 tôi đi dự thánh lễ tạ ơn, mừng thọ 80 tuổi của thầy Phó Tế Nguyễn Sỹ Bạch ở nhà thờ Prince of Peace Catholic Church – để Tạ Ơn Chúa về Ân Sủng của Sự Sống.

Tôi cũng được lên gần cung thánh để Cha chủ tế và cộng đoàn dân Chúa đưa tay cầu nguyện, chúc mừng vì thọ được 80 tuổi, trong số những người này có Phó tế Huỳnh Mai Trác, Phó tế Đỗ Nguyên Chương, Phó Tế Nguyễn Sỹ Bạch, Ông Nguyễn Đức Cung, Bà Nguyễn Thị Bích Lê- Ông Trần Tấn Định

Trong quyển sách nhỏ  gởi đến các thân nhân, bà con, thân hữu để dùng trong nhà thờ, tôi đã nhận được hai câu sau đây – tôi rất cảm kích và xin được ghi nhận và chia sẻ:

-1)Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con. Con ca ngợi Chúa đã dựng con nên cách lạ lùng, Công trình Ngài xiết bao kỳ diệu! Hồn con đây biết rõ mười mươi” Tv 139:13-14

– 2) “Được sống đến tuổi già là một ân huệ. Không phải vì chỉ một số người có thể sống đến tuổi này, nhưng vì trước hết, tuổi già cho chúng ta khả năng đánh giá quá khứ, được hiểu và sống mầu nhiệm Vượt Qua một cách sâu xa hơn, và được trở nên kho tàng kinh nghiệm quý báu cho Giáo hội”.

(Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao Lô II)

***

Theo giáo sư Đào Duy Anh trong tác phẩm Hán Việt Từ điển thì: 60 tuổi gọi là Hạ thọ, 70 tuổi gọi là Trung thọ, 80 tuổi gọi là Thượng thọ.

Tuổi Thượng Thọ – 80 tuổi rất hiếm.

Vì tuổi thọ trung bình (cả hai giới tính) ở Việt Nam là 75,6 tuổi. (Nguồn: https://danso.org/viet-nam/)

Trong khi tuổi thọ trung bình của dân số thế giới (72 tuổi). Tuổi thọ trung bình của nam giới là 71,5 tuổi. Tuổi thọ trung bình của nữ giới là 79,7 tuổi. (Nguồn: https://danso.org/viet-nam/)

Tổng số dân của Việt Nam vào thời điểm 0h ngày 01/4/2019 là 96.208.984 người,

Việt Nam chính thức bước vào giai đoạn già hóa dân số từ năm 2011 và hiện có khoảng 10,1 triệu người cao tuổi, chiếm 11% dân số. Riêng số người từ 80 tuổi trở lên là 2 triệu người, tỉ lệ khoảng 2% dân số.

Ở Mỹ có 6 triệu 500 ngàn người trên 80 tuổi, dân số Mỹ là 332 triệu 400 ngàn người, tỷ lệ gần ~2% dân số.

Cho nên dầu ở Mỹ hay ở Việt Nam tỉ lệ người sống trên 80 tuổi rất hiếm và họ là tấm gương sống và là kho tàng kinh nghiệm sống cho con cháu.

***

+Ở dưới bầu trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời” (Gv 3:1)

Ân huệ được sống tới tuổi già vì sống tới tuổi 80 rất hiếm. Đầu tháng 11 này được tin, Nguyễn H. N. , một người bạn học chung lớp B1 trường trung học Cần Giuộc, niên khóa 1955-1959, đã ra đi, anh nhỏ hơn tôi một tuổi.

“Tuổi già là một ân huệ” vì rồi đây còn phải chịu đựng những sự đau đớn, mệt mỏi trong bịnh hoạn trước khi lìa đời. Làm sao “vui để đợi chết”? Khó khăn lắm chứ không phải dễ dàng gì đâu. Nhưng niềm tin phục sinh cho ta niềm hy vọng, an ủi để chịu đựng đau khổ ở đời này để hưởng vĩnh phúc ở đời sau, một “sinh nhật mới” trong nước trời vĩnh cửu.

***

Người Việt Nam cũng thường có tổ chức mừng lễ thượng thọ cho cha mẹ. Trong lễ thượng thọ, cha mẹ trong y phục trang trọng, thường là y phục khăn đống, (trang phục có màu đồng nhất, màu đỏ hoặc màu vàng) ngồi trước bàn thờ hay nơi sang trọng nhất trong căn nhà như gian chính con cháu lần lượt đến kính cẩn dâng rượu (thọ), rồi lễ bái cha mẹ, sau đó mời các cụ dự tiệc mừng . Đôi khi họ mời bà con xa gần đến chung vui và chúc mừng các cụ.

Hình lượm trên net, tượng trưng trong lễ thượng thọ

oznor

Bìa tập sách nhỏ dùng cho thánh lễ

Xem thêm:

1)VẤN ĐỀ VỀ NGƯỜI CAO TUỔI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2)Lễ mừng thượng thọ   

Tác giả: Phùng Văn Phụng

tháng 11 năm 2022


 

KẺ BÉ NHỎ – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã!”.

“Một khúc gỗ tươi có thể an toàn đứng cạnh một ngọn nến; nhưng chỉ với vài mảnh vụn, vài que củi, bạn có thể biến nó thành tro, lửa của nó có thể thiêu rụi một cánh rừng. Cũng thế, gương xấu của bạn – nhỏ như vài que củi – có thể dẫn đến việc làm hỏng cả một thế hệ!” – John Newton.

Kính thưa Anh Chị em,

“Cớ vấp ngã” Chúa Giêsu nói đến trong Tin Mừng hôm nay là những gương xấu – tuy nhỏ – nhưng vẫn có thể đốt cháy cuộc đời một ‘kẻ bé nhỏ’ và có thể, cả một thế hệ!

‘Kẻ bé nhỏ’ ở đây là tất cả những ai dễ bị tổn thương dưới mọi hình thức. Trước hết, cần làm rõ, tội lỗi là sự lựa chọn tự do và mỗi người sẽ chịu trách nhiệm về nó. Điều Chúa Giêsu chỉ ra ở đây là chúng ta phải chịu trách nhiệm về các hành động của mình như một ‘kẻ cám dỗ’. Chúng ta có thể cám dỗ người khác phạm tội bằng các gương mù; ngược lại, cũng có khả năng ‘dụ dỗ’ người khác hướng tới đức hạnh – đúng hơn, truyền cảm hứng và khuyến khích họ. “Những hành động nhỏ nhất của ta có thể trở thành hòn đá cản đường hoặc bậc thang nâng đỡ người khác!” – Henri Nouwen.

Ai trong chúng ta cũng có những ‘kẻ bé nhỏ’ được uỷ thác; trẻ em, người thân, những anh chị em tân tòng… Nếu chúng ta phạm tội; đến lượt họ, họ có thể dạy người khác phạm tội, cho đến khi ‘đoàn tàu tội lỗi’ chuyển động mà không có điểm dừng. Không lạ, Chúa Giêsu nói, “Thà buộc cối đá lớn vào cổ nó và xô xuống biển, còn lợi cho nó hơn!”.

Vậy với bạn, ai là ‘kẻ bé nhỏ’ đang lạc lối vào thời điểm này; ai không còn thiết sống, nghiện ngập, hoang mang hay đang lầm lạc? Có thể là một đứa trẻ, cũng có thể là một người nào đó đang trên bờ vực tuyệt vọng. Bạn phán xét, lên án, coi thường, hoặc cám dỗ họ ‘sa sâu hơn’ vào tội mà họ đang phạm? Đừng quên, bạn và tôi phải trả lẽ về mọi sự trước mặt Chúa, “Ngài thấu suốt tâm can, dò xét lòng dạ đến nơi đến chốn” – bài đọc một, Ngài ‘biết tỏng’ mọi ý nghĩ, lời nói, việc làm của mỗi người. Vậy hãy tỉnh thức và luôn cầu xin, “Lạy Chúa, xin dẫn con theo chính lộ ngàn đời!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Anh Chị em,

“Cớ vấp ngã” không chỉ huỷ hoại người khác, mà còn làm hoen ố hình ảnh Thiên Chúa nơi chúng ta. Chúa Giêsu đau lòng không vì tội lỗi của kẻ yếu, mà vì sự ‘ích kỷ vô tâm’ của người mạnh. Gương xấu – dù nhỏ – vẫn là sự phản chứng đối với Tin Mừng, bởi nó khiến người khác nghi ngờ – có thể hôm nay, có thể về sau – lòng nhân hậu của Thiên Chúa và sự thánh thiện của Hội Thánh. “Ánh sáng của Đức Kitô không bị dập tắt bởi sự yếu đuối của ta, nhưng có thể bị che khuất bởi sự giả hình của ta!” – Phanxicô. Trái lại, khi một người sống trong cam kết yêu thương sâu sắc, trung tín và trong sáng, họ trở nên “bí tích” của lòng thương xót – nơi người khác có thể thoáng thấy Thiên Chúa.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin dạy con biết sống như một “bí tích của lòng thương xót” – để ai gặp con, cũng cảm thấy mình được tôn trọng, được đón nhận và được chữa lành!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

**********************************************

Lời Chúa Thứ Hai Tuần XXXII Thường Niên, Năm Lẻ 

Nếu một ngày bảy lần nó trở lại nói với anh : “Tôi hối hận”, thì anh cũng phải tha cho nó.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 17,1-6

1 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Không thể không có những cớ làm cho người ta vấp ngã ; nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã ! 2 Thà buộc cối đá lớn vào cổ nó và xô xuống biển, còn lợi cho nó hơn là để nó làm cớ cho một trong những kẻ bé nhỏ này vấp ngã. 3 Anh em hãy đề phòng !

“Nếu người anh em của anh xúc phạm đến anh, thì hãy khiển trách nó ; nếu nó hối hận, thì hãy tha cho nó. 4 Dù nó xúc phạm đến anh một ngày đến bảy lần, rồi bảy lần trở lại nói với anh : ‘Tôi hối hận’, thì anh cũng phải tha cho nó.”

5 Các Tông Đồ thưa với Chúa Giê-su rằng : “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con.” 6 Chúa đáp : “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này : ‘Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc’, nó cũng sẽ vâng lời anh em.”


 

Lễ Cung Hiến Ðền Thờ Thánh Gioan Lateran- Cha Vương

Chúc bạn ngày Chúa Nhật thánh thiện, tuyệt vời, tràn đầy hứng khởi trong tinh thần yêu thương, vui vẻ và phục vụ. Cố lên! cố lên! Tốt, tốt hơn, tốt nhất nhé!

Cha Vương

CN: 09/11/2025

Hôm nay ngày 9 tháng 11, Giáo hội Hoa Kỳ mừng trọng thể Lễ Cung Hiến Ðền Thờ Thánh Gioan Lateran. Nhiều người Công Giáo nghĩ rằng Ðền Thánh Phêrô là nhà thờ của đức giáo hoàng, nhưng sự thật không phải vậy. Ðền Thánh Gioan Lateran mới là nhà thờ của đức giáo hoàng, là vương cung thánh đường của Giáo Phận Rôma, nơi Ðức Giám Mục của Rôma trụ trì.

   Vương cung thánh đường đầu tiên ở đây được xây cất vào thế kỷ thứ tư khi Hoàng Ðế Constantine dâng cúng phần đất mà ông nhận được từ gia đình Lateran giầu có. Kiến trúc đó và những đấng kế vị phải trải qua những tai nạn như hoả hoạn, động đất và chiến tranh, nhưng thánh đường Lateran vẫn là nơi các giáo hoàng được tấn phong mãi cho đến thế kỷ 15, khi các giáo hoàng từ Avignon trở về thì thánh đường và công trường cạnh đó đã đổ nát.

    Thánh đường hiện nay được xây cất vào năm 1646 theo lệnh của Ðức Giáo Hoàng Innocent X. Là một trong những thánh đường uy nghi nhất ở Rôma, ngọn tháp mặt tiền của đền Lateran được trang hoàng với 15 bức tượng của Ðức Kitô, Thánh Gioan Tẩy Giả, Thánh Gioan Tông Ðồ và 12 vị tiến sĩ của Giáo Hội. Bên dưới bàn thờ sang trọng là một bàn nhỏ bằng gỗ mà theo  truyền thống chính Thánh Phêrô đã cử hành Thánh Lễ ở bàn này.

LỜI BÀN:  Không như lễ kỷ niệm các nhà thờ khác ở Rôma (như nhà thờ Ðức Bà Cả, ngày 5-8, nhà thờ Các Thánh Phêrô và Phaolô, 18-11), lễ này là một đại lễ. Việc dâng hiến nhà thờ là một đại lễ cho toàn thể giáo dân trong xứ. Trong một ý nghĩa nào đó, Ðền Thánh Gioan Lateran là nhà thờ của mọi người Công Giáo, vì đó là giáo xứ của đức giáo hoàng, vương cung thánh đường của Ðức GM Rôma. Nhà thờ này là mái nhà tinh thần của tất cả những ai thuộc về Giáo Hội.

LỜI TRÍCH: “Cũng như các bức tường được xây cao này, những gì đã được thể hiện ở đây lại được tái diễn khi chúng ta quy tụ những người tin vào Ðức Kitô. Vì, qua đức tin họ đã được gọt dũa, như thể đá và gỗ từ núi rừng; nhưng bởi việc học hỏi giáo lý, rửa tội và giáo dục, họ được khuôn đúc, được điều chỉnh, và được mài nhẵn bởi bàn tay của các thợ chuyên môn. Tuy nhiên, họ không làm nên căn nhà của Thiên Chúa, cho đến khi họ hài hòa với nhau trong đức ái” 

(Thánh Augustine, Bài Giảng 36, Trích Gương Thánh Nhân – ns Người Tín Hữu online)

From Do Dzung

**************************

Hoàng Oanh | Đền Thờ Trái Tim | Khuyết Danh

NHỮNG CHUYẾN XE CUỘC ĐỜI

Sau cơn tai biến mạch máu não, cha tôi yếu đi nhiều, không còn khả năng đi lại nữa. Chúng tôi mang về nhà một chiếc xe lăn tay cho cha. Nhìn cha ngồi tù túng trong chiếc xe với không gian nhỏ hẹp, chúng tôi vừa ái ngại, vừa xót xa.

Cha tôi, một người lính từng vào sinh ra tử, một người luôn hoạt động và mạnh mẽ… Bây giờ cha ngồi im lặng trên chiếc xe lăn hàng giờ liền. Tôi biết lòng cha đau đớn vì bất lực trước tình trạng bệnh tật của mình.

Thấy chúng tôi quấn quít, cha vui lắm, nhưng cha lại bảo:

Tụi con đừng lo cho cha nhiều, đứa nào có việc phải làm, phải học, cứ đi! Cha biết cách thích nghi với hoàn cảnh mà! 

Rồi cha cười nói:

Các con à, cuộc đời con người có nhiều giai đoạn. Mỗi giai đoạn gắn với một chiếc xe. Khi sinh ra, con người nằm xe nôi. Nhỏ bé, yếu ớt, con người được yêu thương và chăm sóc bởi cha mẹ, người thân. Lớn lên một chút, con người chập chững bước những bước đi đầu tiên với chiếc xe tập đi. Giã từ thời thơ ấu, chúng ta bắt đầu hòa nhập vào thế giới với bao nhiêu phương tiện: xe đạp, xe máy, xe hơi… Và từ đây, chúng ta cứ luôn ao ước thay đổi chiếc xe đời mình sao cho mới hơn, hiện đại hơn, tốt hơn…

Các con ơi, cha cũng đang ngồi trên một chuyến xe của đời mình. Chiếc xe lăn này là một chiếc xe trong cuộc đời của cha và cha không tuyệt vọng vì điều đó. Cái chính là cha vẫn sống lạc quan, yêu đời trên chuyến xe đời mình.

Xung quanh chúng ta có biết bao mảnh đời vất vả, cực nhọc, những người gắn mình với chiếc xe ba gác chở thuê, xe xích lô, xe đẩy bán hàng rong trên phố, nhưng họ vẫn sống, vẫn vươn lên.

 Có những người đi toàn xe hơi đắt tiền, đời mới, nhưng những chuyến xe cuộc đời họ lại không có bến đỗ phẳng lặng, hạnh phúc…

Ai rồi cũng phải đi chuyến xe cuối cùng của đời mình. Phải làm thế nào để trong chuyến xe đó, chúng ta ra đi trong sự thanh thản, yên bình, trong sự thương tiếc của người thân, bạn bè.

 Làm được điều đó không phải là điều đơn giản, dễ dàng vì những chuyến xe trong cuộc đời mỗi người. Không có vé “khứ hồi”, chúng ta chỉ được đi có một lần!

From: Do Tan Hung & KimBang Nguyen


 

THÁNH THẤT THIÊNG – Lm. Minh Anh -Tgp. Huế

Lm. Minh Anh -Tgp. Huế

“Đền Thờ Chúa Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người!”.

Một trong các triết gia ảnh hưởng đến việc trở lại của thánh Augustinô là Victorinus; ông nổi tiếng đến nỗi được dựng tượng trong tòa án Rôma. Về già, ông đọc Thánh Kinh và các tác phẩm Kitô giáo. Ngày kia, ông nói với Simplicianus, “Tôi muốn ngài biết, tôi là một Kitô hữu!”; Simplicianus đáp, “Tôi sẽ không tin cho đến khi ông đến nhà thờ!” – “Nhà thờ làm cho người ta thành Kitô hữu sao?”. Sau đó, ông học đạo và công khai trở lại!

Kính thưa Anh Chị em,

 

Đúng như Victorinus nhận định, “Nhà thờ không làm cho người ta thành Kitô hữu!”. Hôm nay, lễ Cung Hiến Thánh Đường Latêranô, chúng ta không chỉ tôn vinh một công trình bằng đá, nhưng tôn vinh một “Thánh Thất Thiêng” – chính Chúa Kitô – linh hồn của mọi thánh đường!

Không có toà nhà nào đủ lớn để chứa nổi Thiên Chúa, nhưng con người vẫn cần một nơi để gặp gỡ Ngài. Ban đầu, các tín hữu tụ họp tại các tư gia để cầu nguyện và “bẻ bánh”; dần dần, các cộng đoàn sáng tạo những “ngôi nhà” dành riêng cho việc cầu nguyện, đọc Lời Chúa và cử hành phụng vụ. Từ những cuộc đàn áp đầu tiên cho đến ngày được tự do, Kitô giáo đã xây các nhà nguyện, nhà thờ và vương cung thánh đường; trong đó, quan trọng nhất là đại giáo đường Gioan Latêranô, Rôma. “Thật kỳ diệu biết bao khi thấy Sự Hiện Diện Thần Thiêng của Đấng nhìn ra ‘gần như tận’ các đường phố từ các nhà thờ!” – Henry Newman.

“Latêranô” biểu trưng cho sự hiệp nhất của mọi Giáo Hội với Giáo Hội Rôma. Trên hiên chính, Latêranô tự hào mang danh hiệu “Mẹ và Đầu của tất cả các nhà thờ trong thành phố và trên thế giới”. Nó còn quan trọng hơn cả đền thờ Phêrô – được xây trên mộ vị Tông đồ trưởng – vì Latêranô mới là nhà thờ chính toà của Giáo Hoàng, Đấng đại diện Chúa Kitô. Chính Ngài là dòng sông ân sủng ban sự sống mà bài đọc một và Thánh Vịnh đáp ca tiên báo.

Đền thờ bằng đá có thể sụp đổ, nhưng “Thánh Thất Thiêng” – Chúa Kitô và mỗi tâm hồn nên một với Ngài – thì không. Khi nói, “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa” – bài đọc hai, Phaolô không nói về nơi chốn, mà nói về một mối tương quan. Thiên Chúa không chỉ ngự trong các cung thánh, mà còn trong những trái tim biết mở ra cho Ngài.

Anh Chị em,

Nếu “Thánh Thất Thiêng” là Chúa Kitô, thì mọi không gian thánh không còn bị giới hạn bởi tường vách hay thánh điện, vì Ngài đã là nơi gặp gỡ giữa Trời và Đất, giữa Chúa và người. Từ đó, ai kết hợp với Ngài đều được thánh hiến, trở nên “đền thờ sống động”, nơi Thần Khí Thiên Chúa hiện diện và hoạt động. Vì thế, điều cốt yếu không phải là kiến trúc, nhưng là hiệp thông – với Chúa và với nhau. “Thánh Thất Thiêng” chỉ sáng rực khi được thắp sáng bởi tình yêu, đó là một trái tim được thanh tẩy, biết yêu và tha thứ – một thánh đường đẹp nhất mà Thiên Chúa luôn muốn ngự vào. Từ đó, nhịp sống mỗi người dâng lên Ngài như một phụng vụ của tình yêu. “Đền thánh thật không phải nơi những tảng đá ‘đứng’, mà là nơi tình yêu ‘chảy’ và các tâm hồn hiệp nhất!” – Thomas Merton.

Chúng ta có thể cầu nguyện:

“Lạy Chúa, xin ngăn ngừa mọi ngẫu tượng ngấp nghé, ngó nghiêng, hay ngỗ ngáo dành chỗ Chúa trong cung thánh lòng con!”, Amen.

Lm. Minh Anh -Tgp. Huế

*****************************************************************

LỜI CHÚA CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG LATÊRANÔ, 9/11, CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN 

Đền thờ Đức Giê-su muốn nói là chính thân thể Người.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.    Ga 2,13-22

13 Gần đến lễ Vượt Qua của người Do-thái, Đức Giê-su lên thành Giê-ru-sa-lem. 14 Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. 15 Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả chiên cũng như bò, ra khỏi Đền Thờ ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. 16 Người nói với những kẻ bán bồ câu : “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.” 17 Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh : Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân.

18 Người Do-thái hỏi Đức Giê-su : “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế ?” 19 Đức Giê-su đáp : “Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi ; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại.” 20 Người Do-thái nói : “Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao ?” 21 Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người. 22 Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói.


 

Những người con hoang của J. P. Sartre-Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục 

05/11/2025

Sau chiến tranh thứ hai, nước Pháp hoang tàn, đổ nát. Có một De Gaulle trở về, đem vinh dự và hy vọng cho cả nước Pháp. Nhưng chưa đủ. Nước Pháp cần một biểu tượng văn hóa: J.P. Sartre. J.P. Sartre trở thành đứa con tinh thần của giới trí thức, của cả nước Pháp, nhất là sau khi ông làm giám đốc tờ Les temps modernes. Ít khi nào có một trí thức, nếu không nói là lần đầu tiên, vừa là triết gia, vừa là nhà văn tài hoa đến như ông.

Sau khi xuất bản La nausée (1938), Le Mur (1939), ông thay thế dần chỗ ngồi của A. Malraux, và chẳng bao lâu sau của André Gide, trong văn học Pháp. Ông đã tạo cho mình một chỗ đứng, một thế giới của riêng Sartre, Univers Sartrien… Rồi Sartre cho ra đời Chemins de la liberté, Les mouches, 1943; tác phẩm lớn L’être et le Néant, 1943; Huis clos, 1944; Morts sans sépulture, 1946; La Putain respectueuse, cuốn sách gây xì căng đan ở nước Pháp năm 1946; Critique de la raison dialectique, Les mains sales, 1948; Le diable et le bon Dieu, 1951.

Bên cạnh Sartre là một nhà văn trẻ hơn, A. Camus, sau này trở thành cặp Sartre-Camus; mỗi tác phẩm của A. Camus như thể hiện linh hồn của tư tưởng Sartre. Cả hai đã ảnh hưởng toàn bộ giới trẻ và trí thức Pháp, mặc dầu A.Camus luôn luôn từ chối cái nhãn Hiện Sinh mà người ta gán cho ông.

Tác phẩm của hai nhà văn này đề cập đến những vấn đề con người, chẳng hạn như mối quan hệ giữa con người với hoàn cảnh, vấn đề trách nhiệm, dấn thân, nhập cuộc, hoài nghi, phủ nhận mọi chủ nghĩa, mọi giáo điều… Rồi vấn đề hiện hữu và hư vô, hiện sinh tại thế, hiện hữu và yếu tính… Ðời phi lý, buồn chán, thừa thãi, và con người nổi loạn… Những tư tưởng đó đã gây ra trong văn chương Pháp không biết bao tranh luận, thậm chí cả ngộ nhận, hiểu lầm từ nhiều phía.

Năm 1980, Sartre chết. Nước Pháp đã tiễn đưa một nhà trí thức sáng chói với những lễ nghi vinh dự mà họ đã dành cho Victor Hugo đúng 100 năm trước đó.

1945-1955 là thời kỳ vàng son của Sartre và Camus. Nhưng họ đã chẳng có ảnh hưởng gì tới sinh hoạt văn học Việt Nam. Tình hình Việt Nam lúc đó rối như mớ bòng bong, ai còn bận tâm tới văn chương, triết lý? Ðó cũng là cái khoảng thời gian trống và nghèo nàn nhất của văn học Việt, từ Nam ra Bắc. Các trào lưu văn học Tiền chiến hay Tự Lực Văn Ðoàn đều tắt tiếng. Người tản cư trôi dạt xuống các vùng Hà Ðông, Phủ Lý, Nam Ðịnh, vào đến Thanh Hóa, rồi sau đó quay về dinh tê. Kẻ khác tham gia kháng chiến. Mỗi người tứ tán mỗi nơi…

Nhưng kể từ sau Hiệp định Genève với cuộc di cư từ miền Bắc của một triệu người, Sartre và Camus có cơ hội có mặt ở miền Nam và ảnh hưởng của họ kéo dài hơn một thập niên. Ở đây cần xác định rõ là tư tưởng của họ gây ảnh hưởng trong văn chương, tiểu thuyết, một thứ sản phẩm thị dân, đối tượng là các thành phần thanh niên, trí thức thành thị. Dù sao đi nữa, thành phần này cũng là mặt nổi của một xã hội. Nói tới sinh hoạt văn học, nghệ thuật, là nói tới họ.

Còn phần triết học thì quá ít người được biết tới. Thật vậy, vào thời kỳ từ cuối 50 đến 70, tại các đại học Văn Khoa Sài Gòn, Huế, Ðà Lạt và sau này Vạn Hạnh… triết lý Hiện sinh của Sartre đã không được giảng dạy. Thảng hoặc có dạy đi nữa trong các chứng chỉ Siêu hình và Lịch sử Triết học, các giáo sư thời bấy giờ cũng chọn Nietzsche, Kierkergaard, Merleau-Ponty, và nhất là Heideigger. Cùng lắm là có đả động qua loa đến G. Marcel hay E. Mounier, những triết gia hữu thần, trái ngược hẳn với trào lưu Hiện sinh của J.P. Sartre.

Xét về mặt nghiên cứu thì ngay các trường đại học quốc gia ở Huế, Sài Gòn, cũng không có điều kiện cung cấp đầy đủ tài liệu cho sinh viên sử dụng, ngoại trừ Viện Ðại học Ðà Lạt, một đại học bán công mà thành phần ban Giảng huấn hầu hết là các cha Dòng Tên người ngoại quốc – có thể coi đây là một hình thức du học tại chỗ. Nơi đây, có hơn 5000 ngàn đầu sách đủ loại về văn chương và triết học bằng tiếng Pháp.
Nhưng vì Sartre không có trong học trình, tôi không dám chắc đã có bao nhiêu sinh viên có đủ điều kiện để miệt mài hết cuốn L’être et le Néant hay Critique de la raison dialectique? Cái sự không dám chắc đó, tôi đặt ngay cả vào bản thân thành phần Giáo sư trong ban giảng huấn nữa! Thật khó mà biết được có bao nhiêu người đã đọc?
Vì thế, triết học Hiện sinh ở chiều sâu, ở phần căn cốt sách vở của Sartre, số người biết rành rõi có thể đếm trên đầu ngón tay. [1]

Nhưng âm vang của “hư vô,” “hữu thể,” “tồn thể,” “những xao xuyến siêu hình,” “dấn thân,” “nhập cuộc,” “trách nhiệm,” “người trong cái toàn thể,” “người trong hoàn cảnh,” “tha nhân,” “đời phi lý,” “con người phản kháng”… là những từ ngữ quyến rũ đến độ người ta phải nói tới, phải suy nghĩ. Nó như một thứ ma lực lôi cuốn giới trẻ, sinh viên, trí thức. Những cuốn tiểu thuyết của họ, nhất là của Camus, đặt tâm thức giới trẻ vào những suy nghĩ miên man về ý nghĩa cuộc đời, đặt nghi vấn về tất cả mọi vấn đề, của chính tự thân và của người khác, rồi cuối cùng rơi vào sự trống rỗng không lời giải đáp. Có thể nói, tâm trạng thanh niên trí thức lúc bấy giờ là thử tìm hiểu xem cuộc đời đáng sống hay không đáng sống?! Một câu hỏi đáng lý chẳng nên đặt ra cho một người trẻ tuổi sắp sửa bước vào đời. Cái để lại trong tâm thức người trẻ, sau khi nghi vấn, tra hỏi về đủ mọi vấn đề là tâm trạng trống rỗng, vô nghĩa như người khách lạ. Và có lẽ đó là ảnh hưởng lớn nhất mà triết lý này để lại.

Ví giả J.P. Sartre chỉ là một triết gia thuần túy và không bao giờ là nhà văn; Ví giả A. Camus là một nhà văn không mang trọng trách rao truyền một tư tưởng triết lý. Nếu họ không có chức năng đó, hoặc họ chỉ đảm nhiệm một vai trò, một chức năng nhất định, như các triết gia hiện sinh khác như Heidegger, Kierkergaard, thì hẳn triết lý hiện sinh đã không gây ồn ào, náo nhiệt như thế. Cái ồn ào mà tôi muốn nói ở đây là nó đã làm nảy sinh ra rất nhiều những đứa con hoang đủ loại.

Triết lý hiện sinh vỉa hè là bằng chứng của vô số những nhận định ngộ nhận, hiểu lầm và qui chụp, đẻ ra những đứa con hoang mà chính J.P Sartre cũng chẳng bao giờ có thể nhìn thấy hết được. Bởi vì nó đã trở thành một sản phẩm xã hội và bất cứ một hiện tượng xã hội nào cũng có thể bị đưa lên giàn phóng để tra xét và nguyền rủa.

Cái triết lý hiện sinh vỉa hè ấy, qua F. Sagan, đã trở thành sản phẩm tiêu thụ xã hội có tính cách thời thượng mà thực chất không dựa trên một suy lý nghiêm chỉnh nào để có thể quy chiếu vào Sartre hay Camus được. Sản phẩm của đứa con hoang đó được du nhập vào Việt Nam và được đón tiếp ồn ào ở thành thị. Từ kiểu ăn mặc, đi đứng, kiểu lái xe, ngồi lên xe; rồi âm nhạc, điện ảnh với “nouvelle vague,” với James Dean. Sagan một bên, James Dean một bên. Phải chăng đó chính là hai đứa con hoang của Sartre? Từ lối sống, lối nghĩ, lối làm tình, đến cả lối chết… Tại miền Nam, trong thi ca, tiểu thuyết và báo chí, chỗ nào cũng thoáng ẩn hiện bóng dáng của thứ triết lý này. Ðến độ, người ta thấy rằng từ Mai Thảo đến Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền đều là những kẻ truyền thừa của thứ triết lý ấy. Khi mà Quách Thoại chẳng may mệnh yểu, Mai Thảo nói tới sự tự do chọn lựa cái chết, buộc mọi người phải liên hệ tới sự tự do tuyệt đối của triết lý Hiện sinh. Hiện tượng bề ngoài được bao trùm bởi cái không khí hiện sinh đó thật ra chỉ phù phiếm, chẳng có căn bản gì. Tờ Sáng Tạo, được tiếng là cửa ngõ đi vào triết lý hiện sinh, từ đầu tới cuối chỉ có bốn bài viết về hiện sinh, trong khi tờ Ðại Học ở Huế có 21 bài, tờ Bách Khoa có 24 bài.

Một số nhà văn nữ thập niên 60, như Nguyễn Thị Hoàng, Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Lệ Hằng, Chu Tử, Nguyễn đình Toàn v.v… ít nhiều cho thấy bóng dáng của Sagan hiện diện trong truyện của họ. Tôi không dám bảo là họ bắt chước, nhưng có nhiều người cho rằng đó là thứ triết lý thời thượng, một kiểu theo đuôi hay làm dáng trí thức. Vậy thì phải chăng đây cũng là một thứ con hoang của Sartre? Trong giới giáo sư dạy triết thời đó, thế hệ thứ hai với những người như Ðặng Phùng Quân, Nguyễn Quốc Trụ, Huỳnh Phan Anh, Trần Nhựt Tân, Trần Văn Nam… Hầu như tất cả các luận án cao học ngành Triết thời đó đều đề cập đến các triết gia hiện sinh, nhưng đặc biệt không thấy một luận án Triết nào trong số họ đề cập đến triết hiện sinh của Sartre. Cắt nghĩa điều này như thế nào? Huỳnh Phan Anh viết Văn chương và kinh nghiệm hư vô. Nguyễn Quốc Trụ viết Văn chương và sự khả hữu. Trần Công Tiến viết Từ Hiện Tượng luận Husserl đến Hiện tượng luận Heidegger.
Liệu có bao nhiêu độc giả đã đọc họ và có bao nhiêu người hiểu họ?
Tôi chỉ có thể đặt câu hỏi, nhưng không thể trả lời thay cho những người khác. Cách trình bày khó hiểu và đôi khi khúc mắc, tối tăm trong những tác phẩm vừa kể đôi khi cho thấy một trí tuệ phi thường của người viết. Ðộc giả có tâm trạng mặc cảm khi đọc những bài viết như thế.
Nơi đây, triết học thực sự trở thành một món quà mà Thượng đế chỉ dành cho một số người đã được lựa chọn.
Không ai dám truy vấn chính mình đến ngọn nguồn về trình độ đọc sách và truy vấn người viết về khả năng hiểu biết và diễn đạt.
Người viết không cần biết người đọc hiểu được bao nhiêu. Nếu người đọc không hiểu thì lỗi thuộc về họ. Phải chăng nơi các giáo sư triết này thấp thoáng bóng những đứa con hoang của Sartre? Một hình thái theo đuôi, bắt chước, thời thượng? Liệu phê phán như thế có oan cho họ không? Với thiện chí của người trí thức trẻ, cố gắng nghiên cứu triết lý hiện sinh, họ trở thành đứa con hoang của Sartre, bị xếp ngang hàng với những cô cậu hippy choai choai.

Trong nghiên cứu văn chương, người ta đọc thấy những đề tài như Chinh phụ ngâm với tâm thức lãng mạn của kẻ lưu đầy, Nguyễn Công Trứ với cảm thức hư vô, Tản Ðà với khát vọng vĩnh cửu.
Ðến Phật giáo, Lão giáo cũng nhập cuộc. Người ta vào đạo Phật qua lối ngõ của J.P. Sartre. Từ lăng kính Nho, Phật, Lão đến lăng kính Hiện tượng luận.

J.P. Sartre

Công giáo bảo thủ nhập cuộc kiểu khác: hạ bệ và nguyền rủa thứ triết lý này. Ðại loại như “Chúng tôi tố cáo mầm phản loạn trong Văn nghệ”, “Lại một trạng thái cuồng loạn phơi bày trong tiểu thuyết”, “Chúng tôi cực lực phản đối cái thuyết dã thú hóa ra con người của ông Thạch Chương”, “Tiểu thuyết Nguyễn Thị Hoàng, sự buôn lậu tư tưởng trong một con bịnh dân thành phố…” .
Ðấy là những bài viết nhằm phê phán triết học ấy ở bình diện luân lý. Họ không nhằm phê phán Sartre, bởi một lẽ dễ hiểu, họ không có điều kiện để hiểu Sartre. Họ chỉ có thể phê phán những sản phẩm xã hội mà họ nghi ngờ là từ Sartre mà ra, những sản phẩm bị coi là con hoang của Sartre. Vì sự phê phán trên bình diện luân lý của tiểu thuyết đã đi trật đường, liệu có thể xếp sự chống đối của họ cũng vào loại con hoang của Sartre không? Con hoang của những đứa con hoang?

Hết văn chương, tôn giáo lại thêm chính trị nhập cuộc. Những người anh em theo phía bên kia nay chửi thứ triết lý hiện sinh với ẩn ý chính trị ở Lữ Phương, Khải Triều… Chẳng hạn như các bài “Ðọc các tác phẩm của Chu Tử”, “Hiện tượng dâm ô, đồi trụy trong văn học hiện nay”, “Từ văn hóa cải lương đến văn chương đồi trụy và thứ cần sa của ngoại bang”. Ðã hẳn những bài viết như thế không cần đòi hỏi bất cứ một chút kiến thức nào về chủ nghĩa hiện sinh cả.
Ðó chỉ là những thứ con hoang đến hoang tưởng, gán cho Sartre bất cứ cái gì mà họ muốn.

Người ta tưởng rằng những đứa con hoang của J.P Sartre sau ngày 30-04 đã tiêu tan theo cuộc cách mạng ấy. Nhưng không, Sartre vẫn đội mồ sống dậy. Sartre cùng với Camus vẫn còn đó, bằng xương, bằng thịt.

Theo dịch giả nổi tiếng thời 60-70 Trần Thiện Ðạo, cuốn L’étranger của Camus đã có 3 dịch giả dịch rồi. Chuyên gia dịch hàng đầu của miền Bắc, ông Dương Tường, lại cất công dịch một lần thứ tư, 1995. Rồi Nguyễn Văn Dân là người thứ 5 lại mới dịch lại vào năm 2002.
Dịch lại như thế vì tác giả quá nổi tiếng? Vì tác phẩm quá hay? Vì người đọc ham chuộng? Vì người dịch trước dịch dở, tồi tệ? Vì có người dịch rồi thì dịch sau đỡ tốn công sức? Camus có bao nhiêu tác phẩm, tại sao lại cứ nhè cuốn đó mà dịch?
Cái hiện tượng dịch lại sách đã dịch cũng thấy được ở cuốn Bác sĩ Zivago, dịch lần thứ ba. Hay hơn thế nữa, lấy sách dịch in lại mà không cần đề tên dịch giả như trường hợp nạn nhân là Phùng Khánh?

Sự tụt hậu về sinh hoạt dịch ở Việt Nam có đến 50 năm và một thế kỷ.
Sách mới không dịch, cứ nhè sách cũ, sách đã dịch rồi dịch lại như một nhu cầu đọc giải trí, thay vì nhu cầu nghiên cứu. Một hiện tượng quái gở không hiểu được. Tại sao lại dịch lại những cuốn như vừa kể, mà trước đây được xếp vào loại sách phản động, không phản động thì đồi trụy?

Phải chăng vì những đứa con hoang của Sartre vẫn tiếp tục hoành hành trên thị trường chữ nghĩa ở miền Nam?

Ðứa con hoang có thể là cuối cùng của Sartre có lẽ là giáo sư tiến sĩ Trần Trọng Ðăng Ðàn. Ðối với văn học miền Nam nói chung, ông giáo sư này là kẻ chém treo ngành. Ông chém, chặt, nhổ, bứng từng dây mơ rễ má cái văn học, văn hóa đồi trụy ấy. Ông viết cuốn Văn hóa văn nghệ, Nam Việt Nam, 1954-1975 dày hơn ngàn trang mà tôi phải bỏ ra 50 đô la để bê nó về. Sót ruột lắm!
Gọi là nghiên cứu của một tiến sĩ giáo sư mà từ trang đầu đến trang cuối chỉ thấy chửi là chửi.
Ông chửi rất bài bản, nhìn đâu cũng thấy đồi trụy, đĩ điếm, thấy nọc độc của chủ nghĩa thực dân. Ông chửi các nhà văn, nhà văn hóa miền Nam kể như không trừ một ai. Chửi tất cả các sách dịch bất kể tác giả, bất kể loại, trong đó có Camus, Sagan.
Giáo sư đi theo vết chân của Lữ Phương, Khải Triều, mắc bệnh quáng gà mất rồi.

Ra khỏi khuôn viên đại học Văn Khoa đường Nguyễn Trung Trực thời đó, ra khỏi Sài Gòn, người dân miền Nam vẫn sống hiền hòa, vẫn chịu đựng chiến tranh, không có chút nào là triết nọ. Thần tượng của họ là Bà Tùng Long, cùng lắm là Lê Xuyên, là Bạch Tuyết, Hùng Cường, là Kim Dung. Ðổ oan cho toàn miền Nam cái tiếng văn hoá đồi trụy, nọc độc chế độ thực dân mới thật là hồ đồ.

Nếu cho rằng cái văn chương ấy, cái nọc độc ấy, cái âm mưu ấy làm ung thối miền Nam đến toàn là đĩ điếm, đồi trụy thì phải cắt nghĩa thế nào về hiện trạng xã hội Việt Nam hiện giờ?
Nó là do cái nọc độc nào, cái âm mưu nào đã đưa xã hội đất nước con người đến một tình trạng sa đọa được hợp lý hóa, được hợp pháp hóa và nhất là được bình thường hóa.
Cái sa đọa đạo đức, xã hội trầm kha nhất của đất nước hiện nay là bình thường hóa sự sa đọa, mất ý thức về sa đọa. Chữ mà người ta dùng để chỉ về điều này được gọi là thời mạt. Phải chăng đây là thời mạt của Sartre còn sót lại?

________________________________________
Một số dữ kiện về tên các bài viết, các con số đã được trích dẫn ra từ bài viết công phu: “Hiện sinh ở miền Nam 1955-1975,” của Nguyễn Văn Trung, từ trang 346 đến 390, trong bộ sách: Nhìn lại những chặng đường đã qua 1955-1995. Nxb Nam Sơn. Montréal 2000.


 

Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được. (Lc 16:13)- Cha Vương

Chúc bạn ngày cuối tuần vui tươi bình an trong tinh thần chia sẻ nhé.

Cha Vương

Thứ 7: 8/11/2025

TIN MỪNG: Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được. (Lc 16:13)

SUY NIỆM: Khi Chúa nói anh em không thể “làm tôi hai chủ được”, Ngài muốn nói với bạn điều gì hôm nay? Nhà thần học Scott Hahn, giải thích rằng chữ “Mammon” là “một từ tiếng Hi có nghĩa là “Tiền Của.” Điều này không có nghĩa là tiền của tự bản thân nó là xấu xa mà bạn phải từ bỏ hoàn toàn. Nhìn vào thực tế, trong cuộc sống hiện đại ngày nay, bạn không thể sống mà không tiền. Nhà thờ cần tiền để bảo trì cơ sở và duy trì các sinh hoạt mục vụ. Đến ngay cả người chết cũng cần tiền để được chôn cất :). 

Vậy khi nào “tiền của” của bạn trở thành điều xấu? Câu trả lời là khi bạn thấy tiền của dẫn bạn đến lòng tham lam, ghen tị và chia rẽ với người khác, và khi của cải làm bạn sao nhãng việc “mến Chúa và yêu người”, thì lúc đó bạn cần phải đặt lại vấn đề về sự lựa chọn của bạn. 

Điều gì đang ngăn cản bạn thực thi giới răn “mến Chúa và yêu người”?

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa Giêsu, / Xin dạy con biết sống quảng đại, / biết phụng sự Chúa cho xứng đáng, / biết cho đi mà không tính toán, / biết chiến đấu mà không sợ thương tích, / biết làm việc mà không tìm an nghỉ, / biết hiến thân mà không mong chờ một phần thưởng nào khác hơn là biết mình đã hành động theo Thánh ý Chúa. Amen. 

(Thánh Inhaxiô Loyola)

THỰC HÀNH: Làm một việc bố thí hôm nay. 

From Do Dzung

*************************

Cho Đi Là Lãnh Nhận – Angelo Band

 CHỮ ‘BUÔNG’ TRONG ĐỜI TU-Sr Mây Trắng, SPP

Gieo Mầm Ơn Gọi

Có những ngày trong đời tu, tôi chợt nhận ra mình sống quá chặt, nắm giữ quá nhiều điều mà chính tôi không hay biết. Tôi tưởng rằng mình đã “trao hết cho Chúa”, nhưng sâu thẳm bên trong, vẫn còn những góc nhỏ tôi siết lại và sợ phó thác. Chỉ đến khi những biến động âm thầm gõ cửa lòng, tôi mới hiểu rằng: buông không phải là một quyết định duy nhất, nhưng là một hành trình dài, lặng lẽ, và cần ơn Chúa từng ngày.

Khi trái tim còn kẹt lại: Tôi nhớ những năm đầu đời tu, lòng tôi còn nhiều nỗi sợ: sợ không đủ thánh thiện, sợ không được yêu, sợ bước sai, sợ đánh mất chính mình. Nhiều đêm, tôi nằm trong căn phòng nhỏ, nghe tiếng quạt kêu đều đều, mà lòng nặng như đá. Tôi biết mình đang “giữ” điều gì đó, nhưng không có can đảm mở tay ra. Thậm chí, có những điều tôi mang theo từ thời tuổi trẻ: một lời nói vô tình làm tổn thương tôi, một thất bại khiến tôi mặc cảm, một người tôi thương nhưng phải chọn từ bỏ, một tương lai tôi từng mơ mà không còn thuộc về tôi nữa. Tôi giấu những điều đó trong sâu thẳm tâm hồn, như thể nếu không nhìn vào thì chúng sẽ biến mất. Nhưng chúng không biến mất. Chúng đợi tôi đối diện.

Khi Chúa nhẹ nhàng chạm vào những điều tôi muốn tránh: Nhiều lần trong giờ chầu, tôi không cầu nguyện được, Chúa không nói gì với tôi, mà chỉ để tôi ngồi đó với chính mình. Không có ánh sáng bất ngờ, không có cảm xúc thăng hoa. Chỉ là sự thinh lặng kéo dài cho đến khi tôi phải hỏi chính mình: “Con đang giữ điều gì vậy? Tại sao con không buông được? Tại sao lòng con còn nhiều ngổn ngang đến vậy?” Tôi đã luôn xin Chúa thay đổi hoàn cảnh, chữa lành nỗi đau, quên đi ký ức của tôi, chờ mãi vẫn không có gì khác. Nhưng rồi một ngày, tôi cảm thấy Ngài nói: “Con hãy đưa cho Cha trước đã.” Đưa cho Chúa nghe thì dễ, nhưng để đưa được, tôi cần nhận ra điều tôi nắm. Tôi cần chạm vào nỗi đau ấy. Tôi cần thừa nhận rằng tôi yếu đuối. Và rằng tôi đang cố tự chữa lành bằng sức riêng mình. Chính lúc ấy, tôi hiểu: Buông không phải là từ bỏ trách nhiệm, buông là từ bỏ sự kiểm soát, mà tôi như bao người vẫn thích kiểm soát hơn là tin tưởng.

Buông là bước vào tự do, dù chân còn run: Có những điều buông xuống làm tôi đau, có những điều buông xuống làm tôi khóc, và có những điều buông xuống khiến tôi như mất một phần mình. Nhưng đã bao lần sau khi buông, tôi thấy lòng nhẹ đi mà không hiểu vì sao mình từng ôm chặt đến vậy.

Tôi nhớ có lần mang trong lòng một hiểu lầm kéo dài nhiều tháng. Tôi chạy trốn cuộc đối thoại, tránh ánh mắt người chị em đã vô tình khiến tôi đau. Nhưng Chúa thì không để tôi chạy mãi. Trong giờ cầu nguyện, tôi cảm nhận Ngài mời gọi: “Đi đi con. Hãy nói sự thật trong yêu thương. Hãy buông sự tự ái.” Tôi run rẩy, nhưng tôi đã đi. Và chính ngày hôm đó, tôi học thêm một bài: Buông không làm ta nhỏ đi, nhưng làm ta trưởng thành trong sự thật và yêu thương.

Ở những lúc khác, Chúa lại dạy tôi buông những dự định của mình để đón nhận ý Chúa. Tôi từng có những ước mơ rất đẹp, rất tốt, tưởng rằng đó là điều Chúa muốn. Nhưng rồi Ngài lại dẫn tôi qua một hướng khác xa hơn, khó hơn, và cũng thật bất ngờ. Và khi tôi chấp nhận buông ước mơ cũ, tôi mới thấy câu này là thật: Không có gì Chúa lấy đi mà không thay bằng điều tốt hơn cho linh hồn.

Lúc tôi buông, tôi nghe được tiếng Chúa rõ hơn:  người ta nói: hai bàn tay chỉ có thể nhận khi nó trống, và lòng người cũng vậy. Khi tôi còn giữ chặt nỗi buồn, tôi không thấy niềm vui. Khi tôi còn giữ chặt kỳ vọng, tôi không thấy sự tự do. Khi tôi còn giữ chặt cái tôi, tôi không nghe được tiếng Chúa. Và khi tôi buông, không phải một lần, mà là từng chút, từng ngày, tôi khám phá một điều rất nhỏ mà rất thật: Chúa chưa bao giờ đòi tôi hoàn hảo. Ngài chỉ muốn tôi để Ngài làm Chúa của cuộc đời tôi. Buông là để Ngài dẫn, chứ không để tôi tự lèo lái. Buông là tin rằng Ngài đủ. Buông là chấp nhận rằng tôi chỉ là một trẻ nhỏ trong vòng tay Người Cha hiền.

Trong thế giới tạm bợ, buông là cách để không đánh mất chính mình: Giữa một thế giới quá nhiều tiếng ồn, quá nhiều so sánh, quá nhiều lỡ làng, tôi thấy “buông” không phải là trốn chạy, nhưng là một nghệ thuật để tâm hồn được giữ nguyên sự trong lành: buông để lòng nhẹ hơn, buông để tim được chữa lành, buông để mỗi tối ngủ bình yên, buông để sáng hôm sau sống mỉm cười, và buông để còn chỗ cho bình an của Chúa cư ngụ.

Với tôi là một nữ tu sống giữa đời tạm bợ này, buông chính là hành vi đức tin đẹp nhất mà tôi dâng lên Chúa mỗi ngày: buông chính mình, để thuộc trọn về Ngài. Buông để không còn gì chất chứa trong tôi khác ngoài Chúa và Thánh Ý của Ngài.

Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường, con trao vào tay Chúa những điều con vẫn còn giữ chặt: những nỗi sợ, những vết thương, những kế hoạch chưa trọn, những người con thương, những người con chưa thương được và cả những điều con chưa dám gọi tên. Xin dạy con biết buông bỏ trong bình an, để con không bước đi với trái tim nặng nề. Xin cho con đủ khiêm nhường để phó thác, đủ tin tưởng để mở tay ra, và đủ tình yêu để đón nhận điều Chúa muốn cho đời con. Lạy Chúa, giữa thế giới chóng qua này, xin gìn giữ con trong sự tự do của con cái Chúa, để từng ngày, con biết buông xuống chính mình và thuộc trọn về Chúa, Đấng yêu con không mỏi mệt. Amen.

Sr Mây Trắng, SPP