Thanksgiving – Lễ Tạ Ơn – Đoàn Xuân Thu

Đoàn Xuân Thu

 Mỗi năm, vào ngày thứ Năm của tuần lễ thứ tư Tháng Mười Một, nước Mỹ lại tưng bừng cử hành một ngày lễ đặc biệt: Lễ Tạ Ơn. Năm nay, 2025, ngày lễ ấy sẽ rơi vào ngày 27 Tháng Mười Một. Đây là dịp để mỗi người, từ thành phố lớn đến miền quê xa xôi, dừng lại, hướng lòng về quá khứ, về cội nguồn, và tri ân những ân đức mà đất trời, tổ tiên và đồng loại đã ban tặng cho mình.

Lễ Tạ Ơn có nguồn gốc từ những con thuyền nhân Thanh giáo, rời bỏ Âu châu để tìm kiếm tự do tôn giáo và hy vọng một cuộc sống mới tại vùng đất Mỹ xa xôi.

Ngày 9 Tháng Mười Một, 1620, chiếc thuyền Mayflower chở 121 người đã cập bến ngoài khơi Cape Cod, thuộc tiểu bang Massachusetts, sau hai tháng ròng rã vượt biển. Họ không phải là những người Âu châu đầu tiên đặt chân lên Tân Thế Giới; trước đó đã có những thương buôn, những nhà thám hiểm đến khai thác tài nguyên, nhưng khác với họ, những thuyền nhân trên Mayflower tìm đến đây không chỉ vì lợi ích cá nhân, mà còn vì một ước nguyện thiêng liêng: được sống và thờ phượng theo đức tin của mình.

Mùa Đông đầu tiên tại miền Bắc Mỹ là một thử thách khắc nghiệt mà không ai có thể tưởng tượng nổi. Cái lạnh thấu xương, sự thiếu thốn lương thực và bệnh tật đã cướp đi sinh mạng của nhiều người, chỉ còn lại 55 người sống sót. Trong cảnh khó khăn đó, họ may mắn gặp được những thổ dân bản địa như Samoset và Squanto. Những người bạn dân bản địa này đã dạy họ cách trồng trọt, săn bắn và sống hòa hợp với thiên nhiên, giúp họ tồn tại qua mùa Đông lạnh lẽo và đói khát.

Mùa Thu năm 1621, khi vụ mùa đầu tiên thành công, những thuyền nhân tổ chức một bữa tiệc kéo dài ba ngày. Đây không chỉ là bữa tiệc để tạ ơn Thượng Đế, mà còn là dịp tri ân Đất đai, tri ân những người bản địa đã giúp đỡ họ vượt qua gian nan, đồng thời đánh dấu bước khởi đầu của một cộng đồng di dân tại Bắc Mỹ. Từ bữa tiệc ấy, truyền thống Lễ Tạ ơn ra đời, trở thành một biểu tượng của lòng biết ơn và đoàn kết.

Bên cạnh đó, Hiệp Ước Mayflower, được ký kết bởi các thuyền nhân, có thể xem như bản hiến pháp đầu tiên, đặt nền móng cho một cộng đồng tự trị và dân chủ. Qua thời gian, làn sóng di dân Âu châu tiếp tục đổ về Bắc Mỹ, và vào năm 1776, cuộc chiến giành độc lập với Anh Quốc thành công, khai sinh ra quốc gia Hoa Kỳ. Lễ Tạ Ơn, vì thế, không chỉ là lễ hội, mà còn là dịp nhắc nhở mỗi người về tinh thần tự lập, ý chí vượt khó và niềm hy vọng vào tương lai.

Mãi đến năm 1863, Tổng Thống Abraham Lincoln mới chính thức tuyên bố Lễ Tạ Ơn trở thành ngày quốc lễ của Hoa Kỳ, đánh dấu sự công nhận về giá trị tinh thần của ngày lễ này trong đời sống quốc gia. Năm nay, Lễ Tạ Ơn 2025 còn mang ý nghĩa lịch sử đặc biệt: kỷ niệm 405 năm ngày chiếc Mayflower cập bến, là dịp để người Mỹ tưởng nhớ những người khai phá đất nước, tri ân công sức và tinh thần của thế hệ tiền nhân.

Ngày Lễ Tạ Ơn thường kéo dài từ Thứ Năm đến hết cuối tuần. Đây là thời điểm để các gia đình đoàn tụ, từ những đô thị sầm uất như New York, Los Angeles, Chicago đến những miền quê xa xôi, những con người đi học, đi làm, dù cách xa trăm dặm, cũng tìm về nhà để quây quần bên bàn tiệc truyền thống. Trên bàn, không thể thiếu gà tây đút lò – biểu tượng của Lễ Tạ Ơn, cùng với khoai tây nghiền, bắp, rau củ, thịt heo muối, ngỗng hay vịt quay, và những chiếc bánh pie thơm lừng. Mỗi món ăn đều mang theo câu chuyện lịch sử, mang theo truyền thống của những thuyền nhân năm xưa.

Đặc biệt, Lễ Tạ Ơn không chỉ là dịp vui chơi và ăn uống. Người Mỹ luôn nhắc nhở nhau về tinh thần sẻ chia. Trong dịp này, nhiều gia đình, tổ chức từ thiện, và các tình nguyện viên tại nhà thờ, trường học hoặc trung tâm cộng đồng, tích cực giúp đỡ những người kém may mắn, tặng quà cho người nghèo, tị nạn hoặc bị bách hại. Truyền thống này phản ánh giá trị nhân văn sâu sắc của ngày lễ: tạ ơn đời, tạ ơn người, và biến lòng biết ơn thành hành động cụ thể.

Trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt, Lễ Tạ ơn cũng là dịp quan trọng để gìn giữ văn hóa, kết nối các thế hệ. Theo báo cáo của Viện Chính Sách Di Cư, năm 2023 có khoảng 2.3 triệu người Mỹ gốc Việt sinh sống tại Hoa Kỳ, tập trung chủ yếu tại California, Texas và Washington. Họ không chỉ tổ chức các bữa tiệc gia đình, mà còn tham gia các hoạt động từ thiện, tham dự lễ nhà thờ, và mua sắm trong dịp “Black Friday” – truyền thống gắn liền với cuối tuần Lễ Tạ ơn.

Từ miền Bắc đến miền Nam, từ các đô thị lớn đến vùng quê yên ả, Lễ Tạ Ơn nhắc nhở mỗi người về ý nghĩa của gia đình, cộng đồng và lòng biết ơn. Nó cũng là dịp để nhìn lại lịch sử, tưởng nhớ những người đã khuất, đặc biệt là những thuyền nhân Thanh giáo đã khai phá đất nước này 404 năm trước. Trong mỗi gia đình, khi tiếng cười trẻ thơ vang lên, khi bàn tay trao gửi món quà cho người nghèo, người ta như thấy được bóng dáng của những con người kiên cường, dám rời bỏ quê hương để tìm kiếm tự do và hy vọng.

Tại Los Angeles, nhà thờ First Unitarian là nơi các tình nguyện viên làm việc không ngơi nghỉ, đảm bảo rằng trong dịp Lễ Tạ Ơn, không ai phải chịu cảnh đói khát. Họ chuẩn bị hàng ngàn phần ăn, quà tặng và các sinh hoạt cộng đồng, như một minh chứng sống động rằng tinh thần Tạ Ơn không chỉ dừng lại ở lời nói mà còn là hành động.

Và như thế, mỗi mùa Lễ Tạ Ơn đến, người Mỹ lại nhắc nhở nhau rằng: tạ ơn Trời, tạ ơn đất, tạ ơn người. Tạ ơn vì có một quê hương để trở về, có gia đình để quây quần, và có đồng loại để sẻ chia. Đó là thông điệp vượt thời gian, vừa gắn liền với lịch sử, vừa thấm đẫm giá trị nhân văn.

Trong bối cảnh thế giới thay đổi nhanh chóng, khi những giá trị truyền thống dễ bị phai nhạt, Lễ Tạ Ơn vẫn giữ nguyên bản chất: là ngày để nhìn lại quá khứ, nhận biết ơn những gì mình đang có, và lan tỏa yêu thương. Với cộng đồng người Mỹ gốc Việt tại hải ngoại, với những gia đình xa quê hương, Lễ Tạ ơn còn là dịp nhắc nhở rằng dù ở bất cứ nơi đâu, gốc gác và truyền thống vẫn là sợi dây kết nối tâm hồn, là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại.

Lễ Tạ Ơn, tạ ơn Trời! Tạ ơn đất! Tạ ơn người.

Đoàn Xuân Thu

 From: MY LOAN & NguyenNThu

 TNLT CẤN THỊ THÊU: BIỂU TƯỢNG CỦA DÂN OAN MẤT ĐẤT

Kim Dao Lam

Sinh năm 1962, bà Cấn Thị Thêu là một trong những gương mặt tiêu biểu của phong trào đòi quyền đất đai và nhân quyền tại Việt Nam. Con đường đấu tranh của bà bắt đầu không phải từ lý thuyết hay chính trị, mà từ chính mảnh đất nuôi sống gia đình, nơi bị thu hồi trong những quyết định mà bà cho rằng chưa bảo đảm quyền lợi chính đáng của người dân. Khi chứng kiến hàng loạt hộ nông dân rơi vào cảnh mất nhà, mất sinh kế, bà đã không chọn im lặng.

Từ một người dân bình thường, bà trở thành tiếng nói kiên định trong việc ghi lại các vụ thu hồi đất, thu thập thông tin, và lên tiếng bảo vệ những người yếu thế. Trong nhiều năm, bà cùng chồng và các con miệt mài hỗ trợ hàng trăm gia đình bị ảnh hưởng bởi các tranh chấp đất đai. Chính sự kiên trì đó đã góp phần đưa nhiều vụ việc ra ánh sáng, giúp công luận trong và ngoài nước hiểu rõ hơn về những bức xúc xoay quanh vấn đề đất đai tại Việt Nam.

Nhưng con đường bà lựa chọn đầy thử thách.

Năm 2014, khi đang ghi hình một vụ cưỡng chế đất, bà bị bắt và bị kết án 15 tháng tù với cáo buộc “chống người thi hành công vụ”. Sau khi ra tù, bà tiếp tục hoạt động. Năm 2016, bà lại bị bắt và bị kết án 20 tháng tù với cáo buộc “gây rối trật tự công cộng” sau khi tham gia các hoạt động phản đối thu hồi đất.

Dù nhiều lần bị giam giữ, ý chí của bà chưa bao giờ suy chuyển. Tháng 6/2020, bà cùng hai con là Trịnh Bá Phương và Trịnh Bá Tư lập “Báo cáo Đồng Tâm”, phản ánh những vấn đề liên quan đến tranh chấp đất đai tại Đồng Tâm. Sau đó, cả ba bị bắt và bị kết án 8 năm tù với cáo buộc “tuyên truyền chống Nhà nước”.

Nhiều tổ chức quốc tế như Human Rights Watch và Amnesty International xem bà là tù nhân lương tâm, người bị giam giữ vì thực hiện quyền bày tỏ ý kiến và lên tiếng về bất công một cách ôn hòa.

Bà Thêu không chỉ đấu tranh cho gia đình mình, mà còn cho hàng nghìn người chung cảnh ngộ, những người mà tiếng nói dễ bị bỏ quên giữa những tranh chấp và áp lực.

Bà từng nói:

“Ngày hôm nay các ông bắt một người sẽ có một trăm người đứng lên. Ngày mai nếu các ông giết một người, sẽ có một triệu người đứng lên.”

Bất chấp tất cả, hình ảnh bà Cấn Thị Thêu vẫn là biểu tượng của lòng dũng cảm và sự kiên định trong hành trình đòi công lý, quyền sở hữu đất đai, và các quyền cơ bản của con người. Bà đã trả giá bằng tự do, bằng sức khỏe và bằng sự an toàn cá nhân, nhưng chưa bao giờ từ bỏ niềm tin vào lẽ phải.

Vân Phong

Nguồn fb Việt Tân


 

Viết vài hàng cho tháng 11 năm 2025 – Phùng Văn Phụng

Phùng Văn Phụng

Ngày 18-11-2-25 tôi có thăm anh H. Trần ở West Houston Rehabilitation and Healthcare Center số 13428 đường Bissionnet.  Anh H. lớn hơn tôi một tuổi cũng là đoàn viên Liên Minh Thánh Tâm của giáo xứ NLNT.

Trước tháng 03 năm 2020, chưa có đại dịch Covid 19, chúng tôi thường đọc kinh ở nhà của đoàn viên, anh H thường đi chung với chúng tôi.

Anh đã nằm trong nursing home này được hai tháng nay. Anh bị bịnh tiểu đường, cao máu, cao mở, thần kinh tọa, thường xuyên đau nhức hai chưn và đau nhức lưng. Anh đã phải dùng xe lăn và đi lại rất khó khăn.

Bây giờ mọi sinh hoạt bình thường đều phải nhờ y tá trong nursing home. Anh nói: Ăn uống ngày ba bữa có người lo, nhưng nằm trong này buồn quá không thoải mái như ở nhà.

Tôi suy nghĩ: bạn bè đã vào Nursing home trước, chừng nào tới phiên mình đây?

*****

Và tôi liên tưởng đến câu nói mà tôi đã viết trên tường:

Làm sao “vui để đợi chết”?

Làm sao để có sự vui vẻ. Làm sao để có TÂM AN.

Làm sao khi gặp bịnh nhiều, không tự mình lo được, các sinh hoạt tối thiểu cũng cần người khác giúp đỡ như ăn uống, tắm rửa, vệ sinh cá nhân v.v… mà TÂM mình vẫn AN.

Làm sao để có thể chấp nhận bị chỉ trích, công kích mỗi ngày? Nặng nề hơn nữa là bị người khác mạ lỵ thậm tệ mà tâm vẫn BÌNH AN, không giận? Vì nếu giận sẽ hại tim, làm tim đau nhói, không ngủ được. Mất ngủ làm cho sức khỏe dần dần suy kém, “ăn không ngon, ngủ không yên?” sức đề kháng giảm, dễ sinh ra bịnh.

Mỗi người đều có bí quyết để cho TÂM AN? Riêng cá nhân tôi, muốn có tâm an, ngủ ngon, khi bị chỉ trích, công kích, nặng lời; nếu có giận, tôi chỉ để ảnh hưởng của sự tức giận thoảng qua chừng năm mười phút, rồi tôi không nghĩ tới nữa, không quan tâm tới nữa. Tôi nghĩ nếu mình giận là mình bị thiệt thòi. Vì sao vậy? Vì tức giận, thù ghét là mình đang uống thuốc độc mà mong cho người khác chết.

 Ngoài ra tôi suy nghĩ chắc người công kích tôi, mạt sát tôi, tôi nghĩ là họ có vấn đề về tâm lý hay về sức khoẻ. Họ đang bị bịnh tiểu đường, cao máu hay đang bị binh gì nặng lắm sức khoẻ không tốt hoặc họ có vấn đề về tâm lý, đang lo âu nhiều chuyện không giải quyết được như con cái bất hoà nhau, gây gỗ nhau, hay đang thiếu nợ không có tiền trả, hay con cái bỏ nhà đi hoang chưa trở về, hoặc đang thất nghiệp, đang dùng chất nghiện… tâm họ bất an nên đem sự bất an đến cho mình.

Để có sự vui vẻ, tâm bình an, tôi liền suy tư, liên hệ đến câu: Nếu ngày mai tôi không còn nữa hôm nay tôi nên nghĩ gì? Hay nếu ngày hôm nay là ngày cuối cùng trong cuộc đời tôi, tôi nên làm gì? Có nên buồn giận ai, oán hận ai không?

Chẳng những không oán giận họ mà còn phải thương họ nữa và tôi bắt đầu cầu nguyện cho người đó được vui vẻ và bình an.

Để chi vậy?

Để họ có tâm an, có lòng khoan dung, lạc quan, yêu đời, họ sẽ có cái nhìn tích cực hơn và KHÔNG còn chê bai, chỉ trích nặng lời người khác – trong đó có tôi chịu ảnh hưởng.

Tôi cũng đang tập luyện dần dần để nếu có những lời nói không hay, không tốt, từ bên ngoài tác động vào tâm hồn tôi, sẽ không ảnh hưởng đến trái tim tôi, làm cho tôi bất an.

Hy vọng nhờ ƠN CHÚA tôi sẽ tìm thấy được BÌNH AN.

Phùng Văn Phụng

Ngày 30 tháng 11 năm 2025


 

Chặng Đàng Thứ Mười Ba- Chúa Giêsu được tháo đanh xuống mà phó cho Mẹ Người – Cha Vương

Một Ngày  ấm ám trong vòng tay yêu thương của Chúa. Mua sắm ít thôi nhé. Vật chất không sưởi ấm được lòng người chỉ có tình yêu thương đồng loại thôi.

Cha Vương

CN: 30/11/2025.  (t7-24)

Chặng Đàng Thứ Mười Ba- Chúa Giêsu được tháo đanh xuống mà phó cho Mẹ Người

* CĐTG do ĐGH Benedict XVI biên soạn, Lm. Gioan Trần Công Nghị dịch.

LỜI CHÚA: Trích Phúc Âm theo Thánh Matthêu (Mt 27: 54- 55)—Thấy động đất và các sự việc xảy ra, viên đại đội trưởng và những người cùng ông canh giữ Đức Giê-su đều rất đỗi sợ hãi và nói: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa.” Ở đó, cũng có nhiều người phụ nữ đứng nhìn từ đàng xa. Các bà này đã theo Đức Giê-su từ Ga-li-lê để giúp đỡ Người.

SUY NGẮM: Chúa Giêsu sinh thì. Từ con tim người bị mũi đòng của quân lính Roma đâm thâu qua, máu và nước chảy ra: một hình ảnh nhiệm mầu của dòng suối các bí tích, Bí Tích Rửa Tội và Bí Tích Thánh Thể, theo đó Giáo Hội không ngừng tái sinh từ tâm hồn cởi mở của Thiên Chúa. Đôi chân của người bị gãy, giống như hai người cũng chịu đóng đinh với người. Như thế người mặc khải người là con chiên Vượt Qua thật, không một ống xương nào bị dập (…) Và giờ đây, cuối cùng của sự đau khổ của người, đối với tất cả tâm can con người bị mất tinh thần và đối với tất cả quyền thế hận thù và hèn nhát, thật tỏ tường cho thấy người không cô đơn một mình. Ở đó có những người trung tín còn lại với người. Dưới chân Thập Giá còn đứng đó là Đức Maria Mẹ người, người chị họ của Mẹ bà Mary Mađalen và tông đồ người yêu mến. Một người phú hộ, ông Giôxếp tại Arimathea cũng xuất hiện tại hiện trường: một người giàu sang có khả năng chui qua lỗ kim, vì Thiên Chúa đã ban ân sủng cho ông. Ông táng xác Chúa Giêsu trong chính ngôi mộ dành sẵn cho ông tại khu vườn. Trong cuộc táng xác Chúa Giêsu, nghĩa địa trở thành một khu vườn, khu vườn nơi mà Adam đã bị trục xuất khi ông từ bỏ cuộc sống viên mãn, từ bỏ Đấng Tạo Hóa. Khu mộ nơi khu vườn biểu tượng lên giấc ngủ của cái chết sẽ kết liễu. Một thành viên trong Thượng Hội Đồng Roma cũng đi theo là ông Nicodêmô, người đã đước Chúa Giêsu loan báo mầu nhiệm tái sinh bằng nước và Thánh Thần. Ngay cả trong Thượng Hội Đồng Roma đã tuyên án tử cho người, ở đó còn có một người tin, còn có một ai đó biết và nhận ra Chuá Giêsu sau khi người sinh thì. Trong giờ phúc khóc thương thống thiết, đen tối và tuyệt vọng này, ánh sáng niềm hy vọng được hiện lên một cách huyền diệu. Thiên Chúa bị đánh đòn là Thiên Chúa của sự sống đang đến gần. Ngay cả trong đêm tối sự chết, Thiên Chúa vẫn còn là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ chúng ta. Giáo Hội của Chúa Giêsu Kitô, gia đình mới của người, bắt đầu tỏ hiện.

LỜI NGUYỆN: Lạy Chúa, Chúa đã đi vào bóng tối sự chết. Nhưng thân xác Chúa được trao về cho những bàn tay nhân từ và được liệm trong tấm vải gai trắng (x Mt 27:59). Đức tin không hoàn toàn mất biến, mặt trời không hoàn toàn đi vào buổi hoàng hôn. Đã bao lần Chúa xuất hiện như đang ngủ? Thật dễ để chúng con chồn bước và tự thầm rằng: “Thiên Chúa đã chết”. Trong giờ phút đen tối, xin giúp chúng con biết rằng Chúa vẫn còn ở đó. Xin đừng bỏ rơi khi chúng con bị cám dỗ mất tâm hồn. Xin giúp chúng con đừng để Chúa cô đơn một mình. Xin ban cho chúng con lòng trung tín để chịu đựng trong những lúc hoang mang và xin ban cho chúng con lòng trung tín để có một tình yêu sẵn sàng ôm ấp Chúa trong lúc Chúa hoàn toàn bất động, như Mẹ của Chúa là Đấng đã ôm Chúa vào lòng một lần nữa. Xin giúp chúng con, là người giàu có và kẻ cơ bần, là người ngu dốt và người có học, biết nhìn ra ngoài sự sợ hãi và thành kiến của chúng con, và biết cống hiến khả năng chúng con cho Chúa, biết cống hiến tâm hồn và thời gian của chúng con, để chuẩn bị khu vườn Phục Sinh.

Lạy Chúa, vì cuộc khổ nạn đau thương của Chúa,  xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời, và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy. Amen.

From: Do Dzung

******************************

Chỉ Một Tình Yêu – Giang Ân -Thanh Hoài 

CHIỀU KÍCH VÔ CÙNG – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi!”.

“Một nhân chứng không phải là người bán hàng, nhưng là một bảng chỉ đường – trẻ, già, nam, nữ gì cũng được – miễn là chỉ đúng hướng. Là chứng nhân của Chúa Kitô, bạn phải sống làm sao để chỉ được chiều kích vô cùng của ơn Ngài cứu độ!” – John White.

Kính thưa Anh Chị em,

Bàn tiệc Lời Chúa Mùa Vọng sẽ cống hiến cho chúng ta những ‘ngọc thực châu phàn’ từ các bài đọc Cựu Ước, đặc biệt với Isaia, vốn được gọi là “Phúc Âm thứ năm”. Chẳng hạn hôm nay, Isaia nói đến “Núi Nhà Đức Chúa”, nơi “Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi!”. Qua đó, vị ngôn sứ tiên báo một ‘chiều kích vô cùng’ của ơn cứu độ!

Isaia ngước nhìn Núi Nhà Đức Chúa và thấy trước những đoàn người hành hương của muôn dân mai ngày. Mùa Vọng, mùa bạn và tôi dâng lời tạ ơn Thiên Chúa khi ngước nhìn Đền Thờ Giêsu – Hội Thánh, Hiền Thê và là hiện thân của Ngài – nơi muôn dân đổ về. Từ ‘Giêrusalem mới’ ấy, với các môn đệ, với mỗi người chúng ta, Tin Mừng sẽ đi đến tận chân trời góc biển, vượt mọi biên giới, để đạt tới một ‘chiều kích vô cùng’ trong muôn triệu sinh linh. “Vinh quang của Sion toả sáng rực rỡ đến nỗi các dân tộc bị kéo ra khỏi bóng tối để bước vào ánh sáng của nàng!” – Andrew M. Davis.

Vậy mà, để có thể loan truyền sứ điệp đó, chúng ta trước hết phải được chính Chúa Giêsu “lấp đầy”; rồi cùng Ngài, đến với các tâm hồn và nói như Isaia, “Hãy đến, ta cùng đi!”; “Ta vui mừng trẩy lên đền thánh Chúa!” – Thánh Vịnh đáp ca. Thật trùng hợp, Tin Mừng hôm nay cũng nói đến sự “lấp đầy” đó. Chúa Giêsu không cần bước vào nhà viên đại đội trưởng ngoại giáo đầy niềm tin, nhưng Ngài đã đi vào trái tim ông và làm cho niềm tin ấy nên trọn. Nhờ đó, ông trở thành đại diện cho thế giới dân ngoại, những người sẽ mở lòng đón nhận Ngài. Và Chúa Giêsu quả quyết, “Tôi không thấy một người Israel nào có lòng tin như thế!”. “Bàn tiệc đức tin đã luôn bày sẵn, dù khách được mời có ngồi vào hay ở ngoài với muôn vàn lý do trì hoãn!” – Von Balthasar.

Anh Chị em,

“Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi!”. Có biết bao anh chị em lương dân chưa tìm ra đường? Mùa Vọng, mùa bạn và tôi nhìn lại mình – những bảng chỉ đường! Tôi có chỉ đúng hướng Đền Giêsu? Quan trọng hơn, tôi có ắp đầy Ngài? Vì thế, Mùa Vọng còn là mùa mời Giêsu vào nhà, nếu ở đó vắng bóng Ngài. Hãy nhìn viên đại đội trưởng! Tự coi mình ‘bất xứng’, ông tỏ ra ‘rất xứng’ để Chúa Giêsu không chỉ “vào nhà” mà còn “vào lòng” – vì vào nhà mà chẳng vào lòng cũng bằng không. Để một khi đầy Giêsu, bạn mới có thể là một bảng chỉ đường “đúng hướng, dễ hiểu” và chỉ được ‘chiều kích vô cùng’ ơn Ngài cứu độ! “Tôi chỉ có một ngọn nến của đời để đốt, và tôi thà đốt nó ở một nơi đầy bóng tối còn hơn ở nơi đã ngập tràn ánh sáng!” – John K. Falconer.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con ‘lỏng ốc!’. Thay vì chỉ Giêsu, con chỉ vào con; thay vì chỉ về ‘chiều kích vô cùng’, con chỉ về những ‘chiều kích có cùng!’”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

**************************************************

Lời Chúa Thứ Hai Tuần I Mùa Vọng

Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc trong Nước Trời.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.    Mt 8,5-11

5 Khi Đức Giê-su vào thành Ca-phác-na-um, có một viên đại đội trưởng đến gặp Người và nài xin : 6 “Thưa Ngài, tên đầy tớ của tôi bị tê bại nằm liệt ở nhà, đau đớn lắm.” 7 Người nói : “Chính tôi sẽ đến chữa nó.” Viên đại đội trưởng đáp : 8 “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh. 9 Vì tôi đây, tuy dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền tôi. Tôi bảo người này : ‘Đi !’, là nó đi, bảo người kia : ‘Đến !’, là nó đến, và bảo người nô lệ của tôi : ‘Làm cái này !’, là nó làm.” 10 Nghe vậy, Đức Giê-su ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người rằng : “Tôi bảo thật các ông : tôi không thấy một người Ít-ra-en nào có lòng tin như thế. 11 Tôi nói cho các ông hay : Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời.”


 

Ơn Người –  Sapy Nguyễn Văn Hưởng

Sapy Nguyễn Văn Hưởng

Tác giả là cư dân San Diego, đã hai lần thắng giải Viết Về Nước Mỹ. Năm 2001, với bài “Hoa Ve Chai”, ông nhận giải danh dự. Ba năm sau, với bài viết “Giọt Nước Mắt,” kể về Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam tại tiểu bang New Jersey do một kiến trúc sư Việt Nam vẽ kiểu, ông nhận giải chung kết Viết Về Nước Mỹ 2004. Ông tiếp tục viết bài và tham gia sinh hoạt giải thưởng VVNM hàng năm. Mùa lễ Tạ Ơn năm nay, tác giả gửi đến Viết Về Nước Mỹ một loạt 5 bài bút ký thấm đậm tình người từ trong gia đình đến những người thân quen của mình. Sau đây là bài thứ nhất “Ơn Người”.

 ***

 Thật khó ngờ rằng, bước vào tuổi nghỉ hưu, tôi vẫn còn dịp lo liệu cho tuổi già của bố mẹ. Chính trong những ngày ấy, tôi bắt đầu nghĩ về tuổi già, không của ai khác mà của chính mình. Khi va chạm với thực tế, tôi thấy hình bóng tương lai của mình trong từng chi tiết nhỏ: nào khó khăn lúc bước vào trong xe, nào không thể tự mặc cho mình manh quần tấm áo.

Tôi là con cả trong một gia tộc đông anh em. Dù đã sống trên đất Mỹ lâu hơn khoảng gần ba mươi năm so với thời gian tôi từng sinh sống ở quê nhà, tôi vẫn giữ lối nghĩ của người Việt: phận làm con là phải chăm sóc cha mẹ lúc xế chiều, như một phần máu thịt, chẳng cần ai nhắc. Có lúc đứng một mình, tôi tự hỏi rằng đã sẵn sàng cho vai trò đó đến đâu, và câu trả lời luôn dẫn tôi về với trách nhiệm không thể thoái thác. Dẫu tôi có đến bảy đứa em và mấy chục đứa cháu, tôi vẫn coi phần chính của bổn phận ấy thuộc về mình.

Cũng như nhiều người Việt ở nơi đây, bố mẹ tôi thường bóng gió nhắc về nỗi sợ bị đưa vào “nhà già”. Tôi hiểu sự ám ảnh ấy: phần đông người lớn tuổi gốc Việt không quen tiếng Anh, ít hợp với thức ăn bản xứ, và hơn hết họ mong được dưỡng bệnh tại nhà, nằm trên chiếc giường quen thuộc giữa hơi ấm con cháu.

Tôi vẫn thắc mắc tại sao người Việt gọi nursing home là “nhà già” hay “viện dưỡng lão”, hai cách gọi nghe quen mà chua chát, như chứa một nỗi buồn, một hàm ý bị bỏ rơi. Có lẽ trong ký ức nhiều người, nơi ấy không gắn với hình ảnh yêu thương mà chỉ là trạm dừng cuối đời: vắng con cháu, vắng tiếng cười thân quen. Nghe bố mẹ nói đến điều đó, lòng tôi xót xa, vừa muốn tìm cách giữ ông bà ở nhà, vừa lo rằng đôi khi người nhà cũng bất lực trước những nhu cầu chăm sóc chuyên môn. Tôi hiểu rằng điều bố mẹ cần không chỉ là chỗ ở, mà là phẩm giá, là kỷ niệm và những gì thân thuộc thường dùng.

Thật ra, ở Mỹ nursing home không chỉ dành cho người già, mà cho bất kỳ ai cần chăm sóc y tế dài hạn, đó là một phần trong hệ thống chăm sóc sức khỏe chuyên nghiệp. Tuy nhiên khác biệt văn hóa và quan niệm về sống chết khiến nhiều người Việt giữ khoảng cách với nơi ấy. Vì vậy, tôi xin gọi đúng tên: nursing home.

Mỗi lần nghĩ đến tuổi già của bố mẹ, tôi lại nhớ đến Dick, người bạn Mỹ gốc Mexico từng làm chung hãng với tôi. Dick thường kể về mẹ già của anh: bà không thể tự lo suốt hơn mười năm cuối đời. Thay vì đưa bà vào nursing home, các anh chị em quyết định thuê hai phụ nữ người Mễ thay phiên nhau đến nhà chăm sóc cho bà cả ngày lẫn đêm. Con cái, cháu chắt ai rảnh thì ghé thăm, ai nấy đều yên tâm vì bà luôn có người kề cận. Nghe Dick kể, trong tôi hiện lên hình ảnh những bàn tay quen thuộc chăm sóc, tiếng Tây Ban Nha thì thầm và mùi bột ngô trên bếp, một khung cảnh ấm áp khác hẳn với chiếc giường lạnh lẽo cô đơn nơi nursing home.

Từ chuyện của Dick, tôi thầm nghĩ: nếu đến lúc bố mẹ tôi cần, tôi cũng sẽ làm như vậy. Tôi tự hứa với lòng: tôi sẽ cố gắng giữ bố mẹ ở nhà, dù phải sắp xếp lại cuộc sống hay nhờ đến sự giúp đỡ chuyên môn, để ông bà được quanh quẩn bên gia đình, bên cạnh những gì thân thuộc nhất.

*

Và rồi, ngày ấy cũng đến. Sau buổi tiệc mừng thượng thọ, bố tôi bỗng lên cơn đau tim, phải đưa vào cấp cứu. Gần hai tuần sau, từ phòng hồi sức ông được chuyển sang nursing home để phục hồi chức năng. Sau hơn ba tháng, tuy đã đi lại được, nhưng trí nhớ suy giảm rõ rệt và ông không còn tự lo vệ sinh cá nhân được.

May thay, mẹ tôi vẫn khỏe, cố gắng chăm sóc chồng. Nhưng ai cũng hiểu bà không thể gồng gánh mãi một mình. Suốt ba tháng luân phiên vào nursing home chăm bố, anh em con cháu ai nấy đều thấm mệt. Khi bố được cho về nhà, mọi người đồng thuận phải tìm người giúp việc toàn thời gian.

Tôi đứng ra đăng báo tìm người, nhưng quyền quyết định hoàn toàn thuộc về mẹ tôi. Sau vài lần thay người, cuối cùng mẹ tôi mướn được một chị tên Trần Thị Ái Hoa. Chị không chỉ có cái tên đẹp, mà còn là người đoan trang, khuôn mặt sáng, giọng nói nhẹ nhàng, chừng mực. Sau này tôi mới biết chồng đầu của chị từng là bác sĩ quân y trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, tử trận không lâu sau biến cố 1963. Từ đó đời chị gập ghềnh, nhưng vẫn giữ phẩm hạnh và lòng kiên nhẫn đáng quý.

Lần đầu gặp chị, tôi thấy tóc chị còn đen nhánh, áo quần tươm tất, cử chỉ nghiêm trang; nhưng chỉ hơn một tháng sau, tôi sững sờ khi thấy tóc chị bạc trắng như sương. Lúc ấy chị mới thú thật: chị đã gần bảy mươi. Khi đến xin việc, sợ bị chê già, chị đã nhuộm tóc và khai ít tuổi hơn. Chị còn giấu việc mình theo đạo Công giáo, e ngại bố mẹ tôi, vốn theo tín ngưỡng khác, có thể ngại ngùng.

Dần dà, tôi hiểu thêm hoàn cảnh chị. Chị sang Mỹ theo diện du lịch, làm đủ nghề: trông nhà, nấu bếp, chăm người già, từng đi qua nhiều thành phố và nhiều tiểu bang; có nơi không hợp, có nơi bị đối xử tệ. Về đến San Diego, chị nương nhờ người anh họ, rồi đọc tin tìm người của gia đình tôi và đến xin việc. Mẹ tôi nhận ngay, chị mừng đến rơi nước mắt.

Ngay lần gặp đầu, tôi có một linh cảm khó tả: nếu chị Hoa về sống với bố mẹ tôi, đó sẽ là sự kết hợp tốt đẹp. Một người cần một mái ấm, một gia đình cần một tấm lòng. Chị cần chốn nương thân, một căn phòng riêng và góc yên bình để an trú tuổi già. Căn hộ của bố mẹ tôi dư ra đúng một phòng ngủ có nhà tắm riêng. Chị là người ngoan đạo, lại cách thánh đường có lễ tiếng Việt vài trăm thước, vừa đủ để chị thong thả đi bộ đến dự lễ sớm chiều.

Gia đình chúng tôi cần một người luôn túc trực trong nhà, không chỉ chăm sóc bố mà còn đỡ đần mẹ trong bếp núc, dọn dẹp. Ngay từ những ngày đầu, chị xin phép được gọi bố mẹ tôi là Bố và Mẹ, và xin được coi như con trong nhà. Tôi nghe chị gọi hai tiếng ấy, không khách sáo, không gượng gạo, chỉ thấy thân thuộc, tự nhiên và đầy tình cảm.

Việc khó khăn và tế nhị nhất là chuyện vệ sinh cá nhân; đó là điều rất nhạy cảm mà ít ai chịu làm nếu không thật lòng thương. Thời gian trôi, sức khỏe bố dần khá hơn: ông ăn uống được, đi lại quanh nhà, nhưng vẫn phải mang tã và chưa thể tự lo vệ sinh. Thấy chồng khỏe lên, mẹ tôi bắt đầu có ý định giảm bớt tiền công cho chị. Một chiều, vợ tôi tìm chị để nói riêng:

– Chị đừng lo. Mẹ trả bao nhiêu, chị cứ nhận. Phần còn lại, các em sẽ bù riêng cho chị.

Nói những lời ấy, lòng tôi vui vì chị sẽ không phải lo lắng chuyện tiền bạc trong những ngày tuổi già.

*

Khi quyết định sang Mỹ, chị Hoa để lại sau lưng một gánh lo không nhỏ: người mẹ già ngoài chín mươi và cô con gái sống đơn độc, chật vật nuôi hai đứa con dù chúng đã quá tuổi trưởng thành. Cũng như nhiều gia đình Việt có thân nhân ở xứ người, người nhà ít khi hỏi han chị sống ra sao, làm nghề gì, họ mặc nhiên nghĩ rằng ở bển thì dễ kiếm tiền, như nhặt lá mùa thu.

Mỗi lá thư nhà gửi sang thường kèm theo một danh sách: lúc xin thuốc bổ, lúc nhờ mua điện thoại, máy đo huyết áp, áo ấm, đồng hồ… Có khi chẳng xin gì, chỉ vỏn vẹn mấy chữ: “Ở đây khổ quá, má à!” Chị làm được bao nhiêu đều chắt chiu gửi về: phần cho mẹ, phần cho con và hai đứa cháu ngoại. Ngoài ra, chị còn đóng góp cho giáo hội Việt Nam, cho giáo xứ quê nhà, nơi in đậm dấu chân tuổi thơ và biết bao kỷ niệm. Mỗi khi quê nhà gặp thiên tai, lũ lụt, chị lại nhờ người quen quyên góp, gửi về cho bà con khốn khó. Nghe những việc chị làm, tôi cảm nhận một tấm lòng luôn hướng về nguồn cội. Trong những món quà gửi về có cả nỗi nhớ, cả niềm hy vọng chị muốn giữ cho gia đình mình.

Nhắc đến quê, mắt chị thường đỏ hoe. Có khi đang kể, chị bỗng lặng thinh, đưa tay quệt vội giọt nước mắt. Tôi hiểu đó không chỉ là nỗi nhớ mà còn là nỗi xót xa cho những thân phận gần gũi mà chị không thể ở bên. Một chiều cuối tuần, tôi đưa cả nhà đi dạo công viên Balboa. Trong nắng nhạt, gió nhẹ, hoa nở rực bên lối đi, thấy chị đứng lặng, quay mặt lau nước mắt, vợ tôi hỏi:

– Sao chị khóc?

Chị nhỏ nhẹ:

– Trời ơi, xứ người ta đẹp quá. Không biết chừng nào nước mình mới được như vầy?

Câu nói như một tiếng thở dài. Từ đó, tôi hiểu vì sao, dù sống trong căn phòng nhỏ nơi đất khách, với công việc chẳng nhẹ nhàng gì, chị vẫn chan chứa tình thương và hy vọng. Những khoảnh khắc ấy khiến tôi thấy mình có một trách nhiệm mới: chăm sóc chị như người nhà, vì chị đã chọn gắn bó cuộc đời mình với gia đình chúng tôi.

Thay vì nhắc chị phải thương yêu và chăm sóc bố mẹ tôi, chính tôi mới cần học cách thương và lo cho chị. Vợ chồng tôi đối đãi với chị bằng tất cả lòng tin, không dè dặt, không toan tính. Nhiều buổi trưa chiều đi dạo, tôi thấy chị lặng lẽ đi sau, mắt không rời bố mẹ tôi, như sợ ông bà trượt chân, sẵn sàng đưa tay ra đỡ. Chị ít nói, nhưng trong lòng chị, ông bà đã thành cha mẹ ruột tự thuở nào.

*

Ông Minh, anh bạn thân, thấy vợ chồng tôi tất bật lo cho bố mẹ, có lần khuyên:

– Ông bà có tám người con. Trừ một người ở xa, còn lại bảy đứa đều gần. Sao chú thím không chia nhau, mỗi người phụ trách một ngày? Vừa công bằng, vừa giúp chú thím đỡ vất vả.

Tôi chỉ cười:

– Tụi em nghỉ hưu rồi, thời gian rảnh rỗi nhiều hơn. Mấy đứa em còn bận con cái, cơm áo, công việc, lo cho nhà mình chưa xuể, làm sao ngồi cả buổi ở nursing home trông bố em được.

Nói vậy cho xuôi chuyện, chứ tôi nghĩ khác. Chăm sóc cha mẹ không phải là chuyện chia phần cho công bằng, càng không thể tính thiệt hơn. Đó là việc của trái tim, của tình cảm chảy từ huyết quản, chẳng thể đo đếm bằng giờ giấc hay công sức. Tôi không đòi hỏi gì ở các em, cũng không trách ai, mỗi người có hoàn cảnh và nhịp sống riêng mà người ngoài khó hiểu hết. Tôi chỉ âm thầm làm phần mình, tận hưởng những ngày còn được nhìn thấy ông bà khi tuổi đã xế chiều. Với tôi đó là một ân phước không thể tính toán, so bì được.

*

Một lần, khi tôi đang ghé thăm một người bạn, ở cách nhà bố mẹ vài dặm, điện thoại reo dồn dập. Vừa áp máy vào tai, đã nghe giọng vợ tôi hốt hoảng:

– Anh ơi, bố trốn khỏi nhà hơn mười lăm phút rồi!

Tôi như chết lặng, lao ra xe phóng ngay về. Vừa tới nơi, thấy chị Hoa đứng thẫn thờ ở cửa, mặt tái nhợt. Nhận ra tôi, chị òa lên khóc:

– Thấy bố ngủ say, chị tranh thủ giặt đồ. Ai ngờ chỉ mới vài phút là ông mở cửa lẻn đi mất…

Mẹ tôi run run nói: 

– Mẹ với chị Hoa và mấy người hàng xóm tìm khắp nơi mà không thấy…

Tôi đưa mẹ và chị Hoa lên xe, bắt đầu tìm kiếm. Tôi lái, mẹ nhìn bên trái, chị Hoa nhìn bên phải. Xe chạy hết con dốc này sang con đường kia, vòng quanh khu xóm. Mẹ không ngừng nhắc:

– Hồi sáng bố đi dọc khúc này… Hôm qua thì ghé coi mấy bụi hồng chỗ kia…

Chạy theo hướng mẹ chỉ đến mấy lần vẫn không thấy. Lo lắng cứ quấn chặt đầu óc, mọi thứ xung quanh chợt lặng thinh.

Lòng tôi nóng như lửa đốt. Đây là lần đầu tiên tôi gặp cảnh như vậy: một cụ già lẫn trí nhớ, lang thang ngoài đường, không biết mình là ai, chẳng biết đi về đâu. Tôi quay sang hỏi mẹ:

– Hay mình về nhà, gọi 911 đi mẹ?

Mẹ gật đầu. Về đến nhà, tôi gọi liền tức khắc. Nghe tôi trình bày, tổng đài viên trả lời ngay rằng họ sẽ cử người hỗ trợ. Độ mười phút sau, ba xe cảnh sát hú còi tới. Sau khi hỏi kỹ lưỡng nào: tên, tuổi, đặc điểm nhận dạng, quần áo ông mặc khi rời nhà, họ tỏa ra khắp khu vực, kiểm tra từng ngõ ngách, gõ cửa hàng xóm. Mọi hành động nhanh nhẹn, chuyên nghiệp.

Chị Hoa đứng ngồi không yên, hết nhìn đồng hồ lại liếc ra cửa. Mỗi lần có tiếng động lạ hay dáng người lướt qua, chị khựng lại rồi thở dài. Lâu lâu chị nhìn vợ chồng tôi, lẩm bẩm:

– Bố đi đúng một tiếng mười lăm phút rồi đó cậu mợ ơi…

Rồi chị bước vào phòng, quỳ trước tượng Đức Mẹ Maria, chắp tay khấn nguyện. Khi trở ra, chị ngồi xuống bên mẹ tôi, vòng tay ôm bà:

– Sao bố đi lâu quá vậy mẹ ơi… Không biết có khát không, có ai cho uống nước không? Hay là… bố đang ngồi hoặc nằm đâu đó, không ai hay biết?

Chị lại khẩn khoản:

– Cậu chở chị đi tìm bố nữa. Chị nhớ rõ mấy đoạn đường bố thích đi lắm… luôn cả mấy nhánh hoa ven đường…

Tôi gật đầu, cùng chị lên đường thêm một lần, nhưng suốt chặng quẩn quanh khu phố vẫn không thấy bóng dáng bố tôi. Mỗi phút trôi qua như kéo dài vô tận; tôi chỉ mong thấy bóng dáng quen thuộc đang lầm lũi bước trên đường.

*

Sau hơn cả giờ tìm khắp khu phố mà vẫn không thấy bóng dáng bố, hai nhân viên cảnh sát quay trở lại. Một người đẩy cánh cửa lưới bước nhanh vào nhà, người kia theo sau dắt một con chó nghiệp vụ cao lớn, lông xám, đôi mắt sáng rực. Vừa thấy tôi đến, viên cảnh sát nói ngay:

– Thưa ông, vẫn chưa tìm thấy ông cụ. Giờ chúng tôi sẽ dùng chó nghiệp vụ. Xin ông lấy ra mấy món đồ của ông cụ thường dùng, như quần áo, khăn hoặc bất cứ thứ gì có mùi quen thuộc.

Tôi vừa dịch lại xong, chị Hoa tức tốc bước vội vào phòng. Chỉ lát sau chị trở ra, tay ôm chiếc áo len và cái quần ngủ cũ của bố, run run chìa ra:

– Đây… áo bố mặc hôm qua… quần này sáng nay chị mới thay cho bố…

Giọng chị nghèn nghẹn, tay nắm chặt mớ quần áo như ôm vật quý giá. Một viên cảnh sát nhận lấy chiếc áo, cúi xuống đưa sát mũi con chó; con vật rít khẽ, vểnh tai rồi bắt đầu đánh hơi quanh phòng.

Viên cảnh sát trấn an:

– Chúng tôi đang cho chó bắt mùi. Giờ chỉ còn trông vào nó dẫn đường.

Chị Hoa nép sang một bên, hai tay đan chặt. Trước khi rời đi, viên cảnh sát còn nói thêm:

– Nếu chó nghiệp vụ không tìm được, chúng tôi sẽ xin trực thăng hỗ trợ.

Tôi lặng người. Trước mắt tôi, hai viên cảnh sát Mỹ, một con chó nghiệp vụ, một người phụ nữ Việt tóc pha sương, và cả căn nhà đang nín thở trong lo âu. Tất cả vì một ông cụ gốc Việt, đã già, đã lẫn, đang đi lạc giữa một thành phố rộng lớn. Tôi dõi theo bóng họ khuất dần ngoài ngõ, cổ họng nghẹn lại. Không ngờ để tìm một người già lại quan trọng đến như vậy. Lòng tôi dâng lên một niềm biết ơn sâu sắc đối với những con người đang đứng trước mặt tôi. Tôi thấy mình mang một món nợ ân tình quá lớn với đất nước này.

Cánh cửa khép lại; căn nhà yên ắng nhưng không bình yên, mà là thứ lặng ngắt căng thẳng. Chị Hoa đi ra đi vào, mắt không rời chiếc đồng hồ treo tường; mỗi tiếng “tích tắc” như đè nặng lên từng phút chờ đợi. Chốc chốc chị khựng giữa phòng, môi mấp máy lời cầu nguyện.

Bất chợt, điện thoại tôi rung. Là cảnh sát, giọng ông ta reo vui:

– Chúng tôi đã tìm thấy ông cụ. Con chó đã lần ra dấu, cách nhà hơn ba dặm. Ông cụ lang thang một mình, không hề hấn gì. Chúng tôi sẽ đưa ông về trong vòng mười phút.

Tôi buông điện thoại, nghẹn giọng báo tin. Cả nhà như vỡ òa. Mẹ chắp tay ngước lên trần, lẩm bẩm tạ ơn. Chị Hoa vội chạy vào phòng, quỳ rạp xuống sàn; tượng Đức Mẹ trong ánh sáng lờ mờ như đang lắng nghe tiếng khấn của một đứa con đầy niềm tin.

Chẳng bao lâu sau, viên cảnh sát trẻ dìu bố tôi vào hành lang. Dáng ông lom khom, bước chậm nhưng tỉnh táo. Vừa thấy ông, chị Hoa lao ra, quỳ sụp trước viên cảnh sát, chắp tay lạy lia lịa:

– Con cám ơn ông cảnh sát. Con cám ơn ông đã cứu bố con.

Viên cảnh sát hơi khựng, nhìn ngơ ngác; tôi bước tới giải thích:

– Xin lỗi anh, đây là cách người Việt tạ ơn người giúp đỡ. Chị xúc động quá.

Anh gật đầu, mỉm cười, dìu bố tôi đến ghế salon. Bố vừa đặt người xuống, chị Hoa ngồi bệt dưới chân, bóp nhẹ đũng quần ông rồi lo lắng hỏi:

– Bố đi gần ba tiếng đồng hồ mà không có đái sao bố?

Tôi chết lặng. Từng cử chỉ của chị, từ quỳ tạ ơn cảnh sát đến chăm sóc tỉ mỉ cho bố, khiến tôi không nói nên lời. Trong khoảnh khắc đó, lòng tôi vừa trào dâng sự biết ơn vừa chua xót vì nhận ra có những việc người khác đang làm thay cho mình. Chị Hoa đã làm tất cả những việc lẽ ra một người con trưởng phải làm: chờ đợi, tìm kiếm, cầu nguyện, chăm sóc từng ly từng tí.

Vợ chồng tôi nhiều lần bàn bạc: phải làm gì để đền đáp tấm lòng chị. Có nên tăng lương? Nhưng rồi tự hỏi tiền bạc có phải điều thiết thực nhất cho chị? Tôi hiểu lẽ sống của chị là vì người khác; bao nhiêu công khó chị đều gửi về quê, phần cho mẹ già, phần cho con và hai đứa cháu ngoại. Cuối cùng, chúng tôi quyết định một phương án thực tế và lâu dài: giữ lại phần tiền công trả thêm mỗi tháng cho chị, tính luôn từ đầu năm, để trao lại vào ngày chị không còn làm cho bố tôi nữa.

Hôm ấy, vợ tôi nhẹ nhàng nói:

– Chị an tâm, khi nào chị nghỉ hẳn, tụi em sẽ đưa lại đầy đủ. Không phải để ép chị làm mãi; nghỉ lúc nào là quyền của chị. Tụi em chỉ mong chị yên tâm mà lo cho bố.

Chị Hoa ngơ ngác, mắt chớp nhanh:

– Sao cô chú lại cho chị nhiều thế?

Tôi chỉ mỉm cười. Thành thật mà nói, đó là tất cả những gì vợ chồng tôi có thể làm để bày tỏ lòng biết ơn, một sự đáp đền giản dị cho tấm lòng chị đã trao cho gia đình chúng tôi.

*

Rồi cũng đến ngày không ai mong muốn. Một buổi sáng như mọi khi, cả nhà ngồi ăn thì bố tôi bỗng đổ gục xuống bàn, đột quỵ. Mẹ tôi hốt hoảng gọi cấp cứu; xe đến rất nhanh, đưa ông vào bệnh viện. Tôi cũng chỉ biết đứng lặng yên nhìn cha mình nằm bất động, thoi thóp trên giường với dây nhợ giăng khắp thân người. Nhờ có chị, những ngày cuối đời của bố, con cháu đỡ vất vả nhiều. Không ai phải bỏ việc hay đảo lộn cuộc sống để túc trực liên tục bên giường bệnh. Khi có người nhà ở cạnh, chị nhẹ nhàng rút lui; khi vắng, chị lại ngồi kề bên ông, canh từng giấc ngủ, lau mặt, vuốt trán, trò chuyện vu vơ như đang nói với một người còn nghe, còn hiểu. Những cử chỉ ấy giản dị nhưng ấm áp hơn mọi lời an ủi.

Ngày bố tôi ra đi, giữa những người khóc tiễn đưa có lẽ chị Hoa khóc nhiều nhất, không phải vì bổn phận, mà vì tình thương âm thầm tích tụ qua từng bữa cơm, từng lần thay áo, tắm rửa, từng ngày sống bên ông như người thân ruột thịt. Nhìn chị ôm lấy bàn tay bố khi ông rời đi, tôi nhận ra tình thương không đo được bằng lời, chỉ bằng những hành động thầm lặng mà người ở lại sẽ nhớ mãi.

Từ dạo ấy, vợ chồng tôi không còn coi chị là người giúp việc nữa, mà xem chị như một người chị trong nhà. Phần tiền lương tăng, chị vẫn gửi lại, chân tình nói:

– Cô chú mà không thương giữ giúp chị, thì biết đưa cho ai?

Tôi cũng xin nói rõ rằng mọi chi phí chăm sóc bố mẹ đều có sự góp sức của từng đứa em trong gia đình. Nhờ vậy, tình nghĩa anh em vẫn bền chặt, và trong nỗi mất mát, chúng tôi tìm thấy nhau nhiều hơn.

Sapy Nguyễn Văn Hưởng

From: Phi Phuong Nguyen

HIỂU VÀ SỐNG MÙA VỌNG – Lm. Nguyễn Hồng Giáo OFM  

Lm. Nguyễn Hồng Giáo OFM  

Năm Phụng vụ bắt đầu với Mùa Vọng, chuẩn bị chúng ta mừng đại lễ Giáng Sinh, một lễ tưng bừng nhất trong năm, xét về mặt xã hội, không những trong đạo mà cả “ngoài đời” nữa.  Tôi luôn luôn biết ơn và cảm phục Giáo Hội, người mẹ hiền của chúng ta.  Giáo Hội thật khôn ngoan, biết rõ lòng người.  Con người có nhu cầu vui chơi và mừng lễ.  Trong đời sống xã hội có biết bao nhiêu là ngày lễ, biết bao nhiêu mùa lễ và cao điểm. 

Và ai cũng biết: các ngày lễ, các mùa lễ như thế không chỉ có mục đích giải trí, vui chơi mà thôi.  Trong năm Phụng Vụ, Giáo Hội cũng cho ta sống nhiều mùa đại lễ, nhiều cao điểm Phụng vụ, để bồi dưỡng tinh thần chúng ta, giúp ta sống bởi sự sống của Thiên Chúa cách dồi dào, phong phú hơn.  Đức Kitô tự ví mình như cây nho và chúng ta là cành.  Cây nho này lại phải nẩy sinh thêm những cành mới, lại phải trở nên xanh tươi và sinh hoa kết quả qua các mùa Phụg vụ: Mùa Vọng và Giáng sinh, Mùa Chay và Phục sinh, rồi đến Mùa Thường niên. 

Năm Phụng Vụ nhắc lại lịch sử Dân Chúa trong Cựu ước hoặc làm sống lại những biến cố lớn trong cuộc đời Chúa Giêsu, hoặc gợi lại gương sáng của Đức Mẹ và các thánh, nhưng đó không phải là do lòng sùng bái quá khứ, thích thú những chuyện đã qua rồi.  Điều Phụng Vụ nhắm tới không phải là quá khứ nhưng là hiện tại, là đời sống ân sủng của chúng ta hôm nay.  Bốn mùa xuân, hạ, thu, đông nối tiếp nhau không phải chỉ là lặp lại y nguyên một vòng tròn, song là điều kiện cho con người trưởng thành và sung mãn.  Cũng vậy, người Kitô hữu phải chờ đợi nơi năm Phụng Vụ sự sống của Chúa ngày càng dồi dào hơn trong mình, sự sống mà họ đã nhận lãnh như một mầm mống trong Bí tích Thánh Tẩy.

 Các mùa Phụng Vụ đều nhắm cùng một mục đích như nhau nhưng theo những cách thức khác nhau, cũng như tứ thời bát tiết đều là những mùa của trời đất xoay vần song không giống nhau.  Vậy Mùa Vọng có gì đặc trưng?  Chúng ta cử hành gì trong mùa này?

 Một Chút Lịch Sử.

 Cho đến thế kỷ thứ IV, Giáo Hội Tây phương mừng một đại lễ duy nhất là lễ Phục Sinh.  Tất nhiên là có một số lễ khác song tất cả đều qui về Phục Sinh và không bao giờ long trọng bằng Phục Sinh.  Đến thế kỷ thứ IV, Tây phương mới bắt đầu mừng lễ Chúa Giáng sinh vào ngày 25 tháng 12.  Theo thời tiết, thì đó là kỳ đông chí, lúc mà đêm ngắn lại và ngày bắt đầu dài thêm.  Vào dịp này, người ngoại giáo cử hành lễ mừng Ánh sáng.  Giáo Hội đã đặt lễ Giáng sinh vào đúng ngày đó để công bố rằng chính Đức Giêsu Kitô mới thực là Ánh sáng, là Mặt trời soi sáng thế gian.

 Nhưng lúc đầu Giáng sinh cũng chỉ là lễ thường thôi.  Mãi đến thế kỷ thứ VI mới trở thành một đại lễ, và cũng kể từ đó, người ta mới tổ chức một thời gian chuẩn bị tương đương với Mùa Chay trước Phục sinh, và được gọi là mùa Adventô tức là Mùa Vọng như ta quen gọi ngày nay.  Năm Phụng Vụ được tổ chức thành 2 chu kỳ xoay quanh 2 trung tâm là Phục sinh và Giáng sinh.  Chu kỳ Giáng Sinh vươn lên từ đêm tối đến ánh sáng (như mùa đông qua mùa xuân) còn Phục Sinh thì đầm đìa trong ánh sáng chan hòa.

 Tinh thần và Ý Nghĩa của Mùa Vọng.

 Vọng là trông mong.  Trong thời gian Mùa Vọng, Giáo Hội muốn chúng ta sống mãnh liệt hơn tâm tình khát mong Chúa đến.  Nhưng Chúa đến lúc nào?  Ta biết Chúa đã đến cách nay 2000 năm, trong thận phận làm người.  Mùa Vọng có mục đích đầu tiên là chuẩn bị tâm hồn ta mừng lễ Giáng sinh, tức là kỷ niệm biến cố Ngôi Hai xuống thế làm người tại Bêlem xưa.  Nhưng ta cũng tuyên xưng Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét thế gian và hoàn thành công cuộc cứu độ không những đối với loài người mà còn đối vơi toàn thể vũ trụ nữa.

 Mùa Vọng mời gọi chúng ta sống tích cực hướng về ngày đó mà giáo lý quen gọi là ngày cánh chung.  Giữa hai lần Chúa đến ấy, còn có thể nói tới một lần nữa, đó là cuộc Chúa ngự đến cách nhiệm mầu trong tâm hồn chúng ta bằng ân sủng, như lới Kinh thánh: “Ai yêu mến Ta, thì Cha Ta sẽ yêu mến người ấy và chúng ta sẽ cư ngụ trong người ấy.”  Như vậy Mùa Vọng cử hành ba cuộc ngự đến.  Cần nhớ tới cả ba nếu chúng ta muốn hiểu rõ nội dung của các bản văn Kinh thánh và Phụng vụ của mùa này và có được những tâm tình thích hợp.  Hồng Y Newman đã viết: “Trong linh đạo Mùa Vọng, Đức Kitô xuất hiện như một người đã có mặt đó rồi, và đồng thời vẫn không ngừng được chờ mong.  Và Kitô hữu sống linh đạo này như một người chờ đợi Đức Kitô.”

 Có thể nói chúng ta càng sống càng tiến về phía trước.  Mùa Vọng đến nhắc nhở chúng ta rằng cuộc đời ta còn dang dở và quê hương thật của ta ở trên trời.  Mùa Vọng mời gọi ta nhổ trại lên đường tiến về Ngày của Chúa, ngày Chúa đến làm cho cuộc đời chúng ta cũng như toàn thể lịch sử nên sung mãn.  Chính ngày đó đem lại cho cuộc sống hiện tại một hướng đi và một ý nghĩa cao cả.  Vì thế nỗi chờ mong của ta cũng là một niềm hy vọng.  Chúng ta chờ đợi với sự tin tưởng và nôn nóng như người vợ hiền chờ đợi người chồng mà bà đã biết, mà bà yêu mến và được yêu mến.  “Đức Kitô về trời mang theo trái tim của Hội thánh.  Tất cả đời sống của Hội thánh chỉ là một hành vi khao khát, hy vọng, cầu nguyện và đợi chờ” (Jean Daniélou).  Lời cầu nguyện kết thúc toàn bộ Kinh thánh mà thánh Gioan Tông đồ đã đặt vào miệng Giáo Hội đang bị bách hại là: Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến !

 Ba Thái Độ Sống Cụ Thể.

 Theo tinh thần Mùa Vọng, sống hướng về ngày Chúa đến có thể được diễn tả trong ba thái độ cụ thể.  Trước tiên là tương đối hóa hiện tại.  Mọi giá trị ở đời này như của cải, danh vọng, tình yêu, gia đình, khoa học, kỹ thuật, văn hóa v.v… là những điều tốt lành mà chúng ta phải ra sức thực hiện theo thánh ý của Chúa trong hoàn cảnh sống cụ thể của mình, nhưng đó chưa phải là những cái tuyệt đối đáng cho ta coi là mục đích phải gắn bó và đeo đuổi với bất cứ giá nào.  Trái lại, chúng chỉ tìm được trọn vẹn giá trị khi đối chiếu với cùng đích tối hậu, đích thực của đời ta.

 Thái độ sống này làm cho ta nên khôn ngoan, sáng suốt, chừng mực và tự do.  Sống hướng về ngày Chúa đến còn đòi hỏi nơi ta một thái độ thứ hai là phải cương quyết chống lại tội lỗi và sự ác nơi mình và chung quanh mình, nơi gia đình và trong xã hội.  Đó là dọn đường cho Chúa ngự đến, như chúng ta thường hát trong Mùa Vọng theo lời Kinh Thánh: “Quanh co uốn cho ngay, Gồ ghề san cho phẳng, Hố sâu lấp cho đầy, Nơi cao phải bạt xuống.”

 Sau hết, sống hướng về ngày Chúa đến buộc ta phải tỉnh thức và luôn luôn sẵn sàng như người tôi trung: hết lòng với nhiệm vụ được trao phó, tận dụng mọi khả năng của mình để hoàn thành mọi việc theo ý chủ nhà hiện đang vắng mặt và mau mắn mở cửa đón chủ về bất cứ lúc nào.

 Lm. Nguyễn Hồng Giáo OFM

Viết theo J. Daniélou:Le Mystère de l’Avent, Paris 1948

From: Langthangchieutim


 

Nguồn gốc cốt lõi nhất của phụng vụ là gì? – Cha Vương

Mùa Vọng thánh thiện và tràn đầy ân sủng của Chúa nhé!

Cha Vương

Thư 7: 29/11/2025.   (t3-22)

GIÁO LÝ: Nguồn gốc cốt lõi nhất của phụng vụ là gì? Đó là chính Thiên Chúa. Trong Người diễn ra một lễ hội tình yêu đời đời trên Thiên đàng, có niềm vui của Cha – Con – Thánh Thần. Vì Thiên Chúa là Tình yêu, nên Người muốn chúng ta dự phần vào cuộc lễ vui vẻ của Người và ban cho chúng ta chúc lành của Người. (YouCat, số 170)

SUY NIỆM: Trên đời này, các cử hành phụng vụ phải là những cuộc lễ tràn ngập vẻ đẹp và sức sống: lễ của Cha đã tạo dựng chúng ta— trong đó vai trò quan trọng của các quà tặng của trái đất: bánh, rượu, dầu và ánh sáng, khói hương, thánh nhạc và các thứ màu sắc. Lễ của Con đã cứu chuộc chúng ta— chúng ta vui mừng vì chúng ta được giải thoát, chúng ta lấy lại hơi thở khi nghe Lời Chúa, chúng ta trở nên mạnh sức khi ăn các lễ vật Thánh Thể. Lễ của Thánh Thần đang sống trong ta— từ đó ta được tràn đầy an ủi, hiểu biết, can đảm, sức mạnh, và được chúc lành từ các cộng đồng Kitô hữu. (YouCat, số 170 t.t.)

❦ Chúc lành nghĩa là nói ra điều tốt lành, điều tốt lành này xuất phát từ Thiên Chúa. Đó là một hành vi của Chúa ban sự sống và gìn giữ sự sống. Thiên Chúa là Cha và là Đấng Sáng tạo mọi loài nói cho chúng ta rằng: bạn ở đây là tốt lành, bạn hiện hữu là tốt lành.

LẮNG NGHE: Các ngươi phải thờ phượng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa các ngươi; Người sẽ chúc phúc cho bánh ngươi ăn, cho nước ngươi uống. Ta sẽ đẩy bệnh tật xa ngươi. (Xh 23:25)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, Chúa luôn tìm kiếm con nhưng con cứ ngoảnh mặt làm ngơ. Mỗi ngày Chúa dọn cho con mâm cỗ, lễ vật Thánh Thể, nhưng con lại không đến. Mùa Vọng này, xin cho con biết tìm Chúa mỗi ngày để được vui hưởng trong tình yêu bất tật của Chúa.

THỰC HÀNH: Hãy cố gắng đi tham dự Thánh Lễ thường xuyên hơn.

From: Do Dzung

*************************

Hy Lễ Tình Yêu – Ca Đoàn Sao Mai 

THỨC NHAU DẬY – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Hãy canh thức!”.

“Ở châu Phi, mỗi buổi sáng, một con linh dương thức dậy biết rằng, nó phải chạy nhanh hơn một con sư tử nhanh nhất – bằng không, nó sẽ bị ăn thịt. Cũng thế, một con sư tử biết nó phải chạy nhanh hơn một con linh dương chậm nhất – bằng không, nó sẽ chết đói. Không quan trọng bạn là sư tử hay linh dương; khi mặt trời mọc, bạn cần ‘thức nhau dậy’ để chạy!” – Herb Caen.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng Chúa Nhật I Mùa Vọng mời gọi chúng ta tỉnh thức và ‘thức nhau dậy’ khi bắt đầu một năm phụng vụ mới. Tỉnh thức không chỉ là sinh tồn thiêng liêng, mà là thái độ của tâm hồn biết nhận ra những lần Chúa viếng thăm.

Những lần thăm của Chúa không báo trước, không được đánh dấu trên lịch, nhưng được chờ đợi bởi những trái tim yêu mến. Chúa Giêsu nói, “Hãy canh thức!”, vì nếu ngủ mê trong thói quen, trong thú vui chóng qua, bạn sẽ bỏ lỡ thời khắc Ngài đến. Tỉnh thức là nhận ra điều đang trói buộc mình và dám mở ra cánh cửa trái tim cho lòng thương xót Chúa bước vào. “Tình yêu luôn tỉnh thức trước bình minh!” – Von Balthasar.

Tỉnh thức cũng là không ngủ mê trước nỗi đau của mình và của tha nhân – bao gồm tội lỗi và những tổn thương. Hơn nữa, tỉnh thức mang chiều kích cộng đoàn và Giáo Hội. Không ai có thể ‘tự mình thức dậy’; chúng ta nâng đỡ nhau trong cầu nguyện, trong trách nhiệm chung, và trong việc đọc những dấu chỉ thời đại. Một cộng đoàn biết tỉnh thức sẽ lắng nghe tiếng kêu của người nghèo, những bất công đang lan rộng, những đổ vỡ của thế giới đang nấc lên vì chiến tranh; ở đó, Chúa đang đến – âm thầm nhưng khẩn thiết. “Trở ngại lớn nhất của ân sủng không phải là tội, nhưng là sự thờ ơ!” – Henri de Lubac.

‘Thức nhau dậy’ còn là biết từ bỏ những ‘ngã rẽ an thần’ mà ngỡ là bình an. Tự do không nằm ở việc tránh thử thách, nhưng ở chỗ để mọi sự được đặt dưới ánh sáng của Chúa và can đảm mở lòng đón lấy Ngài trong từng nhịp sống. Đó là thái độ chọn lựa mỗi ngày, giữa những ảo ảnh lấp lánh và Đấng là Sự Thật. “Đời sống thiêng liêng là một sự chọn lựa liên lỉ giữa những ảo ảnh và Thiên Chúa!” – Henri Nouwen.

Anh Chị em,

Như vậy, ‘thức nhau dậy’ là một cuộc chạy thiêng liêng: một hành trình nơi trái tim không còn bị mê hoặc bởi những điều vụt qua, nhưng hướng về Thiên Chúa – sự sống và tình yêu vĩnh cửu. Và chúng ta nhận ra Chúa không chỉ đến trong Bí tích, trong Lời, trong nội tâm mình, nhưng còn trên khuôn mặt người anh em đang cần được nâng dậy – thể chất lẫn linh hồn. Biết ‘thức nhau dậy’, gia đình, cộng đoàn trở thành nơi thắp lên hy vọng, nơi con người bước ra khỏi bóng tối của cam chịu, tìm lại hướng đi cho đời sống. “Trong bốn tuần lễ, chúng ta được mời gọi ra khỏi lối sống cam chịu, ra khỏi những nuông chiều thường ngày, bằng cách nuôi dưỡng hy vọng, nuôi dưỡng mơ ước một tương lai mới. Đừng để lối sống ích kỷ hoặc nhịp sống căng thẳng ồ ạt đè nén con!” – Phanxicô.

Chúng ta có thể cầu nguyện:

“Lạy Chúa, dạy con biết tỉnh thức để nhận ra những lần Chúa đến ‘xen kẽ’ giữa đời thường, hầu con và cộng đoàn con được đổi mới trong tình yêu Ngài!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

*********************************************************

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG, NĂM A

Anh em hãy canh thức để được sẵn sàng.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.    Mt 24,37-44

37 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Thời ông Nô-ê thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. 38 Vì trong những ngày trước nạn hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. 39 Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thuỷ ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. 40 Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại ; 41 hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại.

42 “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến. 43 Anh em hãy biết điều này : nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông phải canh thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. 44 Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.”


 

Đời nào trị thủy lỏng lẻo, đời ấy mất nước-Hong Thai Hoang

Hong Thai Hoang added a photo to the album: CHÍNH TRỊ KHAI PHÓNG 

Trong lịch sử Á Đông, không có tai họa nào mà vua chúa sợ hãi hơn nước lũ.

Không phải vì nước mạnh, mà vì nước vô tình.

Một con đê vỡ không chỉ cuốn trôi ruộng vườn mà còn cuốn trôi luôn cả thiên mệnh của một triều đại.

Vì vậy mà cổ nhân dạy:

“Trị thủy là gốc của trị quốc.”

Ai trị được nước thì trị được dân.

Ai không trị được nước thì sớm muộn cũng mất lòng dân

Câu chuyện Đại Vũ trị thủy – ba lần đi ngang nhà mà không dám bước vào – không phải chỉ là truyền thuyết.

Nó là tuyên ngôn chính trị đầu tiên của nhân loại:

Trị thủy phải đặt dân lên trước bản thân.

Trị thủy là trách nhiệm cá nhân của người lãnh đạo.

Ở Trung Hoa và Đại Việt, bất kỳ triều đại nào cũng xem việc chống lũ là chuyện của vua, không phải chuyện của trời, càng không phải chuyện của dân.

Đời nào trị thủy lỏng lẻo, đời ấy mất nước.

Lịch sử ghi đầy:

Nhà Tống suy yếu vì vỡ đê sông Hoài.

Nhà Minh nổi loạn vì Hoàng Hà dâng cuốn nửa triệu dân, quan lại giấu số liệu.

Nhà Lê lập chức “Hà Đê Sứ”, ai để vỡ đê thì tru di tam tộc.

Nhà Nguyễn đặt “Nha đê chính”, quan địa phương phải canh đê 24/24 vào mùa mưa.

Quan lại ngày xưa hiểu rằng:

Nước lên mà dân chết, đó là lỗi của quan – không phải lỗi của trời.

Không một triều đại nào dám đổ cho dân “không kịp ứng phó”, hoặc bảo rằng “thiên tai bất khả kháng”.

Vì đối với người xưa, thiên tai chỉ là phép thử, còn thất trách mới là tội lỗi.

Nhà Trần để lại một câu chuyện đẹp:

Khi nước sông Hồng dâng cao, Hưng Đạo Vương từng đích thân ra đắp đê.

Lệnh là:

“Thà hư của, không được để dân tử thương.”

Cổ nhân không có vệ tinh, không có radar, không có công nghệ, nhưng họ có một thứ duy nhất mà chúng ta ngày nay lại đang thiếu: văn hóa báo trước.

Họ lập trống báo lũ, sứ giả chạy ngựa, từng làng có người túc trực để truyền hiệu lệnh.

Không hề có chuyện: “đã báo mà xã không nhận được”, “đã gửi Zalo mà ai đó không xem”, “nước lên quá nhanh”.

Nếu dân không kịp chạy, thì quan không còn lý do để tồn tại.

Cổ nhân hiểu rằng: nước giống như dân – vừa tạo ra phồn thịnh, vừa có thể cuốn trôi cả một triều đại.

Tư Mã Quang viết:

“Lũ lớn mà dân không chết là do đức của vua.

Lũ nhỏ mà dân vẫn chết là lỗi của quan.”

Ở đây, nước chỉ là hình ảnh.

Cái mà các triết gia châu Á muốn nói chính là:

Quản trị tốt thì thiên tai thành thử thách.

Quản trị kém thì thử thách thành thảm họa.

Và cội nguồn của quản trị tốt không phải là xây thêm đê, thêm trạm – mà là minh bạch, cảnh báo, trách nhiệm cá nhân.

Đừng chờ nước dâng mới thông báo.

Đừng để dân chết rồi mới họp.

Đừng lấy thiên tai để che thiên chức.

Hôm nay: Nước có thể không khác xưa, nhưng cách đối xử với nước đã khác

‘Thời cổ đại, quan chống lũ để giữ nước.

Ngày nay, có khi người ta chống lũ bằng cách… giải thích.

Khi nước cuốn trôi nhà cửa, ruộng vườn, khi hàng trăm hộ dân ngập sâu, lý do thường được nghe nhất lại là:

“Mưa lớn bất thường”

“Nước lên quá nhanh”

“Xã không kịp nhận thông báo”

“Đã báo qua Zalo”

Những câu nói ấy, nếu trở về 500 năm trước, chắc chắn là tội lớn của quan trông đê.

Vì với cổ nhân:

Trị thủy không chỉ là chống lũ – mà là giữ đạo làm quan.

Không canh nước, không cảnh báo, không chịu trách nhiệm thì dù đê có cao đến đâu cũng vô nghĩa.

Điều cổ nhân để lại cho chúng ta hôm nay

Lịch sử không yêu cầu chúng ta phải đắp đê bằng tay hay chạy ngựa báo tin.

Nhưng lịch sử yêu cầu chúng ta phải giữ lấy tinh thần trị thủy:

Minh bạch thông tin là đạo đức trị quốc.

Không có minh bạch, thiên tai nào cũng biến thành thảm họa.

Cảnh báo sớm là quyền của dân.

Dân cần thời gian để chạy – đó là điều cổ nhân đã biết cách đây 2.000 năm.

Trách nhiệm là ngưỡng cuối của quyền lực.

Không ai có thể đứng trên thiên tai để đứng ngoài trách nhiệm.

Thiên tai không đáng sợ bằng sự vô trách nhiệm.

Cổ nhân từng nói:

“Nước vô tình, quan không được vô tâm.”

Một quốc gia có thể chịu nhiều đau thương.

Nhưng quốc gia ấy sẽ không bao giờ sụp đổ vì thiên tai.

Quốc gia chỉ suy tàn khi:

nỗi đau của dân bị xem như chuyện nhỏ,

sinh mạng con người bị lẫn vào số liệu,

và thiên tai trở thành lý do để né tránh trách nhiệm.

Cổ nhân để lại cho chúng ta một bài học giản dị mà thấm thía:

“Giữ đê là giữ dân. Giữ dân là giữ nước.”

Hong Thai Hoang

Bài viết được thực hiện suốt 4 tiếng khi cơ thể gần như mệt lả – nếu bạn muốn copy – hãy ghi nguồn.


 

Đu trụ điện 2 ngày, khi được cứu mới biết cha mẹ đã chết

Công Tú Nguyễn – Chuyện tuổi Xế Chiều

Căn nhà nhỏ của vợ chồng cụ ông Nguyễn Nghiệp (84 tuổi) và bà Nguyễn Thị Nhựt (80 tuổi, vợ ông Nhựt, ở thôn Phú Hữu, xã Hòa Thịnh) nằm lọt thỏm giữa cánh đồng đã không còn đẹp như mọi ngày. Vợ chồng ông gặp nạn trong cơn lũ và đã ra đi mãi…

Mấy năm trước, vợ chồng con trai út là ông Nguyễn Văn Hần (42 tuổi) xây căn nhà cấp bốn bên cạnh. Các anh chị gửi gắm hai cụ cho vợ chồng ông lui tới thăm hỏi, chăm sóc.

Mấy hôm trước, vợ ông Hần chuyển dạ nhập bệnh viện sinh con thứ ba. Vợ chồng nhờ chị họ đến trông coi hai cô con gái nhỏ để ông Hần có thời gian làm việc, lui tới bệnh viện.

Trước giờ lũ ập đến, chiều 18-11, ông Hần đưa đàn bò 17 con lên lán trại cách nhà mấy trăm mét tránh lũ.

“Đưa chúng vào chuồng xong thì tôi không còn đường về nhà, nước vây tứ phía, chảy cuồn cuộn. Lũ dâng từng phút, chẳng mấy chốc đàn bò bị cuốn trôi, tôi lên mái chuồng trú nhưng cũng ngập”, ông Hần kể.

Không còn đường thoát, ông mở dây buộc bò, buộc người vào trụ điện để giữ lấy mạng sống. Ông ôm trụ điện, kêu cứu thất thanh giữa dòng lũ dữ nhưng không một ai dám đến cứu.

“Hai ngày hai đêm, nước dâng tới đâu tôi buộc dây cao đến đó. Tôi biết chắc ở nhà đã ngập, ba mẹ già, hai con ở cùng người thân gặp nguy nhưng không có lựa chọn”, ông Hần nói.

Chống chọi với lũ dữ hai ngày. Nước rút dần, một thanh niên trong xóm bơi ghe ra kiểm tra xem ông còn bám ở trụ điện không ? “

Em nghĩ anh đi rồi !”, ông Hần thuật lại lời thanh niên nói với mình khi thấy anh còn sống.

Ông Hần hỏi lại : “Ba mẹ và con anh có ai cứu không ?”.

“Em biết ba mẹ anh đã mất, còn hai cháu trong nhà em gọi mà không thấy trả lời”…

Ông Hần lấy chút sức lực cuối cùng, chẳng còn quan tâm mọi thứ xung quanh, mặc kệ dòng nước chảy xiết, về nhà kiểm tra.

“Mở cửa không thấy hai con, tim tôi ngừng đập, đầu óc không còn suy nghĩ được gì nữa.

Tôi lội tìm khắp xóm mới biết các con được hàng xóm cứu”, ông Hần đau buồn.

Còn cha mẹ ông Hần đã ra đi mãi mãi…

Theo: THANH NHẬT, NGUYỄN YÊN – Pháp luật TP Hồ Chí Minh


 

 PHÉP LẠ CỦA NIỀM HY VỌNG-câu chuyện của Đức cha Phanxico Xavie

Nguyen Van Agostino is with Can Le 

 PHÉP LẠ CỦA NIỀM HY VỌNG

Mời bạn đọc tiếp câu chuyện của Đức cha Phanxico Xavie:

XXVI. Người có nụ cười hiền từ

“Đừng sợ, vì Ta đã cứu chuộc ngươi, Ta đã gọi ngươi bằng tên, ngươi là của Ta.”

(Is 43,1)

“Nếu ngươi làm nên những công trình vĩ đại, nhưng không vâng phục, ngươi sẽ không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa. Đối với Ngài, điều có giá trị chỉ là trái tim của ngươi: Ngài không cần đến công việc của ngươi. Ngài đã tạo dựng cả vũ trụ mà không cần sự trợ giúp của ngươi.”

(Ph. X. Nguyễn Văn Thuận, Đường Hy vọng)

Đức cha Thuận sống trong một căn phòng nhỏ tại Foyer Phát Diệm (tên một giáo phận ở miền Bắc Việt Nam), ở số 45 đường Pineta Sacchetti, và tiếp tục đời sống tại Rôma như thể chưa bao giờ rời đi.

Khi đi dạo trên các con phố Rôma, ngài không còn ngoái lại phía sau để kiểm tra xem có ai theo dõi mình, như đã từng làm ở Hà Nội. Ngài thuộc về một thiểu số rất nhỏ những người, giống như ngài, đã trải qua nhiều năm tù đày và cảm nhận sâu sắc niềm vui của tự do đích thực, trong khi phần còn lại của dân chúng coi tự do là điều hiển nhiên.

Trong hai năm đầu lưu đày, đức cha Thuận tập trung vào việc chăm sóc mục vụ cho người Việt Nam rải rác khắp thế giới, và đôi khi, theo sự ủy nhiệm của Quốc vụ khanh Tòa Thánh và Bộ Truyền giáo, ngài đi đến các giáo phận và chủng viện ở châu Phi và châu Á như một vị khách thăm viếng tông tòa.

Thân sinh của ngài, ông Nguyễn Văn Ấm, qua đời vào tháng 6 năm 1993. Người con là tổng giám mục đã lập tức lên chuyến bay đầu tiên đến Sydney, nơi ngài gặp các em Hàm Tiếu, Ánh Tuyết, Thuỷ Tiên, Thu Hồng và người em trai tên Tuyên đang quây quần bên mẹ. Một lần nữa, bà Hiệp tỏ ra vô cùng can đảm. Trong thánh lễ an táng do ngài cùng hai giám mục khác đồng tế, bà đã đọc vài lời mà không rơi một giọt nước mắt. Theo truyền thống Á Đông, sau thánh lễ, đức cha Thuận phủ phục ba lần trước quan tài cha, cảm tạ ông vì đã ban cho mình sự sống và đã dẫn dắt bằng bàn tay mạnh mẽ.

Sau tang lễ, ngài ngồi hàng giờ hồi tưởng về cuộc đời hy sinh của cha và sự tha thứ chân thành của ông dành cho tất cả những ai đã cố tình làm hại ngài và gia đình. Việc gia đình bà Hiệp vươn lên danh vọng và quyền lực đã khiến ông Ấm sống trong cái bóng của vợ, nhưng điều đó không làm ông phiền lòng. Ông và bà Hiệp đã yêu thương nhau tha thiết. Khi bi kịch giáng xuống gia đình vợ, ông Ấm luôn ở bên cạnh để giúp bà gom góp những mảnh vỡ và xây dựng lại cuộc sống. Ông chưa bao giờ than phiền.

Đức cha Thuận nhớ lại sự lý lẽ chặt chẽ của người cha khi ông hoặc các em tìm cách biện hộ cho lỗi lầm của mình. Ông Ấm hiếm khi to tiếng, nhưng những lời quở trách của ông thì khó quên. Khi cha còn sống, đức cha Thuận chưa bao giờ nói với ông rằng con yêu cha. Ngài luôn mong muốn làm điều đó, nhưng phong tục Á Đông và sự rụt rè của bản thân đã khiến điều ấy không thể thực hiện. Giờ đây, ngài có thể cuối cùng thốt lên: “Hãy nghỉ yên trong vòng tay Thiên Chúa, nghỉ yên, cha ơi, con yêu cha.”

Sau tang lễ, đức cha Thuận ở lại Úc một thời gian. Một ngày nọ, khi đang ngồi viết bên bàn, cô Hàm Tiếu bất ngờ đề nghị: “Anh không nghĩ rằng mẹ có thể đi du lịch một chút bây giờ sao? Mẹ sẽ rất thích được thăm châu Âu và Bắc Mỹ.”

Đức cha Thuận buông cây bút xuống, quay lại và hỏi: “Em nghĩ mẹ thật sự có thể làm được sao? Mẹ đã 90 tuổi rồi, em quên sao?”

Nhưng cô Hàm Tiếu đã thuyết phục anh mình nói chuyện với mẹ về đề nghị ấy. Khi ngài hỏi, bà Hiệp đáp: “Còn quá sớm để nói về những chuyện này. Nhưng trong tương lai, mẹ muốn thăm Rôma và Lộ Đức, và mẹ muốn gặp các cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ để cảm ơn họ vì sự nâng đỡ.” Đức cha Thuận thử thách bà bằng câu hỏi: “Nâng đỡ nào cơ?”

Mẹ nhìn ngài và mỉm cười, bởi bà biết rằng ngài cũng đã tha thứ cho tất cả những người từng làm hại ông và gia đình: “Nhiều người đã chứng tỏ lòng trung thành với cậu Diệm của con – bà nhấn mạnh – và nhiều người khác thì tự hào về con.”

Ngài gật đầu. Làm sao mình có thể không biết ơn các cộng đồng người Việt, nơi ít nhất một số người đã trung thành với cậu Diệm cho đến cùng và đã bày tỏ tình bạn cũng như sự nâng đỡ dành cho ngài và gia đình? Ngài nhìn những chồng bưu thiếp, thư từ và các thông điệp email in ra đang nằm trên bàn, tất cả đều bày tỏ lời chia buồn về cái chết của người cha.

Đức cha Thuận đã cố gắng gửi thiệp cảm ơn đến tất cả những ai đã nghĩ đến ngài và gia đình trong suốt những năm qua. Ngài tự hỏi:

“Chừng đó chưa đủ để biện minh cho sự tha thứ của chúng ta đối với tất cả những xúc phạm trong quá khứ sao?” Và ngài cảm thấy bình an với chính mình hơn bao giờ hết.

Sau khi trở lại Rôma, một căn phòng nhỏ không còn đủ để chứa các ấn phẩm của ngài trong nhiều ngôn ngữ khác nhau, nên ngài được cấp thêm hai phòng nữa. Ngài dành nhiều giờ làm việc với các dịch giả và nhà xuất bản cho sách của mình. Đường Hy vọng đã được xuất bản bằng hơn mười hai ngôn ngữ, và các tập sách khác cũng đều thành công rực rỡ.

Nhưng đức cha Thuận không dành toàn bộ thời gian cho việc viết. Ngài bắt đầu thăm viếng các cộng đồng người Việt ở nhiều quốc gia. Giới trẻ trong các cộng đồng ấy tìm đến ngài để xin lời khuyên và sự hướng dẫn. Họ muốn ngài nói chuyện trong các kỳ tĩnh tâm và hội họp của họ. Những cuộc tập hợp lớn của người Công giáo Việt Nam ở khắp nơi trên thế giới đều phải có ngài làm diễn giả chính, nếu không thì sẽ không được coi là thành công.

Chẳng bao lâu sau, khi ngày càng nhiều người đọc sách của ngài, cả các cộng đồng Pháp, Đức, Ý và Tây Ban Nha cũng mời ngài đến nói chuyện trong các kỳ tĩnh tâm và đại hội của họ. Ngài đi đến nhiều nước để nói chuyện với các linh mục, tu sĩ và giáo dân, những người trân trọng quan điểm của ông về cuộc sống và đức tin. Họ kính trọng lời ngài nói như kết quả của một kinh nghiệm phong phú, và bởi vì ngài nói như một chứng nhân của niềm hy vọng. Kinh nghiệm cá nhân đã trao cho ngài thẩm quyền trong lời nói, và ngài thu hút những đám đông ngày càng đông đảo. Giới trẻ chen chúc trong các buổi gặp gỡ mỗi khi ngài nói chuyện.

Đức cha Thuận nhận thấy điều thiện có thể phát sinh từ những câu chuyện về cuộc khổ nạn dài của mình. Nhưng ngài tránh nói quá công khai, hoặc quá dài, về cách đối xử mà mình đã nhận từ những kẻ hành hạ và cai ngục. Ngài vẫn nuôi hy vọng rằng một ngày nào đó sẽ được phép trở lại làm việc tại Việt Nam, và ngài không muốn làm nguy hiểm đến khả năng ấy bởi những gì mình nói ra.

Thật không may, khả năng trở về quê hương của đức cha Thuận ngày càng trở nên mong manh theo thời gian. Sau khi những nỗ lực lặp đi lặp lại của Tòa Thánh nhằm thương lượng với Hà Nội để cho phép ngài trở lại Việt Nam đều thất bại, vào tháng 4 năm 1994, Đức Gioan Phaolô II quyết định bổ nhiệm ngài làm Phó Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình.

Hội đồng này được thành lập như một Ủy ban bởi Đức Phaolô VI vào ngày 6 tháng 1 năm 1967 với sắc lệnh Catholicam Christi Ecclesiam. Ban đầu, đây là một tổ chức thử nghiệm (ad experimentum), sau đó được tái cấu trúc và trở thành thường trực với sắc lệnh Justitiam et pacem ngày 10 tháng 12 năm 1976. Đức Gioan Phaolô II đã biến Ủy ban thành Hội đồng. Mục đích của Hội đồng là làm phong phú và phổ biến học thuyết xã hội của Giáo hội, đặc biệt liên quan đến công việc của con người. Hội đồng cũng hoạt động về các vấn đề công lý và hòa bình, sự tiến bộ của các quốc gia, những vi phạm nhân quyền và thúc đẩy các quyền này, đặc biệt là quyền tự do tôn giáo.

Chương trình của Hội đồng có thể được xem như một bản tóm lược những khát vọng và nỗ lực trước đây của đức cha Thuận. Ngài cảm thấy tràn ngập bởi một làn sóng khiêm nhường khi biết rằng mình sẽ phục vụ trong một cơ quan của Giáo hoàng. Ngài đã trở thành một thành phần quan trọng của Giáo triều Rôma.

Năm 1994, đức cha Thuận bay sang Paris để đón mẹ đến Pháp và đưa bà đi Lộ Đức. Bà Hiệp đi cùng con gái Hàm Tiếu và cháu gái Tania, 14 tuổi.

Tại thủ đô nước Pháp, ngài cử hành Thánh lễ tại trụ sở Hội Truyền giáo Hải ngoại Paris cùng với cha Etcharrel, bề trên của cộng đoàn. Sau đó, họ đến xem các hiện vật trưng bày trong phòng các vị tử đạo, nơi mọi người cúi đầu cầu nguyện cho sự trở lại của lòng khoan dung tôn giáo tại Việt Nam.

Bà Hiệp nóng lòng muốn đến Lộ Đức. Bà nói rằng bà muốn cảm tạ Đức Mẹ Vô Nhiễm vì tất cả những phúc lành mà gia đình đã nhận được, đặc biệt là nơi đức cha Thuận. Những lời này khiến người con hiểu rằng, trong khi ngài thường nghĩ đến những bi kịch lớn mà gia đình đã phải chịu đựng, thì mẹ ngài chỉ nhớ đến những phúc lành – và điều đó khiến ngài cảm thấy hổ thẹn.

Được hai người con, cháu gái và cha Văn – một linh mục Việt Nam – tháp tùng, bà Hiệp đi tàu đến Lộ Đức và ngắm nhìn phong cảnh dọc đường đi.

Sức chịu đựng thể chất của mẹ khiến đức cha Thuận ngạc nhiên. Bà đã 91 tuổi, nhưng vẫn quỳ gối hàng giờ trước hang đá Lộ Đức. Đức cha Thuận quỳ bên cạnh mẹ, nghĩ rằng với bao khoảnh khắc tuyệt vời trong đời, ngài phải tạ ơn cả người mẹ trần thế đang quỳ bên cạnh, lẫn Mẹ Thiên quốc mà cả hai đang hướng lời cầu nguyện.

Tại Lộ Đức, đức cha Thuận lại xúc động bởi ký ức về lần “gặp gỡ” đầu tiên với Đức Mẹ Vô Nhiễm. Ngài vẫn cảm thấy một niềm xúc động mạnh mẽ khi đọc lại dòng chữ đặt đúng nơi Đức Mẹ đã hiện ra với Bernadette: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội”. Ngài tự hỏi: “Có nhiều mầu nhiệm nào lớn hơn thế này không? Ngay trong giây phút được thụ thai, Maria đã bước vào kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.” Ngài lại nhớ đến lời Đức Mẹ nói với thánh Bernadette: “Ta không hứa sẽ làm cho con hạnh phúc ở thế gian này, nhưng ở thế giới khác.” Ngài nghĩ, không chút cay đắng: “Vâng, Mẹ, Mẹ đã giữ lời hứa.”

Ngài chỉ tự hỏi liệu mình có trung thành với lời hứa ấy như Bernadette hay không. Cô bé đã trở lại với Đức Bà bất kể người ta đối xử với cô thế nào. Đe dọa, nhục nhã và tù đày: cô đã chịu đựng tất cả những điều bất công ấy mà không hề than phiền. Khát vọng cháy bỏng của cô chỉ là được gặp Đức Mẹ Vô Nhiễm vào những ngày và giờ đã định.

“Cô ấy chỉ là một đứa trẻ – đức cha Thuận nghĩ với sự khâm phục – khi phải chịu đựng những điều ấy, trong khi tôi đã trải qua chúng khi đã là người trưởng thành.”

Bà Hiệp cùng hai người con và cháu gái Tania đến Rôma, và đức cha Thuận hạnh phúc khi thấy mẹ cảm nhận niềm vui trong việc thăm viếng Thành phố Vĩnh cửu. Bà Hiệp và cô Hàm Tiếu, được đức cha Thuận tháp tùng, đã được Đức Gioan Phaolô II tiếp kiến tại Castel Gandolfo, và khi Đức Giáo hoàng ban phép lành cho mẹ, người con đã thấy những giọt lệ trong mắt bà. Đức cha Thuận sống những ngày ấy trong trạng thái ngỡ ngàng. Ngài biết ơn vì mẹ cuối cùng đã chấp nhận một điều gì đó từ ngài để đổi lại tất cả những gì bà đã làm. Ngài thấy bà hạnh phúc khi được ở Rôma, chỉ đơn giản vì ngài đang ở bên cạnh bà.

Kết thúc chuyến thăm kéo dài một tháng của bà Hiệp, ngài buồn bã khi phải nói lời tạm biệt mẹ. Trước khi chia tay, bà Hiệp nhìn ngài một lúc rồi nói: “Rõ ràng là Thiên Chúa muốn con ở đây chứ không phải ở Việt Nam. Chính tại đây con sẽ sống và thực hiện các công việc của Ngài. Mẹ sẽ luôn ở cùng con.”

Do đó, ngày 24 tháng 11 năm 1994, đức cha Thuận đã xin từ chức khỏi chức vụ tổng giám mục phó của Thành phố Hồ Chí Minh. Đó là một khoảnh khắc quyết định đối với ngài: Ngài sẽ ở lại Rôma để phục vụ trong Giáo triều suốt phần đời còn lại.

Tuy nhiên, đôi khi, liên quan đến kế hoạch của Thiên ý, ngài tự hỏi: “Sau bao thử thách gian nan, giờ đây con ở Rôma, nhưng vì sao? Thiên Chúa đã nghĩ gì khi đưa con đến Vatican và thế giới tự do?”

Có vẻ như Đức Giáo hoàng không đặt ra những câu hỏi như vậy. Việc bổ nhiệm đức cha Thuận vào Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình dường như là một hệ quả hợp lý và thích hợp của cuộc khổ nạn dài ở Việt Nam. Như Đức Gioan Phaolô II đã nói với ngài: “Đức cha đến từ một đất nước đã từng trải qua chiến tranh và đã bị giam cầm mười ba năm. Giờ đây đức cha có thể chia sẻ kinh nghiệm của mình với những người ở nhiều quốc gia nơi có đau khổ và bất công, để chúng ta có thể thúc đẩy công lý và hòa bình và giúp mọi người nhận ra các quyền của họ.”

Đức cha Thuận đã nhận được câu trả lời mà mình tìm kiếm. Ngài sẽ quan tâm và dấn thân vào vấn đề chiến tranh và hòa bình, công lý và bất công trên thế giới. Ngài không vội vàng lao vào thế giới phức tạp của chính trị và công lý xã hội. Ngài còn nhiều điều phải học từ Quốc vụ khanh Tòa Thánh và từ Hồng y Roger Etchegaray, Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình.

Đức Hồng y Etchegaray, sinh ra tại vùng Basque của Pháp, là một nhà thơ và nhà ngoại giao lão luyện. Khi còn là tổng giám mục Marseille, ngài đã từng là mục tử của một cộng đồng người Việt đông đảo. Ngài dành một tình cảm lớn cho dân tộc Việt Nam và yêu thích văn hóa cũng như ẩm thực của đất nước này. Trong căn hộ của ngài tại San Callisto, ngay phía trên văn phòng, ngài thường khiến khách ngạc nhiên khi đãi họ những món ăn Việt Nam ngon miệng. Đức cha Thuận rất gắn bó với hồng y Etchegaray và mối quan hệ công việc giữa họ không thể tốt đẹp hơn.

Đức cha Thuận cũng có một mối quan hệ công việc tuyệt vời với Đức ông Diarmuid Martin, người Ireland, thư ký của Hội đồng Giáo hoàng, người đã bắt đầu làm việc tại Vatican từ năm 1977 và là chuyên gia trong việc đối phó với những tình huống khó khăn phát sinh tại Liên Hiệp Quốc hoặc trên thế giới.

Đức cha Thuận là một người điềm tĩnh. Ngài làm việc nghiêm túc, xem xét các hồ sơ một cách cẩn trọng và dành nhiều giờ bên bàn làm việc. Hồng y Etchegaray không phải là một nhà lãnh đạo có tư duy hạn hẹp, ngài giao phần lớn công việc cho các cộng sự tài giỏi và biết ơn vì có thể tin tưởng họ. Ngài cũng là Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng Cor Unum, mà đức cha Thuận đã từng biết rất rõ khi điều hành COREV tại Việt Nam.

Với tư cách là Phó Chủ tịch một Hội đồng Giáo hoàng, đức cha Thuận có đủ điều kiện để cư trú tại Vatican và ngài được cấp một căn hộ ở San Callisto. Ban đầu nơi ấy trông chẳng có gì đặc biệt, nhưng sau khi ngài xem lại các bản thiết kế cho những công việc tu sửa cần thiết và góp ý cho thợ xây, thợ mộc, nó đã trở thành một chỗ ở dễ chịu. Ngài dành thời gian trang trí nhà nguyện nhỏ với gu thẩm mỹ tinh tế, nhưng căn phòng ngủ nhỏ – theo thói quen khắc khổ của ngài – không khác gì những căn phòng ngài từng có ở Việt Nam. Nó trống trải và bất tiện như một xà lim, và ngài thích như thế, bởi ngài muốn tiếp tục sống như một người nghèo.

Đức cha Thuận tiếp khách gần như mỗi ngày sau giờ làm việc. Ngài thích gặp gỡ bạn bè cũ và những người quen mới, kể cả trò chuyện với các nhà báo, dù đôi khi một số người trong số họ đã trích dẫn sai lời ngài.

Ngài là một người học hỏi kiên nhẫn và nghiên cứu mọi thứ một cách cẩn trọng. Ngài đã nắm được cách cư xử trong Vatican và kết bạn với những người đến từ khắp nơi trên thế giới. Phần lớn các giám mục và giáo sĩ khi đến Vatican hoặc từ nhiều quốc gia khác nhau đều tìm đến thăm ngài và cảm thấy thoải mái trong sự đồng hành của ngài. Đức cha Thuận luôn trân trọng những cuộc viếng thăm này, bởi cơn khát muốn biết tình hình của Giáo hội trên thế giới nơi ngài gần như không bao giờ được thỏa mãn.

Gần như không thể tránh khỏi việc, sau một cuộc trò chuyện với đức cha Thuận, các vị khách kết thúc chuyến thăm bằng lời mời ngài đến đất nước hoặc giáo phận của họ, để nói chuyện trong một kỳ tĩnh tâm hoặc một sự kiện quan trọng nào đó. Những lời mời như thế trở nên quá nhiều đến mức ngài phải đưa ra những lựa chọn thận trọng về cách sử dụng thời gian tốt nhất.

Dần dần, ngài nắm bắt được những chi tiết liên quan đến các vấn đề nhân quyền, thương mại toàn cầu, toàn cầu hóa, các quốc gia đang phát triển và những hệ quả không ngừng của sự sụp đổ chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu cũng như sự tan rã của Liên Xô.

Đức cha Thuận cũng quan sát kỹ lưỡng tình hình tại quê hương, nơi mối quan hệ giữa chính phủ và Giáo hội vẫn không được cải thiện. Hết lần này đến lần khác, các sáng kiến do Quốc vụ khanh Vatican đề xuất đều thất bại.

Đức cha Thuận lấy làm tiếc rằng những cơ hội thực sự của giữa thập niên 1980 cho sự phục hồi kinh tế của Việt Nam đã biến mất vào cuối thập niên 1990, bởi sự quan liêu bất tài, sự thiếu chắc chắn của pháp luật và nạn tham nhũng ở mọi cấp độ trong đất nước.

Đời sống thiêng liêng vẫn tiếp tục hướng dẫn ngài, và ngài dành nhiều thời gian cầu nguyện cũng như chuẩn bị các bài diễn thuyết với sự chăm chút đầy yêu thương. Ngài hy vọng rằng bất cứ nơi nào mình được mời nói, đặc biệt là với giới trẻ, lời của ngài sẽ giúp thính giả tìm được con đường nhanh hơn để đến với tình yêu của Thiên Chúa và niềm hy vọng