THÁNH GIÁ – (Lm. Nguyễn Tầm Thường)

Huong Duongthanh

 NHÂN NGÀY LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ, MỜI MỌI NGƯỜI ĐỌC BÀI VIẾT NÀY

THÁNH GIÁ

(Lm. Nguyễn Tầm Thường)

Tôi nhìn thấy thánh giá mỗi ngày. Tôi nghe nói về Thánh giá rất thường: Thánh giá trên tháp chuông. Thánh giá trên bàn thờ. Thánh giá bán trong tiệm.Thánh giá ngoài nghĩa trang. Thánh giá trên tường đá. Thánh giá trong nghệ thuật. Thánh giá trong thi ca. Thánh giá ở khắp nơi. Nhưng thánh giá là gì? Để tìm câu trả lời không phải là vấn đề đơn giản. Có nhiều ý nghĩa khác nhau về thánh giá.Tùy theo mỗi người mà thánh giá có giá trị khác biệt .

*

Thánh giá bằng vàng thì có giá trị hơn bằng gỗ. Thánh giá vàng cũng tùy theo to nhỏ mà giá đắt hay rẻ hơn. Người mua có thể trả giá để được bớt. Người bán thì lại mong bán giá cao. Người có tiền thì mua thánh giá bằng vàng tốt. Kẻ ít tiền thì mua vàng dở. Họ lừa nhau, không cẩn thận thì mua phải thánh giá vàng giả. Nhiều người muốn có .Thánh giá là đơn vị kinh tế để ấn định tiền bạc. Thánh giá lúc ấy xác định sự giầu có.

*

Thánh giá cũng dùng để trang điểm. Họ đeo từng chùm thánh giá trên vành tai, bên mái tóc nhuộm xanh đỏ. Người thích thì không sao, người không ưa thì lúc đó kẻ đeo thánh giá bị cười chê. Có người thích trang điểm bằng thánh giá trên giây chuyền vàng. Họ đeo thánh giá ở dạ hội , ở tiệc cưới , ở các buổi tiếp tân. Lúc đó ý nghĩa của thánh giá là muốn làm cho mình đẹp, kéo kẻ khác chú ý đến mình. Và cũng có những thánh giá trên vùng ngực hở hang.Lúc ấy thánh giá nằm trong duyên cớ của những rung động cám dỗ. Người có thánh giá để trang điểm thì hãnh diện. Kẻ không có thì thèm muốn. Thánh giá lúc này là xúi đẩy của lòng tham.

*

Thánh giá ở ngoài nghĩa trang thì vắng lặng, ít ai nhìn. Thánh giá bị mưa lạnh, bị nắng gắt.Thánh giá vàng được săn sóc giữ gìn cẩn thận. Thánh giá ở ngoài nghĩa trang có thể gãy đổ từ lâu nhưng chẳng ai để ý. Nhưng nếu Chúa ở trên thánh giá đó thì được tự do ngắm mây trời. Có cái hoang lạnh của buổi chiều mưa phùn, nhưng cũng có thể có tiếng hót của một cánh chim nào đó dừng chân hát vui. Cũng có thể là sương rơi, là gió bão nhưng Chúa không ngột ngạt vì hương phấn như những thánh giá vàng trên cổ trên ngực của con người. Thánh giá ngoài nghĩa trang có thể không được chăm sóc, nhưng Chúa có tự do để nhìn Hoa nở, nhìn trăng lên. Thánh giá trên giây chuyền vàng thì Chúa bị người ta nhìn nhiều khi bằng những ánh mắt tham lam, thiếu trong sạch.

*

Cũng có nơi thánh giá được dùng để xuống đường. Họ vác thánh giá không phải để lên đồi chịu đóng đinh, nhưng để đi biểu tình và đóng đinh kẻ khác.Thánh giá với khẩu hiệu. Thánh giá với những bàn tay nắm chặt hận thù. Thánh giá đằng đằng trước mũi súng. Thánh giá để đánh nhau. Thánh giá bấy giờ là phương tiện tranh đấu. Nếu Chúa nằm trên thánh giá đó chắc Chúa sợ lắm. Suốt cuộc đời Ngài chỉ dậy các môn đệ của Ngài cách chết chứ chẳng bao giờ dậy cách chiến đấu.

Các nhà lãnh tụ thì dậy kẻ theo họ chiến thuật tranh dành ảnh hưởng.Họ phải biết làm sao để áp đặt kẻ thù. Họ học cách tiêu diệt đối phương. Thày Yêsu chỉ dạy môn sinh của mình phải chuẩn bị chết. Vì thế khi thánh giá bị vác xuống đường biểu tình, chắc hẳn Chúa phải luống cuống lắm vì Ngài nào có biết gì?!

*

Có Thánh giá trên lầu chuông gỗ, có thánh giá trong Bảo tàng viện. Thánh giá trên lầu chuông thì có khi phủ bụi mờ , mạng nhện che kín. Thánh giá không có người săn sóc, nhưng chiều chiều có tiếng chuông phổ nhạc. Sáng sáng có lời chuông đưa kinh. Con người bỏ Chúa bụi phủ nhưng có đàn bồ câu bay về,đậu xuống chuyện trò. Thánh giá trong Bảo tàng viện là Thánh giá quý. Họ canh giữ cẩn thận. Nhưng khi được con người canh giữ cẩn thận thì Chúa trên thánh giá đó có nhiều lo âu. Người ta rình mò ăn cắp: Thánh giá bị đặt trong lồng kính. Nếu Chúa ở đó chắc ngột ngạt vì giam hãm. Ngày ngày , hàng ngàn con mắt qua lại dòm ngó. Nếu Chúa ở đó chắc Chúa bối rối lắm. Chúa trên Thánh giá gỗ xấu xí thì lại được tự do. Chúa trên Thánh giá mà được loài người gìn giữ quý hóa lại là một cõi tù đầy.

Người Ki tô hữu nhận thánh giá để phân biệt mình với tôn giáo khác . Giữa những người Ki tô hữu , Tu sĩ lại đeo thánh giá để phân biệt họ không là giáo dân. Giữa Tu sĩ , thánh giá cũng được để phân biệt trên Nhẫn Bạc , trên Gậy cầm để nói ai là thầy Thượng phẩm chức vị , ai là Tu sĩ thường. Như vậy, thánh giá cũng được dùng như dấu hiệu phân biệt: Những ngày còn sống, Chúa lao tác mệt nhọc, nhưng , dán bích chương hầu loan báo một tôn giáo mới. Chúa xây dựng Nước Thiên Chúa trong tim con người. “Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết các con là môn đệ ta: ấy là các con có lòng thương mến lẫn nhau” (Yoan 13:35).

Tình yêu vô hình, không nhìn thấy thì Chúa lại bảo lấy làm dấu hiệu cho ngưới ta nhìn. Còn thánh giá hữu hình Chúa lại chẳng chọn làm dấu hiệu.

Trên dường từ Jerusalem lên núi Sọ có rất nhiều người nhìn Chúa vác thánh giá. Có nhiều kẻ đã được thừa hưởng ân huệ của Ngài, được Ngài chữa bệnh, được Ngài nuôi ăn nhưng họ không vác thánh giá đỡ Ngài. Không một Môn đệ nào ghé vai gánh vác cho Thày mình đỡ mỏi. Chúa đã nhiều lần quỵ ngã vì yếu sức. Kẻ vác thánh giá đỡ Ngài là Simon, người xứ Kyrene. Phúc âm không hề nói là ông Simon đã được hưởng đặc ân gì của Chúa trước đó cả. Và có thể ông là người ngoại giáo.

Đời là vậy, có nhiều kẻ theo Chúa nhưng để Chúa vác Thánh giá một mình. Có kẻ trên danh nghĩa không là người theo Chúa, nhưng nhờ họ mà Chúa đỡ khổ.

THÁNH GIÁ LÀ GÌ?

Khi có quá nhiều loại thánh giá

. Thánh giá dùng như đồ trang sức.

. Thánh giá là đơn vị kinh tế tính bằng tiền bạc.

. Thánh giá là phương tiện tranh đấu

. Thánh giá có thể làm duyên cớ cho lòng thèm muốn tham lam.

. Thánh giá có thể bị quên lãng ngoài cánh đồng.

. Thánh giá cũng được gìn giữ cẩn thận trong tủ kính có khóa.

. Thánh giá để phân biệt chức vị trong xã hội.

Một câu hỏi mà có quá nhiều câu trả lời đúng thì câu trả lời thường là sai. Vì câu trả lời đúng nhất chỉ có một. Không bao giờ có hai cái đẹp nhất cũng như chẳng thể bao giờ có hai điều đúng nhất.

Người ta không thể tranh luận về Thánh giá. K3 dùng Thánh giá làm phương tiện tranh đấu thì không thể chấp nhận Thánh giá là để đóng đinh mình. Kẻ muốn dùng Thánh giá để làm dáng thì đối với họ Thánh giá chỉ có nghĩa khi dùng để trang điểm. Ai chọn Thánh giá để phân biệt mình với tôn giáo khác thì Thánh giá mang màu sắc một ký hiệu. Mỗi người nhìn Thánh giá một cách khác nhau. Giá trị của Thánh giá tùy thuộc cái nhìn của họ.

*

Đức Ki tô nói về Thánh giá như sau: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác Thánh giá của mình mỗi ngày mà theo ta.”

Vác Thánh giá để đi theo một người chứ không phải để thỏa mãn tò mò về một người. Như thế, Thánh giá không phải là một định nghĩa để hiểu biết bằng trí tuệ mà phải hiểu bằng lối sống. Bởi đó, kẻ không theo Ngài thì sự hiểu biết tri thức về Thánh giá chẳng có ý nghĩa gì. Kẻ đã theo ngài thì không cần tìm định nghĩa cho Thánh giá. Vì đã theo Ngài thì biết Thánh giá là gì rồi.” về phần tôi, ước chi tôi đừng có vinh quang nơi một điều gì, trừ phi là nơi thập giá của Chúa chúng ta”( Gal. 6:14)

Tôi nói với người ta về Thánh giá. Tôi cũng nghe người ta nói với tôi về Thánh giá. Nhìn Thánh giá mỗi ngày mà tôi đau thấy vinh quang. Cuộc sống vẫn dầy rẫy trầm luân của nó. Như vậy Thánh giá nào mới cho tôi hy vọng?

Giữa bao nhiêu loại thập giá, thánh Phaolo chọn có một. Đó là thập giá của Chúa chúng ta.

Như thế, không phải thập giá nào cũng có vinh quang. Điều ấy cũng hàm ý là có nhiều Thánh giá giả. Nếu phân biệt được Thánh giá thật giữa Thánh giá giả thì người ta sẽ hiểu được vấn đề sau đây.

Vấn đề là người ta phàn nàn về thánh giá. Khi gặp điều bất hạnh, người ta hay nói: Đời tôi khổ quá! Chúa gởi Thánh giá cho tôi!

Phúc âm kể rằng Chúa bị điệu ra công trường, bị phỉ nhổ làm nhục, bị chế nhạo chê cười… Người ta làm thập giá, bắt Ngài vác đi rồi đóng đinh Ngài trên thập giá đó (Mc 15:16…Yn. 19:13).

Như thế, thập giá trong ý nghĩa bất hạnh là sản phẩm của con người. Con người đã có sáng kiến chế ra thập giá để đóng đinh Chúa: Nếu thập giá là sản phẩm của con người thì phải nói con người đã gởi thập giá cho Chúa , chứ Chúa làm gì có thập giá mà gởi cho con người?

(Trích trong NƯỚC MẮT & HẠNH PHÚC)


 

Việt Nam, một lịch sử khác?-Tác giả Christopher Goscha

BBC Vietnamese

Tác giả Christopher Goscha

Gửi cho BBC News Tiếng Việt từ Montréal, Canada

Tác giả Alex-Thái Đình Võ – Dịch

15 tháng 9 2025

Với đa số độc giả ngoài Việt Nam, quốc gia ven biển nhỏ bé này vẫn thường gắn liền với cuộc chiến kéo dài một thập kỷ, khi quân đội Hoa Kỳ sa lầy trong nỗ lực ngăn chặn cộng sản miền Bắc tiến chiếm một miền Nam không cộng sản. Chiến tranh Việt Nam kết thúc năm 1975 với sự thất bại nặng nề của Mỹ.

Nỗi thất bại cũng phủ bóng lên ký ức của Pháp về thuộc địa cũ. Thất bại ê chề mà Pháp phải chịu trong trận Điện Biên Phủ năm 1954, khi quân đội của Võ Nguyên Giáp chấm dứt 80 năm thống trị thuộc địa, vẫn còn vang vọng trong đời sống chính trị Pháp cho đến ngày nay.

Ở Việt Nam, chiến thắng vẻ vang này trở thành chủ đề chiếm vị trí trung tâm trong cách dân tộc này hình dung về chính mình.

Mỗi năm, hàng triệu học sinh và học viên quân sự được dạy rằng đất nước hình chữ “S,” trải dài từ sông Hồng ở miền Bắc đến đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam, được xây dựng từ truyền thống bền bỉ chống lại sự xâm lược từ bên ngoài. Trước khi đánh bại người Pháp và người Mỹ, người Việt đã từng đẩy lùi các đội quân xâm lược từ Trung Quốc và Mông Cổ.

Hồ Chí Minh chỉ là một trong số nhiều anh hùng đã giành lại độc lập cho Việt Nam. Theo cách nhìn này, cả Pháp lẫn Mỹ chỉ có thể tự trách mình vì đã phớt lờ những bài học từ lịch sử.

Tuy nhiên, việc xây dựng một câu chuyện lịch sử xoay quanh truyền thống kháng chiến sẽ che mờ nhiều yếu tố quan trọng khác, và đó chính là cái giá của nó. Việc kiến tạo một quá khứ trong đó Việt Nam – với đường biên giới và hình dạng như ta thấy ngày nay – luôn là một thực thể thống nhất chống lại ngoại xâm đã che phủ một lịch sử phức tạp và thú vị hơn nhiều.

Hai Bà Trưng trên tranh dân gian

Thực tế, dải đất hình chữ S mà ta thấy trên bản đồ hiện nay không phải lúc nào cũng tồn tại ở hình dáng ấy. Giống như Hoa Kỳ, Nga hay thậm chí Trung Quốc, Việt Nam cũng là sản phẩm của quá trình mở rộng thuộc địa của chính mình. Và, như các đế chế khác trong lịch sử, quốc gia này khởi đầu từ một vùng lõi nhỏ trước khi bành trướng thành một thực thể mang hình thái đế chế.

Cái nôi của nền văn minh Việt nằm ở đồng bằng sông Hồng, nơi một nhà nước độc lập, tập quyền với kinh đô Cổ Loa hình thành vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, gần thủ đô Hà Nội ngày nay. Dù là một nhà nước sôi động và phát triển vượt bậc so với bối cảnh đương thời, nền độc lập của Cổ Loa đã nhanh chóng chấm dứt khi đế chế Trung Hoa ở phương Bắc bắt đầu cho quân tiến vào vùng biên cương. Vào thế kỷ 2 trước Công nguyên, Trung Hoa giành quyền kiểm soát vùng sông Hồng, biến Việt Nam thành quận cực nam của đế chế, mang tên Giao Chỉ. Khi ấy, lãnh thổ Việt Nam chỉ gói gọn ở đồng bằng sông Hồng và nằm dưới ách cai trị Trung Quốc trong một ngàn năm.

Sự cai trị của Trung Hoa đôi khi rất khắc nghiệt. Đã có những thời khắc người Việt kháng cự quyết liệt, trong đó có cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng vào thế kỷ thứ nhất Công nguyên. Quân đội nhà Hán đã được điều động để trấn áp phong trào này. Tuy nhiên, cũng có nhiều người Việt hợp tác với chính quyền Trung Hoa, coi sự cai trị ấy như một phương tiện thúc đẩy cải cách và hiện đại hóa. Trên thực tế, một ngàn năm dưới ách đô hộ đã khiến nhiều yếu tố văn hóa Trung Hoa ăn sâu vào đời sống ở Giao Chỉ.

Hưng Đạo đại vương và trận chiến Bạch Đằng trên tranh dân gian

Các quan lại Trung Hoa giới thiệu những khái niệm mới về luật pháp, thời gian và không gian (như các bộ luật, niên lịch, hệ thống đo lường, trọng lượng và bản đồ), cùng với nghệ thuật quản lý hành chính, vũ khí, giấy và kèm theo đó là hệ thống chữ viết theo ký tự. Văn hóa của tầng lớp tinh hoa ở đồng bằng sông Hồng cũng thay đổi với sự xuất hiện của kiến trúc cung đình, âm nhạc, nghệ thuật và ẩm thực lấy cảm hứng từ Trung Hoa, bao gồm cả việc sử dụng đũa. Trong giai đoạn này, Nho giáo và Phật giáo Đại thừa trở thành một phần của đời sống văn hóa Việt Nam.

Khi đế chế Trung Hoa suy yếu vào cuối thời Đường (618–907), người Việt giành lại độc lập vào thế kỷ 10, nhưng lại mất nó một lần nữa vào đầu thế kỷ 15, khi triều Minh khôi phục đế chế bằng cả biện pháp chính trị lẫn quân sự. Lần đô hộ thứ hai này không kéo dài lâu; đến năm 1427, người Việt lại giành được độc lập sau một cuộc kháng chiến. Song, việc thoát khỏi hệ thống đế chế Trung Hoa không có nghĩa là chủ nghĩa thực dân không còn hiện diện trong câu chuyện của Việt Nam. Thực tế, nó vẫn là lực đẩy quan trọng định hướng mạnh mẽ trong tiến trình lịch sử.

Tương tự như người Mỹ thoát ly khỏi Đế quốc Anh vào cuối thế kỷ 18 nhưng sau đó lại tạo dựng một nhà nước thuộc địa riêng của họ bằng cách tiến dần về phía tây ra Thái Bình Dương, người Việt cũng chọn con đường bành trướng. Với sự rút lui của Trung Hoa, người Việt tập trung hướng tới việc kiến tạo đế chế riêng mình, chinh phục các vùng đất phía nam bằng vũ lực, nghệ thuật trị quốc và ý thức hệ thuộc địa theo tinh thần Nho giáo được coi là “ưu việt” mà họ tiếp thu từ Trung Hoa.

Trong bước tiến xuống phương nam, cùng với quân lính, quan lại và dân di cư, các hoàng đế Việt Nam thiết lập những phủ bảo hộ, thúc đẩy việc định cư, đồng thời luân phiên áp dụng hình thức cai trị “trực tiếp” và “gián tiếp” đối với các cộng đồng xa xôi, đa sắc tộc, như một phần trong sứ mệnh khai hóa của mình. Nếu người Mỹ chinh phục các tộc người bản địa và đẩy lùi các đế quốc châu Âu tại Bắc Mỹ, thì người Việt cũng chinh phục người Chăm ở miền Trung, người Khmer thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam, cùng nhiều cộng đồng phi Việt ở vùng cao nguyên lân cận.

Triều Lê, tồn tại từ năm 1428 đến 1789 sau khi nhà Minh rút lui, chịu ảnh hưởng sâu sắc từ cuộc tiếp xúc “thuộc địa” này. Khi giành lại Việt Nam và xưng đế vào năm 1428, Lê Lợi cùng những người kế vị đã tái tổ chức nhà nước theo khuôn mẫu Nho giáo. Vị hoàng đế này nhìn thấy cơ hội làm được điều mà các bậc tiền nhân từng thất bại: thiết lập quyền lực tập trung trên một đất nước rộng lớn và khó quản lý. Ông và các thế hệ kế vị thúc đẩy mô hình trị quốc theo tinh thần Nho giáo thông qua việc mở mang trường học, đẩy nhanh các kỳ thi tuyển quan lại, và ban hành bộ luật nhà Lê (Bộ luật Hồng Đức) mang đậm dấu ấn Nho giáo.

Việc mở rộng lãnh thổ quá nhanh đã châm ngòi cho nội chiến và sự hình thành các thế lực Việt Nam đối nghịch, cạnh tranh quyền kiểm soát một thực thể chính trị đang bành trướng. Dù danh nghĩa cai trị đất nước thuộc về triều Lê, nhưng từ sau khi Trung Hoa rút lui ở thế kỷ 15, thực tế đã hình thành hai Việt Nam: miền bắc do họ Trịnh nắm quyền quân sự, và miền nam do các chúa Nguyễn lãnh đạo trong quá trình bành trướng. Đến thế kỷ 18, nhà Nguyễn ở phương nam đã trở thành một nhà nước gần như độc lập, với triều đình, bộ máy hành chính và quân đội riêng. Mọi nỗ lực của họ Trịnh nhằm đánh bại thực thể này đều thất bại.

Bảo tàng Quang Trung tại Bình Định, nay là tỉnh Gia Lai, gợi nhắc một thời nội chiến của Việt Nam

Nội chiến leo thang trong thập niên 1770, khi ba anh em nhà Tây Sơn, dựa vào làn sóng phẫn uất vì đói nghèo của nông dân vùng cao nguyên miền Trung, đã đánh bật nhà Nguyễn khỏi kinh đô Huế và dồn họ vào các căn cứ trong rừng ở đồng bằng sông Cửu Long. Nhà Tây Sơn sau đó hướng ra bắc và cuối cùng lật đổ luôn họ Trịnh vào cuối những năm 1780. Nhà Thanh tìm cách can thiệp nhưng bất thành và cuối cùng cũng bị Tây Sơn đánh đuổi.

Tuy nhiên, tàn dư của nhà Nguyễn vẫn bám trụ từ các căn cứ rừng sâu. Thực ra, cuộc nội chiến kéo dài 30 năm chỉ thật sự chấm dứt khi dòng họ Nguyễn có một màn trở lại ngoạn mục dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Ánh. Vị lãnh đạo quân sự quyết đoán này đã chỉ huy đoàn quân tiến dọc bờ biển, đưa hải quân bắc tiến, đánh bại nhà Tây Sơn rồi lập nên đế chế Việt Nam vào năm 1802. Dáng hình chữ S của Việt Nam ngày nay có từ năm ấy, kết quả của nhiều thế kỷ mở rộng lãnh thổ và nội chiến. Kể từ thập niên 1620, đất nước này đã sống trong chia cắt. Vì thế, việc tồn tại của “hai Việt Nam” ở nửa sau của thế kỷ 20 không phải là điều lạ thường.

Từ kinh đô Huế, Minh Mạng – con trai Gia Long – cai trị thực thể chính trị mới này bằng bàn tay cứng rắn. Lý trí đến mức cực đoan và thông minh hiếm thấy, ông dồn trọn hai thập kỷ trị vì để kiến tạo một quốc gia hiện đại. Ông cai trị với sự khắc nghiệt, không để bất cứ điều gì cản đường. Tương tự những nỗ lực xây dựng quốc gia mà các vua Xiêm và Miến thực hiện ở phía tây biên giới Việt, Minh Mạng tin rằng quyền lực tập trung dựa trên quản trị hành chính hợp lý sẽ giúp cai trị hiệu quả hơn và thúc đẩy phát triển kinh tế.

Các chính sách hành chính của ông thúc đẩy sự thống nhất lãnh thổ, tập trung quyền lực, phát triển kinh tế và đồng nhất về ý thức hệ. Hệ thống khoa cử được cải tổ để bảo đảm tính minh bạch và chống lại những hệ lụy tiêu cực của nạn gia đình trị cùng nhiều thế kỷ phân quyền cát cứ. Thực tế, việc xây dựng một bộ máy dân sự nắm quyền chỉ huy quân đội – thay vì ngược lại – là ưu tiên của Minh Mạng và là điều kiện cốt lõi để kiến tạo một nước Việt Nam mới.

Về kinh tế, hệ thống thuế do nhà nước quản lý, đánh trên dân cư và hoạt động thương mại, cung cấp nguồn tài chính để đầu tư vào các công trình hạ tầng lớn, nhập khẩu hàng hóa nước ngoài và trả lương cho bộ máy quan liêu ngày càng mở rộng. Việc mở rộng quyền kiểm soát hành chính xuống các tầng nấc thấp hơn cho phép huy động khối lượng lớn nhân công để xây dựng đê điều, đường sá và cầu cống mới. Dưới thời Minh Mạng, triều Nguyễn cho xây dựng Quan lộ chạy từ Hà Nội đến Sài Gòn nhằm giúp việc di chuyển quan lại và binh lính giữa hai miền hiệu quả hơn; đến đầu thế kỷ 20, người Pháp cũng cho trải nhựa con đường này với mục đích tương tự.

Minh Mạng cũng ủng hộ việc thúc đẩy thương mại quốc tế. Ông mạnh tay trấn áp nạn buôn lậu gạo và thuốc phiện, thay vào đó phát triển hoạt động thương mại do chính quyền quản lý với Singapore, Trung Quốc và phương Tây. Triều Nguyễn cũng tổ chức cộng đồng thương nhân người Hoa thành các bang hội lớn để dễ kiểm soát và đánh thuế.

Những cải cách kinh tế và chính trị này cho thấy triều đại Minh Mạng ở đầu thế kỷ 19 xứng đáng được nhìn nhận nhiều hơn là chỉ một dòng chú thích trong lịch sử Việt Nam cận đại. Điều đó không có nghĩa là ông đã hoàn thành mọi mục tiêu đặt ra, mà thay vào đó cho thấy rằng tính hiện đại ở Việt Nam – cũng như ở bất kỳ nơi nào khác – không phải là một hiện tượng tuyệt đối “có hoặc không,” và cũng không nhất thiết phải đến từ mối liên hệ thuộc địa với phương Tây.

Cũng cần lưu ý rằng việc kiến tạo nước Việt Nam dưới thời Minh Mạng đã khởi phát một làn sóng chinh phục mang tính thuộc địa khác. Trong thập niên 1830, khi cải tổ bộ máy nhà nước, Minh Mạng đồng thời mở rộng lãnh thổ, sáp nhập toàn bộ Campuchia ngày nay và một phần Lào. Nhưng rốt cuộc, vị hoàng đế này đã đi quá xa: khi tìm cách xóa bỏ vương quyền Campuchia, ông đã châm ngòi cho một cuộc nổi dậy lớn và kéo theo sự can thiệp quân sự của Xiêm.

Campuchia sau đó giành lại độc lập thông qua một thỏa thuận hòa bình do Xiêm và Việt Nam cùng thương lượng. Nói cách khác, hình dáng chữ S của Việt Nam thực sự chưa bao giờ là một tất yếu lịch sử. Cuối cùng, chính sự can thiệp của Xiêm – chứ không phải của người Pháp – đã cứu Campuchia thoát khỏi sự thôn tính của Việt Nam vào thập niên 1840.

Khi người Pháp áp đặt quyền lực đế quốc của mình tại Việt Nam, họ đã xây dựng bộ máy thuộc địa dựa trên nền tảng sẵn có của nhà nước Việt Nam. Thực vậy, Liên bang Đông Dương thuộc Pháp, được chính thức tuyên bố thành lập năm 1888, phản chiếu một cách lạ lùng ranh giới của “Đại Nam” dưới thời Minh Mạng của những năm 1830, bao gồm cả Campuchia và phần lớn Lào.

Dù hành trình giành thống nhất và độc lập ở thế kỷ 20 là chìa khóa để lý giải lịch sử Việt Nam, nhưng nó thường bỏ qua sự thật rằng chưa từng có một Việt Nam duy nhất, mà nhiều Việt Nam với những diện mạo rất khác biệt. Trong 80 năm dưới ách cai trị của Pháp, người Việt quả thực chịu nhiều đau khổ, nhưng họ không phải lúc nào cũng chỉ là nạn nhân của sự đô hộ. Bởi chính họ cũng từng là những kẻ đi chinh phục.

Các tường thuật chuẩn mực về quan hệ Việt-Trung thường mô tả đó là một lịch sử liên tục chống lại sự xâm lược của Trung Quốc. Đây là một câu chuyện hấp dẫn đối với những người theo chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam, bởi nó khơi gợi một truyền thống kháng cự bất tận trước ngoại xâm – không chỉ trong các cuộc chiến chống Pháp và Mỹ giữa thế kỷ 20, mà cả trong xung đột biên giới với Trung Quốc những năm 1980 và các căng thẳng trên Biển Đông hiện nay. Thế nhưng, như chúng ta đã thấy, những câu chuyện “chống Trung Quốc” này đã đơn giản hóa thực tế.

Thay vào đó, cần nhìn nhận rằng Việt Nam – cũng như Triều Tiên và thậm chí Nhật Bản – nằm trong một vị trí đặc thù: từng là một phần của, và luôn phải đối diện với, đế chế khổng lồ mà Trung Hoa đã tạo dựng từ thời Hán (206 TCN – 220 CN). Giống như người Frank và người German (Giéc-manh) đối diện với đế chế La Mã cùng thời, người Việt đã vay mượn nhiều yếu tố từ Trung Quốc. Người Triều Tiên và người Nhật cũng từng làm như vậy ở những thời điểm khác nhau.

Tuy nhiên, điểm khác biệt là ở chỗ Đế chế La Mã đã sụp đổ vào thế kỷ 5, trong khi đế chế Trung Hoa thì vẫn luôn tồn tại cho đến nay. Họ luôn có khả năng tái lập và thậm chí mở rộng quyền lực của mình.

Công cuộc chinh phục lãnh thổ của người Việt đã dẫn tới sự biến mất của các quốc gia phương nam

Người Việt, cũng như người Triều Tiên, vừa vay mượn từ Trung Hoa để xây dựng quốc gia và văn hóa riêng ở vùng ngoại vi đế chế, vừa phải luôn đề phòng nguy cơ bị kéo ngược trở lại trật tự cũ do Trung Quốc áp đặt. Điều này khiến người Việt luôn tự thuyết phục rằng mình không phải là người Trung Hoa, dù vẫn dựa vào những mô hình từ Trung Quốc, nhưng đồng thời tự xem mình như sứ giả của một nền văn minh “ưu việt” mà họ truyền bá xuống phương Nam thông qua quá trình bành trướng thuộc địa của chính mình. Đó là một hành động cân bằng độc đáo, khó khăn nhưng cũng đầy cuốn hút.

Người Pháp và người Đức không bao giờ phải lo La Mã quay trở lại để nghiền nát họ, hay chế giễu việc họ vay mượn thể chế, thần thoại, ngôn ngữ La Mã, hoặc tự xưng là “Caesar mới” trong châu Âu hậu La Mã với các danh hiệu như Tsar, Czar và Kaiser. Nhưng người Việt thì phải – và phải liên tục – đối mặt với điều này.

Ngày nay, những người cộng sản Việt Nam cũng rơi vào một tình huống tương tự. Họ đã vay mượn rất nhiều từ các mô hình và phương thức cộng sản Trung Quốc, từ cách tổ chức quân sự, xây dựng nhà nước độc đảng, cho đến – kể từ sau cải cách kinh tế thập niên 1980 – việc điều chỉnh kinh tế thị trường nhằm duy trì sự cai trị chuyên chế của đảng cộng sản. Song lãnh đạo Việt Nam vẫn làm điều đó bất chấp bối cảnh giới lãnh đạo cộng sản Trung Quốc đang tìm cách mở rộng đế chế của mình vượt ra ngoài phạm vi lục địa.

Mối quan hệ lịch sử giữa Việt Nam và Trung Quốc – dù trong khuôn khổ cộng sản hay Nho giáo – đặt các nhà lãnh đạo Việt Nam vào tình thế vừa phải dựa vào mô hình Trung Quốc để duy trì quyền lực trong nước, vừa phải đối phó với sự bành trướng của đế chế Trung Hoa trên trường quốc tế. Thế cân bằng này càng trở nên khó khăn khi các lực lượng đối lập trong nước tìm cách làm suy giảm uy tín của đảng bằng việc chỉ ra sự lệ thuộc vào mô hình Trung Quốc.

Tác giả Christopher E. Goscha là một nhà sử học người Mỹ-Canada, hiện là giáo sư chính tại Đại học Québec à Montréal (UQAM), nơi ông giảng dạy lịch sử quan hệ quốc tế, chiến tranh Việt Nam và lịch sử thế giới. Ông chuyên nghiên cứu về Chiến tranh Lạnh ở châu Á, quá trình phi thực dân hóa và các cuộc chiến tại Việt Nam. Goscha bảo vệ luận án tiến sĩ tại École Pratique des Hautes Études (Pháp) năm 2000 với đề tài về Chiến tranh Đông Dương trong bối cảnh xuyên quốc gia. Ông đã biên soạn và xuất bản hơn một chục đầu sách, trong đó có Historical Dictionary of the Indochina War (1945–1954), được tạp chí Choice xếp vào danh sách “Outstanding Academic Titles 2012” (Sách học thuật xuất sắc năm 2012). Năm 2016, Goscha xuất bản cuốn Vietnam: A New History, đoạt giải John K. Fairbank 2017 và được đánh giá là một trong những công trình toàn diện nhất bằng tiếng Anh về lịch sử Việt Nam hiện đại. Gần đây, ông tiếp tục gây tiếng vang với The Road to Dien Bien Phu: A History of the First War for Vietnam, một khảo cứu nhiều chiều cạnh về chiến thắng Điện Biên Phủ của Hồ Chí Minh trước thực dân Pháp – sự kiện được xem như đã báo trước trải nghiệm của Mỹ tại Việt Nam sau này.

Sụt lún ven sông quá nhanh và nặng, Sài Gòn ngày càng ‘chìm dần’

Ba’o Nguoi-Viet

September 15, 2025

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Sụt lún, triều cường và mưa lớn gia tăng đã khiến Sài Gòn, nhất là khu phía Nam bị ngập nặng, ảnh hưởng nhiều đến đời sống người dân và kinh tế-xã hội.

Báo Tuổi Trẻ hôm 15 Tháng Chín dẫn kết quả nghiên cứu phúc trình tại hội thảo “Kết quả mới nhất về quan trắc lún bề mặt tại Sài Gòn và đồng bằng sông Cửu Long bằng kỹ thuật InSAR,” do Trường Đại Học Tài Nguyên và Môi Trường tổ chức, cho thấy hiện nay Sài Gòn có tốc độ lún trung bình trên toàn thành khoảng 2-5 cm mỗi năm.

Theo kết quả nghiên cứu, khu vực dọc sông Sài Gòn và khu Nam Sài Gòn là những nơi sụt lún nặng nhất. (Hình: Bùi Nhi/Tuổi Trẻ)

Đáng chú ý, tại những khu vực có nền địa chất yếu, tập trung nhiều công trình thương mại dọc sông Sài Gòn như các khu vực từ cầu Sài Gòn đến cầu Ba Son và vùng phía Nam thành phố, tốc độ lún lên đến 7-8 cm mỗi năm.

Trong khi đó, phúc trình mới nhất của Sở Nông Nghiệp và Môi Trường TP.HCM vào thời điểm Tháng Mười Một, 2024, cho thấy việc sụt lún nền đất ở Sài Gòn bắt đầu xuất hiện từ năm 1990 và tốc độ sụt lún hiện nay “nhanh gấp hai lần mực nước biển dâng (khoảng 1cm/năm).”

Năm 2013, Bộ Tài Nguyên và Môi Trường thực hiện kiểm tra hệ thống mốc cao độ quốc gia và các dự án chống ngập tại Sài Gòn, so sánh số liệu đo đạc năm 2005 và 2014, cho thấy chỉ trong vòng 10 năm, tốc độ lún ở Sài Gòn là 10 cm, có nơi hơn, khiến thành phố này ngày càng “chìm dần.”

Các nơi bị lún gồm các quận, huyện trước đây như Bình Chánh, phía Nam quận Bình Tân và quận 8; phía Tây quận 7; phía Bắc quận 2; phía Đông quận 12; phía Tây Nam quận Thủ Đức và phía Tây Bắc huyện Nhà Bè, với tổng diện tích 239 cây số vuông.

Đặc biệt, tại quận Bình Tân trước đây như Trung Tâm Văn Hóa quận ở phường An Lạc lún đến 73.3 cm/10 năm; khu công nghiệp Tân Tạo, phường An Lạc A lún 73.2 cm/10 năm. Còn Trung Tâm Y Tế Huyện Bình Chánh trước đây lún 44 cm/10 năm.

Nhận định về tình trạng sụt lún trên, Phó Giáo Sư Tiến Sĩ Lê Trung Chơn, viện trưởng Viện Nghiên Cứu Phát Triển Bền Vững thuộc Trường Đại Học Tài Nguyên và Môi Trường TP.HCM, cho biết nguyên nhân thường tập trung vào bốn yếu tố chính là nền địa chất yếu, suy giảm mực nước ngầm, hoạt động giao thông vận tải (tải động) và công trình dân dụng, tốc độ đô thị hóa (tải tĩnh – khu vực Tân Cảng, Ba Son là điển hình).

Nhiều tuyến đường ở Sài Gòn cứ hễ trời mưa là ngập. (Hình: Phan Diệp/Thanh Niên)

Ông Chơn cũng cho rằng, sụt lún bề mặt đất tại Sài Gòn “đã là một thực tế khách quan hiện hữu mà thành phố cần phải đối diện.” Dù diễn ra từ từ, nhưng hậu quả của sụt lún đất kết hợp với biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan, triều cường gia tăng sẽ gây nên những hậu quả rất nghiêm trọng, gây thiệt hại lớn đến hạ tầng kỹ thuật, công trình dân sinh và phát triển kinh tế-xã hội.

“Nếu Sài Gòn thiếu giải pháp ứng phó kịp thời thì vài năm nữa sẽ giống như Jakarta, Indonesia, phải dời thủ đô khỏi Jakarta về Nusantara, nằm trên đảo Borneo vì Jakarta đang chìm dần. Hiện tại tốc độ lún của Sài Gòn còn vượt qua Jakarta. Nếu không có giải pháp kịp thời thì ngập lụt sẽ xảy ra thường xuyên hơn, tác động sẽ nhiều hơn,” ông Chơn nói. (Tr.N)


 

Ca Khúc Tưởng Nhớ & Tri Ân LM PHÊRÔ CHU QUANG MINH, SJ. (1937 – 2025)

Ca Khúc Tưởng Nhớ & Tri Ân LM PHÊRÔ CHU QUANG MINH, SJ. (1937 – 2025)

Sáng Lập CT/ Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình.

Trong tâm tình tưởng nhớ và tri ân cha Sáng Lập Phêrô Chu Quang Minh.

Xin chia sẻ video với hình ảnh của cha trên toàn thế giới qua các khóa TTHNGĐ.

Giêsu Maria Giuse Xin Thương Cứu Linh Hồn Cha Phêrô.

Kính,

SN Phạm Trung – Quý


XÓT THƯƠNG RÒNG-Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Hãy trỗi dậy!”.

“Lạy Chúa, sau bao trận chiến, con không tìm thấy gì ngoài sự phù phiếm và hư đốn. Con bối rối, đau đớn chống lại ước muốn nên thánh của con. Nó khóc nức nở vì sự hư hỏng của con và nó sẽ chỉ tựa nương vào lòng xót thương ròng của Chúa, điều mà Ngài đã hứa với mọi tội nhân ăn năn mà con là một trong số đó!” – Nhật ký một tu sĩ.

Kính thưa Anh Chị em,

“Chỉ tựa nương vào lòng ‘xót thương ròng’ của Chúa”, đó cũng là những gì Tin Mừng hôm nay ghi lại. Trước cửa thành Nain, một nhóm người đi ra – biểu tượng sự chết – theo sau là một bà mẹ; một nhóm người đi vào – biểu tượng sự sống – đi trước là Chúa Giêsu.

Họ gặp nhau, Chúa Giêsu nói với bà mẹ, “Đừng khóc nữa!”; và sờ vào quan tài, Ngài bảo, “Hãy trỗi dậy!”. Người chết ngồi lên, Ngài trao anh cho người mẹ. Trình thuật không nói gì đến đức tin của ai; không ai cầu xin, chẳng ai van nài! Chúa Giêsu chỉ thấy một goá phụ đi bên đứa con duy nhất đã chết của cô khi anh được mang đi chôn, và Ngài xót thương. Thế thôi! Như người Samaritanô xót thương nạn nhân sóng soài bên đường; như người cha xót thương đứa con hư hỏng trở về – không cần làm bất cứ điều gì, không cần nói bất cứ điều chi – Ngài hành động chỉ vì ‘thương xót ròng’, trao anh cho goá phụ để cô không lẻ loi. “Lòng trắc ẩn là ngôn ngữ mà người điếc cũng nghe được và người mù cũng thấy được!” – Mark Twain.

Tin Mừng muốn nói, sáng kiến xót thương của Thiên Chúa đối với con người không phụ thuộc vào mức độ đức tin nhất định của ai. Nó đến với chúng ta như chúng ta là, như chúng ta có; và nhu cầu của chúng ta càng lớn thì việc đến của Ngài càng cấp thiết. Chúa ban ân sủng bằng sự hiện diện của Ngài. “Ân sủng là gương mặt của tình yêu khi gặp gỡ sự bất xứng của chúng ta!” – Paul Zahl. Hưởng nhận ân sủng một cách bất ngờ và bất xứng, chúng ta không thể không ngạc nhiên và đáp lại nó theo cách đám đông đã làm – ca ngợi về món quà cứu sống của Thiên Chúa; Luca ghi nhận, “Lời này về Đức Giêsu được loan truyền khắp cả miền Giuđê và vùng lân cận!”. “Ngợi khen là ngôn ngữ của thiên đàng; nó mời gọi quyền năng Thiên Chúa hành động trên đất!” – Jack Hayford.

Anh Chị em,

“Hãy trỗi dậy!”. Ân sủng của Thiên Chúa luôn đi bước trước, nâng kẻ gục ngã như đã nâng chàng trai thành Nain. Ân sủng đó cũng mời gọi mỗi chúng ta trỗi dậy khỏi những vùng chết của tội lỗi, sợ hãi và thất vọng. “Con sẽ sống theo lòng thuần khiết” – Thánh Vịnh đáp ca; sẽ là “người không ai chê trách được” khi “bảo toàn mầu nhiệm đức tin trong một lương tâm trong sạch” – bài đọc một – phải là một cam kết trước ân sủng ‘xót thương ròng’ của Thiên Chúa. Ước gì chúng ta biết đáp lại ân huệ nhưng không của Ngài bằng một đời sống tinh tuyền, để mỗi ngày trở nên một chứng nhân tình yêu quyền năng của Đấng vẫn không ngừng gọi tên từng người và nói, “Hãy trỗi dậy!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để ước muốn nên thánh của con nức nở vì con hư hỏng. Xin đặt tay trên ‘quan tài’ linh hồn con, cho mọi vùng chết hồi sinh trong ánh sáng ân sủng!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

******************************************

Lời Chúa Thứ Ba Tuần XXIV Thường Niên, Năm lẻ

Này người thanh niên, tôi bảo anh : hãy trỗi dậy !

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 7,11-17    

11 Khi ấy, Đức Giê-su đi đến thành kia gọi là Na-in, có các môn đệ và một đám rất đông cùng đi với Người. 12 Đức Giê-su đến gần cửa thành, đang lúc người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà goá. Có một đám đông trong thành cùng đi với bà. 13 Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói : “Bà đừng khóc nữa !” 14 Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giê-su nói : “Này người thanh niên, tôi bảo anh : hãy trỗi dậy !” 15 Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giê-su trao anh ta cho bà mẹ. 16 Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng : “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người”. 17 Lời này về Đức Giê-su được loan truyền khắp cả miền Giu-đê và vùng lân cận.


 

Lễ Đức Mẹ Sầu Bi – Cha Vương

Hôm nay 15/09 Giáo Hội mừng Lễ Đức Mẹ Sầu Bi, ước mong bạn cảm nhận được sự an ủi của Mẹ trong lúc gặp thử thách.

Cha Vương

Thư 2: 15/09/2025.  t6-23

TIN MỪNG: Ông Si-mê-on nói với bà Ma-ri-a: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en phải hư vong hay được cứu độ. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng. Phần bà, bà sẽ phải nát ruột nát gan như bị lưỡi gươm đâm thấu.” (Lc 2:34-35)

SUY NIỆM: Hôm qua có một người bạn nói chuyện với mình về một người mẹ tự nhiên bỏ tất cả công việc bà đang làm, cầm vội cái bóp, và đi về. Khi được hỏi, “tại sao?” thì người mẹ trả lời một cách đau buồn, vì con của tôi đang ở trong phòng cấp cứu. Hoàn cảnh này làm mình liên tưởng đến ngày lễ Đức Mẹ Sầu Bi mà Giáo  hội mừng kính hôm nay, “Phần bà, bà sẽ phải nát ruột nát gan như bị lưỡi gươm đâm thấu.” Đúng! Tình mẫu tử không một giấy viết nào có thể diễn tả hết được. Chính vì vậy mà Chúa đã dùng tình mẫu tử này để nói lên tình yêu cao cả của Thiên Chúa đối với nhân loại, “Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy; tại Giê-ru-sa-lem, các ngươi sẽ được an ủi vỗ về.” (Is 66:13) Dưới chân thập giá, Đức Mẹ với một nỗi niềm Đau Khổ khôn tả: “Hỡi những người qua đường, hãy nhìn xem! Có ai có nỗi thống khổ như tôi không? Tình mẫu tử cao cả tuôn trào bên chân Thánh Giá của Chúa Con. Mẹ đứng đó, cùng chịu đau khổ vô biên với Chúa Con, cùng hiệp dâng làm của Lễ Hy sinh để cứu chuộc nhân loại với sự đồng thuận trong Yêu thương.” Trong xã hội ngày ngay có rất nhiều người mẹ đang đau khổ, họ là vấn nạn của những bất công, bạo hành, lạm dụng. Nếu bạn là người mẹ đang đau khổ vì con cái, vì chồng, vì gia đình, vì hoàn cảnh… Bạn hãy nhìn và chiêm ngắm hình ảnh Mẹ Đau Khổ. Mẹ cảm thông với cái nặng nề đau đớn của bạn, hãy noi gương Mẹ và sống mạnh dạn trong đau khổ của mình, vì “ai chịu khốn nạn vì đạo ngay, ấy là phúc thật, vì chưng nước Đức Chúa Trời là của mình vậy.”

LẮNG NGHE: Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người. (Hr 5:8-9)

CẦU NGUYỆN: Lạy Đức Maria, Nữ Vương cả đất trời, Mẹ vẫn hiên ngang đứng vững gần bên thập giá Đức Kitô, xin Mẹ đỡ nâng con trong mọi biến cố hay đau khổ trong đời để con biết can đảm xin thưa hai chữ “xin vâng”, xin dạy con biết thầm lặng gẫm suy và thực thi Thánh Ý Chúa mỗi ngày để được thưởng cùng với Mẹ trên nước thiên đàng.

THỰC HÀNH: Dù người mẹ của mình con sống hay đã khuất núi, mời bạn suy tư về người mẹ qua câu này: “Mẹ có thể chưa bao giờ nói yêu bạn, thương bạn, nhưng mẹ sẽ là người làm tất cả để bạn được sống một cuộc sống tốt nhất và hạnh phúc nhất.” Vì vậy hãy thể hiện những cử chỉ yêu thương mẹ mình mỗi ngày qua lời cầu nguyện hoặc bằng những hành động cụ thể bạn nhé. 

From Do Dzung

**************************

MẸ ĐỨNG ĐÓ – Sáng Tác: Lm. Kim Long. Ca Sỹ: Phi Nguyễn – Mai Thiên Vân

Máy bay vũ trụ bí ẩn X-37B lại lên đường mang theo thiết bị GPS lượng tử

Máy bay vũ trụ X-37B của Lực lượng Không gian đã bắt đầu một nhiệm vụ đột phá : thử nghiệm một giải pháp thay thế lượng tử cho định vị GPS

X-37B

Trong không gian, đặc biệt là ngoài quỹ đạo Trái Đất, tín hiệu GPS trở nên không đáng tin cậy hoặc đơn giản là biến mất. Điều tương tự cũng xảy ra dưới nước, nơi tàu ngầm hoàn toàn không thể truy cập GPS. 

Space Force Space Plane – Launch Slip

Máy bay vũ trụ bí ẩn X-37B lại bay, lần này mang theo một thiết bị thay thế GPS lượng tử

Space exploration reaches a new milestone when the X-37B safely returns ...

X-37B là một tàu vũ trụ không người lái, nó trông giống như tàu con thoi đã nghỉ hưu của Hoa Kỳ nhưng bé nhỏ hơn, nó được phóng lên bằng tên lửa đẩy và sau khi trở về Trái Đất, nó sẽ hạ cánh không cần động cơ trên đường băng mặt đất. Tàu có động cơ có thể sử dụng để di chuyển trong không gian, nhưng vào năm 2024, nó đã cố tình lướt trên bầu khí quyển Trái Đất bằng cách sử dụng “phanh khí động” để tạo ra sự thay đổi đáng kể trên đường bay (quỹ đạo) của nó, thay vì phải tiêu tốn rất nhiều năng lượng để khởi động hệ thống phản lực.

Vì nguyên tử hoạt động như một sóng trong cơ học lượng tử, hai đường đi này giao thoa với nhau, tạo ra một mô hình tương tự như những gợn sóng chồng lên nhau trên mặt nước. Mô hình này chứa đựng thông tin chi tiết về cách môi trường xung quanh nguyên tử ảnh hưởng đến hành trình của nó. Đặc biệt, những thay đổi nhỏ nhất trong chuyển động, chẳng hạn như sự quay của cảm biến hoặc gia tốc, đều để lại dấu vết có thể phát hiện được trên các “sóng” nguyên tử này.

 

So với các hệ thống dẫn đường quán tính cổ điển, cảm biến lượng tử có độ nhạy cao hơn gấp nhiều lần. Vì các nguyên tử giống hệt nhau và không thay đổi, không giống như các thành phần cơ học hay thiết bị điện tử, chúng ít bị trôi dạt hoặc sai lệch hơn nhiều. Kết quả là khả năng dẫn đường có độ chính xác cao và thời gian dài mà không cần tham chiếu bên ngoài.

Boeing đã thử nghiệm công nghệ GPS lượng tử này vào tháng 3 năm 2025, khi hãng mô tả công nghệ này liên quan đến việc “sử dụng đơn vị đo quán tính lượng tử sáu trục (IMU) sử dụng “kỹ thuật cảm biến lượng tử gọi là giao thoa nguyên tử để phát hiện chuyển động quay và gia tốc bằng cách sử dụng nguyên tử”.

Phòng thí nghiệm quốc gia Sandia của Hoa Kỳ đã mô tả phép giao thoa nguyên tử là “một cách cực kỳ chính xác để đo gia tốc” và đã chế tạo một “bộ điều biến quang tử silicon hiệu suất cao – thiết bị điều khiển ánh sáng lượng tử bằng vi mạch điện tử” để có thể đưa bộ đo lượng tử đi vào hoạt động.

New quantum technology could lead to GPS-free navigation

Bản vẽ ý tưởng về chip điều biến dải đơn quang tử silicon

Nguồn: Science Advances (2024).

Vấn đề cốt lõi là giao thoa kế nguyên tử có thể được sử dụng để đo vị trí – công việc tương tự như chúng ta sử dụng GPS ngày nay.

Điều này đưa chúng ta trở lại lý do tại sao Trung Quốc hơi lo lắng về X-37B: Bắc Kinh lo ngại vệ tinh định vị Bắc Đẩu của họ có thể bị vô hiệu hóa. Hoa Kỳ cũng lo ngại về việc mất vệ tinh GPS, vì chiến tranh hiện đại phụ thuộc vào chúng.

Do đó, chuyến bay X-37B này có ý nghĩa quan trọng hơn một chút vì nó đang thử nghiệm một công nghệ có thể cho phép tàu vũ trụ trong tương lai và máy bay, tàu thủy chiến đấu, tên lửa, UAV tìm đường đi đến mục tiêu ngay cả khi hệ thống định vị vệ tinh gặp sự cố vì bị JAM, phá sóng…

Lầu Năm Góc không cho biết khi nào  X-37B sẽ quay trở lại Trái Đất hoặc họ hy vọng đạt được điều gì với nhiệm vụ này.

  • Hoa Kỳ, Trung Quốc và các quốc gia khác đang trong cuộc chạy đua công nghệ lượng tử để phát triển các hệ thống Định vị, Điều hướng và Đo Thời gian bằng lượng tử (PNT) . Trung Quốc được cho là đang cố thử nghiệm các công nghệ tương tự trong giai đoạn khởi đầu.

 

 

Charlie Kirk đã tiếp cận và mang Đức Tin đến cho giới trẻ như thế nào?

Theo báo WSJ và Copilot AI

Olivia Hubbard tại Đại học Grand Canyon.

Olivia Hubbard, 19 tuổi, cho biết việc lắng nghe Charlie Kirk nói chuyện giống như được nghe tất cả niềm tin của cô được diễn đạt rõ ràng. Ảnh: Rebecca Noble cho WSJ

PHOENIX—Khi Olivia Hubbard rời Iowa để đi học đại học, cô nghĩ mình sẽ thoát khỏi chủ nghĩa bảo thủ mà cha cô vẫn luôn rêu rao. Nhưng thay vào đó, cô đã được thức tỉnh về … Đức Tin.

Hubbard, hiện 19 tuổi, đã được một người bạn cùng phòng thuyết phục gặp Charlie Kirk vào năm ngoái khi anh đến thăm Đại học Grand Canyon, cách trụ sở tổ chức Turning Point USA của Kirk 20 phút. Hubbard nói rằng nghe Kirk nói chuyện giống như được nghe tất cả niềm tin của cô được diễn đạt rõ ràng.

“Tôi nghĩ thật tuyệt vời khi có người trẻ tuổi,  học ở tất cả các trường đại học như thế này, lại còn đức tin vào Chúa và thực sự truyền bá điều đó”, Hubbard, một người theo đạo Thiên Chúa, chia sẻ. Từ khoảnh khắc đó, cô bị cuốn hút, thức khuya xem video Kirk tranh luận với sinh viên theo chủ nghĩa tự do ở các trường đại học khác.

Kirk đã bị sát hại hôm thứ Tư trong chuyến thăm Đại học Utah Valley. Người đàn ông 31 tuổi này đã trở thành người tiên phong của phong trào MAGA và được Tổng thống Trump ghi nhận vì đã xây dựng được sự ủng hộ của giới trẻ và giúp ông tái đắc cử.

Người đưa tang theo dõi linh cữu của Charlie Kirk được đưa đến Sân bay quốc tế Sky Harbor.

Người dân theo dõi lễ đưa linh cữu của Charlie Kirk đến Sân bay Quốc tế Sky Harbor ở Phoenix vào thứ năm. Ảnh: Rebecca Noble cho WSJ

Là bậc thầy về truyền thông đại chúng thế kỷ 21, Kirk đã làm được điều mà Đảng Cộng hòa đã thất bại trong nhiều thập kỷ: tạo đột phá trong việc tiếp cận thế hệ trẻ. Bất kể họ có ủng hộ ông hay không, sinh viên đại học gần như không thể mở mạng xã hội mà không xem video của Kirk.

Đối với thế hệ thanh niên bảo thủ, ông đã truyền cảm hứng cho họ tự hào chia sẻ quan điểm của mình, bao gồm cả việc phản đối phá thai và hôn nhân đồng giới. Vô số người khác cho rằng quan điểm của ông mang tính phân biệt đối xử và xúc phạm. Dù yêu hay ghét ông, Kirk vẫn hiện diện ở khắp mọi nơi.

Copilot AI nhận định

Chứng ngôn cá nhân và đức tin mạnh mẽ

  • Anh Charlie Kirk thường nói, “Tôi chẳng là gì nếu không có Chúa Jesus” , anh đã tâm sự về việc dâng hiến cuộc đời mình cho Chúa Kitô vào năm đang ở bậc tiểu học, lớp năm và xây dựng sứ mệnh mà Chúa giao phó cho mình dựa trên chân lý Kinh thánh.
  • Tuy nhiên, anh nói một cách cởi mở về tội lỗi mà Chúa Giế Su có thể xóa bỏ nhờ Thập Giá của Ngài, nói về sự cứu rỗi, hôn nhân và cuộc sống vĩnh hằng mai sau, ngay cả trong những môi trường thù địch.
  • Kirk biết tận dụng các nền tảng như The Charlie Kirk Show để nói về hy vọng, mục đích sức mạnh của Kinh thánh trong cuộc sống hàng ngày. Anh kêu gọi những người theo đạo Thiên chúa tham chánh để tác động đến mọi lĩnh vực của xã hội.

Đức tin đi vào các nhà thờ

  • Năm 2022, Kirk đã ra mắt Turning Point Faith , một chi nhánh mới của tổ chức Turning Point của ông nhằm mục đích giúp các nhà thờ tham gia vào các hoạt động dân sự tâm linhÔng khuyến khích các mục sư rao giảng một cách mạnh dạn về thẩm quyền của Kinh Thánh, từ chối “chủ nghĩa tự do quá trớn và chủ nghĩa phản đối có tên là “thức tỉnh”. 

Hãy suy ngẫm về những thập giá của chính bạn

Nhưng điều này chỉ có thể xảy ra nếu bạn đón nhận thập giá đó trong đức tin và hy vọng, để Chúa chúng ta có thể kết hợp nó với thập giá của Ngài và để thập giá của bạn cũng có thể chia sẻ sự tôn vinh Thập giá của Chúa Kitô. Mặc dù đây là một mầu nhiệm đức tin vô cùng sâu sắc, nhưng nó cũng là một chân lý sâu sắc trong đức tin của chúng ta.

 Hôm nay, hãy suy ngẫm về những thập giá của chính bạn. Khi làm vậy, hãy cố gắng đừng xem thập giá là gánh nặng. Thay vào đó, hãy nhận ra tiềm năng bên trong những thập giá đó. Hãy cầu nguyện, nhìn những thập giá của bạn như những lời mời gọi chia sẻ Thập giá của Chúa Kitô. Hãy nói “Xin Vâng” với những thập giá của bạn. Hãy tự do lựa chọn chúng. Hãy kết hợp chúng với Thập giá của Chúa Kitô. Khi làm vậy, hãy hy vọng rằng vinh quang của Chúa sẽ tỏa sáng trong cuộc đời bạn và trên thế giới qua việc bạn tự do đón nhận chúng. 

Hãy biết rằng những “gánh nặng” này sẽ được biến đổi và trở thành nguồn nâng đỡ cho cuộc đời bạn bởi quyền năng biến đổi của Chúa.

Thay Bach goi

THẤU TÂM HỒN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà!”.

Có một câu nói rất nổi tiếng: “Một người mẹ chỉ có thể hạnh phúc bằng đứa con kém hạnh phúc nhất của mình!”. Câu nói này hé lộ một sự thật: hạnh phúc của người mẹ gắn liền với hạnh phúc của con cái. Con vui, mẹ vui; con buồn, mẹ buồn; con đau khổ, mẹ tan nát.

Kính thưa Anh Chị em,

Kính nhớ Đức Mẹ Sầu Bi, chúng ta nhận ra nơi Mẹ Maria, sự gắn kết ‘mẹ – con’ đạt đến mức trọn vẹn. Hạnh phúc của Mẹ hoàn toàn gắn liền với Chúa Giêsu. Giêsu hạnh phúc, Mẹ hạnh phúc; Giêsu khổ đau, Mẹ tan nát đến mức lưỡi gươm đâm ‘thấu tâm hồn’.

Mọi sự sống đều có một đồi Canvê của nó! Mỗi tâm hồn đều mang một nỗi đau kín của nó! Giêsu, Đấng ‘rất Chúa và rất người’ cũng có nỗi đau riêng của Ngài. Và bởi ‘rất Chúa’, nên đau khổ của Ngài rất sâu thẳm, không ai thấu nổi. Chỉ một ai đó ‘hoàn hảo tương xứng’ mới có thể đi vào. Và ai đó chỉ có thể là Maria! Sự thấu cảm của Mẹ đã dẫn Mẹ đến nỗi ‘sầu chung’ với Con – một nỗi sầu được loan báo hơn ba mươi năm trước, “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà!”. “Chỉ một con tim đã được tinh luyện bởi tình yêu mới thật sự bước vào nỗi sầu khổ của người khác!” – Anselm Grün. Đó chính là ý nghĩa của lễ Đức Mẹ Sầu Bi.

Những hình ảnh đạo đức cho thấy trái tim Maria bị xuyên thâu bởi bảy lưỡi gươm. Đó là biểu tượng của “Bảy Sự Thương Khó Đức Mẹ” vốn được nhiều giáo xứ duy trì qua việc “Làm Việc Đức Mẹ” với tràng chuỗi “Bảy Sự”. Maria hoàn hảo, nhưng xem ra ‘đời Mẹ’ chẳng hoàn hảo! Từ buổi đầu, Mẹ đã nghe xóm giềng xì xào; phút cuối, những xì xào ấy vẫn văng vẳng dưới chân thập giá. Cả cuộc đời Mẹ là một đời thực với những bi kịch thật của một phận người thật’; và bi kịch xé lòng nhất chính là khi Mẹ ôm vào lòng xác Con rách bươm. Đó chính là “kiếp phàm nhân” mà Mẹ đã cùng Con trải nghiệm như bài đọc một nhắc đến. “Những nỗi đau sâu thẳm nhất của một người mẹ trở thành khung cửa trong suốt nhất của tình yêu bà!” – Catherine Doherty.

Anh Chị em,

“Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà!”. Lưỡi gươm ấy vẫn đang tiếp tục đâm ‘thấu tâm hồn’ Đức Maria, Mẹ Hội Thánh, và cũng đâm ‘thấu tâm hồn’ từng người chúng ta. Mẹ bị vắt kiệt bởi những nỗi đau chung đang vắt kiệt phận người: chiến tranh, thiên tai, chia ly, nguội lạnh, thiếu thốn trăm bề… Nhưng chúng ta tin rằng, tình yêu sâu đậm Mẹ dành cho Chúa Giêsu cũng đang dành cho mỗi người chúng ta. Vậy đừng nghi ngờ! Trái tim Mẹ đang bùng cháy lòng trắc ẩn khi nhìn chúng ta khổ đau, cả khi khổ đau bởi một tội lỗi. Hãy để tình yêu, sự quan tâm và thủy chung của Mẹ chảy qua tim mình. Hãy đón nhận nó; và sau đó, cho phép nó chảy ra! “Lòng trắc ẩn không phải là mối tương quan giữa người chữa lành và kẻ bị thương, nhưng là một sự liên đới trong đó cả hai đều bị thương và cả hai đều được chữa lành!” – Henri Nouwen.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Mẹ Sầu Bi, mỗi tâm hồn có ‘nỗi đau kín’ của nó. Xin tình yêu của Mẹ chảy qua con, để từ con, chảy ra như dòng nước chữa lành những ai đang nát cả tâm hồn!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

******************************************************

Lời Chúa lễ Đức Mẹ Sầu Bi, Thứ Hai Tuần XXIV Thường Niên

Đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.    Ga 19,25-27 

25 Khi ấy, đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la. 26 Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giê-su nói với thân mẫu rằng : “Thưa Bà, đây là con của Bà.” 27 Rồi Người nói với môn đệ : “Đây là mẹ của anh.” Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.


 

Lễ kính Thánh Giá Chúa Giêsu- Cha Vương

Xin Chúa gìn giữ bạn và gia đình hôm nay và mãi mãi nhé. Bảo trọng!

Cha Vương

CN : 14/09/2025.   t7. -24

Ngày hôm nay 14 tháng 9 hàng năm, chúng ta nói lên sự biết ơn và lòng yêu mến Ðức Giêsu qua sự tôn trọng thập giá. Trước đây, thập giá từng là biểu hiệu của sự tủi hổ. Các tử tội được chết chém đó là một ân huệ, vì được miễn cho sự nhục nhã khi bị treo trên thập giá. Ðức Giêsu đã thi hành mọi sự để đem lại sự cứu độ cho chúng ta. Ngài đã chấp nhận sự đau khổ thập giá. Ðau khổ dẫn đến tủi nhục.

   Thập giá trở nên dấu hiệu thiêng liêng của Kitô Giáo. Khi thập giá có mang tượng Ðức Giêsu, thập giá đó trở thành thánh giá. Chúng ta treo thánh giá trong nhà hay đeo trên người để nhắc nhở rằng, vì chúng ta mà Ðức Giêsu đã phải hy sinh.

   Trong nhiều thế kỷ, di tích của cây thập giá đích thực được Kitô Hữu quý trọng. Người ta tin rằng vào năm 629, dưới thời Hoàng đế Herachius I, những người Ba Tư xâm chiếm Giêrusalem và lấy mất phần chính của Thánh Giá thật mà thánh Hélène, mẹ của Hoàng đế Constantin đã để lại. Hérachius nhất định chiếm lại thánh giá này. Ngài cầu nguyện xin Chúa giúp đỡ và nung nấu lòng can đảm. Quả nhiên, lời cầu xin của vua đã được Chúa chấp nhận. Ngài đã đánh bại được quân Ba Tư và trở về Constantinople giữa tiếng reo hò của dân chúng. Với những cành olive, những ngọn đuốc cháy sáng, thánh giá thật của Chúa đã được tôn vinh trong bầu khí khải hoàn. Hoàng đế tràn trề vui sướng muốn trở về Giêrusalem với thánh giá này sau 14 năm lưu lạc. Nhà vua long trọng tiến vào thành thánh, nhưng trước khi lên núi Sọ, ngài đã không thể bước đi được nữa, khiến cho mọi người đều kinh ngạc sợ hãi. Giáo trưởng Zachachie hô lớn: “Tâu đức vua, chắc chắn phẩm phục của đức vua không xứng đáng với cảnh nghèo nàn và khiêm nhượng của Chúa Giêsu khi vác thánh giá”. Hérachius vội cởi bỏ mọi phẩm phục sang trọng và thay vào bằng bộ quần áo nghèo hèn. Tức thì nhà vua cất bước một cách dễ dàng… và để tỏ ra sự khải hoàn, Chúa đã ban nhiều phép lạ cả thể trong ngày ấy.

   Từ đó, lễ kính Thánh Giá Chúa Giêsu được lập ra để nhắc nhớ cho các thế hệ kỷ niệm này. Nhưng trước cả thời gian đó, Kitô Hữu đã tôn kính và quý trọng thập giá và lễ Suy Tôn Thánh Giá được các Kitô Hữu tại Rome cử hành từ cuối thế kỷ thứ 7.

   Chữ “thập giá” cũng có nghĩa những đau khổ trên đường đời. Khi chúng ta kiên nhẫn và vui lòng chấp nhận đau khổ như Ðức Giêsu đã chấp nhận thập giá của Ngài, chúng ta sẽ trở nên “người vác thập giá” như Ðức Giêsu Kitô. 

(Nguồn: Người Tín Hữu online)

   Hôm nay mời bạn bỏ ra mấy phút suy niệm trước Thánh Giá là nơi treo Đấng Cứu Độ trần gian, bạn hãy đặt tất cả những gánh nặng cuộc đời vào lòng xót thương và sự quan phòng của Chúa. 

From: Do Dzung

*********************

Thánh Giá Đức Kitô (Sáng tác: Sr. M. Tigon) – Ca đoàn Thông Vi Vu

Truyện ngắn: Ngoại tình-Hoàng Thị Bích Hà

Ba’o Nguoi-Viet

September 13, 2025

Hoàng Thị Bích Hà

Trước mắt tôi là hình ảnh chị Vân Anh, một người phụ nữ đẹp, thành đạt. Chị vừa bước vào tuổi ngũ thập, dáng người nữ tính, nhanh nhẹn hoạt bát, đôi mắt đẹp toát lên vẻ thông minh, điềm đạm.

Chị là người mẹ đơn thân, nuôi con từ khi 25 tuổi đến bây giờ. Các con của chị đã trưởng thành, các cháu cũng đã trên dưới tam thập rồi!

Chị vẫn sống vui vẻ bên các con mặc dù không ít người yêu thương nhưng chị đều từ khước. Chị muốn bù đắp cho các con khi thiếu ba nên chị không đành lòng đi bước nữa, chị sợ các con khổ.

Câu chuyện trở về thời học phổ thông trung học, anh và chị cùng học chung lớp, chị học giỏi, nhưng sau khi vướng vào chuyện yêu đương, bỗng nhiên lực học sút hẳn. Chị nheo mắt cười tinh nghịch bảo:

-Chị “mê trai” hơi bị sớm!

Học xong cấp ba, hai người đi qua Đức theo diện xuất khẩu lao động. Qua bên đó hai người kết hôn, sống cùng nhau và bước vào làm làm ăn thuận lợi lắm. Lúc còn ở Đức, bạn bè bên đó đã gọi anh chị là “đại gia” rồi, có nghĩa là anh chị làm ăn phất lên như diều gặp gió, buôn bán thành công ngoài sức tưởng tượng ban đầu của hai vợ chồng.

Thế rồi bức tường Bức tường Berlin sụp đổ, bạn bè cùng đi với anh chị đa số ở lại làm ăn rồi thành công dân Đức cho đến ngày nay. Còn anh thì lại muốn về nước. Chị bảo công việc đang làm ăn thuận lợi, vậy mà vì chị yêu anh quá nên nghe anh nói một câu về là về liền à. Không suy nghĩ gì cả. Mặc dù con của chị đang học phổ thông bên Đức, cháu học giỏi, người ta tốn bao tiền cho con đi du học, mình đang ở ngay đó rồi lại trào về.

Thế rồi gia đình anh chị hồi hương, tiếp tục ổn định và làm ăn cũng thuận lợi, xếp vào hàng khá giả thời bấy giờ. Gia đình anh chị sống hạnh phúc. Sau khi chị sinh đứa con thứ hai (vào lúc 25 tuổi) chị phát hiện ra ở anh có chút gì khang khác. Anh có vẻ sửa soạn áo quần bảnh bao hơn, rồi còn dùng dầu thơm (nước hoa) nữa. Tính anh hồi nào tới giờ sống giản dị, chưa có khi nào xức dầu thơm mà nay cứ mỗi lần ra khỏi nhà là áo quần láng cóng, lại còn thoang thoảng mùi nước hoa. Chị sinh nghi từ đó. Thời gian anh ở nhà cũng ít dần đi, khi nào đi làm về cũng muộn, và thường xuyên nói là đi công tác xa.

Chị quyết định phải theo dõi để tìm ra nguyên nhân. Trong thâm tâm chị không bao giờ nghĩ là anh sẽ ngoại tình. Vì hai người yêu nhau từ thuở còn là học sinh phổ thông trung học mà. Rồi lại cùng nhau đi nước ngoài, cùng nhau làm ăn rồi trở về nước gắn bó đồng hành cùng nhau.

Đêm đó vào lúc 12 giờ, khi anh đã ngủ say, chị bắt đầu thức mò mật khẩu từ số điện thoại, mò hết dãy số này sang dãy số khác đến 3 giờ sáng thì chị mở được điện thoại của anh. Chị đọc được tin nhắn anh nhắn cho cô bạn thân của chị rằng:

-Cảm ơn em đã cho anh những ngày vui vẻ!

Rồi chị lướt lên một loạt tin nhắn hai người nhắn cho nhau yêu thương nghe mùi mẫn, ướt rượt. Chị điếng hồn, không tin vào mắt mình nữa!

Chị bàng hoàng, tưởng như tim mình vụn vỡ, trời đất như sập xuống. Nỗi đau lớn chưa từng có xuất hiện quá đột ngột, bóp nghẹt trái tim chị. Chị nghĩ sao lại như vậy? Sau ngần ấy năm chung sống, đồng cam cộng khổ, yêu nhau từ thuở học trò đến nay không ngờ bị chồng phản bội. Chồng ngoại tình đã là đau lắm rồi. Đau hơn nữa là với cô bạn thân. Cô bạn này cùng với anh và chị là ba người ngày xưa học chung một lớp. Nay cô ấy làm chung cơ quan với anh. Chị cũng tin tưởng cô bạn này lắm. Mà sao cả hai người hùa với nhau cùng nhau phản bội lại lòng yêu thương, tin tưởng của chị?

Chị giữ im lặng, chịu đựng và tiếp tục theo dõi. Một hôm chị quyết định phải làm một điều gì đó,… rồi chị gọi điện nhờ bà ngoại qua giữ cháu.

Chị nói:

-Mẹ qua nhà giữ cháu giùm con đi công chuyện một chút!

Chị qua nhà người quen trong xóm mượn chiếc xe máy cùi bắp, mượn áo quần người ta mặc cho lạ, hóa trang, mặt mày bít kín, kính râm to bản,… để anh khỏi nhận ra. Rồi chị đến gần cổng cơ quan anh kiếm một góc kín đáo quan sát. Đợi đến giờ tan sở, thấy anh bước từ cơ quan ra, tiếp đến thấy cô bạn thân của chị cũng bước ra, anh quàng vai ôm cô bạn vào lòng. Chị thấy trời đất như sụp đổ ngay trước mắt mình!

Đau lắm! Ai xé lòng mình tan nát thế này! Thôi thế là hết! Chị gục mặt xuống ghi đông một thoáng rồi định thần. Lý trí mách bảo mình phải làm gì! Chị tiếp tục nhìn về phía họ.

Anh mở khóa xe ô tô cho cô bạn bước lên xe rồi cùng nhau lên xe hướng ngoại ô thẳng tiến! Chị bám theo, anh lái ô tô, còn chị đi xe máy cà tàng, anh chạy nhanh, chị cũng phải chạy nhanh cho kịp, chị bảo lúc đó mình phóng xe bạt mạng, đúng là tay lái lụa. Gần 30 năm bây giờ ngồi nghĩ lại chị vẫn khiếp. Không hiểu sao lấy đâu ra nội lực mà đuổi theo anh được như vậy, nhỡ có bề gì để hai đứa con lại ai lo?

Ra ngoại ô thành phố, anh rẽ vào một khách sạn nhỏ, yên tĩnh, xa trung tâm. Chị đứng nhìn theo thấy họ ôm nhau bước vào phòng. Chị lập tức gọi điện cho thằng em họ đang ở Long An, nhắn địa chỉ và nói như ra lệnh:

-Mày lên thành phố gấp gấp cho chị. Địa chỉ đây!

Cậu em cũng lái xe chạy như bay đến chỗ chị đang đứng đợi!

Chị bảo:

-Hai chị em mình đóng vai tình nhân vào khách sạn thuê phòng.

Tới phòng hai người mình gõ cửa bảo là “đưa nước.” Khi cửa mở là ập vào ngay, em lập tức ôm anh ta cho chị. Việc còn lại để chị xử lý!

Khách sạn ngoại ô cũng vắng vẻ nên cũng dễ tìm phòng, chỉ có hai phòng được thuê là phòng anh và cô bạn và phòng chị và thằng em thuê.

Tới phòng anh gõ cửa, chị ập vào thấy rõ hai người, mặt mày tái mét. Cậu em xông đến ôm cứng ngắc ông anh rể. Còn chị lao vào đánh anh cho hả giận. Vừa đánh vừa mắng. Rồi chị quay sang bớp cô bạn thân hai bạt tai:

-Mày hết người rồi à! Sao ưa ai không ưa lại đi giật chồng tao!

Rồi chị lại quay lại tiếp tục đánh anh. Chị rít lên:

-Anh ngoại tình lại nhằm ngay vào cô bạn thân của tôi là sao? Thế giới này hết người rồi à! Hai vợ chồng cùng nhau đi từ Á sang Âu rồi cùng nhau làm ăn sinh con, hồi hương,… biết bao gắn bó! Tôi yêu anh hết lòng tấm chân tình của tôi vậy mà anh nỡ lòng nào phản bội tôi thế à! Anh có còn xứng đáng là cha của con tôi không?

Chị kể: “Chị đánh đòn anh là nhiều, chứ cô kia chỉ cảnh cáo hai bạt tai là đủ!”

Chị nói: “Nguyên nhân là do thằng chồng mình thôi! Chẳng lẽ cô kia ve vãn chồng mình, nếu mà gặp người đàn ông đàng hoàng đứng đắn, không lẽ cô kia đè chồng mình ra mà hiếp à! Nên thôi hai người đàn bà không nên đánh nhau vì một thằng đàn ông chẳng ra gì!”

Sau lần ấy về thì chị đưa đơn ly hôn! Anh thì rối rít xin lỗi, hứa sửa chữa này nọ, cắt đứt cô kia,… gia đình hai bên nội ngoại cũng nói vun vô: “Tha thứ cho nó một lần đi con!”

Nhưng lòng chị đã quyết. Ngoại tình một lần, không chắc sẽ ngoại tình lần thứ hai,.. và lần thứ n. Nên thôi chị dừng lại ở đây để bước ra khỏi nỗi đau giằng xé này.

Mặc dù chị vẫn rất yêu anh, nhưng lòng tin đã hết. Chị bảo rằng “chị muốn tắt giông bão, lòng chị xứng đáng được bình yên. Để lo làm ăn, toàn tâm toàn ý lo cho con. Còn có chồng mà không thể tin tưởng nữa thì suốt ngày vừa lo làm ăn nuôi con, vừa lo canh chừng chồng thì khổ quá!”

Rồi anh chị ra tòa. Hồi trước khi kết hôn, chị đưa ra một điều kiện: Sau này một trong hai người, ai phản bội thì phải ra đi tay trắng. Để lại toàn bộ nhà cửa , xe cộ, của cải lại cho người còn lại nuôi con. Bất kể là vợ hay chồng. Anh cũng đã ký thỏa thuận. Anh nghĩ bụng là cứ ký chứ đang yêu nhau, ai mà nghĩ đến có ngày phản bội.

Giấy trắng mực đen. Ra tòa phân xử, anh ra đi tay trắng, còn hai đứa con và của cải để lại cho ba mẹ con. Nhưng rồi chị cũng cho anh ít tiền đủ cất một căn nhà nhỏ, anh sống một mình.

Ba mươi năm đã trôi qua, các con chị đã học hành trưởng thành và có công ăn việc làm ổn định. Chị vẫn sống đơn thân, không bước đi bước nữa, bạn bè nói chị hi sinh nhiều quá nhưng chị bảo chị vậy cũng hạnh phúc bên các con rồi. Có bạn bè, tri kỷ thỉnh thoảng cà phê nói chuyện cho vui thôi chứ chị không có ràng buộc với ai cả!

Còn về phía anh thì sau lần ấy anh không tới với cô bạn kia. Hai người cũng ai đi đường nấy và anh vẫn sống một mình. Các con cũng thương anh. Chị giáo dục con vẫn yêu quý kính trọng ba, dù việc của người lớn là ba mẹ đã hết duyên nợ với nhau rồi nhưng ba vẫn là ba của các con.

Chị vẫn cho anh thỉnh thoảng ghé thăm con, có tiệc tùng gì cũng đi nhà hàng ăn uống cùng các con cho con vui. Đôi khi cả nhà bốn người cũng đi du lịch, vào khách sạn thuê một phòng 4 giường, hai ông bà hai giường, hai đứa con nằm hai giường ở giữa. Anh chị nói chuyện với nhau như bạn bè vậy thôi. Nội ngoại và các con vẫn muốn hai anh chị về lại với nhau nhưng chị không thể! Chị bảo: “Lòng chị đã khép!”

(Tựa cho SGN đặt – Vanchuongviet)