HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH- LM. ĐAN VINH

LM. ĐAN VINH

LỜI CHÚA: Chúa phán: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu…. Nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em ?”  (Lc 16,9.12).

KHÔNG THỂ THOÁT NGHÈO DO THIẾU KIÊN TRÌ.

Có một anh nông dân nghèo sống trong căn nhà lá siêu vẹo giữa một cánh đồng hoang vu. Ngày nọ, một ông phú hộ giàu có tốt bụng trong miền, nghe biết hoàn cảnh của anh, đã đến nhà thăm hỏi và tặng anh một con bò giúp anh khai hoang thửa đất gần nhà, đợi đến mùa xuân ông sẽ quay lại cho thêm hạt giống gieo trồng thì chắc anh sẽ thoát khỏi cảnh nghèo khó.

  Anh nông dân rất mừng khi được vị ân nhân tận tình giúp đỡ như vậy và quyết tâm phấn đấu sẽ vượt qua cảnh nghèo. Nhưng ít ngày sau anh lại gặp hoàn cảnh khó khăn: Ngay từ sáng sớm con bò đã kêu to đòi anh dẫn ra ngoài đồng ăn cỏ. Đang khi trong nhà không còn hạt gạo nấu cơm, khiến anh bị bế tắc.

Bấy giờ anh liền nghĩ: Tại sao ta không bán con bò này đi để mua được ba con dê, và loài dê lại dễ nuôi hơn bò. Sau khi có dê anh đã giết đi một con ăn thịt thỏa thích sau nhiều ngày chịu đựng đói khát. Hai con dê còn lại anh dự tính sẽ nuôi để chúng sinh sản và nếu mang dê con ra chợ bán sẽ kiếm được nhiều tiền.

Nhưng cặp dê lại không sinh sản, nên cuộc sống của anh vẫn bế tắc. Anh nghĩ: “Nếu cứ tiếp tục thế này thì không ổn. Sao ta không bán hai con dê này đi, rồi mua một đàn gà. Gà lại mau đẻ trứng và hằng ngày ta vừa có trứng ăn, lại có thể bán trứng lấy tiền chi tiêu thì chắc cuộc sống sẽ ổn định”.

 Nhưng rồi sau đó cuộc sống của anh vẫn không khá hơn. Vài ba ngày không có gì ăn, anh lại thịt một con gà. Cuối cùng đàn gà chỉ còn lại một con. Ước muốn làm giàu của anh nông dân hoàn toàn thất bại. Anh tự nhủ: “Ôi ! Làm giàu sao khó thế ! Thôi thì hôm nay ta đành đem con gà cuối cùng này đi bán, lấy tiền mua một bình rượu và uống rượu cho thoả thích rồi đành phó mặc tương lai cho ông trời vậy !
 

Hôm ấy đã sang mùa Xuân, ông phú hộ tốt bụng giữ đúng lời hứa với anh nông dân. Ông cùng một người đầy tớ, mang theo một bao hạt giống lúa mì đi đến nhà anh nông dân để giúp anh gieo trồng lúa đúng thời vụ. Nhưng ông rất thất vọng khi thấy anh ta không ra đồng làm việc, mà ngồi uống rượu giải sầu với đĩa dưa muối trước mặt. Con bò ông cho trước đây không thấy đâu. Trong căn nhà siêu vẹo vẫn trống trơn giống như mấy tháng trước đó.

  Ông phú hộ tốt bụng đành chịu bất lực và cùng người đầy tớ trở về nhà, mặc cho anh nông dân tiếp tục sống trong cảnh nghèo khổ như trước.

SUY NIỆM:  Rất nhiều người nghèo đã từng có cơ hội thoát nghèo, nhưng chính họ lại lười biếng không chịu làm việc, hoặc thiếu khôn ngoan và không quyết tâm vượt qua hoàn cảnh nên cuối cùng đành buông xuôi theo số phận.

    Trái lại, một nhà đầu tư thành công đã chia sẻ bí quyết làm giàu: “Lúc không có tiền, cho dù gặp nhiều khó khăn về tài chánh, nhưng tôi quyết tâm áp dụng phương pháp làm giàu như sau:

Luôn chăm chỉ làm việc và không mất thời giờ vào việc ăn chơi lãng phí.
Luôn chi tiêu tiết kiệm tiền bạc để khi có cơ hội là có thể đầu tư ngay.
Dù gặp khó khăn vẫn không chán nản nhụt chí, nhưng biết khiêm tốn học tập kinh nghiệm của những người thành đạt và kịp thời nắm bắt thời cơ…
nên cuối cùng tôi đã thành công và gây dựng được sự nghiệp lớn lao hiện nay”.

LỜI CẦU:  Lạy Chúa Giê-su. Xin cho chúng con ý thức về giá trị tích cực của đồng tiền như người đời thường nói: “Phú quý sinh lễ nghĩa; Bần cùng sinh đạo tặc !”. Cho chúng con không quá đề cao giá trị của đồng tiền như nhiều người đã nói: “Đồng tiền là Tiên là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng để che thân, là cán cân của công lý…

    Xin cho chúng con biết tín thác vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa… Nhất là xin cho chúng con đừng vì tiền mà bán rẻ lương tâm làm điều thất nhân ác đức như: buôn bán hàng cấm, sản xuất hàng giả lừa gạt người khác…tuy có đem lại cái lợi trước mắt, nhưng không được bền lâu và sẽ bị tác hại lâu dài. – AMEN.

CHA ĐA MINH ĐINH VĂN VÃNG,
BÚT HIỆU LM. ĐAN VINH, HHTM (HIỆP HỘI THÁNH MẪU)

From: Ngoc Bich  & KimBang Nguyen


 

ĐỀN THỜ TÂM HỒN – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Kỷ niệm ngày cung hiến Vương cung thánh đường Latêranô là dịp suy nghĩ về đền thờ đích thực, là chính thân thể Đức Giêsu Kitô (Ga 2,21).  Chính nơi đền thờ này, Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại.  Cũng chính nơi đền thờ này sự thờ phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa. 

  1. Giới thiệu Đền Thờ Latêranô

Vương cung Thánh Đường Thánh Gioan Latêranô là một trong những thánh đường đầu tiên được xây cất sau những cuộc bách đạo ban đầu.  Thánh đường được Hoàng Đế Constantinô xây và được ĐTC Sylvester thánh hiến năm 324.  Thánh Đường này tiếp tục là Nhà Thờ Chánh Tòa của Giám Mục Rôma, Đức Thánh Cha.  Thánh Đường này được gọi là ‘Mater Ecclesiae Romae Urbis et Orbis’, Mẹ của tất cả các thánh đường ở Rôma và trên thế giới. 

Năm 313, sau khi ra chiếu chỉ ở Milano cho Giáo hội được tự do hành đạo, Hoàng Đế Constantine cho xây đền thờ ở Laterano trong thời gian 313-318 để dâng kính Chúa Cứu Thế.  Thời Đức Giáo Hoàng Gregorio I (590-604) đền thờ được dâng kính cả Thánh Gioan Tẩy Giả và Thánh Gioan Tông Đồ.  ĐGH Lucio II đã ấn định tên đền thờ như hiện nay, Đền Thờ Thánh Gioan ở Laterano, năm 1144.  Từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 14, đền thờ này là trung tâm của giáo hội Roma, trụ sở và biểu tượng của Đức Giáo Hoàng. 

Như các đền thờ khác, Đền Thờ Thánh Gioan ở Laterano nhiều lần bị tàn phá, hỏa hoạn, hoang tàn sau hơn 73 năm vắng chủ khi giáo triều dời về Avignon, Pháp, được xây lại như ngày nay thời ĐGH Sisto V (1585-1590). 

Thánh đường dài 130m, có 5 gian.  Gian chính dài 87m, rộng 16m, có tượng 12 Thánh Tông Đồ bằng đá cẩm thạch trắng.  Bước vào đền thờ, bên phải có đàn phong cầm vĩ đại với hai ngàn ống.  Sau tòa giám quản có Giếng Rửa Tội (theo truyền thuyết, chính Hoàng Đế Constantine được ĐGH Silvestro rửa tội nơi đây).  Ngoài nhà thờ, bên hông trái, có tháp bút cao nhất (47m) và cổ kính nhất ở Roma bằng đá hoa cương đỏ của Ai Cập có từ thế kỷ 14 trước Chúa KiTô.  Là Mẹ của các nhà thờ và là nhà thờ chánh tòa của giáo phận Roma, đền thờ Thánh Gioan ở Laterano nhắc nhở các tín hữu “hồng ân rửa tội” với tất cả ý nghĩa của ơn này và mời gọi các tín hữu cảm tạ Thiên Chúa bằng chính cuộc sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. (x.BGCN 2008). 

2. Chúa Giêsu thánh tẩy đền thờ

 Đối với Do thái giáo, Lễ Vượt Qua là một đại lễ, tưởng niệm cuộc vượt qua Biển Đỏ tiến về Đất Hứa.  Lễ Vượt qua được tổ chức vào ngày 15 tháng Nissan, tức là tháng 4 dương lịch. 

Mọi người trong đất nước Palestin đều về Giêrusalem dự lễ.  Cả những người tản mác khắp thế giới không bao giờ quên tôn giáo, tổ tiên cũng về dự đại lễ quan trọng nhất này. 

Dầu sống ở xứ nào, người Do thái vẫn ước mơ và hy vọng được dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem ít nhất là một lần trong đời. 

Trong dịp này Chúa Giêsu cùng đi dự lễ Vượt qua với các môn đệ. 

Thuế Đền Thờ là một sắc thuế mà mỗi người Do thái từ 9 tuổi trở lên đều phải đóng.  Tiền thuế là ½ siếc-lơ, tương đương với 2 ngày công nhật. 

Trong việc giao dịch thương mại, mọi loại tiền đều co giá trị tại Palestin.  Nhưng tiền thuế Đền thờ phải nộp bằng đồng siếc-lơ Galilê hoặc siếc-lơ của Đền Thờ. 

Khách hành hương đến Đền Thờ phải đổi tiền siếc-lơ.  Vì vậy trong sân Đền Thờ có nhiều người làm nghề đổi tiền.  Tiền huê hồng khi đổi là ¼ ngày công cho 1 đồng.  4 đồng siếc-lơ thì người đổi được lợi một ngày công.  Do đó số tiền thuế Đền thờ và lợi tức đổi tiền thật là lớn. 

Điều khiến Chúa Giêsu nổi giận là khách hành hương phải chịu những tệ nạn của bọn đổi tiền bóc lột với giá cắt cổ.  Thật là bất công và càng tệ hơn nữa khi người ta nhân danh Tôn giáo để trục lợi. 

Bên cạnh bọn đổi tiền còn có một số người bán bò, chiên, bồ câu để khách hành hương mua làm lễ vật toàn thiêu.  Điều hết sức tự nhiên và tiện lợi là có thể mua đựơc các con vật ở sân Đền Thờ.  Luật quy định các con vật làm của lễ phải lành lặn không tỳ vết.  Có những chức sắc kiểm tra khám xét con vật.  Mỗi lần khám xét phải trả 1/12 siếc-lơ, không được mua vật ở ngoài Đền thờ.  Khốn nỗi, mỗi con vật mua trong đền thờ đắt gấp 15 lần ở bên ngoài.  Khách hành hương nghèo bị bóc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật.  Sự bất công này lại càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo. 

Chính vì những điều ấy đã làm Chúa Giêsu bừng bừng nổi giận.  Chúa lấy dây thừng bện thành roi đánh đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ.

 Trong Phúc âm hiếm khi ta thấy Chúa Giêsu nổi giận.  Ngài bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa; lặng lẽ trước những lời cáo gian buộc tội; xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh mình vì họ không biết việc họ làm.  Chính Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta học lấy nơi Ngài bài học hiền lành và khiêm nhường.  Vậy mà ở đây, Chúa đã nổi giận đùng đùng, lật tung bàn ghế, lấy dây thừng làm roi xua đuổi tất cả. 

Khung cảnh đền thờ phải là nơi yên tĩnh, thánh thiêng.  Thế mà nay lại ồn ào huyên náo, mua bán đổi chác, tranh giành, cãi cọ, đôi co như là một cái chợ buôn bán sầm uất.  “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16).  “Nhà của Ta là nhà cầu nguyện, còn các ngươi làm thành hang trộm cướp” ( Mt 21,12-13).  Chúa Giêsu thất vọng biết bao trong tiếng than thở ấy.  “Nơi buôn bán”, “Hang trộm cướp”, Đền thờ nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa, nay lại quá bất kính, quá bát nháo khiến Chúa Giêsu phải đau lòng.  Lời ngôn sứ Giêrêmia quở trách dân Do thái xưa đã nên ứng nghiệm ( x Gr 7,11). 

Thế là Chúa Giêsu thực hiện một cuộc thanh tẩy Đền thờ vì Ngài yêu mến Đền thờ.  “Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Tv 69,10).  Lòng nhiệt thành với Đền thờ sẽ dẫn Đức Giêsu đến chỗ bị người đời bách hại (x Ga 15,5). 

3. Tại sao Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ? 

– Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì nhà Thiên Chúa đã bị xúc phạm.

 Trong sân đền thờ có thờ phượng mà không có lòng tôn kính.  Thờ phượng mà không có lòng tôn kính là việc bất xứng.  Đó là việc thờ phượng hình thức chiếu lệ.  Trong sân Đền thờ người ta cãi vã về giá cả, tiếng ồn ào huyên náo tạo thành một cái chợ chứ không phải là Đền thờ. 

– Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ để chứng minh rằng việc dâng thú vật làm lễ tế không còn thích đáng nữa. 

Các ngôn sứ đã loan báo: “Đức Chúa phán, ngần ấy hy lễ của các ngươi đối với Ta nào có nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bê mập, Ta chán ngấy.  Máu chiên dê Ta chẳng thèm.” (Is 1,11).  “Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận” (Tv 50,16). 

Thái độ thanh tẩy Đền thờ của Chúa Giêsu chứng tỏ Chúa đòi hỏi lòng thành kính.  Lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa là tấm lòng chân thành. 

– Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì “Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện” 

Đền thờ là nơi Thánh, là chốn Thiên Chúa hiện diện tiếp nhận phụng tự của người dâng lễ và thông ban cho họ sự sống và các ân huệ của Người.

 Các chức sắc Đền thờ, các con buôn người Do thái đã biến Đền thờ thành nơi huyên náo, nổi loạn. Tiếng bò rống, tiếng chiên kêu, tiếng rao hàng, lời qua tiếng lại mặc cả, cãi cọ mua bán làm cho khách hành hương không thể cầu nguyện được. 

4. Xây dựng đền thờ tâm hồn. 

Chúa Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem.  Chúa muốn chúng ta thanh tẩy Đền thờ tâm hồn mình. 

Đền thờ tâm hồn không xây dựng bằng vật liệu cao cấp của các thứ kim loại, bằng những loại gỗ quý giá.  Đền thờ tâm hồn được xây bằng các bí tích, các việc lành thánh thiện, những hy sinh, lòng yêu mến Thiên Chúa.

 Trong Đức Kitô, chúng ta đã trở nên đền thờ sống động và đã được cung hiến ngày lãnh nhận phép Thánh Tẩy.  Thánh Phaolô minh định: “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong đền thờ ấy.”  Đó là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa dành cho mỗi tín hữu qua Đức Giêsu Kitô.  Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền thờ tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá, dù là gỗ thơm đá quý.  Bởi lẽ đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có xinh đẹp và đồ sộ như đền thờ Latêranô đi chăng nữa thì một ngày kia, cũng sẽ tiêu tan.  Không có đền thờ nào đẹp bằng đền thờ Giêrusalem.  Một công trình nguy nga tráng lệ xây cất ròng rã 46 năm.  Khi đi qua, các môn đệ tự hào chỉ cho Chúa Giêsu thấy sự huy hoàng của Đền thờ, nhưng Người lại nói rằng: sẽ có ngày không còn hòn đá nào trên hòn đá nào.  Khi người Do thái chất vấn: Ông lấy quyền nào mà làm như vậy?  Chúa Giêsu bảo: cứ phá Đền thờ này đi, trong 3 ngày Ta sẽ xây dựng lại.  Chúa ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của Người.  Đền thờ ở đây chính là thân thể Đức Giêsu mà mỗi người Kitô hữu là một viên đá sống động xây dựng nên đền thờ ấy.  Thân thể phục sinh của Chúa là đền thờ mới, nơi con người thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực, trong tinh thần và trong chân lý.  Chỉ có Thân thể Chúa Kitô và tâm hồn chúng ta mới là đền thờ vững bền. 

Kỷ niệm ngày cung hiến Vương cung thánh đường Latêranô là dịp suy nghĩ về đền thờ đích thực, là chính thân thể Đức Giêsu Kitô (Ga 2,21).  Chính nơi đền thờ này, Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại.  Cũng chính nơi đền thờ này sự thờ phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa.  Quả thế, Thánh Linh đã phục sinh thân thể Đức Giêsu.   Chúa Cha đã đặt Người làm Trung gian duy nhất để chuyển cầu cho nhân loại (x. 2 Tm 2:5; Dt 9:15; 12:24).  Tất cả mọi giá trị và ý nghĩa của vương cung thánh đường Latêranô cũng như mọi thánh đường khác đều phải bắt nguồn từ đền thờ này.  Thật vậy, “không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô.” (1Cr 3,11).  Máu và nước từ cạnh sườn Đức Giêsu tuôn chảy như giòng sông.  “Sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống.” (Ed 47,9).  Người được phúc đón nhận sự sống đó là Kitô hữu.  Vì họ là “thân thể Đức Kitô.” (2 Cr 12, 27).  Bởi đó, họ cũng là “Đền Thờ của Thiên Chúa.” (1 Cr 3,16).

 Lạy Chúa Giêsu Kitô,

Chúa đã đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ vì họ đã đem đền thờ biến thành nơi buôn bán, đổi chác.  Xin Chúa xua đuổi nhưng thói hư tật xấu ra khỏi tâm hồn chúng con, để tâm hồn chúng con xứng đáng là đền thờ sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị.  Amen. 

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

From: Langthangchieutim


 

LÒNG TRẮC ẨN….!

Xuyên Sơn

LÒNG TRẮC ẨN….!

Có một cụm danh từ rất hay trong tiếng Việt mà ở thời đại này không mấy khi được sử dụng nữa…!

Đó là “lòng trắc ẩn”.

Trắc ẩn, tức là những gì cảm nhận được những điều mắt không thể thấy, tai không thể nghe…

Nếu bạn bắt được một đứa bé ăn cắp hai ổ bánh mì vì quá đói, thay vì bỏ tù nó, bạn chỉ cho nó đến xin làm việc ở đâu đấy, đưa lại cho nó một ổ để ăn cầm hơi qua cơn đói, rồi dặn nó cả đời tuyệt đối không bao giờ được làm những việc như trộm cắp nữa…

Nếu bảo vệ cửa hàng sách bắt gặp một trẻ con ăn cắp và dấu cuốn sách, thay vì báo cảnh sát hay cha mẹ đứa bé…, bảo vệ “có thể” không thấy hay cho tiền để mua cuốn sách.

Biết đâu sau này, lòng đam mê đọc sách và những lời dặn dò đừng trộm sách sẽ giúp đứa trẻ trở thành người thành đạt.

Đó là lòng trắc ẩn…!

Câu chuyện Edison thuở nhỏ đã dạy các bạn học cách đánh morse để “qua mặt” thầy Hiệu trưởng khiến bị đuổi học khỏi trường.

Người mẹ thương xót cho con đã dời nhà đi để tìm trường cho con học.

Và Edison đã trở thành nhà bác học vĩ đại của nhân loại với hơn một ngàn phát minh đem hữu ích cho mọi người…!

Đó là lòng trắc ẩn của người mẹ…!

Người có lòng trắc ẩn, chính là người có tấm lòng bao dung, biết đặt mình vào hoàn cảnh của người khác, cảm thông cho nỗi khổ của họ.

Nếu con người không có lòng trắc ẩn, thì cũng sẽ không có những thứ như nhân cách, hay tình thương giữa người với người….!

“Lòng trắc ẩn” cũng là con đường đi trong cuộc sống, là cái chủ đích để đạt được ” cái thứ cao nhất mà người xưa coi là nếu có được thì sẽ có cả thiên hạ và lòng người-đắc nhân tâm…!

Vậy muốn được “lòng trắc ẩn” con người cần có điều gì..?

Chính là Nhân-Văn…!

*Nhân là người hướng thiện, bao dung và có trái tim quãng đại…!

*Văn là phát triển chủ yếu hai việc: một là khả năng trắc ẩn, hai là kỹ năng diễn đạt hành động.

Trước đây, Văn là công cụ duy nhất để một người được đặt mình vào trong cuộc đời của rất nhiều người khác và học những bài học làm người từ những người đó…!

Hôm nay, ngoài Văn thì đã có điện ảnh, Internet, các phương tiện nghe nhìn,…

Do đó, Văn không còn là phương tiện duy nhất nữa…!

“Lòng trắc ẩn” là công cụ và là phượng tiện giúp con người gần nhau hơn, biết chia sẻ, giúp đỡ và cưu mang cho nhau…!

“Lòng trắc ẩn” không chỉ là cảm thấy tiếc nuối, đau buồn hay thương hại người khác.

“Lòng trắc ẩn” cũng không có nghĩa là bạn phải chấp nhận mọi đau khổ của thế mọi người vào tâm trí bạn.

“Lòng trắc ẩn” là cảm giác hòa hợp với tâm trạng của người khác và có ý định hành động để giảm bớt đau khổ hay chia sẻ niềm vui với người ấy…

“Lòng trắc ẩn” đơn giản chỉ là dấu hiệu, biểu hiện của tâm từ bi nhân ái….!

Một câu nói thật hay:

“Tình yêu thương từ trái tim sẽ nhận lại lại vô vàn yêu thương của những trái tim…!”

Đó chính là “LÒNG TRẮC ẨN…!”

(sưu tầm)


 

Hãy Im Lặng !!!

Hãy Im Lặng !!!

  1. Im lặng – trong cơn nóng giận.
  2. Im lặng – khi bạn không có đầy đủ thông tin.
  3. Im lặng – khi bạn chưa kiểm chứng được câu chuyện.
  4. Im lặng – nếu lời nói của bạn làm mất lòng một người yếu đuối hơn.
  5. Im lặng – khi đến lúc cần lắng nghe.
  6. Im lặng – khi bạn bị cám dỗ xem thường những điều thánh thiện.
  7. Im lặng – khi bạn bị cám dỗ nói đùa về tội lỗi.
  8. Im lặng – nếu sau này bạn phải xấu hổ vì lời nói của mình.
  9. Im lặng – nếu lời nói của bạn gây ra ấn tượng sai lầm.
  10. Im lặng – nếu vấn đề không liên quan đến bạn.
  11. Im lặng – khi bạn bị cám dỗ nói dối trắng trợn.
  12. Im lặng – nếu lời nói của bạn làm tổn hại đến danh tiếng của người khác.
  13. Im lặng – nếu lời nói của bạn làm tổn hại đến tình bạn.
  14. Hãy im lặng – khi bạn cảm thấy bị chỉ trích.
  15. Hãy im lặng – nếu bạn không thể nói ra mà không hét lên.
  16. Hãy im lặng – nếu lời nói của bạn sẽ phản ánh không tốt về bạn bè và gia đình bạn.
  17. Hãy im lặng – nếu sau này bạn có thể phải hối hận.
  18. Hãy im lặng – nếu bạn đã nói điều đó nhiều hơn một lần.
  19. Hãy im lặng – khi bạn bị cám dỗ nịnh hót một kẻ xấu.
  20. Hãy im lặng – khi đáng lẽ bạn phải làm việc!!

“AI GIỮ MIỆNG LỬA MÌNH THÌ GIỮ LINH HỒN MÌNH KHỎI RỐI LOẠN”

From: Tu-Phung

Về Những Trang Sách của Ông Vương Hồng Sển

13/11/2010

  • Nguyễn Hoàng

Về Những Trang Sách của Ông Vương Hồng Sển

Trong Thay Lời Tựa cho cuốn Hơn Nửa Đời Hư, in năm 1992, ông Vương Hồng Sển cho biết ông có tánh ham mê đọc sách từ nhỏ. Ông gọi “sách là bạn cố tri trung thành”, ông coi cuốn sách là của riêng, “y như vợ nhà, và nếu thuở nay không đời nào ai cho mượn vợ, thì xin các bạn hiểu giùm vì sao tôi ít cho mượn sách.” Bởi vì chính ông, ông cũng không bao giờ mượn sách của ai, lý do theo ông, sách mượn phải đọc hối hả để mau trả, mà đọc hối hả thì mất thú. Khi nào lựa được một cuốn sách hay thì giá nào ông cũng phải mua cho bằng được. Ông viết: “Khi đọc và lúc cao hứng, tôi thường ghi lại bên lề trang sách những cảm tưởng nhứt thời, không khác được tỉ tê tâm sự với một bạn cố giao bằng xương bằng thịt.”

Về cách đọc sách, ông cho biết ông đọc chậm rãi, không tiếc thì giờ bỏ ra cho việc đọc sách. Nhưng cũng có khi ông đọc “ngấu nghiến còn hơn bồ câu ra ràng nuốt mồi không kịp đút,… y như chó gặm xương, như mèo mới sanh được mẹ nhường mồi dạy ăn, vừa ngừ nghè sợ mất mồi, vừa gầm gừ tiếng rên nho nhỏ vì khoái trá và vì sợ miếng ngon chóng hết hoặc anh chị nào đồng lứa sắp giựt phỏng trong mồm.” Ông viết “cũng vì tật ham đọc sách hay, đọc quên ăn, quên ngủ, thậm chí có khi quên cả phận sự buồng the, cho nên chỉ tồn đã hai phen bị giựt vợ, bị cắm sừng mà không tởn.” [Sđd. Tr 7]

Ông Vương Hồng Sển có thú chơi sách đặc biệt. Mỗi khi có một cuốn sách mới xuất bản mà ông quan tâm, ông luôn luôn mua 2 cuốn. Ông đánh số và ghi vào sổ bộ hẳn hoi, theo cách thức của thư viện, để dễ tra cứu. Một cuốn để lưu trữ, trưng bày trong hàng chục tủ sách đặc biệt có cửa kính, để giữ cho cuốn sách luôn mới. Còn cuốn thứ hai thì ông dùng để đọc. Mọi người thường ngồi ghế hoặc nằm trên giường, trên ghế trường kỷ, ghế sô-pha để đọc sách. Riêng ông Vương có thói quen nằm võng đọc sách. Ông nói, vừa đu đưa chiếc võng, vừa đọc sách, vừa nghiền ngẫm, ông cảm thấy là rất thú vị.

Ông Vương lưu trữ gần đủ các ấn bản Truyện Kiều của Nguyễn Du, in ở trong nước và ở nước ngoài, kể cả các bản dịch ra tiếng ngoại quốc. Cuốn Thú Chơi Sách của ông xuất bản năm 1962 liệt kê có tất cả 26 ấn bản Truyện Kiều đang được lưu trữ tại “thư viện” của ông vào năm đó.

Ông có thói quen đánh máy các bản thảo với cái máy chữ cũ kỹ sắm hồi thời Tây. Ông ít khi viết nháp bằng tay.

*****

Có thể nói, ngoài việc mê sách, chơi sách, ông Vương Hồng Sển còn là người chịu khó sưu tập những bài báo và các tài liệu liên quan đến những nhân vật đã nổi tiếng và chưa nổi tiếng mà ông quan tâm. Ông mở một hồ sơ cá nhân cho mỗi người. Khi cần tiểu sử, thành tích và sự nghiệp của một người nào đó thì ông có tài liệu ngay tại nhà. Từ nhiều năm, ông sưu tầm và thâu thập những phương ngữ Miền Nam, mỗi từ ghi chép vào một phiếu cứng, xếp theo thứ tự ABC. Nhờ vậy mà khi ông qu‎yết định biên soạn cuốn Tự Vị Tiếng Việt Miền Nam thì công trình của ông xem gần như hoàn tất.

Trong cuốn Hơn Nửa Đời Hư, ông Vương thổ lộ đời của ông, cái gì cũng cũ, cũng vá víu, cũng tạm bợ: nhà, thì mua xác nhà cũ, sửa chữa lại, nhưng ở cho đến nay; vợ thì chắp nối, mà ăn đời ở kiếp. Về sách vở, đĩa hát và đồ cổ, … thì càng đúng hơn. Ông viết:

“Đồ cổ, xem lại hết sức chung tình với tôi. …. Mua tháng này một cái dĩa mồ côi. Vài ba tháng sau, năm khi mười họa, gặp, mua cái chén lẻ bộ, lần hồi bỗng hoá ra đủ bộ: dầm, bàn, tống, tốt. Dầm: dĩa nhỏ; bàn: dĩa lớn; tống: chén lớn để dầm trà; tốt hay quân: chén để uống trà. Duyên may không hẹn, nghệ thuật chơi đồ cổ là nghệ thuật vá víu…

Còn sách, những cuốn nào ưng bụng, toàn là sách sưu tập đắt tiền, cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa, đùng một cái, sách bị liệt vào loại giữ trong nhà có tội. Thôi thì gạt nước mắt, ký cô thác tử, còn có nước đem gởi nó cho người ta cất giữ, mấy lúc canh khuya nhớ sách muốn có để đọc chơi vài trang, thì sách nó ở xa mấy cây số ngàn, cầm bằng “liều con như trong tháng đứt nôi”. Còn lại mấy cuốn hợp lệ “cho phép để trong nhà”, xem đi xem lại, đó là sách toán, sách dạy nấu ăn, thế thì hãy theo Chệc ve chai, ở đây chi chướng mắt.

Còn lại những cuốn kia: ôm về từ Paris từ năm 1963; cắp ca cắp củm giấu kỹ. Toàn là sách in ở Hà Nội, xuất bản do nhà Khoa học, Sử học, Văn hoá ngoài ấy. Xưa chúng là quí, là hiếm có, là quốc cấm. Giữ được mới là tài. Nay chúng bây thuộc loại hợp lệ, ai ai cũng có, tao giữ bây làm chi? Một ngày nào túng tiền, tao sẽ gã chúng bây cho Chệc ve chai, rồi tao sẽ khóc, vì không có sách làm sao tao sống? Đã nói, tao là thằng không làm hôn thú với người vợ chung tình, và từ lúc nếm mùi tân khổ, tao ghét những gì hợp lệ…”* [sđd, tr. 655-656]

Tôi thích sự thành thật của ông Vương. Nó cho thấy đời ông gắn liền với những gì xưa, cũ và «bất hợp lệ…”.

Trong cuốn Sài Gòn Tạp Pín Lù, ông Vương viết: “…Sài Gòn Năm Xưa là sách viết để chạy gạo, để kiếm cơm, vì năm xưa ấy, vô làm công nhựt trong viện bảo tàng sở thú, lương ít quá, không đủ nuôi vợ con, nên buộc phải viết, chớ dám thề độc, không lòng lên mặt ‘khảo cứu’ chút nào. Bây giờ, biết lại, hối quá, nhưng đã trễ rồi. Từ ngày có bậc đàn anh vô đây giải phóng, bảo Sài Gòn Năm Xưa viết không khoa học, không trật tự, và thường hay lập đi lập lại nhiều lần, nhiều đến không biết bao nhiêu mà đếm.” (Biểu viết lại, nhưng biết sống bao lâu mà làm?) – (Sđd tr. 95).

Thật ra, ai đọc những trang sách của ông Vương – bất cứ cuốn nào, chứ chẳng riêng gì cuốn Sài Gòn Năm Xưa – đều thấy ông Vương đúng là người viết “không khoa học, không trật tự, và thường lập đi lập lại”,…. Trong mục Tác giả, năm 1983, tự nhận lỗi và tự phê bình (sđd tr. 94), ông Vương biện minh rằng bản tánh ông xưa nay “không gò gẫm, không ‘hành văn’ và chỉ viết như nói thôi. »

Nói là tự nhận lỗi, nhưng thật ra là ông Vương tự biện minh. Và rõ ràng, càng biện minh ông càng cho thấy ông coi thường người đọc khi ông viết: «Nói thì phải nói đi nói lại, có vậy hoạ may lời nói sẽ in sâu vào tai người nghe, và lập lại là sự thường, khó tránh và cũng ‘cố tình không muốn tránh’.”

Sự khiêm tốn của ông Vương có một, nhưng lòng kiêu căng của ông có tới mười. Trước 1975, tôi có đôi lần gặp ông Vương. Và mặc dù không thích cách viết của ông, tôi vẫn luôn bày tỏ lòng kính trọng ông. Tôi không thích cách viết của ông: dài dòng, lê thê, đầy tĩnh từ và lập lời lập ý như một bà già khó tính khi dạy dỗ la rầy con cháu! Tôi thường bỏ giữa chừng những trang sách của ông. Tôi nghĩ, – và có lúc đã nói với anh Trần Phong Giao là nếu ông Vương cho phép tôi biên tập những cuốn sách của ông – ví dụ cuốn Sài Gòn Năm Xưa, 330 tr., tôi có thể viết gọn lại chừng 200 tr. mà không sợ phản bội tác giả. Trần Phong Giao đồng ý, nhưng anh nói, cậu không nên đụng vào ông ấy, đến như ông Nguyễn Hiến Lê mà còn bảo hãy đứng xa ông Vương ra một bước! Liệu cái thần hồn cậu! Tôi kể lại chuyện này chỉ muốn nói một điều, người đọc sách Sài Gòn dù trân trọng kiến thức [về hiểu biết của một “người chơi cổ ngoạn”] của họ Vương, vẫn nhận ra tính chất thiếu khoa học, vô trật tự và sự lập đi lập lại nhiều lời với chỉ một ý… của ông, chứ không cần phải chờ đến sau tháng Tư 1975, “Từ ngày có bậc đàn anh vô đây giải phóng…” mới nhận ra điều ấy nơi ông.

Ông không thể coi thường những người đọc sách ông trong nửa miền Nam của đất nước trước đây. Người đọc yêu mến tài năng “khảo cổ” của ông, quý phục kinh nghiệm trường đời của ông, kính trọng tuổi tác của một bậc lão thành trong làng văn trận bút của ông… nhưng điều đó không có nghĩa là người ta không nhìn ra sự lê thê, luôm thuộm, rề rà, không trong sáng trong bút pháp của ông. Dù sao, tôi nghĩ, nên đọc những trang sách của ông Vương với một nụ cười.

Hy vọng được nghe nhiều tiếng nói khác của người đọc chúng ta. [NXH]

* Ông Vương Hồng Sển là hậu duệ người Trung Hoa, lưu dân Triều Châu, đến định cư tại Miền Nam Việt Nam từ cuối thế kỷ 17. Ông sanh tại Sốc Trăng [chữ Sốc Trăng, ông Vương luôn viết có dấu ^] ngày 27 tháng 9 âm lịch, Nhâm Dần (1902), nhưng trên giấy thế vì khai sanh được ghi ngày 4-11-1904. Tên của ông theo tiếng Hán-Việt là Vương Hồng Thịnh. Người Hoa đọc Thịnh là Sển. Trong đơn xin thi thiết lập giấy thế vì khai sanh, gia đình ghi là Vương Hồng Sển.

Năm 1923, ông Vương tốt nghiệp trường trung học Chasseloup Laubat tại Sài Gòn. Ra trường, ông làm công chức tại nhiều nơi, Sài Gòn, Sốc Trăng, Cần Thơ. Chức vụ cuối cùng trong đời công chức của ông là quản thủ bảo tàng viện Blanchard de la Brosse (trong khuôn viên Thảo cầm viên Sài Gòn) từ năm 1948 đến 1964.

Ông Vương Hồng Sển từ trần ngày 9-12-1996 tại Sài Gòn, hưởng thọ 92 tuổi, được an táng tại Sốc Trăng.

Ông đã sống gần trọn chiều dài của thế kỷ 20 và là tác giả của một số tác phẩm tiêu biểu:

– Sài Gòn Năm Xưa, in lần đầu 1960 [226 tr.], tái bản năm 1969 [328tr.]
– Thú Chơi Sách, 1960 [167tr.]
– Hồi Ký 50 Năm Mê Hát, 1968 [254tr.]
– Phong Lưu Cũ Mới, 1970 [310 tr.]
– Chuyện Cười Cổ Nhân, 1971 [253 tr.]
– Hiếu Cổ Đặc San, gồm 9 cuốn về đồ sứ men lam Huế, 1970-1972, nhưng chỉ in được có 6 cuốn.
– Hơn Nửa Đời Hư, 1992 [684 tr.]
– Sài gòn Tạp Pín Lù, 1992 [160 tr.]
– Nửa Đời Còn Lại, 1996 [434 tr.]
– Tự Vị Tiếng Việt Miền Nam, 1994.

https://www.voatiengviet.com/a/sach-cua-vuong-hong-sen-11-13-2010-107813559/916917.html


 

Nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ cuộc đời và tác phẩm

– Nguyễn & Bạn Hữu

July 10th, 2020

Nguyễn Thị Thụy Vũ tên thật là Nguyễn Thị Băng Lĩnh, sinh năm 1937 tại Vĩnh Long, là một nhà văn miền Nam. Nhà văn Ngô Thị Kim Cúc nhận định: Trong 5 nhà văn nữ nổi tiếng nhất của miền Nam thời kỳ trước 1975, có ba người gốc Huế: Túy Hồng, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng. Người thứ tư gốc Bắc di cư: Trùng Dương. Chỉ có Nguyễn Thị Thụy Vũ là dân Nam bộ rặt. Văn chương của bà cũng đặc sệt chất Nam bộ, từ ngôn phong, từ ngữ sử dụng cho tới lời ăn tiếng nói, tính cách, hành vi của các nhân vật.

Năm 1965 bà lên Sài Gòn dấn thân vào nghiệp viết văn, bên cạnh đó còn kiêm việc dạy tiếng Anh cho những cô gái bán bar hoặc lấy Mỹ.

Trong 10 năm từ 1965 đến 1975, Thụy Vũ đã xuất bản 10 tác phẩm gồm 3 tập truyện ngắn: Mèo đêm, Lao vào lửa, Chiều mênh mông; và 7 tiểu thuyết: Ngọn pháo bông, Thú hoang, Khung rêu (Giải thưởng Văn học Toàn quốc năm 1971), Như thiên đường lạnh, Nhang tàn thắp khuya, Chiều xuống êm đềm, Cho trận gió kinh thiên.

Sau 1975, Nguyễn Thị Thụy Vũ không thể tiếp tục cầm bút do tác phẩm bị quy là đồi trụy, bà phải bươn chải với những công việc khác để nuôi đàn con, trong đó có một người sống đời thực vật. Bà từng buôn bán vặt, làm lơ xe đò, làm rẫy, chăn dê, trồng cà phê… những công việc mà trước đó không ai hình dung nhà văn nữ này có thể kham được.

Hiện nay đời sống của bà tương đối ổn định khi bà về Bình Phước dựng nhà trên mảnh đất cha mẹ để lại. Ðó là sau khi bà nhận được sự giúp đỡ từ những bạn văn cũ qua bài viết của một bạn văn mô tả cuộc sống lây lất khốn khó của mấy mẹ con, vào đầu thập niên 2000. Bà đang sống với gia đình con trai, là một người tu tại gia chuyên việc hộ niệm, và cùng với họ là cô con gái út ngoài bốn mươi tuổi vẫn sống đời thực vật.

Nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ

Về cha của các con bà, nhà thơ Tô Thuỳ Yên, bà cho biết: Ổng đi học tập cải tạo. 13 năm ổng đi học tập, tôi có đi thăm ông một lần duy nhứt. Sau đó ổng đi Mỹ với gia đình… (theo NT Kim Cúc)

Về chi tiết này, nhà văn Nguyễn Văn Sâm trong một bài viết nhan đề “Thụy Vũ: Mỉm cười với nghiệt ngã” ghi nhận: Tôi chợt buột miệng hỏi, rồi lại hối hận đáng lẽ không nên hỏi, về nhà thơ tác giả bài Ta Về, Anh Hùng Tận, chị không một thay đổi sắc mặt hay bất bình, trả lời như chuyện của người khác: ‘Ổng gọi về nhiều lắm nhưng mà không có nói chuyện với tôi, nói chuyện cả giờ với con dâu.’ Tôi nghe tiếng ổng liền nhớ đến biết bao nhiều lần trong truyện ngắn như là tự truyện chị dùng thiệt nhiều lần từ tía sắp nhỏ vừa thương mến vừa xót xa vừa cách phân.

Nhà văn Ðoàn Dự cũng cho biết:

Nói chung, về tình trạng của chị Thụy Vũ hiện nay, chị có 3 người con thì cháu Khôi Hạnh lấy chồng ở Long An, đời sống êm ấm, hạnh phúc nhưng vì đông con nên cũng không giúp gì được cho mẹ. Cháu Khôi Hạo đã có gia đình, có một con trai, trước đây làm nghề nuôi cá cảnh để bán và viết văn theo cái “gien” của bố và mẹ, cũng kiếm được đồng tiền nhưng không hiểu sao tự nhiên cháu đi tu (Phật giáo), để vợ con cho mẹ lo. Còn cháu thứ ba, Khôi Thụy, thì vẫn sống đời sống thực vật, u mơ không biết gì hết như cũ. Năm nay chị Thụy Vũ đã 78 tuổi, tất cả sự sống gia đình đều trông mong vào mấy con cá kiểng do vị “tu sĩ Phật giáo” truyền lại cho mẹ và mỗi tháng 100 đô-la do cháu Ðinh Quỳnh Giao, bác sĩ bên Mỹ, con gái của anh chị Tô Thùy Yên gửi về giúp đỡ. Cháu Ðinh Quỳnh Giao rất thương xót đứa em cùng cha khác mẹ tên Nguyễn Khôi Thụy đang nằm liệt giường. (Trích theo Phan Nguyên)

Một điều an ủi cho Nguyễn Thị Thụy Vũ là những sách của bà (10 cuốn) đã được nhà Phương Nam tái bản: Tất cả đều là sách đã in tại Sài Gòn trước 1975, đây có thể xem là toàn bộ sự nghiệp văn chương của bà, đã được Công ty Sách Phương Nam mua tác quyền: Lao vào lửa, Khung rêu, Nhang tàn thắp khuya, Thú hoang, Mèo đêm, Chiều mênh mông, Chiều xuống êm đềm, Như thiên đường lạnh, Ngọn pháo bông, Cho trận gió kinh thiên…

Ðược hỏi bà cảm thấy thế nào khi tất cả tác phẩm trước năm 75 đều đã được tái bản. Nguyễn Thị Thụy Vũ thành thật trả lời: “Tôi rất vui. Sách in đẹp, tất cả lỗi chính tả đều được sửa rất kỹ. Tôi thấy mình thật may mắn khi nhận được sự giúp đỡ từ rất nhiều bè bạn, cả bạn cũ và bạn mới. Tôi xin cảm ơn cuộc đời và bè bạn…”

Tất nhiên là chúng ta cùng chia sẻ niềm vui với nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ. Nhân đây cũng xin trình bày rõ thêm về những nỗi vất vả và khổ đau vô cùng tận cùng những may mắn dù có hơi trễ muộn trong đời nhà văn.

Thụy Vũ tâm sự với nhà báo Ngô Thị Kim Cúc:

“Cuộc sống sau ‘giải phóng’ vô cùng khó khăn. Tui một mình nuôi bầy con nheo nhóc, có đứa bị thiểu năng nằm một chỗ. Tui phải để nó cho mấy đứa lớn cho ăn, chăm sóc còn mình thì đi làm thuê bán vé xe bus cho một người bạn.

“Xe chạy tuyến Thủ Ðức – Sài Gòn, từ sáng đến tối mịt mới về nhà. Về đến nhà thấy con cái đứa thì nằm ngủ trên vũng nước đái, đứa lêu lổng đi chơi không cho em ăn… nhìn cái cảnh đó tui muốn chết đi cho rồi. Khó khăn quá, năm 1980 tui bồng bế tụi nhỏ về Bình Phước nương nhờ má cho đến bây giờ,” bà kể.

Xưa tui bỏ nó ở nhà đi làm báo, nó bị té, ảnh hưởng não nên nằm một chỗ đến giờ, vậy mà giờ nó nuôi tui bằng tiền từ thiện bạn bè, các nhà hảo tâm thương tình giúp đỡ…”

Làm nhiều nghề kiếm sống nuôi con, từ chăn dê, buôn bán, trồng tiêu… cây bút nữ dấn thân nhất của văn đàn miền Nam trước 1975 đã không còn viết gì nữa kể từ sau “giải phóng”. Bà kể: “Ổng (tức, Tô Thùy Yên) thì theo gia đình vợ con ổng đi sang Mỹ, có đời sống riêng. Tui làm đủ nghề lo cho con.

“Ba đứa con tui cũng thành nhân, yên bề gia thất. Có một thằng làm thơ, người ta nói nó có chịu ảnh hưởng của cha nó. Nhưng mấy con tui, đứa nào cũng nghèo, chẳng giúp gì được mình. Tui sống nhờ đứa con bị tàn tật.

Người mô tả về xã hội bên lề Sài Gòn khốc liệt một thuở lại cũng chính là người chịu đựng những hệ lụy mà chiến tranh để lại.

Trở lại văn đàn trong nước sau gần nửa thế kỷ, trong bối cảnh sách vở văn chương đang ở vào một giai đoạn hỗn loạn và phân hóa mạnh mẽ, thì tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ minh chứng rằng, những gì là chân giá trị sẽ không bị phủ lấp dưới bụi thời gian và những định kiến.

Xin được cảm thông với bao nỗi đời nghiệt ngã của nhà văn và mừng bà bước vào giai đoạn gọi là yên vui của cuộc đời. Tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ chắc chắn sẽ còn sáng mãi với thời gian.

NGUYỄN & BẠN HỮU – tổng hợp


 

CHỈ CẦN LẶNG YÊN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai!”.

Mỗi khi ngã quỵ, bạn đừng quên Thánh Vịnh 46, 11, “Hãy lặng yên và biết rằng, Ta là Chúa!”. Cuối đời, Hudson Taylor, yếu đến mức thều thào, “Tôi yếu đến độ không thể cầu nguyện, không thể đọc Thánh Kinh. Tôi chỉ có thể lặng yên trong tay Chúa, đợi Ngài vác về!”.

Kính thưa Anh Chị em,

“Đợi Ngài vác về!”. Lời cuối của Taylor cũng là chi tiết mà chỉ một mình Luca có trong dụ ngôn Chiên Lạc với những tình tiết thật ly kỳ! Nào ‘người đó vui mừng vác trên vai, đem về nhà’; ‘mời bạn bè, hàng xóm’ chung vui; và nhất là, ‘giữa triều thần, ai nấy vui mừng!’. Phần con chiên, nó ‘chỉ cần lặng yên!’.

Con số “99” biểu tượng cho những ai đã thuộc về Vương Quốc – đại diện cho triều thần thánh; con chiên lạc đại diện cho toàn thể nhân loại, và đại diện cho từng con người lạc lối. Người Chăn Chiên, chính Chúa Giêsu, luôn tìm kiếm một nhân loại sa ngã; trong đó, có bạn và tôi – mỗi người lạc mỗi cách, mỗi kiểu – để vác về. Ngài không đi tìm chiên vì tiếc của hay giận giỗi, nhưng chỉ vì quan tâm và xót thương. Về phần chiên, đừng nổi loạn, nó ‘chỉ cần lặng yên’, vì “Đôi khi điều thiêng liêng nhất bạn có thể làm là nghỉ ngơi!” – Craig Groeschel.

Thông thường, chúng ta có thể rơi vào cạm bẫy khi nghĩ rằng, tôi phải tìm đường trở lại với Chúa bằng những nỗ lực riêng; nhưng sự thật là, Thiên Chúa luôn ngược chiều, Ngài hối hả, dáo dác dõi mắt tìm kiếm mỗi người. “Ân sủng tìm thấy ta ở nơi ta đang ở, nhưng không để ta nguyên chỗ ấy!” – Max Lucado. Thánh Vịnh đáp ca hôm nay nói, “Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban!”. Ân lộc Chúa ban là niềm tin của người để Chúa kiếm tìm và vác về giữa quãng đường còn xa. Như vậy, “Dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa” – bài đọc một. Vậy thì còn phải lo chi? ‘Chỉ cần lặng yên’ để Ngài bước tiếp phần đường của chính mỗi người. “Ân sủng là sức mạnh dịu dàng vác ta về nhà khi đôi chân ta không còn bước nổi!” – John Stott.

Anh Chị em,

Như vậy, ‘chỉ cần lặng yên’ không phải là buông xuôi, nhưng là để cho ân sủng hành động. Khi con người thôi vùng vẫy, Thiên Chúa mới có thể ôm lấy và vác về. Chính trong bất lực, chúng ta chạm đến quyền năng cứu độ của Chúa. “Ân sủng tuôn tràn mạnh nhất qua những vỡ vụn của con người!” – Philip Yancey. Vì thế, lặng yên không là trốn chạy, mà là tin rằng, Ngài biết đường về. Như chiên yên ắng trên vai Mục Tử – không cựa quậy, đạp chọi – nó không biết, đó chính là giây phút cứu độ của nó. Nói cách khác, khi linh hồn đã kiệt sức, chẳng còn cầu nguyện, chẳng còn suy tư, chỉ còn lặng yên trong Chúa, thì đó không phải là thất bại, mà là điểm chạm giữa ân sủng và sự bất lực. Ở đó, ơn cứu độ bắt đầu! “Đôi khi Thiên Chúa để bạn chạm đáy, để bạn khám phá ra Ngài chính là Đá Tảng nơi đáy sâu ấy!” – Tony Evans.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con không xin sức mạnh, chỉ xin ơn bình an, để khi Ngài băng qua sa mạc lòng con, con đủ tin để không cựa quậy, và để Ngài làm phần còn lại!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

*************************************

Lời Chúa Thứ Năm Tuần XXXI Thường Niên, Năm Lẻ

Trên trời ai nấy sẽ vui mừng, vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.     Lc 15,1-10

1 Khi ấy, các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng. 2 Thấy vậy, những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau : “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” 3 Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này :

4 “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất ? 5 Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. 6 Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói : ‘Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó.’ 7 Vậy, tôi nói cho các ông hay : trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.

8 “Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được ? 9 Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói : ‘Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất.’ 10 Cũng thế, tôi nói cho các ông hay : giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.”


 

KHOẢNG TRỜI XÁM

Luân Lê

KHOẢNG TRỜI XÁM

Sau 5 ngày cấp cứu, nam sinh lớp 10 tử vong sau khi bị nhóm bạn đánh hội đồng; trước đó nữa thì một nam sinh lớp 11 đâm chết kẻ truy đuổi mình từ nhóm học sinh lớp trên đang tìm cách quây đánh; và giờ đây một nữ sinh lớp 8 bị đánh gãy 3 xương sườn sau bởi một nhóm bạn kéo vào nhà vệ sinh tấn công dữ dội, trong khi nhiều bạn nam đứng nhìn rất đông xung quanh mà không ai can ngăn hay có hành động nào đáng kể để bảo vệ nạn nhân cũng như ngăn chặn sự côn đồ của đám bạn thủ phạm.

Làm sao có thể nói hết về nỗi bất hạnh này, khi nó hoàn toàn vượt qua tính gia đình hay cá thể đơn lẻ, nó trở thành một tình trạng ngày càng lan rộng, mang tính giáo dục và nền tảng xã hội sâu sắc trước hành vi và tính hậu quả của nó. Không thể hình dung được rằng điều gì đang xảy ra với những thế hệ trẻ măng đang mặc những tấm áo trắng tinh thế này? Tương lai như một bầu trời giăng đầy mây xám vậy. Thực sự đáng lo và buồn thảm quá.


 

Nữ ‘đại gia,’ vợ ca sĩ nổi tiếng, lừa đảo 26,000 người, thu hơn $346 triệu

Ba’o Nguoi-Viet

November 4, 2025

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Nữ tổng giám đốc công ty Bất Động Sản Nhật Nam ở Hà Nội, được biết đến là vợ của một nam ca sĩ nổi tiếng, bị cáo buộc lừa gạt hàng chục ngàn người để chiếm đoạt hàng trăm triệu đô la.

Theo báo Tuổi Trẻ hôm 4 Tháng Mười Một, sau tám tháng điều tra bổ sung, Viện Kiểm Sát Thành Phố Hà Nội đã truy tố bị can Vũ Thị Thúy, chủ tịch kiêm tổng giám đốc công ty Bất Động Sản Nhật Nam (Nhật Nam Group), cùng các đồng phạm về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “rửa tiền.”

Bị can Vũ Thị Thúy, chủ tịch kiêm tổng giám đốc Công ty bất động sản Nhật Nam. (Hình: VnExpress)

Bị can Vũ Thị Thúy, 44 tuổi, quê Thanh Hóa, được biết đến là vợ của ông Phạm Khánh Phương, tức ca sĩ Khánh Phương.

Theo cáo trạng, Nhật Nam Group thành lập Tháng Bảy, 2019.

Để “lùa gà” (từ ngữ để chỉ hành động dụ dỗ), bị can Thúy đã sử dụng các thủ đoạn gian dối như đưa ra thông tin quảng cáo trên các trang mạng truyền thông, mời những người có uy tín, địa vị xã hội để giới thiệu, quảng bá về việc Nhật Nam Group đầu tư mua nhiều bất động sản, nhà hàng, khách sạn có giá trị lớn trải dài từ Hà Nội, Thanh Hóa, Đắk Lắk đến Tây Ninh, Phú Quốc… “kinh doanh có hiệu quả” và cam kết phân chia lợi nhuận (cả tiền gốc, lãi) theo ngày với mức 7%-8%/tháng, lợi nhuận thu về sau hai năm 168%-192% giá trị hợp đồng.

Tuy nhiên, thực tế Nhật Nam Group đầu tư bất động sản nhưng không có lãi, hoạt động nhà hàng, khách sạn… thì thua lỗ dẫn đến đóng cửa.

Cơ quan điều tra cáo buộc, từ Tháng Bảy, 2019 đến Tháng Sáu, 2023, bị cáo Thúy đã lừa gạt 25,925 người, ký 43,314 hợp đồng hợp tác kinh doanh với Nhật Nam Group, thu hơn 9,113 tỷ đồng ($346.2 triệu).

Bị can Thúy sử dụng gần 4,300 tỷ đồng ($163.4 triệu) để trả tiền gốc, lãi cho chính các nhà đầu tư. Số tiền còn lại hơn 4,800 tỷ đồng ($182.4 triệu) đã bị bà ta chiếm đoạt sử dụng cá nhân, đến nay không còn khả năng chi trả.

Nhiều nhà đầu tư sau đó thấy dấu hiệu bị lừa đảo nên đòi tiền, đòi chất vấn. Một số người đã làm đơn tố cáo bà giám đốc với cơ quan công an.

Trước đó, bị can Thúy cũng đã từng có một tiền án về tội lừa đảo.

Sau khi điều tra, hôm 31 Tháng Tám, 2023, Phòng Cảnh Sát Kinh Tế Công An Hà Nội đã bắt giữ bị can Vũ Thị Thúy với cáo buộc “cung cấp thông tin đầu tư sai sự thật về bất động sản để lừa đảo chiếm đoạt số tiền “đặc biệt lớn.”

Ca sĩ Khánh Phương và vợ – bị can Vũ Thị Thúy. (Hình: Dân Trí)

Ngoài ra, bị can Thúy bị xác định đã chỉ đạo các nhân viên kế toán thực hiện việc rút tiền, chuyển tiền ra khỏi tài khoản của Nhật Nam Group rồi chuyển tiền vào các tài khoản cá nhân để che giấu nguồn gốc bất hợp pháp do phạm tội mà có.

Từ đó, bị can Thúy sử dụng 120 tỷ đồng ($4.5 triệu) và nhờ người khác ký hợp đồng mua bất động sản, đầu tư mua cổ phiếu. Đây là hành vi khiến bà này bị Viện Kiểm Sát truy tố thêm tội “rửa tiền.”

Liên quan vụ án, trả lời công luận sau khi vợ bị bắt, ca sĩ Khánh Phương nói mình cũng là một nhà đầu tư tại Nhật Nam Group và “cũng thiệt thòi, mất mát giống như nhiều nhà đầu tư khác, thậm chí… mất nhiều hơn.” (Tr.N) [kn]


 

Triều đình phong kiến làm gì khi thiên tai?

Ba’o Tieng Dan

04/11/2025

Thái Hạo

3-11-2025

Bản dập Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 135, mặt khắc 26, ghi chép việc vua Minh Mạng ra dụ kêu gọi giúp dân Bắc Kỳ bị lũ lụt năm 1834. Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia

  1. Cũng giống như bây giờ, mỗi khi bị thiên tai (bão tố, lũ lụt, hạn hán bất thường và nặng nề), các triều đình phong kiến (quân chủ) sẽ thực hiện việc cứu tế, mở quốc khố, phát chẩn cho dân bằng tiền, lúa, gạo, cơm ăn… Các kho lẫm dành riêng cho cứu tế sẽ đặt ngay tại địa phương, khi có tình huống xấu xảy ra thì lập tức hành động. Và công việc này chủ yếu do nhà nước đảm nhiệm, lý do là triều đình coi đó là việc tất nhiên của mình. Thêm nữa, thời đó giao thông chia cắt, đi lại khó khăn, phương tiện hạn chế, nên dân vùng khác muốn giúp cũng rất khó.

Bây giờ thì dân cứu dân rất nhiều: Quyên góp tiền bạc, tổ chức nấu ăn, vận chuyển nhu yếu phẩm, tổ chức cứu nạn…, đôi khi làm lu mờ cả hình ảnh của nhà nước.

Biển nước đe dọa Hà Nội trong trận lụt lịch sử năm 1926, thời vua Bảo Đại. Nguồn: Aeronautique Militaire

  1. Ngoài cứu đói, thời phong kiến triều đình còn thực hiện những việc rất đặc biệt.

Nhà vua cho rằng đất nước có thái bình thịnh vượng hay không là do cái đức của bản thân. Vì thế, mỗi lần thiên tai, vua sẽ tự trách, cho đó là vì “đức mỏng”, chưa sửa mình được tốt, nên tai họa mới ập xuống.

Lễ tế trời đất được thực hiện. Nhiều ngày trước khi diễn ra lễ tế, nhà vua sẽ ăn chay, giữ tâm ý lành thiện, ra lệnh cấm sát sinh… Hoàng thân và triều thần đều hưởng ứng và phải đồng lòng.

Những quan niệm và hành động này không phải chỉ là một kiểu “mê tín”, mà nó xuất phát từ tư duy trung đại, coi thiên – địa – nhân là hợp nhất, mọi thay đổi của tự nhiên đều có bàn tay và tâm ý con người. Vì thế muốn “yên thiên hạ” thì phải “sửa mình”.

Cũng vì thế mà lễ tế sẽ đi cùng với hành động (ăn chay, cấm giết hại…) chứ không phải chỉ hình thức, nói suông.

Hành động còn thể hiện ở việc mỗi lần thiên tai, triều đình sẽ cho điều tra, xem quan địa phương có bóc lột dân không, có gây ra bất công và điều ác gì khiến lòng dân oán hận hay không. Cách chức quan địa phương nếu vùng đó thường xuyên bị thiên tai bất thường, vì cho rằng họ kém đức nên mới bị giáng họa như thế.

Không chỉ sám hối và tự trách bằng lễ tế, triều đình còn miễn giảm thuế, hoãn sưu dịch. Ví dụ, năm 1442 sau lũ lụt lớn, vua Lê Nhân Tông miễn toàn bộ thuế cho vùng Thanh Hóa. Triều đình cũng có chính sách nhân đạo đặc biệt, như chôn cất người mất, nuôi dưỡng cô nhi quả phụ do thiên tai; không xử tội hình sự, tạm dừng tra khảo trong thời gian thiên tai; tổ chức ân xá cho tội nhân…

Tất cả các chính sách này là nhằm để thể hiện đức hiếu sinh, hiển bày đức độ của nhà vua nhằm “cảm động lòng trời”; và quan trọng là để an dân, cảm hóa và tạo niềm tin với dân.

  1. Bỏ qua những khác biệt về tư duy, quan niệm và những yếu tố mà người bây giờ gọi là “mê tín”, thì hành xử của triều đình phong kiến có nhiều điều vẫn đáng để chính quyền hiện đại tham khảo. Ngoài công tác cứu trợ, cứu hộ, cứu nạn cần được đồng bộ, nhanh và hiệu quả thì các chính sách lâu dài như đê điều, trồng lại rừng, quy hoạch lại thủy điện là rất cần kíp.

Bên cạnh đó, nạn quan tham, việc tiêu xài phung phí, sự lãng phí khổng lồ (như cái tòa nhà Bộ Ngoại giao 4000 tỉ bỏ hoang trên khu đất vàng giữa thủ đô) không thể tái diễn mãi. Quan chức và “triều đình” ngừng lễ lạt, tránh xa hoa, tập trung giải quyết hậu quả và chia sẻ với đồng bào. Việc Hà Nội tính bắn pháo hoa giữa lúc miền trung đang bị nhấn chìm trong lũ dữ là một sự vô cảm và thất đức, khiến lòng người oán ghét.

Khó khăn nào rồi dân cũng sẽ vượt qua, nhưng một sự thịnh vượng lâu dài bền vững không thể không có sự tin tưởng, đồng lòng và yêu mến mà dân dành cho nhà nước. Lòng dân bao giờ cũng là điều hệ trọng…


 

Nó vừa chính thức đóng cửa quán ….

Chuyện tuổi Xế Chiều

Tối qua, tôi với thằng bạn ngồi lì trong quán, nhìn nó cúi mặt mà thấy nghẹn.

Nó vừa chính thức đóng cửa quán, sau hơn hai năm cố gắng gồng gánh. Không phải vì hết vốn, mà là hết sức, hết niềm tin, hết chịu nổi.

  1. KHÔNG CÒN KHÁCH.

Cái đau đầu tiên và rõ nhất. Ngày xưa, quán lúc nào cũng có tiếng cười, mùi cà phê thơm, khách quen ghé chuyện trò.

Giờ mở cửa ra, là cảnh bàn ghế trống, ly cà phê nguội ngắt, mà đồng hồ điện thì vẫn quay, hóa đơn vẫn tới.

Mỗi đêm, nhìn ánh đèn quán hắt ra con đường vắng, nó bảo: “Tao thấy như tiền mình đang chảy theo nước cống vậy đó bro.”

Mấy tháng đầu nó còn cười, còn tự trấn an “rồi sẽ khá hơn”. Nhưng lâu dần, tiếng cười cũng tắt. Không phải vì hết tiền, mà vì hết động lực.

  1. THUẾ – CÁI ÁP LỰC KHÔNG NHÌN THẤY.

Nó nói, “thuế giống như cái dây thòng lọng, siết từ từ, không đau liền nhưng nghẹt thở.” Làm thì phải đóng, không ai trốn được. Nhưng vấn đề là, mấy cái chi phí phát sinh, thuế nọ thuế kia, cứ tăng dần mà không ai báo trước. Làm hoài, làm mãi, cuối cùng thấy mình chỉ là cái công cụ để nộp thuế.

Mệt mỏi nhất là cái cảm giác, dù có cố gắng cỡ nào, vẫn không thoát nổi.

  1. TIỀN THUÊ MẶT BẰNG – CÁI DÂY CÓ GAI.

Giá thuê giờ cao hơn cả lợi nhuận. Chủ nhà thì cứ nghĩ người thuê giàu lắm, có tiền mở quán là có tiền trả. Nhưng họ đâu biết, bên trong đó là cả đống nợ, là nước mắt, là áp lực gia đình. Nó nói, mỗi lần chủ nhà nhắn “tới hạn rồi nha”, là tim nó đập loạn, người run. Bán không đủ, vẫn phải trả, mà nếu không trả – bị khóa cửa, mất luôn cả vốn liếng, uy tín.

“Tao làm, không phải để sống, mà để tồn tại. Mà tồn tại kiểu này thì khác gì bị bóp cổ từng ngày.”

  1. NỖI ĐAU KHÔNG AI NHÌN THẤY.

Không ai thấy những đêm nó thức đến 2–3 giờ sáng, ngồi cộng sổ, gạch chi phí, vừa tính vừa rớt nước mắt.

Không ai thấy cảnh nó giấu vợ, giấu con, nói “ổn lắm”, trong khi ví không còn nổi 100 ngàn

Không ai thấy cảnh nó ngồi ngoài hiên, nhìn bảng hiệu quán mình dựng bằng cả giấc mơ bây giờ phải tháo xuống, từng chữ, từng ký ức…